Ngày thứ năm (13-06-2024) – Trang suy niệm

12/06/2024

Lời Chúa Hôm Nay

Thứ Năm tuần 10 TN. Thánh Antôn Pađôva

BÀI ĐỌC I: 1 V 18, 41-46

“Êlia cầu nguyện và trời đổ mưa” (Gc 5, 18).

Bài trích sách Các Vua quyển thứ nhất.

Trong những ngày ấy, Êlia tâu cùng Acáp rằng: “Xin bệ hạ lên ăn uống, vì tôi nghe có tiếng mưa to”. Acáp liền lên ăn uống. Phần Êlia, ông trèo lên đỉnh núi Carmel, cúi mình xuống đất, gục mặt vào hai đầu gối. Đoạn ông nói với người đầy tớ rằng: “Hãy lên đây nhìn về phía biển”. Người đầy tớ leo lên, đưa mắt nhìn, rồi thưa ông: “Không có gì hết.” Êlia lại nói với y: “Cứ xem lại bảy lần”. Đến lần thứ bảy (nó báo:) “Kìa, có đám mây nhỏ bằng vết chân người, từ biển kéo lên”. Êlia liền bảo: “Hãy lên tâu với Acáp chuẩn bị xe xuống gấp kẻo mắc mưa”. Đang lúc vua còn loay hoay thì bỗng trời tối om, mây bao phủ, gió thổi lên, trời đổ mưa như trút. Acáp lên xe đi Giêrahel. Tay Chúa phù hộ Êlia: Ông thắt lưng chạy trước Acáp cho đến khi tới Giêrahel.

Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 64, 10abcd. 10e-11. 12-13

Đáp: Lạy Chúa, Chúa đáng ca tụng trên núi Sion (c. 2a).

1) Chúa đã viếng thăm ruộng đất và tưới giội, Ngài làm cho đất trở nên phong phú bội phần. Sông ngòi của Thiên Chúa tràn trề nước, Ngài đã chuẩn bị cho thiên hạ có lúa mì.

2) Vì Ngài đã chuẩn bị như thế này cho ruộng đất: Ngài đã tưới giội nước vào những luống cày, và Ngài san bằng mô cao của ruộng đất, Ngài làm cho đất mềm bởi thấm nước mưa, Ngài chúc phúc cho mầm cây trong đất.

3) Chúa đã ban cho năm hồng ân, và lốt xe ngự giá của Người khơi nguồn phong phú. Đống đất hoang vu có nước chảy đầm đìa, và các đồi núi bận xiêm y hoan hỉ.

ALLELUIA: Ga 14, 29

All. All. – Chúa phán: “Nếu ai yêu Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy”. – All.

PHÚC ÂM: Mt 5, 20-26

“Bất cứ ai phẫn nộ với anh em mình, thì sẽ bị toà án luận phạt”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Nếu các con không công chính hơn các luật sĩ và biệt phái, thì các con chẳng được vào Nước Trời đâu. “Các con đã nghe dạy người xưa rằng: “Không được giết người. Ai giết người, sẽ bị luận phạt nơi toà án”. Còn Thầy, Thầy sẽ bảo các con: Bất cứ ai phẫn nộ với anh em mình, thì sẽ bị toà án luận phạt. Ai bảo anh em là “ngốc”, thì bị phạt trước công nghị. Ai rủa anh em là “khùng”, thì sẽ bị vạ lửa địa ngục. Nếu con đang dâng của lễ nơi bàn thờ mà sực nhớ người anh em đang có điều bất bình với con, thì con hãy để của lễ lại trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em con trước đã, rồi hãy trở lại dâng của lễ. Hãy liệu làm hoà với kẻ thù ngay lúc còn đi dọc đường với nó, kẻo kẻ thù sẽ đưa con ra trước mặt quan toà, quan toà lại trao con cho tên lính canh và con sẽ bị tống ngục. Ta bảo thật cho con biết: Con sẽ không thoát khỏi nơi ấy cho đến khi trả hết đồng xu cuối cùng!”

Đó là lời Chúa.

(Nguồn: UBPV/HĐGMVN, ấn bản 1973)

++++++++++++++++++

13/06/2024 – THỨ NĂM TUẦN 10 TN

Th. An-tôn Pa-đô-va, linh mục, tiến sĩ HT

Mt 5,20-26

CÔNG CHÍNH HƠN

“Thầy bảo cho anh em biết, nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pha-ri-sêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời.” (Mt 5,20)

Suy niệm: Các kinh sư và Pha-ri-sêu vốn được coi là có đời sống công chính mẫu mực. Họ thông hiểu Lời Chúa, và Lề Luật Mô-sê. Họ ăn chay, bố thí cho người nghèo, “giữ luật cha ông một cách nghiêm ngặt.” Họ là người cầm cân nẩy mực trong việc sống đạo của người Do Thái. Thánh Phao-lô không ngần ngại nhìn nhận mình là một người Pha-ri-sêu (x. Cv 22,3;26,5). Công chính như những kinh sư và biệt phái không phải là một điều dễ. Thế mà Chúa Giê-su dạy phải “ăn ở công chính hơn” thì mới được vào Nước Trời. Sống công chính hơn, không phải là tính đếm các giới răn mình tuân giữ (x. Mt 19,16-22), cũng không phải là so sánh mình với người khác (x. Lc 18,9-14). Tiêu chuẩn Ngài đưa ra là: “Anh em hãy nên toàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng Toàn Thiện” (Mt 5,49).

Mời Bạn: nhìn vào cuộc đời Chúa Giê-su để biết thế nào là sống công chính hoàn hảo. Đó là cuộc sống vì yêu mến mà vâng phục thánh ý Chúa Cha. Và vì thế, yêu thương nhân loại đến mức hiến thân đến hơi thở cuối cùng, đến giọt máu cuối cùng trên thập giá. Ngài mời gọi chúng ta là sống như Ngài: làm mọi việc không vì mong danh, cầu lợi, nhưng với vì yêu thương mà hiến thân phục vụ.

Chia sẻ: Cha Mark Link viết: “Những điều duy nhất ta còn giữ lại được là những gì ta đã cho đi”. Điều đó có giúp gì cho việc sống công chính hơn không?

Sống Lời Chúa: Làm một việc hy sinh phục vụ cách kín đáo.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin giúp con nên hoàn thiện như Chúa là Đấng Hoàn Thiện. Xin dạy con yêu người như Chúa yêu thương chúng con.

(5 Phút Lời Chúa)

++++++++++++++++++

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên

13 THÁNG SÁU

Hơn Hết Mọi Loài Thụ Tạo

Chúng ta vừa nới mô tả khuôn mặt độc đáo của con người trong tư cách là kẻ có thể hiểu biết và suy lý để đạt đến sự thật trong tận bản chất mọi sự. Con người có thể tự do chọn lựa làm điều đúng và tốt. Như vậy, con người được mời gọi nhận định những nhu cầu đích thực của đồng loại mình và thiết lập công lý. Và, thông thường, con người được mời gọi đảm nhận đời sống hôn nhân, trong đó người này tự nguyện trao hiến chính mình cho người kia và xây dựng một cộng đồng hiệp thông nhân vị. Chính mối hiệp nhất này là nền móng của gia đình và xã hội.

Nhưng tất cả không chỉ có vậy. con người còn được mời gọi đi vào trong một giao ước với Thiên Chúa. Quả thật, con người không chỉ là một tạo vật của Đấng Tạo Hóa mà còn là hình ảnh của Thiên Chúa. Mối quan hệ đặc biệt này giữa Thiên Chúa và con người làm cho việc thiết lập giao ước trở thành có thể. Chúng ta nhận ra giao ước này trong trình thuật về cuộc sáng tạo ở ba chương đầu Sách Sáng Thế. Chính sáng kiến đi trước của Thiên Chúa, Đấng Sáng Tạo, lập nên giao ước này. Và giao ước này vẫn không thay đổi xuyên qua lịch sử cứu độ cho đến khi Thiên Chúa thiết lập giao ước vĩnh cửu với con người trong Đức Giêsu Kitô.

– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –

Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác

LIFT UP YOUR HEARTS

Daily Meditations by Pope John Paul II

+++++++++++++++++

Lời Chúa Trong Gia Đình

Ngày 13/6

Thánh Antôn Pađôva, linh mục

Tiến Sĩ Hội Thánh

1V 18, 41-46.; Mt 5, 20-26.

Lời suy niệm: Nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ tại đó trước bàn thờ, đi làm hòa với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình.” (Mt 5, 23-24).

          Chúa Giêsu đang mong muốn nơi mỗi người Kitô hữu có một đời sống đúng là con cái của Tình Yêu. Tình yêu này chính Chúa Giêsu đã có lần nói: “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy” (Ga 15,9). “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.” (Ga 15,12). Với đời sống yêu thương này, sẽ giúp cho bản thân mình: biết thương cảm hơn, biết lẽ phải hơn, biết từ bỏ hơn, biết dịu dàng, nhân hậu hơn. Chính những điều này sẽ giúp cho mỗi người Kitô hữu biết sống và chu toàn Lề Luật “Yêu Thương” một cách tích cực và sẵn sàng hy sinh, biết dẹp bỏ tất cả mọi ước muốn trái ngược với đạo đức, để giúp con người đạt đến tình yêu trọn vẹn hơn.

          Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa cho tất cả chúng con luôn biết lắng nghe Lời Chúa dạy hôm nay, để sống tích cực và có trách nhiệm hơn, đối với tất cả những người anh em chung quanh. Amen.

Mạnh Phương

+++++++++++++++++

Gương Thánh Nhân  

Ngày 13-06: Thánh ANTÔN PADUA

Linh mục và tiến sĩ Hội Thánh (1195 – 1231)

Lòng tôn sùng rộng rãi và mạnh mẽ đối với thánh Antôn Padua thật lạ lùng so với những sự kiện đời Ngài. Ngài sinh năm 1195 có lẽ gần Lisbonne, với tên gọi là Fernandô. Cha Ngài là hiệp sĩ và viên chức tại triều đình hoàng đế Alphongsô thứ II, vua nước Bồ Đào Nha. Fernadô được gởi đi học trường nhà thờ chánh tòa tại Lisbonne. Nhưng vào tuổi 15, Ngài gia nhập dòng thánh Augustinô.

Sau hai năm tại nhà dòng, Ngài xin được chuyển về Coimbra vì bạn bè đến thăm quá đông. Tu viện Coimbra có một trường dạy Thánh kinh rất danh tiếng. Tám năm trời Fernadô nỗ lực học hỏi và đã trở thành học giả sâu sắc về thần học và kinh thánh.

1. Biến cố thay đổi

Ngày kia với nhiệm vụ tiếp khách, Ngài săn sóc cho 5 tu sĩ Phanxicô đang trên đường tới Morocco. Về sau họ bị tàn sát dã man và thi hài họ được đưa về Coimbra để tổ chức quốc táng. Fernadô mong ước hiến đời mình cho cánh đồng truyền giáo xa xăm.

Nôn nóng với ước vọng mới, Fernadô phải tiến một bước bất thường đầy đau khổ là rời bỏ dòng Augustinô để nhập dòng Phanxicô. Nhà dòng đặt tên Ngài là Antôn và chấp thuận cho Ngài tới Moroccô. Nhưng vinh dự tử đạo không được dành riêng cho Ngài. Ngài ngã bệnh và phải trở về nhà, Trên đường về, con tàu bị bão thổi bạt tới Messina ở Sicyly. Thế là An tôn nhập đoàn với anh em Phanxicô nước Ý. Có lẽ thánh nhân có mặt trong cuộc họp ở Assisi. Năm 1221, và gặp thánh Phanxicô ở đây. Ít lâu sau Ngài được gởi tới viện tế bần ở Forli gần Emilia để làm những công việc hèn hạ.

2. Biến cố hai.

Dầu vậy một biến cố bất ngờ khiến người ta khám phá ra khả năng đặc biệt của thánh nhân. Trong một lễ nghi phong chức ở Forli nhà giảng thuyết đặc biệt vắng mặt. Không ai dám thay thế. Cha giám tỉnh truyền cho An tôn lên tòa giảng. Antôn làm cho khán giả kinh ngạc. Người ta thấy ngay trước được rằng: Ngài là một nhà giảng thuyết bậc nhất. Hậu quả tức thời không Ngài được chỉ định làm nhà giảng thuyết trong cả Italia. Đây là một thời mà Giáo hội cần đến những nhà giảng thuyết hơn bao giờ hết để chống lại các lạc thuyết.

Kể từ đó nhà tế bần Forli không còn gặp lại Antôn nữa. Ngài du hành không ngừng bước từ miền nam nước Ý tới miên Bắc nước Pháp, hiến trọn thời gian và năng cực cho việc giảng dạy. Sự đáp ứng của dân chúng đã khích lệ Ngài nhiều, các nhà thờ không đủ chỗ cho người đến nghe. Người ta phải làm bục cho Ngài đứng ngòai cửa. Nhưng rồi đường phố và quảng trường đã lại chật hẹp quá và người ta lại phải mang bục ra khỏi thành phố tới những cánh đồng hay sườn đồi, nơi có thể dung nạp những 20, 30, 40 ngàn người đến nghe Ngài. Nghe tin Ngài đến đâu, thì nơi đó tiệm buôn đóng cửa, chợ hoãn phiên họp, tòa ngưng xử án. Suốt đêm dân chúng từ khắp hướng đốt đuốc tụ về. Dường như bất cứ ai một lần chịu ảnh hưởng của thánh Antôn thì không có gì chống lại được sự lôi cuốn bởi các bài giảng của Ngài.

3. Chủ trương.

Ngài thường mạnh mẽ chống lại sự yếu đuối của hàng tu sĩ qua những tội nổi bật trong xã hội đường thời như: tính tham lam, nếp sống xa hoa, sự độc đoán của họ. Đây là một giai thoại điển hình: khi Ngài được mời để giảng ở hội đồng họp tại Bourges, dưới sự chủ tọa của tổng giám mục Simon de Sully. Với những lời mở đầu “Tibi loquor cornute” (Tôi xin thưa cùng Ngài đang mang mũ giám mục trên đầu), thánh nhân tố giác vị giám mục mới Ngài tới, làm mọi thính giả phải kinh ngạc.

Cũng tại Bourges, nên ghi lại một phép lạ lừng danh về một con lừa thờ lạy bí tích cực trọng. Với một người Do thái không tin phép Bí tích Mình Thánh.

Thánh nhân nói: – Nếu con lừa ông cưỡi mà quỳ xuống và thờ lạy Chúa ẩn mình dưới hình bánh thì ông có tin không ?

Người Do thái nhận lời thách thức. Hai ngày ông ta không cho lừa ăn rồi dẫn tới chỗ họp chợ, giữa một bên là lúa mạch và bên kia thánh Antôn kiệu Mình Thánh Chúa đi qua, con vật quên đói quay sang thờ lạy Chúa.

Mùa chay cuối cùng thánh Antôn giảng ở Padua. Và người ta còn nhớ mãi về sau nhiệt tình mà thánh nhân đã khơi dậy. Dân địa phương đã không thể nào tìm ra thức ăn lẫn chỗ ở cho đoàn người đông đảo kéo tới. Nhưng sau mùa chay này, thánh nhân đã kiệt sức. Ngài xin các bạn đồng hành đưa về nhà thờ Đức Maria ở Padua để khỏi làm phiền cho chủ nhà trọ. Không nói được nữa. Ngài dừng chân ở nhà dòng Đức Mẹ người nghèo ở Arcella.

Tại đây, người ta đặt Ngài ngồi dậy và giúp Ngài thở. Ngài bắt đầu hát thánh thi Tạ ơn và qua đời giữa tiếng ca ngày 13 tháng 6 năm 1231.

(daminhvn.net)

+++++++++++++++++

13 Tháng Sáu

Hãy Mai Táng Chính Mình 

Một vị linh mục nọ đã có một sáng kiến rất ngộ nghĩnh để đánh động giáo dân trong giáo xứ. Một buổi sáng Chúa Nhật nọ, dân chúng bỗng nghe một lời rao báo như sau: “Một nhân vật trong giáo xứ vừa qua đời. Tang lễ sẽ được cử hành vào sáng thứ Tư tới”. Nghe lời loan báo ấy, cả giáo xứ nhốn nháo lên. Người nào cũng muốn biết con người quan trọng ấy là ai.

Ðúng ngày tang lễ, mọi người trong giáo xứ nườm nượp kéo nhau đến nhà thờ. Từ cung thánh cho đến cuối nhà thờ, không còn một chỗ trống. Người ta đến không phải để cầu nguyện cho người quá cố cho bằng để nhìn mặt lần cuối cùng con người mà ai cũng muốn biết.

Sau thánh lễ, vị linh mục đến mở nắp quan tài để cho mọi người đến chào từ biệt lần cuối cùng người quá cố. Ai ai cũng sắp hàng để nhìn cho kỳ được người chết. Nhưng ai cũng đều ngạc nhiên, bởi vì thay cho thi hài của người chết, mỗi người chỉ nhìn thấy trong quan tài một tấm gương và dĩ nhiên, khi cúi nhìn vào quan tài, mỗi người chỉ nhìn thấy dung nhan của mình mà thôi.

Chờ cho mọi người làm xong nghi thức từ biệt ấy, vị linh mục mới giải thích: “Như anh chị em đã có thể nhận thấy, tôi đã cho đặt vào trong quan tài một tấm kính. Con người mà anh chị em nhìn thấy trong quan tài không ai khác hơn là chính mỗi người trong chúng ta. Vâng, đúng thế, thưa anh chị em, mỗi người chúng ta cần phải mai táng chính mình… Thánh lễ vừa rồi đã được cử hành cho tất cả chúng ta”.

Bắt đầu sứ mệnh công khai của Ngài bằng cử chỉ dìm mình xuống dòng nước sông Giodan, Chúa Giêsu muốn loan báo cho mọi người thấy rằng Ngài đã vâng phục Ý Chúa Cha để đi vào Cái Chết và nhờ đó cứu rỗi nhân loại. Một cách nào đó, mầu nhiệm của Sự Chết và Sống lại đã được diễn tả qua việc Chúa Giêsu dìm mình trong dòng nước.

Thiết lập Phép Rửa như cửa ngõ để đưa chúng ta vào cuộc sống trường sinh, Chúa Giêsu cung muốn chúng ta tham dự vào mầu nhiệm chết và sống lại của Ngài. Dìm mình trong nước của Phép Rửa, chúng ta khởi đầu cuộc sống Kitô hữu bằng chính cái chết. Sống đối với chung ta có nghĩa là chết: chết cho những khuynh hướng xấu, chết cho những đam mê xấu, chết cho tội lỗi, chết cho ích kỷ, chết cho hận thù. Cuộc sống do đó đối với chúng ta cũng là một cuộc mai táng liên lỉ. Cũng như hạt lúa rơi xuống đất phải thối đi, cũng thế chúng ta phải chấp nhận chôn vùi con người cũ tội lỗi của chúng ta.

(Lẽ Sống)

++++++++++++++++++

Lời Chúa Mỗi Ngày

Thứ Năm – Tuần 10 – TN2 – Năm Chẵn

Bài đọc: 1 Kgs 18:41-46; Mt 5:20-26.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phải kiên nhẫn đưa tha nhân về với Thiên Chúa.

Con người sống xa cách Thiên Chúa vì rất nhiều lý do: không có cơ hội được nghe Lời Chúa, sống trong gia đình cha mẹ không thực hành đức tin, sống trong xã hội quá chú trọng tới vật chất và chống những giá trị tôn giáo… Rất dễ cho chúng ta kết tội tha nhân và “đường ai nấy đi, mạnh ai nấy sống.” Đức Kitô không cho phép các môn đệ kết tội tha nhân cách dễ dàng như thế; nhưng muốn họ trở thành muối và ánh sáng để đưa những anh chị em lầm đường lạc lối trở về.

Các bài đọc hôm nay đưa ra những bài học cụ thể để làm gương cho các tín hữu. Trong bài đọc I, ngôn sứ Elijah sau khi đã chứng minh cho con cái Israel biết đâu là Chúa thật bằng phép lạ Đức Chúa khiến lửa từ trời xuống thiêu rụi của lễ, ông ra lệnh cho vua Ahab và toàn dân phải ăn chay để tỏ lòng ăn năn thống hối trước khi cầu khẩn Thiên Chúa cho mưa rơi để chấm dứt những năm hạn hán. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu kết tội mọi hình thức tức giận, khinh thường và kết tội tha nhân. Thay vào đó, các môn đệ phải luôn có lòng tha thứ và sống hòa thuận với mọi người.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Thiên Chúa sửa phạt rồi lại xót thương Dân Ngài.

1.1/ Những việc làm tỏ lòng ăn năn thống hối: Mục đích Thiên Chúa sửa phạt là vì yêu thương: để dân chúng nhận ra lỗi lầm và trở về với Ngài, chứ không phải vì tức giận mà tiêu diệt. Sau khi toàn dân đã nhận ra sai lầm của việc thờ thần Baal, Elijah yêu cầu vua Ahab và toàn dân ăn chay để tỏ lòng thống hối, và ông sẽ cầu nguyện với Thiên Chúa để Ngài đổ mưa xuống trên dân. Khi hết thời hạn ăn chay, ông Elijah nói với vua Ahab: “Xin mời vua lên mà ăn uống, bởi vì có tiếng mưa rào!” Vua Ahab liền lên ăn uống.

Trong khi đó, ngôn sứ Elijah trèo lên núi Carmen. Đỉnh núi Carmen là ngọn núi cao nhất gần Sidon, nhìn ra biển Mediterranean, tại đây, ngôn sứ Elijah có thể nhìn thấy những đám mây đen mang nước mưa vào từ biển. Elijah “cúi xuống đất, gục mặt vào hai đầu gối.” Đây có lẽ là vị thế cầu nguyện nghiêm trọng nhất để khẩn cầu ơn Chúa xuống. Trên đỉnh núi này, ngày nay vẫn còn một nhà nguyện và chỗ cầu xin của ngôn sứ Elijah cho khách hành hương kính viếng. Vào ngày đẹp trời, du khách có thể nhìn thấy đồng bằng Jezreel chạy cho tới biển hồ Galilee từ đỉnh núi này về phía Đông Nam.

1.2/ Hạn hán chấm dứt: Ông Elijah bảo đầy tớ: “Con đi lên và nhìn về phía biển.” Nó đi lên, nhìn và nói: “Không có gì cả!” Ông bảo: “Hãy trở lại bảy lần.” Ngôn sứ Elizah cầu nguyện kiên trì bảy để xin ơn Thiên Chúa lần mỗi khi đầy tớ lên đỉnh núi. Lần thứ bảy, nó nói: “Kìa có một đám mây nhỏ bằng bàn tay người đang từ biển bốc lên.” Ông nói: “Con hãy lên thưa với vua Ahab: xin vua thắng xe và xuống kẻo bị kẹt mưa.” Lập tức trời kéo mây đen nghịt và nổi gió, rồi trút mưa lớn. Vua Ahab cỡi xe đi Jezreel.

Trong khi đó, “tay Đức Chúa đặt trên ông Elijah; ông thắt lưng và chạy trước vua Ahab cho tới lúc vào vùng đồng bằng Jezreel.” Đây là cuộc chạy đua chiến thắng vì ngôn sứ Elijah đã được Thiên Chúa cho thắng trận huy hoàng. Ông đã làm cho vua Ahab và toàn dân quay trở về với Thiên Chúa và chấm dứt hạn hán.

2/ Phúc Âm: Nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pharisees, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời.

Tôn trọng phẩm giá của tha nhân: Chúa Giêsu cảnh cáo các môn đệ: “Thầy bảo cho anh em biết, nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pharisees, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời.” Chúng ta cần nhớ chương 5 của Tin Mừng Matthew bắt đầu bằng Bát Phúc là những lời dạy của Chúa Giêsu giúp các môn đệ trở nên trọn lành như Cha trên trời là Đấng trọn lành. Chúa Giêsu thường dùng công thức: “Người xưa dạy… còn Ta, Ta dạy… ” Trong trình thuật hôm nay, Ngài đòi các môn đệ phải ăn ở tốt lành và công chính hơn các kinh sư trong hai lãnh vực:

2.1/ Phải tôn trọng phẩm giá của tha nhân: “Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng: Chớ giết người; ai giết người, thì đáng bị đưa ra toà. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra toà. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân vô đạo, thì đáng bị lửa hoả ngục thiêu đốt.”

Chúa Giêsu muốn cho các môn đệ biết có nhiều cách giết người, chứ không phải chỉ giết người về phương diện thể lý. Chúng ta có thể giết tha nhân bằng việc:

– Giận dữ: Hai chữ được dùng trong Hy-lạp: thurmos (giận dữ) cho những cơn giận nóng lên rồi hạ hỏa ngay và orge (cho những cơn giận dai dẳng, giận cho đến mãn đời). Chúa Giêsu ngăn cấm các môn đệ không được giận dữ, “ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra toà.”

– Khinh thường tha nhân: Raca trong Hy-lạp là chữ khó dịch, có thể dịch như “đồ ngu ngốc hay điên rồ về phương diện trí tuệ.” Chúa Giêsu luận tội: “Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng.” Căn bản cho lời luận tội này là mọi người đều được Thiên Chúa dựng nên.

– Mắng anh em là moros (điên rồ về phương diện luân lý): Những người này có thể là những người vô thần hay sống một cuộc sống đồi trụy. Chúa Giêsu luận tội: “Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì đáng bị lửa hoả ngục thiêu đốt.” Bổn phận của các môn đệ là phải kiên nhẫn đưa họ về, chứ không phải mắng mỏ, buộc tội.

2.2/ Cần phải tha thứ: Truyền thống Do-thái cũng như Kitô hữu tin mối liên hệ hàng dọc với Thiên Chúa tùy thuộc vào mối liên hệ hàng ngang với tha nhân: một người phải tha thứ cho anh em trước khi muôn được Thiên Chúa tha thứ. Theo truyền thống Do-thái, mỗi khi vô tình phạm tội, hối nhân phải dâng lễ vật để xin Thiên Chúa tha thứ cho những tội đã phạm. Trường hợp liên quan tới mối liên hệ với con người, họ phải làm hòa với nhau trước khi có thể giao hòa với Thiên Chúa. Thần học về Bí-tích Giải Tội cũng đòi hối nhân phải tha thứ cho người xúc phạm đến mình như Thiên Chúa đã tha thứ cho hối nhân.

Ngoài ra, ăn ở hài hòa giúp con người tránh được những nhức đầu trong cuộc sống: Cha ông chúng ta vẫn dạy “dĩ hòa vi quí;” người hiền lành sẽ được mọi người thương mến. Ngược lại, những người khó chịu, cau có, sẽ chuốc cho mình những ghen ghét, tranh tụng, và mất bình an. Chúa Giêsu khuyên các môn đệ: ”Anh hãy mau mau dàn xếp với đối phương, khi còn đang trên đường đi với người ấy tới cửa công, kẻo người ấy nộp anh cho quan toà, quan toà lại giao anh cho thuộc hạ, và anh sẽ bị tống ngục. Thầy bảo thật cho anh biết: anh sẽ không ra khỏi đó, trước khi trả hết đồng xu cuối cùng.”

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

– Chúng ta không được giận dữ, khinh thường, hay buộc tội tha nhân; nhưng phải luôn tìm dịp cho họ có cơ hội ăn năn thống hối và trở lại với Thiên Chúa.

– Trở nên tốt là một tiến trình đòi kiên nhẫn và thời gian. Chúng ta cần kiên nhẫn giáo dục tha thứ, và khuyến khích tội nhân trên đường về với Thiên Chúa.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

****************