Chúa Nhật (07-04-2024) – Trang suy niệm

06/04/2024

Lời Chúa Hôm Nay

CHÚA NHẬT II PHỤC SINH

BÀI ĐỌC I: Cv 4, 32-35

“Họ đồng tâm nhất trí”.

Trích sách Tông đồ Công vụ.

Lúc bấy giờ tất cả đoàn tín hữu đông đảo đều đồng tâm nhất trí. Chẳng ai kể của gì mình có là của riêng, song để mọi sự làm của chung. Các tông đồ dùng quyền năng cao cả mà làm chứng việc Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, sống lại. Hết thảy đều được mến chuộng. Vì thế, trong các tín hữu, không có ai phải túng thiếu. Vì những người có ruộng nương nhà cửa đều bán đi và bán được bao nhiêu tiền thì đem đặt dưới chân các tông đồ. Và người ta phân phát cho mỗi người tuỳ theo nhu cầu của họ. Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 117, 2-4. 16ab -18. 22-24

Đáp: Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Người muôn thuở (c. 1).

Hoặc đọc: Alleluia.

1) Hỡi nhà Israel, hãy xướng lên: “Đức từ bi của Người muôn thuở”. Hỡi nhà Aaron, hãy xướng lên: “Đức từ bi của Người muôn thuở”. Hỡi những người tôn sợ Chúa, hãy xướng lên: “Đức từ bi của Người muôn thuở”.

2) Tay hữu Chúa đã cất nhắc tôi lên, tay hữu Chúa đã hành động mãnh liệt. Tôi không chết, nhưng tôi sẽ sống, và tôi sẽ loan truyền công cuộc của Chúa. Chúa sửa trị, Chúa sửa trị tôi, nhưng Người đã không nạp tôi cho tử thần.

3) Phiến đá mà những người thợ xây loại bỏ, đã biến nên tảng đá góc tường. Việc đó đã do Chúa làm ra, việc đó kỳ diệu trước mắt chúng ta. Đây là ngày Chúa đã thực hiện, chúng ta hãy mừng rỡ hân hoan về ngày đó.

BÀI ĐỌC II: 1 Ga 5, 1-6

“Mọi cái sinh ra bởi Thiên Chúa đều chiến thắng thế gian”.

Trích thư thứ nhất của Thánh Gioan Tông đồ.

Các con thân mến, ai tin rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, thì kẻ ấy sinh bởi Thiên Chúa, và ai yêu mến Đấng sinh thành, thì cũng yêu mến kẻ sinh ra bởi Đấng đó. Cứ dấu này chúng ta nhận biết rằng chúng ta yêu mến con cái Thiên Chúa, là khi chúng ta yêu mến Thiên Chúa và thực hành các giới răn Người. Vì chưng, lòng yêu mến Thiên Chúa là chúng ta tuân giữ giới răn Người, và giới răn của Người không nặng nề.

Vì những gì sinh bởi Thiên Chúa đều chiến thắng thế gian, và đây là cuộc thắng trận thế gian, là chính đức tin của chúng ta. Ai là người chiến thắng thế gian, nếu không phải là người tin rằng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa? Đấng đã đến nhờ nước và máu, chính là Đức Giêsu Kitô, không phải trong nước mà thôi, nhưng trong nước và máu nữa, có Thánh Thần làm chứng rằng Chúa Kitô là chân lý. Đó là lời Chúa.

ALLELUIA: Ga 20, 29

Alleluia, alleluia! – Chúa phán: “Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin”. – Alleluia.

PHÚC ÂM: Ga 20, 19-31

“Tám ngày sau Chúa Giêsu hiện đến”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người Do-thái, Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông và nói rằng: “Bình an cho các con”. Khi nói điều đó, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người. Bấy giờ các môn đệ vui mừng vì xem thấy Chúa. Chúa Giêsu lại phán bảo các ông rằng: “Bình an cho các con. Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con”. Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại”. Bấy giờ trong Mười hai Tông đồ, có ông Tôma gọi là Điđymô, không cùng ở với các ông, khi Chúa Giêsu hiện đến. Các môn đệ khác đã nói với ông rằng: “Chúng tôi đã xem thấy Chúa”. Nhưng ông đã nói với các ông kia rằng: “Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin”.

Tám ngày sau, các môn đệ lại họp nhau trong nhà và có Tôma ở với các ông. Trong khi các cửa vẫn đóng kín, Chúa Giêsu hiện đến đứng giữa mà phán: “Bình an cho các con”. Đoạn Người nói với Tôma: “Hãy xỏ ngón tay con vào đây, và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng, nhưng hãy tin”. Tôma thưa rằng: “Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!” Chúa Giêsu nói với ông: “Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin”.

Chúa Giêsu còn làm nhiều phép lạ khác trước mặt các môn đệ, và không có ghi chép trong sách này. Nhưng các điều này đã được ghi chép để anh em tin rằng Chúa Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sống nhờ danh Người. Đó là lời Chúa.

(Nguồn: UBPV/HĐGMVN, ấn bản 1973)

++++++++++++++++++

07/04/2024 – CHÚA NHẬT TUẦN 2 PS – B

Kính Lòng Chúa Thương Xót

Ga 20,19-31

ĐẤNG GIÀU LÒNG THƯƠNG XÓT

Người bảo Tô-ma: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa nhưng hãy tin.” (Ga 20,27)

Suy niệm: Tô-ma đòi chứng thực việc Thầy Giê-su phục sinh bằng việc thực nghiệm ‘sờ đụng’ đến những vết thương của cuộc tử nạn trên thân thể Chúa. Đức Ki-tô, Đấng Phục Sinh, vì lòng thương xót, không nỡ để mặc ông cứng lòng tin mãi; thế nên Ngài đã chiều ý ông: Một tuần lễ sau, cũng vào ngày thứ nhất trong tuần, Ngài lại hiện đến, vẫn chúc bình an và mời gọi ông Tô-ma đến dùng giác quan để ‘kiểm chứng’ một mầu nhiệm: “Đặt ngón tay con vào đây… Đưa tay con mà đặt vào cạnh sườn Thầy…” Lòng thương xót Chúa đã hoán cải sự cứng cỏi của Tô-ma thành một lời tuyên tín thật mạnh mẽ: “Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con”.

Mời Bạn: Thánh nữ Faustina được Chúa soi sáng cổ võ việc tôn sùng lòng Chúa thương xót. Ngài đã xác quyết rằng: “Ngoài tình Chúa thương xót, không có nguồn hy vọng nào khác cho nhân loại.” Mỗi lần nhìn lên bức ảnh lòng Chúa thương xót với hàng chữ: “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Ngài” (Jesus, I trust in you), chúng ta không chỉ tuyên xưng Chúa là Đấng giàu lòng thương xót mà đặt trọn con người yếu đuối và cuộc đời tội lỗi của mình vào trong tay Chúa để xin Chúa xót thương.

Sống Lời Chúa: Đọc nhiều lần trong ngày: “Vì cuộc khổ nạn đau thương của Chúa Giê-su, xin Cha thương xót chúng con và toàn thế giới.”

Cầu nguyện: Lạy Chúa, nhiều lúc chúng con tưởng rằng chúng con vững tin, nhưng khi gặp thử thách chúng con mới biết rõ đức tin của chúng con còn yếu kém. Xin vì lòng thương xót Chúa ban thêm đức tin cho chúng con.

(5 Phút Lời Chúa)

++++++++++++++++++

Suy niệm và cầu nguyện

Suy Niệm

Giáo hội đặc biệt dành Chúa nhật thứ hai sau lễ Phục sinh
để kính Lòng Chúa Thương xót.
Khi đi rao giảng, Đức Giêsu hay chạnh lòng thương
trước những người bệnh tật, khổ đau, tội lỗi.
Khi bước vào cuộc Khổ nạn và đi đến cái chết,
chúng ta cũng thấy trái tim Ngài đầy tình xót thương.

Ngài thương các môn đệ khi mắt họ nặng trĩu ở Vườn Dầu,
Ngài để cho họ ngủ dù rất mong họ thức (Mt 26,43-44).
Ngài chấp nhận nụ hôn phản bội của Giuđa
và đứng ra bảo vệ để các môn đệ rút lui an toàn (Ga 18,8-9).
Ngài sờ vào tai của anh đầy tớ vị thượng tế để chữa lành,
sau khi tai anh bị chém đứt (Lc 22,51).
Lúc gà gáy, Ngài quay lại nhìn Phêrô sau khi ông chối Ngài.
Cái nhìn cảm thông, tha thứ, khiến ông bật khóc (Lc 23,62).
Trên đường lên Núi Sọ, khi các phụ nữ khóc thương Ngài,
Ngài lại tỏ lòng thương họ, vì tai họa họ sắp phải chịu (Lc 23,28).
Trên thập giá, Ngài xin Cha tha thứ cho những kẻ giết mình,
và ban ơn cứu độ cho người trộm biết thống hối (Lc 23,34.43).
Cử chỉ tình yêu cuối cùng của Ngài là gắn kết
Mẹ của mình với anh môn đệ mình thương:
“Đây là con của Bà… Đây là Mẹ của anh” (Ga 19,26-27).

Khi Đức Giêsu được Thiên Chúa Cha phục sinh từ cõi chết,
Ngài được đưa vào vinh quang đã có trước đây (Ga 17,24),
được Cha trao mọi quyền năng trên trời dưới đất (Mt 28,18).
Nhưng Đấng chiến thắng khải hoàn vẫn là Chúa xót thương,
Đấng đầy quyền năng thần linh vẫn tôn trọng tự do con người.
Chúa phục sinh đã không đi gặp Philatô,
để trừng phạt ông này về tội hèn nhát, không dám tha.
Ngài không hiện ra để lên án sự vô trách nhiệm của ông.
Chúa phục sinh cũng không đi gặp các thượng tế
để vạch trần lòng dạ xấu xa của họ,
khi họ lên kịch bản công phu nhằm hãm hại Ngài.
Họ đã thách thức Ngài xuống khỏi thập giá để họ tin (Mt 27,42).
Bây giờ Ngài đủ khả năng để bắt họ tin bằng việc hiện ra với họ.
Nhưng Ngài đã không làm.
Những người được Đấng phục sinh hiện ra,
đều là các môn đệ và tín hữu (1 Cr 15,3-8).

Bài Tin Mừng hôm nay cũng cho ta thấy
lòng thương xót vô bờ của Đấng phục sinh đối với các môn đệ.
Ngài đi bước trước đến với họ,
để nâng đỡ họ sau biến cố thập giá kinh hoàng,
biến cố làm vỡ tan mọi hy vọng và sụp đổ mọi ước mơ.
Các môn đệ đã mang những mặc cảm do vấp ngã.
Thầy đến để an ủi chữa lành các thương tích
bằng việc cho họ thấy các vết thương trên thân thể mình.
Các dấu đinh ở tay chân, và dấu đâm ở cạnh sườn Thầy
đem lại niềm vui và niềm tin về vị Thầy đã chết
nhưng nay đang sống và đang đứng bên họ.
Đấng phục sinh tế nhị không nhắc lại chuyện đã qua.
Ngài đẩy họ về phía trước, và sai phái họ lên đường.
Rồi sẽ đến lúc họ phải mở toang mọi cánh cửa khép,
thắng vượt mọi sợ hãi, chấp nhận chung số phận với Thầy.

Đấng phục sinh là Đấng có trái tim thương xót.
Ngài không muốn mất Tôma, vì Ngài biết tính của anh ấy.
Ngài hiểu những đòi hỏi có vẻ quá đáng của anh,
và biết anh muốn tin một cách nghiêm túc.
Chính vì thế một tuần sau, Ngài đã trở lại để gặp anh,
và thỏa mãn mọi điều anh đòi hỏi (Ga 20,27).
Thầy Giêsu vui sướng khi thấy lòng tin của anh mềm lại.
Anh chịu thua khi thấy tình thương Thầy dành cho mình,
chỉ biết thốt lên lời tuyên xưng: Lạy Thiên Chúa của con!

Tình thương của Đấng phục sinh không chỉ dành cho Tôma,
mà còn trải rộng đến đoàn tín hữu tương lai.
Vẫn có những con chiên cần được đưa về ràn (Ga 10,16).
Vẫn có những người vì không thấy nên chưa tin (Ga 20,29).
Vẫn có những người đã tin nhưng nay đức tin bị mất.
Mùa Phục sinh là thời gian bắt chước Đấng phục sinh
đi thăm các Tôma ở quanh ta…

Cầu Nguyện

Lạy Cha là Chúa trời đất,
Cha là Cha toàn năng,
nhưng Cha lại không phải là nhà độc tài.
Cha không quyết định một cách vô lý và độc đoán.
Cha đã cho con người cùng được chia sẻ tự do của Cha,
và Cha luôn tôn trọng tự do ấy,
dù con người vẫn lạm dụng tự do để làm điều xấu.

Lạy Cha toàn năng,
Khi trao cho loài người chúng con tự do,
Cha đã muốn tự giới hạn phần nào sự toàn năng của Cha.
Bởi đó sự dữ có sức tung hoành trong thế gian này.
Khi lòng độc ác của một số người đã treo Con Cha lên,
chúng con hiểu Cha có đủ quyền năng để đưa Ngài xuống.
Nhưng Cha đã muốn Con Cha chia sẻ cái chết bất công
của bao người thấp cổ bé miệng trên thế giới.
Cha muốn cái chết ô nhục trên thập giá của Con Cha
trở nên dấu chỉ cao nhất của tình yêu Cha
đem lại ơn cứu độ cho nhân loại.

Lạy Cha toàn năng và khiêm hạ,
chúng con tin Cha vẫn đang làm việc để phục vụ chúng con.
Cha vẫn trao ban bánh và cá cho nhu cầu hàng ngày.
Cha vẫn mở cửa khi nghe tiếng gõ rụt rè của chúng con.
Chúng con tin vào tình yêu Cha
dành cho từng người ngay giữa sóng gió.
Và chúng con biết mình không bao giờ phải thất vọng.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

(phutcaunguyen.net)

++++++++++++++++++

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên

7 THÁNG TƯ

Được In Dấu Aán Sự Sống

Chúng ta hãy cảm tạ vì cuộc Phục Sinh của Đức Giê-su Kitô. Chúng ta hãy cảm tạ vì Chúa Cha đã tôn vinh Người. Người là Đấng đã hủy mình ra không, “trở thành vâng phục cho đến chết, chết trên Thập Giá” (Pl 2,8).

Vâng, công cuộc cứu chuộc thế giới được hoàn tất trong cuộc Phục Sinh của Người. Dấu ấn của sự chết đã được tháo gỡ khỏi ngôi mộ đá lạnh lùng. Và dấu ấn sự sống đã được đóng vào trái tim của những người tin. “Đức Kitô đã chịu hiến tế để làm chiên lễ Vượt Qua của chúng ta” (1Cr 5,7).

Chúng ta hãy cảm tạ vì hy tế của Đức Giêsu – hy tế đã đạt tới chính ngai tòa của Chúa Cha. Chúng ta hãy cảm tạ vì tình yêu của Chúa Cha – tình yêu đã được mạc khải nơi cuộc Phục Sinh của Chúa Con.

Chúng ta hãy cảm tạ vì hơi thở của Chúa Thánh Thần Đấng trao ban sự sống. Hơi thở này được đón nhận bởi các Tông Đồ, qui tụ tại căn gác thượng theo chỉ thị của Đức Giêsu. Đức Kitô sẽ đến giữa họ, ngay cả xuyên qua những cánh cửa đóng kín. Người sẽ nói với họ: “Anh em hãy nhận lãnh Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai thì tội người ấy được tha… “ (Ga 20,22-23).

Chính từ cuộc Phục Sinh của Đức Giêsu mà chúng ta nhận được ơn tha thứ tội lỗi của chúng ta. Cuộc hoán cải của chúng ta xảy ra nơi chính Thập Giá của Người. Và nơi cuộc Phục Sinh của Người, chúng ta chiến thắng trên tội lỗi của mình. Người đã hòa giải chúng ta với Thiên Chúa và với anh chị em mình. Người đã trao cho chúng ta chính sự sống của Người, Người mở lối cho chúng ta bước vào sự sống vĩnh cửu bất diệt.

– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –

Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác

LIFT UP YOUR HEARTS

Daily Meditations by Pope John Paul II

+++++++++++++++++

Lời Chúa Trong Gia Đình

Ngày 07/4

CHÚA NHẬT II PHỤC SINH

Cuối tuần tuần Bát Nhật Phục Sinh

(Chúa Nhật kính lòng Chúa Thương Xót)

Cv 4, 32-35; 1Ga 5, 1-6; Ga 20, 19-31.

Lời suy niệm: Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em!” Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. (Ga 20,19-20).

          Khi Chúa không còn hiện diện với các Tông Đồ, các ông thấy bất an, từ bất an đó các ông đâm ra sợ: “Các ông sợ người Do Thái”. Nên sau khi Chúa Phục Sinh, Người đã đến ban bình an của Người cho các ông. Trong đời sống của người Kitô hữu cũng vậy, khi không có Chúa trong mình sẽ bị những cám dỗ dẫn vào sự bất an, đặc biệt bất an trong tâm hồn dẫn đến không làm chủ được mình và đâm ra lo sợ.

          Lạy Chúa Giêsu, Chúa hứa với chúng con: “Thầy ở cùng các con cho đến tận thế.” Xin Chúa cho mỗi người trong chúng con luôn cảm nhận có Chúa trong cuộc sống, và ân ban của Chúa để giúp chúng con vui sống trong bình an của Chúa. Amen.

Mạnh Phương

+++++++++++++++++

Gương Thánh Nhân

Ngày 07-04

Thánh GIOAN LASAN
Linh Mục (1651 – 1719)

Thánh Gioan Lasan là bổn mạng của các nhà giáo dục, Ngài được thành công trong việc cung ứng một hệ thống giáo dục cho quảng đại quân chúng vào thời mà dân nghèo như bị bỏ rơi hoàn toàn. Nỗ lực của Ngài không phải chỉ trong việc mở trường mà là việc tạo lập nên một đoàn thể những nhà giáo dục được đào tạo chu đáo. Chính nỗ lực này đặt nền tảng bảo đảm cho sự thành công trong việc giáo dục.

Không phải khuynh hướng tự nhiên được đưa Ngài tới việc thực hiện công trình này. Thật vậy, hoàn cảnh gia đình với sự đào luyện từ thuở nhỏ khó có thể coi được là một chuẩn bị cho Ngài làm giáo dục. Sinh tại Reims ngày 30 tháng 4 năm 1651, Gioan Baotixita, là con trưởng trong một gia đình quý phái và được thừa hưởng địa vị lẫn gia tài của cha mẹ để lại. Những thứ này là vực ngăn cách Ngài với đám đông dân chúng nghèo khổ.

Vào tuổi 16, khi đang theo học ở Học viện dành cho trẻ em ưu tú (College des Bons enfants), thánh nhân được đặt làm kinh sĩ ở Reims. Sau đó Ngài tiếp tục theo học tại chủng viện Xuân Bích và đại học Sorbonne để làm linh mục. Ngài thụ phong linh mục năm 27 tuổi.

Cho đến lúc này, chưa có một yếu tố nào cho thấy rõ sứ mệnh tương lai của Ngài. Nhưng ít lâu sau, Ngài được chỉ định giúp vào việc lập trường ngay tại quê hương xứ sở mình. Việc này đặt Ngài và trách nhiệm săn sóc các giáo viên, dẫn Ngài tới chỗ đưa họ về nhà mình và đào luyện họ. Dần dần, Ngài hiểu rằng: Chúa quan phòng định cho Ngài làm dụng cụ kiến tạo một hệ thống giáo dục dành cho dân nghèo, lớp dân bị xỉ nhục trong “thế kỷ huy hoàng” vì sự hư dốn và ngu dốt của họ.

Chọn thánh ý Thiên Chúa làm nguyên tắc hứơng dẫn đời sống, Ngài quyết định hiến mình trọn vẹn cho công tác này. Ngài từ chức kinh sĩ, phân phát gia tài để mang lấy cũng một địa vị như các giáo viên Ngài chung sống. Làm như vậy Ngài làm cho những người đồng hương nặng đầu óc giai cấp tức giận. Nhưng điều ấy không thay đổi được quyết định của Ngài.

Năm 1684, Ngài biến đổi nhóm giáo viên của mình để thành một cộng đoàn an sĩ với danh hiệu Sư huynh. Các trường công giáo. Đây là nguồn gốc của hội dòng ngày nay, phổ biến rộng rãi khắp thế giới. Để giới hạn hội dòng riêng cho nỗ lực giáo dục, Ngài nhận định rằng: sư huynh nào làm linh mục, cũng như không nhận một linh mục nào vào dòng. Luật này ngày nay vẫn còn được áp dụng.

Những năm đầu, hội dòng rất nghèo khổ và cực nhọc. Tuy nhiên thánh nhân vẫn kiên quyết chịu đựng và vững tin ở Chúa quan phòng. Người nói với những người lo âu : – Tại sao mà không tin tưởng ? Chúa thà làm phép lạ còn hơn để cho chúng ta phải thiếu thốn.

Mối quan tâm chính của Ngài là đào luyện đạo đức và nghiệp vụ cho anh em. Nhưng, thấy không thể thỏa mãn được mọi đòi hỏi của giáo viên nếu không huấn luyện giáo viên, năm 1678 Ngài lập ở Reims một học viện cho khoảng 40 trẻ. Lần đầu tiên trong lịch sử giáo dục có một cơ sở giáo dục như vậy.

Sau khi lập trường ở những thành phố lân cận, năm 1683, Ngài coi sóc một trường ở xứ Thánh Xuân Bích (Sulpice), là nơi Ngài đặt bản doanh của mình. Tại thủ đô công trình lan rộng mau lẹ. Ngài lập thêm một trường đào tạo nữa với một trường miễn phí cho các bạn trẻ đã đi làm việc. Khi vua Giacôbê III trao phó cho Ngài săn sóc các thiếu niên Ai Nhĩ Lan, Ngài đã dành cho họ các giảng khoá đặc biệt theo nhu cầu của họ.

Mục đích tốt đẹp của Ngài bị chống đối bởi những giáo viên trường nhỏ, vì mất học sinh và học phí. Họ kiện cáo Ngài. Trường của Ngài bị cướp phá. Ngài bị kết án và bị cấm không được mở trường đào luyện miễn phí ở phạm vi Paris. Dĩ nhiên Ngài cũng bị trục xuất khỏi thủ đô một thời. Nhưng công trình của Ngài đã lan rộng sang nhiều nơi khác và những cấm đoán kia không thể phá hủy nổi.

Ở Rouen, Ngài đã lập hai cơ sở quan trọng: một trường nội trú phải trả học phí, cho học sinh miền quê muốn hiến thân, và một trường phục hồi cho những trẻ em bụi đời. Cả hai đều rất thành công. Cha Gioan Baotixita trải qua những năm cuối đời ở Rouen để kiện toàn thành tổ chức, viết luật dòng chờ các sư huynh và hai tác phẩm Meditations (nguyện ngắm), Methode de la prière mentale (Phương pháp thực hành tâm nguyện)

Ngài từ trần ngày thứ sáu tuần thánh 09 tháng 04 năm 1719.

(daminhvn.net)

+++++++++++++++++

07 Tháng Tư

Bình An Trong Tâm Hồn 

Purna, một môn đệ của Ðức Thích Ca, xin thầy được phép đi đến Sronapa-Ranta, một vùng còn bán khai để tiếp tục tu luyện và truyền đạo. Nhân lời xin này, người ta ghi lại cuộc đối thoại giữa hai thầy trò như sau: Ðức Thích Ca cho biết ý kiến: “Nhân dân vùng Sronapa-Ranta còn rất man di. Họ nổi tiếng thô bạo và tàn ác. Bẩm tính của họ là hiếu chiến, thích gây sự, thích cãi vã, đánh nhau và làm hại kẻ khác. Lúc đến đó, nếu họ nghi kỵ con, dùng những lời thô bạo để nói xấu, mắng chửi và vu khống con, con sẽ nghĩ thế nào?”. Purna thưa: “Nếu thật sự xảy ra như vậy, thì con nghĩ là: dân chúng tại đây thật tốt lành và thân thiện, vì họ chỉ lăng mạ con chứ không dùng vũ lực, không đánh đập hay ném đá con”. Ðức Thích Ca tiếp lời: “Nhưng nếu họ hành hung và dùng đá ném con, thì con sẽ nghĩ thế nào?”. Purna thưa: “Trong trường hợp đó, con vẫn nghĩ dân chúng vùng Sronapa-Ranta thật tốt lành và thân thiện, vì họ không cột con vào cột để đánh đòn và không dùng khí giới sắc bén để sát hại con”.

Nghe môn đệ xác quyết như thế, Ðức Phật không khỏi ngạc nhiên; Ngài hỏi tiếp: “Nhưng nếu họ thật sự ra tay giết con, con nghĩ thế nào trước khi nhắm mắt lìa đời?”. Không cần suy nghĩ lâu, Purna đáp: “Nếu họ hại đến tính mạng con, con vẫn nghĩ họ là những người tốt lành và thân thiện, vì họ muốn giải thoát con khỏi thân xác hay hư nát này”. Nghe đến đây, Ðức Thích Ca bảo: “Purna, con đã tu tâm dưỡng tính đến nơi đến chốn để có được sự ôn hòa, kiên nhẫn hơn người. Thầy nghĩ con có thể sinh sống và truyền đạo cho dân Sronapa-Ranta. Hãy ra đi và giúp họ dần dần giải thoát khỏi bẩm tính hiếu chiến và bất nhân như chính con đã tự giải thoát mình khỏi những thiên kiến và những ý nghĩ hận thù, ghen ghét”.

Thiết nghĩ tự tạo cho mình sự bình an trong tâm hồn là bổn phận của Kitô hữu chúng ta. Và theo kinh nghiệm của tu sĩ Purna trong câu chuyện trên, để tạo cho mình nền hòa bình này, chúng ta phải cố gắng tự giải thoát mình khỏi mọi thiên kiến, nghi kỵ cũng như hằng ngày phải thanh luyện tâm hồn khỏi những ý nghĩ hận thù, ghen ghét.

(Lẽ Sống)

++++++++++++++++++

Lời Chúa Mỗi Ngày

Chúa Nhật II – Năm B – Phục Sinh 

Bài đọc: Acts 4:32-35; I Jn 5:1-6; Jn 20:19-31.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Hậu quả của niềm tin vào Chúa sống lại. 

            Tin thế nào sống thế ấy: Nếu không tin vào sự sống lại, con người sẽ chỉ biết sống theo những giá trị đời này; nhưng nếu tin vào sự sống lại của Đức Kitô, con người sẽ sống theo những giá trị mà Ngài răn dạy. Niềm tin vào sự sống lại không những giúp con người vượt qua những đau khổ của cuộc sống, mà còn biết giúp con người biết tuân giữ những gì Chúa dạy.

            Các Bài Đọc hôm nay cho thấy sự quan trọng của niềm tin vào sự sống lại của Đức Kitô. Trong Bài Đọc I, niềm tin vào Chúa phục sinh giúp các tín hữu đầu tiên biết yêu thương nhau; họ bỏ mọi sự làm của chung, để không ai phải thiếu thốn gì cả. Trong Bài Đọc II, tác giả Thư Gioan I, xác nhận: Ai yêu mến Thiên Chúa, cũng yêu mến Đức Kitô, Con Thiên Chúa; và nếu ai yêu mến Thiên Chúa, cũng thắng thế gian, vì thế gian từ chối không nhận biết Ngài. Trong Phúc Âm, tác giả tường thuật hai lần Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ: Lần đầu không có sự hiện diện của Thomas, Chúa ban bình an và sai các ông đi rao giảng Tin Mừng cho mọi người. Lần thứ hai, Chúa hiện đến với các tông đồ và có sự hiện diện của Thomas. Ngài thách thức ông hãy xỏ ngón tay ông vào các lỗ đinh đóng của Ngài, để ông tin Chúa vẫn sống.

 KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC: 

1/ Bài đọc I: Sức mạnh của niềm tin vào Chúa sống lại

1.1/ Các tín hữu bỏ mọi sự làm của chung: Chủ nghĩa cộng sản mơ ước có được một mô hình lý tưởng này; nhưng họ đã thất vọng ê chề, vì con người có thói quen vơ vét. Họ dám lấy ngay cả của chung để làm của riêng. Mấy chục năm qua, người cộng sản chẳng những đã không thực hiện được mơ ước “thiên đàng trần gian;” mà còn làm cho những bất công xã hội ra nặng nề hơn.

            Trình thuật của Sách TĐCV đề cập tới mô hình lý tưởng của cộng đòan các tín hữu đầu tiên: “Các tín hữu thời bấy giờ đông đảo, mà chỉ có một lòng một ý. Không một ai coi bất cứ cái gì mình có là của riêng, nhưng đối với họ, mọi sự đều là của chung.” Để làm được điều này, các tín hữu phải có niềm tin vững mạnh nơi sự quan phòng của Thiên Chúa và nhất là niềm tin vào Đức Kitô sống lại. Nếu Thiên Chúa đã quan phòng mọi sự, tại sao phải lo lắng đến ngày mai? Nếu Đức Kitô đã chinh phục sự chết, còn uy quyền nào lớn hơn uy quyền của Thiên Chúa? Nhờ quyền năng mạnh mẽ Thiên Chúa ban, các Tông Đồ làm chứng Chúa Giêsu đã sống lại. Và Thiên Chúa ban cho tất cả các ông dồi dào ân sủng.

1.2/ Mọi người đều có đủ dùng: “Trong cộng đoàn, không ai phải thiếu thốn, vì tất cả những người có ruộng đất nhà cửa, đều bán đi, lấy tiền, đem đặt dưới chân các Tông Đồ. Tiền ấy được phân phát cho mỗi người, tuỳ theo nhu cầu.” Lý do chính giúp các tín hữu đầu tiên có thể làm được chuyện này là niềm tin vào sự sống lại. Truyền thống Do-thái tin hạnh phúc có được là chỉ ở đời này. Gần thời của Chúa, niềm tin vào đời sau bắt đầu được đề cập đến, nhưng chưa rõ ràng lắm (Sách Daniel và Macabbees). Khi Chúa Giêsu đến, Ngài làm sáng tỏ quan niệm này bằng dạy dỗ (Jn 6:39-40) và chứng minh bằng cái chết và sự phục sinh của Ngài. Nếu các tín hữu tin có sự sống lại, họ sẽ không quyến luyến quá nhiều vào của cải vật chất nữa, nhưng biết sống làm sao để đạt hạnh phúc đời sau.

            Trong xã hội con người, bất công xã hội thường xảy ra: Người giầu có, có quá nhiều, đến chỗ dư thừa; người nghèo khó, thiếu quá nhiều, đến nỗi hóa bần cùng. Cả hai hạng người đều có lý do để biện minh cho mình. Người giầu đưa lý do: tôi làm ăn lương thiện, không ăn cắp của ai, và xứng đáng được hưởng những gì do tay tôi làm ra. Người nghèo trả lời: “Ở đời muôn sự của chung.” Tất cả là của Thiên Chúa ban cho con người, và mọi người đều là con cái Thiên Chúa. Con người không phải là chủ nhân, nhưng chỉ là quản lý của những của cải. Chúng tôi nghèo, không phải vì chúng tôi lười biếng, nhưng vì không có cơ hội để làm ăn. Hãy cho chúng tôi cơ hội, chưa chắc chúng tôi đã túng nghèo như vậy. Thực ra, để giải quyết bất công xã hội và cho mọi người có cơ hội đồng đều, Thiên Chúa đã thiết lập năm Jubilee, xảy ra mỗi 50 năm (x/c Lev 25). Trong năm này, mọi ruộng đất tài sản phải được trả về cho chủ nhân cũ, vì quá túng nghèo mà phải bán đi. Mục đích của năm này là để mọi người đều có cơ hội làm lại cuộc đời.

2/ Bài đọc II: Yêu mến Thiên Chúa và thi hành các điều răn của Người. 

2.1/ Ai yêu mến Thiên Chúa, cũng yêu mến Đức Kitô: Có một sự hợp lý tòan vẹn trong đạo lý của Đức Kitô: Ai yêu Thiên Chúa, người đó cũng phải yêu những kẻ được Đấng ấy sinh ra, các con Thiên Chúa; cách riêng: Đức Giêsu Kitô. Vì thế, khi người nào nói mình yêu Thiên Chúa, người ấy cũng phải yêu Đức Kitô và tha nhân. Chúa Giêsu đã từng tranh luận với người Do-thái về điểm này khi Ngài nói: “Giả như Thiên Chúa là Cha các ông, hẳn các ông phải yêu mến tôi, vì tôi phát xuất từ Thiên Chúa và bởi Thiên Chúa mà đến. Thật thế, tôi không tự mình mà đến, nhưng chính Người đã sai tôi” (Jn 8:42).

            Yêu Thiên Chúa không chỉ bằng lời nói, nhưng phải biểu tỏ bằng việc làm. Thánh Gioan khuyên nhủ các tín hữu: “Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được mình yêu thương con cái Thiên Chúa: đó là chúng ta yêu mến Thiên Chúa và thi hành các điều răn của Người. Quả thật, yêu mến Thiên Chúa là tuân giữ các điều răn của Người. Mà các điều răn của Người có nặng nề gì đâu.” 

2.2/ Ai tin vào Đức Kitô là thắng thế gian: Để hiểu điều này, chúng ta cần phải phân biệt các ý nghĩa khác nhau khi Gioan nói về thế gian (ko,smoj): (1) thế gian là trái đất, nơi con người sinh sống; (2) tất cả con người, nhất là những người chống lại Thiên Chúa; (3) cách sống hay tiêu chuẩn giá trị của thế gian, nhất là những tiêu chuẩn đối nghịch với Thiên Chúa; và (4) đồ trang sức (1 Pe 3.3). Theo văn mạch, tác giả có lẽ ám chỉ theo nghĩa (3) của thế gian ở đây: “Ai là kẻ thắng được thế gian, nếu không phải là người tin rằng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa? Chính Đức Giêsu Kitô là Đấng đã đến, nhờ nước và máu; không phải chỉ trong nước mà thôi, nhưng trong nước và trong máu. Chính Thần Khí là chứng nhân, và Thần Khí là sự thật.” Những người chống Thiên Chúa là những người không tin Đức Kitô được Thiên Chúa sai đến, hay những người chỉ tin vào thiên tính, hay vào nhân tính của Người. Hơn nữa, Gioan còn nhấn mạnh: “Và điều làm cho chúng ta thắng được thế gian, đó là lòng tin của chúng ta.”

3/ Phúc Âm: Phúc thay những người không thấy mà tin. 

3.1/ Chúa Giêsu hiện ra với các Tông đồ, lúc không có Thomas.

            (1) Bình an của Chúa Giêsu: Sự lo lắng và sợ sệt làm con người bất an, như trình thuật kể tâm trạng của các tông đồ vào những ngày sau khi Chúa chết: “Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái.” Đang khi các ông hoảng hốt lo sợ như thế, Đức Giêsu biết rõ các ông cần điều gì nhất. Ngài đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em! Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa.”

            Bình an các ông có được là nhờ tin Đức Kitô sống lại. Các ông tưởng sẽ không bao giờ còn được nhìn thấy Ngài nữa, và còn đang bị khủng hoảng bởi những việc mới xảy ra; nhưng giờ đây các ông vui mừng vì được thấy Ngài bằng xương bằng thịt. Hơn nữa, Ngài còn chứng minh cho các ông biết tất cả những gì Ngài đã nói với các ông là sự thật, tất cả những gì Ngài tiên báo về Cuộc Khổ Nạn của Ngài đều hiện thực. Sự hiện diện của Đức Kitô mang lại cho các ông sự bình an đích thực trong tâm hồn, vì Ngài bảo đảm cho các ông uy quyền và tình yêu của Thiên Chúa, được biểu lộ qua Đức Kitô.     

            (2) Lệnh được sai đi: Khi Đức Kitô chọn các tông đồ, Ngài muốn các ông tiếp tục thi hành sứ vụ Ngài đã khởi sự; nên Người lại nói với các ông: “”Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em.” Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.”” Sự bình an các tông đồ có được, không phải chỉ do sự hiện diện của Đức Kitô, nhưng còn do sự hiện diện và quyền năng của Thánh Thần, mà Đức Kitô đã thổi hơi vào các tông đồ. Với sự bình an và quyền năng của Thánh Thần, Ngài sai các ông đi rao giảng Tin Mừng. Trước đây, sự lo lắng và sợ hãi làm cho các ông không dám sống và làm chứng cho sự thật; nhưng giờ đây, sau khi đã cảm nhận được sự bình an qua niềm tin vào Chúa sống lại và sức mạnh của Thánh Thần; các tông đồ mở tung cửa đi vào thế giới và làm chứng cho Đức Kitô. Các ông biết nếu Đức Kitô đã chinh phục kẻ thù ghê gớm nhất là sự chết, còn gì phải sợ nữa. 

3.2/ Chúa Giêsu hiện ra với các Tông đồ, có cả Thomas.

            (1) Sự cứng lòng của Thomas: “Một người trong Nhóm Mười Hai, tên là Thomas, cũng gọi là Didymus, không ở với các ông khi Đức Giêsu đến. Các môn đệ khác nói với ông: “Chúng tôi đã được thấy Chúa!” Ông Thomas đáp: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin.”       

Chúng ta đừng vội trách Thomas, vì các tông đồ khác cũng từng cứng lòng như ông khi họ chưa nhìn thấy Chúa. Tuy nhiên, cách thức “khi nhìn thấy mới tin” chỉ là một trong nhiều cách thức con người dùng để tin một điều là sự thật.

            (2) Phản ứng của Thomas khi nhìn thấy Chúa: “Tám ngày sau, các môn đệ của Đức Giêsu lại có mặt trong nhà, có cả ông Thomas ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em.” Rồi Người bảo ông Thomas: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin.”

                Ông Thomas thưa Người: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” Đức Giêsu bảo: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. ” Lời thưa của Thomas không đơn thuần chỉ là niềm tin vào Chúa sống lại; nhưng là lời tuyên xưng Đức Kitô là Thầy và là Thiên Chúa của ông. Tin khi đã thấy là cách thức thấp nhất con người dùng khi muốn tin điều gì là thật; nhưng Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh đến những cách thức cao hơn, khi Ngài nói: “Phúc thay những người không thấy mà tin!” Con người có thể tin Thiên Chúa qua các việc Ngài làm trong vũ trụ, hay qua Kinh Thánh, hay qua lời chứng của các chứng nhân. Lề Luật Do-thái chỉ đòi lời của 2 chứng nhân có thế giá. Chúng ta đã có hàng triệu chứng nhân đã làm chứng cho sự phục sinh của Thiên Chúa. 

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG: 

            – Tin thế nào, sống như vậy. Nếu chúng ta tin vào Đức Kitô, hãy sống những gì Ngài dạy; đừng sống như những người chỉ tin vào cuộc sống đời này.

            – Niềm tin vào sự phục sinh của Đức Kitô phải giúp chúng ta vượt qua những lo lắng, buồn phiền, và sợ sệt của cuộc sống. Nếu một Thiên Chúa yêu thương chúng ta đến độ ban cho chúng ta Người Con Một của Ngài, còn gì quí giá hơn có thể ban mà Ngài từ chối không ban cho chúng ta. Nếu một Thiên Chúa uy quyền đến độ chinh phục được kẻ thù ghê gớm nhất của con người là sự chết, chúng ta còn phải sợ hãi gì nữa?

            – Hãy đặt niềm tin hoàn toàn nơi Thiên Chúa, chúng ta mới có được sự bình an đích thực của Ngài. Sự bình an này sẽ giúp chúng ta biết sống và làm chứng cho Đức Kitô phục sinh. 

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

****************