Ngày thứ ba (15-10-2024) – Trang suy niệm

14/10/2024

Lời Chúa Hôm Nay

Thứ Ba Tuần XXVIII Thường Niên

BÀI ĐỌC I: Gl 4, 31b – 5, 6 (Hl 5, 1-6)

“Cắt bì là vô giá trị, nhưng chỉ có đức tin hoạt động bởi đức mến”.

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Galata.

Anh em thân mến, chính để chúng ta được tự do mà Đức Kitô đã giải thoát chúng ta. Anh em hãy đứng vững, đừng để bị đặt dưới ách nô lệ một lần nữa. Chính tôi đây, Phaolô, tuyên bố cho anh em rằng: Nếu anh em chịu cắt bì, thì Đức Kitô chẳng làm nên công trạng gì cho anh em. Tôi chứng thực một lần nữa với mọi người nào chịu cắt bì rằng: họ bị bắt buộc phải giữ trọn cả lề luật. Anh em muốn công chính hoá bởi lề luật, thì anh em tự tách biệt khỏi Đức Kitô, và đã mất ân sủng rồi.

Về phần chúng tôi, nhờ Thánh Thần và nại vào đức tin, chúng tôi mong chờ trông cậy sự công chính. Bởi chưng trong Đức Giêsu Kitô, cắt bì hay không cắt bì đều vô giá trị, nhưng chỉ có đức tin hoạt động bởi đức mến. Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 118, 41. 43. 44. 45. 47. 48

A+B=Lạy Chúa, xin rủ lòng thương xót đến con (c. 41a).

A=Lạy Chúa, xin rủ lòng thương xót đến con, xin ban ơn phù trợ theo lời Ngài đã hứa.      

B=Xin đừng rút lời chân lý khỏi miệng con, vì con trông cậy vào sắc dụ của Ngài.                         

A=Con sẽ tuân giữ luật pháp Chúa luôn luôn, cho tới muôn ngàn đời và mãi mãi.

B=Con sẽ bước đi trên đường rộng rãi, vì con tìm kiếm huấn lệnh của Ngài.         

A=Các chỉ thị Ngài làm cho con hoan lạc, đó là những điều con vẫn mến yêu.       

B=Con giang tay cầu chỉ thị của Chúa, và con suy gẫm về những thánh chỉ của Ngài.

A+B=Lạy Chúa, xin rủ lòng thương xót đến con (c. 41a).

ALLELUIA: Ga 6, 64b và 69b

Alleluia, alleluia! – Lạy Chúa, lời Chúa là thần trí và là sự sống; Chúa có những lời ban sự sống đời đời. – Alleluia.

PHÚC ÂM: Lc 11, 37-41

“Hãy bố thí, thì mọi sự sẽ nên trong sạch cho các ông”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, lúc Chúa Giêsu còn đang nói, thì có một người biệt phái mời Người dùng bữa tại nhà ông. Người đi vào và ngồi bàn ăn. Nhưng người biệt phái ngạc nhiên, nghĩ trong lòng rằng tại sao Người không rửa tay trước khi dùng bữa.

Bấy giờ Chúa phán cùng ông ấy rằng: “Này các ông, những người biệt phái, các ông lau rửa bên ngoài chén đĩa, nhưng nội tâm các ông đầy tham lam và gian ác. Hỡi những kẻ ngu dại, chớ thì Đấng đã tạo thành cái bên ngoài, lại chẳng tạo thành cả cái bên trong sao? Hãy đem những cái bên trong ra mà bố thí, thì mọi sự sẽ nên trong sạch cho các ông”. Đó là lời Chúa.

(Nguồn: UBPV/HĐGMVN, ấn bản 1973)

++++++++++++++++++

15/10/2024 – THỨ BA TUẦN 28 TN

Th. Tê-rê-sa Giê-su, trinh nữ, tiến sĩ HT

Lc 11,37-41

CHỮA TẬN CĂN

Đức Giê-su nói: “Nhóm Pha-ri-sêu các người, bên ngoài chén đĩa, thì các người rửa sạch, nhưng bên trong các người thì đầy những chuyện cướp bóc, gian tà… Tốt hơn, hãy bố thí những gì ở bên trong, thì bấy giờ mọi sự sẽ trở nên trong sạch cho các người”. (Lc 11,39.41)

Suy niệm: Người ta thường nói: “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn.” Nhưng giới Pha-ri-sêu thì không nghĩ như vậy. Họ trau chuốt bên ngoài bằng việc giữ luật cách chi li để tỏ ra mình đạo đức. Chúa Giê-su trách họ chăm chút “rửa sạch chén đĩa bên ngoài” nhưng trong lòng thì “đầy những chuyện cướp bóc gian tà.” Nhưng nhân đức phải phát xuất tự nội tâm và không được “xao lãng lẽ công bình và lòng yêu mến Thiên Chúa” (x. Lc 11,42); bởi Thiên Chúa là “Đấng làm ra cái bên ngoài” cũng là “Đấng làm ra cái bên trong”.

Mời Bạn: Những nghi thức, việc làm bên ngoài, tự chúng, không phải là xấu. Nhưng khi chúng thiếu đi điều thiết yếu bên trong là công bình và bác ái, thì những việc làm đó trở thành vô nghĩa. Thánh Phao-lô ca ngợi lòng bác ái đã nói: “Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (1Cr 13,3). Và thánh Au-gút-ti-nô cũng nói mạnh không kém: “Hãy yêu rồi làm gì thì làm.”

Sống Lời Chúa: Hôm nay tôi quyết tâm làm những việc nhỏ nhưng với tất cả tấm lòng yêu mến.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, xin cho chúng con biết thanh luyện nội tâm bằng những việc lành phúc đức và siêng năng kín múc ân sủng từ nơi Chúa để đời sống chúng con thực sự ngát hương bác ái cho đời. Amen.

(5 Phút Lời Chúa)

++++++++++++++++++

Suy niệm và cầu nguyện

Suy niệm

Một ông Pharisêu mời Đức Giêsu đến dùng bữa.
Cử chỉ đó cho thấy thiện cảm của ông đối với Ngài.
Đức Giêsu đã đáp lại lời mời, đã đến nhà ông và liền ngồi vào bàn tiệc.
Ông chủ nhà bị sốc vì thấy khách không rửa tay trước khi ăn.
Đối với ông đây là một thói quen quan trọng, không thể thiếu.
Thế là Đức Giêsu đã giảng cho ông một bài hẳn hoi.
Tuy nhiên, vì tế nhị, vì là khách mời cho một bữa ăn,
nên chắc Ngài đã chẳng nặng lời đến mức đó.
Bài Tin Mừng này thật ra phản ánh sự căng thẳng từ sau năm 70,
giữa những người Pharisêu thuộc giới lãnh đạo hội đường với các Kitô hữu.

Đức Giêsu đã dùng hình ảnh một cái chén uống nước và cái đĩa.
Đối với Ngài, các người Pharisêu chỉ lo lau rửa ở bên ngoài chén đĩa.
Chú trọng tỉ mỉ đến cái bên ngoài là nét riêng của họ.
Lắm khi cái bên ngoài chỉ là những cái phụ thuộc, không cần thiết.
Điều họ muốn mọi người tuân giữ lại không phải là chính Luật Môsê,
nhưng chỉ là những lời giải thích chi li Luật đó
được truyền miệng nơi các rabbi, rồi sau này được viết lại thành sách.
Đức Giêsu cho thấy cái bên trong của người Pharisêu,
cái bên trong của chén và đĩa mà họ không để tâm lau rửa.
“Cái bên trong của các người thì đầy chuyện cướp bóc, gian tà” (c. 39).
Như thế cái bên trong của chén đĩa
tượng trưng cho cái bên trong của tâm hồn con người.
Rửa sạch cái bên ngoài của chén đĩa, không đủ.
Cần phải rửa sạch cả cái lòng tham lam chiếm đoạt và lòng độc ác gian tà.
Rửa sạch cái bên trong mới là điều quan trọng hơn, cấp thiết hơn, khó hơn.
Có khi vì khó nên người ta né tránh bằng cách làm cái dễ.

Đức Giêsu bực bội về sự tương phản này nơi một số người Pharisêu,
tương phản giữa cái bên ngoài rất sạch và cái bên trong rất dơ,
khiến nhiều người có thể bị ngộ nhận.
Nhưng Thiên Chúa thì không.
Ngài thấy cả hai, vì ngài đã làm ra cả cái bên ngoài lẫn cái bên trong (c. 40).
Đức Giêsu cho ta cách để tẩy rửa cái bên trong nhơ uế, đó là bố thí (c. 41).
Trong tiếng Hy Lạp, bố thí có nghĩa gốc là bày tỏ lòng thương xót.
“Bấy giờ mọi sự trở nên sạch cho các người.”
Khi bố thí chia sẻ, người ta biến đổi từ bên trong.
Tấm lòng tham lam ác độc trở nên đầy tình bác ái xót thương.

Đức Giêsu đưa chúng ta về với cái bên trong, cái cốt lõi của đời Kitô hữu.
Như người Pharisêu cách đây hai ngàn năm, 
chúng ta vẫn bị cám dỗ để dừng lại và mãn nguyện với cái bên ngoài.
Làm sao để chúng ta thực sự trong sạch dưới ánh mắt của Thiên Chúa?
Làm sao để cái bên ngoài của chúng ta thực sự phản ánh cái bên trong?
Đời Kitô hữu chính là một nỗ lực đi từ việc giữ đạo hời hợt, hình thức,
đến việc sống đạo từ trong máu thịt mình.
Xin Chúa giúp ta rút ngắn khoảng cách giữa cái bên ngoài và cái bên trong.

Cầu nguyện

Lạy Chúa Giêsu,
khi đến với nhau,
chúng con thường mang những mặt nạ.
Chúng con sợ người khác thấy sự thật về mình.
Chúng con cố giữ uy tín cho bộ mặt
dù đó chỉ là chiếc mặt nạ giả dối.

Khi đến với Chúa,
chúng con cũng thường mang mặt nạ.
Có những hành vi đạo đức bên ngoài
để che giấu cái trống rỗng bên trong.
Có những lời kinh đọc trên môi,
nhưng không có chỗ trong tâm hồn,
và ngược hẳn với cuộc sống thực tế.

Lạy Chúa Giêsu,
chúng con cũng thường ngắm mình trong gương,
tự ru ngủ và đánh lừa mình,
mãn nguyện với cái mặt nạ vừa vặn.

Xin giúp chúng con cởi bỏ mọi thứ mặt nạ,
đã ăn sâu vào da thịt chúng con,
để chúng con thôi đánh lừa nhau,
đánh lừa Chúa và chính mình.

Ước gì chúng con xây dựng bầu khí chân thành,
để chúng con được lớn lên trong bình an.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

(phutcaunguyen.net)

++++++++++++++++++

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên

15 THÁNG MƯỜI

Tình Yêu Chúa Kitô Thúc Bách Các Nhà Thừa Sai Bác Ái

Sứ mệnh cứu thế của Đức Giêsu Na-da-rét đã được triển khai ở Ấn Độ, đặc biệt ở Calcutta, bằng một cách thế hết sức hùng hồn, thể hiện một lời chứng đích thực về Thiên Chúa. Đó là một lời chứng làm cho cả thế giới phải thán phục, một chứng tá làm rung động lương tâm nhân loại. Tôi đang muốn nói đến cuộc sống và hoạt động của một người phụ nữ: dù bà không sinh ra ở Ấn Độ, mọi người vẫn gọi bà là Mẹ Têrêsa Calcutta.

Cách đây ít năm, người phụ nữ này đã được tình yêu Chúa Kitô thúc bách để phục vụ Ngài nơi những người khốn khổ và bất hạnh nhất. Mẹ đã bỏ công việc dạy học để thành lập Hội Dòng Thừa Sai Bác Aùi. Qua những công việc phục vụ đầy ấn tượng cho những người nghèo khổ nhất, Mẹ Tê-rê-sa thi hành một cách cụ thể sứ vụ cứu thế của Chúa Giêsu: “mang niềm vui đến cho người nghèo” (Lc 4,18). Mẹ đã trao cho thế giới một bài học đầy khích lệ về lòng trắc ẩn và tình yêu chân thành đối với những ai cần được giúp đỡ. Tấm gương của mẹ đã biểu lộ sức mạnh cứu độ. Tấm gương ấy đang thôi thúc nhiều người nam cũng như nữ thể hiện những chứng tá phục vụ rất anh hùng. Quả thật, tấm gương của Mẹ Tê-rê-sa vẫn còn tiếp tục động viên họ kiên trì phục vụ không mệt mỏi.

– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –

Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác

LIFT UP YOUR HEARTS

Daily Meditations by Pope John Paul II

+++++++++++++++++

Lời Chúa Trong Gia Đình

Ngày 15/10

Thánh Têrêxa Giêsu, trinh nữ

Tiến sĩ Hội Thánh

Gl 5, 1-6; Lc 11, 37-41.

Lời Suy Niệm: “Tốt hơn, hãy bố thí những gì ở bên trong, thì bấy giờ mọi sự sẽ trở nên trong sạch cho các ngươi.” (Lc 11,41)

          Khi Chúa Giêsu đến dự một bữa tiệc, những người Do-thái đã chưng hửng khi thấy Người không rửa tay trước khi ăn theo luật. Trước những sự đánh giá này của họ, Chúa Giêsu đã cho tất cả mọi người biết, những ai muốn sống đẹp lòng Thiên Chúa không phải vì giữ luật nghiêm nhặt, nhưng phải sống vì ân sủng của Ngài ban cho, để thể hiện tình yêu thương của Thiên Chúa, khi đối xử với người thân cận, đặc biệt với người đang hiện diện trước mặt mình.

          Lạy Chúa Giêsu, chúng con tạ ơn Chúa đã cho chúng con sống trong một tôn giáo ân sủng và tình yêu. Xin Chúa cho chúng con luôn được ánh sáng này chiếu dọi trong tư tưởng và hành động suốt đời sống của chúng con. Amen.

Mạnh Phương

+++++++++++++++++

Gương Thánh Nhân

Ngày 15-10

Thánh TÊRÊXA AVILA
Đồng Trinh, Tiến Sĩ Hội Thánh (1515 – 1585)

Sinh ngày 28 tháng 3 năm 1515, Têrêxa là một trong 12 người con của ông Anphong Cpêda, lớn lên tại Avila, vương quốc Castille, miền đất của mộng mơ và của các thánh “. Ngài ham thích đọc các sách dạy sống khổ hạnh và suy gẫm cuộc đời các thánh. Với lòng nhiệt thành, Ngài ngây ngất vì hạnh phúc vĩnh cửu ân thưởng cho những đau khổ của các thánh, cũng như kính sợ những khốn khổ của hoả ngục tồn tại mãi mãi. Ngài đã nói trong run sợ: – Ai có thể chịu nổi cái ý nghĩ như vậy được ?

Mong mỏi được tử đạo, một ngày kia, Ngài lén dẫn cậu em Rodrigue đi về miền dân dữ tợn đang hành hạ các Kitô hữu này. Nhưng mới đi được nửa dặm đường thì ông cậu bắt được và dẫn đưa về nhà. Không tử đạo được, các em sẽ trở thành những nhà ẩn tu. Các em làm những cái hầm và cầu nguyện lâu giờ tại đó. Nhưng rồi một ngày kia, những bức tường nhỏ bằng đá bị sập. Các em nhỏ thánh thiện này thường nhịn ăn để làm việc bác ái.

Năm 13 tuổi, tức năm 1528, Têrêxa mất mẹ, Ngài khấn nài Mẹ Maria là Mẹ. Chuỗi Mân Côi trở thành vịệc sùng kính đặc biệt của Ngài.

Têrêxa có một bản chất ngay thẳng, nhiệt hành và tha thiết mến Chúa. Khoảng 15 tuổi, Ngài lén đọc các truyện kiếm hiệp làm cho Ngài ra mơ mộng, lúc này, Ngài muốn mặc đẹp, xức dầu thơm, lo trang sức và thích được ve vãn. Chị em cho Ngài xinh đẹp. Một cô em họ ngây ngất không muốn rời xa Ngài. Họ nói truyện phiếm với nhau hàng giờ. Têrêxa nói: – Tôi được cứu thoát, chính là vì kính sợ Chúa, điều mà tôi không bao giờ bỏ mất, và vì sợ mất danh dự.

Ngài còn nói: – Tôi đã rất ghê tởm những điều bất lương.

Dầu vậy cha Ngài cũng lo âu và quyết định gởi Ngài học nội trú ở nơi các nữ tu dòng thánh Augustinô. Têrêxa không thích thú gì, nhất là đã không hề muốn rằng sau này mình sẽ là nữ tu. Nhưng Ngài phải vâng lời. Và Ngài sắp tìm lại được lòng đạo đức nhiệt thành của tuổi thơ khi sống gần các bậc thầy này. Hơn khi nào, Ngài khao khát những của cải đời đời. Nhưng đời sống khắc khổ trong tu viện làm Ngài run sợ.

Têrêxa ngã bệnh. Ngài trở về nhà cha và nghe ông cậu nhắc lại rằng mọi sự đời này chỉ là phù vân và sẽ qua mau như chớp. Sau cùng Ngài hiểu rằng: ơn gọi của mình là sống đời tu sĩ. Nhưng những chống đối dữ dội nổi lên trong lòng. Hơn nữa, Ngài phải coi thường những chối từ của cha Ngài. Năm 1536, Ngài vào dòng kín Camelô, sau khi phải chịu đựng cuộc chiến đấu kinh khủng với chính mình: để giã từ nhà cha, Ngài khổ sở đến dộ xương cốt như rã rời và tan nát con tim. Nhưng rồi Ngài đã mạnh mẽ thắng vượt mọi cám dỗ đau khổ.

Têrêxa đã trải qua 27 năm tại tu viện Nhập Thể, là nơi luật lệ được châm chước cho phép giải trí và tiếp khách, Ngài còn phải qua một bước dài trước khi dấn mình vào con đường cực nhọc để xây dựng và cải sửa các dòng tu. Trước hết, sức khỏe của Ngài xem ra không chịu đựng nổi. Bệnh tật, Ngài trở về nhà, các bác sĩ tuyên bố là bất trị, Ngài tín thác vào thánh Giuse và khỏi bệnh sau một cơn ngất trí. Trở lại tu viện, Ngài được chị em yêu mến.

Cách nói chuyện hấp dẫn của Ngài lôi kéo nhiều cuộc viếng thăm. Ngài kể lại:
– Một đàng Chúa gọi tôi, đang khác thì thế gian lôi kéo. Cuộc chiến nội tâm xâu xé tôi.

Ngày kia trong một câu chuyện trần tục, Ngài đã được thị kiến thấy Chúa Giêsu đầy thương tích. Têrêxa thấy đau lòng, nhưng Ngài còn phải chiến đấu nhiều để đạt tới chỗ chỉ yêu các tạo vật trong Chúa và vì Chúa. Trong nhiều năm, Ngài đã trải qua sự khô khan, qua cơn sợ hãi hỏa ngục. Trong vòng 20 năm Ngài đã không tìn ra cha giải tội hiểu được Ngài và muốn bàn về việc thị kiến. Thánh Phanxicô Borgia đã trấn an Ngài.

Sau cùng, các cha giải tội buộc Ngài ghi lại điều đã xảy ra trong tâm hồn. Và thánh nữ, một con người ít học, đã viết nên được những tác phẩm có giá trị, đến nỗi Ngài đã đáng được danh hiệu là Tiến Sĩ Hội Thánh.

Nếu trước hết, sự sợ hãi các khổ cực đời đời đã dẫn Têrêxa vào đường hẹp đưa tới chỗ cứu rỗi thì bây giờ tình yêu Chúa xâm chiếm Ngài như cơn hỏa hào. Các cuộc xuất thần tăng thêm. Ba Ngôi, Đức Trinh nữ, các thiên thần và các thánh hiện ra với Ngài. Ngài được nâng lên khỏi mặt đất và ở nguyên như vậy khi cầu nguyện. Vào tuổi 43, thánh nữ thường thấy Đấng cứu thế và nghe Người nói: – Cha không muốn con nói truyện với loài người, nhưng với các thiên thần.

Một thiên thần dùng giáo đâm thủng tim Ngài và Chúa Giêsu gọi Ngài là hiền thê. Cho tới cuối đời, Ngài đã hiệp nhất với đấng cứu chuộc bị đóng đinh và đã ước được chịu khổ vì Người đến nỗi người ta thường nghe Ngài kêu lên: – Lạy Chúa, hoặc là chết, hoặc là đau khổ.

Ngài tự ràng buộc bởi lời khân anh hùng này, là luôn làm điều thiện hảo hơn, nhưng lại chẳng tỏ ra nhiệm nhặt chút nào, trái lại còn nhanh nhẹn vui tươi duyên dáng tới độ gõ sênh mua vui cho các nữ tu dòng kín Camêlô. Vị nữ tu chiêm niệm này còn tỏ lộ một sự hiểu biết tích cực, một tinh thần thực tiễn sẽ đưa Ngài tới cuộc cải đổi dòng Camelô.

ịnh mệnh đặc biệt sắp đưa Ngài qua mọi chặng đường để thiết lập các tu viện. Trước hết năm 1562, khép mình ở Avila nhưng một nhà mang danh thánh Giuse, là nơi các nữ tu sống trong thinh lặng, nghèo khó, cầu nguyện, chay tịnh, đi chân không trong mọi mùa, Têrêxa ra khỏi nơi này và không ngừng thiết lập, tổ chức những tu viện mới. Hầu như luôn luôn bệnh hoạn, Ngài theo đuổi những cuộc hành trình mệt lả trước sự nóng nung, làm mồi cho các côn trùng tấn công hay những đêm lạnh lẽo mùa đông đã giữ Ngài lại trong những đoạn đường không tên không có nơi trú ẩn. Những cuộc bắt bớ tấn công Ngài. Ngài viết cho một ân nhân: – Cho tiền bạc chẳng là gì, nhưng khi chúng tôi như đến lúc bị ném đá, thì công việc lại trôi chảy.

Và khi mẹ đã vượt thắng mọi ngăn trở và thiết lập các tu viện mới, cơn đau đớn nhức nhối lại đợi chờ Ngài vì phải giã từ con cái yêu dấu để ra đi xây dựng tu viện ở nơi khác. Đây là: – Nỗi thống khổ đớn đau nhất. Tim tôi tan nát đau khổ nghĩ rằng: sẽ không còn gặp lại họ nữa.

Thánh Gioan thánh giá trợ lực, Ngài trải rộng việc canh tân tới các cha dòng Carmes mà Ngài muốn tái lập sự nghiêm ngặt ban đầu, điều gây nên cho Ngài nhiều xôn xao và dường như làm cho Ngài bị cầm tù. Nhà vua và đức giáo hoàng bảo vệ Ngài. Ngài đã thiết lập hơn 30 tu viện. Hoạt động chưa từng nghe thấy của Ngài, những việc thiết lập, những cuộc du hành, những khó khăn vô số… đã không ngăn cản Ngài vui hưởng sự hiện diện của Chúa, kiên trì cầu nguyện, và thường xuất thần, Ngài nói: – Tôi không hiểu tại sao người ta bảo tôi là nhà sáng lập, chính Chúa sáng lập chứ không phải tôi.

Người ta còn nói lại những phép lạ của Ngài, như tăng thêm đống bột để nuôi cả cộng đoàn. Khi đi qua đồng quê, nhiều gia đình lũ lượt xin Ngài ban phép lành.

Giữa các hoạt động lạ lùng, Têrêxa vẫn viết về đời mình mà Ngài gọi là sách các kỳ công của Chúa, và “Lâu Đài Nội Tâm” là nơi tâm hồn Ngài, từng phòng một vươn tới uy linh Chúa. Với sự linh hoạt, Ngài biết dùng vài lời tóm gọn tất cả sự thánh thiện:

– Phải can đảm để trở thành phụ nữ của vua trên trời.

– Đừng lo suy nghĩ nhiều, nhưng là yêu nhiều.

– Ta nhân đức hơn khi liên kết với nhân đức của Chúa, hơn là dính chặt với phận bụi đất của ta.

– Nỗ lực của ta là bắt chước con tằm, xây tổ của ta bằng cách tẩy trừ ích kỷ và thực hiện những việc xám hối cầu nguyện, hy sinh, vâng lời. Thiên Chúa sẽ biến ta thành bướm trắng khi Ngài muốn.

– Quan trọng là biết yêu mến và kính sợ, hai nhân đức vĩ đại.

– Khi bị đau khổ bên ngoài cần chăm lo làm việc bác ái và biết hy vọng vào lòng thương xót của Chúa.

Ngài có chút hài hước trong sự thánh thiện, như lời hóm hỉnh được biết đến nhiều, khi Ngài bị thương ở chân: – Lạy Chúa, sau bao nhiêu phiền muộn lại đến chuyện đó nữa, Cha đối xử với bạn hữu của cha như thế đó…. Vâng lạy Chúa của con, không lạ gì mà Chúa ít bạn.

Lòng Ngài rảo khắp thế giới: – Những người An độ nghèo khổ này làm tôi đổ bao nhiêu là nước mắt.

Têrêxa qua đời tại miền quê ở Albe de Tormès ngày 04 tháng 10 năm 1583. Chính tình yêu quá mức hơn là con bệnh đã đưa tới cái chết của Ngài. Khi đưa Thánh thể vào phòng, Ngài đã ngăn cho Ngài khỏi tung ra khỏi giường. Ngài đã la to: “Lạy Chúa, đến lúc chúng ta gặp nhau rồi”. Và đời đời, Têrêxa đã hiệp nhất với tình yêu.

Ngài được tuyên thánh năm 1628 và ngày 27 tháng 9 năm 1970, Đức giáo hoàng Phaolô VI đã đặt Ngài làm tiến sĩ Hội Thánh .

(daminhvn.net)

+++++++++++++++++

15 Tháng Mười

Người Ðàn Bà “Rất Ðàn Bà”

Hôm nay là ngày kính nhớ thánh nữ Têrêxa Avila.

Vị nữ tiến sĩ hội thánh này đã sống trong một giai đoạn có nhiều xáo trộn nhất đối với Giáo Hội. Thánh nữ chào đời khi cuộc cải cách của người Tin Lành bắt đầu và qua đời khi Công Ðông Trento vừa chấm dứt. Ngài đã được Thiên Chúa ban cho Giáo Hội như một đóa hoa đẹp đẽ nhất giữa những gái góc đang ụp phủ trên Giáo Hội. Nhưng Têrêxa Avila cũng chỉ là một người đàn bà giống như rất nhiều người đàn bà khác. Ðẹp, có nhiều năng khiếu, đảm đang, đa tình… Têrêxa lại là một người đàn bà “rất đàn bà”. Thế nhưng nơi người đàn bà này, người ta thấy có nhiều tương phản: thông minh nhưng lại thực tế; biết nhiều nhưng không xa vời với kinh nghiệm sống; thần bí nhưng lại đầy nghị lực để trở thành một nhà cải cách.

Têrêxa là một người đàn bà hoàn toàn sống cho Chúa, nghĩa là một người đàn bà cầu nguyện, kỷ luật và biết cảm thông. Trái tim của Têrêxa hoàn toàn thuộc về Chúa. Ðã thách thức tất cả mọi chống đối của người cha để gia nhập dòng kín, Têrêxa cũng tiếp tục đương đầu với không biết bao nhiêu chống đối khác khi muốn cải tổ dòng kín. Người đàn bà yếu đuối này chỉ còn một nơi nương tựa duy nhất: đó là Thiên Chúa.

Là một người sống cho Chúa hoàn toàn, Têrêxa cũng hoàn toàn sống cho người khác. Canh tân cuộc sống của mình, Têrêxa cũng không ngừng đi khắp đó đây để giúp người khác canh tân cuộc sống.

Suốt cuộc đời trải qua trong gian lao và thử thách, về cuối đời, Thánh nữ đã thốt lên: “Ôi lạy Chúa, tất cả những ai làm việc cho Chúa đều được đpá trả bằng gian lao, khốn khó. Nhưng cao quý thay phần thưởng dành cho những ai yêu mến Chúa, nếu họ hiểu được giá trị của nó”.

Hiện nay, người ta nói đến rất nhiều thứ giải phóng, trong đó có giải phóng người phụ nữ.

Có lẽ tất cả những ai đang tranh đấu cho nữ quyền nên nhìn vào mẫu gương của thánh nữ Têrêxa Avila. Một người đàn bà đã có thể thực hiện được nhiều việc vĩ đại, nhưng bản chất đàn bà vẫn không hề thay đổi trong con người ấy. Phải chăng người đàn bà có thể đóng trọn vai trò của họ trong Giáo Hội và trong xã hội khi họ biết trung thành với ơn gọi cao cả mà Thiên Chúa đã trao ban qua nữ tính của họ!

Người nữ có phúc nhất trong những người nữ, người nữ cũng đã sống trọn vẹn ơn gọi làm người: đó là Ðức Maria. Bí quyết để người nữ ấy thể hiện trọn vẹn ơn gọi làm người nữ và làm người của mình chính là hai tiếng “Xin vâng”. Thiên Chúa đã tạo dựng con người và đã quy định cho con người một định mệnh: định mệnh đó chính là sống cho Chúa. Ðức Maria, thánh nữ Têrêxa và bao nhiêu vị thánh nam nữ khác, đã thực hiện được định mệnh đó qua một cuộc sống hoàn toàn vâng phục ý Chúa. Chỉ có một sự bình đẳng duy nhất: đó là sự bình đẳng trước mặt Thiên Chúa. Ðức Maria đã minh chứng được sự bình đẳng đó qua sự cộng tác của Mẹ vào công cuộc cứu rỗi của Ðức Kitô.

Trước mặt Chúa, mỗi người chúng ta đều có một chỗ đứng. Không có chỗ đứng nào cao trọng hơn chỗ đứng khác. Hạnh phúc của chúng ta tùy thuộc ở sự đáp trả của chúng ta đối với tiếng gọi của Chúa.

(Lẽ Sống)

++++++++++++++++++

Lời Chúa Mỗi Ngày

Thứ Ba – Tuần 28 – TN2 – Năm Chẵn 

Bài đọc: Gal 4:31-5:6; Lk 11:37-41.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sống theo đức tin hay theo Lề Luật?

Tiếp theo những gì chúng ta đã chia sẻ hôm qua về sự xung đột giữa người Do-Thái và thánh Phaolô về giao ước cũ và mới. Hôm nay, cả hai Bài đọc đều dẫn chứng sự xung đột này bằng những ví dụ cụ thể. Bài đọc I tranh luận về việc có nên cắt bì hay không? Phúc Âm tranh luận về việc có nên rửa tay trước khi ăn?

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Sống theo đức tin hay theo Lề Luật?

1.1/ Lề Luật không thể làm con người nên công chính: Thánh Phaolô nhắc lại đạo lý căn bản của Kitô Giáo: “Chúng ta không phải là con của một người nô lệ (Hagar-Ismael), nhưng là con của người tự do (Sarah-Isaac). Chính để chúng ta được tự do mà Đức Kitô đã giải thoát chúng ta. Vậy, anh em hãy đứng vững, đừng mang lấy ách nô lệ một lần nữa.”

Ngài trưng ra một ví dụ, việc cắt bì: Theo lễ nghi nhập Đạo Do-Thái, người tân tòng phải làm 3 việc: cắt bì, dâng lễ vật, và chịu thanh tẩy. Một số người Do-Thái sau khi đã trở lại Công Giáo đòi các người tân tòng Dân Ngọai cũng phải chịu cắt bì như họ. Thánh Phaolô phản đối mạnh mẽ sự đòi hỏi này: “Phải, tôi đây, Phaolô, tôi nói cho anh em biết: anh em mà chịu phép cắt bì thì Đức Ki-tô sẽ không có ích gì cho anh em.”

Ngài cắt nghĩa lý do tại sao không nên cắt bì bằng việc dùng tam đọan luận:

– Tiền đề: Bất cứ ai chịu phép cắt bì, người ấy buộc phải giữ trọn vẹn Lề Luật. Nếu không giữ trọn vẹn Lề Luật, người ấy sẽ phải lãnh nhận hình phạt do tội gây nên;

– Phản tiền đề: Nhưng không ai trong con người có thể giữ trọn vẹn Lề Luật;

– Kết luận: Mọi người đều phải lãnh nhận hình phạt.

1.2/ Chỉ có niềm tin vào Chúa Kitô mới có thể làm cho con người nên công chính:

Hình phạt của tội bất trung với Thiên Chúa là cái chết. Làm sao con người có thể tránh khỏi cái chết? Chắc chắn không bằng việc giữ Lề Luật! Nhưng bằng việc tin vào lòng thương xót Chúa qua sự kiện Ngài đã cho Con của Ngài là Đức Giêsu Kitô xuống trần để chết thay cho con người. Chính bằng niềm tin vào Người Con này, con người được trở nên công chính và khỏi chết. Vì thế, “Nếu anh em tìm sự công chính trong Lề Luật, anh em đoạn tuyệt với Đức Kitô và mất hết ân sủng. Còn chúng tôi thì nhờ Thần Khí và dựa vào đức tin mà vững lòng chờ đợi được nên công chính như chúng tôi hy vọng.”

Đối phương của Thánh Phaolô thách thức ngài: “Phải chăng Lề Luật của Thiên Chúa thành vô giá trị đối với các Kitô hữu?” Trong Thư Rôma, Thánh Phaolô cắt nghĩa rõ hơn về vai trò của Lề Luật. Chúng ta chỉ trả lời cách vắn gọn ở đây: Điểm quan trọng chúng ta cần lưu ý là đích điểm và cách chính yếu làm sao để đạt đích. Theo Thánh Phaolô, đích mà mọi người nhắm tới là làm sao trở nên công chính trước Thiên Chúa để khỏi phải chết, và cách để đạt đích là tin vào Chúa Kitô là Con Thiên Chúa đã chịu chết thay cho con người.

Lề Luật, tuy không có giá trị cứu rỗi, nhưng giúp cho con người nhận ra những gì nên và không nên làm. Lề Luật chỉ giúp con người đáp ứng những điều kiện tối thiểu, nhưng không giúp con người tiến xa hơn trong lãnh vực hy sinh, yêu thương, và bác ái. Để có thể tiến xa trên con đường trọn lành, con người cần có một đức tin vững mạnh vào Thiên Chúa, đức tin này thể hiện qua việc làm chứng nhân bằng lời giảng dạy cũng như bằng các công việc bác ái xã hội.

Và Thánh Phaolô kết luận: “Quả thật, trong Đức Kitô Giêsu, cắt bì hay không cắt bì đều không có giá trị, chỉ có đức tin hành động nhờ đức ái.”

2/ Phúc Âm: Trong sạch tâm hồn thì quí trọng hơn sạch sẽ bên ngòai.

2.1/ Người Pharisêu sửng sốt Chúa vì không rửa tay trước khi ăn: Cũng tương tự như đối phương của Thánh Phaolô tranh luận về sự quan trọng của sự cắt bì, đối phương của Chúa Giêsu là một người Pharisêu sửng sốt vì Người không rửa tay trước bữa ăn. Đối với người Do-Thái, việc rửa tay trước khi ăn không chỉ thuần túy là để cho hợp vệ sinh, nhưng là việc giữ Lề Luật. Người Pharisêu sửng sốt vì một người như Chúa lại không giữ các Lề Luật căn bản.

2.2/ Trong sạch tâm hồn thì quí trọng hơn sạch sẽ bên ngòai: Chúa Giêsu biết những gì ông đang tự hỏi, nên Người thẳng thắn nói với ông ấy rằng: “Thật, nhóm Pha-ri-sêu các ngươi, bên ngoài chén đĩa, thì các ngươi rửa sạch, nhưng bên trong các ngươi thì đầy những chuyện cướp bóc, gian tà. Đồ ngốc! Đấng làm ra cái bên ngoài lại đã không làm ra cái bên trong sao? Tốt hơn, hãy cho đi những gì đang có bên trong như của làm phúc, thì bấy giờ mọi sự sẽ trở nên trong sạch cho các người.”

Một câu Hy-Lạp rất khó dịch trong đọan này là “plh.n ta. evno,nta do,te evlehmosu,nhn.” Nhóm PVCGK dịch “Tốt hơn, hãy bố thí những gì bên trong.” Theo văn mạch của đọan này, điều Chúa Giêsu đang muốn nói là sự trong sạch của tâm hồn, và câu 39 đang nói tới những tật xấu bên trong của người Pharirêu: “nhưng bên trong các ngươi thì đầy những chuyện cướp bóc, gian tà.” Tổng hợp tất cả, chúng ta có thể dịch: “hãy cho đi những gì đang có bên trong như của làm phúc.”

Điều Chúa muốn họ lưu ý ở đây là sự thanh sạch trong tâm hồn mà Thiên Chúa muốn họ có, vì Thiên Chúa đã dựng nên con người, và Ngài biết tất cả mọi sự: bên trong cũng như bên ngòai. Họ có thể đánh lừa được mọi người bằng việc giữ cẩn thận các Lề Luật nhưng không thể đánh lừa được Thiên Chúa vì Ngài thấu suốt mọi toan tính trong tâm hồn của họ. Một khi họ đã vất đi những toan tính thấp hèn, họ sẽ trở nên trong sạch thực sự và biết yêu thương tha nhân hơn.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

– Chúng ta không thể trở nên công chính bằng sức mình qua việc cẩn thận giữ các Lề Luật, nhưng chỉ có thể trở nên công chính bằng lòng thương xót của Thiên Chúa qua việc tin tưởng vào Người Con của Ngài. Chính Người Con này đã chết thay cho chúng ta.

– Lề Luật của Thiên Chúa trong Cựu Ước vẫn có giá trị căn bản của chúng. Tuy nhiên, những giới răn của Chúa Giêsu dạy làm hòan hảo những Lề Luật của Cựu Ước. Nếu chúng ta yêu mến Chúa Giêsu, chúng ta phải giữ các giới răn của Người.

– Các Lề Luật đều tóm trong hai giới răn quan trọng nhất: “Mến Chúa, yêu người.” Sự thanh sạch trong tâm hồn cao trọng hơn sự thanh sạch bên ngòai.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

****************