Tập sách Trung Tâm Thánh Mẫu Toàn Quốc La Vang – Chương 2 – Phần 1

11/12/2022

TRẦN QUANG CHU

(Biên soạn)

 

TRUNG TÂM THÁNH MẪU TOÀN QUỐC LA VANG

 

KỶ NIỆM ĐẠI HỘI LA VANG

LẦN THỨ 27 (2005)

CẬP NHẬT ĐẾN ĐÌNH HOÃN ĐẠI HỘI LA VANG LẦN THỨ 32 (2020, 2021)

CHƯƠNG HAI

ĐỊA CHÍ LA VANG

I. ĐỊA DANH LA VANG.

Có ba cách giải thích địa danh La Vang:

1. LA VANG = LA + VANG

“La Vang là tiếng kêu om sòm, thường người ta hay đặt tên chỗ này hay chỗ kia bằng cách lấy tên cái khe suối, cái cây cổ thụ, hay tên người nào trước đó mà đặt tên chỗ. Song đây thì lấy tiếng La Vang mà đặt tên cũng lạ. La Vang là tiếng la, tiếng đuổi thú dữ. La Vang là tiếng rao truyền. La Vang là tiếng khi người ta đặng sự vui mừng quá bội, hoảng hốt mà kêu la, hay là tiếng quở trách. Tưởng rằng ý định đã xui cho người ta dùng tiếng La Vang mà đặt tên chỗ này cho ứng nghiệm về việc xảy ra bấy lâu nay và sau này nữa”(1).

“Tên La Vang là vì xưa ở nơi đó có nhiều cọp, xóm Trí Bưu vào làm chòi ở lại làm gỗ, vỡ đất nên đêm nào cũng đánh mõ, la lối để đuổi cọp. Vì thế xóm chung quanh nhà thờ gọi là La Vang… Ban đêm phường La Vang không có sự thinh lặng. Đêm nào người ta cũng la lối om sòm, họ đánh mõ, đánh thùng rộn ràng để đuổi các thú dữ như heo rừng, voi, cọp… Từ rú xanh ra phá hoại khoai, sắn, lúa… nên người ta gọi là phường La Vang”(2).

2. LA VANG = LÁ VẰNG

“Xóm La Vang xưa có vô số cây tên gọi ‘Lá Vằng’. Các cây xung quanh như sim, tre, hóp… đều bị cây lá vằng leo đầy cả. Vì vậy tục danh kêu xứ đó là Lá Vằng. Lâu ngày nghe không rõ người ta đọc trại đi thành La Vang”(3).

“Khi hết cơn bắt đạo rồi thì bổn đạo Trí Bưu vào La Vang lập một phường gọi là xứ La Văng. Gốc tích tên La Văng trong bộ (địa bạ) Trí Bưu viết hai chữ Lá Vằng. Bởi vì chính nơi họ lập vườn Đức Mẹ và nhà thờ thì có cây lá vằng nhiều lắm, nên họ đặt tên là Lá Vằng, nhưng khi nói chuyện thì nói nhẹ tiếng nên ra La Vang…”(4).

Linh mục Philipphê Lê Thiện Bá luôn bảo vệ quan điểm này. Theo ngài nếu La Vang = La + Vang “thì trong bộ (địa bạ) Gia Long làng đã viết La Vang. Nhưng không, ngược lại làng đã viết Lá Vằng. Tại sao vậy? Là vì tại vườn Đức Mẹ có vô số cây lá vằng. Lúc tôi còn đang năm, sáu tuổi (1896) vào La Vang hái hột lá vằng ăn đen cả miệng… Vì vậy mà tục danh kêu xứ đó là Lá Vằng. Lâu lâu kêu không rõ rồi ra La Vang cho dễ nói”(5).

3. LA VANG = LA VĂNG

Theo linh mục Giuse Trần Hữu Thanh (CSsR), La Vang có nguồn gốc từ La Văng. La Văng là một địa danh thông thường có chữ đầu là chữ LA.

Đồng quan điểm trên, linh mục Gioan Võ Đình Đệ đặt vấn đề: “Phải chăng các địa danh bắt đầu bằng chữ LA là những địa danh có gốc gác từ vương quốc Champa xưa?”

Lượt qua Danh sách xã thôn Trung Kỳ (thời Pháp thuộc), và địa danh hiện nay, có thể xác định địa danh có chữ đầu là chữ LA không phải hiếm trong địa bàn hai tỉnh Thừa Thiên và Quảng Trị:

Ở Thừa Thiên: La Khê, La Hào, núi La Sơn (huyện Phú Lộc), La Chữ, La Khê (huyện Hương Trà), La Ỷ (huyện Phú Vang), La Vân Thượng, La Vân Hạ (huyện Quảng Điền), La Hồ, đèo La Hi (huyện Nam Đông)…

– Ở Quảng Trị: hồ La Ngà (huyện Vĩnh Linh), La Duy, La Khê, La Văng (huyện Hải Lăng)…

Mục Tổng An Thái, phủ Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị, Danh sách xã thôn Trung Kỳ ghi rõ: La Văng xã (chữ Văng có dấu á).

Khẳng định quan điểm này, không ai khác hơn, chính người Quảng Trị, cho tới bây giờ, không nói La Vang mà nói La Văng: Đi La Văng, Kiệu La Văng, Đại hội La Văng…

Từ địa danh La Văng, các vị thừa sai ngoại quốc bỏ dấu thành La Vang.

II. NGUỒN GỐC LÀNG (THÔN) LA VANG.

1. SỰ LIÊN HỆ GIỮA LÀNG CỔ VƯU VÀ LÀNG LA VANG.

Trong Ô Châu cận lục (1553) không thấy tên làng Cổ Vưu hay Trí Bưu. Vì thế có thể quả quyết làng Cổ Vưu chỉ có thể được thành lập sớm nhất cũng vào thời kỳ Chúa Nguyễn vào Nam.

Thời kỳ Chúa Nguyễn mở mang Thuận Hóa, huyện Hải Lăng chia làm 5 tổng: Hoa La, An Thư, An Dã, An Khang, Câu Hoan. Tổng Hoa La có 19 xã, 2 phường, 1 thôn trong đó có tên Cổ Bưu, không có tên Lá Vằng(6).

Từ năm Gia Long thứ tư (1805) đến năm Minh Mạng thứ mười sáu (1836), nhà Nguyễn cho lập địa bạ có quy mô và nhất quán trên toàn quốc. Bộ địa bạ này gọi là Bộ Gia Long hay Châu Bộ, vì được nhà vua phê chuẩn, đóng dấu son.

Những năm đầu của thế kỷ XX, khi danh tiếng Đức Mẹ La Vang đã lừng lẫy, linh mục (sau là Giám mục) Đôminicô Hồ Ngọc Cẩn đã dành nhiều thời gian tìm kiếm tư liệu địa bạ La Vang nhưng ngài quả quyết: “Làng La Vang hẳn thật là không có trong Châu bộ…”(7).

Tuy nhiên, theo linh mục Philipphê Lê Thiện Bá, một người quê quán Trí Bưu, rành rõi địa bạ Trí Bưu thì: “Khi hết cơn bắt đạo rồi thì bổn đạo Trí Bưu vào La Vang lập một phường gọi là xứ La Vang”(8).

Thật ra, hai quan điểm trên không hề chống đối nhau nếu “phường”, “xứ” ở đây được hiểu đúng nghĩa của nó là phe, giáp, xóm, “là địa bàn dân cư do làng mới khai phá và ở cách xa làng”(9).

Vậy phường Lá Vằng có thể đã xuất hiện vào thời Gia Long quản tu địa bạ, nhưng không thể có địa bạ riêng vì chưa phải là đơn vị thôn (làng), mà chỉ là một xóm nằm chung trong địa bạ làng Cổ Vưu.

2. LÀNG LA VANG BIỆT LẬP KHỎI LÀNG CỔ VƯU.

Mãi đến thời Pháp thuộc làng La Vang mới xuất hiện trong Danh sách xã thôn Trung Kỳ, theo đó phủ Hải Lăng chia làm 5 tổng: Cu Hoan, An Thơ, An Nhơn, An Thái và Văn Vân. Tổng An Thái có 20 xã (làng), trong đó có Cổ Bưu xã được đổi tên là Trí Bưu xã. Cùng tổng An Thái có La Văng xã(10). Vậy, có thể xác định La Vang chỉ được biệt lập khỏi Cổ Vưu để trở thành đơn vị làng (thôn) vào thời Pháp thuộc với tên gọi La Văng xã.

La Văng xã thuộc tổng An Thái, phủ Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị.

Dưới chính thể VNCH, nền Đệ nhất Cộng hòa, Chính phủ cho đổi đơn vị hành chánh “phủ” thành “huyện” (phủ Hải Lăng → huyện Hải Lăng), “tổng” thành “xã” (tổng An Thái → xã Hải Phú), “xã” thành “thôn” (La Văng xã → thôn La Vang).

Thôn (làng) La Vang thuộc xã Hải Phú, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị.

Dưới chính thể VNCH, nền Đệ nhị Cộng hòa, Chính phủ đổi đơn vị hành chánh “huyện” thành “quận”. Cắt một phần đất quận Hải Lăng thành lập quận Mai Lĩnh.

Thôn (làng) La Vang thuộc xã Hải Phú, quận Mai Lĩnh, tỉnh Quảng Trị.

Sau 30-4-1975, Chính phủ Lâm thời CHMNVN đổi đơn vị “quận” thành “huyện” như cũ. Quận chỉ dùng ở thành phố lớn trực thuộc trung ương. Trả quận Mai Lĩnh về huyện Hải Lăng. Đồng thời dựa vào tình hình thực tế, một số thôn, làng được nhập chung, trong đó La Vang được nhập chung với Phú Long, gọi tên mới thôn Phú Long. La Vang trở lại thời kỳ trực thuộc.

La Vang thuộc thôn Phú Long, xã Hải Phú, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị.

Ngày 1-5-1976, Chính phủ CHXHCNVN cho nhập ba tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên thành tỉnh Bình Trị Thiên. Đồng thời cho nhập hai huyện Triệu Phong, Hải Lăng thành huyện Triệu Hải.

La Vang thuộc thôn Phú Long, xã Hải Phú, huyện Triệu Hải, tỉnh Bình Trị Thiên.

Ngày 30-6-1989, Hội đồng Bộ trưởng cho tách tỉnh Bình Trị Thiên làm ba tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên – Huế. Huyện Triệu Hải thuộc tỉnh Quảng Trị cũng chia làm hai huyện Triệu Phong, Hải Lăng như cũ. Tiếp đó, Hội đồng Bộ trưởng ban hành quyết định số 91, ngày 23-3-1990 thành lập huyện Hải Lăng với 20 xã, trong đó có xã Hải Phú.

La Vang thuộc xã Hải Phú, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị.

LA VANG – VỊ TRÍ ĐỊA LÝ

(Ảnh bản đồ: La Vang 200 năm)

Ngày 1-8-1994, chính phủ ban hành nghị định thành lập thị trấn Hải Lăng.

Ngày 19-3-2008, chính phủ ban hành nghị định mở rộng thị xã Quảng Trị.

Sau khi điều chỉnh địa giới, cắt xã Hải Lệ về thị xã Quảng Trị, huyện Hải Lăng có 1 thị trấn và 19 xã, trong đó có xã Hải Phú không thay đổi.

3. LA VANG – VỊ TRÍ ĐỊA LÝ

La Vang nằm ở trung độ của hình thể nước Việt Nam từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau. Cách thành phố Huế 58 cây số về hướng bắc. Cách thành Dinh Cát cũ 10 cây số về hướng nam. Cách thị xã Quảng Trị 6 cây số về hướng nam tây nam. Cách làng Trí Bưu 7 cây số về hướng tây nam. Cách quốc lộ 1A hơn 2 cây số về hướng tây.

III. CÂU CHUYỆN LA VANG XUẤT PHƯỜNG(11).

1. TỪ Ý ĐỊNH TỐT CỦA CỤ NGUYỄN HỮU BÀI…

Cụ Nguyễn Hữu Bài – vị đại ân nhân của giáo phận Huế, người con cưng quý của Đức Mẹ La Vang và các thánh Tử Đạo Việt Nam – luôn thao thức về một La Vang lớn lao nhằm tôn vinh Đức Mẹ, xứng đáng với nơi Đức Mẹ hiện ra. Theo cụ Bài, đã đến lúc La Vang phải trở thành Trung tâm Thánh Mẫu Quốc gia Việt Nam và Đông Dương.

Muốn thế, La Vang phải là một đơn vị độc lập cả về chính quyền lẫn giáo quyền, không như hiện nay, dù đã phát triển mọi mặt, La Vang vẫn lệ thuộc hoàn toàn vào Trí Bưu.

Vấn đề chỉ có thể giải quyết tốt đẹp nếu La Vang được “xuất phường”.

Vả lại, rút kinh nghiệm từ sự thành công đáng tự hào về làng Phước Môn – một trong “ngũ phước” của cụ – từ một vùng đất hoang vu, rừng thiêng nước độc trước đây nay đã trở thành làng mạc trù phú và giáo xứ phồn thịnh có cha sở trông coi. Phước Môn lại giáp ranh La Vang, nếu hai đơn vị này nhập chung thì nhà Mẹ sẽ lớn hơn, thuận lợihơn trong kế hoạch phát triển. Vấn đề còn lại là làm sao được sự đồng thuận của làng Trí Bưu.

Chủ ý “xuất phường” của cụ Bài được số đông giáo dân La Vang ủng hộ. Cha sở Phước Môn Matthêô Nguyễn Thanh Bạch cũng ủng hộ. Cha Bạch vừa là người hoạch định giỏi, vừa là người rất thân tình với hoàng đế Khải Định sẵn lòng giúp đỡ.

Vì thế năm 1922, đại diện La Vang là hai ông Lê Văn Quế (anh ruột cha Phanxicô Xaviê Lê Văn Định) và Lê Hưng, cùng là người Trí Bưu cư ngụ ở La Vang đệ đơn xin xuất phường gởi Bộ Hộ, mà người đứng đầu bấy giờ không ai khác hơn là cụ Nguyễn Hữu Bài. Mọi việc tưởng như quá dễ dàng!

Nhưng phía Trí Bưu thì hầu như không ai đồng ý chuyện xuất phường cả, bởi không chỉ vì La Vang là đất đai mà tiền nhân họ đã khai phá, là nơi có ruộng vườn, mồ mả tổ tiên họ, mà còn vì ở đó Đức Mẹ đã hiện ra với cha ông họ. Rõ ràng là Đức Mẹ muốn con cái Trí Bưu phụng tự Mẹ, nay Mẹ chưa từ bỏ con mà con nỡ nào từ bỏ Mẹ! Nên nhớ Trí Bưu đã là làng toàn tòng từ năm 1895.

Biết được tin giáo dân La Vang gởi đơn lên Bộ xin xuất phường, lý trưởng Trí Bưu kiêm trùm hạt Dinh Cát Lê Thiện Hiển cùng các chức sắc làng Trí Bưu vội vã đến gặp cha sở của mình nhờ giúp đỡ. Cha Lemasle (cố Lễ – sau làm Giám mục) sợ mang tiếng thiên vị không muốn can dự, vì giáo dân Trí Bưu hay giáo dân La Vang đều là con chiên của ngài cả. Lại nữa, hơn ai hết, ngài biết đây là một vụ kiện mà chân lý thuộc về cả hai bên. Mới nhìn tưởng đây là vụ tranh chấp đất đai thông thường, nhưng thực chất là sự tranh chấp quyền được phụng tự Đức Mẹ tại nơi mà Đức Mẹ đã chọn để hiện ra. Tuy nhiên, trách nhiệm của một linh mục quản xứ không cho phép ngài làm ngơ trước một sự kiện có liên quan tới giáo xứ mình, ngài bèn viết thư cho cha sở Di Loan Cadière (cố Cả) nhờ giúp. Cố Cả vốn đã từng là cha sở Trí Bưu (1904-1911), ủng hộ lập trường của Trí Bưu, song ngài thấy không tiện ra mặt can thiệp, không muốn bênh ai bỏ ai vì bổn đạo Trí Bưu hay bổn đạo La Vang đều là cựu con chiên của ngài cả. Vì vậy cố Cả bèn dạy cha phó Di Loan là cha Philipphê Lê Thiện Bá can thiệp giúp đỡ làng Trí Bưu.

Cha Philipphê Lê Thiện Bá vốn là người Trí Bưu, biết rõ ngọn nguồn đất đai Trí Bưu và La Vang. Ngài lại là một nhà nghiên cứu, nắm trong tay đầy đủ chứng từ địa bộ, bằng khoán ruộng đất của cả hai nơi. Trong đơn từ và chứng lý trình Bộ ngài ghi rõ: “Làng (Trí Bưu) vào phở đất La Vang đặng 40 mẫu thục điền, trong 120 năm. Còn ngoài làng chỉ có 50 mẫu mà dân đông. Bấy lâu dân làng cũng ăn ruộng phần trong La Vang và cày cấy trong ấy”.

Đơn từ xong xuôi, hai ông Lê Đình Thoại (thường gọi là ông Xã Thoại), cựu lý trưởng Trí Bưu và ông Lê Thiện Hiển (chú ruột cha Lê Thiện Bá), đương chức lý trưởng, ra Di Loan nhận về rồi theo trình tự nộp lên tỉnh, tỉnh chuyển lên Bộ. Bộ đồng ý theo đơn không phê việc “xuất phường”.

Ít lâu sau, việc“xuất phường” lại rộ lên ở La Vang. Có người bày kế cho phường La Vang kiện lên Bộ nói rằng 40 mẫu thục điền ở La Vang hiện có là do cha ông họ khai phá, đúng lẽ phải là ruộng tư của họ, không biết vì lý do gì trước kia làng (Trí Bưu) lấy, biến thành ruộng công? Nay họ là con cháu xin được thừa kế 40 mẫu ruộng tư ấy.

Nhận đơn, trong Bộ tưởng thật không cần kiểm tra đã cho “xuất phường”. La Vang đang chuẩn bị cho một đơn vị hành chánh mới ra đời.

Cha Philipphê Lê Thiện Bá hay tin tức tốc vào Trí Bưu xin lý trưởng Lê Thiện Hiển là chú ruột ngài mở hòm hồ sơ địa bộ ra coi thì phát hiện 40 mẫu thục điền ấy là đất đai của nhiều người Trí Bưu khai phá trước kia, kẻ bảy tám sào, người đôi ba mẫu… Tất cả cộng lại được 40 mẫu. Chủ sở hữu của 40 mẫu ruộng ấy đã đồng thuận cúng lại cho làng.

Nắm chắc chứng lý, ngài làm đơn khiếu nại để làng gởi lên Bộ, trong đó ngài ghi đầy đủ tên tuổi người cúng, ngày tháng năm cúng, sơ đồ vị trí ruộng cúng…

Nhận được đơn khiếu nại Bộ chưa tin hẳn, gởi thông tư ra làng yêu cầu làng bổ sung Châu bộ và các giấy tờ liên quan của người cúng ruộng. Làng lục tìm đủ bằng chứng đem vào trình Bộ. Bộ cho là đầy đủ chứng lý, rút lại quyết định “xuất phường La Vang”. Đồng thời cho điều tra, bắt giam mấy người ở La Vang đứng đơn xin xuất phường về tội man khai, nhưng chỉ giam cảnh cáo mươi ngày chi rồi tha.

Lần thứ hai làng Trí Bưu thắng kiện.

Năm 1924, bề trên địa phận cho khởi công xây dựng ngôi nhà thờ lớn La Vang. Toàn thể giáo dân Trí Bưu không phân biệt làng (Trí Bưu) hay rú (La Vang) đều nhiệt liệt hưởng ứng, quên đi chuyện “xuất phường”, tập trung sức lực cho công cuộc xây dựng Đền thờ Đức Mẹ.

2. … ĐẾN QUYẾT ĐỊNH CỦA CHÍNH PHỦ.

Năm 1925 vua Khải Định băng hà, hoàng tử Vĩnh Thuỵ mới 12 tuổi đang du học ở Pháp chưa thể về chấp chánh được, Chính phủ Nam triều thành lập Hội đồng Phụ chánh đảm đương công việc Chính phủ. Cụ Nguyễn Hữu Bài đương chức Lại Bộ kiêm Hộ Bộ thượng thư, là một trong tứ trụ đại thần, quyền tương đương thủ tướng.

Ấp ủ hoài bảo kiến thiết Thánh địa La Vang trở thành Trung tâm Thánh Mẫu Quốc gia, xứng đáng với nơi Đức Mẹ hiện ra, cụ Bài không thể không nghĩ đến việc “La Vang xuất phường”. Nhưng phải xuất làm sao có được sự đồng tình của dân làng Trí Bưu?

Cụ Bài với tư cách đồng hương, đồng đạo cho mời lý trưởng Trí Bưu Lê Thiện Hiển vào tư dinh để trao đổi. Cụ phân tích lý lẽ La Vang cần phải được “xuất phường” thì việc kiến thiết nhà Mẹ mới thuận lợi. Nếu vì việc xuất phường mà làng Trí Bưu bị thiệt hại thì cụ sẽ đền bù, không chỉ là 40 mẫu thục điền ở La Vang mà cụ sẽ cho lại hàng trăm mẫu đất tư của cụ ở Phước Môn, giáp ranh La Vang, hoặc đất đai ở bất cứ đâu trong phần tư hữu cưa cụ, nếu làng muốn.

Lý trưởng Lê Thiện Hiển bị đặt trước tình thế tiến thoái lưỡng nan. Một bên là ý nguyện chính đáng của bậc trưởng thượng muốn kiến thiết nhà Mẹ, một bên là tâm nguyện dân làng muốn được đích thân phụng tự Mẹ. Biết làm sao bây giờ? Ông lễ phép:

– “Thưa cụ, con sợ… Con sợ…

Cụ Bài hỏi lại:

Mi sợ chi? Mi sợ ai? Mi không tin cụ có đủ quyền hành hay sao? Hay là mi sợ chức mi nhỏ cụ sẽ cho mi thăng chức thăng quyền? Làm ông tổng, ông huyện, cụ cho?

Dạ thưa cụ, đây không phải vì chuyện đất đai hay chức quyền, mà con sợ vì rõ ràng xưa kia Đức Mẹ đã hiện ra với người Trí Bưu trên đất Trí Bưu. Chúng con tin rằng đó là ý Mẹ muốn người Trí Bưu gần gũi phụng tự Mẹ. Bây giờ Mẹ chưa rời bỏ con mà con đã tính chuyện từ bỏ Mẹ. Điều này làm cho chúng con ray rứt, lo buồn lắm! Thưa cụ, con sợ… Con sợ… Thà có lệnh vua phép nước chia cắt La Vang khỏi Trí Bưu thì chúng con đành chịu, như xưa kia cha ông chúng con đã từng bị chặt đầu moi ruột, còn nếu bảo thuận tình cho việc chia cắt La Vang ra khỏi Trí Bưu thì chẳng khác chi tự cầm dao cắt lìa tứ chi mình. Việc đó chúng con không làm được”(12).

Nghe thế, cụ Bài tỏ vẻ không bằng lòng, nhưng cảm phục chí ý của người trưởng làng, trưởng hội giáo trung kiên.

Năm 1932 vua Bảo Đại về nước chấp chánh. Một thời gian sau, chính phủ thiết lập lại nền hành chánh, phân chia lại lãnh thổ và địa giới thôn làng, theo đó: “Các đơn vị hành chánh thuộc làng (phường, xóm, giáp, phe…) ở cách xa làng mõ đánh không tới, trống đánh không nghe, lửa cháy không thấy… khi hữu sự không tiếp cứu được nhau thì cho phép xuất phường”.

Vì thế trong Danh sách xã thôn Trung Kỳ, Trí Bưu và La Văng tách biệt thành hai đơn vị hành chánh cơ sở: Trí Bưu xã và La Văng xã, cùng thuộc tổng An Thái, phủ Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị.

Dù không nói ra nhưng trong thâm tâm có lẽ nhiều người nghi ngờ về tác động của cụ Bài với chính phủ Nam triều, hay với tân hoàng đế Bảo Đại. Chính cha Philipphê Lê Thiện Bá cũng đã viết trong hồi ký: “Bất đồ cụ Bài xin vua ra luật…”.

Thật ra, kể từ khi vua Bảo Đại về nước chấp chánh thì cụ Bài vì tuổi già sức yếu đã dâng sớ xin về hưu. Ngày 2-5-1933, dưới áp lực của toàn quyền Pasquier, người không ưa gì tư tưởng tự chủ của cụ Bài đã buộc hoàng đế Bảo Đại ký sắc dụ số 29, có đoạn: “Kể từ nay là ngày mồng 8 tháng 4 năm thứ 8 triều Bảo Đại, chính ta để cho Quận công Nguyễn Hữu Bài, Hiệp tá Võ Liêm, Tôn Thất Đàn, Phạm Liệu, Vương Tứ Đại về hưu”. Lúc ấy cụ Bài đã 70 tuổi. Hai năm sau (1935) cụ qua đời.

La Vang xuất phường đã rõ là chuyện phép vua, luật nước, dân làng Trí Bưu chẳng nuối tiếc gì chuyện công điền công thổ như cha Philipphê Lê Thiện Bá đã viết trong hồi ký: “Chúng tôi thua, ngồi cười với nhau…”, nhưng Trí Bưu chỉ nuối tiếc là không đành xa Mẹ, liền gởi đơn khiếu nại lên Bộ: “Chúng tôi thuận tình theo luật nước việc xuất phường La Vang, vì làng xa bảy cây số. Nhưng yêu cầu Bộ xét cho chúng tôi được giữ lại vườn Đức Mẹ và nhà thờ Đức Mẹ La Vang. Hai nơi này là của làng chúng tôi nên chúng tôi quyết không nhượng”.

Nhận  được đơn khiếu nại, Bộ tư ra rằng: “Vườn Đức Mẹ và Đền thờ Đức Mẹ La Vang không phải là của riêng làng Trí Bưu hay phường La Vang mà là của chung toàn quốc”.

Cả La Vang và Trí Bưu đều thỏa mãn về cách xử công minh của Bộ.

(Còn tiếp…)

 (1)Lm. Phêrô Phan Phát Huồn (CSsR): Bài diễn thuyết Đức Mẹ và dân tộc Việt Nam. Dẫn bút tích của cụ Phước Môn Quận công Nguyễn Hữu Bài, đề ngày 18-2-1925. Ns. Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp. Số 119, tháng 4-1959, tr.106.

(2)Linh mục (sau là Giám mục) Đôminicô Hồ Ngọc Cẩn: Bài giảng về Đức Mẹ La Vang, ngày 18-8-1932. Dẫn theo Lm. Matthêô Lê Văn Thành: Đức Mẹ La Vang. Cứu Thế tùng thư, 1955.

(3)Sử ký tỉnh Quảng Trị. Bản đánh máy, ngày 26-8-1963, tr.47.

(4)Lm. Philipphê Lê Thiện Bá: Tự tích La Văng (hồi ký viết tay). Tài liệu gia đình của ông Lê Thiện Sĩ.

(5)Lm. Phêrô Phan Phát Huồn (CSsR): Bài diễn thuyết Đức Mẹ và dân tộc Việt Nam. Dẫn bài viết của Lm. Philipphê Lê Thiện Bá. Ns. Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp. Số 119, tháng 4-1959, tr.106.

(6)Lê Quý Đôn toàn tập. Hà Nội, 1977, tr.80.

(7) Lm. Đôminicô Hồ Ngọc Cẩn: Bài La Vang tự tích. Tb. Nam Kỳ địa phận. Số 1036, ngày 28-2-1929, tr.119.

(8) Lm. Philipphê Lê Thiện Bá: Tự tích La Văng (hồi ký viết tay). Tài liệu gia đình của ông Lê Thiện Sĩ.

(9) Trần Đại Vinh: Kiến giải chữ “phường” trong “phường Lá Vằng”.

(10)Danh sách xã thôn Trung Kỳ. Bản đánh máy, tr.53.

(11) Lm. Philipphê Lê Thiện Bá: Tự tích La Văng (hồi ký viết tay). Tài liệu gia đình của ông Lê Thiện Sĩ.

(12) Đoạn này trích nguyên văn từ tài liệu gia phả Lê Thiện Tộc, trong tài liệu gia đình của ông Lê Thiện Sĩ.

=> Tài liệu dạng Word, nhấn vào đây để tải Chương 2 – Phần 1