Ngày thứ tư (31-07-2019) – Trang suy niệm

30/07/2019

Lời Chúa Hôm Nay

Thứ Tư Tuần XVII Mùa Thường Niên Năm lẻ

Thánh Inhaxiô Loyola

BÀI ĐỌC I: Xh 34, 29-35

“Thấy mặt ông Môsê, họ sợ không dám đến gần”.

Trích sách Xuất Hành.

Khi ông Môsê từ trên núi Sinai đi xuống, ông mang hai bia đá chứng từ; và ông không biết do sự đàm đạo với Chúa, mặt ông sáng láng rực rỡ. Nhưng ông Aaron và con cái Israel thấy mặt ông Môsê sáng láng rực rỡ, thì sợ không dám đến gần. Ông Môsê gọi họ, thì cả Aaron lẫn các thủ lãnh hội đường mới quay lại. Sau khi ông nói chuyện với họ, tất cả con cái Israel mới đến gần ông. Ông truyền lại cho họ tất cả những điều ông đã nghe Chúa phán trên núi Sinai. Nói xong, ông lấy khăn che mặt mình. Khi ông vào trước mặt Chúa và đàm đạo với Người, thì ông cất khăn cho đến lúc ông trở ra và bấy giờ ông thuật lại cho con cái Israel những điều Chúa đã truyền dạy ông. Lúc ông Môsê ra đi, họ thấy mặt ông sáng láng rực rỡ; nhưng khi ông nói với họ, ông che mặt ông lại. Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 98, 5. 6. 7. 9

Đáp: Thiên Chúa, Chúa chúng ta, là Đấng Thánh (c. 9c).

Xướng:

1) Hãy cao rao Chúa là Thiên Chúa chúng ta. Hãy sấp mình dưới bệ kê chân Người; đây là bệ ngọc chí thánh. – Đáp.

2) Trong hàng tư tế của Người có Môsê và Aaron, và có Samuel trong số người cầu đảo danh Người. Các ông kêu cầu Chúa và chính Người nhậm lời các ông. – Đáp.

3) Trong cột mây, bấy giờ Người phán bảo; các ông đã nghe những huấn lệnh của Người, và chỉ thị Người đã truyền cho các ông giữ. – Đáp.

4) Hãy cao rao Chúa là Thiên Chúng chúng ta; hãy sấp mình trên núi thánh của Người: vì Thiên Chúa, Chúa chúng ta, là Đấng Thánh. – Đáp.

ALLELUIA: 1 Sm 3, 9

Alleluia, alleluia! – Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe: Chúa có lời ban sự sống đời đời. – Alleluia. 

PHÚC ÂM: Mt 13, 44-46

“Anh bán tất cả những gì anh có mà mua thửa ruộng đó”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng rằng: “Nước trời giống như kho tàng chôn giấu trong ruộng, người kia tìm được, vội chôn vùi xuống, vui mừng trở về bán tất cả những gì anh có mà mua thửa ruộng ấy. Nước trời cũng giống như người buôn nọ đi tìm ngọc quý. Tìm được một viên ngọc quý, anh trở về bán mọi của cải mà mua viên ngọc ấy. Đó là lời Chúa.

(thanhlinh.net)

++++++++++++++++++

31/07/19 – THỨ TƯ TUẦN 17 TN

Th. I-nha-xi-ô Lô-yô-la, linh mục

Mt 13,44-46

VUI MỪNG BÁN TẤT CẢ

“Tìm được viên ngọc quý, thương gia ra đi, bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy.” (Mt 13,46)

Suy niệm: Phản ứng trước tiên của người nông dân tình cờ khám phá ra kho báu, hay của người thương gia tìm ra viên ngọc quý sau cả cuộc đời tìm kiếm là vui mừng. Không vui mừng sao được khi biết kho báu hay viên ngọc quý từ nay nằm trong tay mình, cuộc đời mình sẽ thay đổi! Đức giáo hoàng Phanxicô, qua các văn kiện, cũng luôn nhắc nhở ta về niềm vui, niềm vui được biết Tin Mừng, niềm vui loan báo Tin mừng, niềm vui sống đời thánh thiện. Ta phải vui mừng vì được có Nước Trời là kho báu, có Chúa Giê-su là viên ngọc quý trong đời mình. Thế mà trên cuộc đời này, “không có đá quý nào cho bằng nhân đức, không có tài sản nào sánh bằng hạnh phúc, cũng chẳng có kho báu nào cho bằng đức tin, và không có ngọc quý nào cho bằng tình yêu” (nhà văn M. Dhliwayo). Là môn đệ Chúa Giê-su, ta có tất cả nhân đức, hạnh phúc, đức tin và lòng mến ấy.

Mời Bạn: Những kho tàng quý giá nhất không thể thấy được bằng mắt, mà chỉ có thể cảm nhận bằng con tim. Nước Trời, Chúa Giê-su là kho báu, viên ngọc quý thật đấy, nhưng không thể đánh giá bằng đôi mắt, mà chỉ qua niềm tin và lòng yêu mến. Mong bạn, sống giữa những tiện nghi, vật chất, thú vui cuộc đời, vẫn biết đâu là giá trị vĩnh cửu, quý giá, đáng cho mình “bán tất cả những gì mình có,” để “tậu” cho bằng được.

Sống Lời Chúa: Tôi luôn vui mừng vì được làm con cái Chúa, môn đệ Chúa Ki-tô, thành viên của Giáo hội. Tôi hạnh phúc vì có Chúa trong cuộc đời.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, được biết Chúa là hồng ân lớn nhất đời con. Con luôn hãnh diện về hồng ân này.

(5 Phút Lời Chúa)

++++++++++++++++++

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên

31 THÁNG BẢY

Ngay Cả Sự Chết Cũng Phục Vụ Cho Sự Sống

Chúng ta nhận thấy Cựu Ước – trong khi nhìn nhận sự có mặt của nhiều loại sự dữ và đau khổ trong đời – đã làm chứng hùng hồn rằng sự khôn ngoan và lòng từ ái của Thiên Chúa (biểu hiện qua sự quan phòng thần linh của Ngài) tất thắng trên mọi sự dữ và đau khổ.

Cảm nhận này được trình bày trong Sách Gióp, cuốn sách xoáy trọn vào chủ đề sự dữ và tiếng kêu ai oán thất vọng. Cuốn sách quan trọng này (về chủ đề sự dữ) đôi khi được thấy như một kiểm nghiệm hùng hồn ‘đo lòng’ người công chính. Nhưng đây chỉ là một khía cạnh phụ thuộc của quyển sách mà thôi. Cốt lõi của quyển sách chính là sự đúc kết vừa rõ ràng vừa công phu của tác giả rằng Thiên Chúa là Đấng tốt lành. Qua Sách Gióp, chúng ta nắm bắt những giới hạn và bản chất phù du của mọi tạo vật. Chúng ta nhận ra rằng một số hình thức của sự dữ thể lý có thể là do bản chất sa ngã của thế giới gây ra.

Chúng ta cũng ý thức rằng tất cả những gì thuộc vật chất đều ở trong một mối quan hệ hỗ tương gần gũi nhau – như câu nói xưa: “Đây chết thì kia sống”. Như vậy, xét một mức nào đó, ngay cả sự chết cũng phục vụ cho sự sống. Qui luật này cũng không loại trừ con người – vì con người vừa là xác thịt vừa là tinh thần, vừa khả diệt vừa bất tử.

Trong chiều hướng này, những ý tưởng của Thánh Phao-lô càng vén mở các chân trời rộng hơn nữa: “Dù con người bên ngoài chúng tôi có tiêu tan đi, thì con người bên trong của chúng tôi ngày càng đổi mới” (2Cr 4,16). Rồi ngài nói thêm: “Thật vậy, một chút gian truân tạm thời trong hiện tại sẽ mang lại cho chúng ta cả một khối vinh quang vô tận, tuyệt vời” (2Cr 4,17).

– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –

Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác

LIFT UP YOUR HEARTS

Daily Meditations by Pope John Paul II

+++++++++++++++++

Lời Chúa Trong Gia Đình

NGÀY 31/7

Thánh Ignatiô Lôyôla, linh mục

Xh 34, 29-35; Mt 13, 44-46.

LỜI SUY NIỆM: “Nước Trời lại còn giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng. Có người kia gặp được thì liền chôn giấu lại, rồi vui mừng đi bán hết tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy.”

          Khi nói đến kho tàng chôn giấu, Luật Do-thái nêu rất rõ ràng: “Những thứ gì tìm được đều thuộc về người tìm ra nó.” Trong dụ ngôn kho báu và ngọc quý, Chúa Giêsu đưa ra cho mỗi người chúng ta hôm nay có hai điểm nổi bật: Niềm vui của người khám phá kho báu cũng như người thương gia tìm gặp viên ngọc quý. Người nông dân cũng như người thương gia đi tìm viên ngọc đẹp. Họ đã sẵn sàng từ bỏ mọi sự, bán tất cả những gì mà từ trước đến nay họ cho là quí, là quan trọng đối với đời sống của họ. Để mua lấy thửa ruộng có kho báu, cũng như viên ngọc quý. Người Kitô hữu chúng ta cũng vậy. Luôn phỉa tìm kiếm Nước Thiên Chúa và thánh ý của Ngài làm trọng cho đời sống của mình.

          Lạy Chúa Giêsu. Xin cho mỗi người trong chúng con luôn hăng say trong việc tìm kiếm Chúa trong mọi sinh hoạt của đời sống của chúng con, để chúng con nhận ra Chúa đang hiện diện và đồng hành với chúng con, mà lấy làm vui thích, và ngợi khen tạ ơn Chúa.

Mạnh Phương

+++++++++++++++++

Gương Thánh Nhân

Ngày 31-07: Thánh IGNATIÔ LOYOLA

Linh Mục (1491 – 1556)

Don Inigo Lopez de Recalde sinh khoảng năm 1481 tại miền đồi núi Basque gần làng Azpeytia. Ngài là con út trong số 11 người con của một gia đình quí tộc. Được rửa tội với tên Inigo, một vị thánh Tây Ban Nha dòng thánh Bênêdictô, nhưng sau này Ngài thường dùng tên Ignatiô thành Antiokia. Hồi còn niên thiếu, người giúp việc cho một người bạn quí tộc của một gia đình là Giuan Velasquez. Sau khi Velasquez từ trần, Ngài lại phục vụ bá tước Najera, phó vương miền Navarre. Ngài được giáo dục một cách hời hợt. Thời đó, Ngài chỉ ham chơi, thích những chuyện hào hùng, nhất là những ngày lễ duyệt binh.

Trong cuộc chiến Pháp, Tây Ban Nha tháng năm 1521 quân đội pháp đã vượt núi Pyrênê và tới phong tỏa Pampeluna. Nhiều người đã tính chuyện đầu hàng, nhưng Ignatiô quyết cầm cự. Trong cơn bão tố tại pháo đài Ignatiô bị trúng đạn pháo ở đùi, Ngài được chuyển về lâu đài ỏ Loyola. Nơi dây người ta khám phá ra rằng xương đùi đã bị xếp trật, phải mổ ra và sắp xếp lại. Ngài đã can đảm chịu đựng cơn đau.

Thời gian dưỡng bệnh lâu dài tiếp theo sau đó, không có sách vở gì khác, Ignatiô dùng thời gian để đọc hạnh các thánh. Gương mẫu đời sống các thánh làm mủi lòng Ignatiô. Ngài nói: – Tôi có phải thực hiện điều mà thánh Phaxicô và Dominico đã làm chăng ?

Năm 1522, sau khi bình phục, Ngài đi hành hương kính Đức bà Montserrat. Nơi đây Ngài đã thực hiện cuộc xưng tội trong ba ngày, trao tặng đồ hiệp sĩ cho một kẻ ăn xin, đặt gươm trên bàn thờ Đức Mẹ và tới thành Manresa kế cận để phục vụ trong một nhà thương. Đã một thời Ngài bị nguy hiểm rơi vào một cuộc khổ hạnh quá độ. Ngài Ngài đã thoát hiểm nhờ sự vâng phục hoàn tòan đối với cha giải tội. Chính tại Manresa, Ngài được Thiên Chúa soi sáng, sự soi sáng hứơng dẫn trọn những ngày còn lại của cuộc đời Ngài. Ngài viết cuốn linh thao, trong đó vạch ra những nguyên tắc mà một người công giáo phải theo để “điều khiển đời sống mình” một đời sống nhằm ca tụng Chúa, tôn kính và phụng sự Ngài, để được cứu rỗi. Ngài phác họa một giáo thuyết của mình về sự chọn lựa và đòi hỏi để làm mọi sự để “vinh danh Chúa” (Ad Majorem dei gloriam)

Thánh nhân ở lại Manresa khoảng một năm và từ đó hành hương đi Palestina, trên đường đi có dừng lại ở Roma. Sau khi đã kính viếng các nơi thánh ở Palestina, Ngài trở về Barcelona. Nơi đây, dầu đã 30 tuổi, Ngài vẫn đến trường, ngồi chung ghế với các em nhỏ, để sữa chữa lại kẽ hở trong việc học hành, cho tới khi Ngài có thể dự lớp tại đại học Alcala và Salamanca. Tại cả hai nơi này, đã Ngài bị truy tố ra tòa án tôn giáo và bị tống giam ít ngày. Nhưng cuối cùng giáo thuyết của Ngài đã thắng.

Năm 1528, Ngài bỏ Salamanca đi Paris và Sorbonne. Ngài ở Paris 7 năm, nơi đây Ngài tụ họp được sáu môn sinh đầu tiên. Vào ngày lễ Mông Triệu năm 1534 bảy anh em đã long trọng hiến thân phụng sự Thiên Chúa, khấn giữ đức nghèo khó và trong sạch, tại đền thờ thánh Denis tại Montmartre. Lúc đó, họ dự định đi Giêrusalem và hiến thân cho việc cứu rỗi các linh hồn trong các miền còn ngoại giáo.

Ignatiô trở về Tây Ban Nha. Năm 1535, tu hội đã lên tới 10 người. Họ gặp nhau ở Venitia, định cùng đáp tàu đi hành hương thánh địa. Nhưng tình hình miền Đông Địa Trug Hải không cho phép. Bù lại một số đi Roma, để Ignatiô tại Venitia. Đức giáo hoàng Phaolô III ưu ái tiếp họ. Trở lại Ventia, họ mang theo phép của Đức Giáo hoàng cho Ignatiô và 6 anh em được thụ phong linh mục.

Một năm sau, thấy rằng: không thể tới thánh địa được, Ignatiô kết luận rằng ý Chúa không muốn cuộc hành hương này. Thay vào đó, Ngài đặt tu hội dưới danh hiệu “dòng Chúa Giêsu” dưới quyền xử dụng của toà thánh. Họ đi Roma và Ignatiô dâng thánh lễ đầu tiên ở đầu vào dịp lễ Giáng sinh năm 1538 tại đền thờ Đức Bà cả, Ngài soạn thảo hiến pháp của dòng mới và đến trình diện Đức giáo hoàng Phaolô III. Đức giáo hoàng đã phát biểu khi gặp họ: – Đây là bàn tay Thiên Chúa.

Và trong sắc lệnh Regimini Militantis Ecclesioe, ban hành tháng 9 năm 1540 Ngài đã chính thức công nhận hội dòng. Hội dòng thêm vào đó 3 lời khấn: nghèo khó, vâng lời, trong sạch, lời khấn đặc biệt vâng phục Đức giáo hoàng.

Trong hiến pháp đầu tiên, hội dòng giới hạn con số có 60 tu sĩ. Ignatiô được đồng thanh bầu làm bề trên ngày 7 tháng 4 năm 1541. Luật hạn định tu sĩ vào số 60 được rút lại bởi sắc lệnh của Đức giáo hoàng ngày 15 tháng 3 năm 1543.

Ignatiô khó rời bỏ Roma cho đến cuối đời. Nhưng hội dòng đã lan rộng tới mọi miền trên thế giới, dưới quyền hướng dẫn của Ngài như một phép lạ, khi Ngài từ trần vào ngày 3 tháng 7 năm 1556, hội dòng đã có 12 tỉnh dòng với 101 nhà và gần 1000 phần tử.

Thánh Ignatiô được suy tôn hiển thánh ngày 12 tháng 3 năm 1622.

(daminhvn.net)

+++++++++++++++++

31 Tháng Bảy

Tiếng Kêu Của Ếch

Một vị ẩn sĩ đạo đức nọ nổi tiếng là người có thể sai khiến được thú vật.

Một buổi tối nọ, ông đang tịnh niệm cầu nguyện, một con ếch không biết từ đâu cất tiếng kêu lên inh ỏi. Vị ẩn sĩ cố gắng tập trung ý chí vào lời cầu nguyện để không còn nghe tiếng ếch kêu nữa. Nhưng ông càng cố gắng, tiếng ếch càng kêu to. Không còn tự chế được nữa, vị ẩn sĩ quát lên: “Hãy câm miệng cho ta cầu nguyện được không?”.

Mệnh lệnh đầy uy lực của nhà ẩn sĩ đã bịt miệng được chú ếch. Thinh lặng trở lại với không gian. Nhưng cũng chính lúc đó, nhà ẩn sĩ như nghe vang vọng trong tâm hồn ông một tiếng kêu khác. Ông nghe như có người nói với ông rằng: “Có lẽ Chúa cũng ưa thích tiếng kêu của ếch như lời cầu kinh của ngươi”. Vị ẩn sĩ hỏi vặn lại: “Tiếng kêu của ếch mà cũng làm cho lỗ tai của Chúa vui được sao?”. Tiếng kêu trong tâm hồn ông đáp trả: “Vậy thì ngươi có biết tại sao Chúa tạo ra âm thanh không?”.

Vị ẩn sĩ chợt hiểu được bài học từ trong nội tâm… Ông đến bên cửa sổ và ra lệnh cho chú ếch: “Nào, hãy hát lên đi”. Tiếng kêu của chú ếch vang lên, mấy chú ếch xung quanh cũng hòa theo một nhịp tạo thành một bài ca lúc trầm lúc bổng, lúc dặt dìu, lúc tha thiết… Ðêm vắng bỗng trở nên vui hơn.

Với sự khám phá trên đây, trái tim của nhà ẩn sĩ bỗng trở nên hài hòa với vũ trụ và lần đầu tiên trong đời, ông hiểu được thế nào là cầu nguyện.

Sự cầu nguyện thường cần phải có một khung cảnh thích hợp. Có một không gian đặc biệt dành cho cầu nguyện, có một quãng thời gian đặc biệt dành cho cầu nguyện, có một bầu khí đặc biệt dành cho cầu nguyện. Ðó là điều thiết yếu dành cho cuộc sống con người… Ðó là lý do hiện hữu của một bàn thờ nhỏ trong nhà, đó là mục đích của các ngôi thánh đường.

Tuy nhiên, sự cầu nguyện sẽ đánh mất của nó, nếu con người đóng khung nó trong một khung cảnh và bầu khí đặc biệt. Cầu nguyện là một gặp gỡ với Chúa và đồng thời cũng là một giao kết với tha nhân. Thiên Chúa, chúng ta không thể đóng khung trong bốn bức tường vắng lặng của nhà thờ. Con người, chúng ta phải gặp gỡ ngay trên chợ đời.

Thành ra, lời cầu nguyện đích thực phải là lời cầu nguyện mà con người có thể dâng lên Thiên Chúa trong bất cứ hoàn cảnh nào, trong bất cứ lúc nào, bằng tất cả cuộc sống. Lời cầu nguyện đích thực là lời cầu nguyện được thốt lên trong thời thuận tiện cũng như không thuận tiện. Lời cầu nguyện đích thực là cả một cuộc sống tuân phục ý Chúa, một cuộc sống hài hòa với tha nhân, một cuộc sống “xin vâng” trong từng phút giây.

(Lẽ Sống)

++++++++++++++++++

Lời Chúa Mỗi Ngày

Thứ Tư Tuần 17 TN1, Năm lẻ.

Bài đọc: Exo 34:29-35; Lk 10:38-42.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Lựa chọn phần tốt nhất: lắng nghe và đàm đạo với Thiên Chúa.

Khi đương đầu với cuộc sống quá bận rộn, nhiều người không còn biết phải chọn điều gì và bỏ điều gì nữa. Rốt cuộc, họ chỉ còn biết phản ứng và làm điều gì tới trước. Phản ứng như thế không khôn ngoan, vì mọi việc phải có thứ tự ưu tiên của chúng. Nhiều lần chúng tôi đã đề cập đến chiếc kiềng ba chân mà chúng ta phải đứng vững trên đó, và thứ tự ưu tiên của chúng: (1) mối liên hệ với Thiên Chúa, (2) mối liên hệ với tha nhân, và (3) mối liên hệ với của cải vật chất. Theo thứ tự của Thập Giới và thứ tự của chiếc kiềng ba chân này, mối liên hệ của con người với Thiên Chúa chiếm vị thế hàng đầu trong cuộc sống. Con người phải thờ phượng và kính mến Thiên Chúa trên hết mọi sự.

Các Bài Đọc hôm nay muốn làm nổi bật các người đã chọn phần tốt nhất. Trong Bài Đọc I, ông Moses được diễm phúc nhìn thấy Thiên Chúa và đàm đạo với Ngài. Hậu quả là vinh quang của Thiên Chúa phản chiếu rạng ngời trên khuôn mặt ông đến độ con cái Israel không dám nhìn ông vì sợ hãi. Ông phải đeo một tấm vải để che bớt sự rạng rỡ này. Phúc Âm tường thuật biến cố Chúa Giêsu đến thăm hai chị em Martha và Maria. Chị Martha than phiền vì em Maria không chịu giúp chị lo việc phục vụ Chúa, mà chỉ ngồi dưới chân để lắng nghe Ngài. Chúa Giêsu sửa lỗi chị Martha: “Martha! Martha ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi.”

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Vinh quang Thiên Chúa biểu tỏ trên mặt ông Moses.

1.1/ Lý do của việc chiếu sáng: “Ông Moses không biết rằng da mặt ông sáng chói bởi đã đàm đạo với Thiên Chúa.” Tục ngữ Việt-nam có câu: “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng.” Câu tục ngữ này có nghĩa: khi một người làm bạn với những người tốt lành, thánh thiện, anh sẽ được chiếu sáng và học được những thói quen tốt lành này; ngược lại, nếu anh giao du với phường trộm cướp gian manh, anh sẽ trở nên tối tăm vì nhiễm lây những thói quen xấu xa của họ. Vì ông Moses gần gũi Thiên Chúa và đàm đạo với Ngài thường xuyên, nên vinh quang của Ngài chiếu tỏa và ở lại trên khuôn mặt ông.

Trong biến cố Chúa Giêsu biến hình trên núi Thabor, các thánh ký cũng tường thuật mặt của Chúa Giêsu sáng chói như mặt trời và áo của Ngài trở nên trắng như tuyết. Điều này dạy chúng ta bài học: phải để vinh quang của Thiên Chúa chiếu sáng trong cuộc đời chúng ta qua việc cầu nguyện, tham dự Thánh Lễ, và kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa; nếu không, sự tối tăm của ma quỉ sẽ bao trùm cuộc sống, và chúng ta sẽ sợ hãi và tránh né những con cái của sự sáng, như con cái Israel tránh né ông Moses vậy. Nếu họ không dám nhìn mặt của Moses, chỉ là phản chiếu của vinh quang Thiên Chúa, làm sao họ dám nhìn Thiên Chúa, là nguồn sáng như chính mặt trời?

1.2/ Thiên Chúa nói với dân qua người lãnh đạo: Ông Moses gọi họ: “ông Aaron và các đầu mục của cộng đồng trở lại với ông, và ông nói chuyện với họ. Sau đó, toàn thể con cái Israel lại gần ông, và ông truyền cho họ tất cả những điều Đức Chúa đã phán với ông trên núi Sinai.”

Bên cạnh vinh quang bên ngoài, ông Moses còn được soi sáng trong tâm hồn để hiểu biết những điều bí nhiệm của Thiên Chúa; nếu Thiên Chúa không mặc khải, không ai có thể hiểu biết những bí nhiệm này. Vì thế, chúng ta cần tôn trọng và năng chạy đến với các nhà lãnh đạo thánh thiện, các ngài thay mặt Chúa để dạy dỗ và mặc khải những bí nhiệm của Thiên Chúa cho chúng ta.

2/ Phúc Âm: Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi.

2.1/ Em Maria chọn ngồi bên chân Chúa để nghe Ngài giảng dạy: Nhiều người chắc cũng nghĩ như chị Martha: con bé này lười quá hay “mồm miệng đỡ tay chân!” Nhưng đây là một lựa chọn rất tính toán và khôn ngoan, như Chúa Giêsu đã phải khen Maria bên dưới. Một số lý do có thể Maria đã dựa vào để làm sự lựa chọn này:

+ Cô biết rõ thứ tự ưu tiên của cuộc đời: phải chọn Thiên Chúa trước hết. Maria biết chẳng có ai có những lời khôn ngoan và mang lại sự sống như Chúa Giêsu; vì thế, cô phải hoãn tất cả các việc khác để lắng nghe những gì Ngài muốn truyền đạt.

+ Cô biết nắm lấy cơ hội khi nó xảy đến: Một người bận rộn rao giảng như Chúa không dễ gặp. Cô biết cơ hội để đàm đạo với Chúa không thường xảy ra: nếu không biết nắm lấy ngay, cô không biết có còn cơ hội nào khác không! Chúng ta phải học nơi Maria điều này, để khi Chúa gởi những nhà rao giảng đến, chúng ta biết sắp xếp công việc hàng ngày để nghe những gì họ rao giảng. Đừng giả sử cơ hội sẽ có mãi, kẻo phải tiếc nuối sau này!

+ Khách đến nhà không chỉ để ăn, nhưng còn để chuyện vãn, tâm sự. Maria thấy chị bận rộn nấu nướng; cô chọn để trò chuyện với Chúa. Nhiều người chúng ta không chịu để ý đến khía cạnh tế nhị này; nên đã để cho khách ngồi một mình trong phòng khách chờ đợi trong khi chúng ta chuẩn bị thức ăn dưới bếp. Hiểu như thế, quyết định của Maria thật sáng suốt: chị lo nấu ăn, em lo tiếp khách.

2.2/ Chị Martha chọn để vất vả lo việc phục vụ Chúa Giêsu: Khi một thượng khách như Chúa Giêsu đến nhà, đó là lúc để chủ nhà biểu tỏ tài nội trợ, nấu nướng, và tính hiếu khách. Chúng ta không lạ gì khi Martha quá vất vả lo lắng tới độ cô tiến lại Chúa Giêsu và than phiền với Ngài: “Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay!” Ngược lại với những gì Martha mong đợi, Chúa Giêsu đáp: “Martha! Martha ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi.” Có nhiều điều chúng ta có thể học hỏi từ câu trả lời của Chúa Giêsu:

+ Martha không hiểu rõ thứ tự ưu tiên của cuộc đời: Chúa Giêsu sữa chữa lỗi lầm cho cô khi Ngài nói: “Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi.” Thức ăn có ngon mấy chăng nữa rồi cũng qua đi; nhưng Lời Chúa sẽ ở lại trong tâm hồn và soi sáng cho con người biết cách sống thế nào để có hạnh phúc trong cuộc đời.

+ Martha không quan tâm đến người khác: Cô có thể nghĩ chỉ có việc của cô mới đáng làm, việc của Maria không quan trọng! Đây là một lỗi lầm mà nhiều người chúng ta mắc phải. Chúng ta đừng bắt người khác phải suy nghĩ và hành động như mình, vì mỗi người có những suy nghĩ và hành động khác nhau. Chúng ta cũng không hiểu đủ để xác quyết việc nào là việc tốt nhất, cho đến khi được tuyên bố rõ ràng bởi Thiên Chúa.

+ Martha không biết sắp xếp thời giờ: Có thể Martha không biết khi nào Chúa đến, vì ngày xưa không có thói quen có giờ hẹn như thời nay. Dù sao chăng nữa, Martha không nên lo lắng quá nhiều đến chuyện ăn uống, vì khách tới nhà để thăm viếng chứ không chỉ để ăn! Các gia đình Việt-nam chúng ta cần chú trọng điều này, để đừng làm quá nhiều thức ăn mỗi khi tiếp khách. Hầu hết trong các bữa tiệc, khách không dùng hết một nửa các thức ăn của chủ nhà bày ra. Hậu quả là gia chủ phải ăn đồ thừa hay phải lãng phí thức ăn cách không cần thiết.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

– Chúng ta phải dành ưu tiên hàng đầu cho mối liên hệ của chúng ta với Thiên Chúa bằng cách dành thời giờ để cầu nguyện, lắng nghe, học hỏi, và thực hành những gì Chúa dạy.

– Lời Chúa soi sáng cho chúng ta biết cách lựa chọn những điều xảy ra cho phù hợp với thánh ý của Thiên Chúa; đồng thời cũng cung cấp cho chúng ta sức mạnh để làm theo. 

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

****************