Ngày thứ tư (31-01-2024) – Trang suy niệm

30/01/2024

Lời Chúa Hôm Nay

Thứ Tư. Thánh Gioan Boscô

BÀI ĐỌC I: 2 Sm 24, 2. 9-17

“Chính con đã phạm tội, nhưng những người này là những con chiên, họ có làm gì đâu?”

Bài trích sách Samuel quyển thứ hai.

Trong những ngày ấy, vua Đavít nói với Gioáp tư lệnh quân đội rằng: “Ngươi hãy đi kinh lý khắp các chi tộc Israel, từ Đan đến Bersabê, và kiểm tra dân chúng, để ta biết dân số”.

Gioáp nạp sổ kiểm tra dân chúng cho vua. Trong dân Israel có tám trăm ngàn dũng sĩ biết xử dụng gươm, còn phía Giuđa có năm trăm ngàn người thiện chiến.

Sau khi kiểm tra dân số, Đavít hồi hộp và thưa cùng Chúa rằng: “Con đã phạm tội nặng nề trong việc con đã làm. Nhưng, lạy Chúa, xin xoá tội ác cho tôi tớ Chúa, vì con đã hành động quá dại dột”. Sáng hôm sau, khi Đavít thức dậy, có lời Chúa phán cùng ông Gad, vị tiên tri và thị kiến của Đavít rằng: “Ngươi hãy đi nói với Đavít: Đây Chúa phán: Ta cho ngươi ba điều, ngươi hãy chọn điều nào ngươi muốn, rồi Ta sẽ thi hành”.

Gad đến cùng Đavít và tâu rằng: “Hoặc ngài phải chịu bảy năm đói kém trong nước ngài, hoặc trong ba tháng, ngài phải lẩn trốn quân thù tìm bắt bớ ngài, hoặc là trong nước ngài phải chịu dịch tả suốt ba ngày, giờ đây ngài hãy suy nghĩ đắn đo và chịu điều nào đi để tôi thưa lại cùng Đấng đã sai tôi”.

Đavít trả lời cho Gad rằng: “Tôi khổ quá! Nhưng thà rơi vào tay Chúa còn hơn là rơi vào tay người phàm, vì Chúa rất nhân từ”. Chúa đã giáng cơn dịch tả xuống Israel từ sáng hôm ấy cho đến thời gian đã định.

Từ Đan tới Bersabê, có đến bảy mươi ngàn người đàn ông trong dân phải chết. Đang lúc thiên thần Chúa giơ tay để tàn phá Giêrusalem, thì Chúa hối tiếc trước sự đau khổ, nên phán bảo thiên thần đang giết phạt dân chúng rằng: “Thôi đủ rồi! Giờ đây hãy dừng tay lại”.

Bấy giờ thiên thần Chúa đang ở gần sân lúa của Aruna người Giêbusa. Khi thấy thiên thần sát phạt dân chúng, Đavít thưa cùng Chúa rằng: “Chính con là kẻ đã phạm tội, chính con đã làm điều gian ác; nhưng những người này là những con chiên, họ có làm gì đâu? Vậy xin tay Chúa đè nặng trên con và trên nhà cha con”.

Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 31, 1-2. 5. 6. 7

Đáp: Lạy Chúa, Chúa đã tha thứ tội lỗi cho con.

1) Phúc thay người được tha thứ lỗi lầm, và tội phạm của người được ơn che đậy! Phúc thay người mà Chúa không trách cứ lỗi lầm, và trong lòng người đó chẳng có mưu gian.

2) Con xưng ra cùng Chúa tội phạm của con, và lỗi lầm của con, con đã không che giấu. Con nói: “Con thú thực cùng Chúa điều gian ác của con, và Chúa đã tha thứ tội lỗi cho con”.

3) Bởi thế nên mọi người tín hữu sẽ nguyện cầu cùng Chúa trong thời buổi khốn khó gian truân. Khi sóng cả ba đào ập tới, chúng sẽ không hại nổi những người này.

4) Chúa là chỗ dung thân, Chúa giữ tôi khỏi điều nguy khổ, Chúa đùm bọc tôi trong niềm vui ơn cứu độ.

ALLELUIA: Ga 8,12

All. All. – Chúa phán: “Ta là sự sáng thế gian, ai theo Ta, sẽ được ánh sáng ban sự sống. – All.

PHÚC ÂM: Mc 6,1-6

“Không một tiên tri nào mà không bị khinh bỉ ở quê hương”.

Bài trích Phúc Âm theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu trở về quê nhà và các môn đệ cùng theo Người.

Đến ngày Sabát, Người vào giảng trong hội đường, và nhiều thính giả sủng sốt về giáo lý của Người, nên nói rằng: “Bởi đâu ông nầy được như vậy? Sao ông được khôn ngoan như vậy? Bởi đâu tay Người làm được những sự lạ thể ấy? Ông nầy chẳng phải bác thợ mộc con bà Maria, anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao? Chị em ông không ở với chúng ta đây sao?”

Và họ vấp phạm vì Người. Chúa Giêsu liền bảo họ: “Không một tiên tri nào mà không bị kinh bỉ ở quê hương, gia đình họ hàng mình”. Ở đó Người không làm phép lạ nào được, ngoại trừ đặt tay chữa vài bệnh nhân, và Người ngạc nhiên vì họ cứng lòng tin. Người đi rảo qua các làng chung quanh mà giảng dạy.

Đó là lời Chúa.

(Nguồn: UBPV/HĐGMVN, ấn bản 1973)

++++++++++++++++++

31/01/2024 – THỨ TƯ TUẦÂN 4 TN

Th. Gio-an Bốt-cô, linh mục

Mc 6,1-6

GẶP GỠ THIÊN CHÚA-LÀM-NGƯỜI

“Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì?” (Mc 6,2)

Suy niệm: “Khi Thiên Chúa trở thành một Con Người, sống như một thụ tạo giữa các thụ tạo của Ngài tại Palestine, thì cuộc đời Ngài thật sự là một sự quên mình lớn lao nhất, hướng về đồi Can-vê” (C.S. Lewis). Dân làng Na-da-rét trong hội đường hôm ấy không thể nào hiểu được tại sao bác thợ Giê-su ngày nào bây giờ lại khôn ngoan, giảng dạy lôi cuốn, cũng như đầy quyền năng với những phép lạ kỳ diệu như vậy. Vì định kiến, họ không thể nhận ra rằng người đồng hương của họ không chỉ là một con người, nhưng còn là Thiên Chúa: một vị Thiên Chúa trở thành xác phàm ở giữa nhân loại. Làng Na-da-rét nhỏ bé vô danh của họ được cả nhân loại biết đến cũng nhờ người đồng hương này.

Mời Bạn: Na-tha-na-en cũng từng đầy thiên kiến về Na-da-rét: “Từ Na-da-rét, làm sao có cái gì hay được?” (Ga 1,46). Vậy mà sau khi gặp người Na-da-rét ấy, ông thay đổi định kiến, trở thành môn đệ Ngài. Muốn biết trái măng cụt ngon ngọt thế nào, bạn phải nhai, nuốt, thưởng thức nó. Cũng vậy, muốn biết vị Thiên-Chúa-làm-người hiền lành và khiêm nhường ra sao, bạn hãy đến gặp Ngài, ở lại với Ngài, tiêu hóa Lời Ngài, rước lấy Ngài trong Thánh Thể cách ý thức và thường xuyên. 

Sống Lời Chúa: Tôi tập gặp gỡ Chúa Giê-su thường xuyên hơn qua việc cầu nguyện, đọc Tin Mừng, rước lễ… mỗi ngày. Nói chung, dành cho vị Thiên Chúa-làm-người cao cả ấy một vị trí xứng hợp hơn trong đời mình.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, cảm tạ Chúa đã nhập thể làm người ở giữa nhân loại. Xin cho con luôn hạnh phúc có Chúa hiện diện trong đời mình.

(5 Phút Lời Chúa)

++++++++++++++++++

Suy niệm và cầu nguyện

Suy niệm:

Chẳng rõ Đức Giêsu đã xa gia đình, xa ngôi làng Nadarét bao lâu rồi.
Nhưng hôm nay, Ngài lại trở về với hội đường của làng vào ngày sabát.
Dù sao Ngài đã có danh tiếng trước đám đông, lại có môn đệ đi theo…
Trở về với hội đường thân quen, Ngài được mời đọc sách thánh và giảng dạy.
Nghe lời Ngài giảng, nhiều người sửng sốt ngỡ ngàng.

“Bởi đâu ông này được như thế?
Ông được khôn ngoan như vậy nghĩa là làm sao?
Ông làm được những phép lạ như thế nghĩa là gì?” (c. 2).
Những câu hỏi cho thấy người dân Nadarét nhìn nhận
sự khôn ngoan trong lời giảng và quyền năng trong việc làm
mà họ bắt gặp nơi con người ông Giêsu, người cùng làng với họ.
Chỉ có điều là họ nghĩ không ra nguồn gốc của những chuyện đó.

Tại sao họ lại không coi Đức Giêsu là người của Thiên Chúa,
và coi Thiên Chúa là nguồn gốc mọi khả năng lạ lùng của Ngài?
Câu trả lời là vì người dân làng đã quá quen với ông Giêsu.
Họ tự hào biết rất rõ về nghề nghiệp của ông: một bác thợ.
Họ tự hào biết rất rõ về họ hàng ruột thịt: mẹ và anh chị em của ông,
những người họ có thể kể tên, những người đang là bà con lối xóm với họ.
Họ cũng biết rõ quãng đời thơ ấu và trưởng thành của ông Giêsu.
Chính cái biết này đã ngăn cản
khiến họ không thể tin ông Giêsu là một ngôn sứ.
Hay đúng hơn chính vì họ có một hình ảnh rất cao cả về một ngôn sứ
nên quá khứ bình thường của Đức Giêsu khiến họ không thể tin được.

Người dân Nadarét đã không ngờ mình có người làng cao trọng đến thế:
một ngôn sứ, một Đấng Kitô, một Thiên Chúa làm người, ở với họ.
Và họ cũng không ngờ sự cao trọng đó lại được gói trong lớp áo tầm thường,
không ngờ Đức Giêsu sẽ là người làm cho cả thế giới biết đến Nadarét.
Làm thế nào chúng ta tránh được sai lầm của người Nadarét xưa?
Cần tập nhận ra Chúa đến với mình trong cái bình thường của cuộc sống.
Cần thấy Chúa nơi những người tầm thường mà ta quen gặp mỗi ngày.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,
dân làng Nadarét đã không tin Chúa
vì Chúa chỉ là một ông thợ thủ công.
Các môn đệ đã không tin Chúa
khi thấy Chúa chịu treo trên thập tự.
Nhiều kẻ đã không tin Chúa là Thiên Chúa
chỉ vì Chúa sống như một con người.

Cũng có lúc chúng con không tin Chúa
hiện diện dưới hình bánh mong manh,
nơi một linh mục yếu đuối,
trong một Hội thánh còn nhiều bất toàn.

Dường như Chúa thích ẩn mình
nơi những gì thế gian chê bỏ,
để chúng con tập nhận ra Ngài
bằng con mắt đức tin.

Xin thêm đức tin cho chúng con
để khiêm tốn thấy Ngài
tỏ mình thật bình thường giữa lòng cuộc sống.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

(phutcaunguyen.net)

++++++++++++++++++

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên

31 THÁNG GIÊNG

Hợp Tác Và Liên Đới

Nếu như trong quá khứ có một khuynh hướng xem lao động như chuẩn mực duy nhất đo lường giá trị con người, thì trong thời đại chúng ta lại thấy xuất hiện một nhãn quan mới: đánh giá con người theo chức năng. Theo cách nhìn này, lao động chỉ có ý nghĩa thông qua thu nhập trong một nghề nghiệp nào đó. Trước một trào lưu như vậy, chúng ta càng phải khẩn cấp hơn bao giờ hết để nắm bắt lại niềm xác tín rằng “lao động là một chiều kích căn bản của hiện sinh con người trên trái đất” (Laborem exercens 4). Nhưng đồng thời cũng phải nhận thức rằng lao động không phải là cứu cánh cuối cùng. Vâng, lao động phải luôn luôn phụ thuộc vào con người – và chính con người mới là mục tiêu và là cứu cánh cuối cùng của lao động (Laborem exercens 6).

Xuất phát từ sự thật đó, một yêu cầu quan trọng đặt ra cho tất cả mọi người: yêu cầu phải cộng tác và liên đới với nhau. Người ta vốn phải luôn luôn cần sự giúp đỡ và cộng tác của nhau để có thể cùng nhau thăng tiến. Liên đới có luật của nó: không ai có thể áp đặt nó lên một người khác. Trái lại, mỗi bên đều sẵn lòng đón nhận sự cộng tác của bên kia trong một đường lối xây dựng. Điều này áp dụng cả cho những doanh nghiệp cá thể lẫn cho toàn bộ tiến trình sản xuất. Nó cũng áp dụng – theo một nghĩa rộng – cho tất cả đời sống xã hội.

Khi nhìn lao động và sản xuất trong tinh thần hợp tác và liên đới, chúng ta có thể nhận ra những vai trò thiết yếu của mỗi bên liên hệ. Các chủ xí nghiệp và các vị lãnh đạo đảm nhận vai trò đưa ra các quyết định để bảo vệ mối thống nhất, sự hợp tác và điều hành hoạt động của xí nghiệp.

Những người lao động độc lập thì tự nhận lấy các trách nhiệm, những mối ràng buộc và những rủi ro trong công việc. Họ đem lại sự uyển chuyển cho toàn tiến trình sản xuất và họ được đền bù thích đáng bởi nguyên tắc phụ trợ. Theo nguyên tắc này, cả nhà nước lẫn xã hội đều không thể hạn chế sáng kiến và sự lựa chọn tự do của của cá nhân (Huấn thị của Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin, Tự Do và Giải Phóng theo Kitô giáo, số 73).

Về phần mình, những công nhân trực thuộc các xí nghiệp không chỉ có quyền nhận được món tiền lương công bằng – tức bảo đảm mức sống cho bản thân họ và gia đình họ; nhưng một cách liên đới trách nhiệm, họ cũng tham gia vào các sáng kiến và các quyết định có ảnh hưởng đến đời sống của xí nghiệp, nghĩa là các quyết định có ảnh hưởng đến chính tương lai của họ. Hơn nữa, họ sẽ làm việc bằng một cung cách sao cho luôn luôn bảo đảm tôn trọng phẩm giá và khả năng sáng tạo của mình. Như vậy, họ có thể thực sự cảm nhận được vai trò làm chủ của mình trong môi trường lao động (Laborem exercens 14 – 15).

Chúng ta biết rằng mọi quyền đều gắn liền với bổn phận. Nguyên tắc công bằng và bình đẳng không chỉ chi phối đến các mối quan hệ giữa chúng ta với nhau, nhưng cũng chi phối cả đến sự đóng góp của mọi người vào thiện ích chung. Nếu chúng ta muốn một xã hội công bằng hơn và một cuộc sống có chất lượng hơn, mọi người chúng ta đều phải biết nhìn xa hơn những ích lợi nhất thời của riêng mình. Chúng ta phải sẵn lòng dự phần vào trách nhiệm chung, vì thiện ích của mọi người.

– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –

Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác

LIFT UP YOUR HEARTS

Daily Meditations by Pope John Paul II

+++++++++++++++++

Lời Chúa Trong Gia Đình

Ngày 31/01

Thánh Gioan Boscô, linh mục

2Sm 24, 2. 8-17; Mc 6, 1-6.

Lời Suy Niệm:  “Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao? Ông ta làm được phép lạ như thế nghĩa là gì? Ông ta không phải là bác thợ, con bà Maria…”(Mc 6,2-3)

          Sau một thời gian Chúa Giêsu xa quê, Người đi khắp nơi để rao giảng về Nước Thiên Chúa và kêu gọi người ta sám hối; Người đã làm nhiều phép lạ chữa lành nhiều bệnh nhân… Nhưng khi Người trở về quê hương của Người, thì người dân ở đây chỉ xem Người là một người tầm thường (là bác thợ mộc). Với cách đón nhận Người như thế, nên dân thành Nadarét đã không được hưởng điều tốt lành mà Người muốn trao ban.

Lạy Chúa Giêsu. Trước cách đón tiếp Chúa của dân thành Nadarét. Chúa cho chúng con biết: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi.” Nên họ đã không nhận lãnh được một ơn lạ nào của Chúa. Ngày hôm nay mỗi người chúng con cũng đang được đón Chúa hằng ngày qua Bí Tích Thánh Thể, khi chúng con tham dự Thánh Lễ. Xin cho mỗi người trong chúng con đây, đừng thờ ơ, lo ra, nhưng biết thân thưa với Chúa những gì đang liên quan đến bản thân và gia đình của mình, và lắng nghe tiếng Chúa, để đón nhận những ơn lành mà Chúa muốn trao ban. Amen.

Mạnh Phương

+++++++++++++++++

Gương Thánh Nhân

Ngày 31-01: Thánh GIOAN BOSCÔ

Linh mục (1815-1888)

Ngày 16 tháng 8 năm 1815, Gioan chào đời trong một túp lều tranh thuộc tỉnh Turinô. Cha Ngài qua đời lúc Ngài được hai tuổi. Mẹ Ngài là bà Magarita một mình nuôi nấng ba người con trai. Bà tập cho con quen với công việc nặng nhọc, với đời cầu nguyện. Bà thường lập lại với các con bà: – Chúa thấy hết, Chúa thấy hết.

Và con cái bà biết rằng chính nhờ tình yêu mà Người ta làm đẹp lòng Chúa, Gioan sau này sẽ nói: – Nếu tôi trở thành linh mục đó là nhờ mẹ tôi.

Cậu bé đã tỏ ra có ơn gọi làm tông đồ. Ngoài đồng cỏ, Ngài đã đổi phần bánh ngon miệng của mình lấy mẩu bánh đen của một mục đồng nghèo. Mẹ Ngài trách cứ Ngài vì đã làm bạn với những người xấu. Gioan đáp lại: – Khi con chơi với chúng nó, chúng nó bớt khùng hơn.

Lúc chín tuổi, Gioan đã có một giấc mơ lạ lùng: một đám đông trẻ con tinh nghịch vây quanh Ngài, chúng nó nói phạm thượng. Bất chợt chúng hiện hình thành bọn lang sói. Nhưng đức Trinh Nữ đã nói với Gioan: – Đừng dùng bạo lực, nhưng hãy ngọt ngào nếu con muốn chiếm được tình nghĩa với chúng.

Ngài còn nói: – Đó là môi trường làm việc cùng con. Sau này con sẽ làm cho con cái mẹ, điều Mẹ sắp làm cho những con thú này.

Và rồi những con vật dữ tợn trên biến thành chiên ngoan Gioan đã kẻ lại giấc mơ trên. Một người anh đã nói với Ngài: – Mầy sẽ là thằng chăn chiên. Và người anh khác nói tiếp: – Hay là tướng cướp.

Vì tình yêu Chúa, cậu bé tưởng tượng ra mình là một thằng múa rối. Ngày Chúa nhật bọn trẻ xếp vòng tán thưởng nhà nhào lộn và leo giây đại tài, cha mẹ chúng, cũng tới nữa, những lúc đổi trò, mọi người phải lần chuỗi. Nhà nhào lộn trở thành nhà giảng thuyết, lập lại bài giảng của cha sở.

Một linh mục già cho Gioan cuốn sách văn phạm latinh và dạy Gioan học. Một trong các anh ghen tỵ. Gioan ôm sách đi tìm việc làm trong một nông rại. Hai năm sau trở về nhà, Gioan phải chân không cuốc bộ hai mươi cây số ngàn để tới trường học mỗi ngày. Sau này ở trường Chieri, Ngài làm gia nhân khi có giờ rảnh để khỏi tốn tiền mẹ. Ngài thành lập một hội vui để lôi kéo bạn bè vào đường thiện hảo, lành mạnh.

Gioan được thụ phong linh mục. Theo phong tục Italia, người ta gọi Ngài là Don Boscô. Mẹ Ngài đã nhắn nhủ: – Đùng lo nghĩ tới mẹ nữa mà chỉ cầu nguyện cho mẹ thôi. Lo lắng duy nhất của con là phần rỗi các linh hồn.

Ngài theo học ở Turinô, viếng thăm các tù nhân và đã kinh ngạc khi thấy bao nhiêu là thanh thiếu niên ở đó, thấy trong các đường phố những đứa trẻ này bị bỏ mặc cho sự cùng khổ và tật xấu của chúng. Phương pháp cứu vớt tuổi trẻ này. Trong thánh đường, một ông quản xua đuổi đứa trẻ lêu lổng. Gioan nhắc nhở ông ta rằng: nó lại không muốn nhận biết Thiên Chúa tốt lành sao ?

Chính Don Boscô sẽ dạy nó đọc chữ và giải thích giáo lý cho nó. Hôm sau đứa trẻ trở lại với bạn bè của mình. Hội bảo trợ đầu tiên được thành lập. Trong hai tháng số trẻ lên tới cả trăm. Nhưng tụ họp chúng ở đâu ? Khắp nơi người ta đều xua đuổi chúng, và người ta lại không cho rằng Don Boscô điên rồi sao ? Ngài thuê một căn nhà trong khu phố nghèo đói nhất và phải trả tiển nửa tháng một lần, Mẹ Ngài lo lắng: – Con không có lấy một xu.

Thánh nhân trả lời: – Nếu mẹ có tiền lại chẳng cho con sao ? Mẹ có tin là Chúa quan phòng giầu có vô cùng lại không tốt bằng mẹ sao ?

Ngài tập họp những trẻ xấu nết lại và dọn cho chúng ruớc lễ vỡ lòng, khu vực đốn mạt sắp trở thành nơi có tinh thần Kitô giáo nhất thành phố. Ngài không hề mất tin tưởng. Không có gì làm Ngài nản chí được. Ngài dẫn về cho mẹ mình những đứa vô lại chiêu tập trong một hàng quán. Đêm về những đứa vô lại này biến mất, mang theo cả chăn nệm, Ngài đưa về một thàng nhãi bị trui đến tận xương tủy. Chẳng mấy chốc căn phòng đã có tới bảy đứa như vậy.

Don Boscô mua một căn nhà. Trẻ nội trú đông nhung nhúc. Một ngày sống bắt đầu với thánh lễ, sau đó là đi học hay tập nghề. Chính lúc này mà thánh nhân muốn giúp đỡ từ những người nghèo tới các công tử. Các nhà sắp được xây dựng khắp nơi, cả đến Mỹ Châu.

Đối với các trẻ em nam, Gioan đã thiết lập một dòng gồm các linh mục mang danh là Salésien, để kính thánh Phanxicô Salê mà Ngài đã lấy châm ngôn của thánh nhân làm của mình.

– Lạy Chúa xin cho các linh hồn vì phần còn lại có đang giá gì cho con đâu ?
Và thánh nhân khuyên nhủ hãy làm điều đó: – Trong vui tươi hoan hỉ không ngừng.

Cùng với chị thánh Maria Mazzarello, Ngài cũng thiết lập một dòng tu mang danh hiệu các nữ tu Đức Mẹ phù hộ. Công cuộc các chị cũng sẽ lan rộng trên khắp thế giới. Mệnh lệnh của Ngài là: – Hãy tin tưởng cầu nguyện và can đảm tiến tới không ngừng.

Don Boscô đi thực hiện các công trình tại Pháp. Các sự lạ xảy ra vô số trên đường Ngài đi qua. Ơ Marseille Ngài gặp một đứa trẻ bệnh hoạn, Ngài bảo nó đọc một kinh kính Mừng và chữa lành cho nó. Cả đứa trẻ lẫn mẹ nó khóc nức nở vì biết ơn. Dọc đường xe Ngài bị vây chặt đến độ người đánh xe đã phải kêu lên: – Kéo theo một con quỉ, còn hơn chở một vị thánh.

Ở Paris Ngài được tiếp đón tưng bừng. Đức Hồng y xin Ngài chúc lành. Thi sĩ Victor Hugô hai lần muốn gặp Ngài. Người ta ngạc nhiên khi thấy Ngài rất đơn sơ vui vẻ và hiền hậu. Ngài giảng dạy nhiều. Các viện mồ côi, trường huấn nghệ, hội bảo trợ mọc lên khắp nước Pháp. Người ta nói Ngài dừng lại một chút, Người trả lời rằng: lên thiên đàng ta sẽ ngừng, hoặc, ma quỉ không có ngừng. Don Boscô muốn đưa cả thế giới về với Chúa Kitô. Các giấc mơ cho Ngài biết rằng: ước muốn của Ngài sẽ được thực hiện. Trong một giấc mơ Ngài thấy những người hoang dại quỳ gối trước mặt các tu sĩ Salésiens. Suốt đời Ngài không dứt các giấc mơ, các lời tiê đoán và các thị kiến.

Gioan phải trả cho định mệnh siêu nhiên của Ngài bằng những dằn vặt mà chỉ mình Ngài biết được. Một vị Hồng y đã phải lo lắng thấy mặt Ngài xanh mét kiệt sức. Thánh nhân cho Ngài biết là ma quỉ quấy phá mình cả đêm. Nhưng những người thân cận không hề biết gì những đau khổ của Ngài. Ngài nói: – Vì hồn tôi đã uống những chén đắng, tôi có quyền thêm vào những lo âu của con cái tôi bằng một gợn sóng đau khổ không ?

Bọn ác nhân giận dữ vì việc lành Ngài đã làm, đã tìm cách sát hại Ngài. Nhưng sức mạnh của sự dữ không nghĩa lý gì. Vượt qua mọi trở ngại tưởng như không thể lướt thắng nổi, Don Boscô còn hoạt động nhiều hơn nữa. Y sĩ tuyên bố rằng: phép lạ lớn lao nhất là Don Boscô còn sống được.

Cuối cùng Gioan cảm thấy rằng: thân xác Ngài không còn chiến đấu nổi nữa. Ngài sắp qua đời. Ngài nói với các linh mục của mình khi họ tới thăm: – Hãy nói với các con cái của tôi rằng: tôi đợi chúng tất cả trên thiên đàng.

Ngài còn nói như lời dặn dò thân thiết nhất: – Hãy cổ võ việc siêng năng rước lễ và lòng tôn sùng Đức Trinh Nữ:

Người ta còn nghe thấy Ngài nói trong cơn mê sảng: – Mẹ, mẹ ơi, ngày mai… Mẹ hãy mở cửa thiên đàng cho con.

Thánh Don Boscô qua đời, đoàn con cái xếp hàng hôn bàn tay đã tận tình cứu giúp họ. Ngày 30 tháng giêng năm 1888.

(daminhvn.net)

+++++++++++++++++

31 Tháng Giêng 

Kỳ Quan Của Thế Kỷ 19  

Ngày 31 tháng 1, cách đây đúng một thế kỷ, thế giới mất đi một người mà ông Rattazzi, thủ tướng nước Italia, thời bấy giờ nổi tiếng là người chống báng Giáo Hội, đã phải thốt lên: “Ngài là kỳ quan vĩ đại nhất của thế kỷ thứ 19. Cả nước Pháp đã suy tôn Ngài như một vị Thánh Vinh sơn đệ Phaolô của thế kỷ”. Con người đó chính là Thánh Don Bosco. 

Thánh nhân chào đời năm 1815 tại miền Piemonte, thuộc mạn bắc nước Italia. Mẹ Ngài là bà Magarita mong ước cho Ngài được làm linh mục. Nhưng bà đã dặn dò con mình: “Mẹ đã sinh ra trong nghèo khó, mẹ đã sống trong nghèo khó, mẹ cũng muốn chết trong nghèo khó. Nếu con muốn làm linh mục để giàu có, mẹ sẽ không bao giờ bén mảng đến với con”. 

Don Bosco đã thực hiện lời khuyên của mẹ. Không những Ngài đã sống nghèo, nhưng chỉ sống với người nghèo, nhất là trẻ em nghèo. Ngài đã đi khắp hang cùng ngõ hẻm, thu nhặt những trẻ em lang thang đầu đường xó chợ. 

Nếu mãi đến năm 1848, Karl Marx mới đưa ra tuyên ngôn kêu gọi giới công nhân đứng lên, đoàn kết đấu tranh cho quyền lợi của họ, thì trước đó, Don Bosco cũng đã tranh đấu cho giới công nhân rồi. 

Thời của Thánh nhân, kỹ nghệ mới phát triển, nhiều vấn đề xã hội được đặt ra. Thánh nhân chủ trương không chỉ mang lại cho giới trẻ một nền giáo dục về mặt tinh thần hay tu đức, mà còn giúp cho giới trẻ một nghề nghiệp trong tay. Thánh Don Bosco đã được xem như là cha đẻ của những trường huấn nghệ ngsày nay. 

Phương pháp sư phạm được Thánh nhân đề ra nhắm đến sự đề phòng hơn là trừng phạt. Thay vì chữa trị những sai trái, tốt hơn là đề phòng để những sai trái không xảy ra. Trong tất cả mọi sự, tình thương và sự dịu dàng là cơ sở cho tất cả mọi cư xử của Thánh Don Bosco. 

Hiền lành và vui vẻ là hai nhân đức trội vượt trong sự thánh thiện của Thánh Don Bosco. Với sự hiền lành đầy cảm thông, Thánh nhân nhìn mọi người bằng chính cái nhìn của Chúa Giêsu. Cái nhìn đó muốn nói với tội nhân hay bất cứ một tâm hồn xấu xa nào rằng: “Bạn có một giá trị cao cả. Thiên Chúa vẫn tiếp tục yêu thương bạn. Bạn đừng ngã lòng”. 

Ði đôi với sự hiền lành chính là vui vẻ. Châm ngôn của Thánh Don Bosco chính là: Phụng sự Chúa trong vui tươi. Sự vui vẻ của Thánh Don Bosco là liều thuốc hữu hiệu nhất cho thời đại đầy ohiền muộn và chán nản của chúng ta. Niềm vui của Thánh nhân xuất phát từ một xác tín cơ bản trong Kitô giáo của chúng ta: Thiên Chúa là Tình Yêu. Do đó những người được Thiên Chúa yêu thương không thể nào buồn thảm được. 

Sứ điệp của Thánh Don Bosco vẫn luôn hợp thời, nhất là trong hoàn cảnh hiện tại của chúng ta. Giữa một xã hội mà tương quan con người được xây dựng trên thù hận, nghi kỵ, bon chen, giành giật, lừa đảo. Thánh Don Bosco nói với chúng ta rằng: Con người vẫn còn đáng thương yêu, vẫn còn đáng tôn trọng và tin tưởng. 

Giữa một xã hội mà sự buồn thảm đang ngự trị, Thánh nhân muốn đem lại cho chúng ta nụ cười của lạc quan. Nụ cười lạc quan đó chỉ có thể nở rộ khi con người còn tin tưởng ở Tình Yêu của Thiên Chúa. Giữa những mất mát từng ngày, Thánh Don Bosco mời gọi chúng ta hãy tìm kiếm lại mọi sự trong Tình thương của Chúa.

(Lẽ Sống)

++++++++++++++++++

Lời Chúa Mỗi Ngày

Thứ Tư – Tuần 4 – TN2

Bài đọc: Heb 12:4-7, 11-15; II Sam 24:2, 9-17; Mk 6:1-6.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phải có tình yêu với những người thân cận của mình.

Con người thường bị chi phối bởi ba tật xấu: tính ngoan cố, tính kiêu ngạo, và tính ghen tị.

Tính ngoan cố làm con người từ chối nhận ra sự thật và sự sửa dạy. Tính kiêu ngạo làm mối liên hệ giữa con người với Thiên Chúa và với tha nhân bị thiệt hại. Tính ghen tị làm con người không còn sáng suốt để nhận ra những điều hay lẽ phải của người khác.

Các Bài Đọc hôm nay tập trung trong những mối tương quan của con người và nêu bật sự quan trọng của tình yêu. Trong Bài Đọc I, năm lẻ, tác-giả Thư Do-thái ví mối liên hệ giữa Thiên Chúa và con người như mối liên hệ giữa cha và con. Như người cha phải sửa phạt con cái, Thiên Chúa cũng phải sửa phạt con người. Mục đích của việc sửa phạt không phải vì ghét bỏ nhưng vì yêu thương; để giúp con người có đủ bản lãnh đương đầu với những thử thách của cuộc đời. Trong Bài đọc I, năm chẵn, Thiên Chúa phải sửa phạt vua David vì tính kiêu ngạo của nhà vua, Vua đã cho kiểm kê dân số để xem tài năng của mình đã làm cho đất nước được hùng mạnh thế nào; vua quên đi người làm cho vương quốc được hùng mạnh chính là Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, Thánh Marcô tường thuật thái độ khinh thường và ghen tị của những người đồng hương với Chúa Giêsu. Họ đã không vượt qua được những thành kiến về nghề nghiệp và gia đình, để tin vào sự khôn ngoan và uy quyền của Thiên Chúa. Chúa Giêsu báo trước cho các ngôn sứ 3 nơi mà họ bị khinh thường: gia đình, họ hàng, và quê hương.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I (năm lẻ): Dạy dỗ và sửa phạt vì lo lắng cho tương lai của con.

1.1/ Hai kiểu mẫu giáo dục: Người tị nạn Việt-Nam chắc chắn đã nhiều lần bị giằng co giữa 2 kiểu mẫu giáo dục con:

(1) Kiểu giáo dục Âu-Mỹ: Không được dùng bạo lực với con nít như: mắng chửi, đe dọa, và đánh đòn. Phải dùng những cách để trẻ con nhận ra lỗi lầm của nó như đứng ra một nơi riêng và tạm thời không cho tham gia vào những sinh họat chung. Phải chăng những cách thức này hiệu quả cho tất cả mọi trẻ?

(2) Kiểu giáo dục Kinh Thánh và Việt-Nam: Tác-giả Thư Do-Thái khuyên: “Con ơi, đừng coi nhẹ lời Chúa sửa dạy, chớ nản lòng khi Người khiển trách. Vì Chúa thương ai thì mới sửa dạy kẻ ấy, và có nhận ai làm con thì Người mới cho roi cho vọt. Anh em hãy kiên trì để cho Thiên Chúa sửa dạy. Người đối xử với anh em như với những người con. Thật vậy, có đứa con nào mà người cha không sửa dạy?” Động từ Hy-Lạp dùng ở đọan này là “mastigo,w = đánh đòn; kỷ luật; trừng phạt.” Một người có thể cho cả 3 nghĩa đều thích hợp ở đây. Nhưng trong các Sách Khôn Ngoan và Sách Tiên Tri, các hình phạt của Thiên Chúa dành cho những người không tuân theo lệnh của Ngài, không phải chỉ đơn thuần là các cách thức giúp con người nhận ra lầm lỗi; nhiều lần các tác giả đã nói đến cây roi (Pro 10:13, 13:24, Isa 9:4), đổ máu, và ngay cả cái chết. Truyền thống Việt-Nam cũng theo truyền thống Kinh-Thánh khi nói: “Thương cho roi cho vọt. Ghét cho ngọt cho bùi.”

Người cha vô trách nhiệm là người cha không huấn luyện và sửa dạy con mình, và để mặc cho chúng muốn làm gì thì làm. Một đứa trẻ vô kỷ luật sẽ không thể thành công trên đường đời. Tương tự, cái đau khổ nhất của con người là khi Thiên Chúa để mặc họ muốn làm gì thì làm. Một khi Thiên Chúa để mặc, ma quỉ sẽ vào và thao túng người đó; họ sẽ trở thành nô lệ cho ma quỉ.

1.2/ Tâm lý của người bị sửa dạy: Đa số con người đều không muốn cho ai nói động đến, sửa dạy, và sửa phạt mình. Tác giả Thư Do-thái cũng nói lên điều này: “Ngay lúc bị sửa dạy, thì chẳng ai lấy làm vui thú mà chỉ thấy buồn phiền. Nhưng sau đó, những người chịu rèn luyện như thế sẽ gặt được hoa trái là bình an và công chính.” Mục đích của việc sửa dạy là nhắm tới lợi ích tương lai của đương sự. Chẳng hạn, khẩu hiệu huấn luyện các binh lính: “Thao trường đổ mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu.” Tương tự trong việc huấn luyện đức tin: “Bởi vậy, hãy làm cho những bàn tay bủn rủn, những đầu gối rã rời, nên mạnh mẽ. Hãy sửa đường cho thẳng mà đi, để người què khỏi trật bước và hơn nữa, còn được chữa lành.” Để con người có thể vượt qua mọi đau khổ của cuộc đời, đức tin con người cần được thử luyện như vàng thử lửa.

Hơn nữa, việc sửa dạy không phải chỉ nhắm tới cá nhân đương sự mà thôi, nhưng còn nhắm tới lợi ích của cộng đoàn, và những người đương sự sẽ có trách nhiệm nữa: “Anh em phải cố ăn ở hoà thuận với mọi người, phải gắng trở nên thánh thiện; vì không có sự thánh thiện, thì không ai sẽ được thấy Chúa. Anh em phải coi chừng, kẻo có ai lừng khừng mà mất ân sủng của Thiên Chúa, kẻo có ai trở nên rễ đắng nảy mầm, gây xáo trộn và do đó làm hư hỏng nhiều người.”

2/ Bài đọc I (năm chẵn): Lạy Đức Chúa, con đã hành động rất ngu xuẩn!

2.1/ Vua David hối hận vì đã cho kiểm tra dân số: Việc kiểm tra dân số tự nó không có gì là xấu; nhưng ý hướng của David là nguyên do làm cho việc kiểm tra thành xấu trước nhan Thiên Chúa. Vua David nghĩ ông là nguyên do của sự phát triển phồn thịnh của Israel. Chính vua David đã cảm thấy áy náy trong lòng sau khi đã kiểm tra dân số như vậy. Vua David thưa cùng Đức Chúa: “Con đã phạm tội nặng khi làm như thế. Giờ đây, lạy Đức Chúa, xin bỏ qua lỗi lầm của tôi tớ Ngài, vì con đã hành động rất ngu xuẩn.”

Đã phạm tội, cần phải được sửa phạt. Thiên Chúa cho David chọn hình phạt: “hoặc bảy năm đói trong toàn nước ngài, hoặc ba tháng chạy trốn trước mặt kẻ thù đuổi theo ngài, hoặc ba ngày ôn dịch.” Vua David không biết chọn điều nào, nên nói với ông Gath, người của Thiên Chúa: “Tôi lâm vào cảnh rất ngặt nghèo. Thà chúng ta sa vào tay Đức Chúa còn hơn, vì lòng thương của Người bao la, nhưng ước chi tôi đừng sa vào tay người phàm!”

2.2/ Vua David xin Đức Chúa phạt mình thay vì toàn dân: Đức Chúa giáng ôn dịch xuống Israel từ sáng hôm đó cho đến lúc đã định, và từ Dan tới Beer Sheba, có bảy mươi ngàn người trong dân đã chết. Khi thấy sự việc xảy ra, vua David thưa với Đức Chúa: “Chính con đã phạm tội, chính con có lỗi; nhưng đàn chiên đó đã làm gì? Xin tay Ngài cứ đè trên con và nhà cha con!”

Nhiều người sẽ đồng ý với David, vì tội ai làm người ấy chịu; chứ tại sao Thiên Chúa bắt người vô tội cũng phải chịu hình phạt. Điều con người dễ quên là cả tội và phúc đều mang tính cộng đoàn. Nếu mọi người đều phải chịu hình phạt do tội nguyên tổ, mọi người cùng được hưởng phúc do công nghiệp của Đức Kitô. Tội kiêu ngạo không chỉ gây thiệt hại cho đương sự, nhưng còn ảnh hưởng đến sự đoàn kết của gia đình, cộng đoàn, và xã hội. Thiên Chúa muốn cho vua David và mọi người chúng ta nhận thức rõ điều này; để biết nghĩ đến sự thiệt hại cho tha nhân khi chúng ta cố tình trong tính kiêu ngạo của mình.

3/ Phúc Âm: Chúa Giêsu bị khinh thị tại quê quán của Ngài.

3.1/ Họ nhận ra sự khôn ngoan và uy quyền của Chúa Giêsu: Khi họ nghe những lời giảng dạy của Chúa trong hội đường, và chứng kiến các phép lạ Ngài làm, một cách khách quan họ đã phải thốt lên: “Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì?” Thay vì truy tầm căn nguyên của những điều lạ lùng này, họ để thành kiến ảnh hưởng đến sự phê phán và cách đối xử của họ với Chúa Giêsu. Lý do sâu xa hơn là vì kiêu ngạo, con người không muốn ai hơn mình; nhất là những người ở địa vị thấp kém hơn mình về tuổi tác, gia thế, và hoàn cảnh xã hội.

3.2/ Họ khinh thường Chúa Giêsu vì 2 lý do:

(1) Nghề nghiệp: của Chúa Giêsu là thợ mộc. Cũng như nghề nghiệp đánh cá của các tông-đồ, nghề thợ mộc được coi như nghề lao động tay chân và ít học thức. Giảng dạy khôn ngoan không thể đến từ những người làm những việc này. Nói theo kiểu Việt-nam, “con vua thì lại làm vua, con bác xã chùa lại quét lá đa.”

(2) Gia tộc tầm thường: “Ông ta không phải con bà Maria, và là anh em của các ông James, Joses, Judah và Simon sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao?” Có lẽ Thánh Giuse đã qua đời lâu trước khi biến cố này xảy ra, nên không thấy họ nhắc tới Thánh Giuse, mà chỉ đề cập đến Đức Mẹ. Những tên được đề cập tới có lẽ là các anh chị em họ của Chúa. Họ có ý muốn nói: một người sinh ra từ một gia tộc tầm thường như thế, không thể nào làm được những công việc như Chúa Giêsu đã làm.

3.3/ Ba nơi ngôn sứ bị coi thường: Lẽ ra, “một người làm quan cả họ được nhờ;” nhưng khi cả họ không được nhờ, không phải vì cá nhân người làm quan, nhưng vì sự khinh thường của những người trong họ hàng. Chúa Giêsu trở về quê quán là để giảng dạy và giúp đỡ những người thân thuộc lối xóm; nhưng đứng trước thái độ khinh thường của họ, “Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó; Người chỉ đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ. Người lấy làm lạ vì họ không tin.” Chúa Giêsu để lại cho các ngôn sứ một bài học thực tế, họ sẽ bị khinh thường tại 3 nơi: (1) chính quê hương mình; (2) giữa đám bà con thân thuộc; và (3) trong gia đình mình.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

– Để có thể thành công trong cuộc đời, chúng ta cần phải được sửa dạy và chịu hình phạt. Tương tự, để đức tin của chúng ta có thể vượt qua những thử thách trong cuộc đời, Thiên Chúa cần sửa phạt những khi chúng ta lầm lỗi.

– Kiêu ngạo là tội được liệt kê đầu tiên trong “Bảy Mối Tội Đầu.” Chúng ta phải khiêm nhường nhận ra và tận diệt mọi mầm mống kiêu ngạo nếu có trong bản thân. Kiêu ngạo không chỉ hành hạ cá nhân, mà còn ảnh hưởng đến gia đình, cộng đoàn, và xã hội.

– Ghen tị làm chúng ta mù quáng và đối xử bất công với người khác. Để bảo toàn sự công bằng, chúng ta cần loại bỏ ghen tị và vui mừng với những gì người khác đã làm hay đạt được. Chúng ta cần có thái độ này nhất là với những người trong gia đình và cộng đoàn.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

****************