Tập sách Trung Tâm Thánh Mẫu Toàn Quốc La Vang – Chương 9

30/07/2023

TRẦN QUANG CHU

(Biên soạn)

 

TRUNG TÂM THÁNH MẪU TOÀN QUỐC LA VANG

 

KỶ NIỆM ĐẠI HỘI LA VANG

LẦN THỨ 27 (2005)

CẬP NHẬT ĐẾN ĐÌNH HOÃN ĐẠI HỘI LA VANG LẦN THỨ 32 (2020, 2021)

 

CHƯƠNG CHÍN

THI CA, VÃN LA VANG

I. THI CA LA VANG

Trích: tập thơ LA VANG QUÊ MẸ

(Tác giả: TRẦN QUANG CHU)

 

Sử Thi La Vang

Một ngày kia dưới thời vua Cảnh Thịnh,

Nguyễn triều đình ban lệnh giết Gia Tô:

– Từ Tây dương, “tà giáo” được truyền vô

Phá hoại luân thường, kỷ cương, phép nước.

Đạo trưởng, đạo đồ bắt cho bằng được,

Trị thẳng tay bọn vô pháp vô luân.

Đất nước ngàn năm trọng đạo quân thần

Trên nghĩa vua tôi, dưới tình phu phụ.

Can cớ chi bọn Gia Tô bè lũ

Kéo nhau vô làm đảo lộn dân tình?

Không thờ cha mẹ, chẳng cúng thần linh

Lại dối trá có thiên đàng, hoả ngục?

Chúng rủ rê bao ngu dân mê hoặc

Theo Gia Tô như theo đóm ăn tàn.

Hoàng đế từng ban chiếu chỉ khuyên răn

Nhưng “tà đạo” vẫn chứng nào tật nấy.

Vẫn dạy ngu dân những điều tầm bậy

Ai bất tuân sa hoả ngục đời đời?

Nay triều đình truyền trừng trị tới nơi

“Vì đạo ấy là đạo tà đáng ghét!”

Lệnh bắt đạo lan cả vùng Dinh Cát

Trí Bưu, Long Hưng, Thạch Hãn… xôn xao!

Truyền tai nhau chỉ còn chước bôn đào

“Tam thập lục kế tẩu vi thượng sách!”

Ngày thu ấy khởi đầu cơn cấm cách

Từng đoàn người vô định kéo nhau đi.

Vượt cánh rừng già, băng trảng rú ri

Đến một nơi “đầy cọp beo thú dữ”.

Hãi hùng chưa nghe hùm thiêng gầm rú.

Xa lắm rồi tầm kiểm soát quan quân!

Có phải đây chốn thuỷ tận sơn cùng?

Hay hiểm địa chẳng có người lui tới?

Quây quần bên nhau lập làng xóm mới

Đốn gỗ chặt cây dựng lán dựng chòi.

Mái tranh đơn sơ thờ Mẹ hẳn hoi

Mỗi sớm tối vang lên lời kinh nguyện.

Một tối kia từ trời cao Mẹ hiện

Miệng tươi cười, tay ẵm Chúa Hài Nhi.

Lời Mẹ phán như sứ điệp truyền đi:

– “Các con ơi! Hãy cam lòng chịu khổ!”

Mẹ biết các con đang hồi khốn khó

Cứ an lòng sóng gió sẽ qua đi!

Rừng thiêng nước độc, tật bệnh hiểm nguy

– “Lá vườn Mẹ cứ nấu đi mà uống!”

Mẹ đã chọn chỗ này: đất lam chướng

Để trần gian biết phép Chúa nhiệm mầu.

Vậy: “Từ nay ai đến đây kêu cầu

Mẹ sẽ nhậm lời ban ơn theo ý nguyện!”

Ngày hoà bình vãn hồi rồi cũng đến

Từng đoàn người đi tị nạn hồi hương.

Bỏ lại sau lưng chòi lán, rẫy nương

Chỉ mang Mẹ theo bên mình khắn khắn.

Từ ngày ấy trong mỗi lần nguyện ngắm

Có lời cầu dâng tiến Mẹ La Vang:

Xin Mẹ phù hộ, xin Mẹ ủi an…

Mẹ là Mẹ những người con cùng khổ!

 

La Vang Thánh Địa

Non nước La Vang thắm lạ kỳ

Đây vùng Thánh địa dấu in nguy.

Người về xin đứng xa xa chút

Bởi đấy huyền linh: Chốn phượng trì!

Thánh địa non xa, núi chập chùng.

Hoa vằng, sim tím nở ven rừng.

Cây đa đại thụ còn lưu dấu:

Những tấm lòng son đã tuyên xưng.

Kính cẩn nghiêng mình bên giếng thánh,

Tay phàm hái ngọn lá vằng thiêng.

Thuở xưa nơi ấy nhiều ơn lạ

Cứ địa an toàn của đức tin!

Thánh địa La Vang chốn hành hương

Người về kín múc suối tình thương.

“Đức Bà phù hộ các giáo hữu”

Thánh Mẫu từ bi ban muôn ơn.

 

La Vang cổ tích

I

Thánh địa La Vang đẹp diệu huyền,

Dấu xưa Mẹ hiện vẫn còn nguyên:

Đa già cao bóng cây thần tích,

Giếng cổ sâu khơi nước ngọc tuyền.

Tháp thánh chuông ngân vang tiếng Chúa,

Đền thiêng kinh vẳng vọng hồn chiên.

Ngắm nhìn nhan thánh Đức Trinh Nữ

Bậc Mẫu Nghi Thiên Hạ uy quyền.

II

Cảnh sắc La Vang đẹp ngỡ ngàng

Thánh cung Đức Mẹ giữa rừng hoang!

Góc núi hoa vằng trắng trắng điểm,

Lưng đồi sim nở tím tím loang.

Gió thoảng rừng dương khúc nhạc liễu,

Trăng soi đỉnh tháp ánh nguyệt rằm.

Rừng già trút lá nghe cổ tích:

Ơn lành Đức Mẹ mãi âm vang.

 

 

Thánh địa cổ tích

I

Non nước La Vang thật tuyệt vời,

Người về kín múc giếng sâu khơi.

Phép lạ nhãn tiền trang sử chép,

Ơn lành chứng tích truyện truyền lời.

Cỏ dại – linh đơn Mẹ ban phát,

Giếng khơi – chén thuốc Chúa gọi mời.

Sử thi hoang địa như cổ tích:

Thánh Mẫu từ bi cứu phận người.

II

Quê Mẹ La Vang thật diệu kỳ

Mấy đời huyền tích lạ như ri:

Thủy tận sông cùng Thiên Mẫu đáo,

Thâm sơn cùng cốc Mẹ phò nguy.

Núi thẳm chiên lành nương bóng Mẹ,

Non xa dân thánh cậy Hài Nhi.

Về nghe lữ khách đua nhau kể:

La Vang, thiên cổ tích truyền kỳ!

 

 

Hiến lễ toàn thiêu

Nửa khuya trăng lặn, canh chầy

Tiếng chuông chùa vọng gọi ngày sang thu.

Bỗng trong đêm tối mịt mù

Tư bề xứ đạo quân thù bủa vây.

Hịch truyền: “Sát Tả, Bình Tây

Phò vua giúp nước diệt ngay đạo tà!

Đạo Gia-tô – giặc Lang-sa

Phải trừ tận gốc vận nhà mới yên”.

Nửa đêm xóm dưới làng trên

Hớt hơ hớt hải ngóng xem sự tình.

Văn Thân mưu cuộc thiêu sinh

Trong ngoài lớp lớp quan binh ngập làng.

Giáo dân thẳng hướng La Vang

Tìm nơi rú rậm rừng hoang ẩn mình.

Đa già, bến cộ, cổ đình

Chỉ mong một chút yên bình nơi đây.

Xa xa vẳng tiếng kèn Tây

Giáo dân hớn hở vội quay về làng.

Lạy ơn Đức Mẹ La Vang

Khấn xin Mẹ ban bình an dọc đường!

Văn Thân sát tả điên cuồng

Muốn đem máu đỏ nhuộm hồng rừng xanh.

Mưu đồ thiêu sát, thiêu sinh

Đốt cho tan chảy sinh linh “đạo tà”.

Nền xưa, nơi Mẹ hiện ra

Thằng Thơ phóng hoả đốt nhà thờ tranh.

Thiên la địa võng giăng quanh

Văn Thân đã quyết nhuộm tanh máu đào.

Hoả thiêu ba chục anh hào

Biến nơi thiêng thánh thành lò thiêu sinh!

Nguyện cầu các Đấng hiển linh

Hộ phù Quê Mẹ an bình thiên thu!

Rừng thu đang trút lá thu

Nằm nghe Hiến Lễ Toàn Thiêu năm nào!

 

Đêm La Vang huyền diệu

Theo ánh sáng của muôn vì tinh tú

Đoàn hành hương như thác lũ tràn bờ.

Người, rừng người vang dậy tiếng tung hô:

“Như song lộc triều nguyên ơn phước cả”(1)

Hương trinh khiết ngợp trời đêm lan toả

Đêm chưa khuya mà trăng tỏ như rằm.

Đẹp chưa kìa đoàn thánh vũ tiến dâng

Đại vũ khúc: “Giong thuyền về bến Mẹ”.

Người, mọi người đêm nay cùng thức nhé

Thả bồ câu chắp đôi cánh hoà bình.

Cùng nguyện cầu cho Tổ quốc phồn vinh

Hoa Giáo hội nở lừng trời bác ái.

Nghiêm trang quá lớp lớp người quỳ lạy

Cúi thấp đầu kính Thánh Thể đi qua.

Mau lên nhé sắp đội ngũ nhanh mà

Theo chân Chúa lên đỉnh đồi Thánh Giá.

Đêm nay đây mọi người đều vội vã

Chất ba lô đầy hành lý thiêng liêng:

Chai nước giếng, bó lá vằng thuốc tiên

Và kinh, lễ suốt ba ngày Đại hội.

Ước đêm nay chưa phải là đêm cuối

Để lữ hành tiếp tục góp hành trang:

Tràng chuỗi Mân Côi, Mười bốn chặng đàng,

Toà giải tội hay phiên chầu Thánh Thể…

Đêm khuya dần, bên Linh đài Đức Mẹ

Lời cầu kinh như tiếng gió thở than.

Mẹ La Vang hay Đức Mẹ là Trăng?

– Mẹ là Trăng! – Là Nữ Vương vũ trụ!

Theo ánh sáng của muôn vì tinh tú

Về La Vang ngủ khách sạn ngàn sao.

Nghe sáo thuỳ dương thổi nhạc rì rào

Ăn chén cơm măng, uống bình nước lã…

Đã quen rồi chẳng có gì vất vả

Biết quê hương Đức Mẹ vốn nghèo nàn!

Biết rồi, Giáo phận Huế chẳng giàu sang

Vẫn cứ đợi tới mùa Thu tháng Tám.

 

Viếng Mẹ mùa đông

Mùa đông La Vang lạnh te tua

Lạnh tối lạnh sáng lạnh tới trưa.

Hai hàng dương liễu run cầm cập

Mưa phùn gió bấc lạnh khiếp chưa?

Mẹ ở đài mây đứng một mình

Giọt mưa lạnh buốt nhỏ hài xinh.

Thế nhân nhân thế thành băng giá

Mẹ ngóng chờ ai đứng lặng thinh?

Đông đến ai về viếng Mẹ không?

Ngự trị toà cao Mẹ mãi trông.

Thấy con lạnh lẽo thương đứt ruột

Mẹ là bếp lửa giữa mùa đông!

Lạnh quá ít người tới hành hương

La Vang vắng vẻ Mẹ buồn không?

Kéo áo choàng lên che con với

Mẹ là lồng ấp sưởi tâm hồn!

 

 

Vương Cung Thánh Đường Đức Mẹ La Vang

I

La Vang cung điện Mẹ Chúa Trời

Ngai toà cao trọng sáng ngời ngời.

Các báu uy nghi rồng phủ phục,

Đền ngà tráng lệ phượng chầu quỳ.

Hiện trong mây trắng đài Đa Vít,

Ẩn giữa rừng xanh điện Dao Trì.

Vương Cung Thánh Đường nơi Mẹ ngự

Ngai toà cao trọng Chúa Ba Ngôi.

II

Vương  quyền sang cả Mẹ Chúa Trời

Cung  báu toà cao sáng ngời ngời.

Thánh  điện tôn nghiêm rồng phủ phục,

Đường  miếu uy nghi phượng chầu quỳ.

Đức  Bà hiển trị đài Đa Vít,

Mẹ  Chúa quang lâm điện Dao Trì.

La  Vang thánh đường nơi Mẹ ngự

Vang  vọng toà cao Chúa Ba Ngôi.

 

Hành hương Giáo phn Huế

Người cứ đến! Xin mời ra thăm Huế

Thăm quê mình (quê lũ) ở ngoài ni.

Đã bao rồi, người lớp lớp ra đi.

Từ ngày nớ chưa hành hương giáo phận.

Huế có chi ngoài La Vang đất thánh

Và lòng người rất đạo, Huế rất thơ?

Dừng ở đây thôi, giáo xứ Chính tòa

Nghe lịch sử – hồn Phủ Cam – thức giấc.

Nhờ ơn Chúa như mưa dầm thấm đất

Ba trăm năm đơm quả ngọt, hương đời.

Giữa dòng Hương trong lẻo, nước đầy vơi

Cúi xuống soi người, soi lịch sử.

Người đến Huế thăm nơi nào trước, hử?

Lên Bình Điền hay A Lưới, Buồng Tằm?

Chiều Dương Sơn đứng ngẩn, ngóng An Vân

Ngày Chúa Nhật hẹn vô Dòng đi Lễ.

Người cứ đến, ra ngoài ni, thăm nhé

Chừ, thân quen nên quá Huế, quá đời!

Cuối nguồn Bồ trong đục nước đầy vơi

Cảm ơn sông đắp bồi Nho Lâm, Bác Vọng…

Thuở Đan Điền và Hóa Thành dậy sóng

Lòng Bồ giang ấp ủ hạt Tin Mừng.

Người ở trên tê Sơn Quả, Thanh Tân

Nhìn trăng tán biết Kim Đôi vào lũ.

Nhìn Tân Mỹ, nhớ Thanh Hương, Họ Rú(1)

Huế thân thương đứt ruột đòi cơn!

Người cứ đến, không phải để quỳ hôn

Mà chỉ để trái tim cùng nhịp đập

Hãy kính cẩn gọi tên người, tên đất:

An Hòa, Phường Đúc, Gia Hội, Bãi Dâu…

Jaccard Phan, Gagelin Kính, Marchand Du…

Và những bãi, những cầu mang tên “Chém”!

Chào Tôma tuổi xuân thì tráng kiện

Tôn vinh người đất cỗi mọc quỳnh lan.

An Ninh, Di Loan, Trung Quán, Sen Bàng

Răng chừ hỉ, ta về Nam Bố Chánh?

Những miền đất nhuốm máu đào các thánh…

Huế ta yêu đang sống lại từng giờ.

Đã đến rồi! Đây Sáo Cát, Lăng Cô

Đây Châu Mới cuối trời Nam địa phận.

Hà Thanh, Hà Úc, Phường Tây đạo hạnh

Người ra đi lớp lớp đã quay về.

Đừng ngại ngùng mùa mưa lũ, rét tê,

Hay gió cát thổi ngang đầu rát mặt.

Chuyện thường thôi, gần mặt trời nắng gắt

Có chi mô, chịu đựng cũng thành quen.

Càng thương Huế tất tả ghe phen

Càng nhớ Huế ngô khoai, gạo thóc.

Ôi những mạ, những o : Trí Bưu, Diên                                                  

Sanh, Đại Lộc…

Cảm ơn người nuôi lớn những tương lai

Ơn thiên triệu từ những sắn, những khoai,

Những nặng trĩu trên đôi vai của Mẹ…

Xin đưa người, tiệc chung bàn Thánh Thể

Hãy ngồi đi, mời bẻ bánh cùng ăn.

Thắp nén hương kính nhớ bậc tiền nhân

Cảm ơn lắm! Cảm ơn người lắm nhé!

Dù Huế tôi có mưa nguồn, chớp bể

Người ra đi nhất định sẽ quay về!

 

 

Tuần Cửu nhật kính Đức Mẹ La Vang

  1. Lạy Mẹ La Vang – Mẹ Hằng Cứu Giúp

Con cầu xin cho Tổ quốcViệt Nam

Mãi hoà bình, luôn thịnh vượng, giàu sang

Cả dân tộc hiên ngang cùng thế giới.

  1. Kính xin Mẹ cho con thuyền Giáo hội

Vững tay chèo trước bão tố phong cuồng.

Mẹ dủ thương xin soi lối chỉ đường

Đưa Hội Thánh đến bến bờ hiệp nhất.

  1. Xin dành riêng một ngày Tuần Cửu Nhật

Để nguyện cầu cho Giáo hội Việt Nam.

Luôn mến yêu, sùng kính Mẹ La Vang

Giáo hội Chúa là Đường là Sự Thật.

  1. Xin Mẹ thương giáo phận nhà chất phác

Bởi đất nghèo phải dãi nắng dầm sương.

Kẻ ở người đi, đôi ngã đôi đường

Chuyện áo cơm miễn hằng ngày dùng đủ.

  1. Mẹ La Vang – Phù Hộ Các Giáo Hữu

Cho mọi người giữ đạo Chúa cho bền.

Mỗi giáo đoàn, xứ đạo, mỗi ràn chiên

Ơn phước Mẹ mai sau cùng vui hưởng.

  1. Còn cầu xin cho quý ông gia trưởng

Biết thuỷ chung trong đời sống gia đình,

Biết nêu gương cho con cái của mình

Không bội bạc, tránh gương mù gương xấu.

  1. Cũng cầu xin cho quý bà hiền mẫu

Bậc mẹ hiền sáng mãi đức hy sinh.

Bao gian lao, vất vả vì gia đình

Chẳng tiếng kêu ca, không lời than thở!

  1. Lạy Mẹ La Vang – Đức Bà Phù Hộ!

Xin đồng hành cùng người trẻ hôm nay.

Sống đức tin, có lý tưởng, hăng say

Chọn đường Chúa, đừng bao giờ lạc lối.

  1. Lạy Mẹ, đây, những trẻ thơ vô tội,

Những trẻ lang thang không cửa không nhà,

Những trẻ mồ côi không mẹ không cha…

Giúp tuổi thơ được hồn nhiên vui sống.

Xin dâng Mẹ Tuần Cửu Nhật sốt sắng!

 

Lnhớ

Thay lời bạn.

Ý thơ: T. Mary Hoàng Anh Mai.

Con sinh ở Quảng Trị,

Quê hương Mẹ La Vang.

Nô đùa bên bóng Mẹ,

Tuổi thơ sống bình an.

Xưa nơi đây rừng rú,

Cỏ cây chen lá vằng.

Những mái tranh lúp xúp

Quanh nhà Mẹ yên hàn.

Rồi chiến tranh, giặc giã,

Quê Mẹ cảnh điêu tàn.

Thuở bom rơi, đạn nổ,

Ngôi thánh đường tan hoang.

Nhớ “Mùa hè Đỏ lửa”,

Khắp “Đại lộ Kinh hoàng”

Từng đoàn người chạy giặc

Bỏ sau lưng xóm làng.

Còn gì nơi Thánh địa?

– Cảnh chết chóc, lầm than!

Còn gì nữa, quê Mẹ?

– Cảnh xẻ nghé, tan đàn!

Bởi đâu hồi bĩ cực?

Vì ai nỗi tân toan?

Người người lo tị nạn

Khuất bóng Mẹ La Vang.

Đàn con đi tứ xứ,

Cách bao cây số ngàn.

Bùi ngùi trông quê Mẹ,

Lệ nhớ nhỏ hai hàng!

Năm nay về Đại hội

Đền thờ mới huy hoàng.

Trí lòng mừng khấp khởi

La Vang lại vẻ vang!

Biển người như biển nước

Kính cẩn trước đền vàng.

Cầu xin muôn ơn phước,

Muôn muôn ơn bình an!…

 

Ánh lửa Tây Nguyên

Kính tặng đoàn Tây Nguyên tham dự Đại hội La Vang.

Tây Nguyên xa xôi viếng Mẹ hiền

Bởi từng nghe nói Mẹ linh thiêng!

Lấy chi dâng tiến cho phải đạo?

Chỉ là chum ché với cồng chiêng!

Tiến dâng lên Mẹ ché rượu cần

Hương hoa đồng nội giữa đại ngàn.

Công lao khó nhọc người thôn bản

Nghĩa tình chung thủy dã quỳ vàng(1).

Mang về dâng Mẹ bộ cồng chiêng

Thanh âm, giai điệu núi rừng thiêng

Quốc hồn quốc tuý người bản địa

Bản sắc ngàn đời đất cao nguyên.

Người ta dâng Mẹ áo đoạn vàng(2)

Chúng con nghèo khó học làm sang.

Kính dâng lên Mẹ hàng thổ cẩm

Đặc sản Tây Nguyên, văn hoá Giàng.

Gùi lửa hành hương lên bản thôn.

T’rưng réo rắt hội nhà Rông.

Lửa thiêng ấm áp đời nương rẫy

Tù và gióng giả gọi làng buôn.

Rước Mẹ La Vang lên Tây Nguyên

Lửa đức tin thắp sáng rừng đêm.

Tâm nguyện suốt đời làm tôi Chúa

Suốt đời thờ kính Mẹ. Amen!

 

Hoa Tây Nguyên

Kính tặng đoàn Tây Nguyên tham dự Đại hội La Vang.

Tây Nguyên xa xôi viếng Mẹ hiền

Tới mùa hoa nở hái dâng lên.

Rợp trời sắc đỏ hoa sơn nữ

Vẻ đẹp hoang sơ mlah/ gièng gièng(1).  

Thu sang vàng nở cánh muồng vàng(2)

Hái về dâng tiến Mẹ La Vang.

Quê nhà đang rộ mùa hoàng yến

Bò cạp vàng nhuộm vàng nhà sàn.

Dâng Mẹ La Vang cánh đào tiên

(Mai anh đào(3) ở núi Măng Đen!)

Sắc hoa hồng rực ven hồ, suối    

Lạc vào cổ tích xứ Đào Nguyên?

Dã quỳ hoang dã dã quỳ hoang

Đáng chi dâng tiến Mẹ La Vang?

Lỡ trót sinh ra làm hoa dại

Dã quỳ hoang dã dã quỳ vàng(4)!

Tới mùa “con ong đi lấy mật”

Thảo nguyên trắng muốt hoa cà phê.

Khắp đồi nương mùi hương ngan ngát

Mang về xuôi dâng Mẹ quà quê.

Dâng Mẹ La Vang hoa Tây Nguyên

– Lòng vàng các dân tộc anh em.

Tâm nguyện suốt đời làm tôi Chúa

Suốt đời thờ kính Mẹ. Amen!

 

Giã bạn

Kỷ niệm Đại hội La Vang lần thứ 26 (2002)

Thôi nhé, giờ đây tạm biệt rồi

Người thì lên ngược, kẻ về xuôi.

Thu sang lá rụng mưa chưa tới

Mà lệ âm thầm như muốn rơi.

Thôi nhé, người ơi lên Tây Nguyên

Trong gió đường xa vẳng giọng khèn.

Nhớ mãi em ơi màu thổ cẩm,

Rượu cần, chum ché, nhạc cồng chiêng.

Đường ra miền Bắc còn xa lắm

Gấp chuyến xe đi, vội chuyến tàu.

Mai mốt ghé qua miền giáo phận

Nhớ thăm Phát Diệm, viếng Bùi Chu.

Em ạ, ngày mai tàu xuôi Nam

Giữ thơm hương vị lúa đồng bằng.

Chín nhánh Cửu Long đều ra biển

Lo gì sông Hậu nhớ Tiền giang!

Ngày mai theo em về Quảng Thuận

Cũng có La Vang ở xứ người.

Thanh long trái đỏ, chùm nho tím

Ngọt mát Thạch Hà, Hạnh Trí ơi!

Nha Trang biển được mùa không nhỉ?

Chim én bay xa, sóng bạc đầu.

Vách núi cheo leo, người thiếu phụ

Chờ chồng thuở trước đứng vọng phu.

Thôi nhé, người ơi về Bà Rịa

Nông trường đất đỏ, nắng vàng hoe.

Đã tới mùa bắp non chưa nhỉ?

Tháng nào cạo mủ, hái cà phê?

Em ạ, giờ đây mình chia tay

Xuôi tàu Thống Nhất tới Đồng Nai.

Em có về Phương Lâm, Định Quán

Chia tay ở ngã ba Dầu Giây.

Xin tiễn chân người ra hải ngoại

Trời thu nắng gắt bỗng mây giăng.

Người ơi phương ấy giàu sang lắm

Nhớ gì quê Mẹ bữa cơm măng?

Thôi nhé, con chào Mẹ La Vang

Nhét vội ba lô bó lá vằng.

Kẻo lỡ mai kia trời trở gió

Lòng con thánh dược chảy tâm can.

Thôi nhé, giờ đây tạm biệt rồi

Người về Gia Định ghé tôi chơi.

Hăm mốt Phan Xích Long Phú Nhuận

Buồn vui quê Mẹ kể liên hồi.

  1. VÃN LA VANG (LA VANG SỰ TÍCH VÃN)(1)
  2. TIỂU DẪN:

La Vang sự tích vãn là một vãn kể sự tích La Vang từ thuở sơ khai cho đến khi kiệu Đại hội lần thứ nhất là năm 1901. Vãn này ai làm chẳng biết, làm hồi nào cũng bất minh. Có lẽ mà đoán đã làm năm 1901, vì thuật lại mọi việc cho đến năm ấy và thuật cuộc kiệu Đại hội khi ấy một cách tươi rói như mới vậy.

Văn chương không tao nhã là bao, song vì thuật mấy điều tự tích La Vang thực hư mặc dầu, cũng nên in lại cho kẻ sau đặng biết mấy điều cổ nhơn lưu truyền.

Tôi cứ để nguyên văn hầu hết, chỉ sửa mấy tiếng trúc trắc quá và bỏ bớt mấy khúc không cần.

Xin khán giả biết cho như vậy.

  1. IMPRIMATUR:

Alexandre Chabanon, Vicaire Apostolique de Huế, le 20 Juillet 1932.

  1. BẢN VĂN VÃN LA VANG (LA VANG SỰ TÍCH VÃN):

          Vãn La Vang

Trời sinh cái chốn lạ lùng

Tự nhiên giữa núi nên cung Chúa Bà.

Truyền rằng có một cây đa,

Mọc lên giữa núi diềm dà tốt tươi .

Ngày thì hạc phụng dạo chơi,

Đêm thì hổ báo chầu nơi linh hoàng.

Chốn này thanh vắng nghiêm trang,

Hai bên khe ruộng giữa làng La Vang.

Bên lương chức dịch nhộn nhàng,

Đắp nền thờ vọng rào hàng sơ li.

Rằng: Này một chốn uy nghi,

Ngoại mình khấn vái điều gì cũng linh.

Dân thôn chớ khá nại tình,

Công lao khó nhọc thần linh phù trì.

Qua đây thì phải kiêng vì,

Chốn này linh ứng nhiều khi lạ lùng.

Dầu ai vào chốn sơn trung,

Hễ đi đến đó nguyện cùng được an.

Những người mót củi, đốt than,

Cũng đều đến đó kêu van khẩn hoài.

Dân ta chứ khá công nài,

Bứt tranh đốn gỗ để mai làm chùa.

Làm rồi khi ấy đi mua,

Hương đèn lễ vật dọn chùa sửa sang.

Dọn ra Thần, Phật hai hàng,

Lư hương bát nước nghiêm trang đề huề.

Làm rồi chức việc mới về,

Nhơn dân lao khó, ê hề bấy lâu.

Về nhà ngủ giấc canh thâu,

Tự nhiên mộng mị chiêm bao rập ràng:

Trên chùa Thần Phật nhộn nhàng,

Về bắt chức dịch mấy làng xôn xao. 

Rằng Thần rằng Phật lao đao,

Có Bà trên đạo phép cao lạ lùng.

Bà vào Bà đánh tứ tung,

Bao nhiêu Thần Phật đều tuôn ra ngoài.

Tiếng Bà thật đã linh oai,

Lư hương, bát nước, đền đài đều hư.

Chức làng thức dậy lao lư,

Hỏi sao coi thử cũng như một điềm.

Sáng mai chức việc đi liền,

Kêu nhau đến thử sự thiềng làm sao. 

Xét coi trong việc chiêm bao,

Hoặc hư hoặc thiệt thế nào cho yên. 

Đem nhau mới tới ngoại viên,

Thấy ngôi Thần Phật ngả nghiêng ngoài đàng.

Kêu nhau khi ấy rộn ràng,

Kẻ sương người vác về làng cho mau.

Tưởng rằng Thần Phật linh mầu,

Đem về cúng tế mấy lâu nay tròn.

Không hay Phật giả yêu ngôn,

Tiếc vàng quang thiếp, tiếc son, tiếc dầu.

Linh Bà người hóa phép mầu,

Thôi, ta phải kíp chạy mau về làng.

Cùng nhau bàn bạc rộn ràng,

Chùa này để cúng về đàng đạo nhơn.

Dỡ đi thì sợ người hờn,

Phá không dám phá thiệt hơn thể nào.

Tiếc công dân sự lao đao,

Ăn làm ba tháng lại hao của tiền.

Bây giờ Phật ở không yên,

Lo làm nơi khác tìm miền xứ Ran.

Sai người xuống dưới Thạch Hàn,

Tìm ông đạo cựu hỏi han một lời.

Ông chức nghe tiếng làng mời,

Tức thì vội vã gót dời ra đi.

Tới nơi hiệp mặt một khi,

Thuật ra tự sự vân vi cho tường. 

Chỗ này linh ứng phi thường,

Chúng tôi xin cúng về đường đạo ông.

Chùa tranh một cái đã xong,

Vườn thời một bức trong vòng một nơi.

Bên ông gìn giữ cho Người,

Để lo vun quén tài bồi cây đa. 

Chỗ này là chốn Chúa Bà,

Cho nên Thần Phật quỷ ma kiêng dè.

Ông chức khi ấy liền nghe

Về thưa bổn sở cũng y mấy lời.

Bổn sở nghe nói liền cười,

Chúa Bà hóa phép ngoại người mới tin

Sai người lên ở giữ gìn,

Để lo kinh nguyện dầu đèn hôm mai.

Nay ta lo lắng thơ bài,

Phải làm mà gởi các nơi nhà dòng.

Cùng đều khắp các nhà chung,

Mấy đời mà có lạ lùng như ri.

Các người đều lãnh thơ đi,

Kẻ thời ra Nghệ, người đi kinh thành.

Nghe thơ kể việc đành rành,

Thảy đều khen ngợi thánh danh Đức Bà.

Tiếng đồn chóng thổi gần xa,

Thông qua biển cả huống là non sông. 

Chùa tranh mưa tạt gió lồng,

Bốn bề trống trải màn mùng cũng không.

Người bèn ái ngại trong lòng,

Về thưa bổn sở để hòng tính phương.

Đi ra gần đỗi nửa đường,

Trên chùa Bà đã khiến sương vãi vào.

Hai người buôn bán với nhau,

Tính toan giá vải trước sau cho rồi.

Mua rồi sắp sửa mọi nơi,

Để trong thùng nọ ngoài thời niêm phong.

Dặn dò mai sớm rạng đông,

Đến đây sẽ trả cho xong giá tiền.

Hai người chuyện vãn hàn huyên

Vải này tôi sắm để riêng may màn.

Truyện rồi từ giã lên đàng,

Sớm mai lui lại hỏi han lấy tiền.

Ông từ bỡ ngỡ nói liền,

Bữa qua đi khỏi vải tiền ai mua, 

Chốn này là chốn linh chùa,

Đi ra cho khỏi, bèn xua tức thì.

Mụ ấy mới nói một khi,

Không tin chú giở hòm này cho coi. 

Giở ra thật đã hẵng lời,

Tiền đồng một bó, vải thời năm cây.

Tức thì lấy trả tiền ngay,

Cùng ngồi nhắc lại cho hay sự tình.

Chú từ nghe nói thất kinh,

Về thưa cha sở cho minh việc này.

Bấy giờ cha sở mới hay

Kể trong các việc là ngày bữa qua.

Liền làm thơ gởi gần xa,

Đưa tin cho biết Đức Bà linh thiêng.

Nhận thơ liền đọc lên liền,

Kẻ nghe người đọc hiệp tình chung vui.

Thơ rằng: “Chúa Cả Ba Ngôi

Hộ phù giáo hữu, vài lời thông tin.

Rằng: Đức Mẹ hiện xuống thánh đền,

Bồng Thánh Tử trọng nên là trọng.

Đội mão vàng sang quá đỗi sang.

Rất oai vang chữa người bệnh hoạn,

Hóa phép lạ cứu kẻ gian nan.

Những chúng sinh lâm nạn khổ bức,

Đều nhờ Mẹ trăm thức nhiệm mầu.

Dẫu lương giáo khắp xứ đâu đâu,

Đều đến đó khẩn cầu khấn vái.

Chốn Sơn Đài thế giái âu ca,

Có cây đa tươi tốt diềm dà,

Mọc trên rú nọ hiệu là La Vang.

Các làng phù hiệp tính toan,

Làm chùa thờ phật hỉ hoan tấm lòng.

Hay đâu sự rất đỗi lạ lùng,

Bà hóa phép, Phật cùng tan tác.

Đi về bắt làng nước thất kinh. 

Bấy giờ mới rõ biết sự tình,

Xin cúng lại chùa tranh một cái.

Bức thơ này gởi cho ai nấy, 

Đặng thông tin việc ấy cho tường. 

Ngợi khen Thánh Mẫu Nữ Vương, 

Oai quờn phép tắc độ lường khoan nhơn”.

Nay thơ.

Xem thơ mới biết nguồn cơn,

Chọn nơi thanh vắng cao sơn cứu người.

Từ ấy đồn thổi khắp nơi,

Bên lương bên đạo mọi người kính tin. 

Từ quan cho đến dân tình,

Không con không cháu khẩn nguyền cũng cho. 

Thiên hạ nhiều kẻ âu lo,

Dẫu đi không thấu cũng cho như lời.

Miễn là kêu đến tên Người,

Xin Người phù hộ một nơi linh đền. 

Dầu ai cúng bạc cúng tiền,

Gởi đem vào đó khẩn liền được an. 

Bà này phép tắc khôn đang,

Chết rồi cho sống mạnh an như thường. 

Có người thất vận lạc đường

Lâm cơn túng rối lo lường kêu xin. 

Bà cùng dắt díu giữ gìn,

Đưa về đến chốn bình yên như lời. 

Có người vượt biển xa vời,

Lâm cơn sóng gió mở lời kêu van.

Bà cho gió lặng sóng tan,

Có lòng trông cậy trăm đàng được xuôi. 

Bất kỳ bất tiện, ngái ngôi,

Bất câu lương giáo khẩn rồi đặng yên.

Dầu ai bệnh hoạn tật nguyền,

Đến nơi đền ấy khẩn liền cũng cho.

Dầu ai miệng méo tay co,

Dầu mà suyễn tức hen ho lành liền.

Ấy là Thánh Mẫu Thượng Thiên.

Chọn nơi thanh vắng giữa miền La Vang.

Ai lâm hoạn nạn gian nan

Đem lòng tin cậy đến van cùng Bà.

Kẻ thì trảy lá cây đa,

Kẻ thì nhổ cỏ đem ra theo mình.

Thuốc đâu hiệu nghiệm oai linh,

Cho bằng lá cỏ xung quanh đền Bà, 

Bứt lâu trụi lá cây đa,

Cây lâu cũng rụi, nay đà mất tang.

Miễn trong vườn thánh La Vang

Sim, me, tràm, chủi, lá vằng cũng hay.

Dầu lá nọ, dẫu cỏ này,

Đem về sắc uống, kíp chầy bệnh thuyên.

Giáo lương năng đến khẩn nguyền,

Thấy nhà tranh tạm không yên tấm lòng.

Giáo nhơn Dinh Cát giúp công,

Tiền dâng bạc cúng cũng không thiếu gì. 

Phen này chẳng dám diên trì,

Quyết làm đền ngói thay vì chùa tranh. 

Đã lâu phép lạ vang danh,

Bề trên coi bộ chưa đành vội tin. 

Truyền rằng: Đức Mẹ hiện hình

Tay bồng Ấu Chúa oai linh vô cùng.

Cứu người vô chốn sơn trung

Khỏi lâm vuốt hổ, miệng hùm, răng beo.

Truyện này hư thiệt khó theo,

Làm nhà ở đó cheo leo trăm bề.

Ra vào hiểm hóc gớm ghê,

Nhà thờ làm đó nào hề ai vô. 

Trước khi khỉ việc trình đồ

Để ta bàn tính hỏi dò bề trên.

Bề trên bổn sở hai bên,

Bàn rồi đi với mấy tên theo cùng,

Đi lên vừa giữa sơn trung

Sai đàng lạc nẻo, lạ lùng thể nao.

Lại nghe tiếng cọp nghêu ngao,

Hồn bay phách lạc, xôn xao bồi hồi.

Bây giờ trở đứng trở ngồi,

Ngồi đây cũng khốn, khứ hồi nan di,

May đâu hai gã đồng nhi,

Kêu nhau hí hó mà đi tìm bò.

Hai ngài trong bụng bớt lo,

Hỏi han hai đứa chỉ cho khúc đàng. 

Lên vừa tới điện La Vang,

Thấy hình Đức Mẹ duông nhan tốt lành.

Nay đà mắt thấy đành rành,

Lòng bắt cảm động phục tình chẳng nghi. 

Ra về trò chuyện vân vi,

Phen này ta phải tức thì lo toan.

Đền thờ Đức Mẹ La Vang

Phải xây chỉnh đốn, bạc vàng Chúa lo.

Nay mai ta phải làm thơ,

Để khuyên giáo hữu thuận tờ việc quan.

Nghe thơ ai nấy hỉ hoan,

Không tiền dâng cúng, sẵn sàng dâng công. 

Súc săng, gạch ngói gánh gồng,

Đàng xa khó nhọc, cũng không nề hà.

Sáu năm ngày lụn tháng qua,

Nhà thờ xây lợp cũng đà sự thanh. 

Nay lo đến việc lạc thành,

Sắm sửa soạn sành để kiệu cho luôn. 

Khắp nơi dưới biển trên nguồn,

Thôn quê dinh liễu cũng đồng đua tranh.

Kinh kia bài nọ tập tành

Chế bài cách kiểu cho hoanh đội hàng. 

Cân y mão phục đoan trang,

Náp, hèo, cờ, quạt, lọng tàn ba đăng.

Soạn sành tập luyện mấy trăng,

Mười ba tháng bảy lòng hằng đợi trông.

Có nơi nổi tính hăng nồng,

Lại thêm tập múa đội bông đội hèo. 

Người đi bộ, kẻ thuyền chèo,

Trên đất dưới nước, cứ theo phận mình. 

Mười ba tháng bảy thanh minh

Cổ Vưu sở tại đến trình thưa cha: 

Chúng con xin kiệu Đức Bà,

Một vòng khắp họ kẻo mà nhớ thương.

Bấy lâu Mẹ ngự thánh đường,

Mai thì đưa Mẹ lên phường La Vang.  

Kiệu quanh khắp họ khắp làng,

Viếng thăm con cái họ hàng chúng con. 

Cha nghe họ nói thon von

Cũng cho như ý kẻo còn nhỏ to.

Vậy thì đội ngũ kéo vô,

Truyền cho các chị các cô theo chầu.

Hoa đèn sắm dọn đã lâu,

Nay đem đấu xảo, lại chầu một khi. 

Dẫu ai có tập đội chi,

Hoặc đèn hoặc náp cũng thi tối ngày.

Họ nào kinh nguyện tập hay,

Đem vô đấu xảo, sánh bày chê khen. 

Cổ Vưu, Ngô Xá đội đèn

Đem ra múa lộn, khá khen giải đầu. 

Phủ Cam quyển sáo thổi chầu

Trống, đờn, sanh, quyển khá âu rập ràng.

Bố Liêu kinh nguyện chững chàng.

Cung hay giọng tốt khá đang thuôn lề,

Kẻ Văn cờ ảnh đã bề,

Hội ven cung cách ai chê được rày.

Họ này họ nọ sánh bày,

Hoa đèn trau dọn là ngày mười ba, 

Truyền về mười bốn sáng ra

Giờ Dần giờ Mẹo các Cha dặn dò.

Họ nào đình trú ở mô,

Đêm ra hiệu lệnh phải lo ra dàn.

Người ta trên bộ vô vàn,

Dưới sông dưới bến chứa chan thuyền đò.

Người qua kẻ lại trầm trồ,

Cùng nhau truyện vãn nhỏ to rộn ràng. 

Vừa nghe lệnh, thảy lặng an

Sắp đâu có thẻ, cứ hàng mà đi.

Từ đàng quan tới rú ri,

Hai hàng đội ngũ uy nghi chững chàng 

Trống chiêng, pháo lói đầy vang,

Ca ngâm hát xướng nhịp nhàng êm tai.

Đỗi đàng ước bảy dặm dài

Người ta sắp đội gần hai phần đàng. 

Các cha lễ lạc vừa an,

Cũng đều áo mão sắp hàng đi ra. 

Giữa thì lại có Đức cha,

Các thầy các chú điều hòa bước đi.

Sáu giờ chuông đánh một khi

Mới xem bàn kiệu uy nghi rõ ràng. 

Cổ Vưu đội ngũ nghiêm trang,

Hầu cận bên bàn đưa Mẹ ngự lên. 

Mặt trời mới mọc chênh chênh,

Nắng lò ánh dọi chói bên mặt người.

Đám mây đâu phút dạo chơi,

Khắp cả hướng trời im mát lạ thay! 

Để cho ai nấy đặng hay,

Nay thật là ngày Đức Mẹ đã ban.

Kiệu vô vừa đến La Vang,

Liền chưng ảnh Mẹ trên bàn đặt cao.

Hoa đèn kế tiếp sắp vào,

Đoạn làm lễ hát, rồi sau phép lành.

Mười giờ cơ cuộc hoàn thành,

Lao xao liến xiến, lữ hành kêu nhau. 

Người bẻ lá, kẻ hái rau…

Đem về cất lấy khi đau mà dùng.

Kéo nhau vào tạ thánh cung,

Tuy dầu lui gót dạ không muốn về.

Ơn trên đượm nhuần phủ phê,

Một phen viếng Mẹ, mựa hề dám quên.

 CHUNG (324 câu)

HẾT

 

(1) Dẫn theo bài thơ Avê Maria. Tập thơ Xuân Như Ý – Thơ Hàn Mạc Tử.

(1) Giáo xứ Tân Mỹ được thành lập do các giáo dân Thanh Hương + họ Rú (Hương Lâm) chạy giặc Văn Thân vào Cồn Cỏ (Thuận An).

(1) Dã quỳ vàng. Hoa đẹp Tây Nguyên, tượng trưng lòng chung thuỷ.

(2) Đoạn: hàng dệt bằng lụa mịn và bóng. Áo đoạn vàng thêu nhiều hoa văn, dành cho các bà hoàng thái hậu.

(1) Hoa mlah. Tên khác: gièng gièng.

(2) Hoa muồng vàng. Tên khác: hoàng yến, bò cạp vàng.

(3) Hoa Anh đào. Tên khác: mai anh đào.

(4) Hoa dã quỳ vàng. Tên khác: cúc quỳ, quỳ dại, hướng dương dại.

(1)Vô Danh Thị. Linh mục (sau là Giám mục) Đôminicô Hồ Ngọc Cẩn sưu tầm, hiệu đính và ghi tiểu dẫn. Dẫn theo Lm. Trần Anh Dũng: Hàng giáo phẩm Công giáo Việt Nam (1960-1995), tr.525-535.

=> Tài liệu dạng Word, nhấn vào đây để tải Chương 9 (Hết)