Ngày thứ tư (16-10-2019) – Trang suy niệm

15/10/2019

Lời Chúa Hôm Nay

Thứ Tư Tuần XXVIII Mùa Thường Niên Năm lẻ

BÀI ĐỌC I: Rm 2, 1-11

“Người sẽ trả lại cho ai nấy theo công việc họ đã làm, trước là những người Do-thái, sau là những người Hy-lạp”.

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.

Hỡi con người kia, hễ ngươi xét đoán, thì ngươi không thể chữa mình được đâu. Vì ngươi xét đoán kẻ khác thế nào, thì ngươi tự lên án mình như vậy: bởi lẽ ngươi cũng phạm điều ngươi lên án. Chúng ta đều biết Thiên Chúa căn cứ theo chân lý mà xét đoán những kẻ hành động như thế.

Hỡi con người kia, ngươi xét đoán những kẻ hành động thể ấy, mà chính mình ngươi cũng làm, ngươi nghĩ rằng: ngươi thoát khỏi án phạt của Thiên Chúa được sao? Hay là ngươi khinh thị lòng nhân hậu, nhẫn nại và khoan dung của Người? Ngươi chẳng biết rằng lòng nhân lành của Thiên Chúa phải thối thúc ngươi hối cải sao?

Thật bởi lòng ngươi chai đá, không chịu hối cải, ngươi chỉ tích trữ cho mình cơn thịnh nộ trong ngày thịnh nộ, ngày sẽ tỏ ra thẩm phán công bình của Thiên Chúa, Đấng sẽ trả lại cho ai nấy tuỳ theo công việc họ đã làm, vì hễ những ai bền đỗ làm lành, tìm kiếm vinh quang, danh dự và ơn bất tử, thì sẽ được sống đời đời; còn những ai ương ngạnh, không vâng phục chân lý, mà lại tin theo sự gian ác, thì sẽ gặp cơn thịnh nộ và giận dữ.

Hễ kẻ nào làm sự dữ, thì mắc phải gian nan phiền muộn, trước là những người Do-thái, sau là những người Hy-lạp: vì Thiên Chúa không thiên tư tây vị ai cả. Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA:  Tv  61, 2-3. 6-7. 9

A+B=Lạy Chúa, Chúa sẽ trả công mỗi người theo như việc họ làm (c. 13b).

A=Duy nơi Thiên Chúa, linh hồn tôi được an vui; do chính mình Người, tôi được ơn cứu độ. Phải, chính Chúa là Đá tảng, là ơn cứu độ của tôi, Người là chiến luỹ của tôi, tôi sẽ không hề nao núng. 

B=Nơi Thiên Chúa, linh hồn tôi ơi, hãy an vui, vì do Người, tôi được điều tôi trông đợi. Phải, chính Chúa là Đá tảng, là ơn cứu độ của tôi, Người là chiến luỹ của tôi, tôi sẽ không hề nao núng.    

A=Hỡi dân tộc, hãy trông cậy Người luôn mọi lúc, hãy đổ giốc niềm tâm sự trước nhan Người, vì Thiên Chúa là nơi ta nương náu.

A+B=Lạy Chúa, Chúa sẽ trả công mỗi người theo như việc họ làm (c. 13b).

ALLELUIA:  Mt 4, 4b

– Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra. – Alleluia. 

PHÚC ÂM:  Lc 11, 42-46

“Khốn cho các ngươi, hỡi những người biệt phái, và khốn cho các ngươi, hỡi những tiến sĩ luật”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa phán rằng: “Khốn cho các ngươi, hỡi những người biệt phái! Vì các ngươi nộp thuế thập phân, bạc hà, vân hương, và các thứ rau, mà lại bỏ qua đức công bình và lòng yêu mến Thiên Chúa: Phải thi hành những điều này, và không được bỏ những điều kia. Khốn cho các ngươi, hỡi những người biệt phái! Vì các ngươi ưa thích ngồi ghế nhất trong các hội đường, và ưa thích được chào hỏi ngoài phố chợ. Khốn cho các ngươi, vì các ngươi giống những mồ mả không rõ rệt, người ta bước đi ở trên mà không hay biết!”

Có một tiến sĩ luật trả lời Người rằng: “Thưa Thầy, Thầy nói như thế là Thầy sỉ nhục cả chúng tôi nữa”. Người đáp lại rằng: “Hỡi những tiến sĩ luật, khốn cho các ngươi nữa! Vì các ngươi chất lên người ta những gánh nặng không thể vác được, mà chính các ngươi dù một ngón tay cũng không động tới”. Đó là lời Chúa.

(thanhlinh.net)

++++++++++++++++++

16/10/2019 – THỨ TƯ TUẦN 28 TN

Th. Ma-ga-ri-ta A-la-cốc, trinh nữ  Lc 11,42-46

LỜI CHÚA ĐỔI MỚI CUỘC ĐỜI

“Các người nộp thuế thập phân về bạc hà, vân hương, và đủ thứ rau cỏ, mà xao lãng lẽ công bình và lòng yêu mến Thiên Chúa.” (Lc 11,42)

Suy niệm: Sứ mệnh loan báo Tin Mừng Cứu Độ của Chúa Giê-su không phải lúc nào cũng xuôi chèo mát mái. Có lúc người ta đón nhận và khen ngợi lời Ngài như “có uy quyền.” Thế nhưng, cũng có lắm khi người ta cho rằng lời ấy “chói tai.” Hôm nay một số người lại bảo rằng lời Ngài làm nhục họ. Để hiểu lời Đức Giê-su, ta phải đặt lời ấy trong một bối cảnh rộng lớn hơn: Ngài đến loan báo năm hồng ân, bao hàm cả ơn tha thứ. “Tội của con được tha” là Tin Mừng được loan báo cho mọi người. Ơn tha thứ của Thiên Chúa không áp đặt trên tội nhân, nhưng mời gọi họ mở lòng đón nhận tình yêu của Thiên Chúa. Những lời “chói tai” lại là lời khai quang và chuẩn bị tâm hồn trở nên mảnh đất tốt đón nhận ơn tha thứ.

Mời Bạn: Không ít lần bạn thấy Lời Chúa “chói tai”, từ đó ngại ngùng đọc và suy niệm Lời Chúa. Hôm nay Lời Chúa giúp chúng ta nhận ra điều Chúa muốn khi loan báo lời hồng ân. Quả thật, Lời Chúa vừa “vạch nát tâm can,” vừa có sức cứu độ.

Chia sẻ: Vì sao bạn ngại đọc và suy niệm Lời Chúa?

Sống Lời Chúa: Đọc lại đoạn Lời Chúa ngày hôm nay, và xét xem mình có vấp phải những lầm lỗi như Chúa vạch ra không, rồi tìm cách sửa đổi.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, xin giúp con yêu mến và chuyên cần suy niệm Lời Chúa. Ngay cả những lúc Lời Chúa mổ xẻ những lầm lỗi của con, xin cho con biết tri ân Chúa, và chân thành thưa với Chúa rằng chỉ có Chúa mới có những Lời ban sự sống đời đời. Amen.

(5 Phút Lời Chúa)

++++++++++++++++++

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên

16 THÁNG MƯỜI

Yêu Thương Bằng Con Đường Dâng Hiến

Lòng bác ái và sự hy sinh của Mẹ Tê-rê-sa, phát xuất từ tình yêu đối với Đức Kitô, đã trở nên một thách đố cho thế giới. Thế giới này vẫn thường được thấy như là một thế giới của ích kỷ và dục vọng, một thế giới đầy tham lam, đầy những đam mê danh lợi và quyền lực.

Đứng trước những sự dữ của thời đại chúng ta, chứng tá của Mẹ Tê-rê-sa nêu bật – không phải bằng lời nói mà bằng chính những hành động hy sinh cụ thể – giá trị siêu vượt của tình yêu Chúa Kitô, Đấng Cứu Độ chúng ta. Tình yêu này kêu gọi các tội nhân hoán cải và mời họ sống theo Chúa Kitô: “Mang niềm vui đến cho người nghèo” (Lc 4,18).

– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –

Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác

LIFT UP YOUR HEARTS

Daily Meditations by Pope John Paul II

+++++++++++++++++

Lời Chúa Trong Gia Đình

NGÀY 16/ 10

Thán Hedviges, nữ tu,

Thánh Margarita Alacoque, nữ tu

Rm 2, 1-11; Lc 11, 42-46.

LỜI SUY NIỆM: “Đức Giêsu nói: Khốn cho các ngươi nữa, hỡi các nhà thông luật! Các ngươi chất lên vai kẻ khác những gánh nặng không thể gánh nổi, còn chính các ngươi, thì dù một ngón tay cũng không đụng vào.”

          Chúa Giêsu đang nhắc nhở tất cả những ai đang hiểu biết; đang làm trưởng các cộng đoàn cần phải để ý đến những gì mình đòi hỏi nơi những thành viên trong nhóm, trong đoàn phải hy sinh cái này cái khác, phải thực hiện điều này điều nọ, còn chính mình thì lại không thực thi, không đóng góp mà lại đòi có một tổng kết tốt.

          Lạy Chúa Giêsu, chất gánh nặng trên vai người anh em là một tật xấu mà tất cả mỗi người trong chúng con đều đang mắc phải. Xin Chúa cho chúng con biết sửa mình, canh tân đời sống mình bằng Lời Chúa, để sống đức ái hầu giúp nhau trong việc thực thi Lời Chúa.

Mạnh Phương

+++++++++++++++++

Gương Thánh Nhân

Ngày 16-10

Thánh MAGARITA MARIA ALACOQUE

Đồng Trinh (1647 – 1690)

Thánh Magarita sinh ngày 22 tháng 6 năm 1674 tại Lauthecour miền Charolais. Ngài là con thư năm của ông Claude Alacoque, một viên chức triều đình. Khác với các trẻ em cùng tuổi chỉ ham chơi, Magarita dường như hiểu rằng chỉ có yêu mến Chúa mới là điều quan trọng. Biết được điều gì không đẹp lòng Chúa là Ngài bỏ ngay. Mới 4 tuổi, Ngài đã lần chuỗi Mân côi hàng ngày và thường lẻn vào rừng để suy gẫm cầu nguyện.

Lên 8 tuổi, Magarita gặp thử thách lớn lao. Cha Ngài từ trần. Không đòi được tiền nợ. Mẹ Ngài phải dẫn con về quê ngoại, sống với những người tham lam quê mùa. Họ rút tỉa gia tài của gia đình Ngài đến nỗi phải đi ở đợ. Magarita được gửi học tại tu viện thánh Clara. Nơi đây, Ngài được rước lễ lần đầu và khoảng 9 tuổi.

Magarita lại gặp một thử thách nữa vào năm 14 tuổi. Khi ấy Ngài ngã bệnh nặng. Nhưng rồi Ngài đã được chữa lành sau khi khấn hứa sẽ trở thành con Đức Mẹ. Khỏi bệnh Ngài bị cám dỗ sống đời vui chơi phù phiếm. Không chịu thỏa hiệp với nếp sống như thế, Ngài bị người chung quanh đối xử tàn tệ. Muốn đi dự lễ, Ngài phải mượn áo. Có những ngày Ngài bị bỏ đói. Khi mẹ lâm bệnh, Ngài phải đi ăn xin để chạy chữa cho mẹ. Dầu vậy, Ngài chỉ ham đọc truyện các thánh và muốn bắt chước các Ngài, sống đời hy sinh bác ái.

Biết Chúa gọi mình, Magarita cố gắng để mình đỡ bất xứng với ơn gọi. Nhân dịp năm thánh, Ngài xưng tội chung và đã mất 15 ngày để xét mình. Hai mươi tuổi, Ngài được thêm sức và nhận thêm tên thánh Maria. Sau nhiều chiến đấu cực nhọc, ngay với chính mình, tháng 6 năm 1671, Magarita vào dòng thăm viếng ở Paray-le-Monnical, sống với 40 nữ tu quý phái mà một số không có ơn kêu gọi:

Trong cuộc tĩnh tâm dọn mình khấn dòng, Chúa nói với Ngài: – Này là vết thương cạnh sườn Cha, nơi đây con hãy ẩn náu bây giờ và mãi mãi.

Ngày 6 tháng 11 năm 1672, Ngài khấn dòng. Ngài được Chúa Giêsu cho thấy một thánh giá phủ đầy hoa và nói: Đây là giường các bạn tình trinh khiết của ta nằm, dần dần hoa rụng xuống và chỉ còn lại những gai. Thị kiến này tiên báo cuộc đời đầy chông gai thánh nữ sẽ trải qua. Nhưng Ngài chỉ biết hiến thân cho Chúa “như một tấm vải căng trước mặt họa sĩ”. Ngài sẽ còn xuất thần và được nhiều thị kiến nữa.

Thị kiến đầu tiên trong bốn thị kiến quan trọng xảy ra vào dịp này, Chúa Giêsu tỏ trái tim Người ra: – Trái tim Cha cháy lửa yêu thương đối với loài người và cách riêng đối với con, đến nỗi không còn giữ trong lòng được nữa, ngọn lửa này con phải trải rộng ra.

Chúa Giêsu đã xin thánh nữ trái tim của Ngài và đặt vào lòng mình. Ngài cảm thấy như ở trong hỏa lò. Khi Chúa Giêsu trả lại trái tim, MAGARITA phải chịu mãi cơn đau đớn bên sườn và phải trích máu cho nhẹ bớt cơn đau.

Trong thị kiến thứ hai, thánh nữ viết: – Người quả quyết với tôi rằng: chúng ta phải tôn kính trái tim Chúa dưới hình thể trái tim con người.

Thị kiến thứ ba diễn ra ngày thư sáu đầu tháng nào đó không được rõ. Đức Kitô dạy Ngài rước lễ mỗi thứ sáu đầu tháng.

Những thị kiến này kéo theo một thứ đau đớn thân xác. Thánh nữ đều vui nhận hết. Tuy nhiên Ngài còn bị dằn vặt về tinh thần. Bề trên và chị em trong dòng cho rằng: Ngài bị ám ảnh vì bệnh hoạn, đến mùa thu năm 1674, Thiên Chúa hứa gửi một tôi tớ để trợ lực thánh nữ. Tháng 2 năm 1675, cha Claude la Colombiere khấn trọn tại Lyon. Ngay sau đó, cha được cử về làm bề trên dòng tên ở Paray, dưới sự ngạc nhiên của tất cả những ai đã theo dõi việc làm sáng giá của cha ở Paris.

Không hề có kinh nghiệm về những cuộc xuất thần, cha có trí khôn rất bén nhậy và bằng lòng với việc yêu mến Chúa Kitô trong “mây mù của sự bất tri”. Khi gặp Magarita, cha đã nói với mẹ Samaise: – Chị là một linh hồn ưu tuyển.

Cha đã xác quyết cho thánh nữ về đường lối của Ngài.

Thị kiến trọng đại nhất diễn ra trong tuần bát nhật kính Mình thánh Chúa năm 1676. Trước Thánh Thể trưng kính trên bàn thờ, thánh nữ đã nghe những lời này: – Này là trái tim đã yêu thương loài người không còn tiếc rẻ gì, đến độ mỏi mòn tiêu hao để làm chứng tình yêu đối với họ.

Và xin thánh nữ dành riêng ngày thứ sáu sáu tuần bát nhật kính Thánh thể, để tôn thờ trái tim Người. Hôm đó, người ta rước lễ và long trọng làm việc đền tạ. Cha Lolombière dạy thánh nữ viết ra tất cả các thị kiến của Ngài rước khi cha dời đi Luân Đôn .

Cuộc bách hại của cộng đoàn lên tới cao điểm ngày 20 tháng 11 năm 1677, Chúa đã đòi thánh nữ Magarita dâng mình làm hiến vật cho sự công thẳng của Chúa, để đền bù những tội phản nghịch cùng đức ái của cộng đoàn. Khi thánh nữ quỳ xuống để làm như vậy, thì mọi người nghĩ rằng: Ngài bị mất trí. Đêm hôm sau thật khó tin nổi. Ngài nói rằng: đau khổ trong đời gộp lại cũng không thể sánh nổi với những gì Ngài đã phải chịu đêm ấy.

Lễ lên trời năm 1678, mẹ Saumaise rời chức vụ. Ngày 17 tháng 6 mẹ Greyfié được Chúa quan phòng đưa lên để làm sáng tỏ vấn đề. Trắc nghiệm thánh nữ, mẹ thấy thánh nữ rất mực khiêm tốn. Mẹ còn quyết định rằng: thánh nữ phải được lành bệnh hoàn toàn trong một thời gian nhất định, để chứng tỏ rằng các thị kiến là chân thực.

Năm 1684, mẹ Greyjié rời Paray, một thế hệ các nữ tu trẻ xuất hiện. Magarita được chỉ định làm giáo tập. Ngày 20 tháng 6 năm 1685, lễ thánh Magarita nhằm ngày thứ sáu, Magarita dạy các tập sinh, thay vì tặng quà cho Ngài, hãy dâng cho Chúa một vinh dự. Họ dọn một bàn thờ nhỏ và đặt hình Trái tim bị thương tích có mão gai và lửa chung quanh. Tháng 6 năm 1686, các nữ tu tôn kính trái tim Chúa trong nguyện đường. Ngày 07 tháng 9 năm 1688, một nguyện đường nhỏ đầu tiên trong vườn được thánh thiến để kính trái tim.

Ngày 08 tháng 10 năm 1960, Magarita mang bệnh và ngày 17 tháng 10 năm đó Ngài từ trần, lúc 43 tuổi. Các nữ tu thấy Ngài trở nên xinh đẹp lạ lùng. Ngài được phong chân phước năm 1864 và tuyên thánh 1920.

*************************

Ngày 16-10

Thánh HEDVIGA

Nữ Tu (1174 – 1243)

Thánh nữ Hedviga sinh tại Bavaria vào khoảng năm 1174. Ngay từ hồi 4 tuổi, Ngài đã được gửi học tại tu viện. Lên 12 tuổi, Ngài kết hôn với Henri, bá tước miền Silêsia.

20 tuổi, thánh nữ Hedviga đã là mẹ của sáu người con, ba trai ba gái. Năm 1209, họ quyết định hiến thân cho Thiên Chúa để sống đời khiết tịnh nhưng vẫn chu toàn trách vụ thuộc bổn phận mình. Họ sống như anh em, lo cho con cái lẫn các gia nhân sống đạo đức mà không dung túng cho bất cứ một chuyện dèm pha nào. Mỗi ngày nữ bá tước nuôi cho 13 người ăn, để kính Chúa Giêsu và 12 tông đồ. Ngài mặc một áo nhặm bên trong các y phục thường ngày, khiến Ngài phải chịu nhiều hy sinh lớn lao.

Nhưng các đau khổ tinh thần còn lớn lao hơn, như xé nát lòng người. Vị bá tước dầu đáng kính nhưng lại có khuyết điểm là thương riêng Conrad, người con thứ hơn các người con khác. Ông coi Conrad như người kế vị mình. Sự thiên tư này đã là nguồn gốc gây nên mối thù oán… dữ dằn giữa người anh út với anh mình. Họ gây chiến đấu với nhau và Conrad bại trận. Sau đó ít lâu, Conrad từ trần trong tinh thần sám hối. Nhưng những tranh chấp tương tàn và những cái tang này đã làm cho vị bá tước còn tránh xa thế sư hơn nữa.

Thánh nữ Hedviga thiết lập một nhà dòng khổ tu ở gần Breslau… Gertrude, người con gái duy nhất còn sống cho tới khi thánh nữ từ trần sẽ làm bề trên tu viện này. Nơi đây các em gái mồ côi và nghèo túng tìm được chỗ dung thân, chúng được đào tạo để trở nên những bà mẹ tốt trong gia đình hơn là để theo đuổi ơn kêu gọi. Riêng thánh nữ Hedviga lại đóng vai trò người tôi tớ rửa chân cho các người phong cùi. Lời Ngài mang lại hạnh phúc cho những ai tới gần và gặp gỡ Ngài.

Trong một cuộc chiến, bá tước Henri bị bá tước miền Warzava cầm tù. Ong này từ chối mọi thỏa hiệp, để cứu cha, công tử Henri II muốn khởi binh. Nhưng thánh nữ Hedviga muốn tránh đổ máu nhiều hơn nữa, Ngài đích thân đến gặp kẻ chiến thắng. Gặp Ngài, ông ta bỗng dịu lại và chấp nhận thỏa hiệp. Vị bá tước được trả tự do. Nhưng vì vết thương quá trầm trọng, ông qua đời năm 1238.

Hedviga đau lòng, nhưng vâng ý Chúa, Ngài mặc áo dòng ở Treibnitz, và dù không tuyên bố lời khấn, Ngài trung thành với các bổn phận, dưới sự điều khiển của con mình là Gertrude. Làm những việc thấp hèn, phục vụ những người nghèo khổ, Ngài nói với các nữ tu: – Các chị là hôn thê của Chúa Giêsu, còn tôi chỉ là tôi tớ Người.

Sau ba năm goá bụa, thánh Hedviga còn chịu một nỗi thống khổ chót, đó là cái chết của Hênri II… Ông đã ngã gục trong cuộc chiến chống lại người Rartares. Thánh Nữ Hedviga đã linh cảm thấy trước về cái chết này. Một bản tường thuật ghi lại rằng, vào một buổi tối hôm khởi chiến, thánh nữ đánh thức một chị bạn và nói: – Demundis ơi ! chị biết, tôi đã mất con rồi. Đứa con yêu dấu đã xa tôi như con chim gãy cánh. Tôi sẽ không còn thấy nó trên trần gian này nữa.

Ba ngày sau, một nguồn tin xác quyết này, thánh Hedviga nói: – Đó là ý Chúa. Điều Chúa muốn và vui thỏa cũng phải làm cho chúng ta mãn nguyện.

Và vui mừng trong Chúa Ngài nói: – Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa đã ban cho con được những đứa con như vậy. Suốt đời nó thương mến con và không hề làm gì cho con đau lòng. Con muốn có nó trong đời. Nhưng con hết lòng chúc tụng Chúa về việc đổ máu của nó, khiến nó được kết hợp với Chúa trên trời là đấng tạo thành nên nó.

Thánh nữ vẫn tiếp tục theo đuổi con đường thăng tiến. Ngài đã trải qua những buổi cầu nguyện thâu đêm. Các sử gia còn ghi lại nhiều phép lạ thánh nữ đã thực hiện. Cuối cùng, Ngài được mạc khải cho biết trước giờ chết của mình.

Dầu không có gì trầm trọng, Ngài đã xin được lãnh các bí tích sau hết. Khi vừa rước Mình Thánh Chúa và cầu nguyện được hai tiếng: “Lạy Chúa, Lạy Chúa” thì Ngài từ trần. Hôm đó là ngày 15 tháng 10 năm 1243, năm 1267, nghĩa là 24 năm sau, Ngài được suy tôn lên bậc hiển thánh .

(daminhvn.net)

+++++++++++++++++

16 Tháng Mười

Xin Cho Chúng Con Lương Thức Hằng Ngày 

Hôm nay là ngày quốc tế về lương thực do tổ chức Lương Nông của Liên Hiệp Quốc đề xướng.
Nói đến lương thực, nhất là trong một quốc gia nghèo đói như Việt Nam, có lẽ tự nhiên, ai trong chúng ta cũng nghĩ đến cái đói trên thế giới.

Ðói không chỉ là một trạng thái cần ăn uống, nhưng được các chuyên viên về thực phẩm và sức khỏe định nghĩa như là một tình trạng thường xuyên của một người không đủ ăn để có thể có một cuộc sống lành mạnh. Danh từ chuyên môn thường được dùng để chỉ tình trạng này là dưới mức dinh dưỡng. Nạn nhân dễ thấy nhất của tình trạng này là các trẻ em của những nước nghèo.

Mỗi năm người ta tính có đến 15 triệu trẻ em chết vì nhiều nguyên do có liên quan đến tình trạng thiếu dinh dưỡng. Mỗi ngày, trên khắp thế giới, có khoảng 40 ngàn trẻ em chết vì đói. Số người chết vì đói ăn cũng tương đương với số thương vong nếu cứ ba ngày có một trái bom hạt nhân được ném xuống một vùng đông dân cư.

Có rất nhiều nguyên nhân đưa đến nạn đói kém. Người ta cho rằng nguyên nhân chính nằm trong chính sách kinh tế, chế độ chính trị, xã hội. Nhưng tựu trung, căn rễ sâu xa nhất vẫn là sự ích kỷ của con người. Nếu một phần mười những người giàu có trên thế giới biết san sẻ cho những người nghèo, thì có lẽ thế giới này không còn có những trẻ em chết đói mỗi ngày nữa. Nếu ngay cả trong một quốc gia, người ta biết dùng tiền bạc để mua cơm bánh cho con người hơn là đầu tư vào khí giới, thì chắc chắn sẽ không còn cảnh người chết đói nữa.

Tại một vài quốc gia kỹ nghệ đang chuyển mình để bước vào cuộc cách mạng kỹ nghệ lần thứ ba, người ta thường nói đến kỷ nguyên điện toán, thụ thai trong ống nghiệm… Thế nhưng, tại rất nhiều nơi trên thế giới, mỗi ngày vẫn có đến 40 ngàn trẻ em chết vì đói ăn… Thế giới của chúng ta quả là một nhân thể bệnh hoạn. Một nơi nào đó trong cơ thể, một số bộ phận phát triển một cách dư dật, một nơi khác, nhiều cơ phận đang chết dần chết mòn vì thiếu tiếp tế.

Có lẽ nhân loại chúng ta không chết đói cho bằng vì thiếu tình thương. Những người đang chờ chết cũng là những người đang chờ từng nghĩa cử yêu thương của đồng loại. Những người dư dật nhưng không biết san sẻ cũng là những người đang chết dần trong ích kỷ. Con người cần có cơm bánh để sống đã đành, nhưng con người cũng cần có tình thương để tồn tại. Kẻ đón nhận tình thương cũng được sống mà người san sẻ tình thương cũng được sống.

Chúng ta phải làm gì để được sống? Dĩ nhiên, chúng ta phải có đủ cơm bánh hằng ngày. Nhưng câu trả lời mà mỗi người Kitô phải tự nói với mình là: để được sống, tôi cần phải làm cho người khác được sống. Ðó là sự sống đích thực của chúng ta. Bởi vì ai sống trong tình yêu, người đó sống trong Thiên Chúa.

(Lẽ Sống)

++++++++++++++++++

Lời Chúa Mỗi Ngày

Thứ Tư Tuần 28 TN1

Bài đọc: Rom 2:1-11; Lk 11:42-46.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phải biết xét mình trước khi xét người.

Nhiều người có thói quen nhận xét và phê bình người khác; nhưng ít bao giờ chịu xét mình. Để có thể chừa bớt thói quen này, Giáo Hội khuyên con người năng xét mình và xưng tội thường xuyên. Khi con người năng xét mình và xưng tội, ngoài lợi ích nhận được ơn tha thứ của Thiên Chúa, hối nhân còn biết cảm thông với những yếu đuối và khuyết điểm của tha nhân: mọi người đều mang trong mình những yếu đuối và bất toàn; nếu mình dám xin ơn tha thứ từ Thiên Chúa, mình cũng phải tha thứ cho những người đã xúc phạm đến mình. Nhưng nếu con người không năng xét mình và xưng tội, họ cảm thấy thập toàn, và rất dễ nhìn xuống và phê bình tha nhân.

Các Bài Đọc hôm nay giúp chúng ta phải rất cẩn thận trong việc xét đoán tha nhân. Trong Bài Đọc I, thánh Phaolô khuyên các người Do-thái phải biết xét mình và cẩn thận trong việc xét đoán các Dân Ngoại vì Thiên Chúa không thiên vị một dân tộc hay một hạng người nào. Ngài cứ theo sự thật mà xét xử những ai đã làm điều đó: Do-thái cũng như Dân Ngoại. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu trách mắng các biệt-phái khi họ quá chú trọng đến việc nộp thuế thập phân thì là, rau húng; mà bỏ quên những điều quan trọng hơn như lẽ công bình và lòng yêu mến Thiên Chúa. Khi nhóm kinh-sư trách Chúa Giêsu đã đụng chạm đến họ, Ngài trách mắng luôn việc lạm dụng Lề Luật của họ. Các kinh-sư đã đối xử bất công với tha nhân khi phiên dịch Lề Luật: chất trên vai dân chúng những gánh nặng mà họ không muốn nhúng tay vào.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Khi bạn xét đoán người khác, mà bạn cũng làm như họ, thì bạn tự kết án chính mình.

1.1/ Bạn tưởng mình sẽ khỏi bị Thiên Chúa xét xử sao? Trình thuật hôm nay tiếp tục trình thuật tố tội của Dân Ngoại. Thánh Phaolô có ý muốn người Do-thái cũng phải cẩn thận xét tội của mình; chứ không phải chỉ căng miệng lên án các Dân Ngoại. Ngài muốn họ phải chú ý đến 3 điểm sau:

(1) Phải biết xét chính mình: Thánh Phaolô khuyên các người Do-thái: “Hỡi người, dù bạn là ai đi nữa mà bạn xét đoán, thì bạn cũng không thể tự bào chữa được. Vì khi bạn xét đoán người khác, mà bạn cũng làm như họ, thì bạn tự kết án chính mình.” Khi lên án người khác, đương sự tự đặt mình vào chỗ quan tòa mà kết tội người khác. Nếu đã hiểu biết mà kết tội người khác, mình đừng bao giờ vi phạm những lầm lỗi như vậy. Nếu mình vẫn ngoan cố phạm tội đó, mình sẽ không thể nào tự bào chữa được, vì đã tự kết tội và ra bản án cho mình. Ví dụ, một người Do-thái kết tội Dân-Ngoại đã không nhận ra và thờ phượng Thiên Chúa cho phải đạo là phải chết, họ cũng phải mang án chết đó nếu họ không thờ phượng Ngài cho đúng đạo làm con.

(2) Thiên Chúa xét xử công minh: Nhiều người Do-thái tự cho Thiên Chúa có hai tiêu chuẩn phán xét: một cho Dân Ngoại, và một cho người Do-thái. Thánh Phaolô tuyệt đối đả phá quan niệm này, và bênh vực sự công bằng của Thiên Chúa. Ngài nói: ”Chúng ta biết rằng Thiên Chúa cứ theo sự thật mà xét xử những ai làm những điều đó. Còn bạn, hỡi người xét đoán những kẻ làm những điều đó trong khi chính mình cũng làm như vậy, bạn tưởng mình sẽ khỏi bị Thiên Chúa xét xử sao?” Người đời có thể phán xét theo hai tiêu chuẩn; nhưng Thiên Chúa không bao giờ làm như thế; khi một người càng được hưởng đặc quyền như người Do-thái hay người tín hữu, họ càng phải biết sống tốt lành hơn.

(3) Đừng lạm dụng tình thương Thiên Chúa: Đứng trước tình thương bao la của Thiên Chúa, con người có thể có hai thái độ: hoặc cảm thấy xấu hổ và ăn năn trở lại, hoặc lạm dụng tình thương để ngày càng lấn sâu vào tội lỗi hơn, với hy vọng Thiên Chúa sẽ tha thứ hết. Đây là một trong hai tội phạm đến Thánh Thần và sẽ không được tha. Thánh Phaolô chất vấn những người có thái độ này: ”Hay là bạn coi thường lòng Chúa vô cùng nhân hậu, khoan dung, đại lượng, mà không nhận ra rằng: Thiên Chúa nhân hậu như thế là để thúc giục bạn hối cải sao? Thế nhưng bạn lòng chai dạ đá không chịu hối cải, và như vậy bạn càng làm cho cơn thịnh nộ của Thiên Chúa chồng chất trên đầu bạn, trong ngày Thiên Chúa nổi cơn thịnh nộ và biểu lộ phán quyết công minh.”

1.2/ Thiên Chúa sẽ thưởng phạt mỗi người tuỳ theo việc họ làm: Có nhiều người cắt nghĩa sai thánh Phaolô khi nhấn mạnh “con người nên công chính chỉ bằng niềm tin vào Thiên Chúa, sola fides” (Rom 3:21-22). Nhưng trước khi nói điều đó, Phaolô đã tuyên bố sự cần thiết của việc phải bền chí làm việc thiện trong trình thuật hôm nay: ”Ngày đó, Thiên Chúa sẽ thưởng phạt mỗi người tuỳ theo việc họ làm; những ai bền chí làm việc thiện mà tìm vinh quang, danh dự và phúc trường sinh bất tử, thì Thiên Chúa sẽ cho họ được sống đời đời; còn những ai chống Thiên Chúa mà không vâng phục chân lý và chạy theo điều ác, thì Người sẽ nổi trận lôi đình, trút cơn thịnh nộ xuống đầu họ. Người sẽ bắt mọi kẻ làm điều ác phải gian nan khốn khổ, trước là người Do-thái, sau là người Hy-lạp. Nhưng Người sẽ ban vinh quang, danh dự và bình an cho tất cả những ai làm điều thiện, trước là người Do-thái, sau là người Hy-lạp, vì Thiên Chúa không thiên vị ai.”

2/ Phúc Âm: Phải cẩn thận xét mình trước khi đoán xét tha nhân.

2.1/ Các người xao lãng lẽ công bình và lòng yêu mến Thiên Chúa: Là người lãnh đạo tinh thần, các người Pharisees giả sử phải biết đường và làm gương sáng cho dân chúng noi theo; nhưng họ đã không được như thế. Chúa Giêsu mời gọi họ hãy ngồi xuống xét mình về 3 điều:

(1) Phân biệt cái chính yếu và cái phụ thuộc: “Hỡi các người Pharisees! Các người nộp thuế thập phân về bạc hà, vân hương, và đủ thứ rau cỏ, mà xao lãng lẽ công bình và lòng yêu mến Thiên Chúa. Các điều này phải làm, mà các điều kia cũng không được bỏ.”

(2) Tính thích danh vọng bề ngoài: ”Hỡi các người Pharisees! Các người thích ngồi ghế đầu trong hội đường, thích được người ta chào hỏi ở nơi công cộng.”

(3) Tính giả hình: ”Các người như mồ mả không có gì làm dấu, người ta giẫm lên mà không hay.”

2.2/ Các người chất trên vai kẻ khác những gánh nặng không thể gánh nổi: Một người trong số các nhà thông luật lên tiếng nói: “Thưa Thầy, Thầy nói như vậy là nhục mạ cả chúng tôi nữa!” Các kinh-sư là những người hiểu biết Lề Luật; nhưng thay vì dùng Lề Luật để mưu cầu ích lợi cho dân; họ lại dùng Lề Luật để mưu cầu lợi ích cho chính bản thân họ.

Đức Giêsu thẳng thắn trách họ luôn: “Khốn cho cả các người nữa, hỡi các nhà thông luật! Các người chất trên vai kẻ khác những gánh nặng không thể gánh nổi, còn chính các người, thì dù một ngón tay cũng không động vào.” Ví dụ, họ ra luật để cho người khác giữ; còn họ thì có một tiêu chuẩn khác để khỏi phải giữ (luật trừ).

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

– Chúng ta đừng bao giờ xét đoán người khác, nếu họ không nằm trong quyền hạn của chúng ta. Khi phải xét đóan, chúng ta hãy có đủ bằng chứng để xét đóan cách khôn ngoan và nhân từ; vì đấu nào chúng ta đong cho tha nhân, Thiên Chúa sẽ đong lại cho chúng ta bằng đấu đó.

– Nếu muốn người khác thế nào, chúng ta cũng phải thi hành như vậy. Đừng bao giờ đặt ra hai tiêu chuẩn: một tiêu chuẩn dễ dàng cho mình, và một tiêu chuẩn khó khăn cho người khác.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

****************