Lời Chúa Hôm Nay
Thứ Bảy XXXIII Thường Niên
BÀI ĐỌC I: Kh 11, 4-12
“Hai vị tiên tri ấy đã làm cho dân trên hoàn cầu chịu nhiều khổ cực”.
Trích sách Khải Huyền của Thánh Gioan Tông đồ.
Có lời phán cùng tôi là Gioan rằng: “Hai chứng tá của Ta là hai cây ôliu và hai cây đèn đặt trước mặt Chúa Tể địa cầu. Và nếu ai toan hãm hại các ngài, thì sẽ có lửa từ miệng các ngài phun ra tiêu diệt các địch thù; ai toan làm hại các ngài thì chính kẻ ấy phải bị giết như vậy. Các ngài có quyền đóng cửa trời, khiến trời không mưa trong những ngày các ngài nói tiên tri. Các ngài lại có quyền biến nước thành máu, và gieo tai hoạ cho trần gian bất cứ lúc nào tùy ý. Và khi các ngài đã hoàn tất nhiệm vụ chứng tá rồi, thì con mãnh thú từ vực thẳm lên sẽ giao chiến với các ngài, nó sẽ thắng và giết chết các ngài. Thi thể các ngài sẽ bị bêu nơi công trường của Thành lớn, gọi cách bóng bảy là Sôđôma và Ai-cập, là nơi Chúa các ngài đã bị đóng đinh. Thiên hạ thuộc mọi chi tộc, mọi dân, mọi nước, và mọi ngôn ngữ, đã xem thấy thi thể các ngài trong ba ngày rưỡi, và người ta không để cho thi thể các ngài được chôn cất trong mộ. Dân chúng trên khắp mặt đất sẽ vui mừng vì cái chết của các ngài và hoan hỉ tặng quà cho nhau, vì hai vị tiên tri ấy đã từng làm cho họ chịu nhiều khổ cực. Nhưng sau ba ngày rưỡi, (sinh khí từ) Thiên Chúa nhập vào các ngài. Và các ngài đứng dậy, khiến cho những người trông thấy phải khiếp sợ. Rồi các ngài nghe có tiếng vang lớn từ trời phán cùng các ngài rằng: ‘Hãy lên đây’. Các ngài liền lên trời, trong đám mây trước mắt các địch thù của các ngài.
Chính lúc đó đất chuyển động dữ dội, và một phần mười của thành thị bị sụp đổ, làm bảy ngàn người thiệt mạng trong cơn động đất ấy. Còn các người sống sót thì kính sợ và cao rao vinh danh Đức Chúa Trời”. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 143, 1. 2. 9-10
Đáp: Ôi Đá Tảng của con, chúc tụng Chúa! (c. 1a).
1) Ôi Đá Tảng của con, chúc tụng Chúa là Đấng rèn luyện cho tay con biết đấu tranh, cho các ngón tay con thiện nghề chinh chiến.
2) Chúa là tình thương và là chiến luỹ, là Đấng phù trợ và giải phóng con. Chúa là khiên thuẫn, là chỗ con nương náu; Ngài bắt chư dân phải khuất phục con.
3) Ôi Thiên Chúa, con sẽ hát mừng Ngài bài ca mới; với cây đàn mười dây, con sẽ ca mừng Ngài, vì Ngài đã ban cho các vua chiến thắng, đã giải phóng Đavít là tôi tớ của Ngài.
ALLELUIA: Pl 2, 15-16 – Anh em hãy tích trữ lời ban sự sống, anh em hãy chiếu sáng như những vì sao ở giữa thế gian. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Lc 20, 27-40
“Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng của kẻ sống”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, có mấy người thuộc phái Sađốc, là những người chối không tin có sự sống lại, đến gần Chúa Giêsu hỏi Người rằng: “Thưa Thầy, Môsê đã viết cho chúng tôi: nếu ai có một người anh cưới vợ, rồi chết đi mà không có con, thì người em phải cưới người vợ đó để anh mình có kẻ nối dòng. Vậy có bảy anh em: người thứ nhất cưới vợ, rồi chết mà không có con. Người kế tiếp cưới vợ goá đó, rồi cũng chết không con. Người thứ ba cũng cưới người vợ goá đó. Và tất cả bảy người đều cưới như vậy và đều chết mà không để lại người con nào. Sau cùng người thiếu phụ đó cũng chết. Vậy đến ngày sống lại, người đàn bà đó sẽ là vợ ai trong các người ấy, vì tất cả bảy người đều lấy người ấy làm vợ?”
Chúa Giêsu trả lời rằng: “Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, song những ai sẽ xét đáng được dự phần đời sau và được sống lại từ cõi chết, thì sẽ không cưới vợ lấy chồng; họ sẽ không thể chết nữa, vì họ giống như thiên thần, họ là con cái Thiên Chúa: vì họ là con cái của sự sống lại. Về vấn đề kẻ chết sống lại, thì Môsê trong đoạn nói về Bụi gai, khi ông gọi Chúa là Thiên Chúa Abraham, Thiên Chúa Isaac, và Thiên Chúa Giacóp. Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, mà là của kẻ sống, vì mọi người đều sống cho Chúa”.
Bấy giờ có mấy luật sĩ lên tiếng thưa Người rằng: “Lạy thầy, Thầy dậy đúng lắm”. Và họ không dám hỏi Người điều gì nữa. Đó là lời Chúa.
(Nguồn: UBPV/HĐGMVN, ấn bản 1973)
++++++++++++++++++
23/11/2024 – THỨ BẢY TUẦN 33 TN
Th. Clê-men-tê I, giáo hoàng, tử đạo
Lc 20,27-40
CHÚNG TA SẼ SỐNG LẠI
“Vì đối với Người, tất cả đều đang sống.” (Lc 20,38)
Suy niệm: Nhóm Xa-đốc kể câu chuyện người đàn bà khi sống lại làm sao có thể đồng thời có bảy người chồng để biện minh cho việc họ chối bỏ sự sống đời sau. Đức Giê-su phá cái bẫy của họ bằng cách trích dẫn Thánh Kinh để chứng minh sự sống lại hay sự sống đời sau là điều có thật. Qua đời sau, không còn chuyện dựng vợ gả chồng như các mối quan hệ đời này, mà con người lúc ấy tựa các thiên thần. Họ được hưởng kiến Thiên Chúa trực tiếp ‘diện đối diện’, được tham dự vào sự sống Thiên Chúa, chung hưởng vinh quang của Ngài. Thánh Phao-lô giải thích: “Việc kẻ chết sống lại cũng vậy: gieo xuống thì hư nát, mà chỗi dậy thì bất diệt; gieo xuống thì hèn hạ, mà chỗi dậy thì vinh quang; gieo xuống thì yếu đuối, mà chỗi dậy thì mạnh mẽ; gieo xuống là thân thể có sinh khí, mà chỗi dậy là thân thể có thần khí” (1Cr 15,42-44).
Mời bạn: Là con cái Thiên Chúa, cuộc đời bạn không kết thúc, chấm hết ở thế giới hiện tại, nhưng mở ra, bước vào thế giới của Thiên Chúa. Đời sau, bạn chấm dứt các tương quan vật chất, danh dự, địa vị,… để sống mối tương quan cá vị với Thiên Chúa, Cha chúng ta. Chúng ta được “ngang hàng với các thiên thần.”
Sống Lời Chúa: Khi tuyên xưng: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại,” bạn xin Chúa cho mình xác tín hơn, thể hiện niềm xác tín ấy hằng ngày.
Cầu nguyện: “Ngày lại ngày, ôi lạy Chúa, con vẫn đứng, đứng trước Nhan Ngài. Đôi tay chắp lên ngực, con vẫn đứng, đứng trước Nhan Ngài, ôi lạy Chúa muôn loài… Như đàn hạc hoài hương bay về tổ núi cao, cho đời con phiêu du, tới quê hương ngàn thu.”
(Lời bài hát: Đứng trước Nhan Ngài)
(5 Phút Lời Chúa)
++++++++++++++++++
Suy niệm và cầu nguyện
Suy niệm:
“Đức Giêsu vào Đền thờ” (c. 45),
ngay sau khi Ngài vẻ vang tiến vào thành phố Giêrusalem.
Ngài vào Nhà của Cha Ngài, nơi Ngài đã được tiến dâng (Lc 2, 22),
nơi Ngài đã muốn ở lại năm mười hai tuổi (Lc 2, 49).
Ngài đã lên Đền thờ nhiều lần trong đời, nhưng đây là lần cuối.
Lên Đền thờ lần cuối là một quyết định sinh tử (Lc 9, 51),
vì Ngài biết những gì đang chờ đợi mình ở đây (Lc 13, 33).
“Ngài bắt đầu đuổi những kẻ đang buôn bán ở đó.”
Người ta bán những con vật, để người mua dâng cúng cho Đền thờ.
Nơi buôn bán này ở chung quanh Đền thờ,
tuy vẫn nằm trong khu vực Đền thờ, nơi Dân Ngoại được phép lui tới.
Dĩ nhiên việc buôn bán ở đây là có phép của ban an ninh Đền thờ,
nên chúng ta không hiểu tại sao Đức Giêsu lại muốn đuổi họ.
Hiếm khi chúng ta thấy Đức Giêsu nổi giận hay dùng sức mạnh.
Còn ở đây Ngài mạnh mẽ cả trong hành động lẫn lời nói.
“Nhà Ta sẽ là nhà cầu nguyện,
thế mà các ngươi đã biến nó thành hang trộm cướp” (c. 46).
Đức Giêsu đã vào thành Giêrusalem như một vị vua khiêm hạ.
Còn bây giờ Ngài đuổi những người buôn bán như một ngôn sứ.
Vị ngôn sứ giận dữ vì thấy nhà cầu nguyện trở thành nơi kinh doanh.
Đức Giêsu đã muốn làm cho Đền thờ được sạch khỏi chuyện bán buôn,
dù chuyện này cũng nhắm phục vụ cho việc tế tự.
Sau khi thanh tẩy Đền thờ, Ngài đã chọn nơi thánh này
làm nơi Ngài tập trung dạy dỗ từng ngày cho đến lễ Vượt Qua (c. 47).
Ngài đã sống những ngày cuối đời như một vị Thầy dạy.
Lời giáo huấn của Đức Giêsu đã gây ra những phản ứng ngược nhau.
Dân chúng thì say sưa với những lời Ngài dạy (c. 48),
còn giới lãnh đạo tôn giáo ở Đền thờ lại tìm cách giết Ngài (c. 47).
Phải chăng họ khó chịu với việc Đức Giêsu được dân chúng tung hô,
hay bực bội về việc Ngài như có quyền đuổi những người buôn bán,
hay ghen tương với việc dân chúng mê mải nghe Ngài?
Đời người Kitô hữu gắn liền với nhiều đền thờ.
Có những đền thờ, nhà thờ bằng gỗ đá, được cung hiến.
Có những đền thờ thiêng liêng như Hội Thánh, như các tín hữu.
Chính bản thân tôi, thân xác tôi, tâm hồn tôi cũng là đền thờ.
Nơi nào có Chúa hiện diện, nơi ấy là đền thờ.
Cần bỏ dép ở ngoài trước khi bước vào ngôi đền thờ là trái tim tha nhân.
Cần năng thanh tẩy lại đền thờ tâm hồn mình bằng bí tích Hòa Giải.
Chúng ta thường thiếu sự giận dữ của Đức Giêsu
khi đứng trước những đền thờ là tâm hồn của những người trẻ bị ô uế.
Chúng ta dửng dưng khi Chúa bị trục xuất ra khỏi đền thờ lòng mình,
để thay vào đó là những thần tượng vô hồn, rẻ tiền và câm lặng.
Xin Giêsu giúp ta quét dọn các rác rưởi nơi đền thờ của trí tuệ,
để lời Chúa làm chúng ta say mê lắng nghe và thực hành.
Cầu nguyện:
Như đóa sen trong đầm lầy,
xin giữ tâm hồn con thanh khiết.
Giữa một thế giới đầy hình ảnh vẩn đục,
xin gìn giữ mắt con.
Giữa một thế giới tôn thờ khoái lạc,
xin dạy con biết trân trọng thân xác.
Giữa một thế giới bị ám ảnh bởi tình dục,
xin thanh lọc trí tưởng tượng của con.
Xin nâng con lên cao
vượt qua những thèm muốn chiếm đoạt,
để biết tự hiến trong yêu thương.
Xin đừng để con phung phí sức lực
vào những chuyện tình cảm chóng qua,
nhưng giúp con tự rèn luyện mình
để gánh vác cuộc sống Chúa mời gọi.
Như đóa sen trong đầm lầy,
xin giữ thân xác con thanh khiết.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
(phutcaunguyen.net)
++++++++++++++++++
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
23 THÁNG MƯỜI MỘT
Mở Rộng Tấm Lòng Để Đón Nhận
“Bất cứ ai đón nhận em bé này nhân danh Thầy là đón nhận chính Thầy” (Lc 9,48). Lời ấy của Chúa Giêsu soi sáng ý nghĩa của việc đón nhận trẻ em làm con nuôi. Quyết định nhận nuôi một đứa trẻ luôn luôn phát xuất từ tình yêu đối với trẻ em và từ nỗi khát khao được làm cha làm mẹ. Việc nhận con nuôi là một chứng tá độc đáo loan báo cho thế giới thấy tấm lòng rộng mở để chia sẻ sự sống và tình yêu tự nguyện đối với một đứa trẻ đang cần có cha mẹ và cần một mái ấm gia đình.
Dù trong thời đại chúng ta những đám mây đen đang vần vũ trên các gia đình, chúng ta vẫn được khích lệ bởi vô số những tấm gương quảng đại rực sáng lên trong các gia đình Kitôhữu. Chúng ta ngập tràn hy vọng khi nhìn thấy các chứng tá ấy. Những sự chọn lựa theo tinh thần Kitô giáo thường trái ngược với não trạng thế gian xung quanh chúng ta. Những sự chọn lựa ấy sẽ thách đố và chất vấn những người cần nghe Tin Mừng, những người có khuynh hướng muốn sống một cuộc sống đóng kín và ích kỷ. Việc nhận con nuôi là một dấu hiệu qua đó các gia đình Kitôhữu tuyên bố rằng mình không muốn khép kín nơi chính mình – trái lại, muốn mở ra đón nhận một đứa trẻ đáng thương và nhận một trách nhiệm cao cả cách vui tươi và vô vụ lợi.
Quyết định nhận con nuôi không bao giờ là một quyết định dễ dàng. Thật vậy, quyết định đó luôn luôn kèm theo với nó những bổn phận hết sức quan trọng và phức tạp. Tuy nhiên, đó là một quyết định có sức làm phong phú cộng đồng.
Tôi muốn nhấn mạnh rằng trong thời đại chúng ta ngày càng có nhiều gia đình ước ao nhận ocn nuôi. Đây rõ ràng là một chiều hướng tích cực. Đây là một sự đáp trả đầy yêu thương trước một tiếng gọi cao cả. Đó là lý do tại sao tôi muốn bày tỏ sự ủng hộ của mình đối với những gia đình đang đảm nhận công việc quan trọng này. Tôi cũng muốn khích lệ công việc của những người liên hệ đến việc giới thiệu nhận con nuôi. Xin Chúa chúc lành cho công việc đầy ý nghĩa này và chúc lành cho mọi gia đình đang nuôi dạy những đứa con nuôi một cách đầy yêu thương và quảng đại.
– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 23/11
Thánh Clêmentê I, Giáo hoàng, tử đạo
Thánh Côlumbanô, viện phụ
Kh 11, 4=12; Lc 20, 27-40.
Lời Suy Niệm: Đức Giêsu đáp: “Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, chứ những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ, cũng chẳng lấy chồng. Quả thật họ không thể chết nữa. vì được ngang với các thiên thần. Họ là con cái của Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại.” (Lc 20,36-37)
Đối với nhóm người Xađốc, họ chủ trương không có sự sống lại, và họ đưa ra một câu chuyện không tưởng, (một người nữ, lấy bảy anh em ruột, tất cả đều chết, và họ hỏi người nữ sẽ là vợ của ai sau khi tất cả đều sống lại) với Chúa Giêsu để họ bảo vệ quan niệm của họ. Và Chúa Giêsu đã xác định rõ: có sự sống đời sau, và khi đã được sống lại, họ không còn chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên thần.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho mọi thành viên trong gia đình chúng con luôn xác tín có sự sống lại và sự sống đời sau để luôn ý thức trách nhiệm về đời sống ngay hôm nay, với những công việc hằng ngày mình làm. Amen.
Mạnh Phương
+++++++++++++++++
Gương Thánh Nhân
Ngày 23-11: Thánh CLÊMENTÊ I
Giáo Hoàng Tử Đạo
Người ta biết được về thánh Clêmentê, vị giáo hoàng trị vì trong 10 năm chỉ nhờ bức “thư gởi giáo hữu Corintô” thôi. Vào thế kỷ thứ IV có lưu hành những chứng thư đầy huyền thoại. Theo đó, cha Ngài là Phaustin thuộc dòng dõi Giacop. Sinh tại Roma, được nuôi dưỡng trong Do thái giáo.
Thánh Clêmentê đã nghe theo những diễn từ của các thánh tông đồ và trở thành môn đệ các Ngài. Ngài đã theo thánh Phaolô trong các hành trình đi truyền giáo và đã trở thành đấng kế vị thứ ba của thánh Phêrô. Vua Trajanô đang bách hại các Kitô hữu biết được rằng: vị giáo hoàng đã đem được nhiều người trở lại đạo. Ông kết án Ngài phải làm việc khổ sai tại các hầm mỏ bên kia Bắc Hải, trong các miền hoang vắng. Hai ngàn Kitô hữu đẽo đá tại đây chịu cảnh khát nước thảm khốc.
Tương truyền rằng thánh Clêmentê cầu nguyện rồi lên một ngọn đồi và thấy một con chiên ghi dấu chân đúng vào chỗ có dòng nước tươi mát vọt lên làm giảm khát cho người mang án. Các bức tranh cẩn đâu tiền còn diễn lại biểu tượng một con chiên đứng trên ngọn núi xanh. Nhà vua khi biết được rằng thánh Clêmentê đã dùng lời nói và phép lạ để an ủi các Kitô hữu, liền sai các sứ giả tới cột cổ Ngài vào một cái neo rồi ném xuống biển. Lệnh đường thi hành. Nhưng trong khi các tín hữu cầu nguyện trên bờ, họ thấy dòng nước rút đi một cách lạ lùng và có thể đưa xác vị tử đạo lên đất liền.
Điều chắc chắn kính là bức thư của thánh Clêmentê đã thành một trong các tài liệu quí giá của Kitô giáo thời Chúa xưa. Các Kitô hữu Côrintô chạy đến Đức giáo hoàng để tìm hoà giải những cuộc tranh chấp, đã kính cẩn đón tiếp thư của Ngài. Những thư này được đọc cho các cộng đoàn tín hữu. Thư của thánh Clêmentê chứng thực việc thánh Phêrô đến và chịu chết ở Roma, việc Nêrô bắt các Kitô hữu làm trò mua vui. Thư cũng gợi ý cho chúng ta việc tổ chức Giáo hội. Giữa các sự việc lớn lao khác, thánh Clêmentê đã nói:
– “Ai mạnh hãy lo cho người yếu. Người giầu hãy giúp đỡ người nghèo và người nghèo hãy chúc tụng Chúa và điều Ngài muốn cung ứng cho các nhu cầu của họ. Người khôn ngoan hãy tỏ ra khôn ngoan không phải chỉ trong lời nói mà còn trong các việc lành. Người khiêm tốn đùng nóí gì về mình và đừng tìm phô diễn hành động của mình. Người lớn không thể tồn tại mà không có người nhỏ và người nhỏ cũng không thể tồn tại mà không có người lớn… Thân thể không thể bỏ qua sự phục vụ của những chi thể nhỏ bé hơn.
Các tín hữu còn học biết bằng qua những âu lo vô ích và sống đời sám hối, mỗi người phải biết vâng phục để trở nên tôi tớ hoàn tất vinh quang Thiên Chúa. Đức Kitô đã không đến trong kiêu sa, nhưng đã tự hạ, đã chịu khổ cực. Vậy phải nên thánh và tín thác cho Chúa.
Chỉ một bức thư này còn quan trọng trong sự thật vượt xa mọi truyện thần thoại.
********************
Ngày 23-11
Thánh CÔLUMBANÔ
Tu Viện Trưởng (….. – 615)
Thánh Côlumbanô sinh tại Kildare hay Carlow vào giữa thế kỷ thứ VI, một thời kỳ mà danh tiếng các dòng tu Ai Nhĩ Lan đã bắt đấu nổi danh trên khắp thế giới Kitô giáo. Khi ấy người ta tuôn đến các hòn đảo của các thánh nhân để học hiểu văn chương và nghệ thuật trong các tu viện.
Côlumbanô có một trí khôn đặc biệt hứa hẹn những địa vị cao trọng trong xã hội. Nhưng Ngài ưu tư vì những nguy hiểm mà sắc đẹp bày ra cho Ngài. Ước muốn duy nhất của Ngài là sự thánh thiện, Ngài quyết giã từ thế gian để sống trong tu viện. Nhưng mẹ Ngài không thể xa con một khi Côlumbanô gia nhập hàng giáo sĩ. Ngày thánh nhân lên đường, mẹ Ngài nằm khóc ngang ngưỡng cửa. Côlumbanô phải bước qua mình mẹ để đáp lời gọi của trời cao. Sau khi vượt qua được cuộc chiến bi đát này, không còn gì phải trả để Ngài tiến tới trên đường hòan thiện nữa.
Trước hết Côlumbanô theo học tại Lough Erne một trường ở Cleenish, rồi sau đó ở Banger, ngôi trường quan trọng ở Ai Nhĩ Lan thời đó.
Tu viện Banger có hơn 3000 tu sĩ dưới sự dẫn dắt của thánh Comgall và đã đưa ra nhiều mẫu gương anh hùng trong đời sống khổ hạnh. Côlumbanô dạy học tại đây 10 năm. Lúc ấy Ngài khoảng 40 tuổi. Thánh Comgall sai Ngài và một số tu sĩ đi truyền giáo tại Gaule, trong đoàn truyền giáo này con có thánh Gall. Các tu sĩ vượt biển đến vương quốc Austrasia. Thánh Côlumbanô đã từ chối lãnh địa mà vua Sigebert cho để thành lập tu viện. Suốt 14 năm, Ngài sống đời lang thang để rao giảng Tin Mừng. Dân chúng thán phục những người ngoại quốc đã tới yêu mến giúp đỡ họ trong khi tự ép mình sống đời nghèo khó nghiêm nhặt này, Họ đổi lòng và đến lượt họ cũng yêu mến Thiên Chúa, thương yêu người khác.
Danh tiếng của Côlumbanô vang tới triều đình Bourgogne của vua Gontran. Đứng trước ân huệ Ngài đã thực hiện cho dân cư, nhà vua hỏi vị tu sĩ muốn gì để ở lại trong vương quốc của ông. Thánh CÔLUMBANÔ trả lời: – “Tôi không có của cải nào hết ngoài việc thực hiện Tin Mừng và vác thánh giá, bỏ mình và theo Chúa Giêsu Kitô”.
Nhà vua đã hiến cho thánh nhân một pháo đài hoang phế ở Haute Saonê để làm nhà ở. Lần này thánh Côlumbanô nhận lời. Lều rộng nhất dùng làm nhà nguyện. Của ăn thường xuyên của các tu sĩ là rễ cây, thỉnh thoảng có được một chút thực phẩm.
Dân chúng miền phụ cận nghe nói về những người này của Thiên Chúa đã đưa các bệnh nhân tới xin cầu nguyện. Nhiều người muốn bắt chước và chia sẻ cuộc sống của các Ngài. Thánh Côlumbanô phải thiết lập một tu viện thứ hai ở Luxeuil. Dầu đây là nơi nghèo khổ, ẩm thấp. Nhưng một ít năm sau đã trở nên một tu viện phồn thịnh, thành thủ phủ các đời viện tu. Các môn sinh không ngừng đổ tới. Nhiều lãnh Chúa hiến dâng tài sản “phát tích qui y” tự ép mình làm việc tay chân khai khẩn ruộng đất như người nghèo. Cả các bệnh nhân cũng được chia sẻ cuộc sống này tùy sức họ có thể đóng góp. Cuộc sống cầu nguyện và làm việc giữ được sự cân bằng chưa hề có cho tới lúc ấy.
Thánh Côlumbanô điều hành mọi chuyện và đôi khi lui về chòi tu của Ngài gần Annecy để viết luật, dựa trên tình mến Chúa yêu người, hy sinh cầu nguyện chung, việc làm tay chân không được ngăn trở kinh nguyện thâm sâu trong lòng. Ngài nói: – Cả đời chúng ta đều diễn tiến như một ngày. Tình yêu ước muốn hứơng thượng, chúng ta tìm về quê hương nơi cha ngự trị.
Một thời gian sau, Ngài thiết lập một tu viện thứ ba ở Phontaines.
Tuy nhiên các tu sĩ phải trải qua một cơn thử thách. Cả các giám mục Pháp lẫn hai triều đình không giữ mãi được thiện cảm. Các tu sĩ Ai Nhĩ Lan vẫn cử hành lễ Phục sinh theo nghi lễ Celtie. Và các giám mục dựa vào chiêu bài này để triệu vời Côlumbanô tới một hội nghị. Thánh nhân cáo lỗi và gửi một lá thư hùng hồn “xin cho được sống im lặng trong rừng sâu bên cạnh xương tàn của 17 anh em đã chết”. Đồng thời Ngài cũng đề nghị là có nhiều vấn đề cấp bách hơn ý kiến khác nhau về phụng vụ mà các giám mục cần quan tâm.
Vua nước Bourgogne có 4 người con ngoại hôn. Sự kiện các giám mục thường lui tới triều đình mà không bao giờ cảnh giác các gương mù này, chứng tỏ tình trạng Kitô giáo thấp kém thời đó. Vua Thierri kế vị cha là Ghentran dưới sự bảo trợ của hoàng thái hậu Brunehaut có một đời sống phóng đãng. Những lời trách cứ của thánh nhân làm bà hoàng tức giận. Dầu có cảm tình với vị tu viện trưởng, bà cấm không cho người vào tu viện Luxeuil. Thế là chỉ còn cách trục xuất Ngài đi. Các tu sĩ muốn theo Ngài, nhưng bà hoàng ngăn cản chỉ cho các tu sĩ có máu Ai Nhĩ Lan đi. Bị bắt giam tại Bessanson, Côlumbanô trốn thoát được. Không ai được cung cấp đồ ăn cho các Ngài, cũng không được cho trú ngụ. Ở Tours, vị tông đồ đã cầu nguyện bên mộ thánh Martinô và tiên báo Thierri sẽ mất ngôi cho vua Clotaire II, người sẽ nối lại vương quốc Pháp. Thierri gửi lệnh cấm tàu cho tới Nantes là nơi Ngài phải đáp tàu về Ai Nhĩ Lan. Từ hải cảng này vị tu viện trưởng đã viết cho các bạn còn lại Luzeuil một lá thư rất thời danh.
Côlumbanô đáp tàu đi tới Ai Nhĩ Lan, nhưng cơn bão nổi lên đưa tàu vào bờ. Ngài tin đây là ý Chúa quan phòng và lên đường đi Neustrie. Ngài giảng đạo cho vua Clotaire II, làm cho vua và triều thần chấp nhận Kitô giáo. Rồi Ngài đi Metz. Người ta đem con ra đón đường xin Ngài chúc lành. Ơn gọi tu dòng chỗi dậy khi Ngài đi qua. Quyết lòng rao giảng Tin Mừng cho những người thờ ngẫu tượng, nhà truyền giáo ngược sông Rhin và cùng với vài môn sinh tới hồ Zurich, dân cư ở dây nổi tiếng hung dữ. Nhà chép sử kể rằng: ngày kia dân chúng cho thần Wodon một bình đầy bia. Thày dòng liền thở và bình vỡ tan. Môn sinh của Ngài là Gall còn đốt các ngẫu tượng buộc thánh Côlumbanô không được chọc tức dân chúng nữa. Ngài lui về gần hồ Constance.
Với sự trợ giúp của thánh Gall, Ngài lập một tu viện, nhưng dân chúng vùng lên cận thù ghét. Vùng này rơi vào quyền hạn của Thierri người vừa mới giết em mình là Thibert. Sau khi vượt mọi khó khăn, Côlumbanô ra đi và để thánh Gall ở lại.
Sau khi vượt dãy núi Alpes, vị tông đồ già cả tới vùng đất của dòng họ Lombarnô. Nơi đây Ngài phải chống lại lạc giáo Ariô và bị trục xuất một lần nưã. Lui về chân dãy núi Appennins, Ngài thiết lập một tu viện Bobbiô, vua Clotaire lúc này đã nắm quyền và mời Ngài trở lại nước Pháp. Nhưng thánh nhân thấy đời gần tàn chỉ viết thư xin vua sống theo tinh thần Kitô giáo sâu xa hơn. Vua đã kính cẩn nhận lời khuyên và bao bọc tu viện Luxeuil. Thánh Côlumbanô không ngừng thư từ cho các tu sĩ và từ hang động ẩn tu của mình, Ngài viết thư bằng văn vần để giã từ bạn bè trước khi qua đời, ngày 23 tháng 11 năm 615.
Công cuộc của Ngài triển nở mạnh mẽ sau cái chết của Ngài. Luxeuil trở thành trưởng phái tu viện quan trọng trong thế kỷ VII và còn tồn tại tới cuộc cách mạng Pháp. Bobbiô trở thành tu viện Monte Cassinô miền Bắc Otalia. Ngày nay dân Bắc Italia rất sùng kính Ngài, với 34 giáo xứ được dâng kính Ngài.
(daminhvn.net)
+++++++++++++++++
23 Tháng Mười Một
Tấm Gương Trong Lâu Ðài Versailles
Lâu đài Versailles ở ngoại ô Paris là một trong những danh lam thu hút nhiều du khách nhất. Trong lâu đài, nơi mà du khách cảm thấy bị giữ chân lâu nhất đó là phòng khánh tiết bằng pha lê, được trang bị bằng hàng ngàn tấm kính từ trên trần nhà đến các vách tường.
Du khách sẽ ngỡ ngàng vì một hiện tượng lạ lùng: Nếu bạn đưa tay ra và chỉ về một phía nào đó, bạn sẽ thấy có hàng trăm ngàn cánh tay và hàng ngàn khuôn mặt đang hướng về bạn như đang ngắm nhìn bạn. Bạn sẽ cảm thấy như mọi người đang chú ý đến bạn. Nhưng nhìn cho kỹ thì tất cả những cánh tay, tất cả những khuôn mặt đó đều là của bạn.
Ðó là hình ảnh của mỗi người trong chúng ta. Ai trong chúng ta cũng cho mình là quan trọng nhất. Tất cả mọi hành động, mọi ý nghĩ, mọi lời nói, đều tập trung vào bản thân chúng ta và trong lòng chúng ta không còn một chỗ trống nào dành cho người khác.
Cái tôi trong chúng ta có thể là một trở ngại cho tương giao giữa chúng ta và người khác cũng như tương giao giữa chúng ta và Chúa. Sự sống của Chúa chỉ có thể lớn mạnh trong chúng ta và sự sống của chúng ta chỉ có thể triển nở là lúc chúng ta thực sự sống cho Chúa. Lời của Ngài phải tiêu diệt cái tôi ích kỷ trong chúng ta để chúng ta có thể lớn lên trong Người. Nói như thánh Gioan Tẩy Giả khi gặp chúa Giêsu: “Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại”. Thưa bạn, đó là bí quyết trong cuộc sống của người Kitô chúng ta.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Bảy – Tuần 33 – TN2 – Năm Chẵn
Bài đọc: Rev 11:4-12; Lk 20:27-40.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sự sống lại và cuộc sống đời đời
Có thể nói câu hỏi: “Có sự sống lại và cuộc sống đời đời không?” là câu hỏi then chốt và quan trọng nhất của cuộc đời; vì niềm tin này sẽ hướng dẫn con người trong cuộc sống ở đời này. Nếu con người tin có sự sống lại và cuộc sống vĩnh cửu mai sau, con người sẽ biết sống ở đời này làm sao để đạt được cuộc sống vĩnh cửu mai sau; nếu không tin có sự sống lại và cuộc sống đời sau, con người sẽ tập trung mọi cố gắng để làm sao cho cuộc sống đời này được hạnh phúc và hưởng thụ tối đa, mà không cần quan tâm đến việc thưởng phạt ở đời sau. Niềm tin vào sự sống lại, tuy đã được đề cập đến trong Cựu-Ước, nhưng chưa được cắt nghĩa rõ ràng; đa số người thời đó tin hạnh phúc chỉ ở đời này: sống lâu trăm tuổi, con đàn cháu đống, được Thiên Chúa ban muôn phúc lành. Quan niệm về sự bất tử của linh hồn được cắt nghĩa rõ ràng hơn trong Sách Khôn Ngoan (khỏang 50 BC), và sự sống lại trong Sách Maccabees (100 BC). Khi Đức Kitô nhập thể, Ngài đã mặc khải rõ ràng cho con người những điều này và Kế Họach Cứu Độ của Thiên Chúa trong các Sách Tin Mừng.
Các Bài đọc hôm nay tập trung vào việc tìm ra câu trả lời cho câu hỏi quan trọng này. Bài đọc I nói về số phận của hai ngôn sứ quan trọng trong Cựu Ước: Moses và Elijah. Truyền thống Do-Thái tin hai ngôn sứ này chưa chết, và sẽ tái xuất hiện trước Ngày của Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, Chúa trả lời Nhóm Sađốc về sự sống lại và sửa sai niềm tin của họ.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thị kiến hai cây olie và hai cây đèn
1.1/ Hai cây olive: Đây có lẽ là đọan văn khó hiểu nhất của Sách Khải Huyền, vì nó liên quan đến các nguồn khác nhau và có nhiều xung đột ý kiến. Căn cứ vào sự mô tả của 2 nhân chứng (câu 5,6, và 12), chúng ta có thể nhận ra 2 nhân chứng là Moses (tượng trưng cho Luật) và Elijah (tượng trưng cho các tiên tri). Truyền thống Do-Thái (Deut 18:15 và Mal 3:22-24) tin hai ông chưa chết, và sẽ trở lại để rao giảng xám hối trước Ngày của Thiên Chúa.
– Trong trình thuật, hai ông được mô tả là hai “cây olive và 2 cây đèn (Zech 4:1-14):” đại diện cho tòan thể Dân Thánh để làm nhân chứng sống động và muôn thuở cho tòan thể Giáo Hội (Acts 1:8). Các tín hữu luôn sống trong sự hiện diện của Thiên Chúa và phục vụ Ngài bằng cuộc sống chứng nhân.
– “Nếu ai muốn làm hại các ngài, thì lửa sẽ từ miệng các ngài phát ra và thiêu huỷ thù địch của các ngài. Ai muốn làm hại các ngài, sẽ bị giết như thế.” TT Elijah đã mang lửa từ trời xuống tiêu diệt quân thù (2 Kgs 1:10ff.). Họ giết các thù địch bằng lửa của Lời Chúa mà họ rao giảng (Jer 5:14, Sir 48:3).
– Các ngài có quyền đóng cửa trời lại, khiến mưa không rơi xuống trong những ngày các ngài làm ngôn sứ (TT Elijah, 1 Kgs 17:1). Các ngài cũng có quyền biến nước thành máu và gieo tai giáng hoạ xuống mặt đất, bao nhiêu lần tuỳ ý (Moses, Xuất Hành, 1 Sam 4:8).
– Khi các ngài đã hoàn thành nhiệm vụ làm chứng, thì Con Thú từ vực thẳm sẽ lên tấn công các ngài, nó sẽ thắng và giết các ngài: Con thú dữ này là Satan và bè lũ của nó.
– Thi hài của các ngài sẽ nằm ở quảng trường của thành phố vĩ đại (Babylon trong Khải Huyền); thành phố ấy mang tên tượng trưng là Sôđôm, cho lối sống vô luân (Isa 1:9, Eze 16:46) và Ai-Cập, cho lối sống nô lệ, ở chính nơi Chúa của các ngài đã chịu đóng đinh vào Thập Giá (Jerusalem). Từ các dân, các nước, các ngôn ngữ và các chi tộc, người ta sẽ đến nhìn xem thi hài các ngài trong ba ngày rưỡi (thời gian Chúa Giêsu trong mồ) và không cho phép chôn các ngài trong mộ. Từ chối không cho chôn cất được coi là cách thức khinh thường nhục nhã nhất đối với người chết (Psa 79:2f, Jer 8:2, 16:4, 2 Mac 5:10).
– Những người sống trên mặt đất hân hoan vì các ngài đã chết, họ sẽ ăn mừng và tặng quà nhau, vì hai ngôn sứ này đã làm khổ họ: Thế giới Dân Ngọai, khó chịu vì các nhân chứng Kitô hữu, sẽ vui mừng về cái chết của các ngài.
1.2/ Hai ngôn sứ phục sinh và lên trời: Sau ba ngày rưỡi, sinh khí từ Thiên Chúa đến nhập vào các ngài, và các ngài đứng dậy được. Những kẻ đang nhìn các ngài đều kinh hãi. Rồi các ngài nghe một tiếng lớn từ trời bảo: “Hãy lên đây!” Và các ngài lên trời trong đám mây, trước mắt thù địch của các ngài.
2/ Phúc Âm: Có sự sống lại hay không?
2.1/ Câu hỏi khó của Nhóm Sađôc nhằm chứng minh không có sự sống lại: Nhóm này chỉ tin vào Sách Luật Môsê và không tin có sự sống lại; đó là lý do tại sao họ đến và hỏi Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, ông Môsê có viết cho chúng ta điều luật này: Nếu anh hay em của người nào chết đi, đã có vợ mà không có con, thì người ấy phải lấy nàng, để sinh con nối dòng cho anh hay em mình (Deut 25:5). Vậy nhà kia có bảy anh em trai. Người anh cả lấy vợ, nhưng chưa có con thì đã chết. Người thứ hai, rồi người thứ ba đã lấy người vợ goá ấy. Cứ như vậy, bảy anh em đều chết đi mà không để lại đứa con nào. Cuối cùng, người đàn bà ấy cũng chết. Vậy trong ngày sống lại, người đàn bà ấy sẽ là vợ ai, vì cả bảy đều đã lấy nàng làm vợ?” Câu hỏi của họ tuy dựa trên Lề Luật, nhưng không thực sự xảy ra trong cuộc đời. Tuy nhiên, nếu có sự sống lại, nàng sẽ thuộc về ai trong 7 người anh em?
2.2/ Câu trả lời của Chúa Giêsu: Chúa Giêsu tách rời 2 vấn đề của họ: chuyện vợ chồng và sự sống lại; đồng thời Ngài sửa sai niềm tin của họ:
(1) Chuyện vợ chồng: “Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, chứ những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng.” Vợ chồng chỉ xảy ra khi còn ở dương gian; tất cả là anh chị em trong cuộc sống mai sau. Con người không có nhu cầu để cưới vợ lấy chồng trên Thiên Đàng như Hồi-Giáo tin.
(2) Cuộc sống trường sinh: “Quả thật, họ không thể chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại.”
(3) Dùng Luật họ tin để bắt bẻ sự tin sai của họ: “Còn về vấn đề kẻ chết trỗi dậy, thì chính ông Môsê cũng đã cho thấy trong đoạn văn nói về bụi gai (Exo 3:1-6), khi ông gọi Đức Chúa là Thiên Chúa của tổ phụ Abraham, Thiên Chúa của tổ phụ Isaac, và Thiên Chúa của tổ phụ Giacob. Mà Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là, vì đối với Người, tất cả đều đang sống.” Nếu họ tin “Thiên Chúa là Chúa của kẻ sống;” họ phải tin các tổ phụ Abraham, Isaac, và Giacob vẫn đang sống. Nói cách khác, họ phải tin có sự sống lại.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Một trong các tín điều phải tin trong Kinh Tin Kính mà chúng ta tuyên xưng mỗi Chủ Nhật: “tôi tin có sự sống lại và cuộc sống đời sau.”
– Căn bản của niềm tin này là chính Chúa Giêsu: Lời Giảng và sự phục sinh vinh hiển của Ngài.
– Chúng ta phải để niềm tin này nuôi dưỡng chúng ta, và phải biết sống làm sao ở đời này để xứng đáng thừa hưởng cuộc sống mai sau.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
****************