Ngày thứ sáu (30-11-2018) – Trang suy niệm

29/11/2018

Lời Chúa Hôm Nay

Thứ Sáu Tuần XXXIV Mùa Thường Niên Năm chẵn

THÁNH ANDRE TÔNG ĐỒ

BÀI ĐỌC I: Rm 10, 9-18

“Lòng tin có là nhờ nghe, còn nghe thì dựa vào lời Đức Kitô”.

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.

Nếu miệng ngươi tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa và lòng ngươi tin rằng Thiên Chúa đã cho Người từ cõi chết sống lại, thì ngươi sẽ được rỗi. Quả thế, tin trong lòng thì sẽ được công chính, tuyên xưng ngoài miệng sẽ được cứu rỗi. Vì Thánh Kinh đã có nói: “Hễ ai tin vào Người thì sẽ không phải hổ thẹn”. Bởi lẽ không có sự phân biệt người Do-thái và Hy-lạp: Vì là cùng một Chúa của mọi người, Ngài rộng rãi đối với tất cả mọi người khẩn xin cùng Ngài. Vì mọi kẻ cầu khẩn Danh Ngài, đều được cứu độ.

Nhưng người ta kêu cầu thế nào được với Đấng mà họ không tin? Hoặc làm sao họ tin được Đấng họ không nghe nói tới? Nhưng nghe thế nào được, nếu không có người rao giảng? Mà rao giảng thế nào được, nếu không được ai sai đi? Như có lời chép rằng: “Cao quý thay chân những người rao giảng sự bình an, rao giảng tin lành!” Nhưng không phải mọi người đều suy phục Tin Mừng cả đâu. Vì Isaia nói rằng: “Lạy Chúa, nào có ai tin lời chúng con rao giảng?”

Vậy lòng tin có là nhờ nghe, còn nghe thì dựa vào lời Đức Kitô. Nhưng tôi xin hỏi: Phải chăng họ đã không được nghe đến? Quả thật, tiếng của những vị đó đã vang dội ra khắp địa cầu, và lời của những đấng ấy được truyền đến tận cùng thế giới. Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 18, 2-3. 4-5

A+B=Tiếng chúng đã vang cùng trái đất (c. 5a).

A=Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, thanh không kể ra sự nghiệp của Người. Ngày này nhắc nhủ cho ngày khác, đêm này truyền tụng cho đêm kia. – Đáp.

B=Đây không phải lời cũng không phải tiếng, mà âm thanh chúng không thể lọt tai. Nhưng tiếng chúng đã vang cùng trái đất, và lời chúng truyền ra khắp cõi địa cầu. – Đáp.

A+B=Tiếng chúng đã vang cùng trái đất (c. 5a).

ALLELUIA: Ga 9, 19

Alleluia, alleluia! – Chúa phán: “Các ngươi hãy theo Ta; Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành những ngư phủ lưới người ta”. – Alleluia. 

PHÚC ÂM: Mt 4, 18-22

“Các ông bỏ lưới mà đi theo Người”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, nhân lúc Chúa Giêsu đi dọc theo bờ biển Galilêa, Người thấy hai anh em là Simon, cũng gọi là Phêrô, và Anrê, em ông, cả hai đang thả lưới dưới biển, vì hai ông là ngư phủ. Người bảo hai ông rằng: “Các ngươi hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành những ngư phủ lưới người ta”. Lập tức hai ông bỏ lưới đó mà theo Người. Đi xa hơn một đỗi, Người lại thấy hai anh em khác là Giacôbê con ông Giêbêđê, và Gioan em ông đang vá lưới trong thuyền với cha là Giêbêđê. Người cũng gọi hai ông. Lập tức hai ông bỏ lưới và cha mình mà đi theo Người. Đó là lời Chúa

(thanhlinh.net)

++++++++++++++++++

30/11/2018 – THỨ SÁU TUẦN 34 TN

Th. An-rê, tông đồ

Mt 4,18-22

LINH ĐẠO THÁNH GIÁ

Chúa Giê-su bảo các ông: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá.” Lập tức họ bỏ mọi sự mà đi theo Người. (Mt 4,20)

Suy niệm: Qua lời giới thiệu qua Gio-an Tẩy Giả, Anrê đã “đến mà xem” nơi Chúa Giê-su ở và trở thành một trong hai môn đệ đầu tiên của Chúa. Đang là cột trụ kiếm sống của gia đình, An-rê đã không ngần ngại bỏ lại đàng sau tất cả mọi sự: gia đình, nghề nghiệp… để theo Chúa. An-rê đã sẵn sàng “vác thập giá mình mà theo Chúa” dù mãi sau này ông mới hiểu thập giá đó là gì: đó là làm chứng cho Chúa Ki-tô bằng cái chết trên thập tự giá giống như Thầy Chí Thánh, một cây thập tự hình chữ X, như truyền thống cho biết. Sự từ bỏ như vậy vẫn còn là lời mời gọi và là thách thức cho thời đại chúng ta, một sự từ bỏ mà ĐTC Bê-nê-đi-tô XVI gọi là “linh đạo thánh giá”, linh đạo chính yếu của Ki-tô Giáo – cho đi cả mạng sống để được Đức Ki-tô làm sản nghiệp cho đời mình. Nhờ linh đạo thập giá như thế, các nỗi đau thương của chúng ta đạt được ý nghĩa đích thực và mang lấy một giá trị cao quý.

Mời Bạn: Như hạt lúa miến gieo vào lòng đất bị thối đi sẽ trổ sinh nhiều bông hạt. Bạn học được gì nơi thánh An-rê qua mẫu gương của ngài: mau mắn theo Chúa, nhiệt thành rao giảng Lời Chúa, và chấp nhận chết trên thập giá để làm chứng cho Tin Mừng?

Sống Lời Chúa: Vác thập giá mỗi ngày bằng cách từ bỏ một thói quen xấu để cầu nguyện cho việc rao giảng Tin Mừng.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin dạy cho con biết noi gương thánh An-rê tông đồ: theo Chúa Giê-su một cách mau mắn, nhiệt tình giới thiệu Chúa cho những người mà con gặp gỡ, và sẵn sàng hiến dâng mạng sống con vì Danh Chúa.

(5 Phút Lời Chúa)

++++++++++++++++++

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên

30 THÁNG MƯỜI MỘT

Ngài Đến Để Phán Xét Kẻ Sống Và Kẻ Chết

Chúng ta biết về cuộc sinh hạ Chúa Giêsu trong đêm nhiệm mầu ấy ở Bê-lem. Chúng ta biết cuộc sống và cái chết của Người trên Thập Giá. Bằng lời Tin Mừng cứu độ của Người và, cuối cùng, bằng cái chết và cuộc Phục Sinh của Người, Người đã rao giảng “những gì công minh chính trực” trên mặt đất. Chúng ta hãy “đứng thẳng dậy và ngẩng đầu lên”. Vì với sự đến của Đấng Công Chính, với mầu nhiệm Vượt Qua của Người, ơn cứu độ của chúng ta được bảo đảm.

Mùa Vọng hướng chỉ về sự đến của Đấng Cứu Chuộc, của Con Người, Đấng đã sinh ra ở Bê-lem đêm ấy. Từ khoảnh khắc kỳ diệu ấy, Người tự tỏ lộ cho chúng ta thấy chính Người trong toàn bộ lịch sử nhân loại từ khởi đầu tới chung cuộc.

Người cho chúng ta thấy lịch sử loài người trên trái đất không phải chỉ là một dòng lịch sử hướng về sự chết. Lịch sử ấy có ý nghĩa của nó và dẫn về điểm hoàn thành mọi sự. Theo nghĩa đó, Mùa Vọng hướng chỉ một sự đến khác của Con Người, lần này trong tư cách là vị Thẩm Phán của hồi tận thời. Người đã đến để ươm mầm Tin Mừng qua cuộc Nhập Thể và cuộc Tử Nạn của Người. Người sẽ đến lần thứ hai để phán xét các dân tộc và thu hoạch hoa trái mà Người đã gieo trồng. Người sẽ đến để bóc trần những kín ẩn của mọi lương tâm và mọi cõi lòng vào cuối thời gian.

Như vậy, lịch sử con người trên trái đất không chỉ là một hành trình tiến về cái chết. Tiên vàn nó là một sự chuẩn bị cho sự thật của cuộc phán xét. Nó là một sự chuẩn bị cho sự sống viên mãn trong Thiên Chúa.

– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –

Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác

LIFT UP YOUR HEARTS

Daily Meditations by Pope John Paul II

+++++++++++++++++

Lời Chúa Trong Gia Đình

NGÀY 30-11

Thánh Anrê Tông Đồ

Rm 10, 9-18; Mt 4, 18-22.

LỜI SUY NIỆM: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các an hành những kẻ lưới người như lưới cá”, Lạp tức các ông bỏ chài lưới mà đi theo Người.

          Trong Ngày kính nhớ thánh Anrê Tông Đồ, cho chúng ta thấy những đức tính nơi thánh nhân, ngài luôn khiêm tốn đối với mọi người chúng quanh mình, kể cả với em mình là Phêrô, ngài chỉ biết đáp lại lời mời gọi của Chúa Giêsu với sự sắp đặt của Người trong vâng phục và chu toàn trách nhiệm của mình.

          Lạy Chúa Giêsu, chúng con đang tin rằng mỗi người chúng con ngay hôm nay, chính lúc này đây Chúa cũng đang mời gọi đi theo Chúa, để được Chúa huấn luyện, ban ân sủng để trở nên Tông Đồ của Chúa. Xin cho chúng con biết đáp lại lời gọi của Chúa cách mau lẹ, bởi vì ơn gọi luôn nhận được ân sủng kèm theo, để chúng con không đánh mất cơ hội lãnh nhận ân sủng từ Chúa.

Mạnh Phương

+++++++++++++++++

Gương Thánh Nhân

Ngày 30-11

Thánh ANRÊ TÔNG ĐỒ

(Thế kỷ I)

Anrê tiếng Hy lạp có nghĩa là mạnh mẽ can đảm. Thánh Anrê được vinh dự làm một trong số 12 tông đồ của Chúa Giêsu. Con của Gioana. Như em mình là Phêrô, Ngài làm thuyền đánh cá và không có gì khác ngoài chiếc thuyền. Như thế Ngài thuộc lớp người khiêm tốn được Chúa Giêsu yêu thương đặc biệt. Ngài vẫn sống tại làng Bethsaida nhỏ bé bên bờ biển Galilêa cũng gọi là hồ Giênezareth. Ngày ấy đang khi cùng với Phêrô đi thả lưới, Chúa Giêsu đã đi ngang qua và đưa lời gọi sẽ quyết định cuộc đời các Ngài: – Hãy theo tôi, tôi sẽ làm các anh thành các ngư phủ lưới người ta.

Đây không phải lần đầu Anrê đã gặp đấng cứu thế. Thỉnh thoảng Ngài có tới nghe Gioan Tẩy giả rao giảng trong sa mạc. Khi ấy Chúa Giêsu xuống Galilea và Gioan tẩy Giả đã nói: – Đây là Chiên Thiên Chúa.

Và ANRÊ có mặt ở đó với Gioan, đã biết được Người là Đấng thiên sai mong chờ. Gioan và ANRÊ lên đường theo Người xa xa vì họ cảm động và không dám tới gần. Nhưng Chúa Giêsu quay lại và nói với họ: – Các anh tìm chi vậy ?

Họ, những người chỉ tìm, chỉ muốn Chúa thôi đã thưa lại: – Thưa Thầy, thày ở đâu ?

Chúa Giêsu nói: – Hãy đến mà xem. Và cả hai đã ở với Chúa hôm ấy.

Khi trở về nhà ANRÊ đã nói với em mình: – Chúng tôi đã gặp được Đấng thiên sai.

Từ đó hai anh em đã bỏ chài lưới để tới gần Chúa Giêsu. Họ nghe Người và thần tính của Người dần dần rọi sáng tâm hồn họ. Họ đã tông thờ Đấng cứu thế ở trong lòng rồi.

Ở tiệc cưới Cana, Anrê đã thấy Chúa Giêsu biến nước thành rượu và lần đầu tiên thấy tỏ lộ vinh quang thần linh của Ngài. Thế là sau biến cố ấy Chúa Giêsu đã gọi hai anh em bên bờ biển Galilea và họ đã bỏ mọi sự mà theo Chúa.

Anrê đã rạng rỡ trong lòng mà tham dự vào cuộc chữa lành các bệnh nhân gặp thấy trên đường đi, việc Phúc âm những kẻ chết, việc Chúa hóa bánh ra nhiều để nuôi đoàn người đói lả vây quanh Chúa Giêsu. Chính Anrê đã nói: – Có một bé trai có năm chiếc bánh và hai con cá, nhưng bằng ấy thì thấm vào đâu đối với ngần này người (Ga 6,8 -9).

Và Ngài được thấy Chúa Giêsu tăng gấp số thực phẩm. Ở Gierusalem, Ngài còn cho Chúa biết rằng: lương dân đã xin với Philipphê cho được gặp Người. Ngài đã nghe loan báo các chân phúc, các dụ ngôn. Ngài đã có mặt trong bữa tiệc ly. Sau phục sinh, Ngài đã sung sướng gặp lại Thày chí thánh. Ngày lên trời, Ngài thấy Người tiến lên mây trời. Ngày hiện xuống, Ngài đón nhận Chúa Thánh Thần.

Sau những tường thuật trên của Phúc âm, người ta không biết gì chắc chắn nữa về Anrê. Các bản văn không có thẩm quyền nói rằng: Ngài đã góp phần Phúc âm hóa dân chúng miền Bithynia, Bontê và Galitia. Ngài bị bắt bên bờ Bắc hải và kết thúc cuộc đời tại Achaia. Lửa đức ái rực cháy trong lòng vị tông đồ. Người ta nói rằng: để cải hóa một tâm hồn, Ngài ăn chay 5 ngày. Đây là tục truyền kể lại cuộc tử đạo của thánh Anrê ở Taurida.

Êgêa, tổng trấn tỉnh đó cho biết vị tông đồ có mặt ở Patras, thủ phủ của ông, ông liền vội vã tới nơi: kẻ ngoại lai này muốn phá hủy đền thờ các thần minh ư ? Nhưng Anrê không sợ gì Egêa. Ngài đã nắm vững được chân lý. Ngài nói:- Tôn thờ loài người chỉ là dị đoan điên khùng. Ong đã lãnh quyền xét xử người ta, trước hết ông phải biết đến vị thẩm phán xét xử mọi người chúng ta ở trên trời và ông phải tôn kính ca ngợi Người.

Êgêa vặn lại: – Vị thẩm phán anh nói là Chúa Giêsu mà lời ông ta thường giảng dạy đã làm cho ông ta phải chết trên thập giá chứ gì ? Vậy nếu anh không dâng hương tế thần, anh cũng sẽ phải chết trên thập giá như vậy.

Không hề sợ sệt, Anrê như rạng rỡ vì hạnh phúc: làm sao Ngài để mất danh dự được đóng đinh vào cùng một đau khổ giá như thày mình được ? Khi bắt đầu những tra tấn đầu tiên, lòng dũng cảm còn tăng thêm, Ngài nói với Êgêa: – Cực hình cuối cùng ông đe dọa sẽ được tiếp liền bằng vinh quang bất diệt.

Khi thấy thập giá mình sẽ phải chết trên đó, thánh nhân hớn hở chào kính mà người ta thích lập lại lời chào ấy: – Ôi thánh giá tốt lành, thánh giá bấy lâu mong chờ, thánh giá nhiệt tình yêu mến, hãy đưa ta tới thầy chí thánh là Đấng đã nhờ Người mà cứu chuộc Ta.

Dịu dàng Anrê giang tay ra. Ngài bị cột bằng giây để cái chết tới chậm hơn. Hình phạt sẽ kéo dài hai ngày và người ta còn nghe Ngài tiếp tục rao truyền đức tin vào Chúa Giêsu Kitô. Dân chúngvây quanh Ngài với niềm thán phục đã xin quan tổng trấn tháo giây cho Ngài. Họ nói: – Hãy trả con người thánh thiện cho chúng tôi. Đã hai ngày bị treo, Ngài không ngừng nói những lời tốt lành, đừng giết con người yêu quí của Thiên Chúa.

Nhưng Anrê không muốn được trả về cuộc sống khốn cực trần gian này. Ngài cầu nguyện:
– Lạy Chúa Kitô hãy đón nhận con, ôi thầy con yêu, con biết con ước ao được gặp thầy, trong Thày mà con được thế này. Hãy nhận lấy hồn con, lạy Chúa Giêsu Kitô.

Và những người tham dự thấy linh hồn vị tông đồ trong hào quang đã bay về với Chúa tạo thành và cứu chuộc của mình.

Tương truyền thánh Anrê đã bị cột vào thánh giá đã có từ thế kỷ XII và chỉ vào thế kỷ XIV… người ta mới tưởng tượng thánh giá đó hình chữ X. Dụng cụ cực hình ấy được mệnh danh là thánh giá thánh ANRÊ .

 (daminhvn.net)

+++++++++++++++++

30 Tháng Mười Một

Bảo Chứng Của Trường  Sinh Bất  Tử 

Công chúa Touwan bên Trung Quốc từ trần vào khoảng năm 104 Trước Công Nguyên, nhưng được những người sinh sống đồng thời tin tưởng là bà sẽ trường sinh bất tử vì bà được an táng trong một quan tài bằng ngọc thạch. Chồng bà nhắm mắt lìa đời 9 năm trước đó cũng được an táng trong một quan tài tương tự.

Ðôi vợ chồng được an nghỉ trong hai ngôi mộ xây cất trong vùng đồi núi hoang vu. Mãi đến năm 1969 người ta mới khám phá ra và cả thế giới ngạc nhiên trước sự giàu sang của thời đại ấy được biểu lộ qua 2,800 của lễ được dâng tặng lúc cử hành lễ an táng, nhưng đặc biệt nhất là hai cái quan tài, mỗi cái gồm tất cả hai ngàn mảnh ngọc nhỏ được kết chung lại bằng những sợi chỉ bằng vàng.

Những người sinh sống vào thời đại ấy quan niệm rằng: vàng và ngọc thạch không bị thời gian làm hư  hại vì thế chúng ta bảo chứng cho sự trường sinh bất tử.

Trên ba vòng bán nguyệt của khung cửa chính ở nhà thờ chánh tòa Milanô bên Italia có khắc ba dòng chữ:

– Phía dưới hình một hoa hồng được chạm trổ tinh vi của một vòng bán nguyệt, người ta đọc được hàng chữ: “Mỗi hạnh phúc chỉ kéo dài trong khoảnh khắc”.

– Bên vòng bán nguyệt của khung cửa kia, dưới hình một cây thập giá có ghi hàng chữ: “Mỗi đau khổ chỉ kéo dài trong một khoảnh khắc”.

– Ở vòng nguyệt của khung cửa giữa dẫn vào lòng chính của vương cung thánh đường có khắc dòng chữ: “Chỉ có sự đời đời mới là quan trọng”.

Ở giữa một bên là quan niệm đi tìm thuốc tiên hay sử dụng quan tài bằng ngọc thạch để được trường sinh bất tử và bên kia là quan niệm cuộc đời con người chấm cùng bằng cái chết, những người Kitô hữu xây dựng cuộc sống vĩnh cửu bằng những giây phút hiện tại và tin tưởng rằng cái chết là ngưỡng cửa dẫn vào cuộc sống đời đời và chính cuộc sống này mới thực sự quan trọng.

Vì thế họ chọn thái độ “sống gửi thác về”. Họ thu nhặt những giá trị qúi như vàng ngọc bằng cách sống tốt, sống thật những giây phút hiện tại, bằng cách áp dụng “hai đạo luật vàng: mến chúa yêu người”, vì họ biết rằng chỉ có những gì được làm vì tình yêu mới có giá trị vĩnh cửu.

Vì thế họ quan niệm đời sống là một cuộc hành trình, phải luôn cất bước ra đi: nước mắt, nụ cười chỉ có giá trị tương đối, để mỗi ngày họ bắt đầu lại, mỗi ngày họ cất một bước chân mới đi về nhà cha. Năm phụng vụ đã gần kết thúc. Giáo hội mời gọi chúng ta tiếp tục sống, nhưng với chú tâm sống tốt, sống thật từng phút giây hiện tại vì chúng là những hạt cát, những viên gạch xây dựng cho cuộc sống mai sau.

(Lẽ Sống)

++++++++++++++++++

Lời Chúa Mỗi Ngày

Lễ Thánh Anrê Tông Đồ (Ngày 30 tháng 11)

Bài đọc: Rom 10:9-18; Mt 4:18-22.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Đẹp thay bước chân những sứ giả loan báo Tin Mừng!

Thánh Anrê Tông Đồ, con của ông Jonah hay John (Mt 16:17; Jn 1:42), sinh tại Bethsaida, miền Galilee (Jn 1:44). Ngài là anh em với thánh Phêrô (Mt 10:2; Jn 1:40). Cả hai anh em đều làm nghề đánh cá, và khi được gọi bởi Chúa Giêsu, hai anh em đang sống chung một nhà tại Capernaum (Mk 1:21, 29).

Tin Mừng Thứ Tư cho chúng ta biết Anrê lúc đầu là môn đệ của John Baptist, và sau lời làm chứng của thầy mình, Anrê đã đi theo Chúa Giêsu (Jn 1:35-40). Sau khi nhận ra Chúa Giêsu chính là Đấng Thiên Sai, ông vội vã giới thiệu Ngài cho Phêrô, em mình (Jn 1:41), và cả hai trở thành những môn đệ của Đức Kitô. Hai ông bỏ mọi sự để đi theo Chúa Giêsu (Mt 4:19-20; Mk 1:17-18; Lk 5:11).

Tên của hai anh em được liệt kê vào Nhóm Mười Hai Tông-đồ trong Tin Mừng Nhất Lãm và CVTĐ (Mt 10:2-4; Mk 3:16-19; Lk 6:14-16; Acts 1:13). Anrê luôn được kể là một trong bốn môn đệ đầu tiên. Trong Tin Mừng Nhất Lãm, Anrê chỉ được nhắc tới một lần cùng với Phêrô, Giacôbê và Gioan, khi các ông hỏi Chúa Giêsu về ngày mà Đền Thờ Jerusalem bị phá hủy. Trong Phúc Âm Gioan, Anrê là người được nhắc tới trong phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi 5,000 người ăn (Jn 6:8-9), và khi một số người Hy-lạp đến với Philip để xin cho họ gặp Chúa Giêsu, Philip đã chuyển lời của họ cho Anrê (Jn 12:20-22).

Khi các Tông-đồ bắt đầu nhận lệnh đi khắp tứ phương rao giảng Tin Mừng, thánh Jerome cho biết thánh Anrê lúc đầu đã đi rao giảng tại Cappadocia, Galatia, Bithynia, và trong vùng sa mạc Scythia; sau đó ngài tới Byzantium, Macedonia, Thessaly và Achaia. Truyền thống tin ngài bị đóng đinh bởi Aegeas, Thống Đốc Rôma, tại Patrae trong miền Achaia. Cuộc tử đạo của ngài xảy ra dưới thời hoàng-đế Nero (ngày 30 tháng 11 năm 60 AD). Di hài của ngài lúc đầu được giữ ở Constantinople, khi thành phố này bị chiếm bởi người Pháp vào đầu thế kỷ 13, đức hồng y Phêrô của Capua đã mang di hài của ngài về Ý và đặt trong thánh đường Amalfi. Thánh Anrê được tôn làm quan thầy của Sô Viết và Tô Cách Lan.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Tiếng các ngài đã dội khắp hoàn cầu, và thông điệp loan đi tới chân trời góc biển.

1.1/ Lời Kinh Thánh giúp con người nhận ra sự thật và tin tưởng nơi Thiên Chúa: Trình thuật hôm nay tiếp tục những gì thánh Phaolô đã trình bày trong những chương trước về đề tài con người được nên công chính là do bởi niềm tin vào Đức Kitô, chứ không do bởi việc giữ cẩn thận các Lề Luật. Ngay trong câu đầu tiên, thánh Phaolô đã trình bày về việc làm sao con người có thể tin tưởng nơi Thiên Chúa: “Vậy Kinh Thánh nói gì? Thưa: Lời Thiên Chúa ở gần bạn, ngay trên miệng, ngay trong lòng. Lời đó chính là lời chúng tôi rao giảng để khơi dậy đức tin.”

Thánh Phaolô muốn nhấn mạnh hai điều trong câu này: thứ nhất, Thiên Chúa là tác nhân chính, Ngài đã đặt Lời vào trong con người; thứ hai, Phaolô chỉ là người cộng tác với Thiên Chúa trong việc rao giảng để khơi dậy đức tin nơi người nghe. Phaolô trích dẫn Sách Đệ Nhị Luật 30:14 theo văn bản của MT. Có sự khác biệt giữa Bản Bảy Mươi và Bản MT: Bản Bảy Mươi có thêm câu “và ngay trên tay bạn;” có lẽ tác giả của Bản Bảy Mươi cũng muốn đến sự liên hệ giữa đức tin và hành động để biểu lộ đức tin. Theo Phaolô, con người phải tin Đức Kitô trong lòng và tuyên xưng ngoài miệng: Ngài đã được Thiên Chúa sai đến với con người để chịu chết và đã sống lại, thì mới được hưởng ơn cứu độ.

1.2/ Thiên Chúa thương xót tất cả những ai tin tưởng nơi Ngài: Ơn cứu độ của Thiên Chúa được mở rộng cho tất cả những ai tin và kêu cầu danh của Ngài; chứ không phải chỉ giới hạn trong vòng dân tộc Do-thái như nhiều người lầm tưởng. Phaolô trích dẫn các Sách Tiên Tri, Isaiah 28:16 trong câu 11, và Joel 2:32 trong câu 13, để nói lên sự thật này. Đây là điều hợp lý và chứng tỏ tình yêu Thiên Chúa dành cho mọi người. Phaolô kết luận: “Như vậy, không có sự khác biệt giữa người Do-thái và người Hy-lạp, vì tất cả đều có cùng một Chúa, là Đấng quảng đại đối với tất cả những ai kêu cầu Người.”

2/ Phúc Âm: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá.”

2.1/ Chúa Giêsu mời gọi 4 môn đệ đầu tiên đi theo Ngài: Chúa Giêsu mời gọi các ông hướng tới sứ vụ cao trọng hơn: mang ánh sáng chân lý của Thiên Chúa và ơn cứu độ đến cho con người. Thoạt nghe trình thuật của Matthew, chúng ta có thể thắc mắc: Làm sao 4 môn đệ đầu tiên này có thể đáp trả lời mời gọi của Chúa Giêsu cách dứt khoát và nhanh chóng như thế? Bốn ông đều chắc chắn đã có cơ hội nghe Chúa Giêsu rao giảng trong hội đường Capernaum và chung quanh vùng Biển Hồ Galilee, đã chứng kiến các phép lạ Ngài làm, đã nghe dân chúng bàn tán về Ngài… Tất cả những điều này làm các ông phải suy nghĩ nhiều đêm, để rồi hôm nay, khi Ngài chính thức mời gọi: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá;” các ông mới có thể bỏ mọi sự đi theo Ngài.

2.2/ Các môn đệ phải dứt khoát đáp trả: Tuy thế, phản ứng dứt khoát của các tông đồ cũng làm cho chúng ta phải kinh ngạc. Nghề nghiệp không dễ bỏ vì nó liên quan đến vần đề sinh sống. Các ông chắc cũng thắc mắc: “Bỏ nghề rồi làm gì ăn?” Bỏ cha già ở lại trên thuyền với lưới rách còn khó hơn. Ơn sinh thành phải đền trả. Giờ đã đến lúc người cha già yếu phải sống nương tựa vào sức mạnh của con, thế mà hai người con khỏe mạnh đành lòng để cha già ở lại để bước theo Đức Kitô! Hơn nữa, chắc họ cũng phải nhìn lại con người mình và tự hỏi: Làm sao một dân thuyền chài có thể mang ánh sáng chân lý tới cho con người? Chính họ cần được ánh sáng chân lý chiếu soi trước hết.

Các ông có can đảm bước đi theo tiếng gọi của Chúa Giêsu vì các ông được soi sáng để nhận ra đâu là điều quan trọng trong cuộc đời. Các ông đi theo Chúa Giêsu vì các ông nhận ra có những điều trong cuộc đời cao trọng hơn là nghề nghiệp và sự đáp trả công ơn sinh thành bằng việc giúp đỡ phần xác. Chúa Giêsu phải có những điều có thể lấp đầy những nỗi khao khát trong tâm hồn các ông. Các ông thấy dân chúng lũ lượt và nhiệt thành đến với Chúa Giêsu để nghe Ngài dạy dỗ và chữa lành. Các ông cảm thấy hãnh diện được trở thành môn đệ của Chúa Giêsu, và việc tham gia vào sứ vụ cứu độ của Chúa phải là điều đáng ao ước hơn cả.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

– Trong cuộc đời, có những điều quan trọng hơn là công việc làm. Chúng ta hãy noi gương thánh Anrê để đi tìm sự thật, và sau khi đã tìm thấy, loan báo sự thật này cho mọi người.

– Trong tiến trình đem con người đến với Thiên Chúa, con người chỉ là khí cụ Thiên Chúa dùng để rao giảng. Để con người hoán cải và tin vào Thiên Chúa, con người cần ơn thánh hoạt động cả bên trong lẫn bên ngoài.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

****************