Ngày thứ năm (17-01-2019) – Trang suy niệm

16/01/2019

Lời Chúa Hôm Nay

Thứ Năm Tuần I Mùa Thường Niên Năm lẻ

BÀI ĐỌC I: Dt 3, 7-14

“Chúng ta hãy khuyên bảo nhau cho đến bao lâu còn nói được là Hôm Nay”.

Trích thư gửi tín hữu Do-thái.

Anh em thân mến, như Thánh Thần phán rằng: “Hôm nay nếu các ngươi nghe tiếng Chúa, các ngươi đừng cứng lòng như thời chống đối, như ngày thử thách trong sa mạc, nơi cha ông các ngươi đã thách thức Ta, dù đã chứng nhận và thấy các việc Ta làm trong bốn mươi năm; vì thế Ta đã phẫn nộ với thế hệ đó và phán rằng: Tâm hồn chúng luôn luôn lầm lạc, chúng không nhận biết đường lối của Ta, nên Ta đã thề trong cơn thịnh nộ rằng: Chúng sẽ không được vào nơi an nghỉ của Ta”.

Anh em thân mến, anh em hãy coi chừng, kẻo có ai trong anh em thiếu lòng tin, lìa xa Thiên Chúa hằng sống. Mỗi ngày anh em hãy khuyên bảo nhau cho đến bao lâu còn nói được là “Hôm Nay”, để không ai trong anh em bị tội lỗi mê hoặc trở nên chai đá. Vì chúng ta được đồng phần cùng Đức Kitô, nếu chúng ta giữ vững lòng tin thuở ban đầu cho đến cùng. Đó là lời Chúa. 

ĐÁP CA: Tv 94, 6-7. 8-9. 10-11.

Đáp: Ước chi hôm nay các ngươi nghe tiếng Ta: các ngươi đừng cứng lòng (c. 8).

Xướng: 1) Hãy tiến lên, cúc cung bái và sụp lạy, hãy quỳ gối trước nhan Chúa, Đấng tạo thành ta. Vì chính Người là Thiên Chúa của ta, và ta là dân Người chăn dẫn, là đoàn chiên thuộc ở tay Người. – Đáp.

2) Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người: Đừng cứng lòng như ở Mêriba, như hôm ở Massa, trong khu rừng vắng, nơi mà cha ông các ngươi đã thử thách Ta, họ đã thử Ta mặc dầu đã thấy công cuộc của Ta. – Đáp.

3) Ròng rã bốn chục năm, dòng giống này thực Ta đã ngán, khiến Ta thốt ra: dân lạc tâm địa chính thị bọn này, và bọn này không hiểu biết đường lối của Ta. Bởi thế, Ta đã thề trong cơn thịnh nộ: không khi nào chúng sẽ vào chốn nghỉ an Ta! – Đáp.

ALLELUIA: 1 Sm 3, 9

Alleluia, alleluia! – Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe; Chúa có lời ban sự sống đời đời. – Alleluia. 

PHÚC ÂM: Mc 1, 40-45

“Bệnh cùi biến mất và người ấy được sạch”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, có một người bệnh cùi đến van xin Chúa Giêsu và quỳ xuống thưa Người rằng: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể khiến tôi nên sạch”. Động lòng thương, Chúa Giêsu giơ tay đặt trên người ấy và nói: “Ta muốn, anh hãy khỏi bệnh”. Tức thì bệnh cùi biến mất và người ấy được sạch. Nhưng Người nghiêm nghị bảo anh đi ngay và dặn rằng: “Anh hãy ý tứ đừng nói gì cho ai biết, một hãy đi trình diện cùng trưởng tế và dâng của lễ theo luật Môsê, để minh chứng mình đã được khỏi bệnh”. Nhưng đi khỏi, người ấy liền cao rao và loan truyền tin đó, nên Chúa Giêsu không thể công khai vào thành nào được. Người dừng lại ở ngoài thành, trong những nơi vắng vẻ, và người ta từ khắp nơi tuôn đến cùng Người. Đó là lời Chúa

(thanhlinh.net)

++++++++++++++++++

17/01/2019THỨ NĂM TUẦN 1 TN

Th. An-tôn Pa-đô-va, viện phụ

Mc 1,40-45

LÒNG THƯƠNG XÓT CỨU ĐỘ

Người chạnh lòng thương, giơ tay đụng vào anh. (Mc 1,41)

Suy niệm: Những người phong, cư dân trên đảo Molokai, xôn xao khi thấy cha Đa-miêng đến chung sống với mình. Họ càng cảm động hơn khi biết vị linh mục trẻ này hoàn toàn lành lặn, chỉ vì yêu thương họ quá, nên tình nguyện đến chia sẻ và phục vụ họ ngay trên mảnh đất khốn khổ này. Ngài đã phá đổ hàng rào ngăn cách vô hình giữa người lành/người phong, da trắng/da mầu, Ki-tô hữu/ngoại đạo. Qua cử chỉ giơ tay đụng vào người phong, Đức Giê-su cũng xóa tan hố sâu ngăn cách xã hội thời đó đặt ra. Thật vậy, ngoài những đau đớn khủng khiếp nơi thân xác, người phong thời ấy còn phải chịu nỗi đau buồn cùng cực trong tinh thần khi bị cộng đồng ruồng bỏ. Đức Giê-su đã đụng đến người phong không chỉ bằng bàn tay, nhưng còn bằng lòng thương xót trước nỗi khổ của con người.

Mời Bạn: Nhìn ngắm mẫu gương của Đức Giê-su khi Ngài kết hợp tài tình giữa trái tim chạnh lòng thương và bàn tay giơ ra, đụng đến chữa lành, cũng như giữa lòng thương xót và quyền năng. Bạn được mời gọi vận dụng mọi nguồn lực để bày tỏ lòng thương xót.

Chia sẻ: Sống trong một thế giới đầy những hố sâu phân cách: giàu-nghèo, hạnh phúc-bất hạnh… bạn làm gì để vượt qua những hố sâu này ngõ hầu diễn tả lòng thương xót?

Sống Lời Chúa: Tập mở rộng vòng tay nhân ái đón nhận nhiều người, hơn là chỉ trong nhóm người quen thuộc.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, xin cho trái tim chúng con nên giống trái tim Chúa, để biết chạnh lòng thương trước đau khổ của người lân cận. Xin cho bàn tay chúng con cũng biết giơ ra đụng đến và làm vơi nhẹ nỗi đau của người khác.

(5 Phút Lời Chúa)

++++++++++++++++++

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên

17 THÁNG GIÊNG

Xây Dựng Một Bầu Khí Sống Hoạt Yêu Thương

Nhiều khía cạnh khác của đời sống gia đình cũng cần được quan tâm. Chẳng hạn, chúng ta không được phép quên quyền lợi của phụ nữ, trẻ em và người già lão. Và cũng có những quyền lợi của gia đình xét như một toàn thể – tôi đã đề cập đến những quyền này trong Tông Huấn Familiaris consortio. Tòa Thánh đã đúc kết những quyền này trong bản “Hiến Chương Quyền Của Gia Đình”.

Tất cả các quyền ấy đều rất quan trọng; nhưng ở đây tôi muốân đề cập một cách đặc biệt đến quyền được giáo dục của con cái. Trách nhiệm giáo dục con cái mình là một trách nhiệm rất quan trọng của cha mẹ – qua đó họ giúp con cái mình đạt đến mức trưởng thành đầy đủ trong tất cả các giá trị căn bản nhất của đời sống. Công Đồng Vatican II nêu rõ: “Vai trò giáo dục này quan trọng đến nỗi nếu thiếu sót thì khó lòng bổ khuyết được. Thực vậy, chính cha mẹ có nhiệm vụ tạo cho gia đình một bầu khí thấm nhuần tình yêu cũng như lòng thành kính đối với Thiên Chúa và tha nhân, để giúp cho việc giáo dục toàn diện con cái trong đời sống cá nhân và xã hội trở nên dễ dàng. Do đó, gia đình là trường học đầu tiên dạy các đức tính xã hội cần thiết cho mọi đoàn thể.” (GD 3).

– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –

Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác

LIFT UP YOUR HEARTS

Daily Meditations by Pope John Paul II

+++++++++++++++++

Lời Chúa Trong Gia Đình

NGÀY 17/1

Thánh Antôn Viện phụ

Dt 3, 7-14; Mc 1, 40-45.

LỜI SUY NIÊM: “Có người mắc bệnh phong đến gặp Người, anh ta quỳ xuống van xin rằng: ‘Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch’ Người chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh và bảo: ‘Tôi muốn, anh sạch đi!’ Lập tức, bệnh phong biến khỏi anh”

          Lời Chúa hôm nay gợi lên cho mỗi người trong chúng ta một phương cách cầu nguyện làm đẹp lòng Chúa, đó là phải có cung cách tôn kính và thờ phượng “quỳ xuống van xin” tiếp đến là phải tôn trọng ý muốn của Chúa: “Nếu Ngài muốn” và rồi mới trình bày và đặt trọn niềm tin trong lời cầu xin: “Ngài có thể làm cho tôi được sạch”. Đồng thời giúp chúng ta thấy được lòng nhân từ và yêu thương của Chúa “Tôi muốn, anh sạch đi.”

          Lạy Chúa Giêsu, Mỗi người trong chúng con ai ai cũng đang mắc phải những chứng bệnh trên thân xác cũng như trong tâm hồn. Xin cho chúng con có niềm tin vào sự chữa lành của Chúa, biết tôn kính thờ lạy và cầu xin theo Thánh ý Chúa. để được mạnh khỏe và phục vụ công ích cho Giáo hội và xã hội.

Mạnh Phương

+++++++++++++++++

Gương Thánh Nhân

Ngày 17-01: Thánh ANTÔN

Viện Phụ (Thế kỷ IV)

Thánh Antôn chào đời năm 250 tại Corma, gần Hieraclens, miền thượng Ai cập. Cha mẹ Ngài nổi danh giàu có lẫn đạo đức, đã lo lắng dạy dỗ Ngài sống đạo ngay từ nhỏ.

Khi được 18 tuổi thì cha mẹ Ngài qua đời. Sáu tháng sau ngày mất cha mất mẹ, tại một giáo đường, thánh nhân đã nghe đọc lời sách thánh: “Nếu con muốn nên trọn lành, hãy về bán hết của cải và đem phân phát cho kẻ nghèo khó rồi theo Ta” (Mt 19,21). Tưởng như Thiên Chúa nói riêng với mình đã về bán hết của cải và đem phân phát cho người nghèo khó.

Sau khi lo lắng gửi gấm em gái của mình cho một nữ tu viện, Ngài lui vào sa mạc để làm việc và cầu nguyện, Ngài theo đuổi một cuộc sống rất khắc khổ, chỉ ăn bánh với muối và uống nước ngày một lần sau khi mặt trời lặn. Để giữ được sự cô tịch trọn vẹn, Ngài còn ẩn thân vào một ngôi mộ bỏ trống. Thỉnh thoảng một người bạn mang bánh đến cho Ngài bánh đến cho Ngài nhưng ma quỉ đã tìm cách quấy phá để trục Ngài ra khỏi “căn phòng” và cuộc sống khắc khổ, chúng thường hay la hét và hiện hình kỳ quái. Phản ứng lại, thánh nhân thường cầu nguyện nhiều hơn và tăng gấp những việc hãm mình. Giận dữ vì các mưu mô bị thất bại, ma quỉ còn công khai hành hạ Ngài nữa.

Một ngày kia người bạn mang bánh đến, bỗng thấy thánh nhân nửa sống nửa chết, mình đầy thương tích. Nhưng khi vừa bừng tỉnh, thánh nhân liền chỗi dậy và la lớn: – Tôi còn sẵn sàng chiến đấu. Lạy Chúa, không, không gì có thể tách lìa con khỏi lòng yêu mến Chúa được.

Giữa những đau đớn vì các cuộc tấn công của ma quỉ, Ngài khinh bỉ trả lời: – Ồn ào vô ích. Dấu thánh giá và lòng tin tưởng vào Chúa là những thành trì kiên cố.

Thánh nhân luôn tin tưởng nơi Chúa. Ngày kia, được an ủi trong tâm hồn và cảm thấy là ma quỉ đã lùi bước, Ngài cầu nguyện: – Oi, lạy Chúa, Chúa ở đâu ? Sao Chúa không ở đây lau sạch nước mắt và thoa dịu những dày vò của con ?

Tiếng Chúa trả lờ i: – Cha ở gần con, cha giúp con chiến đấu. Bởi vì con đã chống trả lại ma quỉ, cha sẽ bảo vệ quãng đời còn lại của con. Cha sẽ làm cho tên con rạng rỡ trên trời.

Tràn đầy nghị lực, thánh nhân chỗi dậy tạ ơn Chúa. Muốn xa mọi người hơn nữa, Ngài vượt sông Nil đến trú ngụ trong một pháo đài hoang phế đầy những rắn rết. Nhưng sự thánh thiện của Ngài như một sức nam châm, vẫn thu hút nhiều người đến xin làm môn đệ. Thế là một phong trào ẩn tu nổi lên mạnh mẽ. Sa mạc mọc lên những mái tranh, từ đó không ngừng vang lên những lời kinh ca khen Chúa. Thánh nhân trở nên vị thủ lãnh của nếp sống ẩn tu.

Dầu vậy, thánh An tôn đã hai lần từ giã sa mạc. Vào năm 311 khi có cuộc bách hại của Alaximiô, Ngài nói: – Nào ta cùng đi chiến đấu với anh em ta.

Ngài lên đường đi Alexandria. Người ta thấy thánh nhân khích lệ các tù nhân nơi các trại giam, theo họ tới trước quan tòa và khuyên nhủ họ can đảm chết vì đạo, Ngài còn xuống hầm trú để an ủi các linh mục. Ngài thoát chết là một điều lạ lùng.

Cuộc bách hại chấm đứt được một năm, thánh nhân lại tìm về sa mạc. Số các môn sinh ngày càng tăng thêm đông. Sợ bị cám dỗ thành kiêu căng, và thấy gương các thánh tử đạo, thánh Antôn khao khát sống khắc khổ để đền tội. Ngài tiến sâu hơn nữa vào sa mạc. Sau ba ngày đi theo đoàn người buôn bán, Ngài dừng lại gần biển Đỏ, dưới chân núi Kolzim và dựng một căn lều vừa đủ để nằm để ở. Dân Bê-đu-anh (Bédouins) cho Ngài bánh ăn. Về sau các môn sinh tìm tới và mang cho Ngài một cái xuổng với một ít hạt giống, đây là nguồn gốc của tu viện thánh Antôn hay là Deir-el-Arat, một tu viện theo nghi lễ Cốp (Copte) ngày nay vẫn còn.

Lần thứ hai, thánh nhân trở lại Alexandria theo lời mời của đức giám mục Athanasiô, để chống lại lạc giáo. Dân chúng cả thành chen lấn nhau đi đón Ngài. Các lương dân cũng bảo nhau: – Chúng ta đi gặp người của Thiên Chúa.

Nhiều người cảm động vì những bài diễn thuyết và những phép lạ Ngài làm, đã xin lãnh bí tích rửa tội, người ta tưởng sẽ gặp một lão già tám mươi hoang dại, nhưng đã ngạc nhiên khi thấy Ngài rất lịch thiệp, xử dụng ngôn ngữ văn hóa và diễn tả tư tưởng rất uyên thâm. Các triết gia ngoại giáo ngạc nhiên hỏi Ngài:

– Ngài làm gì được trong sa mạc không có sách vở chi hết ? Thánh nhân trả lời:

– Thiên nhiên đối với tôi là một cuốn sách mở rộng.

Và người ta ngỡ ngàng về những điều thánh nhân đã khám phá được trong cuốn sách vĩ đại này của Đấng Tạo hóa.

Điều đáng kể dường như không phải những nhiệm nhặt Ngài theo đuổi, mà là tâm hồn trong trắng Ngài kết hiệp mật thiết với Chúa, Ngài nói: – Hư danh là kẻ thù nguy hiểm nhứt của chúng ta.

Danh tiếng của thánh Antôn lan rộng đến nỗi vua Constantinô và con cái ông đã viết thư tham khảo ý kiến Ngài, Môn sinh của Ngài hãnh diện lắm. Nhưng Ngài bảo họ:

– Đừng ngạc nhiên lắm khi thấy nhà vua là một con người viết thư cho một con người. Đáng ngạc nhiên là chính Thiên Chúa đã muốn viết luật cho loài người, và đã nói với chúng ta qua đức Giêsu Kitô .

Và trả lời cho lớp người vương giả ấy, Ngài dùng những lời cao thượng để khuyên họ biết khinh chê danh vọng mà nhớ tới cuộc chung thẩm.

Khi Ngài đã quá 90 tuổi, Thiên Chúa qua một thị kiến đưa ngài đến thăm thánh Phaolô ẩn tu trong sa mạc. Ngài còn được cho biết là sẽ sống tới tuổi 105.

Biết sắp tới giờ từ giã trần gian, Ngài đi thăm anh em Ngài lần chót. Ngài nói với họ về sự chết với niềm vui của người hồi hương. Họ đã khóc ròng, nhưng Ngài khuyên nhủ họ: – Hãy sống như phải chết mỗi ngày. Hãy cố gắng noi gương các thánh.

Thánh nhân trở lại núi với hai môn sinh. Trong căn phòng nghèo nàn của mình, Ngài đã phó linh hồn trong tay Chúa lúc 105 tuổi. Chúng ta biết được ân sủng giai thoại quý báu của đời thánh An tôn là nhờ thánh Athanasiô kể lại.

(daminhvn.net)

+++++++++++++++++

17 Tháng Giêng

 Cứ Ðể Yên Như Thế  

Trong một tác phẩm có tựa đề “Quyển Phúc Aâm thứ 5”, một tác giả người Italia là ông Mario Pomilio có tưởng tượng ra một mẩu chuyện như sau: Sau thời kỳ bách hại tại Roma, các tín hữu bắt đầu xây cất nhà thờ. Ðâu đâu người ta cũng thấy mọc lên nhà thờ. Tên của Ðức Mẹ và các Thánh được đặt cho các nhà thờ. Nhưng người ta vẫn chưa thấy có nhà thờ nào mang tên của Ngôi Lời. Thấy thế thánh Gioan mới đến báo cáo với Chúa Giêsu. Chúa Giêsu bèn ra lệnh cho thánh Phêrô khởi công xây cất một nhà thờ dâng kính cho Ngôi Lời.

 Con người đã có một thời được mệnh danh là người xây dựng vĩ đại của Giáo Hội mới đi rảo khắp nơi để thu tập vật tư. Thánh Mathêô đã cung cấp đá. Thánh Marcô mang vôi đến. Thánh Luca tặng những cây trụ lớn. Còn Thánh Gioan thì cúng đá cẩm thạch để làm bàn thờ và vàng để làm nhà tạm..

 Với tất cả những vật liệu cần thiết, Thánh Phêrô hớn hở bắt tay vào việc xây cất. Nhưng thời gian trôi qua, công sức đã tiêu hao quá nhiều mà người thợ xây Phêrô mới chỉ hoàn tất được việc đặt nền móng cho ngôi nhà thờ. Thấm mệt, vị thủ lãnh các tông đồ mới cầu xin Chúa: “Lạy Chúa, xin ban thêm cho con đủ sức để hoàn thành ngôi Nhà Thờ”.

 Chúa Giêsu mới trả lời: “Cứ để yên như thế. Ngươi hãy nhớ rằng cứ mỗi người đi ngang qua công trình này đều có thể mang đến một viên gạch, một ít vôi để xây tường và thế hệ này qua thế hệ khác, những cột trụ Ðền Thờ sẽ được dựng lên”.

 Có hai sự kiện xem ra tương phản nhau: tại Tây Phương, nhiều nhà thờ bị đóng cửa hoặc đem ra bán đấu giá, vì giáo dân không đủ cấp số hoặc không còn người lui tới nhà thờ. Trong khi đó thì tại Việt Nam, nhu cầu sửa chữa hoặc xây nhà thờ mới mỗi ngày một gia tăng.

 Có thể có hai quan niệm sống đạo đằng sau hai sự kiện ấy. Nhiều người Tây Phương cho rằng sống đạo là sống Công Bình và Bác Aùi, chứ không nhất thiết phải đến nhà thờ. Trong khi đó thì có người lại trách cứ rằng nhiều người Việt Nam chỉ giữ đạo hình thức, họ thích biểu dương tôn giáo, họ thích rước sách, họ đọc kinh làu làu, họ siêng năng đến nhà thờ, nhưng họ xem thường những đòi hỏi của Công Bình và Bác Aùi.

 Kỳ thực, giữ đạo trong nhà thờ mà không sống đạo bên ngoài nhà thờ là một thiếu sót, nếu không muốn nói là một thái độ giả hình mà Chúa Giêsu đã lên án gắt gao. Nhưng sống Công Bình và Bác Aùi mà không múc lấy sức sống từ việc gặp gỡ Chúa nơi nhà thờ cũng là một thiếu sót. Người Kitô đích thực múc lấy sức sống từ Ðức Kitô và diễn đạt sức sống ấy qua cuộc sống thường ngày. Có nhà thờ để cầu nguyện nhưng cũng có chợ đời để gặp gỡ Chúa. Người Kitô hướng về Trời cao, nhưng vẫn còn bám lấy cõi Ðất. Người Kitô đến nhà thờ, mà để quay trở lại cuộc sống. Và cuộc sống cũng sẽ trở nên cằn cỗi, nếu nó không được nuôi dưỡng bằng lương thực Thần Linh.

 “Hãy trở nên những viên đá sống động”. Ðó là ơn gọi của người Kitô chúng ta. Hãy trở thành những viên đá sống động không chỉ để xây dựng ngôi nhà thờ bằng gỗ đá, nhưng là để xây ngôi Ðền Thờ của cuộc sống. Cuộc sống có trở thành Ðền Thờ để gặp gỡ Chúa qua những gặp gỡ với tha nhân, qua những xây dựng Hòa Bình và yêu Thương, thì Ðền Thờ gỗ đá mới sống động.

(Lẽ Sống)

++++++++++++++++++

Lời Chúa Mỗi Ngày

Thứ Năm Tuần I TN, Năm lẻ

Bài đọc: Heb 3:7-14; Mk 1:40-45.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Bất tuân lệnh Thiên Chúa sẽ phải lãnh nhận hậu quả.

Trong cuộc sống, mọi người chúng ta đều nhận ra nguyên tắc: nếu muốn kết quả tốt đẹp, phải thi hành những điều kiện đòi hỏi; làm ngược lại sẽ phải lãnh hậu quả xấu. Ví dụ, để có thể lành bệnh, con người phải làm theo những gì bác sĩ căn dặn; nếu không, sẽ không khỏi bệnh. Để có thể thu thập kiến thức và đạt được điểm cao, học sinh phải lắng nghe giáo sư và viết lại những gì giáo sư nói; nếu nói ngược lại và không có lý do chứng minh, sẽ bị điểm xấu và có thể bị ở lại lớp.

Các Bài Đọc hôm nay xoay quanh việc con người phải vâng lời Thiên Chúa và thi hành những gì Ngài dạy, nếu muốn được Thiên Chúa săn sóc và ban ơn. Làm ngược lại những gì Thiên Chúa dạy là tự chuốc hậu quả xấu cho mình. Trong Bài Đọc I, Tác giả Thư Do-Thái dùng ví dụ của hai nhà lãnh đạo Moses và Aaron để răn bảo dân phải biết vâng lời Thiên Chúa mà tin vào Đức Kitô. Trong Phúc Âm, mặc dù đã được ngăn cấm bởi Đức Kitô, người phong hủi vẫn không vâng lời. Sự bất tuân của anh làm cho Chúa Giêsu không thể vào thành và dạy dỗ dân chúng được.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Chúng sẽ không được vào chốn yên nghỉ của Ta!

1.1/ Tâm hồn chúng cứ lầm lạc mãi, chúng nào biết đến đường lối của Ta:

(1) Biến cố trong sa mạc tại Meribah và Massah (Psa 95:7-11): Dân chúng đi trong sa mạc không có nước uống, họ kêu ca với Moses và Aaron hai lần. Lần đầu tại Marah (Exo 15:23), nước quá đắng họ không uống được, Thiên Chúa chỉ cho Moses lấy một khúc gỗ quăng xuống, nước liền hóa ngọt cho dân uống. Lần thứ hai tại Meribah (Exo 17:1-7, Num 20:1-13), dân chúng cũng kêu trách vì không có nước uống, Thiên Chúa bảo Moses và Aaron: “Hãy cầm lấy cây gậy, và cùng với Aaron, anh ngươi, triệu tập cộng đồng lại. Trước mặt chúng, các ngươi sẽ nói với tảng đá và chúng sẽ cho nước; từ tảng đá, ngươi sẽ làm cho nước chảy ra cho chúng, và ngươi sẽ cho cộng đồng và súc vật của chúng uống.” Ông Moses cầm lấy cây gậy ở trước nhan Đức Chúa, như Người đã truyền cho ông. Ông Moses và ông Aaron triệu tập đại hội trước tảng đá; ông Moses nói với họ: “Nghe đây, hỡi quân phản nghịch! Từ tảng đá này, chúng tôi có thể làm cho nước chảy ra cho các người được không?” Ông Moses giơ tay, lấy gậy đập vào tảng đá hai lần; nước trào ra lai láng cho cộng đồng và súc vật uống” (Num 20:8-11).

Nếu một người so sánh những gì Thiên Chúa nói với những gì ông Moses làm, người đó sẽ nhận thấy ông Moses đã không vâng lời làm theo những gì Thiên Chúa truyền: Chúa bảo ông “các ngươi sẽ nói với tảng đá.” Ông Moses lấy gậy đập vào tảng đá, không chỉ đập một lần mà tới hai lần. Vì thế, đây là bài học muôn đời cho dân Israel và cho chúng ta: Hễ Thiên Chúa bảo gì, hãy làm đúng như vậy. Tác giả Thánh Vịnh 95 nhắc lại cho dân chúng sự kiện này để họ biết tầm quan trọng của việc vâng lời Thiên Chúa: “Vì thế, như lời Thánh Thần phán: Ngày hôm nay, nếu các ngươi nghe tiếng Chúa, thì chớ cứng lòng như hồi chúng nổi loạn, như ngày chúng thử thách Ta trong sa mạc, nơi cha ông các ngươi đã từng dò xét mà thử thách Ta và đã thấy các việc Ta làm suốt bốn mươi năm. Vì thế, Ta đã nổi giận với dòng giống này, Ta đã nói: Tâm hồn chúng cứ lầm lạc mãi, chúng nào biết đến đường lối của Ta.”

(2) Hậu quả của việc không vâng lời: Bấy giờ Đức Chúa phán với ông Môsê và ông Aaron: “Bởi vì các ngươi đã không tin vào Ta để biểu dương sự thánh thiện của Ta trước mắt con cái Israel, nên các ngươi sẽ không được đưa đại hội này vào đất Ta ban cho chúng. Đó là mạch nước Meribah – nghĩa là gây chuyện – nơi con cái Israel đã gây chuyện với Đức Chúa, và Người đã biểu dương sự thánh thiện của Người giữa họ” (Num 20:12-13). Hai ông Moses và Aaron, mặc dù có công nhiều trong việc lãnh đạo dân Do-Thái ra khỏi Ai-Cập và cuộc hành trình suốt 40 năm trong sa mạc, đã không được lãnh đạo dân vào Đất Hứa vì biến cố bất tuân tại Meribah này. Thiên Chúa cho ông Moses thấy Đất Hứa rồi qua đời (Jos 1:1-2), nhưng đã chọn ông Joshua lãnh đạo đem dân vào Đất Hứa. Tác giả của Thánh Vịnh 95 cũng nhắc lại hậu quả này: “Nên Ta mới thịnh nộ thề rằng: chúng sẽ không được vào chốn yên nghỉ của Ta!”

1.2/ Đừng chối bỏ niềm tin vào Đức Kitô:

(1) Nếu chối bỏ Đức Kitô: Sau khi Tác-giả Thư Do-Thái dùng bằng chứng của Cựu Ước để chứng minh sự quan trọng của việc vâng lời Thiên Chúa, ông áp dụng điều này trong Tân Ước. Vì Đức Kitô được Thiên Chúa sai đến để dạy dỗ và mang ơn Cứu Độ cho dân, tất cả mọi người phải tin vào Ngài và thực hành những gì Ngài dạy. Ông viết: “Thưa anh em, hãy đề phòng, đừng để người nào trong anh em có lòng dạ xấu xa chối bỏ đức tin mà lìa xa Thiên Chúa hằng sống. Trái lại, ngày ngày anh em hãy khuyên bảo nhau bao lâu còn được gọi là ngày hôm nay, kẻo có ai trong anh em ra cứng lòng vì bị tội lỗi lừa gạt. Quả thế, chúng ta đã được thông phần Đức Kitô, miễn là chúng ta cứ giữ vững cho đến cùng căn bản của lòng tin đã có từ ban đầu.”

(2) Hậu quả của việc chối bỏ Đức Kitô: lìa xa Thiên Chúa hằng sống. Theo các tác giả của Tân Ước, điều kiện để được hưởng ơn Cứu Độ là tin vào Đức Kitô. Ai không tin vào Đức Kitô, sẽ không có sự sống đời đời; và như thế, sẽ không bao giờ được chung sống với Thiên Chúa.

2/ Phúc Âm: Người phong cùi được chữa lành, nhưng không nghe lời Thiên Chúa.

2.1/ Chúa Giêsu chữa lành người phong cùi: Có người bị phong hủi đến gặp Người, anh ta quỳ xuống van xin rằng: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.” Người chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh và bảo: “Tôi muốn, anh sạch đi!” Lập tức, chứng phong hủi biến khỏi anh, và anh được sạch.

2.2/ Lệnh truyền của Chúa Giêsu: Người nghiêm giọng đuổi anh đi ngay, và bảo anh: “Coi chừng, đừng nói gì với ai cả, nhưng hãy đi trình diện tư tế, và vì anh đã được lành sạch, thì hãy dâng những gì ông Moses đã truyền, để làm chứng cho người ta biết.” Mục đích tại sao Chúa Giêsu làm phép lạ là vì thương bệnh nhân và muốn cho họ nhận ra Ngài là Thiên Chúa, chứ không phải để được tán dương ca tụng. Nếu sau khi lãnh nhận phép lạ, mà vẫn không tin vào Ngài, phép lạ đó coi như đã không đạt được mục đích.

2.3/ Anh được chữa lành phong hủi không nghe lời Chúa Giêsu: Trình thuật kể: “Nhưng vừa ra khỏi đó, anh đã bắt đầu rao truyền và tung tin ấy khắp nơi, đến nỗi Người không thể công khai vào thành nào được, mà phải ở lại những nơi hoang vắng ngoài thành.” Chúng ta cứ thử tưởng tượng, nếu Chúa Giêsu là một ông vua hay nhà lãnh đạo quân sự, điều gì sẽ xảy ra cho anh phong cùi này?

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

– Chúng ta phải tuyệt đối tin tưởng vào Thiên Chúa và tuân giữ những gì Ngài truyền dạy.

– Vâng lời Thiên Chúa và các nhà lãnh đạo không phải là hèn kém hay nô lệ, nhưng chứng tỏ sự khôn ngoan của chúng ta; vì chúng ta biết họ khôn ngoan và yêu thương chúng ta.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

****************