Mọi người đều rao giảng – Suy niệm Chúa Nhật 15 thường niên – Năm B

11/07/2024

Tin Mừng Mc 6,7-13

7 Khi ấy, Đức Giê-su gọi Nhóm Mười Hai lại và bắt đầu sai đi từng hai người một. Người ban cho các ông quyền trên các thần ô uế. 8 Người chỉ thị cho các ông không được mang gì đi đường, chỉ trừ cây gậy; không được mang lương thực, bao bị, tiền giắt lưng; 9 được đi dép, nhưng không được mặc hai áo. 10 Người bảo các ông : “Bất cứ ở đâu, khi anh em đã vào nhà nào, thì hãy ở lại đó cho đến lúc ra đi. 11 Còn nơi nào người ta không đón tiếp và không nghe anh em, thì khi ra khỏi đó, hãy giũ bụi đất dưới chân để tỏ ý cảnh cáo họ” 12 Các ông đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn  sám hối. 13 Các ông trừ được nhiều quỷ, xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh.

************************************

MỌI NGƯỜI ĐỀU RAO GIẢNG

Chúng ta năng gặp lại bản văn về việc sai đi truyền giáo hôm nay. Các chỉ thị (khác nhau tùy mỗi Tin Mừng) này có thể bị nhiều người coi là xưa cũ và không quan trọng, song các nhà truyền giáo mọi thời đã múc lấy tinh thần thừa sai từ đấy. Hãy nhớ tới Phan-xi-cô A-xi-di-ô, Phan-xi-cô Xa-vi-e, Tê-rê-xa Can-quýt-ta… Nhà chú giải M. Quesnel gọi đây là “một loại thủ bản, một loại cẩm nang cho một nhà truyền giáo hoàn hảo”.

Trước hết, việc Đức Giê-su “sai các Tông đồ đi từng đôi một” gợi lên khía cạnh tập thể của việc truyền giáo. Điều này tạo ra một sự nâng đỡ huynh đệ, đôi lúc là một sự sửa lỗi thân tình. Và nhất là cảm thức về một công cuộc chung. Tinh thần cộng đoàn là một cái gì đó cơ bản đối với công cuộc truyền giáo. Là những người rao giảng sứ điệp về một sự hiệp thông vĩ đại trong tình yêu, các Tông đồ trước hết phải thể hiện điều ấy ngay giữa nhóm của mình. Vả lại, hai kẻ có lời lẽ phù hợp nhau và hành động phối hợp với nhau chứng tỏ họ cùng được sai đi bởi một người. Biết bao anh chị em sắc tộc tại Việt Nam đã từng kinh ngạc trước sự cạnh tranh của những đoàn truyền giáo Tin lành và Công giáo: “Quý vị cùng tin tưởng và rao giảng một Đức Ki-tô cả, sao lại có sự chia rẽ thế này ?”

Tiếp đến là chỉ thị “khó nghèo”: khó nghèo về hành trang đi đường (một cái áo, một đôi dép, một cây gậy) và khó nghèo về phương tiện sinh sống (không lương thực, bao bị, tiền giắt lưng). Là những người rao giảng các giá trị thiêng liêng và tinh thần từ bỏ, luôn miệng công bố: “Phúc thay các kẻ nghèo”, các thừa sai còn có bằng chứng nào rõ ràng hơn, đáng tin hơn, thuyết phục hơn là chính lối sống của họ ? Lệnh truyền “chớ mặc hai áo” khiến ta không thể không nghĩ tới những y phục rườm rà xưa cổ nơi các nữ tu. Sau Công đồng Va-ti-can II, có lần một nữ tu đã nói với một linh mục: “Chúng con nhẹ đi được tới bảy mét vải !” Rườm rà như thế nhằm để bảo vệ ? Nhưng làm sao một tấm vải có thể bảo vệ trái tim và ngũ quan ? Làm sao chiếc áo dòng đã có thể trở thành biểu tượng chính yếu của tu sĩ và linh mục ? Linh mục và tu sĩ chỉ có một tu phục: hiến thân cho kẻ khác, cũng như mọi Ki-tô hữu chỉ có một đồng phục: bác ái với tha nhân (x. ĐHV).

Tuy nhiên có một cám dỗ trở đi trở lại không ngừng, đó là sử dụng các phương tiện giàu nhân danh sự hữu hiệu. Có một bài ca đáng được lưu ý: “Để đi nói về Thiên Chúa, hãy chỉ mang theo tình yêu”. Đây là điều mẹ Tê-rê-xa Can-quýt-ta từng thể hiện. Lần ấy, mẹ được mời sang Thụy Sĩ để diễn thuyết. Sau khi đưa mẹ từ phi trường về nơi cư trú, người phụ trách tiếp đón tỏ vẻ lo lắng hỏi mẹ: “Hành lý của mẹ đâu ? Sao chúng con không thấy có valise nào cả ? Thất lạc rồi chăng ?” Mẹ Tê-rê-xa mỉm cười nâng túi nylông lên trước mặt ông ta và nói: “Tất cả hành lý của tôi là đây. Một cái áo dòng để thay, một bàn chải đánh răng và một khăn mặt” –  “Chừng ấy thôi à ?” – “À quên ! Còn một thứ nữa, quan trọng hơn hết: quả tim !” Năm 1979, được trao tặng Giải Nobel Hòa bình cho “những hoạt động diễn ra trong sự đấu tranh vượt qua sự nghèo khó và cùng quẫn, là những điều đe dọa hòa bình,” Mẹ đã từ chối bữa tiệc mừng truyền thống và yêu cầu gởi số tiền 192 000 USD (chi phí bữa tiệc) cho người nghèo ở Ấn-độ, nói rằng những phần thưởng trên trần gian chỉ có giá trị khi nào chúng giúp ích những người thiếu thốn trên thế giới.

Lm. Phê-rô Phan Văn Lợi