Chúa Nhật (07-01-2024) – Trang suy niệm

06/01/2024

Lời Chúa Hôm Nay

Chúa Nhật Lễ Chúa Hiển Linh

LỄ VỌNG

XEM LỄ CHÍNH NGÀY HOẶC:

BÀI ĐỌC I: Gl 4, 1-7

Bài trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Galata.

Tôi thiết nghĩ: bao lâu người thừa kế còn là thiếu niên thì không khác gì một nô lệ, mặc dù là chủ mọi tài sản. Nó phải ở dưới quyền những người giám hộ và quản lý, cho đến khi mãn hạn người cha đã định. Chúng ta cũng vậy, khi còn là thiếu niên, chúng ta phải làm nô lệ những yếu tố của vũ trụ. Nhưng khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật, để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử. Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà kêu lên: “Áp-ba, Cha ơi!” Vậy anh em không còn phải là nô lệ nữa, nhưng là con, mà đã là con thì cũng là người thừa kế, nhờ Thiên Chúa.

Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 71, 2. 7-8. 10-11a. 12-13

Đáp: Lạy Chúa, mọi dân tộc trên địa cầu đều thờ lạy Chúa (x. c. 11b).

1) Lạy Chúa, xin ban quyền xét đoán khôn ngoan cho đức vua, và ban sự công chính cho hoàng tử, để người đoán xét dân Chúa cách công minh, và phân xử người nghèo khó cách chính trực. (2) Sự công chính và nền hoà bình viên mãn sẽ triển nở trong triều đại người, cho đến khi mặt trăng không còn chiếu sáng. Và người sẽ thống trị từ biển nọ đến biển kia, từ sông cái đến tận cùng trái đất. (3) Vì người sẽ giải thoát kẻ nghèo khó khỏi tay kẻ quyền thế, và sẽ cứu người bất hạnh không ai giúp đỡ. Người sẽ thương xót kẻ yếu đuối và người thiếu thốn, và cứu thoát mạng sống kẻ cùng khổ. (4) Chúc tụng danh người đến muôn đời, danh người còn tồn tại lâu dài như mặt trời. Vì người, các chi họ đất hứa sẽ được chúc phúc, và các dân nước sẽ ca ngợi người.

ALLELUIA: Mt 2, 2

All. All. – Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở Đông phương, và chúng tôi đã đến để triều bái Người. – All.

PHÚC ÂM: Mt 2, 19-23

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Sau khi Hêrôđê băng hà, thì đây thiên thần Chúa hiện ra cùng Giuse trong giấc mơ bên Ai-cập và bảo: “Hãy chỗi dậy, đem Con Trẻ và mẹ Người về đất Israel, vì những kẻ tìm hại mạng sống Người đã chết”. Ông liền chỗi dậy, đem Con Trẻ và mẹ Người về đất Israel. Nhưng nghe rằng Arkhêlao làm vua xứ Giuđa thay cho Hêrôđê là cha mình, thì Giuse sợ không dám về đó. Được báo trong giấc mộng, ông lánh sang địa phận xứ Galilêa, và lập cư trong thành gọi là Nadarét, để ứng nghiệm lời đã phán qua các tiên tri rằng: “Người sẽ được gọi là Nadarêô”.

Đó là lời Chúa.

LỄ CHÍNH NGÀY

BÀI ĐỌC I: Is 60, 1-6

“Vinh quang Chúa xuất hiện trên ngươi”.

Bài trích sách Tiên tri Isaia.

Hãy đứng lên, hãy toả sáng ra, hỡi Giêrusalem! Vì sự sáng của ngươi đã tới, vì vinh quang của Chúa đã bừng dậy trên mình ngươi. Kìa tối tăm đang bao bọc địa cầu, vì u minh phủ kín các dân, nhưng trên mình ngươi Chúa đang đứng dậy, vì vinh quang của Ngài xuất hiện trên mình ngươi. Chư dân sẽ lần bước tìm về sự sáng của ngươi, và các vua hướng về ánh bình minh của ngươi. Hãy ngước mắt lên chung quanh, và hãy nhìn coi: tất cả những người đó đang tập họp, đang tìm đến với ngươi; các con trai của ngươi tự đàng xa đi tới, và các con gái ngươi đứng dậy từ khắp bên hông. Bấy giờ ngươi sẽ nhìn coi, và ngươi trở nên rực rỡ, tim ngươi sẽ rạo rực và sẽ phồng lên. Bởi vì những kho tàng bể khơi tuôn đến với ngươi, nguồn phú túc của chư dân sẽ tới tay ngươi. Những con lạc đà tràn ngập vây phủ lấy ngươi, những lạc đà một bướu tự xứ Mađian và Epha; tất cả những ai từ Saba đi tới, đem theo vàng và nhũ hương, và họ sẽ tuyên rao lời ca ngợi Chúa.

Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 71, 2. 7-8. 10-11a. 12-13

Đáp: Lạy Chúa, mọi dân tộc trên địa cầu đều thờ lạy Chúa (x. c. 11b).

1) Lạy Chúa, xin ban quyền xét đoán khôn ngoan cho đức vua, và ban sự công chính cho hoàng tử, để người đoán xét dân Chúa cách công minh, và phân xử người nghèo khó cách chính trực. (2) Sự công chính và nền hoà bình viên mãn sẽ triển nở trong triều đại người, cho đến khi mặt trăng không còn chiếu sáng. Và người sẽ thống trị từ biển nọ đến biển kia, từ sông cái đến tận cùng trái đất. (3) Vì người sẽ giải thoát kẻ nghèo khó khỏi tay kẻ quyền thế, và sẽ cứu người bất hạnh không ai giúp đỡ. Người sẽ thương xót kẻ yếu đuối và người thiếu thốn, và cứu thoát mạng sống kẻ cùng khổ. (4) Chúc tụng danh người đến muôn đời, danh người còn tồn tại lâu dài như mặt trời. Vì người, các chi họ đất hứa sẽ được chúc phúc, và các dân nước sẽ ca ngợi người.

BÀI ĐỌC II: Ep 3, 2-3a. 5-6

“Bây giờ được tỏ ra rằng các dân ngoại được đồng thừa tự lời hứa”.

Bài trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.

Anh em thân mến, (chắc) anh em đã nghe biết rằng: Thiên Chúa đã ban cho tôi việc phân phát ân sủng cho anh em, là theo ơn mạc khải cho tôi biết, tôi đã được thấu hiểu mầu nhiệm mà con cái loài người các thế hệ khác không được biết, nhưng nay đã mạc khải cho các thánh Tông đồ của Người, và cho các vị Tiên tri, nhờ Thánh Thần. Và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được nên đồng thừa tự, đồng một thân thể và đồng thông phần với lời hứa của Người trong Chúa Giêsu Kitô.

Đó là lời Chúa.

ALLELUIA: Mt 2, 2

All. All. – Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở Đông phương, và chúng tôi đã đến để triều bái Người. – All.

PHÚC ÂM: Mt 2, 1-12

“Chúng tôi từ phương Đông đến thờ lạy Đức Vua”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi Chúa Giêsu sinh hạ tại Bêlem thuộc xứ Giuđa, trong đời vua Hêrôđê, có mấy nhà đạo sĩ từ Đông phương tìm đến Giê-rusalem. Các ông nói: “Vua người Do-thái mới sinh ra hiện đang ở đâu? Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở Đông phương, và chúng tôi đến để triều bái Người”. Nghe nói thế, vua Hêrôđê bối rối, và tất cả Giêrusalem cùng với nhà vua. Vua đã triệu tập tất cả các đại giáo trưởng và luật sĩ trong dân, và hỏi họ cho biết nơi mà Đức Kitô sinh hạ. Họ tâu nhà vua rằng: “Tại Bêlem thuộc xứ Giuđa, vì đó là lời do Đấng Tiên tri đã chép: Cả ngươi nữa, hỡi Bêlem, đất Giuđa, không lẽ gì ngươi bé nhỏ hơn hết trong các thành trì của Giuđa, vì tự nơi ngươi sẽ xuất hiện một thủ lãnh, Người đó sẽ chăn nuôi Israel dân tộc của Ta”. Bấy giờ Hêrôđê ngầm triệu tập mấy nhà đạo sĩ tới, cặn kẽ hỏi han họ về thời giờ ngôi sao đã hiện ra. Rồi vua đã phái họ đi Bêlem và dặn rằng: “Các khanh hãy đi điều tra cẩn thận về Hài Nhi, rồi khi đã gặp thấy, hãy báo tin lại cho Trẫm, để cả Trẫm cũng đến triều bái Người”. Nghe nhà vua nói, họ lên đường. Và kìa ngôi sao họ xem thấy ở Đông phương, lại đi trước họ, mãi cho tới nơi và đậu lại trên chỗ Hài Nhi ở. Lúc nhìn thấy ngôi sao, họ hết sức vui mừng. Và khi tiến vào nhà, họ đã gặp thấy Hài Nhi và Bà Maria Mẹ Người, và họ đã quỳ gối xuống sụp lạy Người. Rồi, mở kho tàng ra, họ đã dâng tiến Người lễ vật: vàng, nhũ hương và mộc dược. Và khi nhận được lời mộng báo đừng trở lại với Hêrôđê, họ đã qua đường khác trở về xứ sở mình.

Đó là lời Chúa.

(Nguồn: UBPV/HĐGMVN, ấn bản 1973)

++++++++++++++++++

07/01/2024 – CHÚA NHẬT CHÚA HIỂN LINH – B

Mt 2,1-12

AI TÌM THÌ SẼ GẶP

“Đức Vua dân Do Thái mới sinh, hiện ở đâu?” (Mt 2,2)

Suy niệm: Các nhà chiêm tinh thấy ngôi sao lạ xuất hiện bên phương Đông, và theo ‘kiến thức’ của họ, họ tin rằng đó là dấu chỉ “Đức Vua dân Do Thái mới sinh”. Chỉ cần có thế họ đã lên đường đi tìm kiếm Ngài. Vì sao lạ, dấu chỉ mong manh khi hiện khi ẩn, nhưng cũng giúp họ tìm đến được Giê-ru-sa-lem. Chính tại đây họ nhận được địa chỉ chắc chắn: “Tại Bê-lem, miền Giu-đê” như lời chép trong sách ngôn sứ, dẫu rằng thông tin ấy được cung cấp bởi những kinh sư thông thạo Thánh Kinh nhưng thờ ơ, vô cảm và được chuyển đạt qua miệng ông vua Hê-rô-đê đầy dã tâm bày mưu tính kế tiêu diệt vị Ấu Vương chứ không hề có ý “đến gặp và bái lạy Người” như miệng ông nói. Người không muốn gặp Đức Ki-tô thì dù có biết rõ mười mươi cũng không thể gặp. Trái lại, người tha thiết muốn gặp Ngài thì dù hành trình có khó khăn, dấu chỉ có mờ nhạt, họ cũng  đi tìm và cuối cùng cũng gặp được.

Mời Bạn: Phúc âm Mát-thêu ghi lại Lời Chúa: “Anh em cứ tìm thì sẽ thấy” (Mt 7,7). Những ai khao khát sự bình an, chân lý và thiện hảo sẽ tìm thấy chúng nơi Đức Ki-tô. Và những ai có thiện chí tìm kiếm Ngài thì sẽ được gặp. Bạn có khao khát tìm gặp Chúa qua việc dành thời giờ – cách riêng ngày Chúa Nhật – để cầu nguyện suy gẫm Lời Chúa, để phục vụ Ngài nơi tha nhân, để đến thờ lạy Ngài nơi bí tích Thánh Thể chưa?

Sống Lời Chúa: Dành thời gian trong ngày để cầu nguyện và xin ơn: “Lạy Chúa, xin cho con được gặp Chúa.”

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, xin cho chúng con luôn khao khát và kiên trì tìm kiếm Chúa qua những dấu chỉ trong cuộc sống, vì chúng con xác tín rằng ai tìm Chúa sẽ gặp được Ngài. Amen.

(5 Phút Lời Chúa)

++++++++++++++++++

Suy niệm và cầu nguyện

SUY NIỆM

Lễ Hiển Linh là lễ Thiên Chúa giới thiệu 

Con Một của Ngài cho dân ngoại và cho cả nhân loại.

Như thánh Mác-xi-mô, viện phụ, nhận xét:

“Người tỏ mình ra theo tầm mức lãnh hội của kẻ đón nhận…

Người thích ứng với khả năng tiếp nhận của họ.”

Khi muốn giới thiệu Con của Ngài cho các mục đồng,

những người ít học, đơn sơ, hèn mọn, 

Thiên Chúa đã cho một vị thiên sứ đến gặp họ,

để báo tin Đấng Kitô mới được sinh ra, 

như trẻ thơ nằm trong máng cỏ (Lc 2,1-20). 

Nhưng Thiên Chúa không chỉ tỏ mình cho mục đồng,

Ngài còn muốn tỏ mình cho dân ngoại,

cho những người giàu có, khôn ngoan, học thức, có địa vị.

Cả những người này cũng có chỗ trong trái tim Thiên Chúa.

 

Lễ Hiển Linh hôm nay, Thiên Chúa giới thiệu Con của Ngài

cho những nhà chiêm tinh thuộc vùng Ba-tư hay Babylon.

Dựa theo lễ vật của họ, hẳn họ phải là người giàu có.

Dựa theo khả năng nhìn bầu trời, 

họ phải là những người có kiến thức thiên văn.

Họ có thể là những tư tế hay cố vấn cho nhà vua.

Hơn nữa, họ không phải là người Do-thái.

Thiên Chúa muốn dân ngoại cũng nhận biết Con của Ngài.

 

Nhưng Thiên Chúa tỏ mình bằng những cách khác nhau.

Vì họ chuyên nghiên cứu các vì sao, 

nên Thiên Chúa muốn dùng bầu trời mà trò chuyện với họ.

Ngài đã cho xuất hiện một ngôi sao, 

không hẳn là sáng rực rỡ, nhưng là ngôi sao rất lạ, 

khiến họ bị thu hút mãnh liệt và lôi kéo họ lên đường.

Nhìn ngôi sao lạ xuất hiện, họ tin có một vị Vua mới sinh. 

đó là vị Vua Mêsia người Do-thái đang mong đợi, 

cũng là vị Vua cho cả thế giới.

Vì thế họ háo hức lên đường đi đến nước Israen, 

chỉ mong được gặp và bái yết vị Tân Vương.

Chắc họ đã đi cả ngàn cây số, ngược sông Êu-phrát,

rồi vòng xuống để đến Giêrusalem.

Sau đó theo sự chỉ dẫn của Hêrôđê, họ lại đi Bêlem,  

quá vui khi được bái lạy và dâng lễ vật cho Con Trẻ.

Thiên Chúa đã nói với họ qua một ngôi sao, 

thì nay lại nói trong một giấc mơ.

Ngài nhắc họ đừng gặp Hêrôđê, nhưng đi đường khác mà về.

 

Thánh Mátthêu đã kể cho người Do-thái thời của ngài 

một câu chuyện đẹp và ý nghĩa.

Họ hiểu ngay lời sấm của ông Bilơam đã được ứng nghiệm.

Nhà chiêm tinh ngoại giáo này đã thấy: 

“một vì sao xuất hiện từ Giacóp” (Ds 24,17).

Bây giờ vì sao ấy đã xuất hiện rồi.

Vì sao chính là Đức Giêsu, Đấng Mêsia, Vua hoàn vũ.

 

Đức Thánh Cha Phanxicô khuyên chúng ta làm hang đá.

Ngài nhắc chúng ta đặt tượng “Ba Vua” nơi hang đá.

Ở đó cần treo một ngôi sao chỉ đường.

Ta không được quên vai trò của ngôi sao nơi máng cỏ, 

bởi lẽ con người hôm nay vẫn cần ánh sao để gặp Chúa.

Đó không hẳn là ánh sao lạ xuất hiện trên bầu trời, 

nhưng là “sao mai mọc lên trong tâm hồn anh em” (2 Pr 1,19).

Đức Giêsu đã tự nhận mình là Sao Mai sáng ngời (Kh 22,16). 

Chính Ngài sẽ ban cho chúng ta Sao Mai ấy (Kh 2,28).

Mừng lễ Hiển Linh không thể không nghĩ đến các vì sao,

và ý thức mình chính là một vì sao cần tỏa sáng (Pl 2,15). 

 

CẦU NGUYỆN

Lạy Chúa là Ánh sáng thân thương,

Giữa những bủa vây của u sầu ảm đạm,

Xin Chúa dẫn con đi.

 

Đêm thì tối, đường còn xa,

Xin Chúa dẫn con đi,

Xin giữ bước chân con.

 

Con đâu dám xin thấy tương lai xa xôi,

Chỉ thấy một bước trước mặt cũng đủ rồi.

 

Chưa bao giờ con như bây giờ,

Cũng chưa bao giờ con xin Chúa dẫn dắt.

Con đã quen tự chọn và thấy con đường của mình.

Nhưng giờ đây, xin Chúa dẫn con đi.

 

Thánh John Henry Newman

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

(phutcaunguyen.net)

++++++++++++++++++

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên

7 THÁNG GIÊNG

Hành Trình Trực Chỉ Giê-ru-sa-lem

Các nhà thông thái phương Đông là những người ngoại giáo đầu tiên đón nhận mạc khải đức tin vào Chúa Kitô. Họ là những người đầu tiên tiếp cận mầu nhiệm thừa tự mà Thiên Chúa đã mở ra cho mọi người nơi Đức Giêsu Kitô: cuộc Nhập Thể của Con đời đời của Thiên Chúa.

Mầu nhiệm ấy, nhờ Chúa Thánh Thần vén mở, đã được các nhà thông thái tiếp cận ngay cả trước khi nó được mạc khải cho các tông đồ – và ngay cả trước khi Tin Mừng được nhận biết như là con đường dẫn tới đức tin. Nơi các nhà thông thái này, chúng ta tìm thấy một hình mẫu của công cuộc tiền-Phúc-Âm hóa. Chúng ta thấy rõ linh hồn họ đã được Thiên Chúa chuẩn bị để đón nhận ơn cứu độ. Đây cũng là một công trình của Chúa Thánh Thần, Đấng mạc khải ý nghĩa của ánh sao mà các nhà thông thái đã dõi bước theo trên hành trình trực chỉ Giê-ru-sa-lem. Aùnh sao ấy biểu trưng ý nghĩa rằng ơn cứu độ của họ vẫn còn ở xa xa, réo gọi.

Trong ngày Lễ Hiển Linh, phụng vụ của Giáo Hội cũng muốn dẫn dắt chúng ta trên hành trình của mình tiến về Giê-ru-sa-lem. Chúng ta hướng lòng về thành Thánh, “thành đô của Đại Vương”. Cho dẫu cư dân Giê-ru-sa-lem không hề hay biết rằng vị Vua Vinh Quang đã được sinh ra giữa họ, thì phần mình, chúng ta vẫn vui mừng hoan hỉ hướng về thành Thánh. Bởi đó là ‘thành đô của Đại Vương’.

– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –

Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác

LIFT UP YOUR HEARTS

Daily Meditations by Pope John Paul II

+++++++++++++++++

Lời Chúa Trong Gia Đình

Ngày 07/01

Chúa Nhật Lễ Chúa Hiển Linh

Is 60, 1-6; Ep 3, 2-3a. 5-6; Mt 2, 1-12.

Lời Suy Niệm:  Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Maria, liền sấp mình thờ lạy Người. Rồi mở bảo tráp, lấy vàng, nhủ hương và mộc dược mà dâng tiến. Sau đó, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hê-rô-đê nữa, nên đã đi lối khác mà về xứ mình. (Mt 2,11-12)

          Chúa Hiển Linh là sự tỏ mình ra của Chúa Giêsu, như Đấng Mêssia của Ítraen, là Con Thiên Chúa, và là Đấng cứu độ trần gian, lễ này mừng kính việc “các đạo sĩ” từ phương Đông đến thờ lạy Chúa Giêsu , Nơi các đạo sĩ này là đại diện cho các tôn giáo lương dân lân cận.

          Lạy Chúa Giêsu. Ngày Chúa vào trần gian này, Chúa đã soi sáng và mở đường cho các nhà đạo sĩ đến thờ lạy Chúa; và cũng chính nhờ ba nhà đạo sĩ này đã đánh thức cả Thành Bêlem từ vua Chúa cho đến các nhà lãnh đạo tôn giáo và toàn dân. Xin cho mỗi người trong chúng con được ơn là công cụ của Chúa nơi chúng con đang sống, để những người chung quanh chúng con nhận ra có Chúa và tin thờ Chúa. Amen.

Mạnh Phương

+++++++++++++++++

Gương Thánh Nhân

Ngày 07-01: THÁNH RAYMUNDO PENYAFORT

Linh Mục (1175-1275)

Thánh Raymudô chào đời năm 1175 trong một gia đình hiệp sĩ tại lâu đài Penyafort ở California. Không chiều theo cuộc sống dễ dãi, Ngài đã dành trọn nỗ lực tuổi trẻ vào việc học hành và thực tập các nhân đức. Mới 20 tuổi, Ngài đã giữ ghế triết tại đại học Barcelona. Nhưng vì tinh thần hiếu học và muốn giúp ích cho Giáo hội đắc lực hơn, năm 30 tuổi, Ngài qua Italia để tiếp tục học luật tại Bologna. Tại đây Ngài đã tốt nghiệp tiến sĩ và thành công trong nghề luật sư, lại còn giảng dạy tại chính đại học Bologna trong ba năm. Nhiều nhà quí phái và bậc thứ giả tìm đến với Ngài. Tận tụy hướng dẫn họ, Ngài chỉ mong cho họ tiến bộ. Nếu có bị ép để nhận một ít thù lao nào, Ngài cũng đem phân phát cho người nghèo.

Năm 1249, Đức giám mục địa phận Bacelona mời Ngài về giúp việc địa phận. Nhưng lúc 48 tuổi, thánh nhân đã trốn mọi danh vọng và xin gia nhập dòng Daminh, Ngài chỉ ao ước được trao phó cho những công việc thấp hèn nhất. Nếu được tán thưởng, Ngài liền xin bề trên cho được làm việc đền tội. Tuy nhiên việc đền tội Ngài không mong mỏi chút nào, là việc nhà dòng trao cho Ngài trách nhiệm viết một tác phẩm về các vấn đề lương tâm để hướng dẫn các cha giải tội. Tác phẩm này cho tới ngày nay vẫn còn danh tiếng.

Năm 1230, Đức giáo hoàng Gregoriô IX cảm kích những thành quả do thánh Raymundô mang lại, đã mời làm cha giải tội cho mình, đồng thời chọn Ngài làm tổng giám mục thành Tarragona. Nhưng danh dự này đã khiến thánh nhân, khi nghe tin, lên cơn sốt liền trong vòng ba ngày, Ngài đã xin các đức hồng y can thiệp cho mình khỏi lãnh nhận danh dự và gánh nặng này. Cuối cùng Đức giáo hoàng đành chấp thuận. Năm năm làm việc tại giáo triều, đức giáo hoàng đã ủy thác cho thánh nhân thu thập các sắc lệnh của các đức giáo hoàng và các công đồng thánh nhân đã gom góp vào năm cuốn sách và được phê chuẩn năm 1234. Ngoài việc chu toàn các nghĩa vụ được trao phó, Ngài còn theo đuổi một nếp sống nhiệm nhặt, khiến Ngài lâm trọng bệnh. Thánh nhân liền khẩn nài cho mình được trở về với nếp sống tu sĩ bình thường.

Từ khứơc mọi đặc ân thánh nhân rời khỏi Roma trở về Barcelona. Trên chuyến tàu Ngài gặp một người lâm bệnh nặng không còn nói năng gì được. Cầu nguyện và xin mọi người cầu nguyện cho ông, thánh nhân hỏi ông có muốn xưng tội không ? Bệnh nhân bỗng nói được. Ông ta đã xưng tội rồi tắt thở.

Tại Barcelon, thánh nhân trở lại đời sống sám hối rất gương mẫu. Hàng ngày Ngài vẫn xưng tội rước khi dâng lễ. Ngài nói: – “Những ngày bị ngăn trở không xưng tội được, đối với tôi là những tang chế u sầu”.

Năm 1238, Ngài được bầu làm bề trên tổng quyền thứ ba của dòng Daminh. Suốt hai năm làm bề trên, Ngài đã đi bộ đến thăm viếng mỗi tỉnh dòng để hun nóng lòng nhiêt thành của các tu sĩ. Hai năm sau Ngài xin từ chức vì tuổi già sức yếu.

Tuy nhiên trong tuổi già yếu, Ngài vẫn góp phần xây dựng cho tổ quốc. Ngài đã viết thư yêu cầu thánh Tôma viết một bộ sách để chống lại bọn lạc giáo, như vua Giacôbê yêu cầu. Thánh Tôma đã nhận lời và viết bộ sách “Summa Contra Ghentiles” Dù được nhà vua quí mến chiều chuộng, nhưng thánh nhân không ngại cảnh cáo ông ta. Một lần kia, trong cuộc chinh phục đảo Maiorqua. Vua mời thánh nhân cùng đi. Thánh nhân nhận lời với ước vọng giảng thuyết để phá đổ những sai lầm tại đó. Nhưng tới nơi, Ngài khám phá ra rằng nhà vua đang phá hoại tổ chức bằng cuộc sống tội lỗi của mình. Ngài can ngăn nhưng nhà vua không giữ lời hứa.

Thánh nhân liền tuyên cáo: – Vì Ngài không bỏ đường tội lỗi nên tôi sẽ bỏ đi.

Hoảng hốt, nhà vua cấm mọi tàu thuyền không được phép chở Ngài. Tương truyên rằng: thánh nhân đã nói với một tu sĩ đi theo Ngài rằng:  – Một vua trần thế cản đường, thì vua trên trời sẽ mở lối cho chúng ta đi.

Nói rồi, Ngài cởi áo ngoài trải ra trên mặt biển, cắm cây gậy làm cột và cuốn một góc làm buồm. Ngài mời thầy dòng lên “Tàu” nhưng ông không dám. Thế là một mình Ngài đáp “tàu” hồi hương. Vài giờ sau thánh nhân tới bến và Ngài vội vàng cuốn áo thẳng về nhà dòng để tránh tiếng hoan hô của dân chúng. Phép lạ này đã trở thành sức mạnh cải hóa nhà vua, đưa ông trở lại với lương tâm và quê hương mình.

Về già, thánh Raymundô đã chịu nhiều cơn đau yếu, nhưng lòng nhiệt thành của Ngài vẫn bốc cháy không ngừng. Ngày 6 tháng giêng năm 1275 Ngài đã từ giã cõi thế là nơi mà Ngài đã hiến trọn đời phụng vụ Chúa.

(daminhvn.net)

+++++++++++++++++

07 Tháng Giêng

33 Năm Sau 

    Với tựa đề “33 năm sau”, đó là một câu chuyện thuật lại như sau: “Những gì đã xảy ra cho đứa bé năm nào?”. Một trong ba vua đã đi triều bái vua Do Thái mới sinh tự hỏi. Suốt cuộc đời mình, nhà vua không thể nào quên được cuộc hành trình cách đây khoảng 33 năm, một cuộc hành trình dõi theo ánh sáng sao lạ dẫn ông đến hang đá Bêlem.

   Câu hỏi: “Liệu đứa bé ấy có trị vì dân Israel được không?”. Làm cho nhà vua bồn chồn đứng ngồi không yên. Rồi chẳng dừng được, một lần nữa nhà Vua quyết định lên đường đi đến Palestine. Tại Giêrusalem, những bậc bô lão còn nhớ đến những vì sao lạ, nhưng không ai biết gì đến đứa bé được sinh ra dưới điềm lạ ấy. Còn tại Bêlem mọi người được hỏi đều lắc đầu, ngoại trừ một cụ già cho nhà Vua biết: Làm gì có ông Giêsu Bêlem, chỉ có ông Giêsu Nagiarét, một người nói phạm thượng tự xưng mình là Con Thiên Chúa, nên cách đây mấy tuần đã bị xử “tử hình thập giá”.

Thất vọng ê trề, nhà Vua thẫn thờ nhập vào đoàn những người hành hương trở lại Giêrusalem, vào đúng ngày Lễ Ngũ Tuần. Chen lấn vào đoàn lũ đang mừng lễ Tạ Ơn Sau Mùa Gặt, nhà Vua chú ý đến một đám đông đang bu quanh một nhóm người. Tò mò ông lấn qua đám đông để đến gần và nghe có kẻ nói: “Tưởng gì chứ lại gặp mấy tên say rượu nói tầm xàm”.

Nhưng tai nhà Vua lại nghe một người trong nhóm nói tiếng nước mình và rõ ràng ông ta nói về ông Giêsu Nagiarét, người đã bị đóng đinh, nhưng đã được Thiên Chúa cho sống lại từ cõi chết. Như bị một sức mạnh vô hình thúc đẩy, nhà Vua chen vào đám đông cất tiếng hỏi: “Vậy bây giờ ông Giêsu đó ở đâu?”. Ðại diện nhóm người đứng ở giữa đám đông là Simon Phêrô trả lời: “Ngài đang ở giữa chúng tôi. Ngài đang ở trong chúng tôi. Chúng tôi là môi miệng, là tai mắt, là đôi tay, là đôi chân của Ngài”.

Trong lúc Pphêrô đang nói, bỗng có một luồng gió thổi mạnh và hình lưỡi lửa một lần nữa thổi tràn xuống mọi người. Nhà Vua bỗng lại thấy ánh sao Bêlem, nhưng lần này ánh sao ấy chia ra nhiều ánh sao khác rơi xuống mọi người. Trong tâm hồn, nhà Vua chợt hiểu: Mỗi người phải trở nên máng cỏ nơi Ðức Giêsu sinh ra và mỗi người phải mang Ngài đến cho mọi người xung quanh.

Câu chuyện trên nối liền ý nghĩa của Lễ Giáng Sinh, mừng biến cố Ngôi Lời nhập thể với Lễ Tưởng Niệm Biến Cố Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Ðồng thời câu chuyện cũng nêu nổi bật bổn phận của mọi người Kitô, là những kẻ phải trở nên tai mắt, trở nên môi miệng và chân tay của Ðức Kitô để mang Tin Mừng của Ngài đến cho mọi người chúng ta gặp gỡ và cộng tác hằng ngày.

(Lẽ Sống)

++++++++++++++++++

Lời Chúa Mỗi Ngày

Chúa Nhật Lễ Hiển Linh – Năm ABC

Bài đọc: Isa 60:1-6; Eph 3:2-3, 5-6; Mt 2:1-12.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Chúa Kitô là ánh sáng cho muôn dân.

Đứng trước cùng một biến cố xảy ra, con người có những phản ứng khác nhau, tùy thuộc vào sự cần thiết và hy vọng của con người: có người dửng dưng, có người đàn áp, và có người nhiệt thành đón nhận. Biến Cố Nhập Thể của Đức Kitô cũng thế, dù được báo trước và dặn phải chuẩn bị sẵn sàng, nhiều người Do-Thái vẫn không chuẩn bị để đón nhận Chúa Cứu Thế; nhưng các Mục-đồng và Ba Nhà Đạo Sĩ từ phương xa nhiệt thành đi tìm và họ đã tìm thấy Đấng Cứu Thế.

Các Bài Đọc hôm nay tập trung vào Mầu Nhiệm Cứu Độ của Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, Tiên-tri Isaiah cho thấy trước Ngày Thiên Chúa sẽ ban Ơn Cứu Độ của Ngài như vinh quang cho Jerusalem và như ánh sáng cho muôn dân. Trong Bài Đọc II, Thánh Phaolô nhắc nhở cho các tín hữu của ngài về Mầu Nhiệm Cứu Độ của Thiên Chúa. Theo Mầu Nhiệm này, Thiên Chúa chọn Dân Do-Thái như Dân Riêng để chuẩn bị cho Đấng Cứu Thế ra đời; nhưng khi Ngài đến, Ngài sẽ ban Ơn Cứu Độ cho tất cả mọi người qua niềm tin của họ vào Đức Kitô. Trong Phúc-Âm, Thánh Matthew tường thuật 3 phản ứng chính của con người khi phải đối diện với Tin Mừng của Đấng Cứu Thế: thờ ơ lạnh nhạt, lập kế tiêu diệt, và nhiệt thành đi tìm.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Chúa Kitô là vinh quang của Israel và là ánh sáng cho muôn dân.

1.1/ Sự sáng của Thiên Chúa đã chiếu tỏa trên Jerusalem: “Đứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu toả trên ngươi.”

Chương 60 của Sách Tiên Tri Isaiah được viết sau thời gian Lưu Đày Babylon; lúc đó Jerusalem còn là một thành trì hoang phế bởi chiến tranh. Vì thế, đọan văn này không có ý nói về Thành Jerusalem cách thể lý, nhưng nói về một Jerusalem tinh thần, tượng trưng cho dân tộc Israel. Người làm cho Jerusalem được đứng dạy, được bừng sáng, là Thiên Chúa; chứ không phải dân tộc Israel. Ánh sáng và vinh quang của Đức Chúa đây chính là Ơn Cứu Độ, mà Ngài đã hứa ban cho Jerusalem qua các Tiên-tri. Ơn Cứu Độ nói tới ở đây không chỉ là việc giải thóat và cho dân Israel được trở về Jerusalem từ chốn Lưu Đày Babylon; nhưng còn bao gồm cả việc gỉai phóng Israel khỏi nô lệ của tội lỗi qua Đấng Thiên Sai.

Tác giả nêu bật sự tương phản giữa ánh sáng của Jerusalem và bóng tối của chư dân qua câu: “Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân; còn trên ngươi Đức Chúa như bình minh chiếu toả, vinh quang Người xuất hiện trên ngươi.” Trước khi Đấng Cứu Thế xuất hiện, người Do-Thái quan niệm: chỉ có họ mới là Dân Riêng của Thiên Chúa và xứng đáng được hưởng Ơn Cứu Độ; còn tất cả các dân tộc khác (Dân Ngọai) là những người ngồi trong bóng tối tăm sự chết, và không được hưởng Ơn Cứu Độ. Bóng tối và mây mù tác giả muốn nói tới ở đây là việc không biết Thiên Chúa, không biết Ơn Cứu Độ, và không sống theo đường lối của Thiên Chúa.

1.2/ Chư dân từ khắp nơi sẽ tuôn đến Jerusalem: Nhưng một khi Đấng Cứu Thế tới, mọi sự đều đổi khác: Ơn Cứu Độ không còn giới hạn trong dân tộc Israel, nhưng mở rộng tới mọi dân tộc (còn được gọi chung là Dân Ngọai), như viễn tượng mà Tiên-tri Isaiah đã nhìn thấy hôm nay: “Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước. Đưa mắt nhìn tứ phía mà xem, tất cả đều tập hợp, kéo đến với ngươi: con trai ngươi từ phương xa tới, con gái ngươi được ẵm bên hông.” Như đã nói ở trên, ánh sáng của Jerusalem chính là Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa. Ánh sáng này soi tỏa cho các dân tộc trên địa cầu, và mọi người sẽ tuôn đến Jerusalem tinh thần để được hưởng Ơn Cứu Độ này. Tiên-tri Isaiah liệt kê các thành phần tiến đến Jerusalem bao gồm: (1) Các vua chúa của các quốc gia; và (2) các con trai và các con gái. Các người con này không có liên hệ với Jerusalem bằng máu mủ, nhưng bằng niềm tin vào Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa.

Khi những điều này xảy ra, Jerusalem sẽ tràn đầy niềm vui như Tiên-tri loan báo: “Trước cảnh đó, mặt mày ngươi rạng rỡ, lòng ngươi rạo rực, vui như mở cờ, vì nguồn giàu sang sẽ đổ về từ biển cả, của cải muôn dân nước sẽ tràn đến với ngươi. Lạc đà từng đàn che rợp đất, lạc đà Median và Ephah: tất cả những người từ Sheba kéo đến, đều mang theo vàng với trầm hương, và loan truyền lời ca tụng Đức Chúa.” Trong thế giới thời đó, giàu sang được đo lường bằng những đòan vật, và lạc đà được coi là thú vật có giá trị nhất trong việc di chuyển đồ đạc qua sa mạc cho các quốc gia vùng Trung Đông. Theo Sáng Thế Ký 25:4, Ephah là con trai của Midian, và là cháu của Jokshan, cha của Sheba. Sheba ngày nay là Nước Yemen. Vàng và nhũ hương là 2 món hàng đắt nhất thời bấy giờ. Điều này chúng ta sẽ đề cập tới trong Phúc Âm, khi Ba Vua dâng những quà này cho Chúa Hài Đồng.

2/ Bài đọc II: Các Dân Ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do-Thái.

2.1/ Kế Họach Cứu Độ của Thiên Chúa qua Đức Kitô: “Hẳn anh em đã được nghe biết về kế hoạch ân sủng mà Thiên Chúa đã uỷ thác cho tôi, liên quan đến anh em. Người đã mặc khải để tôi được biết mầu nhiệm Đức Kitô như tôi vừa trình bày vắn tắt trên đây.” Thánh Phaolô viết Thư này cho các tín hữu Philiphê, khi ngài đang bị cầm tù tại Rome. Ngài nhắc lại cho họ biết về “kế họach ân sủng” mà Thiên Chúa đã ủy thác cho ngài. Kế họach này bao gồm hai việc: biến cố trở lại trên đường Damascus và sứ vụ rao truyền Tin Mừng cho Dân Ngọai được ủy thác cho ngài. Giữa 2 biến cố này là khỏang thời gian Thánh Phaolô đi vào tĩnh tâm trong sa mạc Arabia, để được Thiên Chúa mặc khải về mầu nhiệm Đức Kitô cho thánh nhân. Sở dĩ có sự kiện này là vì Thánh Phaolô đã không được giao tiếp với Đức Kitô như các Tông-đồ khác khi Chúa Giêsu còn sống trên dương gian.

2.2/ Dân Ngọai cũng được thừa hưởng Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa: “Mầu nhiệm này, Thiên Chúa đã không cho những người thuộc các thế hệ trước được biết, nhưng nay Người đã dùng Thánh Thần mà mặc khải cho các thánh Tông-đồ và Tiên-tri của Người. Mầu nhiệm đó là: trong Đức Kitô Giêsu và nhờ Tin Mừng, các Dân Ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do-Thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa.” Qua những hàng vắn tắt này, Thánh Phaolô tường thuật cho chúng ta biết 2 giai đọan chính của Mầu Nhiệm Cứu Độ: (1) Thiên Chúa chọn Dân Do-Thái là Dân Riêng của Thiên Chúa để được huấn luyện và chuẩn bị cho Đấng Cứu Thế đến; và (2) Khi Đấng Cứu Thế đến, Ơn Cứu Độ được lan rộng tới mọi người qua việc rao truyền Tin Mừng và niềm tin của mọi người vào Đức Kitô. Qua việc tuyên xưng đức tin và chịu Phép Rửa, tất cả cùng được tháp nhập vào thân thể của Đức Kitô.

3/ Phúc Âm: Con người phản ứng trước ánh sáng của Thiên Chúa.

3.1/ Con người buộc phải có thái độ trước Tin Mừng về Đức Kitô: Thiên Chúa có thể dùng ngôi sao dẫn đường cho Ba Nhà Đạo Sĩ một mạch tới Bethlehem, mà không cần phải đi qua Jerusalem; nhưng để cho mọi người cư ngụ tại Jerusalem có cơ hội đồng đều để lắng nghe Tin Mừng, Ngài làm mất dấu ngôi sao để Ba Nhà Đạo Sĩ phải vào Jerusalem để loan tin. Thánh Matthew tường thuật: “Khi Đức Giêsu ra đời tại Bethlehem, miền Judah, thời vua Herode trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đến Jerusalem, và hỏi: “Đức Vua dân Do-Thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người.” Nghe tin ấy, vua Herode bối rối, và cả thành Jerusalem cũng xôn xao. Nhà vua liền triệu tập tất cả các Thượng-tế và Kinh-sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Kitô phải sinh ra ở đâu. Họ trả lời: “Tại Bethlehem, miền Judah, vì trong sách Tiên-tri, có chép rằng: “Phần ngươi, hỡi Bethlehem, miền đất Judah, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Judah, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Israel dân Ta sẽ ra đời” (Mic 5:2).

3.2/ Ba phản ứng của con người trước ánh sáng: Đứng trước Tin Mừng được loan báo bởi Ba Nhà Đạo Sĩ, chúng ta tổng hợp được 3 thái độ chính của con người:

(1) Thái độ thờ ơ của Dân Thành Jerusalem cách chung và của các Thượng-tế và các Kinh-sư nói riêng: Thánh Matthew ám chỉ Dân Thành biết biến cố Chúa Cứu Thế ra đời trong câu: “Nghe tin ấy, vua Herode bối rối, và cả thành Jerusalem cũng xôn xao.” Họ xôn xao để tìm ra nơi chốn sinh ra của Đấng Cứu Thế, rồi âm thầm lên giường đắp chăn ngủ tiếp! Họ có thể sợ vì trời tối, đường xa, và lạnh lẽo; nhưng đơn giản là vì họ đã có mọi thứ và không cần tới Đấng Cứu Thế. Các Thượng-tế và các Kinh-sư mang tội nặng hơn, vì họ là những người thông hiểu Kinh-Thánh và sự cần thiết của việc Đấng Cứu Thế đến; nhưng họ dùng Kinh-Thánh để tìm ra và chỉ đường cho người khác đến gặp Ngài; phần họ, gấp sách lại và từ chối không lên đường đi tìm Ngài.

(2) Thái độ muốn tiêu diệt ánh sáng của Vua Herode: Bấy giờ Vua Herode bí mật vời các nhà chiêm tinh đến, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện. Rồi vua phái các vị ấy đi Bethlehem và dặn rằng: “Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người.” Đã không tiếp nhận ánh sáng, Vua Herode còn toan tính tiêu diệt ánh sáng. Trong cuộc đời, chúng ta cũng gặp nhiều thái độ như Vua Herode. Họ muốn tiêu diệt ánh sáng vì sợ ánh sáng sẽ phơi bày những ích kỷ, toan tính, và những xấu xa trong tâm hồn của họ.

(3) Thái độ nhiệt thành đi tìm ánh sáng của Ba Nhà Đạo Sĩ: Trớ trêu thay cho dân tộc Do-Thái, họ trông chờ từng ngày từng giờ và chuẩn bị cho việc đón Đấng Cứu Thế ra đời; nhưng khi Người xuất hiện, lại chỉ có Ba Nhà Đạo Sĩ là những người Dân Ngọai, từ phương trời xa xôi đi tìm Người theo dấu một vì sao. Họ không sợ đường xa, trời tối, nguy hiểm, gió lạnh mùa Đông, và nhất là theo dấu một vì sao mong manh. Họ không nản lòng khi mất dấu ngôi sao, họ vào Thành Jerusalem với hy vọng sẽ tìm được Ngài trong lịch sử. Và khi được hướng dẫn của Kinh Thánh (Micah 5:1), họ lại tiếp tục lên đường. Họ mừng vui khi thấy ngôi sao tái xuất hiện, và họ đã thấy Hài Nhi. Mở túi hành trang ra, họ dâng 3 lễ vật quí giá nhất cho Hài Nhi: vàng chỉ sự thần phục Hài Nhi là Vua; nhũ hương chỉ sự thần phục Hài Nhi là Chúa; mộc dược tiên báo trước Cuộc Thương Khó và cái chết của Hài Nhi. Sau đó, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Herode nữa, nên đã đi lối khác mà về xứ mình.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

– Thiên Chúa đã tỏ tình thương qua việc ban Người Con Một của Ngài cho chúng ta, phản ứng của chúng ta làm sao khi lãnh nhận Tin Mừng này?

– Chúng ta có hăng hái nhiệt thành lên đường đi tìm Ngài, hay ngại ngùng phải rời bỏ ốc đảo bình an của chúng ta vì sợ nguy hiểm, tốn thời gian, và lười biếng?

– Rất nhiều lần chúng ta đã quay lưng lại với sự thật và ánh sáng, không phải vì chúng ta không biết đó là sự thật hay ánh sáng; nhưng chúng ta sợ: nếu chấp nhận sự thật, chúng ta phải sống điều sự thật đòi hỏi; nếu phải đến gần ánh sáng, chúng ta phải bỏ những tội lỗi mà chúng ta đã quá quen thuộc!

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

****************