Tập sách Trung Tâm Thánh Mẫu Toàn Quốc La Vang – Chương 1 – Phần 1

31/10/2022

TRẦN QUANG CHU

(Biên soạn)

 

TRUNG TÂM THÁNH MẪU TOÀN QUỐC LA VANG

 

KỶ NIỆM ĐẠI HỘI LA VANG

LẦN THỨ 27 (2005)

CẬP NHẬT ĐẾN ĐÌNH HOÃN ĐẠI HỘI LA VANG LẦN THỨ 32 (2020, 2021)

CHƯƠNG MỘT

SỰ TÍCH ĐỨC MẸ LA VANG

I. LƯỢC SỬ TRUYỀN GIÁO XỨ DINH CÁT TỪ NGÀY ĐÓN NHẬN TIN MỪNG ĐẾN KHI ĐỨC MẸ HIỆN RA TẠI LA VANG.

Năm 1596, một chiến thuyền Tây Ban Nha được lệnh đưa quân yểm trợ vua Cao Miên Soryopor đang bị quân Xiêm xâm lược đã cập bến Cửa Hàn, Đà Nẵng. Cha Pedro Aduarte, dòng Đa Minh Philippines tháp tùng phái đoàn ra Thuận Hóa yết kiến chúa Nguyễn theo phép ngoại giao, được ông hoàng Trấn Thủ(1) tiếp đón niềm nở tại Dinh Cát. Vị Phó Vương(1) hứa cho phép cha ở lại truyền giáo trên lãnh thổ chúa Nguyễn và dành cho cha nhiều đặc ân. Nhưng khi trở về cửa khẩu, do bất bình giữa thuyền trưởng và quan địa phương, tàu vội vã nhổ neo mang theo cha Aduarte, bỏ mất cơ hội truyền giáo ngàn năm một thuở tại Thuận Hóa nói chung, Dinh Cát nói riêng.

1. DINH CÁT VỚI CÁC GIÁO SĨ DÒNG TÊN THỜI BẢO TRỢ BỒ (1615-1672)(2).

Năm 1615, cha Francesco Buzomi, dòng Tên, theo tàu buôn Bồ cập cửa Hội An rồi ra Dinh Cát dâng lễ vật lên chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên. Nhà chúa ban cho cha một tờ chiếu cho phép cha được giảng đạo từ Quảng Bình đến Phú Yên.

Từ 1617, dòng Tên lại gởi vào Đàng Trong nhiều giáo sĩ khác, trong đó có một số vị nổi bật về tài năng và lòng nhiệt thành: Cha Francesco de Pina (1617), cha Christopho Borri (1618), cha Pedro Marquez (1618) và đặc biệt là cha Alexandre de Rhodes (1624).

Năm 1635, Sãi Vương qua đời, Thượng Vương Phúc Lan kế vị, ác cảm với đạo Công giáo. Nhiều chứng nhân đức tin chịu đổ máu vì đạo.

Năm 1648, Thượng Vương qua đời, con là Hiền Vương Phúc Tần kế vị tiếp tục chính sách bài giáo của tiên vương. Tuy nhiên, vì đang cần súng đạn của người Bồ nên ông vẫn hé cửa để các giáo sĩ dòng Tên ra vào.

Năm 1655, cha Pedro Marquez trở lại Hội An, cùng đi có cha Francesco Rivas. Năm 1657, nhân Hiền Vương đại thắng vùng Lam Giang, cha Rivas mạo hiểm ra Dinh Cát, nơi nhà chúa đang đóng quân. Cha đi thăm họ Trà Bát và các họ đạo gần đó. Đêm thứ bảy Tuần Thánh 1657, cha cử hành thánh lễ tại nhà đúc súng (gần bến đò Xưởng ngày nay), có 400 người tham dự.

Nhưng qua đầu năm 1661, quân Trịnh phản công chiếm lại bảy huyện vùng Lam Giang. Thua trận Hiền Vương trút giận lên đầu người Công giáo. Lửa bách hại bùng lên.

Đang giữa cao trào bắt đạo thì được tin Tòa Thánh thiết lập chế độ Đại Diện Tông Tòa (ĐDTT) thay chế độ Bảo Trợ Bồ không còn thích hợp tại hai miền Đàng Trong, Đàng Ngoài Việt Nam. Đức cha Pierre Lambert de la Motte được bổ nhiệm làm Giám mục ĐDTT giáo phận Đàng Trong, và ngài đã có mặt ở Thái Lan ngày 22-8-1662, nơi sẽ thiết lập Tòa Giám mục.

Đến Thái Lan, Đức cha Lambert thừa biết những khó khăn sẽ đến với chế độ ĐDTT Đàng Trong sơ khai. Ngài đã gửi thư cho các cha dòng Tên mong sự hợp tác và chỉ dẫn cách thức nhập địa phận. Các cha dòng Tên gởi phúc thư khuyên ngài không nên nhập địa phận ngay vì sự có mặt của ngài chỉ làm tăng thêm cường độ bách hại, tốt nhất nên cử đại diện sang. Vì thế mãi gần mười năm sau, 1662-1671, Đức cha Lambert mới mở cuộc kinh lý đầu tiên vào giáo phận Đàng Trong.

2. DINH CÁT VỚI CÁC THỪA SAI PARIS VÀ LINH MỤC VIỆT NAM THỜI ĐDTT SƠ KHAI (1672-1725).

Tháng 3-1673, Đức cha Lambert cử thừa sai Bénigne Vachet và cha Manuen Bổn (một trong bốn linh mục Việt Nam tiên khởi giáo phận Đàng Trong) từ Thái Lan vào Việt Nam. Tháng 10 cùng năm, phái đoàn đến Huế dâng thư và lễ vật lên chúa Nguyễn. Bấy giờ Hiền Vương đã tha đạo nên việc đi lại của các cha được tự do.

Năm 1675, cha chính Jean de Courtaulin cũng nhập địa phận mở cuộc viếng thăm Quảng Bình, Quảng Trị. Ngài viết thư gởi Đức cha Lambert nói rõ việc đạo ở Dinh Cát bấy giờ:

“Con được các thầy giảng đón rước long trọng, thiết tiệc mừng. Xứ Dinh Cát có ba thầy giảng đạo đức, hăng say việc truyền giáo. Có khoảng 40 làng có số bổn đạo đông. Số lương dân theo đạo cũng nhiều… Nhưng chỉ có ba nhà thờ lớn…”(3).

Năm 1685, cha Charles Labbé được cử ra Dinh Cát và đã ở đây khoảng bảy, tám tháng. Ngài đã viết một bản tường trình dài cho biết Dinh Cát bấy giờ có 14 nhà thờ lớn nhỏ, ngài đã đi thăm hết. Sau đó ngài lên thăm vùng Bái Trời, ra tận Quảng Bình rồi vào thăm các họ đạo ở kinh đô Huế và các vùng phụ cận. Từ đệ trình của ngài, Đức Giám quản Louis Laneau(4) đã gởi đến Dinh Cát một linh mục Việt Nam vào năm 1689: Linh mục Lôrensô Huỳnh Văn Lâu (tên khác: Lân hay Long).

Ngày 22-7-1691, thừa sai  François Pérez được tấn phong Giám mục tại Juthia, Thái Lan. Sau đó ngài mở cuộc kinh lý địa phận. Tại Dinh Cát, cha Lôrensô Lâu hướng dẫn ngài đi thăm tất cả các họ đạo. Mỗi năm, cha Lôrensô Lâu đều có lập báo cáo gởi về Thánh Bộ, nhờ đó biết được cuối thế kỷ XVII Dinh Cát có 36 họ đạo.

Năm 1692 Minh Vương lên ngôi cay cú tuyên bố: “Ta sẽ thiêu hủy hết các nhà thờ, sẽ giết hết các cố đạo, những người đến đây để mua chuộc dân ta”(5).

Tại Dinh Cát giáo dân bị bắt giam đầy trong ngục, chịu nhục hình, bắt nhịn đói nhịn khát. Đã có 15 giáo dân chết rũ tù. Nhiều võ quan và binh lính có đạo bị hình phạt nặng nề. Quan Micae Văn, ông Matthêô Gẫm bị trảm quyết, một thiếu nhi ở giữ voi cho nhà quan tên là Anrê Bé không chịu đạp ảnh Chúa bị chém đầu. Tại Kẻ Văn có 15 giáo dân bị án thảo tượng. Riêng cha sở Dinh Cát Lôrensô Lâu bị bắt giam, nhưng sau ba ngày được thả nhờ một vị quan mang ơn cha can thiệp.

3. DINH CÁT THỜI KHÂM SAI TÔNG TÒA.

Năm 1728, Đức cha Pérez qua đời, Đức cha phó Alessandro di Alexandris lên kế vị lãnh đạo giáo phận Đàng Trong. Đây cũng là giai đoạn giáo phận đầy mâu thuẫn: Mâu thuẫn do sự khác biệt giữa hai chế độ Bảo trợ Bồ và Đại diện Tông tòa, mâu thuẫn giữa dòng – triều, quốc tịch và sự tranh dành quyền bính.

Sự kiện trên, cho dù là tranh dành sự gian truân, bách hại, tù đày và đổ máu vì lý tưởng ơn gọi truyền giáo và Tin Mừng được rao giảng thì tất yếu cũng bất lợi cho miền truyền giáo non trẻ này, khiến ĐGH Bênêđictô XIII phải cử phái đoàn Khâm sai Tông tòa do Đức cha Elzéar-François des Achards de la Baume làm trưởng đoàn sang Đàng Trong. Sau khi đã thận trọng xem xét, Đức Khâm sai đưa ra phán quyết phân chia địa bàn truyền giáo liên quan đến bốn hội dòng đang có mặt ở Đàng Trong. Riêng vùng Dinh Cát ra tới Quảng Bình được trao cho các cha dòng Tên.

Nhưng dù có khôn ngoan cách mấy thì sự phán quyết của Đức Khâm sai cũng không làm thỏa mãn hết các thành viên tham dự. Do có sự khiếu kiện của dòng Phanxicô, ĐGH Bênêđictô XIV ban hành tông hiến “Quantopere Caritas Christi” trả lại cho dòng Phanxicô những nhà thờ, họ đạo mà họ mất quyền sở hữu do phán quyết của Đức cha De La Baume, đồng thời cử Đức cha Hilariô de Giêsu làm Khâm sai Tông tòa lần hai.

Tuy nhiên, đối với Dinh Cát, phán quyết mới của Đức Khâm sai lần hai không có gì thay đổi so với phán quyết cũ, vẫn giữ nguyên quyết định của Đức Khâm sai lần một, giao cho các giáo sĩ dòng Tên hai tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị với 6 hạt truyền giáo: Bố Chính, Quảng Bình, Minh Linh, Bái Trời, Dinh Cát, Ruộng Sâu với 48 họ đạo(6), như sau:

Hạt Bố Chính:

STT TÊN GIÁO XỨ SỐ G. DÂN GIẢI THÍCH CỦA NGƯỜI BIÊN SOẠN
01 Dinh   Dinh Ngói = Dinh Bố Chính
02 Ben-cho   Bến Chợ = Chợ Dinh
03 Ke-bang   Kẻ Bàng
04 Ke-sen   Kẻ Sen

Hạt Quảng Bình:

05 Dou-hoi 60-70 Đồng Hới
06 Im-quan   Trung Quán
07 Mươi-dinh   Mười Dinh = Dinh Mười = Dinh Lưu Đồn
08 An-din   An Định
09 Phu-viet 30-40 Phủ Việt
10 Ke-nha 100 Nha Ngo (Uẩn Áo)
11 Nha-cau   Nhà Cồn (Mỹ Phước)
12 Ke-day 300 Kẻ Đợi = Đại Phong
13 Dinh-tram 25-30 Dinh Trạm = Dinh Quảng Bình

Hạt Minh Linh:

14 Ke-moi 25 Kẻ Mói (mói = muối) = Di Loan
15 Kho-bou-bac 70 Họ Kho (Ba Ngoạt)
16 Nguon-sun 80 Nguồn Son
17 Dou-doc 15 Đơn Duệ
18 R. Liem-cou 200 Liêm Công
19 Yen-do-ru 200 An Do Rú
20 Yen-do 400 An Do
21 Phuong-ruu 250 Phường Rượu = An Ninh
22 R. Ke-duy 300  
23 Ke-ra 120  

Hạt Tloi = Bái Trời:

24 Moi-xa 50 Mai Xá = Mai Xá Rú = Nam Tây
25 Phu-nhan 40 Phú Nhuận
26 O-o 80 Ồ Ồ
27 Phuong-mop 40-50  
28 R. Gia-dinh 120 Gia Định
29 Ke-dua 170 Kẻ Giữa

Hạt Dinh Cát:

30 Co-buu 200 Cổ Bưu = Trí Bưu
31 Da-han 30 Đá Hàn = Thạch Hãn
32 Ba-lao 110 Ba Lòng
33 R. Dinh-cat 50 Dinh Cát
34 Ke-bo 20 Kẻ Bố = Bố Liêu
35 An-lon 70 An Lộng
36 Ba-lang   Ba Lăng
37 Cha-thoam 13 Chợ Thuận
38 Nhu-ly 10 Nhu Lý
39 Duong-le 90 Dương Lệ
40 Nguon-vinh 10  
41 R. Dou-giam 40-50 Đồng Giám

Hạt Ruộng Sâu:

42 Huong-trieu-hafere 200 Hương Triều (Thanh Hương) Hạ
43 Huong-trieu-thuong 80 Hương Triều (Thanh Hương) Thượng
44 Ke-vinh 30 Kẻ Vịnh = Hưng Nhơn
45 Ke-van 70-80 Kẻ Văn = Văn Quỹ
46 Kim-lon 40 Kim Long
47 Ke-duc 20 Kẻ Đôộc = Phước Tích
48 Dieu-sinh 30 Diên Sanh

Dưới đây là bảng liệt kê trong sách đã dẫn của cha Launay:

Lẽ ra, sau hai lần Khâm sai Tông tòa thành công, việc đạo địa phận nói chung, Dinh Cát nói riêng trở nên tốt đẹp, nhưng bất đồ Võ Vương, một người có thiện cảm với đạo Công giáo bỗng thay đổi thái độ, hạ lệnh bắt đạo, trục xuất giáo sĩ vào năm 1750. Hai đại biểu dòng Tên cuối cùng ở Dinh Cát, cha Étienne Lopèz và cha François da Costa, bất đắc dĩ phải ra đi. Tiếp đó là cuộc chia tay vô thời hạn do lệnh Tòa Thánh bãi bỏ dòng Tên trên toàn thế giới vào năm 1773, chấm dứt mối lương duyên dòng Tên – Dinh Cát.

Quyền truyền giáo tại Dinh Cát được giao lại cho các linh mục Hội Thừa sai Paris với sự có mặt của các cha Jean Labartette, Pierre Halbout, Antoine Moutoux, Jacques-Benjamin Longer…

4. DINH CÁT VỚI SỰ TRỞ LẠI CỦA CÁC THỪA SAI PARIS. SỰ KIỆN ĐỨC MẸ HIỆN RA TẠI LA VANG.

Năm 1771 Nguyễn Nhạc phất cờ khởi nghĩa ở đất Phù Ly (nay là huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định). Triều đình chúa Nguyễn thất thế phải bôn tẩu vào Nam.

Năm 1774, Lợi dụng tình hình rối ren, quân Trịnh chiếm Ái Tử. Năm 1775 chiếm Phú Xuân.

Cuộc chiến tranh Trịnh – Nguyễn – Tây Sơn cắt giáo phận Đàng Trong làm ba miền không liên lạc được nhau. Đức cha Pigneau de Béhaine (Bá Đa Lộc), ở miền Nam mất liên lạc với Quy Nhơn và Thuận Hóa. Vì thế, để linh động theo tình hình mới, năm 1784 Tòa Thánh sắc phong thừa sai Jean Labartette làm Giám mục phó kế vị.

Tháng 6-1786, quân Tây Sơn vượt đèo Hải Vân và cửa Tư Hiền ra chiếm Phú Xuân bằng một cuộc tàn sát khủng khiếp. Đức cha Jean Labartette cho biết: “Tất cả những người ở trong thành Phú Xuân, cả quan lớn, cả binh sĩ không có người nào thoát được. Người ta giết nhau rùng rợn không sao tả xiết”(7).

Tây Sơn làm chủ Phú Xuân. Năm 1789 Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế lấy hiệu là Quang Trung.

Năm 1792 vua Quang Trung đột ngột băng hà, con là Quang Toản lên ngôi lấy hiệu Cảnh Thịnh. Vua Cảnh Thịnh còn nhỏ nên mọi quyền hành lọt vào tay thái sư Bùi Đắc Tuyên. Tuyên là người ác cảm với đạo Công giáo. Năm 1795, Tuyên bị hại, giáo phận tưởng trút được một gánh nặng. Nhưng năm 1797, quan nội hầu Lê Văn Lợi, kẻ bụng dạ hẹp hòi, muốn phá đạo, tâu vua rằng:

“Người phương Tây rất xảo quyệt, lại có người về phe với họ ở trong nước, rất có thể gây loạn. Vậy xin hoàng đế hạ lệnh bắt hết các giáo sĩ Tây Phương và linh mục bổn quốc”(8).

May thay trong triều có một vị quan Công giáo (hoặc có thiện cảm với đạo Công giáo), thượng thư Hồ Công Diệu, tâu vua:

“Thần nghe nói đạo Thiên Chúa truyền dạy vâng theo phép nước, thảo kính cha mẹ, sao lại có thể xúi dân làm loạn được”(9).

Thấy việc bắt đạo là không tránh khỏi, Công Diệu mật báo cho Đức cha Gioan (Jean Labartette) ở Di Loan. Thừa sai Jean Doussain trong thư đề ngày 21-7-1797 cho biết: “Có mật lệnh bắt các cha, nhưng nhờ quan Công giáo ở đền Tây Sơn báo tin nên Đức cha dạy các cha ở Quảng Trị ẩn trốn”(9).

Ngày 7-8-1798 tại Phú Xuân, vào lúc giữa trưa bốn toán lính cùng lúc đột nhập vào bốn họ đạo lớn là Phủ Cam, Phường Đúc, Kim Long và Dương Sơn. Tại Phường Đúc, lính hùng hổ đập phá nhà thờ, tu viện, đánh đập dã man các nữ tu và giáo dân. Để cứu mạng họ thánh linh mục Emmanuen Nguyễn Văn Triệu đã ra nộp mình.

Sau Huế, quân lính tiếp tục lùng sục vùng Dinh Cát, bố ráp các họ Trí Bưu, Di Loan…Triều đình hạ mật lệnh bắt cho bằng được Đức cha Gioan và các thừa sai, nhưng nhờ được mật báo các ngài đã lẩn tránh.

Giáo dân Dinh Cát nói chung, Trí Bưu nói riêng theo thói quen bao đời nay, hễ có bắt đạo là trốn vào rừng núi La Vang hẻo lánh với hy vọng quan quân sẽ không tìm đến nơi rừng thiêng nước độc này.

Nơi hiểm địa La Vang giáo dân phải chịu biết bao điều cơ cực: đói khát, rét lạnh, thú dữ, bệnh tật… Tuy nhiên, mọi người đều vững lòng cậy trông, đêm ngày thường họp nhau  cầu nguyện, than khóc, kêu xin Đức Mẹ cứu giúp.

Một hôm, vào lúc ban đêm, khi các giáo hữu đang đọc kinh cầu nguyện thì Đức Mẹ hiện ra.

– – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – –  –

(1) Tức hoàng tử Nguyễn Phúc Nguyên, thay cha là Nguyễn Hoàng đang ở Thăng Long chầu vua Lê, lãnh đạo Thuận, Quảng.

(2) Lm. Nguyễn Hồng: Lịch sử truyền giáo ở Việt Nam. Q.1. Chương VI, tr.175-199 + Chương VIII, tr.243-258.

(3) Bài Công cuộc truyền giáo ở địa phận Dinh Cát. Tb. Vì Chúa. Số 45, ngày 20-8-1937, tr.3.

(4) Giám quản lần I từ 1679 đến 1682 thay Đức cha Lambert qua đời, giám quản lần II từ 1684 đến 1691 thay Đức cha Mahot qua đời.

(5) Lm. Vinh Sơn Bùi Đức Sinh (OP): Giáo hội Công giáo ở Việt Nam. QII, tr.90.

(6) Andrien Launay: Histoire de la missions de Cochinchine. Cuốn II. Documents Historisques  (1728-1771). p.187.

(7) Dẫn theo: Lm. Stanilaô Nguyễn Văn Ngọc: Linh địa La Vang. Cơ sở ấn loát Xây Dựng. Chí Hoà. Sài Gòn. 1970, tr.19.

(8) Lm. Stanilaô Nguyễn Văn Ngọc. Tlđd, tr.26.

(9) Lm. Stanilaô Nguyễn Văn Ngọc. Tlđd, tr.27.

=> Tài liệu dạng Word, nhấn vào đây để tải Chương 1 – Phần 1