Chúa Nhật (06-10-2024) – Trang suy niệm

05/10/2024

Lời Chúa Hôm Nay

Chúa Nhật XXVII Thường Niên Năm B

BÀI ĐỌC I: St 2, 18-24

“Cả hai nên một thân thể”.

Trích sách Sáng Thế.

Chúa là Thiên Chúa phán: “Đàn ông ở một mình không tốt. Ta hãy tạo dựng cho nó một nội trợ giống như nó”. Sau khi lấy bùn đất dựng nên mọi thú vật dưới đất và toàn thể chim chóc trên trời, Thiên Chúa dẫn đến trước mặt Ađam để coi ông gọi chúng thế nào, và sinh vật nào Ađam gọi, thì chính đó là tên nó. Ađam liền đặt tên cho mọi súc vật, chim trời và muông thú. Nhưng Ađam không gặp một người nội trợ giống như mình.

Vậy Thiên Chúa khiến cho Ađam ngủ say, và khi ông đang ngủ, Người lấy một xương sườn của ông, và đắp thịt lại. Thiên Chúa làm cho chiếc xương sườn đã lấy từ Ađam trở thành người đàn bà, rồi dẫn đến Ađam. Ađam liền nói: “Bây giờ đây xương bởi xương tôi và thịt bởi thịt tôi. Người này sẽ được gọi là người nữ, vì bởi người nam mà ra”. Vì thế, người đàn ông sẽ lìa bỏ cha mẹ mà kết hợp với vợ mình, và cả hai nên một thân thể. Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 127, 1-2. 3. 4-5. 6

Đáp: Nguyện Chúa chúc phúc cho chúng con hết mọi ngày trong đời sống chúng con! (x. c. 5).

1) Phúc thay những bạn nào tôn sợ Thiên Chúa, bạn nào ăn ở theo đường lối của Người! Công quả tay bạn làm ra bạn được an hưởng, bạn được hạnh phúc và sẽ gặp may.  

2) Hiền thê bạn như cây nho đầy hoa trái, trong gia thất nội cung nhà bạn. Con cái bạn như chồi non của khóm ô-liu, ở chung quanh bàn ăn của bạn.

3) Đó là phúc lộc dành để cho người biết kính sợ Chúa. Nguyện Chúa từ Sion chúc phúc cho bạn, để bạn nhìn thấy cảnh thịnh đạt của Giêrusalem, hết mọi ngày trong đời sống của bạn.  

4) Và để bạn nhìn thấy lũ cháu đàn con. Nguyện xin bình an đến trên đất Israel.

BÀI ĐỌC II: Dt 2, 9-11

“Đấng thánh hoá và những người được thánh hoá, tất cả đều do một nguồn gốc”.

Trích thư gửi tín hữu Do-thái.

Anh em thân mến, Đấng trong một thời gian bị hạ xuống kém các Thiên Thần, là Đức Giêsu, chúng ta thấy Người được triều thiên vinh quang và danh dự vì cuộc tử nạn của Người, để nhờ ơn Thiên Chúa, Người chịu chết thay cho mọi người. Quả vậy, thật là thích hợp việc Chúa là nguyên nhân và cùng đích mọi vật, đã dẫn đưa nhiều con cái đến vinh quang và đã lấy cuộc khổ nạn mà làm cho Đấng đem lại ơn cứu rỗi được hoàn hảo. Vì chưng, Đấng thánh hoá và những người được thánh hoá, tất cả đều do một nguồn gốc. Vì thế, Người không hổ thẹn gọi họ là anh em. Đó là lời Chúa.

ALLELUIA: Ga 17, 17b và a

Alleluia, alleluia! – Chúa phán: “Lời Cha là chân lý; xin hãy thánh hoá chúng trong sự thật”. – Alleluia.

PHÚC ÂM: Mc 10, 2-12 hoặc 2-16

“Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân rẽ”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, những người biệt phái đến gần và hỏi thử Chúa Giêsu rằng: “Người ta có được phép ly dị vợ mình chăng?” Người đáp: “Môsê đã truyền cho các ông thế nào?” Họ thưa: “Môsê cho phép làm giấy ly dị và cho ly dị”. Bấy giờ Chúa Giêsu đáp lại: “Chính vì sự cứng lòng của các ông, mà Môsê đã viết ra điều luật đó. Nhưng lúc khởi đầu cuộc sáng tạo, Thiên Chúa đã dựng nên một người nam và một người nữ. Bởi đó người nam sẽ lìa cha mẹ để luyến ái vợ mình, và hai người sẽ nên một huyết nhục. Như thế, họ không còn là hai mà là một huyết nhục. Vậy sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân rẽ”.

Về đến nhà, các môn đệ lại hỏi Người về điểm đó. Và Người bảo các ông: “Ai bỏ vợ mình và lấy vợ khác, thì phạm tội ngoại tình đối với người vợ trước. Và người nữ bỏ chồng và lấy chồng khác, thì cũng phạm tội ngoại tình”.

Bấy giờ người ta đưa những trẻ nhỏ đến cùng Chúa Giêsu để Người đặt tay trên chúng, nhưng các môn đệ khiển trách họ. Thấy vậy, Chúa Giêsu bất bình và bảo các ông rằng: “Hãy để các trẻ nhỏ đến cùng Thầy, đừng ngăn cản chúng, vì nước Thiên Chúa là của những người giống như chúng. Thầy bảo thật các con: Ai không đón nhận nước Thiên Chúa như trẻ nhỏ, sẽ không được vào nước đó”. Rồi Người ôm chúng, đặt tay ban phép lành cho chúng. Đó là lời Chúa.

**********************

Kính trọng thể Đức Mẹ Mân Côi

Bài Ðọc I: St 3, 9-15. 20

“Ta sẽ đặt mối thù nghịch giữa miêu duệ mi và miêu duệ người phụ nữ”.

Trích sách Sáng Thế.

Thiên Chúa đã gọi Ađam và phán bảo ông rằng: “Ngươi đang ở đâu?” Ông đã thưa: “Con đã nghe thấy tiếng Ngài trong vườn địa đàng, nhưng con sợ hãi, vì con trần truồng và con đang ẩn núp”.

Chúa phán bảo ông rằng: “Ai đã chỉ cho ngươi biết rằng ngươi trần truồng, há chẳng phải tại ngươi đã ăn trái cây mà Ta đã cấm ngươi không được ăn ư?” Ađam thưa lại:”Người phụ nữ Chúa đã cho làm bạn với con, chính nàng đã cho con trái cây và con đã ăn”. Và Thiên Chúa phán bảo người phụ nữ rằng: “Tại sao ngươi đã làm điều đó?” Người phụ nữ thưa:”Con rắn đã lừa dối con và con đã ăn”.

Thiên Chúa phán bảo con rắn rằng: “Bởi vì mi đã làm điều đó, mi sẽ vô phúc ở giữa mọi sinh vật và mọi muông thú địa cầu; mi sẽ bò đi bằng bụng, và mi sẽ ăn bùn đất mọi ngày trong đời mi. Ta sẽ đặt mối thù nghịch giữa mi và người phụ nữ, giữa miêu duệ mi và miêu duệ người đó, người miêu duệ đó sẽ đạp nát đầu mi, còn mi thì sẽ rình cắn gót chân người”.

Và Ađam đã gọi tên vợ mình là Evà: vì lẽ bà là mẹ của chúng sinh.

Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: 1 Sm 2, 1. 4-5. 6-7. 8

Ðáp: Tâm hồn tôi nhảy mừng trong Chúa, Ðấng Cứu độ tôi

Xướng: Tâm hồn tôi nhảy mừng trong Chúa, và sức mạnh tôi được gia tăng trong Thiên Chúa tôi; miệng tôi mở rộng ra trước quân thù, vì tôi reo mừng việc Chúa cứu độ tôi.

Xướng: Chiếc cung những người chiến sĩ đã bị bẻ gãy, và người yếu đuối được mạnh khoẻ thêm. Những kẻ no nê phải làm thuê độ nhật, và những người đói khát khỏi phải làm thuê; người son sẻ thì sinh năm đẻ bảy, còn kẻ đông con nay phải héo tàn.-

Xướng: Chúa làm cho chết và Chúa làm cho sống, Chúa đày xuống Âm phủ và Chúa dẫn ra. Chúa làm cho nghèo và làm cho giàu có, Chúa hạ xuống thấp và Chúa nâng lên cao.

Xướng: Từ nơi cát bụi, Chúa nâng người yếu đuối; từ chỗ phân nhơ, Chúa nhắc kẻ khó nghèo, để cho họ ngồi chung với các vương giả, và cho họ dự phần ngôi báu vinh quang.

Bài Ðọc II: Rm 5, 12. 17-19

“Nơi nào tội lỗi đầy tràn, thì Người ban ơn thánh dư dật”.

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.

Anh em thân mến, cũng như do một người mà tội lỗi đã nhập vào thế gian, và do tội lỗi mà có sự chết, và thế là sự chết đã truyền đến mọi người, vì lẽ rằng mọi người đã phạm tội. Vì nếu bởi tội của một người mà sự chết đã thống trị do một người đó, thì những người lãnh được ân sủng và ơn huệ dồi dào bởi đức công chính, càng được thống trị hơn nữa trong sự sống do một người là Ðức Giêsu Kitô. Do đó, tội của một người truyền đến mọi người đưa tới án phạt như thế nào, thì đức công chính của một người truyền sang mọi người đưa tới bậc công chính ban sự sống cũng như thế. Vì như bởi tội không vâng lời của một người mà muôn người trở thành những tội nhân thế nào, thì do đức vâng lời của một người mà muôn người trở thành kẻ công chính cũng như thế.

Ðó là lời Chúa.

Alleluia: Lc 1, 28

Alleluia, alleluia! – Kính chào Maria đầy ơn phúc, Thiên Chúa ở cùng Trinh Nữ; Trinh Nữ được chúc phúc giữa các người phụ nữ. – Alleluia.

Phúc Âm: Lc 1, 26-38

“Này Trinh nữ sẽ thụ thai và sinh một Con trai”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Thiên Thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nadarét, đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Ðavít, trinh nữ ấy tên là Maria. Thiên thần vào nhà trinh nữ và chào rằng: “Kính chào Trinh Nữ đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng Trinh Nữ”. Nghe lời đó, Trinh Nữ bối rối và tự hỏi lời chào đó có ý nghĩa gì. Thiên thần liền thưa: “Maria đừng sợ, vì đã được ơn nghĩa với Chúa. Này Trinh Nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Ðấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Ðavít tổ phụ Người. Người sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp, và triều đại Người sẽ vô tận.

Nhưng Maria thưa với thiên thần: “Việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi không biết đến người nam?”

Thiên thần thưa: “Chúa Thánh Thần sẽ đến với trinh nữ và uy quyền Ðấng Tối Cao sẽ bao trùm trinh nữ. Vì thế, Ðấng trinh nữ sinh ra sẽ là Ðấng Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa. Và này, Isave chị họ trinh nữ cũng đã thụ thai con trai trong lúc tuổi già và nay đã mang thai được sáu tháng, người mà thiên hạ gọi là son sẻ; vì không có việc gì mà Chúa không làm được”.

Maria liền thưa: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền”. Và thiên thần cáo biệt trinh nữ.

Ðó là lời Chúa.

(Nguồn: UBPV/HĐGMVN, ấn bản 1973)

++++++++++++++++++

06/10/2024 – CHÚA NHẬT TUẦN 27 TN – B

Mc 10,2-16

ĐIỀU KIỆN ĐẠT TỚI NƯỚC TRỜI

“Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa với tâm hồn một trẻ em, thì sẽ chẳng được vào.” (Mc 10,15)

Suy niệm: Có nhiều phương thế để lên thiên đàng: tử đạo, ẩn tu, làm việc tông đồ, bác ái… và cũng có một cách giản dị để đạt tới Nước Trời là có tâm hồn trẻ em. Thánh nữ Tê-rê-xa Hài đồng Giêsu. Ngài trở thành chứng nhân và mẫu gương sống động cho chúng ta trong việc áp dụng Lời Chúa hôm nay. Nói là giản dị nhưng thực ra phương thế này đòi hỏi con người phải đấu tranh quyết liệt để chống lại thói kiêu ngạo, cậy mình, ích kỷ, tự mãn, vô cảm…. Tính đấu tranh lúc này mãnh liệt tựa như đứa trẻ khóc thét lên đòi bú sữa mẹ vậy, một hành động đòi hỏi chính đáng đối với em, nhưng có thể không thích hợp với người lớn. Trẻ em đâu có gì để từ bỏ; thế nên từ bỏ là làm cho mình trở thành không có gì giống như trẻ em ngoài việc nhìn nhận mình là thấp hèn, hư không trước mặt Chúa và một niềm khát vọng mãnh liệt là đạt được tất cả trong Thiên Chúa. Vì “chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, hồn tôi mới được nghỉ ngơi an bình” (Tv 62,2).

Mời Bạn: Có kẻ xin ông Gandhi tóm gọn đời mình bằng một câu không quá ba đặc điểm. Ông bảo đó là: “từ bỏ và vui hưởng” cuộc sống. Thái độ an bình vô tư lự và vui hưởng cuộc sống là đặc điểm tự nhiên của một trẻ nhỏ. Còn người ‘trẻ nhỏ trưởng thành’ đạt đến sự an nhiên tự tại đó qua một quá trình chiến đấu từ bỏ để siêu thoát khỏi mọi ràng buộc thế tục và hướng tới Nước Trời.

Sống Lời Chúa: Mỗi lần xưng tội tội hãy quyết tâm từ bỏ một thói xấu.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho con một tâm hồn mẫn cảm trước những đòi hỏi giản dị nhưng chính đáng để hướng tới Nước Trời.

(5 Phút Lời Chúa)

++++++++++++++++++

Suy niệm và cầu nguyện

SUY NIỆM
KHÔNG ĐƯỢC PHÂN LY

Thời xưa, người phụ nữ chưa được tôn trọng.
Người vợ bị coi như một vật sở hữu của người chồng,
nên người chồng hoàn toàn có quyền ly dị vợ.
Ông Môsê cũng đồng ý để chồng bỏ vợ
nếu thấy nơi vợ có điều chi không vừa ý mình (Đnl 24,1). 
Tuy vậy các bậc thầy trong Do-thái giáo ở thế kỷ thứ nhất
lại không nhất trí với nhau về thế nào là không vừa ý.
Thầy Shammai bảo là nếu chị ấy không giữ tiết hạnh.
Thầy Hillel bảo chỉ cần chị ấy nấu một món ăn quá dở.
Còn thầy Akiba bảo nếu chồng thấy một cô khác xinh hơn.
Nói chung, người ta luôn có đủ lý do để ly dị vợ.

Có lẽ những người Pharisêu biết lập trường của Đức Giêsu
nên mới đặt câu hỏi để đưa Ngài vào bẫy:
“Chồng có được phép rẫy vợ không?” (Mc 10,2)
Đức Giêsu đã không trả lời câu hỏi này, nhưng hỏi ngược lại.
Ngài đòi họ đưa ra câu trả lời dựa trên Luật Môsê:
“Thế ông Môsê đã truyền dạy các ông điều gì?”
Những ông Pharisêu thông thạo lề luật trả lời ngay:
 “Ông Môsê đã cho phép viết chứng thư ly dị mà rẫy vợ.”
Câu đáp nhanh của người Pharisêu cho thấy
họ đã biết câu trả lời rồi, họ hỏi cốt để dò xét Ngài thôi. 

Đức Giêsu có dám nói điều gì ngược với Môsê không?
Ngài đã có dám nói điều gì khác với sách Đệ nhị luật không?
Đức Giêsu không muốn đối đầu với Luật Môsê.
Ngài chỉ muốn biện minh cho Môsê khi ông cho phép ly dị.
Môsê cho phép vì lòng dạ cứng cỏi của dân Israen thời xưa,
và vì lòng chai dạ đá của các ông Pharisêu thời của Ngài.
Cho phép ly dị không phải vì đó là điều tốt,
nhưng là một nhượng bộ khi con người chưa đủ tầm.
Đức Giêsu đưa các ông Pharisêu đi xa hơn sách Đệ nhị luật.
Ngài đưa các ông đi vào sách Sáng thế,
để thấy lúc khởi đầu của công trình tạo dựng (Mc 10,6).
“Thiên Chúa làm ra con người có nam có nữ” (St 1,27).
“Người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình;
cả hai sẽ thành một xương một thịt” (St 2,24).
Những câu trích trên của Đức Giêsu không có gì là mới mẻ.
Điều mới mẻ nằm ở hai kết luận rút ra từ đó:
“Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một thịt.
Vậy, sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, 
loài người không được phân ly” (Mc 10, 8-9). 

Hôn nhân được coi là chuyện riêng của đôi nam nữ.
Yêu nhau thì gắn bó với nhau nên vợ nên chồng.
Nhưng Đức Giêsu cho thấy Thiên Chúa có mặt ở đây,
trong chỗ riêng tư nhất của tình yêu hai người.
Chính Thiên Chúa đã xe duyên, đã phối hợp đôi bạn.
Bởi đó hôn nhân hóa ra là chuyện của Thiên Chúa.
Vợ chồng không được ly dị vì điều đó phạm đến Ngài.
Hôn nhân trong Do-thái giáo không phải là một bí tích,
nhưng Đức Giêsu không hề coi đó là chuyện tự nhiên.
Trái lại, Ngài coi hôn nhân là thánh thiêng, bền vững.
Khi về nhà, Ngài mới nói với các môn đệ điều chưa nói:
Ai bỏ vợ, hay bỏ chồng mà đi lấy người khác 
là phạm tội ngoại tình, xúc phạm người phối ngẫu trước.

Hiện nay tỷ lệ ly dị rất cao ở các nước Âu Mỹ.
Ở Việt Nam, gần đây tỷ lệ này cũng tăng lên nhiều.
Cả người Công giáo cũng đưa nhau ra tòa xin ly dị.
Loài người vẫn cứ phân ly điều Chúa liên kết.
Chẳng có hôn nhân nào không gặp sóng gió.
Đừng vội quyết định chia tay để giải quyết nhanh gọn.
Xin Lời Đức Giêsu hôm nay chạm đến khó khăn của ta,
và xin Ngài giúp ta điều chỉnh lại buồm khi ngược gió.

LỜI NGUYỆN

Lạy Chúa Giêsu,
Sống ở đời chẳng ai thích sóng gió,
nhưng sóng gió lúc nào cũng có trong đời người.
Các môn đệ đầu tiên đã nhiều lần gặp sóng gió ở hồ Galilê.
Sóng gió đến khi Chúa đang ngủ vùi trên thuyền,
khiến môn đệ phải vội vàng đánh thức.
Sóng gió đến khi Chúa không ở trong thuyền,
khiến môn đệ phải chèo chống vất vả.

Chúa không tránh cho cuộc đời chúng con khỏi mọi sóng gió,
vì Chúa biết sóng gió làm chúng con trưởng thành,
tập vượt qua nỗi sợ hãi bằng lòng tin,
tập vượt qua nỗi lo âu bằng hy vọng.
Chúa để chúng con chiến đấu suốt đêm với gió ngược,
nhưng lại đến với chúng con khi trời gần sáng.

Xin cho chúng con yêu quý sự bình an,
nhưng lại không ngỡ ngàng trước sóng gió.
Giữa cơn sóng gió, xin cho chúng con tin rằng
Chúa vẫn hiện diện gần bên chúng con,
và đang đưa con thuyền Giáo Hội về đến bến.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

(phutcaunguyen.net)

++++++++++++++++++

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên

6 THÁNG MƯỜI

Bánh Nuôi Nhiệm Thể Đức Kitô

Thánh Thể là bí tích của sự hiệp thông sự sống với Chúa Kitô. Đó cũng là bí tích xây dựng cộng đoàn. Cây nho và những cành nho là hình ảnh của cộng đoàn này, bao gồm tất cả những ai được liên kết trong Đức Kitô nhờ ân sủng và sự thật. Hình ảnh cây nho và các cành nho nhắc chúng ta về nhu cầu phải sống thực tại Giáo Hội trong mối hiệp thông sâu xa với Đức Kitô và với anh chị em mình. Giáo Hội là Nhiệm Thể của những nguời tin – trong đó Chúa Kitô là Đầu và tất cả các tín hữu là những chi thể.

Sự sống của thân thể này đến từ mạch nhựa sống siêu nhiên là ân sủng và thân thể này lớn lên nhờ ánh sáng của Chúa Thánh Thần. “i” (2 Tm 3,5) của đức tin chúng ta nằm trong chính thân thể này; cũng chính trong thân thể này chứa đựng các mô liên kết giúp đem lại ý nghĩa và mối hiệp nhất cho các cộng đoàn Kitô hữu trên khắp cùng thế giới.

Chân lý này được minh họa bằng một hình ảnh rút ra từ một kỹ thuật nông nghiệp, gọi là “ghép”. Nhờ Phép Rửa, chúng ta được ghép vào với Đức Kitô (Rm 1,17). Chúng ta trở nên những cành nho, được nuôi sống bởi cây nho. Vì thế chúng ta đuợc mời gọi sống hiệp nhất với Đức Kitô và với anh chị em mình. Như vậy, chúng ta là cộng đoàn của những người đã được nhận Phép Rửa và được cứu chuộc. Chúng ta vẫn còn thuộc về cộng đoàn này bao lâu chúng ta còn ở lại trong mối hiệp thông với Đức Kitô và với anh chị em mình. Đức Giêsu vạch cho chúng ta thấy rõ điều gì sẽ xảy ra khi chúng ta tự tách mình ra khỏi Ngài và anh chị em. Hình ảnh minh họa của Thánh Kinh giải thích điều này hết sức rõ: Nếu cành nho không ở lại trong mối liên kết với thân nho thì nó sẽ khô héo đi. Nó bị chặt đi và bị quăng vào lửa.

Nhưng Thánh Thể không chỉ hàm chứa mối tương quan mật thiết giữa Đức Kitô và mỗi người tín hữu. Thánh Thể còn được thiết lập để hiệp nhất mọi Kitôhữu trong tư cách là thân thể của Chúa. Thánh Thể tạo lập trong chúng ta một ý thức sâu xa về mối dây hiệp nhất, về tình huynh đệ, về sự liên đới trong Đức Kitô. Thánh Thể tác động trong chúng ta một cảm thức sâu xa mối gắn bó thiêng liêng, bởi lẽ chúng ta là những người được nuôi dưỡng bởi cùng một bánh để làm nên một thân thể duy nhứt trong Đức Kitô.

– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –

Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác

LIFT UP YOUR HEARTS

Daily Meditations by Pope John Paul II

+++++++++++++++++

Lời Chúa Trong Gia Đình

Ngày 06/10

CHÚA NHẬT XXVII THƯỜNG NIÊN

St 2, 18-24; Hr 2, 9-11; Mc 10, 2-16.

Lời Suy Niệm:  “Lúc khởi đầu công trình tạo dựng. Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ; vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Vậy, sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly.” (Mc 10,6-9)

          Đây là một đặc tính ưu việt của “Hôn Nhân Công Giáo”: “Tự bản chất của nó, tình yêu phu phụ đòi hỏi đôi phối ngẫu phải chung thuỷ một cách bất khả xâm phạm. Đây là hệ quả của việc chính đôi phối ngẫu đã tự hiến cho nhau. Tình yêu phải là vĩnh viễn, tình yêu không thể có tính cách “cho tới khi có một quyết định mới”. Sự nên một thân mật, nghĩa là việc hai người trao hiến cho nhau, cũng như lợi ích của con cái, đòi hỏi đôi phối ngẫu phải hoàn toàn chung thuỷ và đòi buộc nơi họ sự duy nhất bất khả phân ly.” (GLHTCG 1646)

          Lạy Chúa Giêsu, “Nhờ bí tích Hôn Phối, đôi phối ngẫu được ban ơn để thực hiện và làm chứng cho sự chung thuỷ đó. Do Bí tích, tính bất khả phân ly của hôn nhân đón nhận một ý nghĩa mới mẻ và sâu xa hơn.” (GLHTCG 1647). Xin cho mọi gia đình Công Giáo luôn tôn trọng và gìn giữ trọn vẹn Luật Hôn Phối của Giáo Hội. Giúp cho gia đình luôn được hạnh phúc trong Chúa. Amen.

Mạnh Phương

+++++++++++++++++

Gương Thánh Nhân

Ngày 06-10: Thánh BRUNÔ
Linh Mục (1035 – 1101)

Thánh Brunô sinh khoảng năm1035 tại Cologne, nước Đức và từ trần năm 1101 tại Calabria, miền nam nước Ý. Chúng ta biết được rất ít và đời sống thơ ấu của Ngài. Có lẽ Ngài thuộc gia đình quý phái Der Hautenfaust và được giáo dục ở truờng thánh Cunibert tại sinh quán.

Sau đó dường như Ngài đã bỏ Cologne để theo học tại Reims và từ đó tiếp tục học triết ở Tours. Sau này chúng ta biết Ngài làm thủ lãnh các trường Reims, làm chưởng ấn địa phận và làm kinh sĩ toà tổng giám mục. Chắc chắn Ngài là một trong những học giả lừng danh thời đó. Nhiều người đã tới Reims để thụ giáo với Ngài, trong số đó có Eudes de Chantaillen là người sẽ trở thành giáo hoàng với danh hiệu Urbano II. Các sách chú giải về thánh vịnh và các thư thánh Phaolô là những tác phẩm chúng ta còn lưu giữ được, chứng tỏ thánh nhân là một học giả có thế giá và là người hiểu biết tiếng Hy lạp và tiếng Do thái. Vào thời của Ngài ít có người hiểu biết được như vậy.

Các thử thách đổ xuống cuộc đời thánh Brunô, kể từ khi Đức Tổng giám mục Gevase qua đời năm 1068 và Manasses được đặt kế vị. Manasses là một người khô khan và hung bạo, đã chiếm đã ngai tòa giám mục nhờ việc buôn thần bán thánh. Brunô đứng đầu những nhóm kinh sĩ chống lại và bị triệu về Roma. Manasses trả thù bằng cách tịch biên tài sản và buộc các Ngài phải trốn khỏi thành phố. Brunô trốn về một nơi gọi là Rocher, ở tại nhà một người bạn tên là Adam. Lần kia, trong khi đi dạo tại vườn nhà Adam, Brunô với hai người bạn là Ralph và Fulcius đã bàn về bản chất giả tạo của các thú vui trần thế và niềm vui của đời sống chiêm niệm. Lửa nhiệt tình bùng cháy, họ quyết định sẽ bỏ thế gian để sống đời cầu nguyện, ngay khi nào hoàn cảnh cho phép. Nhưng rồi Fulcius phải đi Roma để trình bản cáo trạng tổng giám mục. Brunô không thể bỏ Reims khi Đức tổng giám mục còn tại vị. Cuối cùng, khi Đức Tổng giám mục bị truất ngôi, chi còn Brunô trung kiên với dự tính.

Sau khi Manasses bị truất ngôi, vị đặc sứ tòa thánh muốn đặt Brunô làm tổng giám mục. Nhưng lúc ấy thánh nhân đã trốn khỏi Reims cùng với sáu người bạn, tới một nơi gọi là Sèche-Phontaine. Ngài ở gần tu viện Molesme là nơi thánh Robertô làm đan viện phụ. Có lẽ Brunô là tu sĩ của tu viện này một thời gian ngắn.

Tuy nhiên Brunô đã không ở lâu tại Sèche-Phontaine. Ngài muốn tìm một nơi xa vắng hơn để khỏi bị du khách quấy rầy. Năm 1084, Ngài cùng với sáu người bạn tìm đến miền núi Savoy. Trên đường đi, các Ngài dừng chân tại Grenoble để tham khảo ý kiến Đức Cha Hugues de Chateaineuf, một học trò cũ của Ngài. Vị giám mục thánh thiện đã mơ thấy bảy ngôi sao sáng trên một miền xa thuộc dẫy núi Cjartreuse. Biết rằng Brunô cùng với sáu người bạn của Ngài là những ngôi sao ấy, đức cha đã không chần chờ dẫn họ ngay tới nơi mà giấc mơ đã chỉ cho Ngài. Đây là một nơi đủ yên tĩnh. Brunô và các bạn liền cư ngụ tại đó. Các Ngài làm một nhà nguyện nhỏ và bảy cái lều chung quanh. Đó là bước đầu của một tu viện lớn vẫn còn tồn tại cho tới ngày nay, là nhà mẹ của một hội dòng mang tên CHARTREUSE.

Nhưng rồi thánh Brunô đã quá lừng danh và không thể yên thân được lâu. Năm 1090, Đức Urbanô II, một học trò cũ của Ngài đã nhớ đến thày cũ và triệu về Roma làm cố vấn. Dầu vậy, đức giáo hoàng cũng sớm nhận ra rằng: không có chỗ trong giáo triều dành cho Brunô. Ngài ban phép cho thánh nhân rời Roma, với điều kiện là phải có mặt tại nước Ý.

Trong thời gian vắn vỏi tại giáo triều, thánh Brunô đã gặp nhà quý tộc Roger miền Sicily. Khi rời Roma, Ngài đến cư ngụ ở nơi nhà quý tộc hiến cho, tại La Torre miền Calabria. Ngài thiết lập ở đó một tu viện thứ hai, theo kiểu mẫu dòng Chartreuse. Ngày 6 tháng 10 năm 1101, Ngài từ trần, khi chưa có dịp trở về thăm tu viện thứ nhất của Ngài.

(daminhvn.net)

+++++++++++++++++

06 Tháng Mười

Bưu Ðiện Lớn Nhất Thế Giới

Có lẽ bưu điện lớn nhất thế giới phải là bưu điện trước cổng Thiên đàng… Mỗi ngày có không biết bao nhiêu thư viết bằng không biết bao nhiêu ngôn ngữ được gửi đến… Tất cả đều là những lời cầu xin. Theo sự phân loại của các thiên thần, thì ba vị nhận được nhiều thư nhất đó là Ðức Maria, rồi đến thánh Antôn và thánh nữ Rita.

Một ngày kia, không còn cầm được tính tò mò, các thiên thần không những đã mở thư gửi cho các thánh, mà ngay cả các lá thư gửi đến cho Ðức Mẹ, các vị cũng không tha. Nhưng các vị thiên thần đã thất vọng bởi vì nội dung và cách viết thư đều giống nhau. Ðại khái thì cũng chỉ là: Lạy Mẹ, xin chữa cho con chóng lành bệnh… Xin cho con của con được khỏe mạnh… Xin cho con tìm được việc làm… Xin giúp con thi đỗ… Xin cho con tìm lại được chồng con…

Cả một loạt kinh cầu mà các vị thiên sứ cũng đành phải nhàm chán, đến độ các vị phải thốt lên: dường như Thiên Chúa chỉ tạo dựng con người có một cái miệng, một cái bụng. Họ không có linh hồn, bởi vì tất cả những lời cầu xin của họ đều qui về hai bộ phận ấy.

Ðức Maria ngày nào cũng như ngày nào đều phải đọc lại những lá thư có cùng nội dung và một công thức. Tình cờ, có một là thư làm Mẹ chú ý. Lá thư đó viết như sau: “Lạy Trinh Nữ rất thánh, con chỉ xin Mẹ một điều mà thôi, xin Mẹ cho con mỗi ngày được nên giống Chúa Giêsu hơn”.

Ðọc xong lá thư, Ðức Maria bật khóc vì cảm động. Ngài nói với các thiên sứ phục vụ tại bưu điện: “đây là lá thư mà Mẹ mong đợi từng ngày”.

Theo sự thăm dò của nhiều tờ báo lớn trên thế giới, thì tước hiệu “Người đàn bà của năm 1987” đã được dành cho thủ tướng nước Anh là bà Margueret Thatcher, người đã đắc cử vào chức vụ này liên tiếp trong ba nhiệm kỳ.

Ðứng hàng thứ hai trong danh sách những người đàn bà trong năm là nữ tổng thống Aquinô của Phi Luật Tân, người đang đương đầu với không biết bao nhiêu xáo trộn trong nước.

Người thứ ba trong danh sách là Mẹ Têrêsa thành Calcutta (người đã được lãnh giải thưởng Nobel về hòa bình năm 1979). Kế đó là nữ hoàng Elizabeth II của nước Anh, bà Simone Veil, chủ tịch quốc hội Âu Châu v.v…

Ðối với chúng ta, những người Kitô, thì người đàn bà trong năm và nhứt là trong tháng mười này phải là Mẹ Maria, người Mẹ không phải của một gia đình, một dân tộc. Vị nữ hoàng không phải của một dân tộc, nhưng là của tất cả nhân loại… Mẹ đang lắng nghe chúng ta trong suốt tháng 10 này. Chúng ta hãy thưa với Mẹ tất cả những gì chúng ta đang cần.

Nhưng điều mà Mẹ luôn chờ đợi để trợ giúp chúng ta: đó là mỗi ngày chúng ta nên giống Chúa Giêsu con Mẹ. Bởi vì, trong tất cả mọi ơn cần cho chúng ta, đó là ơn cao trọng nhứt. Càng nên giống Chúa Giêsu, chúng ta càng nên giống Mẹ và được đến gần Mẹ.

(Lẽ Sống)

++++++++++++++++++

Lời Chúa Mỗi Ngày

Chúa Nhật 27 – Năm B – Thường Niên

Bài đọc: Gen 2:18-24; Heb 2:9-11; Mk 10:2-16.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Lý tưởng của Thiên Chúa và khuyết điểm của con người.

Khi Thiên Chúa truyền cho con người làm điều gì, con người có thể hay có khả năng làm điều đó; vì Ngài không thể truyền cho con người làm điều gì họ không thể làm. Có nhiều lý do khiến con người không làm điều Thiên Chúa truyền: (1) Con người không muốn làm điều Thiên Chúa truyền, mà chỉ muốn làm điều con người muốn, vì nó phù hợp với con người hơn. (2) Con người có khả năng làm; nhưng không chịu cố gắng làm vì lười biếng, sợ khó khăn, sợ gian khổ, hay sợ chết. (3) Có những điều con người chỉ có thể làm được với ân sủng Thiên Chúa ban qua các Bí-tích.

Các Bài Đọc hôm nay đặt trọng tâm trong sự trung thành của ơn gọi gia đình, điều mà nhiều người cho là không thể thực hiện được. Trong Bài Đọc I, tác giả Sách Sáng Thế xác nhận ơn gọi hôn nhân nằm trong kế-hoạch của Thiên Chúa cho con người ngay từ đầu. Thiên Chúa không muốn cho con người sống đơn độc một mình; nhưng muốn con người có một người bạn đồng hành. Ngài đã dùng một xương lấy ra từ cạnh sườn con người, và lấp đầy thịt vào để tạo nên người đàn bà. Ngài dẫn người đàn bà đến trước mặt người đàn ông, và người đàn ông đã nói: “Này đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi! Nàng sẽ được gọi là đàn bà, vì đã được rút từ đàn ông ra.” Họ là cặp vợ chồng đầu tiên; và từ đó đến nay, các đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một thịt. Trong Bài Đọc II, sức mạnh và ơn thánh giúp con người có thể làm điều Thiên Chúa truyền đến từ Đức Kitô. Qua Cuộc Thương Khó và cái chết của Ngài, con người được tha tội và thánh hóa nhờ các Bí-tích Đức Kitô đã thiết lập. Con người phải xử dụng nguồn năng lực này, để có thể sống theo Lề Luật của Thiên Chúa và những lời dạy dỗ của Đức Kitô. Trong Phúc Âm Marcô, khi mấy Biệt-phái đến hỏi thử Chúa Giêsu về việc có được ly dị vợ không; dù Chúa Giêsu biết Moses cho phép ly dị vì sự cứng lòng của dân chúng, Ngài vẫn xác quyết ý định của Thiên Chúa khi dựng nên con người ngay từ thuở ban đầu là không được. Lý do: “Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly.”

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Giao ước hôn nhân nằm trong ý định của Thiên Chúa ngay từ đầu.

1.1/ Ý định của Thiên Chúa cho con người: Đây là trình thuật thứ hai về việc tạo dựng; tác giả chú trọng đặc biệt đến sự kết hiệp giữa người nam và người nữ trong ơn gọi gia đình.

+ Thiên Chúa không muốn con người ở một mình: Trước tiên chúng ta cần chú ý: đây là thánh ý của Thiên Chúa, chứ không phải do ý con người muốn. Con người đầu tiên không than phiền Thiên Chúa vì không có đàn bà; nhưng chính Thiên Chúa nhận ra con người ở một mình là không tốt. Thiên Chúa muốn tìm cho con người một “trợ giúp tương xứng với nó.”

+ Chữ người trợ giúp (bôêthos trong LXX, và hêzer trong MT) cũng gây ra nhiều bàn cãi. Có người cho đàn bà chỉ là người trợ giúp của đàn ông; vì thế, các bà không bao giờ được coi là ngang hàng với các ông. Cách cắt nghĩa này không có cơ sở, vì Chúa Giêsu và Chúa Thánh Thần cũng được gọi là Đấng Trợ Giúp con người. Các Ngài phải có uy quyền hơn thì mới trợ giúp con người được.

+ Khó khăn không ở chỗ dùng danh từ người “trợ tá, bạn đồng hành;” nhưng ở chỗ cắt nghĩa cho đúng giới từ trong tiếng Do-thái (kenegdô) và Hy-lạp (kat’ auton). Bản Việt-nam của Nhóm PVCGK dịch tương đối sát nghĩa là “tương xứng hay thích hợp;” nhưng tương xứng theo ý nghĩa nào: cách thể lý, trí tuệ, luân lý, hay tinh thần.

1.2/ Tìm một “trợ tá tương xứng” cho con người:

(1) Thiên Chúa thử các thú vật trước: ”Đức Chúa là Thiên Chúa lấy đất nặn ra mọi dã thú, mọi chim trời, và dẫn đến với con người, xem con người gọi chúng là gì: hễ con người gọi mỗi sinh vật là gì, thì tên nó sẽ là thế. Con người đặt tên cho mọi súc vật, mọi chim trời và mọi dã thú, nhưng con người không tìm được cho mình một trợ tá tương xứng.” Loài vật cho dù có nhiều điểm thích hợp với con người như đẹp đẽ, hiền lành, dễ thương, trung thành; nhưng không thể nào so sánh với con người. Việc đặt tên theo truyền thống Do-thái có nghĩa người đặt tên có quyền trên người bị đặt tên.

(2) Thiên Chúa tạo dựng đàn bà: ”Đức Chúa là Thiên Chúa cho một giấc ngủ mê ập xuống trên con người, và con người thiếp đi. Rồi Chúa rút một cái xương sườn của con người ra, và lắp thịt thế vào. Đức Chúa là Thiên Chúa lấy cái xương sườn đã rút từ con người ra, làm thành một người đàn bà và dẫn đến với con người.”

(3) Phản ứng của người đàn ông: Con người nói: “Phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi! Nàng sẽ được gọi là đàn bà, vì đã được rút từ đàn ông ra.” Ông nhận ra ngay nàng là một phần của thân thể mình. Ông muốn sống gắn bó với nàng hơn bất kỳ ai khác. Trình thuật kết thúc với kết luận: ”Bởi thế, đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một thịt.”

2/ Bài đọc II: Đức Giêsu trải qua gian khổ để dẫn đưa con người tới nguồn ơn cứu độ.

2.1/ Đức Kitô trải qua Cuộc Thương Khó để đền tội cho con người: Bản dịch của PVGK có thể gây hiểu lầm khi dùng chữ “con người;” bản Hy-lạp nói rõ là Chúa Giêsu: ”Nhưng Chúa Giêsu đã bị hạ thấp hơn các thiên thần trong một thời gian ngắn, thì chúng ta lại thấy được Thiên Chúa ban vinh quang danh dự làm mũ triều thiên, bởi vì Ngài đã cam chịu tử hình: Con Người đó, chính là Đức Giêsu. Thật vậy, Đức Giêsu đã phải nếm sự chết, là để cho mọi người được cứu độ, nhờ ơn Thiên Chúa.”

Để con người đạt được ơn cứu độ, trước tiên, Chúa Giêsu phải gánh tội và hình phạt cho con người, bằng cách chấp nhận đau khổ qua Cuộc Thương Khó của Ngài. Một khi đã được tha tội, con người được hòa giải với Thiên Chúa.

2.2/ Đức Kitô không chỉ tha tội; nhưng còn thánh hóa con người: Tác giả Thư Do-thái xác quyết điều này: ”Thật vậy, Đấng thánh hoá là Đức Giêsu, và những ai được thánh hoá đều do một nguồn gốc. Vì thế, Người đã không hổ thẹn gọi họ là anh em.” Mặc dù Chúa Giêsu đã gánh tội và ơn cứu độ giờ đây là của con người; nhưng họ vẫn phải chứng minh cho Thiên Chúa niềm tin vào Đức Kitô bằng cuộc sống chứng nhân; chẳng hạn, trung thành trong ơn gọi gia đình, tu sĩ, hay linh mục. Để có sức mạnh làm những điều này, Đức Kitô thiết lập các Bí-tích.

Nhiều người ngày nay đã quên hay không biết sự cần thiết của các Bí-tích trong cuộc đời; nhất là hai Bí-tích: (1) Thánh Thể: Đây là Bí-tích ban sức mạnh để con người có thể đương đầu với các cám dỗ, khó khăn, và thử thách trong cuộc đời. (2) Hòa Giải: giúp con người nhận ra các tội lỗi mình đã xúc phạm đến Thiên Chúa và đến tha nhân; đồng thời nó cũng giúp con người dễ thông cảm, tha thứ, và giải quyết các xung đột trong đời sống gia đình.

3/ Phúc Âm: Vấn đề ly dị và có con.

3.1/ Yếu đuối của con người: Có mấy người Pharisees đến gần Đức Giêsu và hỏi rằng: “Thưa Thầy, chồng có được phép rẫy vợ không?” Họ hỏi thế là để thử Người.

(1) Luật của Moses: Chúa Giêsu hỏi: “Thế ông Moses đã truyền dạy các ông điều gì?” Họ trả lời: “Ông Moses đã cho phép viết giấy ly dị mà rẫy vợ.” Đức Giêsu nói rõ lý do có luật này của Moses:: “Chính vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông Moses mới viết điều răn đó cho các ông.”

(2) Tại sao Giáo Hội cho phép ly dị, nếu đó là Luật Thiên Chúa? Chúng ta cần phân biệt hai điều: Thứ nhất, lý tưởng mà Thiên Chúa muốn con người đạt tới. Lý tưởng này không bao giờ thay đổi; và thực tế cũng chứng minh nhiều người đã đạt tới lý tưởng này. Nhiều cặp vợ chồng đã trung thành với nhau đến khi chết, dù phải trải qua bao gian khổ. Thứ hai, yếu đuối và tội lỗi làm con người không đạt tới lý tưởng của Thiên Chúa. Khi con người không đạt được lý tưởng, không có nghĩa là lý tưởng của Thiên Chúa muốn không thể thực hiện được, hay Lề Luật của Thiên Chúa sai; nhưng con người phải khiêm nhường thống hối vì yếu đuối tội lỗi của mình. Hội Thánh gỡ dây hôn phối là vì những tội lỗi, yếu đuối, và cứng lòng của con người. Có nhiều lý do để gỡ; một cách tổng quát là không chịu học hỏi hay coi thường Bí-tích Hôn Phối như:

– Cha mẹ ép buộc con cái phải lấy người chúng không muốn, vì cha mẹ tham quyền cao, chức trọng, hay lợi nhuận vật chất. Trường hợp này, con cái thiếu tự do để kết hôn.

– Con người kết hôn bừa bãi: Đa số trường hợp Giáo Hội giải quyết là trường hợp “lack of form,” có nghĩa: không theo Lề Luật của Giáo Hội, không thành Bí-tích. Chẳng hạn, làm hôn thú giả vì muốn xuất ngoại, vì tham tiền, hay vì bất cứ lý do nào khác.

– Vợ chồng không chịu tìm hiểu nhau kỹ lưỡng trước khi kết hôn: lấy người đã có gia đình, lấy người bị ngăn trở không được kết hôn, lấy người không cùng tôn giáo.

– Vợ chồng không sống đức tin và không chịu lãnh nhận ơn thánh từ các Bí-tích: Làm sao có khôn ngoan, sức mạnh để vượt qua khó khăn trong cuộc sống?

– Con người không có sức chịu đau khổ: Trường hợp của những người bị người phối ngẫu ly dị. Với ơn thánh, con người có thể vượt qua sự cô đơn và những đòi hỏi của thân xác.

3.2/ Vấn đề với con trẻ: Người ta dẫn trẻ em đến với Đức Giêsu, để Người đặt tay trên chúng. Nhưng các môn đệ la rầy chúng. Thấy vậy, Người bực mình nói với các ông: “Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Thiên Chúa là của những ai giống như chúng. Thầy bảo thật anh em: Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa với tâm hồn một trẻ em, thì sẽ chẳng được vào.” Rồi Người ôm lấy các trẻ em và đặt tay chúc lành cho chúng.

Một vấn đề khó khăn nữa mà các vợ chồng ngày nay hay than phiền là không muốn có con, hay chỉ muốn có 2, 3 con; một số lý do họ nêu ra:

(1) Sợ con trẻ gây phiền hà: Đây là lý do các môn đệ sợ ngăn cản chúng đến với Chúa Giêsu. Người lớn hôm nay sợ trẻ con hàn nhà làm họ phải thu dọn tối ngày, sợ con trẻ ồn ào làm mất sự yên tĩnh, sợ chúng khóc đêm làm mất giấc ngủ, sợ chúng phá phách làm hư hại đồ dùng trong nhà.

(2) Sợ phải săn sóc con trẻ: Con trẻ không tự săn sóc chúng, mà chỉ trông cậy hoàn toàn vào người lớn. Nhiều cặp vợ chồng sợ phải tốn thời gian để chăm sóc trẻ em sẽ không còn giờ lo cho bản thân họ.

(3) Những ngụy biện của con người ngày nay để không có nhiều con trẻ: Sinh nhiều quá lấy chỗ đâu mà sống; khả năng tài chánh không có để lo cho con; sợ con trẻ hư, nên thà đừng có tốt cho chúng hơn.

Đàng sau những lý do này là chủ nghĩa cá nhân và tính ích kỷ. Con người hôm nay sợ phải tốn thời gian săn sóc và dạy dỗ con trẻ, sẽ không còn giờ để săn sóc mình và đi đây đó. Họ sợ sinh con vóc dáng sẽ xấu đi. Họ sợ tốn tiền cho con sẽ không còn thời giờ lo cho mình.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

– Khi Thiên Chúa truyền chúng ta làm điều gì, chúng ta có khả năng làm chuyện đó. Chúng ta cần phải tin tưởng và làm theo những gì Chúa dạy, tập luyện để sống nhân đức, và tận dụng các ơn thánh Thiên Chúa ban qua các Bí-tích.

– Chúng ta cần học hỏi để biết cách lãnh nhận và hiệu quả của các Bí-tích mang lại; nhất là phải biết thường xuyên lãnh nhận các Bí-tích mỗi khi có thể.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

****************