LỄ PHỤC SINH – Năm B
Lời Chúa: Mc 16,1-8; Cv 10,34a.37-43; Cl 3,1-4; Ga 20,1-9
MỤC LỤC
- Mặt trời hé mọc.
- Ông đã thấy và đã tin.
- Người đã trỗi dậy rồi.
- Chúa Nhật Phục Sinh.
- Rao truyền Ơn Phục Sinh.
- Đón nhận ơn Phục Sinh.
- Ánh sáng và bóng tối
- Chúa Nhật Phục Sinh.
- Chúa Nhật Phục Sinh.
- Ngôi mộ trống.
- Bài giảng lễ Vọng Phục Sinh.
- Tìm kiếm những sự trên trời
- Xác nhận lòng tin.
- Chúa đã sống lại! Halleluia.
- Đêm thánh – Đêm hy vọng.
- Niềm tin chiến thắng sự sợ hãi
- Sự thật minh nhiên.
- Khải hoàn.
- Tìm Đấng Phục Sinh.
- Ánh sáng Phục Sinh.
- Alleluia, Chúa đã Phục Sinh.
- Chúa Nhật Phục Sinh.
- Tẩy sạch mùi cọp.
- Phục Sinh.
- Niềm tin.
- Ngày Chúa đã làm ra.
- “Đức Giêsu đã trỗi dậy từ cõi chết”
- Đức Kitô đã sống lại thật – ViKiNi
- Chúa đã sống lại thật
- Galilê, điểm hẹn của Chúa Giêsu.
- Ơn Phục Sinh.
- Đấng Phục Sinh.
- Tin Mừng Phục Sinh (Mc 16,1-7)
- Đức Kitô sống lại
- Ánh sáng Chúa Kitô.
- Chúa Kitô phục sinh.
- Vui lên, toàn trái đất
- Chúa đã sống lại thật rồi
- Chúa Nhật Phục Sinh.
- Chúa Nhật Phục Sinh.
- Ngôi mộ trống.
- Tin Mừng Phục Sinh.
- Chúa Nhật Phục Sinh.
- Sống lại cùng Chúa Phục Sinh.
- Những Chứng Nhân đầu tiên.
- Sự sống lại là niềm hy vọng.
- Chúa Nhật Phục Sinh.
- Sống lại với Chúa.
- Sự nhầm lẫn.
- Biến đổi trở thành con người mới
- Chúa Giêsu khai sinh kỷ nguyên mới
- Chúa đã sống lại
- Đức Kitô Phục Sinh niềm vui cuộc sống.
- Chúa Giêsu Phục Sinh.
- Niềm Tin Chúa Phục Sinh, Allêluia.
- Chúa đã sống lại! Alleluia.
- Chúa đã sống lại
- Chúa Nhật Phục Sinh.
- Chúa đã Phục Sinh.
- Ánh sáng Chúa Kitô.
- “Niềm Vui Phục Sinh”
- Ai sẽ lăn tảng đá?.
- Niềm vui Phục Sinh.
- Nhìn với cặp mắt trong sạch.
- Chúa Nhật Phục Sinh.
- Ngày thứ nhất
- Ra khỏi mồ.
- Niềm hy vọng.
- Niềm tin. 253
- Người Phải Sống Lại
- Chúa Nhật Phục Sinh.
- Trở nên tạo vật mới
- Niềm hy vọng sống lại
- Ra khỏi mồ.
- Mồ trống.
- Chúa Đã Sống Lại
- Chúa Giêsu phải từ cõi chết sống lại.
- Ngôi mộ trống.
- Chúa Nhật Phục Sinh.
- Tin mừng Phục Sinh.
- Sống niềm vui Phục Sinh.
- Chúa đã sống lại (Ga 20, 1-9).
- Chúa Nhật Phục Sinh.
- Tình yêu dẫn đến đức tin (Ga 20,1-9).
- Chúa Nhật Phục Sinh.
- Phục Sinh.
- Hãy khai phóng tâm trí (Mc 16,1-8).
- Đức tin của chúng ta (Lc 24,13-35).
- Sứ Điệp Phục Sinh.
- Mầu nhiem.
- Sự sống.
- Sáng và tối.
- Niềm hy vọng sống lại.
- Hai cái nhìn.
- Niềm vui Phục Sinh.
- Chiến thắng.
- Sống lại.
- Phụ nữ.
- Phục sinh cùng Chúa.
- Chúa Kitô phục sinh.
- Sự biến đổi kỳ diệu.
- Như tạo vật mới
- Ơn Phục Sinh.
- Ngôi mộ trống.
- Chúa Nhật Phục Sinh.
- Chúa Nhật Phục Sinh.
- Chúa Nhật Phục Sinh.
- Chúa đã sống lại thật
- Chúa Nhật Phục Sinh.
- Chúa Nhật Phục Sinh.
- Chúa Nhật Phục Sinh.
- Chúa Nhật Phục Sinh.
- Chúa Nhật Phục Sinh.
*************
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Để hiểu sâu mầu nhiệm Vượt qua, chúng ta cần dừng lại thật lâu bên mộ Chúa. Một ngôi mộ mới, chưa chôn cất ai (x. Ga 19,41). Ngôi mộ này của ông Giô-xép, người trong Thượng Hội Đồng, và cũng là một môn đệ âm thầm của Đức Giêsu. Ông đã đến xin xác và tẩm liệm Thầy cẩn thận.
Hãy đến thăm mộ và ngày thứ bảy, không có ai. Ngôi mộ nằm im lìm như trăm ngàn ngôi mộ khác. Một tảng đá to ngạo nghễ che cửa mồ. Kẻ thù Chúa hả hê vui sướng vì đã nhổ được một cái gai. Tử thần đắc ý vỗ tay reo vì Đấng là Sự Sống đã bị nuốt chửng. Xác Đức Giêsu nằm trong mộ, tối tăm, như hạt lúa ủ trong lòng đất. Có ai nghe được tiếng hạt giống cựa mình? Có ai thấy được một mầm non đang nhú?
Đêm dài quá! Ba phụ nữ chỉ mong cho chóng sáng. Họ thấp thỏm không ngủ được, chỉ nghĩ đến ngôi mộ, với xác của Thầy nằm đó. Và khi lóe lên những tia nắng đầu tiên của mặt trời, thì cả ba đã sẵn sàng ra thăm mộ, với dầu thơm vừa mua được để ướp xac.
Khi đi đường, họ chỉ có một nỗi bận tâm: “Ai sẽ lăn giùm tảng đá ra cho chúng ta?” Tảng đá to thật là một trở ngại… Nhưng lạ thay, khi đến nơi, các bà thấy tảng đá được lăn ra một bên rồi, và xác của Thầy cũng khong còn ở chỗ cũ. Sứ thần Chúa loan báo Tin Mừng: Đấng bị đóng đinh đã chỗi dậy rồi, Ngài hẹn gặp lại các môn đệ tại Galilê.
Từ ngôi mộ, từ tối tăm, chết chóc, rữa nát, sự sống đã bật dậy, làm bàng hoàng sửng sốt. Không cần phải lăn tảng đá. Không cần phải xức dầu thơm. Cửa mộ đã mở toang, vì ngôi mộ không thể chứa được Đấng đang sống, Đấng đang đến để nối lại một cái hẹn…
Vẫn có những ngôi mộ trong đời ta. Những ngôi mộ chôn vùi bao ước mơ, hy vọng, bao điều chúng ta yêu mến và ấp ủ. Chúng như dấu hiệu của những đổ vỡ, đớn đau. Ta có chờ gì nơi đó, hay chỉ biết tiếc nuối?
Chỉ sự phục sinh của Đức Kitô mới làm ta tin rằng chẳng có mất mát, khổ đau, thất bại nào lại không thể làm ta lớn lên và cứng cáp. Ước gì giữa nước mắt, ta cảm nghiệm được niềm vui, dám chôn đi điều phải chôn, mất đi điều phải mất.
Gợi Ý Chia Sẻ
– Có những tảng đá chắn ngang, khiến đời tôi như ngôi mộ khép kín. Hiện nay có điều gì khiến bạn cảm thấy bị nghẽn lối, đi vào ngõ cụt? Tin Mừng Phục Sinh có giúp bạn ra khỏi không?
– Đức Giêsu chỉ phục sinh sau khi đã chết và được mai táng. Bạn thấy mình có những điều cần phải chôn, cần phải quên, cần phải từ bỏ không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu phục sinh,
Xin ban cho con sự sống của Chúa, sự sống làm đời con mãi mãi xanh tươi.
Xin ban cho con bình an của Chúa, bình an làm con vưng tâm giữa sóng gió cuộc đời.
Xin ban cho con niềm vui của Chúa, niềm vui làm khuôn mặt con luôn tươi tắn.
Xin ban cho con hy vọng của Chúa, hy vọng làm con lại hăng hái lên đường.
Xin ban cho con Thánh Thần của Chúa, Thánh Thần mỗi ngày làm mới lại đời con.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Niềm vui phục sinh khởi sự bằng thái độ hốt hoảng. Tảng đá che cửa mộ đã bị ai đó lăn ra. Xác của Thầy đặt bên trong đã biến mất. Thật là chuyện kinh khủng đối với bà Maria Macđala! Bà đã đi thăm mộ lúc trời còn tối. Có lẽ cả đêm qua bà không chợp mắt được, chỉ mong cho chóng sáng để lên đường.
Ai có thể hiểu được trái tim của bà? Tình yêu đa khiến bà đứng dưới chân thập giá (Ga 19,25) và tham dự cuộc mai táng Thầy Giêsu (Mt 27,61). Bây giờ tình yêu ấy lại thúc đẩy bà ra mộ trước tiên, trước cả người môn đệ được Đức Giêsu thương mến…
Maria hốt hoảng chạy về báo tin cho hai môn đệ. Bà nghĩ chắc có kẻ đã ăn cắp xác Thầy. Vấn đề duy nhất làm bà âu lo khắc khoải, đó là họ đang để Người ở đâu (Ga 20,2.13.15). Bà cần biết chỗ đó, để lấy ngay xác về.
Maria chẳng nghĩ gì đến chuyện Chúa phục sinh, bà chỉ mong tìm lại xác của Thầy đã chết. Maria chạy về để kéo theo Phêrô và Gioan chạy đến mộ, những bước chân hối hả vội vàng. Chỉ có ngôi mộ trống và những băng vải đặt ở đó, còn khăn che đau thì được cuốn lại, xếp riêng.
Thấy mọi điều đó, Gioan tin rằng Thầy đã phục sinh. Chẳng ai ăn cắp xác mà để lại gọn ghẽ khăn vải liệm. Chúng ta cần có lòng mến thiết tha của bà Maria Macđala, nhưng cũng cần có sự nhay cảm để tin như Gioan. Khi tin, người ta khám phá ra ý nghĩa của các biến cố: ý nghĩa của cái chết bi đát trên núi sọ, ý nghĩa của ngôi mộ trống và tấm khăn xếp gọn gàng. Chúng ta cần có lòng tin để khỏi rơi vào sự thất vọng hay hốt hoảng, trước những thất bại, đổ vỡ mất mát trong cuộc đời.
Đời chúng ta lắm khi giống ngôi mộ trống trải. Những gì chúng ta yêu quý nay chẳng còn. Chúng ta đôn đáo kiếm tìm điều đã mất, trong nước mắt đau khổ như bà Maria (Ga 20,11) Nhưng nếu xác Đức Giêsu cứ nằm yên trong mồ, để cho bà Maria đến thăm viếng, thì làm gì có chuyện Chúa phục sinh?
Phiến đá cửa mộ không giữ được Ngài, những băng vải không ngăn được Ngài ra đi. Sự sống bật dậy từ tro tàn của cái chết. Ánh sáng bừng lên từ bóng tối mịt mù. Tình yêu thắng trận khi tưởng như bị hận thù nuốt chửng. Niềm vui phục sinh là quà tặng bất ngờ cho Maria. Bà sẽ chẳng bao giờ tìm thấy xác Thầy trong mộ đâu, nhưng bà sẽ gặp chính Đấng Phục Sinh ở ngoài mộ đá.
Gợi Ý Chia Sẻ
1. Trong cuộc khổ nạn, Đức Giêsu đã vui lòng mất tất cả: danh vọng và mạng sống; nhưng rồi Ngài đã lấy lại được tất cả. Bạn có dám tin rằng cuối cùng, tình yêu sẽ thắng hận thù, ánh sáng sẽ thắng bóng tối, chân lý sẽ thắng sự dối trá không?
2. Chúa Giêsu đã phục sinh và hiện ra với các môn đệ. Đời của họ giở sang một trang mới. Đời của bạn có đổi khác vì tin rằng Chúa đã phục sinh không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa phục sinh, vì Chúa đã phục sinh nên con thấy mình chẳng còn gì phải sợ.
Vì Chúa đã phục sinh nên con được tự do bay cao, không bị nỗi sợ hãi của phận người chi phối, sợ thất bại, sợ khổ đau, sợ nhục nhã và cái chết lúc tuổi đời dang dở.
Vì Chúa đã phục sinh nên con hiểu cái liều của người Kitô hữu là cái liều chín chắn và có cơ sở.
Cái liều của những nữ tu phục vụ ở trại phong.
Cái liều của cha Kolbê chết thay cho người khác.
Cái liều của bậc cha ông đã hiến mình vì Đạo.
Sự phục sinh của Chúa là một lời mời gọi mang một sức thu hút mãnh liệt khiến con đổi cái nhìn về cuộc đời: nhìn tất cả từ trên cao để nhận ra giá trị thực sự của từng thụ tạo.
Sự phục sinh của Chúa giúp con dám sống tận tình hơn với Chúa và với mọi người. Và con hiểu mình chẳng mất gì, nhưng lại được tất cả.
Suy Niệm
Có vẻ sau cái chết của Thầy Giêsu chẳng ai buồn nghĩ đến chuyện Thầy sẽ sống lại. Các phụ nữ chỉ quan tâm đến việc chăm sóc xác Thầy. Nhưng khi thấy ngôi mộ trống trơn, họ phân vân và bối rối không hiểu.
Là những Kitô hữu ngoan đạo, chúng ta thấy mình quá quen với chuyện Chúa phục sinh, đến độ coi đó là chuyện tự nhiên. Chính vì thế ta không cảm được nỗi lo lắng, ngỡ ngàng của các phụ nữ và các môn đệ vào buổi sáng tinh mơ của ngày thứ nhất. Các bà chẳng biết làm gì với số thuốc thơm đã chuẩn bị. Cửa mộ đã mở toang, thi hài Thầy đâu còn. Nếu sứ thần không hiện ra giải thích thì ngôi mộ trống vẫn là một bí ẩn khôn dò.
Khi các bà trở về kể lại cho Nhóm Mười Một những gì đã xảy ra ngoài mộ đá, các ông đã không tin, cho là chuyện lẩn thẩn. Có lẽ ho nghĩ các phụ nữ là người yếu bóng vía. Làm gì có chuyện sứ thần bảo là Thầy đã phục sinh!
Phêrô đứng lên chạy ra mộ (Lc 24,12). Ông cũng thấy như các phụ nữ kể lại. Nhưng ông chỉ kinh ngạc thôi, chứ không tin. Quả thật tin Thầy đã sống lại là điều khó, dù Đức Giêsu đã báo trước nhiều lần về cái chết và sự phục sinh của Ngài. Các môn đệ chỉ nhớ được nửa đầu của lời loan báo. Dường như nỗi đau quá lớn làm họ mau quên, vì thế sứ thần hiện ra là để nhắc cho họ nhớ (c.6), và họ đã nhớ lại những gì Ngài dạy (c.8). Đức Giêsu phục sinh hiện ra cũng nhắc cho họ nhớ (c.44). Về sau Thánh Thần cũng sẽ làm công việc này, đó là nhắc cho họ nhớ mọi lời Đức Giêsu đã nói (Ga 14,26).
Nhắc nhớ là nối quá khứ với hiện tại và tương lai. Quá khứ bị ám ảnh bởi cái chết đau thương. Chúng ta dễ bị sa lầy trong quá khứ u buồn, không còn khả năng để hy vọng và vui sống.
“Sao các bà lại tìm Người Sống ở nơi kẻ chết”. Đức Giêsu đã mở tung cửa mộ vào sáng phục sinh. Muốn gặp được Ngài, phải tìm Ngài ở ngoài phần mộ. Kitô giáo không kết thúc bằng thập giá và phần mộ… Đức Giêsu bây giờ là Đấng tràn trề sự sống mới. Xác Ngài không còn nằm đó, nhưng đã chỗi dậy. Ngài vẫn đi với ta trên cùng một con đường. Ngài đến khi cả đêm ta không được một con cá nhỏ. Ngài ở lại nhà ta khi ta đóng cửa vì sợ hãi.
Chúng ta vẫn thường tìm sai địa chỉ của Ngài, bởi chúng ta không tin Ngài đã sống lại thật. Nếu chúng ta tin Ngài là Sự Sống và là Nguồn Sống, cuộc đời chúng ta sẽ chẳng như xưa.
Gợi Ý Chia Sẻ
– Cuộc đời con người kết thúc nơi nấm mộ. Nhưng người Kito hữu lại tin nấm mộ là nơi sự sống mới nẩy mầm. Con người sinh ra là để sống mãi. Riêng bạn, tại sao bạn tin có cuộc sống đời sau? Niềm tin đó có ảnh hưởng gì trên cuộc sống đời này không?
– Lễ Giáng Sinh và lễ Phục Sinh, theo bạn, lễ nào vui hơn, lễ nào lớn hơn?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu phục sinh,
- Lúc chúng con tìm kiếm Ngài trong nước mắt, xin hãy gọi tên chúng con như Chúa đã gọi tên chị Maria đứng khóc lóc bên mộ.
- Lúc chúng con chán nản và bỏ cuộc, xin hãy đi với chúng con trên dặm đường dài như Chúa đã đi với hai môn đệ Emmau.
- Lúc chúng con đóng cửa vì sợ hãi, xin hãy đến và đứng giữa chúng con như Chúa đã đến đem bình an cho các môn đệ.
- Lúc chúng con cố chấp và xa cách anh em, xin hãy kiên nhẫn và khoan dung với chúng con như Chúa đã không bỏ rơi ông Tôma cứng cỏi.
- Lúc chúng con vất vả suốt đêm mà không được gì, xin hãy dọn bữa sáng cho chúng con ăn, như Chúa đã nướng bánh và cá cho bảy môn đệ.
Lạy Chúa Giêsu phục sinh, xin tỏ mình ra cho chúng con thấy Ngài mỗi ngày, để chúng con tin là Ngài đang sống, đang đến, và đang ở thật gần bên chúng con. Amen.
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.)
Suy niệm
Bài Tin Mừng này được đọc vào buổi sáng Chúa nhật Phục sinh, khi tử thần vẫn tác oai tác quái trên thế giới. Mỗi ngày hàng ngàn người chết, không đủ nhà xác và quan tài. Bao người phiền muộn vì mất mát người thân. Bao người âu lo vì thấy mạng sống mình bị đe dọa.
Bà Maria Mácđala cũng đã trải qua những thời khắc kinh hoàng. Bà đã đứng gần thập giá của Đức Giêsu chịu đóng đinh, chứng kiến Ngài gục đầu và trao sinh khí (Ga 19,30). Hẳn bà cũng đã tham dự lễ mai táng của Thầy Giêsu. Ngôi mộ mới của Thầy nằm trong khu vườn mà bà biết rõ. Maria không thể nào quên được buổi chiều thứ sáu ấy. Cái chết bi thương của Thầy trên thập giá vẫn in hằn trong trí nhớ. Bà hiểu mình đã mất Thầy thật rồi, người Thầy đã giải phóng bà khỏi tay bảy quỷ (Lc 8,2). Điều làm bà an ủi, đó là bà còn giữ được xác của Thầy. Đối với bà, xác của Thầy cũng quý như chính con người Thầy. Bà đã trải qua ngày thứ bảy bồn chồn, khó lòng chợp mắt, chỉ mong ngày sa-bát mau kết thúc để bà có thể ra viếng mộ. Tất cả tập trung của bà dồn vào ngôi mộ, vì trong đó có thân xác của người Thầy mà bà mến thương.
Buổi sáng tinh mơ ngày thứ nhất trong tuần, bà đã vội vã ra mộ. Điều bà không dám ngờ đã xảy ra: tảng đá che mộ bị dời đi, và xác Thầy cũng không còn ở đó nữa. Hốt hoảng, sợ hãi, hoang mang, bà chạy về báo cho Simôn và người môn đệ kia chuyện chẳng lành. “Họ đã đem Chúa đi khỏi mộ, và chúng tôi không biết họ để Người ở đâu” (Ga 20,2).
Theo bà, chắc chắn phải có người lấy, tuy không biết là ai thôi. Trong bài Tin Mừng này, không có thiên thần nào hiện ra giải thích, nên Maria thấy vô cùng khó hiểu trước biến cố mất xác Thầy. Bước chân chạy của Maria đã kéo theo bước chân chạy của hai môn đệ. Vì tình hình quá căng thẳng, hai ông như đua nhau chạy cho mau.
Mỗi người đến, nhìn vào mộ đều thấy một điều gì đó.
- Bà Maria chỉ thấy xác Thầy mình không còn đó (Ga 20,2).
- Người môn đệ Chúa thương, đứng ngoài, thấy những băng vải (Ga 20,5).
- Còn Simôn Phêrô thì vào trong mộ, thấy những băng vải, cùng khăn che đầu được cuộn lại và xếp riêng ra một nơi (Ga 20,6-7).
- Cuối cùng, người môn đệ kia cũng vào mộ. Ông đã thấy và đã tin (Ga 20,8).
Người tín hữu hôm nay cũng có lúc giống bà Maria, Hốt hoảng vì thấy mất Chúa, mất đi điều quý giá nhất của mình. Ai đã lấy Ngài đi, để lại ngôi mộ trống trơn lạnh lẽo? Phải tập nhìn vào ngôi mộ, tập để ý đến những chi tiết nhỏ. Tập đọc ra những dấu chỉ lờ mờ của hy vọng ngay giữa những đổ vỡ. Tập nhìn thấy những điểm sáng trong ngôi mộ tối tăm, và nhận ra bàn tay Thiên Chúa đang hoạt động cách kín đáo.
Thật tiếc thương khi xác Thầy không còn, nhưng những băng vải quấn xác Thầy vẫn còn nằm ở đó, còn khăn che đầu thì được cuộn lại, xếp riêng (Ga 20,7-8). Điều đó cho thấy không phải có người ăn cắp xác và đem đi. Vì kẻ cắp không có thì giờ để làm việc đó. Từ từ ngôi mộ bừng sáng lên, và mang nhiều ý nghĩa. Nơi của chết chóc và mất mát lại trở nên vườn ươm sự sống.
Maria đi ra mộ viếng xác và đớn đau vì xác Thầy không còn trong mộ. Bà đâu biết rằng đó là khởi đầu cho một Tin Mừng trọng đại. Nếu xác Thầy cứ nằm trong mộ thì làm gì có phục sinh. Bà đi tìm xác một người chết, nhưng rồi bà sẽ gặp người đang sống.
Trận dịch năm nay đem lại nhiều chết chóc đau thương. Bao nhiêu nấm mộ đã mọc lên vội vàng. Có hy vọng nào từ những nấm mộ không? Đức Giêsu đã được phục sinh, nhưng sau nạn dịch này, thế giới có được phục sinh không?
Sự tàn phá của vi rút trên mạng sống con người đòi chúng ta phải chung tay xây dựng một thế giới đầy tràn sự sống. Bảo vệ rừng, ngừng xây đập, không phí tiền chạy đua vũ trang, làm sạch lại bầu khí, làm xanh lại bầu trời, làm trong lại dòng sông. Cơn dịch này nhắc chúng ta về những giá trị bị lãng quên, đòi ta điều chỉnh lại tương quan giữa người với người, giữa con người với thiên nhiên, và giữa con người với Đấng Tạo Hóa.
Chúa phục sinh đã tặng cho ta ơn phục sinh, nhưng để hưởng ơn ấy, không phải là chuyện tự nhiên hay đương nhiên. Chúng ta sẽ chẳng nếm được niềm vui sống lại, nếu cứ loay hoay ở trong ngôi mộ của ích kỷ và khép kín.
Cầu nguyện
Lạy Thiên Chúa là Cha toàn năng,
chẳng có chuyện gì xảy ra mà Chúa không cho phép.
Cả những chuyện xấu xa tồi tệ mà con người làm cho nhau.
Cả sự dữ đang hoành hành do Xatan gây ra trên mặt đất.
Nhiều khi chúng con không hiểu được
tại sao Chúa lại cho phép xảy ra những chuyện như thế.
Nhưng chúng con tin rằng, đối với ai yêu mến Chúa,
mọi sự đều đem lại điều tốt cho họ (Rm 8,28; GLCG 395,760).
Chúng con tin rằng những gì Chúa cho phép xảy ra
đều vì yêu thương chúng con
và vì ích lợi cho cuộc sống vĩnh hằng của chúng con.
Chúa đau đớn khi phải dùng roi mà sửa dạy
như người cha sửa dạy con mình để mong con nên người.
Xin cho chúng con nhận ra điều Chúa muốn nhắc nhở,
để cải hóa bản thân và điều chỉnh đời mình
cho hợp với ý Chúa.
Lạy Thiên Chúa là Cha đầy lòng nhân ái,
trên đường về quê trời,
Chúa muốn chúng con trải qua những thử thách cam go,
như bệnh tật, khổ đau và cái chết,
để chúng con nên cứng cáp và trưởng thành.
Xin cho chúng con đừng nổi loạn trước thử thách,
nhưng biết nhìn lên Chúa Giêsu
chịu đóng đinh trên thánh giá,
để biết cách nhẫn nại và giữ vững niềm hy vọng,
kể cả khi thấy Thiên Chúa vắng bóng,
thinh lặng hay khoanh tay.
Ước gì cơn dịch bệnh
làm chúng con ý thức sự bất lực của mình,
để tha thiết cầu xin và tín thác vào tình yêu Chúa.
Ước gì khi Chúa cho cơn dịch chấm dứt,
chúng con lại thấy sự sống của Chúa
chiến thắng vinh quang.
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Sau ngày Chúa chịu chết, các môn đệ rơi vào một tình trạng thê thảm: buồn rầu, sợ hãi, chán nản, thất vọng.
Còn đâu niềm vui khi được ở bên người Thầy yêu dấu. Còn đâu an ủi khi thấy những người đói khát được ăn no, người bệnh tật được chữa lành, kẻ tội lỗi được tha thứ, người chết được sống lại. Còn đâu niềm hy vọng tràn trề khi chứng kiến ma quỷ bị xua đuổi.
Tất cả đã chìm vào quá khứ. Giờ đây sự ác đã chiến thắng, sự dữ đã thống trị. Cả một bầu trời tang tóc phủ trùm trên những người tin Chúa. Tâm hồn các ngài như đã chết. Niềm tin yêu hy vọng của các ngài như cùng bị chôn táng trong mo với người Thầy yêu quý.
Giữa lúc ấy, Chúa sống lại khải hoàn. Chúa Giêsu Phục Sinh đã khiến cuộc đời các ngài thay đổi tận gốc rễ.
Khi tảng đá lấp cửa mộ tung ra cũng là lúc tâm hồn các ngài thoát khỏi màn đêm vây phủ. Khi gặp được Chúa Phục Sinh, tâm hồn các ngài bừng lên sức sống mới. Máu chảy rần rần. Tim đập rộn ràng. Mắt sáng. Miệng tươi.
Các ngài như người đã chết nay sống lại. Chúa Giêsu đã Phục Sinh tâm hồn các ngài. Sự sống mới của Chúa đã tràn vào các ngài. Ơn Phục Sinh đã được ban cho các ngài. Sự sợ hãi đã trở thành mạnh dạn. Sự yếu đuối đã trở nên mạnh mẽ. Sự thất vọng đã biến thành hy vọng. Nỗi sầu khổ đã biến thành niem vui.
Cảm nghiệm ơn Phục Sinh rồi, các môn đệ không còn có thể ngồi yên trong căn phòng đóng kín cửa nữa. Các ngài mở tung cửa, hăng hái ra đi đem Tin Mừng Phục Sinh chia sẻ cho mọi người. Các ngài muốn vực dậy những manh đời đang chết dần mòn. Các ngài muốn phục hồi những tâm hồn đang héo úa. Các ngài muốn thế giới biến đổi trong một đời sống mới, tươi vui, hạnh phúc, dồi dào hơn.
Hôm nay Chúa muốn cho tất cả mọi người chúng ta, noi gương các Thánh Tông đồ, tiếp nối công việc của Chúa, đem ơn Phục Sinh đến với mọi người.
- Có những người đang chết dần mòn vì không đủ cơm ăn áo mặc. Có những cuộc đời tàn lụi đi vì bệnh hoạn tật nguyền. Có những tấm thân gầy mòn vì lao lực vất vả. Có những cuộc đời trẻ thơ bị giam kín trong tăm tối thất học, nghèo nàn. Tất cả đang đợi chờ được Phục Sinh.
- Có những tâm hồn đang ủ rũ vì buồn phiền. Có những mạch máu như ngừng chảy vì đau khổ. Có những trái tim đang tan nát vì bị phản bội. Có những cuộc đời cay đắng vì thất bại. Có những tương lai bị chôn kín trong những nấm mồ đen tối không lối thoát. Tất cả đang đợi chờ ơn Phục Sinh.
- Nhất là có những tâm hồn đang lún sâu trong vũng lầy tội lỗi. Có những linh hồn đang tự huỷ hoại trong đam mê tiền bạc, quyền lợi, danh vọng. Có những niềm tin héo úa vì lạc hướng. Có những đời sống đang rỉ máu vì chia rẽ bất hoà. Có nhưng cuộc đời đang chao đảo vì gặp khó khăn thử thách. Tất cả đang đợi chờ ơn Phục Sinh.
Đem Tin Mừng Phục Sinh đó là giúp cuộc đời anh em thoát khỏi những bế tắc, giúp cho linh hồn anh em được sống cao thượng và khôi phục niềm tin yêu của anh em vào Thiên Chúa, vào con người và vào cuộc đời.
Tuy nhiên, để có thể đem Tin Mừng Phục Sinh đến với mọi người, bản thân ta cần được Phục Sinh trước. Trong chính bản thân ta cũng đang chất chứa những mầm mống chết chóc đó là những tội lỗi, đam mê, dục vọng. Trong chính bản thân ta cũng đang ấp ủ những lực lượng tàn phá đó là thói kiêu căng, ích kỷ, chia rẽ, bất hoà, tham lam, bất công. Trong chính bản thân ta đức tin đang héo úa, lòng mến đang nguội lạnh, niềm hy vọng đang lụi tàn.
Để đón nhận được ơn Phục Sinh và để ơn Phục Sinh có thể thấm vào mọi ngõ ngách trong tâm hồn, ta phải cộng tác với Chúa, tẩy trừ mọi lực lượng sự chết ra khỏi tâm hồn ta. Cuộc chiến đấu sẽ khốc liệt vì ta phải chiến đấu với chính bản thân mình. Nhưng với ơn Chúa Phục Sinh trợ giúp, chắc chắn ta sẽ toàn thắng.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
- Bạn có nhận thấy những lực lượng sự chết đang ở trong lòng người bạn không? Bạn có muốn loại trừ chúng không?
- Bạn có thấy ơn Phục Sinh là cần thiết không?
- Bạn có sẵn sàng đem ơn Phục Sinh cho mọi người không?
- Tuần này, bạn sẽ sống mầu nhiệm Chúa Phục Sinh thế nào?
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Sau khi Đức Kitô phục sinh, các môn đệ biến đổi lạ lùng. Maria Mácđala buồn sầu ảm đạm trở nên phấn khởi vui tươi. Tô-ma cứng cỏi trở nen tin tưởng. Hai môn đệ Emmau lạnh lùng trở nên sốt mến. Tất cả các môn đệ hèn yếu trở nên vững mạnh, từ ích kỷ nhỏ nhen chỉ biết lo cho quyền lợi bản thân trở nên quảng đại hiến thân cho Nước Chúa, từ chia rẽ tranh dành địa vị trở nên đoàn kết yêu thương, từ khép kín trở nên cởi mở đi đến với mọi người.
Chúa Phục sinh đổ vào tâm hồn các ngài một nguồn sống mới. Tâm hồn các ngài được ơn phục sinh. Ơn phục sinh được tóm tắt trong mot câu ngắn gọn: “Ông đã thấy và ông đã tin”. Nhờ đâu các ngài đã thấy?
Các ngài đã thấy nhờ gắn bó với Chúa. Thương nhớ Thày, nên khi ngày Sabbat vừa chấm dứt các ngài đã vội vã ra thăm mộ Thày. Các ngài không đi, nhưng chạy. Các ngài chạy vì muốn thu ngắn quãng đường. Các ngài chạy vì muốn thu ngắn mọi khoảng cách ngăn các ngài với Chúa. Các ngài muốn ở sát bên Chúa. Các ngài muốn kết hiệp với Chúa.
Các ngài đã thấy vì đã biết dứt bỏ quá khứ. Khi nhìn vào mộ, các ngài thấy gì? Các ngài không thấy gì hết! Ngôi mộ trống rỗng. Không có gì, nhưng các ngài thấy tất cả. Nếu xác Chúa còn đó thì thật đáng buồn. Xác còn có nghĩa là Chúa vẫn còn trong thế giới kẻ chết. Ngôi mộ còn xác là ngôi mộ gieo niềm tuyệt vọng. Ngôi mộ trống là ngôi mộ chứa đầy niềm hi vọng. Ngôi mộ trống là một khởi điểm mới, là khối hỗn mang để Chúa làm nên một trời mới đất mới. Các ngài hiểu rằng không nên gắn bó với xác chết nhưng nên gắn bó với Đức Kitô đang sống. Không nên gắn bó với quá khứ chết chóc, nhưng nên gắn bó với tương lai tràn đầy sự sống.
Các ngài đã thấy vì đã có thái độ khiêm nhường. Tin mừng thuật lại: Các ngài đã “cúi xuống nhìn vào ngôi mộ”. Khi cúi xuống nhìn vào ngôi mộ, các ngài không thấy Chúa. Nhưng càng cúi xuống sâu các ngài thấy rõ mình. Chìm xuống đáy lòng như chìm xuống đáy đại dương, xa mọi sóng gió xôn xao. Càng nhìn vào đáy lòng mình, càng bắt gặp niềm bình an. Bình an là quà tặng Chúa Phục sinh rộng rãi ban phát cho các môn đệ sau khi Người sống lại.
Các ngài đã thấy vì đã nhìn với ánh mắt tin yêu. Thánh Gioan quan sát kỹ hiện trường nên đã miêu tả rất cặn kẽ: Khi ở ngoài mộ nhìn vào “Ông thấy những băng vải còn ở đó”. Khi đã bước vào trong mộ, Ông “thấy những băng vải để ở đó và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi”.
Là người gần gũi, quen biết các thói quen của Thày, thánh Gioan lập tức nhận ra dấu vết Người để lại. Khăn liệm được xếp đặt gọn gàng chứng tỏ bàn tay Người tự xếp đặt. Người tự xếp đặt tức là Người đang sống. Người bỏ khăn liệm vì Người không còn trong thế giới kẻ chết.
Trái tim yêu mến đã làm cho thánh Gioan nhạy bén cảm nhận được mầu nhiệm phục sinh.
Hôm nay, Đức Kitô phục sinh đang tuôn đổ ơn lành xuống cho ta. Để đón nhận được ơn lành của Người, ta hãy học tập nơi các môn đệ, biết tha thiết gắn bó với Người trong lúc vui cũng như lúc buồn, biết dứt khoát với quá khứ tội lỗi lười biếng, trì trệ, biết khiêm nhường chìm vào đáy sâu tâm hồn, biết nhìn thế giới bằng ánh mắt tin yêu.
Với những phấn đấu như thế, ta sẽ đón nhận được ơn Chúa Phục sinh. Chúa sẽ tuôn đổ Ơn Phục Sinh tràn ngập tâm hồn ta, biến đổi ta nên người mới, tràn đầy niềm vui, tràn đầy niềm hi vọng, tràn đầy sự quảng đại, tràn đầy tình yêu mến.
Lạy Đức Kitô phục sinh, xin cho linh hồn con được sống lại thật. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
- Chỉ một lần mừng lễ Phục sinh, tâm hồn các tông đồ đã đổi mới hoàn toàn. Còn ta, đã bao lần mừng lễ Phục sinh, sao ta chưa thay đổi đời sống?
- Khi ngắm thứ nhất mùa Mừng: “Đức Chúa Giêsu sống lại, ta hãy xin cho được sống lại thật về phần linh hồn”, bạn suy nghĩ gì? Bạn có thực sự tha thiết đổi mới cuộc đời không?
- Bạn sẽ làm gì để sống ơn Phục sinh Chúa ban?
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Phụng vụ hôm nay trình bày cho ta sự tương phản giữa bóng tối và ánh sáng. Mở đầu phần nghi thức, nhà thờ chìm vào bóng tối. Bóng tối tượng trưng cho thế lực sự dữ, sự ác. Khi Đức Giêsu chưa Phục Sinh, sự dữ, sự ác còn thống trị. Nhân loại chìm ngập trong bóng tối sự chết.
Cây nến Phục Sinh tượng trưng cho Đức Kitô Phục Sinh. Đức Kitô Phục Sinh chiếu lên nguồn sáng mới, xua tan đi bóng đêm. Đức Kitô Phục Sinh là sự sống mới đã chiến thắng sự chết.
Như cây nến muốn chiếu sáng phải tiêu hao chính mình. Đức Kitô đã phải chịu tiêu hao đi trong những đớn đau, khổ cực, tủi nhục và cả trong cái chết, mới đem lại ánh sáng sự sống cho ta.
Chúng ta là con cái Chúa, là con cái của sự sáng. Nhưng trong ta còn nhiều phần chưa thuộc về Chúa. Nhiều phần trong tâm hồn ta còn thuộc về bóng tối.
- Có thứ bóng tối tội lỗi nhận chìm linh hồn ta trong những vực sâu tối đen không có đường thoát ra.
- Có thứ bóng tối đam mê dục vọng gìm linh hồn ta trong cơn mê ngủ miệt mài, mất hết ý chí phấn đấu tiến lên.
- Có thứ bóng tối tham lam ích kỷ làm lu mờ lương tâm, lý trí, khiến ta coi tiền bạc trọng hơn tình nghĩa. Vì tiền bạc mà dám phạm những tội ác tày trời. Vì lợi nhuận của mình mà làm thiệt hại cho người khác.
- Có thứ bóng tối ghen ghét oán thù nó làm cho tâm hồn ta không lúc nào bình an, vì chìm ngập trong nỗi hận thù dai dẳng.
- Có thứ bóng tối tự ái kiêu căng khiến cho linh hồn ta không tìm thấy niềm vui trong sự khiêm nhường tha thứ.
Tất cả những bóng tối đó đang khiến linh hồn ta suy yếu, chết dần chết mòn. Tất cả những bóng tối đó ngăn chặn ánh sáng của Chúa, ngăn chặn dòng suối ơn lành của Chúa đổ vào hồn ta.
Để ánh sáng Phục Sinh của Chúa tràn vào hồn ta, ta phải quét sạch những bóng tối còn vương vấn trong tâm hồn.
Cũng như cây nến phải chịu tiêu hao mòn mỏi mới nuôi được ánh sáng soi chiếu đêm tối, ta cũng phải phấn đấu với chính bản thân mình, quên mình, chịu chết cho tội lỗi, để ta sống một đời sống mới.
Khi phấn đấu đẩy lùi bóng tối tội lỗi, ta thoát được ách ma quỷ và được sống trong ánh sáng của Chúa, trở nên con cái ánh sáng.
Lạy Đức Kitô Phục Sinh, Chúa đa chiến thắng ma quỷ, xin giúp chúng con chiến đấu với ma quỷ, để được sống một đời sống mới trong ánh sáng của Chúa.
(Bài giảng của Đức Cha Phaolô Bùi Văn Đọc – Giám mục Giáo phận Mỹ Tho – trong thánh lễ Vọng Phục Sinh, tại Nhà thờ Chánh Tòa Mỹ Tho vào đêm Thứ Bảy Tuần Thánh ngày 7 tháng 4 năm 2012)
CHÚA PHỤC SINH
Anh chị em rất thân mến,
Chúng ta sắp bước vào Năm Thánh Đức Tin. Nội dung rất quan trọng của đức tin của chúng ta là “Đức Giêsu, Chúa chúng ta đã chịu đóng đinh, chịu chết trên cây Thập tự giá, nhưng ngày thứ ba đã sống lại, chiến thắng sự chết, vĩnh viễn đi vào “Lòng của Thiên Chúa”, nơi mà Người đã cư ngụ từ trước muôn đời.
Nếu không tin “Chúa Phục Sinh”, thì chúng ta không còn là người công giáo, không là người kitô hữu, môn đệ của Chúa Kitô. Thánh Phaolô nói “nếu Chúa không sống lại, thì đức tin của anh chị em hoá ra vô ích”, tất cả những điều Người dạy dỗ sẽ chìm vào quên lãng, sẽ bị chôn vùi với thời gian, với cái chết. Nếu Chúa không sống lại, thì những gì cao cả nhất mà Người phải trả giá bằng máu là “Tình Yêu của Thiên Chúa”, là “Sự Thật về Thiên Chúa”, đều phải khuất phục trước đau khổ, sự chết, tội ác và sự gian trá của con người.
Chúng ta tin Chúa đã sống lại thật, Người đã chết thật, chứ không phải giả vờ chết, đã được chôn cất, như chứng từ của các Thánh Tông đồ, và sau ba ngày, Người đã trỗi dậy và ra khỏi ngôi mộ. Bài Tin mừng Marcô tường thuật việc các người phụ nữ có lòng yêu mến Chúa Giêsu là bà Maria Macđala, bà Maria Mẹ Ông Giacôbê, và bà Salômê, sáng tinh sương, khi mặt trời vừa hé mọc, đã ra viếng mộ, đem theo dầu thơm, để xức cho xác của Chúa Giêsu. Nhưng các bà không thấy xác của Người đâu cả, chỉ thấy ngôi mộ trống.
Các bà thấy tảng đá lớn che ngôi mộ đã được lăn ra, và có một thanh niên mặc áo trắng, ngồi bên phải ngôi mộ, đã nói với các bà: “Đừng hoảng sợ, các bà tìm Đức Giêsu Nazarét, Đấng đã bị đóng đinh chứ gì! Người đã trỗi dậy rồi, không còn đây nữa!” Chúa Giêsu đã trỗi dậy từ cõi chết, Người đã ra khỏi mồ. Người đã trỗi dậy như thế nào, lúc nào, không ai thấy, chỉ thấy ngôi mộ trống, và nghe thấy lời của thiên thần dưới hình dáng một thanh niên mặc áo trắng. Chỉ có bằng chứng là ngôi mộ trống, rồi có sứ điệp từ trời loan báo việc Chúa Giêsu đã trỗi dậy, đã sống lại từ cõi chết.
Việc Chúa Sống lại từ cõi chết là nội dung của “sứ điệp từ trời”, cũng như việc “Chúa nhập thể làm người” trong lòng trinh nữ Maria là nội dung sứ điệp của thiên thần Gabriel. Đó không chỉ là một sự kiện thuần tuý, mà là đức tin, đức tin của chúng ta, đức tin của Giáo hội, phát xuất từ các Thánh Tông đồ đã được gặp gỡ Chúa Phục Sinh nhiều lần nhiều cách, trong phòng đóng kín ở trên lầu, hay ngoài bãi biển lúc đang thả lưới bắt cá. Có môn đệ còn được gặp gỡ Chúa đang lúc đi đường, như hai môn đệ làng Emmau.
Sau khi Phục Sinh, Chúa Giêsu có trở lại tình trạng trước khi Người chết không? Các Tông đồ và Phaolô đều khẳng định: Người không còn chết nữa, sự chết không làm chủ được Người nữa. Khi hiện ra, Chúa Giêsu đã cho các môn đệ “sờ và chạm đến Người”. Người đã chỉ cho họ các vết thương ở tay và cạnh sườn, nhưng thân xác của Người không còn là thân xác bụi trần, mà là thân xác thiên thai sáng láng, thuộc cảnh vực thần linh. Các môn đệ vui mừng vì được nhìn thấy Chúa.
Ngày nay chúng ta không còn thấy Chúa Giêsu bằng mắt phàm nữa. Người đã sống lại, đã vượt qua thế gian về cùng Chúa Cha. Người không còn hữu hình nơi trần thế này nữa. Nhưng chúng ta vẫn có thể nhận ra Người bằng con mắt đức tin, mỗi lần chúng ta cử hành Thánh Lễ, đón Chúa Phục Sinh đến với chúng ta. Người hiện diện giữa chúng ta và ban Thần Khí Phục Sinh của Người cho chúng ta. Người là Sự Sống, là niềm vui và hy vọng cho chúng ta, và cho cả thế giới. Sự chết không còn là tiếng nói cuối cùng.
Trần gian này, dù có đau khổ bao nhiêu đi nữa, hay sung sướng thế nào đi nữa, cũng sẽ qua đi. Chỉ một mình Chúa Giêsu Phục Sinh là “Chúa muôn loài” tồn tại vĩnh viễn và tất cả những ai yêu mến, tin tưởng và tuân phục Người sẽ được giống như Người. Các anh chị em dự tòng ngồi trước mặt mọi người hôm nay, sẽ được thông phần vào “Sự Sống của Chúa Phục Sinh”, khi chịu phép rửa, họ sẽ được mặc lấy Chúa Giêsu Phục Sinh và trở nên con người mới. Hãy cầu nguyện cho họ.
(Bài giảng của Đức Cha Phaolô Bùi Văn Đọc – Giám mục Giáo phận Mỹ Tho – trong Thánh lễ vọng Phục Sinh tại Nhà thờ Chánh Tòa Mỹ Tho, 19g30 ngày 30 tháng 03 năm 2013.)
“Chúa đã sống lại thật”, đó là niềm tin của chúng ta, đó là niềm tin của Hội Thánh. Chúng ta hân hoan tuyên xưng đức tin ấy trong Thánh lễ đêm nay….
Anh chị em rất thân mến,
- “Chúa đã sống lại thật”, đó là niềm tin của chúng ta, đó là niềm tin của Hội Thánh. Chúng ta hân hoan tuyên xưng đức tin ấy trong Thánh lễ đêm nay.
Nhưng chúng ta tuyên xưng như thế nào, để lòng mọi người rộn rã hân hoan? Chúng ta tuyên xưng như thế nào, để Ánh Sáng bừng lên trong bóng tối, bóng tối của tâm hồn còn nhiều tội lỗi của chúng ta, bóng tối của cuộc đời còn đầy những khó khăn và thử thách, bóng tối của xã hội còn tràn ngập những điều xấu xa và bẩn thỉu, bóng tối của thế giới còn bị đe doạ bởi bóng ma chiến tranh và chết chóc?
Chúng ta tuyên xưng như thế nào, để Ánh Sáng xoá tan u tối, để mọi xiềng xích bị bẻ gãy và con người được tự do đích thực? Chúng ta chỉ có thể làm được như vậy với quyền năng vinh hiển của Thiên Chúa là Chúa Thánh Thần!
- Chúng ta tuyên xưng trong tư cách của những người đã chịu Phép rửa, được mai táng trong cái chết của Đức Kitô, đang thừa hưởng sự sống mới, và sẽ được cùng sống lại với Người (x. Rm 6, 3-4). Chúa đã chiến thắng các tội ác, chiến thắng thần dữ và sự chết. Sự chết không cầm giữ được Người nữa, không có quyền gì trên Người nữa. Người đã sống lại và không còn chết nữa (x. Rm 6, 9).
Thần dữ và sự chết sẽ không làm gì được chúng ta, vì chúng ta được chia sẻ Thần khí Phục sinh của Chúa, Sức mạnh Phục sinh, Quyền năng vinh hiển của Thiên Chúa (x Rm 6, 3-5). Chúa Thánh Thần là “Chúa và là Đấng ban sự sống”. Ngài đã làm nên những điều kỳ diệu, Ngài sẵn sàng đổi mới mặt địa cầu. Chúa Thánh Thần chính là Quà tặng Chúa Phục sinh ban cho chúng ta.
- Chúa Phục sinh đầy tràn Thần Khí của Thiên Chúa, đầy tràn Ánh Sáng và Tình yêu của Thiên Chúa. Thiên Chúa là Tình yêu. Yêu thương, chính là bản chất của Thiên Chúa và cũng là sức mạnh của Thiên Chúa. Điều kỳ diệu nhất mà Thiên Chúa đã làm trong lịch sử cứu độ, là làm cho Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết. Nơi biến cố Phục sinh của Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã thể hiện tất cả quyền năng, biểu lộ trọn vẹn tình yêu của Ngài, một tình yêu bất diệt, luôn sinh ra tình yêu. Ngài nói với Chúa Giêsu Phục sinh: “Con là Con của Cha, Hôm nay Cha đã sinh ra Con !” (Lc 3,23). Sự sống của Chúa Giêsu là sự sống của Chúa Cha, vì Chúa Cha là Thiên Chúa hằng sống. Mọi sự đều qua đi, chỉ có Thiên Chúa là bất diệt, chỉ có Tình yêu của Thiên Chúa là bất diệt! Anh chị em có dám tin như vậy không?
- Bài Tin mừng Luca tường thuật việc mấy người phụ nữ ái mộ Chúa Giêsu đã đi thăm ngôi mộ của Chúa, mang theo dầu thơm, để xức cho thi hài của Chúa. Đến nơi, họ thấy tảng đá đã lăn ra khỏi mộ, nhưng khi bước vào, họ không thấy thi hài Chúa Giêsu đâu cả (x. Lc 24, 1-3). Đang lúc các bà còn sợ hãi, thì có hai thiên sứ y phục sáng chói đã nói với các bà: “Sao các bà lại tìm Người Sống ở nơi kẻ chết? Đức Giêsu không còn trong ngôi mộ nữa, Người đã trỗi dậy rồi!” (Lc 24, 5-6).
“Thiên Chúa đã cho Người trỗi dậy từ cõi chết” ! Đó là nội dung lời rao giảng của các thánh Tông đồ. Và đó cũng là sứ điệp từ trời! Sứ điệp sẽ được công bố cho mọi người để mọi người tin, và nhờ tin mà được cứu rỗi, được đón nhận Chúa Thánh Thần và được ơn tha tội. Chính vì thế mà Thánh Phaolô đã nói một cách rõ ràng trong thư Rôma: “Nếu miệng bạn tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa, và lòng bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽ được cứu độ” (Rm 10, 10).
- Sự Sống lại của Chúa Giêsu là một sự kiện lịch sử, vì đã xảy ra trong lịch sử. Người đã chết thật và đã được chôn cất trong một ngôi mộ, mà ngày nay vẫn còn di tích tại Thánh địa Giêrusalem. Người đã trỗi dậy, ra khỏi mồ, Người đã sống lại thật, đã hiện ra với các Tông đồ, và đã trao sứ mạng “Làm chứng” cho Giáo hội mà các ông là đại diện (x. Lc 2435-48 ; Mc 16, 9-15; Ga 20,19-31). Chúa đã sống lại thật, và đã sống lại vĩnh viễn, sự chết không cầm giữ được Người. Người đã chiến thắng sự chết một cách vĩnh viễn (x. Rm 6, 9-10). Chiến thắng tử thần là “chiến thắng lớn nhất”, không còn có chiến thắng nào lớn hơn, bởi vì tử thần là kẻ thù đáng sợ nhất của loài người. Chính vì thế mà Phaolô dám nói một cách khiêu khích với “tử thần”: Tử thần hỡi, chiến thắng của ngươi đâu? Tử thần hỡi nọc độc của ngươi đâu? Tử thần có độc là vì tội lỗi!” (1Cr15,55).
Nhưng Thiên Chúa đã ban cho ta “Ơn Tha tội” nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên)
Buổi sáng ngày Phục sinh, tức là ngày thứ nhất trong tuần, mà ngày nay được gọi là ngày Chúa nhật, chúng ta giống như những người phụ nữ và hai môn đệ trong Tin Mừng, hối hả chạy đến mồ Chúa Giêsu. Bài Tin mừng Thánh Gioan được đọc trong Thánh lễ chính ngày diễn tả hai môn đệ chạy đến mộ để kiểm chứng những gì họ đã nghe mấy người phụ nữ kể lại. Các bà này đã nói: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu”. Các bà bàng hoàng và lo sợ vì mất Chúa, và các bà cảm thấy đau xót về điều đó. Hai môn đệ là Phêrô và Gioan đã vội vàng chạy đến xem và họ thấy ngôi mộ trống. Khác với mấy người phụ nữ, hai ông không lo sợ bàng hoàng, mà tin vào sự phục sinh của Chúa, vì Người đã tiên báo với các ông điều này.
Cần lưu ý, trong xã hội Do Thái thời cổ xưa, mỗi ngôi mộ được thiết kế như một hang động, nhất là đối với những người khá giả. Thánh sử Gioan nói với chúng ta, ngôi mộ an táng Chúa Giêsu là ngôi mộ của một người nhà giàu còn mới, nên các môn đệ an táng Chúa tại ngôi mộ đó. Chính vì vậy mà hai ông Phêrô và Gioan cũng như những người phụ nữ có thể bước vào bên trong ngôi mộ này. Các bà đến viếng mộ với ý định hoàn tất nghi thức tẩm liệm mà trước đó chưa làm xong vì lý do ngày lễ nghỉ.
Hãy trở lại với ngôi mộ trống: nếu như thân xác Chúa Giêsu còn nằm trong ngôi mộ. Nếu như nấm huyệt vẫn được đậy kín, thì Chúa Giêsu cũng chỉ như một vĩ nhân, khi còn sống thì rao giảng những điều uyên bác cao siêu, nhưng khi chết thì cũng giống như bao người khác. Không, ngôi mộ trống khẳng định với chúng ta: Chúa Giêsu không còn ở đây. Người không còn bị giới hạn bởi thời gian và không gian. Người không bị giam cầm bởi sự chết cũng như bởi nấm mộ. Nói cách khác, Người đã sống lại. Sự phục sinh của Chúa đã được Người báo trước. Tuy vậy những người phụ nữ và một số môn đệ khác vẫn thấy hoang mang và bất ngờ trước sự việc này. Thay vì vui mừng, các bà sợ hãi, run rẩy, hết hồn hết vía. Các bà không dám nói với ai vì sợ hãi.
Ngôi mộ trống là khởi điểm cho Đức tin Kitô hữu. Đức Giêsu là Thiên Chúa quyền năng. Người có quyền trên sự sống và sự chết. Người đã tự ý trao ban sự sống của Người và Người có quyền lấy lại, như chính Người đã tuyên bố. Vì vậy, sự chết không còn làm chủ được Người. Ngôi mộ là bằng chứng hùng hồn về quyền năng của Chúa Giêsu, là Thiên Chúa tối cao.
Ngôi mộ nói với chúng ta về chiến thắng của Chúa Giêsu. Chúa chiến thắng cái gì? Thưa, Chúa chiến thắng bạo lực. Thập giá là bạo lực của con người dành cho Con Thiên Chúa. Một số biệt phái và luật sĩ, có sự chống lưng của các tư tế và nhất là vị tư tế thượng phẩm, đã lên án tử cho Chúa và quyết định giết Người bằng một hình thức vừa gây đau đớn, vừa gây nhục nhã. Khi giết được Chúa và khi thấy các môn đệ đã an táng Thầy mình trong huyệt mộ, những kẻ giết Chúa nghĩ mình đã diệt được một kẻ thù. Họ đã nhầm. Chúa Giêsu đã bước ra khỏi mộ, vinh quang sáng láng. Thiên Chúa đã chiến thắng mưu mô của con người. Tình thương đã thắng thù hận. Ánh sáng đã thắng tối tăm. Chúa Giêsu không sống lại để trả thù những người đã hành hạ và đã giết Chúa. Người sống lại để khẳng định rằng: mưu mô gian trá chỉ là nhất thời, tình yêu bao dung sẽ tồn tại mãi mãi. Đấng Phục sinh không chỉ chiến thắng sự chết, mà Người còn giải phóng con người khỏi sự chết. Người cũng giải phóng con người khỏi sự giam cầm của quyền lực tối tăm, tức là ma quỷ và tội lỗi xấu xa.
Ngôi mộ nói với chúng ta về niềm hy vọng Kitô giáo. Con người được tạo dựng không để nằm yên trong huyệt mộ, sau khi đã trải qua một cuộc sống đan xen hoà quyện giữa hạnh phúc và đau khổ, nhưng được tạo dựng để hưởng hạnh phúc vinh quang đời đời với Chúa. Chúa phục sinh bước ra khỏi mộ khơi nguồn hy vọng cho con người nói chung, người Kitô hữu nói riêng. Bởi lẽ từ nay, họ xác tín rằng, thân phận con người không chỉ là “hạt bụi nào hoá kiếp thân tôi”, nhưng trong con người có mầm sống siêu nhiên, thúc đẩy con người sống lương thiện. Mầm sống ấy không chết khi con người nhắm mắt xuôi tay, nhưng sẽ bừng lên cho một cuộc sống mới, như hạt giống gieo vào lòng đất, chấp nhận mục nát để nảy mầm sinh bông kết trái. Niềm hy vọng của người tín hữu giúp họ vượt lên những khó khăn của cuộc đời, với niềm xác tín Đấng Phục sinh đang hiện diện với họ, để dẫn họ đi trên mọi nẻo đường.
Kitô hữu là người tin vào Chúa. Tin là chấp nhận một điều gì đó mặc dù không nhìn thấy hoặc không thể kiểm chứng bằng kinh nghiệm. Một cách nào đó, người tín hữu đang đứng trước sự vắng bóng của Thiên Chúa, được coi như đứng trước một ngôi mộ trống. Quả vậy, chúng ta tin vào Chúa mà đâu có nhìn thấy Ngài. Chúng ta cầu nguyện với Chúa nhưng đâu có được gặp gỡ Ngài trực tiếp. Ngôi mộ trống chỉ là nơi đã an táng Chúa Giêsu. Những gì chúng ta cảm nhận suy tư về Thiên Chúa thực ra chỉ là dấu vết của Ngài. Chính vì vậy, lễ Phục sinh mời gọi chúng ta nhận ra sự hiện diện quyền năng và đầy yêu thương trong cuộc sống hằng ngày. Chúa đang ở đây, với chúng ta, mặc dù con mắt thể xác không nhìn thấy Ngài.
Lễ Phục sinh không phải một sự kiện giải trí. Câu chuyện Đấng sống lại không phải là một huyền thoại. Người tín hữu mừng lễ Phục sinh, phải canh tân đổi mới cuộc đời để sống lại với Chúa. Trong thư gửi giáo dân Côlôxê được đọc trong Bài đọc II của Thánh lễ, thánh Phaolô nói đến sự sống mới của người Kitô hữu. Bởi lẽ, nhờ những hy sinh hãm mình và khổ chế, chúng ta cùng chết với Chúa Giêsu, và nay chúng ta sống lại với Người. Thánh nhân đặt những giá trị thuộc thượng giới, đối nghịch với những giá trị thuộc hạ giới. Giá trị hạ giới chỉ đem lại cho con người niềm vui nhất thời; giá trị thượng giới giúp con người đạt tới hạnh phúc vĩnh cửu. Quả vậy, hành trình đi theo Đức Kitô là hành trình biến đổi. Đây vừa là hành trình của sự sống, cũng là hành trình của sự chết. Bởi lẽ chúng ta phải chết đi mỗi ngày để sống lại với Chúa. Nói cách khác, chúng ta phải loại bỏ những gì là tham lam, bần tiện, hận thù, ích kỷ, để nhường chỗ cho lòng đạo đức, nhân hậu bao dung. Tiến trình hoán cải là tiến trình liên lỉ, lâu dài, đòi hỏi mỗi người phải cố gắng hy sinh và chấp nhận thương đau, như sự chết vậy.
Chúng ta hãy trở lại với hai môn đệ chạy vội đến mộ Chúa vào lúc tảng sáng. Khi trực tiếp quan sát ngôi mộ trống, hai ông tin. Các ông đã theo Chúa khoảng ba năm, được Chúa hướng dẫn và dạy dỗ. tuy vậy, niềm tin nơi các ông vào Đấng Thiên Sai còn nhiều mờ khuất và lệch lạc. Chính biến cố phục sinh đã giúp các ông xác tín vào Thày mình với một quan niệm và tầm nhìn xa rộng hơn. Không chỉ xác tín vào quyền năng của Chúa Giêsu, các ông còn mạnh mẽ lên đường rao giảng Đấng Phục sinh, mặc dầu phải chấp nhận hy sinh gian khổ và phải chết. Mỗi chúng ta, khi mừng lễ Phục sinh, hãy trở nên nhân chứng của Đấng phục sinh giữa đời, để khẳng định với mọi người xung quanh: Đức Giêsu đã sống lại và đang hiện diện giữa chúng ta. Những ai tin vào Người sẽ được hạnh phúc hôm nay và mãi mãi.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã phục sinh từ cõi chết. Chúa đã chiến thắng tử thần để sống lại vinh quang. Chúng con nhiều khi bị giam cầm trong huyệt mộ của sự ghen ghét, lười biếng và ích kỷ. Xin Chúa kéo chúng con ra khỏi mồ tối, để nhờ ánh sáng phục sinh chiếu soi, chúng coi can đảm vươn tới ánh sáng và trở nên ánh sáng giữa đời. Amen.
11. Bài giảng lễ Vọng Phục Sinh
(Bài giảng của ĐGM Giuse Nguyễn Năng – Lm Phêrô Nguyễn Hồng Phúc ghi)
Anh chị em thân mến!
Đêm Chúa Phục Sinh, chúng ta ca hát Halleluia! Và Hội Thánh mời gọi chúng ta hãy vui lên, bởi vì Chúa đã sống lại. Nhưng phải nói rằng, chúng ta rất khó cảm nhận được niềm vui của Mùa Phục Sinh, của Đêm Vọng Phục Sinh này. Khi anh chị em mừng lễ Giáng Sinh, chúng ta cảm nhận niềm vui ấy dễ dàng. Vì ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm về sự sinh ra. Cha mẹ sinh ra con cái và người con được chào đời. Đó là niềm vui cho gia đình, cho xã hội, cho tất cả loài người. Trong Đêm Giáng Sinh, chúng ta cảm thấy mình vui một cách rất tự nhiên. Với Đêm Vọng Phục Sinh hôm nay thì chúng ta lại không có cảm nhận ấy. Phải nói rằng, cái cảm nhận về Đêm Vọng Phục Sinh này, cái cảm nhận đầu tiên không phải là cảm nhận vui mừng mà là cảm nhận của một nỗi sợ hãi.
Bài Tin Mừng năm nay là Phụng vụ năm B theo thánh Macco (Mc 16, 1-7). Thánh Macco thuật lại câu chuyện về những người phụ nữ vào buổi sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, mang theo bình dầu thơm ra xức dầu cho Chúa, bởi vì chiều hôm qua Chúa chết vào giờ muộn quá, không kịp xức dầu thơm để ướp xác Chúa. Cho nên sáng ngày thứ nhất trong tuần, các bà mới vội vã ra đi, và khi các bà ra tới tận mộ thì các bà đã cảm nhận được điều gì đó. Chỉ trong 8 câu Tin Mừng, mà thánh Macco đã nhắc đi nhắc lại sự sợ hãi rất nhiều lần. Như là các bà ra mộ, nhìn thấy dấu chỉ của Thiên Thần đến loan tin Chúa đã sống lại, Chúa không còn ở trong mộ nữa. Thiên Thần trấn an: “Các bà đừng sợ! Bởi vì Chúa đã sống lại rồi”. Sau khi nhận được lời từ Thiên Thần nhắn với các tông đồ đến Galile và Chúa sẽ gặp các ông ở đấy thì các bà vội vàng chạy về. Vừa đi vừa run lẩy bẩy, kinh hoàng hết hồn hết vía. Những người phụ nữ đi mà không dám nói với ai điều gì. Bởi vì các bà sợ. Thánh Macco đã nói với chúng ta như vậy. Cho nên, kinh nghiệm và cảm nhận về Đêm Vọng Phục Sinh không phải là niềm vui, mà là sự sợ hãi. Tại sao lại sợ hãi? Sợ hãi là bởi vì, ở đây, con người đang đứng trước sự can thiep lạ lùng của Thiên Chúa. Người ta sợ vì nhiều lý do. Nỗi sợ tự nhiên, đó là con người đứng trước thiên nhiên, sóng cao biển cả, bão táp thì con người thấy mình nhỏ bé quá, con người bất lực nên con người sợ. Con người sợ vì mặc cảm tội lỗi, vì những việc làm xấu, sợ tiếng lương tâm oán trách, sợ Thiên Chúa phạt. Nhưng vẫn còn nỗi sợ khác, nỗi sợ của sự thánh thiện. Nỗi sợ khi mà mình đối diện với quyền năng của Thiên Chúa. Nỗi sợ khi mà đối diện với sự can thiệp của Thiên Chúa vào trong lịch sử của nhân loại. Điều ấy đã xảy ra trong Đêm Vọng Phục Sinh này.
Trong Đêm Vọng Phục Sinh, những người phụ nữ sợ sự can thiệp của Thiên Chúa vào trong nhân loại. Chúa Giêsu đã chết, Ngài đã đi vào qui luật bình thường của con người, đó là có sinh có tử. Nhưng cho tới ngày hôm nay, dòng nhân quả, một diễn tiến tự nhiên của dòng đời đã bị cắt đứt, vì hôm nay, chính Thiên Chúa can thiệp và Thiên Chúa đã làm cho Chúa Giêsu trỗi dậy từ trong cõi chết. Đứng trước mầu nhiệm cao cả này, những người phụ nữ đã sợ. Chính cái cảm nhận sợ hãi này, là bằng chứng, cho dù không đủ, nhưng là bằng chứng rất mạnh cho thấy sự can thiệp của Thiên Chúa để Chúa Giêsu sống lại. Khi Chúa Giêsu sống lại thì Chúa đã chiến thắng sự chết. Chúa đã chiến thắng đau khổ, tội lỗi và hận thù!
Trong những ngày vừa qua, chúng ta đa suy niệm về những mầu nhiệm Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ, Chúa Giêsu lập Bí tích Thánh Thể và Chúa Giêsu hiến mình trên cây Thánh Giá. Chúng ta nói rằng, Chúa Giêsu đã đưa ra một nguyên tắc sống mới, một qui luat sống mới. Đó là qui luật của sự quên mình để sống cho người khác, để phục vụ cho anh chị em của mình. Tuy nhiên, tình yêu ấy đã bị phản bội, tình yêu ấy đã bị kết án. Nhưng nếu chỉ có vậy mà thôi thì không ai dại gì ma yêu thương, không ai dại gì mà hiến mình thay cho người khác. Nhưng hôm nay, chúng ta thấy câu trả lời của Thiên Chúa. Thiên Chúa nói với chúng ta rằng: Những ai yêu thương, người ấy không bao giờ phải thất vọng. Thiên Chua muốn khẳng định với chúng ta rằng: Thiên Chúa chiến thắng sự chết. Thiên Chúa là tình yêu đã chiến thắng hận thù. Chúa Giêsu mở đường cho chúng ta đi và ai đi theo Chúa Giêsu thì người ấy không bao giờ phải thất vọng. Đó là lời quả quyết, mạnh mẽ mà Thiên Chúa muốn nói với chúng ta trong Đêm Vọng Phục Sinh.
Chúng ta đang sống trong một thế giới, mà người ta gọi là, thế giới của nền văn minh sự chết. Người ta sống trong hận thù, trong chiến tranh, trong bạo lực, có thể chém giết nhau bất cứ lúc nào. Chúng ta đang sống trong một xã hội đầy dẫy những sự ích kỷ, những tham nhũng, những bóc lột, những chèn ép và cạm bẫy xảy ra hàng ngày trong xã hội và trên thế giới. Chúng ta đang sống trong xã hội mà người ta chỉ biết hưởng thụ, hay đi tìm khoái lạc. Một xã hội tội lỗi của cá nhân, tội lỗi của thế giới, tội lỗi của toàn thể nhân loại. Xã hội này, thế giới này, nhan loại này cứ theo qui luật bình thường như vậy thì chắc chắn sẽ đi tới tận diệt. Cuối cùng sẽ là cái chết. Đôi khi chúng ta cảm thấy thất vọng, cũng như dân Do Thái ngày xưa (x. Xh 14,15.15,1a), khi phía trước là biển cả, sau lưng là quân đội Ai Cập, họ cảm thấy cái chết gần kề, cảm thấy cùng đường, cảm thấy bế tắc, cảm thấy thất vọng. Nhưng chính trong sự thất vọng ấy thì Thiên Chúa đã can thiệp, đã mở đường cho dân Do Thái đi qua biển Đỏ. Đó là sự can thiệp mạnh mẽ của Thiên Chúa. Đó là hình ảnh báo trước cho sự can thiệp vĩ đại hơn nữa. Thiên Chúa đã mở đường cho chúng ta đi, Chúa Giêsu đã chết nhưng đã sống lại, cũng như ngày xưa, Thiên Chúa đã dan đường cho dân Do Thái đi thì hôm nay Chúa Giêsu cũng dẫn đường cho chúng ta đi. Và nếu chúng ta đi theo Chúa Giêsu, chúng ta cũng sẽ tìm thấy niềm hy vọng, giữa một thế giới đầy chết chóc và tăm tốinày. Chúng ta hãy để cho Chúa dẫn mình đi, chúng ta hãy để cho Chúa thực hiện công trình, quyền năng của Người nơi cuộc đời chúng ta. Là những Kitô hữu, chúng ta phải là sứ giả của niềm hy vọng. Niềm hy vọng không phải ở nơi tiền bạc, nơi cua cải vật chất. Niềm hy vọng không phải là sức mạnh của quân đội, chính trị, nhưng là niềm hy vọng của sự thật và tình yêu. Chúng ta tin vào Chúa, chúng ta hãy đi theo Chúa.
Hôm nay, Chúa Giê su đã sống lại, Chúa mở đường cho chúng ta đi. Chúa mời gọi chúng ta đi theo con đường ấy. Trong Đêm Vọng Phục Sinh, chúng ta nhìn ngắm cây nến Phục Sinh. Đó là biểu tưởng hết sức ý nghĩa. Thế giới tăm tối này, nếu không có ánh sáng của Chúa thì vẫn chìm ngập trong bóng đêm, vẫn là tăm tối, vẫn là tội lỗi, vẫn là chết chóc. Nhưng ánh sáng của Chúa đã thắp lên để chiếu soi thế giới, chiếu soi cuộc đời của mỗi người chúng ta. Anh chị em hãy nhìn lên ánh sáng của Chúa Giêsu để mà tiến bước. Ánh sáng này, ánh sáng của chân lý, ánh sáng của tình thương Phúc Âm, luôn luôn bị những cơn lốc, những cơn gió của tội lỗi tìm cách làm tắt đi. Cơn gió của trào lưu tục hóa, luôn luôn muốn thổi mạnh lên thành bão táp để làm tắt ngúm cây nến Phục Sinh, là Lời Chúa, là tình thương của Chúa. Thánh Gioan lại khẳng định, bóng tối tìm cách trấn áp ánh sáng nhưng mà không bao giờ lại có thể làm tắt được ánh sang của Chúa Giêsu. Ánh sáng của Chúa, một khi đã được đốt lên thì chúng ta cứ tin tưởng mà bước theo Chúa. Hôm nay Chúa Giêsu đã sống lại, đó là lời bảo đảm cho chúng ta rằng Ánh sáng của Chúa Giêsu sẽ còn mãi.
Khi Chúa Giêsu sống lại, Chúa đã đưa chúng ta sang bờ bên kia của biển Đỏ. Chúa Giêsu dẫn đưa chúng ta từ cõi chết tới cõi sống. Chúa Giê su đã đặt thế giới này trong tình trạng “bất khả hồi”, không bao giờ có thể chịu thua quyền lực của sự chết. Như thánh Phaolô nói: “Chúng ta đã được cùng chết với Chúa và cùng sống lại với Chúa qua bí tích Rửa tội”(x. Cl 2,12). Chúng ta ngồi đây, theo qui luật tự nhiên, chúng ta sẽ phải chết. Nhưng trên nguyên tắc, nhờ Bí tích Rửa tội, tất cả chúng ta đang ngồi đây, chúng ta đã có sự sống lại của Chúa Giêsu rồi. Đức Kitô Phục Sinh đang ở trong chúng ta. Thần Khí của Thiên Chúa là chính Chúa Thánh Thần đang ở trong chúng ta. Chúng ta được đưa vào thế giới của sự sống, thế giới của ánh sáng. Hãy giữ lấy ngọn nến mà anh chị em đã thắp lên ở trong tay của mình, ngọn nến của linh hồn. Chúng ta hãy để cho Tin Mừng của Chúa chiếu soi chúng ta, va cho dù chúng ta có phải chết về phần xác, nhưng đừng để tâm hồn của chúng ta chết trong tội lỗi.
Anh chị em thân mến!
Anh chị em hãy luôn luôn giữ ngọn nến linh hồn mình để trở thành sứ giả của niềm hy vọng. Anh chị em hãy công bố cho mọi người biết khi chúng ta theo Chúa thì chúng ta sẽ được sống. Anh chị em hãy gieo rắc niềm hy vọng trong cuộc đời đầy tăm tối, đầy lo âu, đầy hận thù, chết chóc, đầy những ích kỷ của thế giới này. Chúng ta phải sáng lên niềm hy vọng nơi chân lý Phúc Âm. Chúa Giêsu đã sống lại, chúng ta hãy hát mừng, mà chỉ có người nào thực sự cảm nhận niềm vui ấy, mới có thể hát lên “Halleluia!”. Cho nên từ cảm nhận nỗi sợ hãi, chúng ta tiến tới niềm vui và cảm nhận niềm vui mừng, bởi vì Chúa đã sống lại!
Trong niềm vui Chúa đã sống lại, tôi xin chúc mừng niềm vui tới tất cả mọi người, xin cho ngọn nến Phục Sinh này cháy sáng mãi trong cuộc đời của anh chị em. Xin niềm vui và bình an của Đức Kitô Phục Sinh ở lại mãi với tất cả mọi người chúng ta. Amen.
12. Tìm kiếm những sự trên trời
Những người yêu mến văn học thì chắc có lẽ không thể nào quên được, tác giả người Mỹ nổi tiếng: O. Henry. Trong nhiều chuyện của ông. Ông có một cái câu chuyện ngắn Chiếc Lá Cuối Cùng (The Last Leaf). Là một cái câu chuyện đầy tính nhân văn.
Có một họa sĩ già tên là Behrman sống ở tầng trệt ở bên dưới phòng của hai nghệ sĩ trẻ là Sue và Johnsy. Behrman cả một cuộc đời mơ mộng rằng, mình sẽ để lại một tác phẩm để đời, nhưng ông không làm gì được. Ngoài 60 rồi và rồi ông có một cái chòm râu rậm như Môsê hiện thân trên bức điêu khắc của Michelangelo.
Có thể nói rằng Behrman là một sự thất bại trong nghệ thuật. Trong 40 năm vung vẫy chiếc cọ mà ông không hề chạm đến vạt áo của người tình. Ông luôn luôn muốn vẽ một kiệt tác nhưng chưa bao giờ bắt đầu. Trong vài năm, ông không vẽ gì được ngoại trừ thỉnh thoảng ít nét vẽ cho thế giới thương mại, cũng như quảng cáo. Rồi cạnh đó ông kiếm chút tiền bằng việc ngồi làm mẫu cho các họa sĩ trẻ. Và có thể nói đến kiệt tác của ông thì không có một tác phẩm nào để đời cả.
Và đến rồi, mùa đông năm ấy khi mà Johnsy bị sưng phổi thì, sự sống của cô như ngàn cân treo sợi tóc. Và bác sĩ chỉ nhắm rằng là cô chỉ còn vỏn vẹn 1/10 cơ may sự sống thôi! Cơ may này thì tùy thuộc vào ý chí của con người. Và với cái cái bệnh này thì chỉ có đến chờ công ty mai táng thôi! chứ còn không thể nào mà có thuốc nào mà chữa được.
Và khi mà vào hoàn cảnh ấy, Johnsy bị ám ảnh là cô sẽ không qua khỏi. Và rồi trước cửa phòng của cô thì có những chiếc lá non ở trên cành cây sau bức tường tường cửa sổ đó. Cứ mỗi ngày, mỗi ngày lá rơi, lá rơi và rồi có một chiếc lá cuối cùng còn lại.Và nàng tâm sự rằng là: nếu mà chiếc lá này mà rơi nữa, thì coi như nàng sẽ chết.
Thế nhưng mà, khi nghe được cái tâm sự của nàng Behrman đã hoàn thành cái bức vẽ tuyệt vời của ông: với một cái chiếc lá màu xanh đeo bám trên cành khô. Và đột nhiên có một cái sự sống hồi sinh nơi Johnsy Johnsy thấy chiếc lá cuối cùng ấy vẫn cứ còn mãi trên cây. Và rồi cô đã chống chọi với cái sự chết. Và quyết tâm chống lại bệnh tật và nàng đã chiến thắng.
Thế nhưng rồi, dù cái nét vẽ không được đẹp nhưng mà với chiếc lá màu xanh ấy! chiếc lá đầy tính nhân văn ấy. Tả thực một con người ấy trả giá bằng một cái chết của chính Behrman. Behrman đã qua đời tại bệnh viện vì viêm phổi. Ông đã nhuốm bệnh trong vòng 2 ngày thôi! Bởi vì ông đã cố gắng dù trời mưa gió ướt giày, lạnh như đá! Ông vẫn cố gắng hoàn thành cái bức họa như Johnsy mong ước. Và rồi người ta không thể hiểu nổi ông đi đâu, trong cái đêm trời mưa đó. Và sau đó họ tìm thấy một cái đèn bão vẫn cháy và một cái thang đã bị rời khỏi nơi cất giữ, vài cây cọ tơi tả và nghiêng màu với ít màu xanh và màu vàng. Và khi nhìn ra cửa sổ thì thấy chiếc lá thường của mùa xuân cuối cùng đã nằm trên bức tường. Và chính Behrman đã vẽ vào cái đêm cuối cùng. Cái lá thật rơi rụng và chính Behrman đã làm Jonhsy có một cái sức sống, có một sự cố gắng để vượt qua bệnh tật.
Và rồi cái câu chuyện của O. Henry này rất là hay. Câu chuyện này không chỉ hay về mặt văn chương, mà chúng ta có thể minh họa về cái chết của Chúa Giêsu.
Cái chàng họa sĩ này đã cứu mạng cô gái bằng cách hy sinh cả mạng sống mình để vẽ chiếc lá trên tường. Còn Chúa Giêsu thì hy sinh chết trên thập giá để cứu con người. Chàng họa sĩ đã hy sinh cái tính mạng của mình, một hình ảnh để minh họa cho cái chết của Chúa Giêsu. Nhưng thật sự thì, chàng họa sĩ đó chỉ vẽ lên tường cái lá hy vọng, lá đó không phải là thật mà chỉ là lá vẽ thôi! Còn Chúa Giêsu đến trong trần gian này và chính Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta một niềm hi vọng, không phải là một niềm hi vọng bánh vẽ; mà là một niềm hy vọng có thật.
Trong lịch sử nhân loại, nhiều tư tưởng của nhiều họa sĩ đã cho nhân loại những cái hình ảnh là những cái bánh vẽ. Và rồi Chúa Giêsu không hề như các Họa sĩ của trần gian. Chúa Giêsu đã cung cấp cho chúng ta một niềm hi vọng đích thực. Đó là chính cái sự Phục Sinh của Ngài, chứ không phải chỉ là cái hình vẽ trên tường.
Sự Phục Sinh của Chúa Giêsu không ai chối cãi được, bởi vì đó là một biến cố Lịch Sử trong không gian và thời gian. Và rồi trong mùa Phục sinh, chúng ta nghe Kinh Thánh nhiều, nói về sự Phục Sinh của Chúa Giêsu. Không phải chỉ là một ngôi mộ trống mà Gioan mà Phêrô thấy, mà nhiều lần sau đó Chúa Giêsu đã hiện đến với các môn đệ. Và chính các Môn Đệ đã làm chứng về điều đó. Không chỉ bằng cái môi miệng của các môn đệ mà bằng chính cả cuộc đời của họ. Các môn đệ đã tuyên bố một Đức Kitô sống lại mà thực tế lịch sử đã ghi nhận.
Điểm khác biệt lớn là chàng họa sĩ này có thể cứu cái cô này trong một thời gian nào đó, và rồi sau đó Johnsy cũng chết thôi! Cũng như Lazarô được sống lại sau cõi chết, nhưng cuối cùng cũng phải chết. Cái điều mà Chúa Giêsu đã làm cho con người thấy, chứng minh cho con người thấy, đó là vượt ra khỏi cái giới hạn của con người. Không phải dừng lại ở cái chết, bởi vì con người là chết nhưng Chúa Giêsu đã phục sinh. Mầu nhiệm phục sinh mang một ý nghĩa hoàn toàn khác.
Điều quan trọng là chúng ta tin cái điều mà mình tin đó, không phải bằng lý trí nhưng mà là chạm đến trái tim của cuộc đời chúng ta. Chạm đến cái điều đó, nơi tâm tình của thánh Phaolô: “Nếu Đức Kitô không sống lại thì niềm tin của chúng ta ra vô ích.” Và rồi «Anh em hãy nghĩ những gì thuộc về thượng giới, chứ đừng nghĩ những gì thuộc hạ giới.»
Mầu nhiệm của niềm tin vào Chúa Giêsu phục sinh là ở chỗ đó. Và nói ngay như thế, không phải rằng chúng ta chỉ sống và chúng ta chờ chết, nếu mà chúng ta tin vào Chúa Giêsu phục sinh thì chúng ta thấy được những cái giới hạn của phận người: sức khỏe, tài năng, địa vị xã hội và tiền bạc có bền vững mãi hay không?
Ai dám nói 10, 20 năm 30 năm nữa, mình sẽ ra sao? Chưa cần đến 10, 20 năm, 30 năm mà có thể ngày này, tháng này, sang năm, chúng ta đã là người thiên cổ.
Có ai dám nói mình cầm một số tiền để có thể là chi để vào cửa thiên đàng, như người ta vẫn thường chi tiền bôi trơn qua các cửa ở trần gian hay không? Những cái thực tại Hạ giới mà cần cho cuộc sống con người, Nó rất rất là cần, nhưng nó không phải là tuyệt đối. «Bé cái lầm».
Và tội lỗi của con người, đó chính là khi chúng ta đảo lộn cái giá trị thực tại, cũng như đảo lộn cái giá trị tuyệt đối. Nhiều khi mình cứ nghĩ rằng: những cái đồng tiền, những cái danh vọng, những cái quyền lực đó là quyết định đó là cùng đích của cuộc đời chúng ta. Thế nhưng sai lầm, bởi vì đó chỉ là những cái thực tại của trần gian thôi.
Chúng ta nhớ đến một cái lời nguyện Chúa nhật thứ 17 thường niên: “Lạy Chúa, xin cho chúng con biết dùng của cải chống qua này, nhưng mà lòng vẫn khăng khít với những thực tại ở trên Trời.”
Điều quan trọng rằng chúng ta nhắm đến là cái mục đích cuối cùng của chúng ta là chúng ta được Phục sinh với Đức Kitô. Và chính cái Phục sinh đó mời gọi chúng ta: Ngày mỗi ngày trong cái hành trình sống của chúng ta; chúng ta có gạt bỏ tất cả gọi là cái bám víu vào, để chúng ta không siêu thoát được với Chúa Giêsu Phục sinh.
Xin Chúa Giêsu Phục sinh chiếu soi ánh sáng niềm tin của Ngài vào trong cuộc đời của chúng ta. Để rồi ngày mỗi ngày, từng giây từng phút trong cuộc đời. Lòng chúng ta, dẫu rằng, chúng ta sống ở trong trần gian này nhưng chúng ta vẫn hướng về những chuyện ở trên trời. Để chúng ta tìm kiếm những sự trên trời, để sau này chúng ta cũng sẽ được phục sinh với Đức Kitô và hưởng nhan thánh của Ngài. Amen.
(Suy niệm của Flor McCarthy, SDB – Trích trong ‘Phụng Vụ Chúa Nhật và Lễ Trọng – Nguyên tác: New Sunday & Holy Day Liturgies – Chuyển ngữ: Thiên Phúc)
Tin Mừng Ga 20,1-9 – Khi phát hiện ra ngôi mộ trống của Đức Giêsu, các môn đệ bắt đầu thấu hiểu những điều mà Kinh Thánh đã báo trước.
DẪN NHẬP VÀ SÁM HỐI
Lễ Phục Sinh là một ngày lễ trong lịch Phụng vụ của Giáo Hội. Đức Giêsu đã chế ngự được sự chết, không chỉ cho bản thân Người, mà còn cho tất cả chúng ta nữa. Niềm vui của Lễ Phục Sinh tràn ngập trên toàn trái đất, niềm vui vì sự chết đã bị khuất phục.
Lạy Chúa Giêsu, thông qua ân sủng sự sống lại của Người, Chúa chứng tỏ cho chúng con rằng ánh sáng còn mạnh mẽ hơn cả bóng tối. Lạy Chúa, xin thương xót chúng con.
- Chúa chứng tỏ cho chúng con rằng điều tốt đẹp còn mạnh mẽ hơn cả sự dữ. Lạy Chúa Kitô, xin thương xót chúng con.
- Chúa chứng tỏ cho chúng con rằng sự sống còn mạnh mẽ hơn cả cái chết. Lạy Chúa, xin thương xót chúng con.
ĐỀ TÀI CÁC BÀI ĐỌC
Bài đọc 1 (Cv. 10, 34a. 37-43) Chúng ta được nghe một phần bài giảng đầu tiên của Thánh Phêrô.
Bài đọc 2 (C1. 3, 1-4): Thông qua Phép Rửa Tội của mình, chúng ta đã được chia sẻ sự sống lại của Đức Kitô, theo môt cách thức mầu nhiệm và bí ấn.
Tin Mừng (Ga 20, 1-9): Khi phát hiện ra ngôi mộ trống của Đức Giêsu, các môn đệ bắt đầu thấu hiểu những điều mà Kinh Thánh đã báo trước, nghĩa là Người sẽ được sống lại từ cõi chết.
CHÚ THÍCH THÁNH KINH
Bài đọc từ sách Công Vụ Tông đồ là một phần bài giảng đầu tiên của Thánh Phêrô. Trong đó, ngài tóm tắt sứ vụ của Đức Giêsu, đã lên đến tột đỉnh trong sự chết của Người. Nhưng sứ vụ của Ngươi không kết thúc ở đó – Thiên Chúa đã cho Người sống lại, cho phép một số nhân chứng được nhìn thấy Người. Thánh Phêrô là một trong những nhân chứng đó. Ngài tiếp tục công bố rằng Đức Giêsu chính là Đấng mà tất cả các ngôn sứ đã nói đến, nghĩa là Đấng Mêsia. Tất cả những ai tin tưởng nơi Người, thì các tội lỗi của họ đều sẽ được tha thứ.
Tin Mừng kể lại việc phát hiện ra ngôi mộ trống. Tự thân ngôi mộ trống (với những mảnh khăn liệm được xếp gọn) không phải là bằng chứng trực tiếp của sự sống lại. Tuy nhiên, điều đó lại là bước đầu tiên hướng tới việc xác lập sự thật rằng Đức Giêsu đã vượt qua cái chết và chuẩn bị cho các môn đệ gặp gỡ Chúa sống lại.
Nhiều Bài đọc của chu kỳ Phục Sinh đều có ý muốn dạy dỗ những người tân tòng theo lối sống của người Kitô hữu. Bài đọc 2 hôm nay và Bài đọc thay thế là những ví dụ hay. Do đó, mùa Phục Sinh cung cấp cho chúng ta một cơ hội để suy niệm về ý nghĩa của việc được trở thành những thành viên đã được rửa tội của Thân Thể Đức Ki-Tô.
Mỗi năm, vào ngày Chúa Nhật Phục Sinh, hàng chục ngàn khách hành hương tụ họp tại Quảng Trường Thánh Phêrô ô Rôma, để được lãnh nhận Phép Lành Phục Sinh của Đức Thánh Cha. Đây là một cơ hội tuyệt vời, bởi vì người kế vị Thánh Phêrô công bố thông điệp Phục Sinh: “Đức Kitô đã sống lại, Allêluia”. Ngài đang làm điều mà Thánh Phêrô đã làm trong ngày lễ ‘Phục Sinh đầu tiên – ngài đang xác nhận lòng tin của các tín hữu. Và có thể chắc chắn rằng điều này xác nhận lòng tin của những người có dịp may được hiện diện tại đó.
- Phêrô đang làm điều mà Chúa đòi hỏi nơi ông trong bữa Tiệc Ly, khi Người nói: “Simon, Simon ơi, kìa Satan xin được sàng anh như sàng gạo, nhưng Thầy đã cầu nguyện cho anh, để anh khỏi mất lòng tin. Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho các anh em của anh nên vững mạnh” (Lc 22 1 31-32).
- Phêrô phải củng cố lòng tin nơi các anh chị em của ông! Khi chúng ta xem xét cách thức ông hành động trong suốt cuộc Thương Khó, thì dường như ông có vẻ là người xa lạ. Làm thế nào một người có lòng tin không kiên định như vậy, mà lại xác nhận được lòng tin cho bất cứ ai? Chúng ta hãy nhớ lại một cách ngắn gọn hành động của ông trong đêm Đức Giêsu bị bắt.
Chúng ta vẫn nhớ những lời nói can đảm của ông trong bữa Tiệc Ly: “Thưa thầy, ngay cả khi mọi người đều mất lòng tin vào Thầy, thì con sẽ không bao giờ mất lòng tin vào Thầy”, ông thực sự chân thành khi nói những điều đó. Ông nghĩ rằng mình can đảm và mạnh mẽ. Nhưng chỉ một lúc sau, khi Đức Giêsu cảm thấy đau buồn, cô độc và sợ hãi trong vườn cây dầu, Người đã yêu cầu Phêrô canh thức với Người, nhưng ông vẫn không thể nào làm được điều đó – ông đã lăn ra ngủ vùi. ông đã bỏ mặc Đức Giêsu phải uống chén đắng một mình. Điều tệ hại hơn đã phải đến.
Một lúc sau, trong đêm hôm đó, nơi sân nhà của vị thượng tế, có người quay sang Phêrô và nỏi “Thế chẳng phải ông là một trong những kẻ thuộc về ông Giêsu đó sao? Chẳng phải ông đã cùng trong vườn với ông ta sao?” Và điều gì xảy ra? Không phải là một lần, mà đến ba lần, Phêrô đã chối Đức Giêsu, ông chối rằng mình chưa từng bao giờ biết Người. Thế rồi gà gáy. Đến lúc đó, Đức Giêsu quay lại nhìn Phêrô và ngay tức khắc, Phêrô nhận ra được điều mình đã làm – ông đã chối không quen biết chính người bạn của mình. Rồi ông đi ra ngoài và khóc lóc thảm thiết.
Đó là giây phút thấp hèn nhất trong cuộc đời ông. Ông đã nhận ra được một sự thật rất đau lòng về bản thân. Ông không thể mạnh mẽ, không thể can đảm hoặc quảng đại như ông đã nghĩ về mình. Nhưng Đức Gỉêsu không hề coi ông là đồ bỏ đi. Người đã nhìn thấy trước tất cả điều này. Thậm chí Người còn ngăn cản điều đó nữa.
Nhưng Người vẫn tiếp tục tin tưởng nơi ông. Người biết rằng có một khía cạnh khác tốt đẹp hơn nơi Phêrô. Sau khi sống lại, Người đã phục hồỉ lại một Phêrô khôn ngoan hơn và khiêm tốn hơn ngay tại nơi mà Người đã từng ở trước đây và đặt ông làm viên đá mà trên đó, Người sẽ xây dựng Giáo Hội của Người. Và Phêrô đã trở nên người tốt lành, ông được phục hồi và tiếp tục củng cố lòng tin cho những anh chị em trong cộng đoàn. Chính ông là người đã dẫn dắt các Tông đồ, trong việc làm chứng về sự sống lại. (Bài đọc 1). Chính ông là người quy tụ lại những kẻ đi theo Đức Giêsu vốn đã bị tản mác. Chính trên nền tảng lời chứng của ông, mà cả cộng đoàn đều trầm trồ: “Chúa đã sống lại thật rồi và Người đã hiện ra với ông Phêrô”.
Ông Phêrô được gọi là một vị thánh đã từng vấp ngã. Ông được nhiều người quý mến, chắc hắn là bởi vì nhược điểm của ông làm cho chúng ta cảm thấy gần gũỉ với ông. Sự can đảm không đáp ứng được cho tất cả chúng ta. Cuối cùng, tất cả chúng ta đều chỉ là những con người hay chết, không nhất quán trong lòng tin của mình. Nhưng chúng ta không được phán xét bản thân mình và ngườỉ khác qua những sai sót có tư cách nhất thời, nhưng là qua lời cam kết đối với lòng tin của mình trong cả một thời gian dài.
Chính Đức Giêsu đã xác nhận lòng tin cho Phêrô. Cũng chính Đấng sống lại đã xác nhận lòng tin của chúng ta. Chúng ta là một cộng đoàn của những kẻ tin, mà lòng tin phổ biến của những kẻ tin thì củng cố lòng tin của mỗi cá nhân.
Đôi khi, chúng ta ghen tị với các Tông đồ và các môn đệ đầu tiên. Chúng ta cho rằng họ có lợi thế hơn tất cả các Kitô hữu sau này, bởi vì họ thực sự có mặt trong những sự kiện của Tin Mừng. Họ được tận mắt nhìn thấy Đức Giêsu, đôi bàn tay của họ đã được đụng chạm vào Người. Do đó, lòng tin thật dễ dàng đối với họ. Và chúng ta cho rằng cũng thật dễ dàng đối với chứng ta, nếu giống như các Tông đồ, chỉ cần cá nhân chúng ta có thể được gặp gỡ Đức Giêsu, hoặc gống như các môn đệ đầu tiên, chúng ta được nhìn thấy những phép lạ mà Người đã thực hiện cho chúng ta. Vâng, các môn đệ đầu tiên có lợi thế được tận mắt nhìn thấy Đức Giêsu. Nhưng phải chăng điều đó tạo ra bất cứ sự dễ dàng nào hơn cho lòng tin của họ? Khi nhìn vào Đức Giêsu, họ có thể nhìn thấy gì? Họ không thể nhìn thấy và không thể nhìn thấy được Thiên Chúa, bởi vì không ai ngay lập tức có thể nhìn thấy và nhận biết Thiên Chúa được. Nơi Đức Giêsu, họ chỉ nhìn thấy một con người có bề ngoài hình ảnh giống như họ. Nhưng khởi đi từ đó, để tin tưởng được rằng Người chính là Con Thiên Chúa, đòi hỏi một động tác vĩ đại của lòng tin.
Điều này giải thích cho sự kiện rằng có nhiều người đã từng được nghe Đức Gỉêsu nói và được nhìn thấy Người hành động, mà vẫn không hề có lòng tin nơi Người. Ngay cả chính bản thân các Tông đồ, đã từng được ở với Người ngay từ đầu, mà vẫn tỏ ra chậm tin. Được nhìn thấy không nhất thiết là tin tưởng. Cú sốc do cuộc thương khó và cái chết trên thánh giá của Người gây ra, quả thật là quá lớn lao, đến nỗi làm cho các Tông đồ chậm tin tưởng vào nguồn tin tức về Sự Sống Lại. Khi Đức Giêsu hiện ra với họ vào buổi tối ngày Phục Sinh. Người đã khiển trách họ vì sự không tin tưởng và sự cứng lòng của họ, bởi vì họ đã không chịu tin lời những người đã được nhìn thấy Người, sau khi Người sống lại (Mc 16: 14).
Tất cả những điều này để lại cái gì cho chúng ta? Chúng ta không thể nhìn thấy Đức Giêsu theo cách thức mà các Tông đồ đã nhìn thấy Người. Chúng ta không thể hiện diện trong căn phòng nơi diễn ra các sự kiện của Tuần Thánh, khi Đức Gỉêsu ghé vào. Chúng ta không thể được xỏ tay vào những vết thương của Đức Giêsu. Chúng ta không thể được nhìn vào khuôn mặt của Người và nói “Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con”. Chúng ta phải sống bằng lòng tin, chứ không phải bằng sự nhìn thấy. Tuy nhiên, nếu tin tưởng nơi Đức Giêsu, thì chúng ta phải nhìn thấy Người bằng một cách nào đó. Nhưng bằng cách nào để những người như chúng ta có thể nhìn thấy Đức Giêsu? Chúng ta phảỉ làm gì, để có được lòng tin?
Chúng ta là những môn đệ gián tiếp. Mà vì là những môn đệ gián tiếp, nên mọi sự đều khó khăn hơn theo cách thức nào đó, nhưng lại dễ dàng hơn theo cách khác. Mọi sự đều khó khăn hơn, bởi vì 20 thế kỷ đã trôi qua, kể từ khi Đức Giêsu bước đi trên trái đất này. Nhiều lớp bụi đã phủ lên, ánh sáng đã bị phai mờ. Nhưng về khía cạnh tích cực, khái niệm đó trở nên “tự nhiên” theo thời gian, và vì thế, theo cách thức nào đó, lại trở nên dễ dàng hơn để tin. Nhưng đến khi mãn thời, thì về cơ bản, tất cả các môn đệ đều như nhau – tất cả đều phải làm một cú nhảy của lòng tin. Chúng ta trở nên những người môn đệ thông qua lòng tin.
Các bạn bè của Đức Giêsu đã được nhìn thấy và nghe tiếng Người nói, chỉ một thời gian ngắn sau ngày Phục Sinh, nhưng cuộc sống của họ đã được hoàn toàn thay đổi. Và bằng cách chia sẻ lòng tin của họ, cuộc sống của chúng ta cũng sẽ được thay đổi. Chúng ta sẽ có khả năng bước đi trong niềm hy vọng, bởi vì chúng ta biết rằng lòng tốt sẽ chỉến thắng sự dữ, và sự sống sẽ chiến thắng cái chết, bởi vì Đức Giêsu đã sống lại.
NHỮNG CÂU CHUYỆN KHÁC
- Viktor Frankl đã trải qua 3 năm tại Auschwitz. Anh vẫn còn sống sót, mặc dù vợ và gia đình của anh đều đã chết. Anh kể lại rằng vào một ngày kia, liền sau khi được phóng thích khỏi trại giam, anh đã đi bộ xuyên suốt vùng đồng quê, hướng về khu phố chợ, cách trại giam vài dặm đường. Cánh đồng cỏ trổ đầy hoa. Những con chim chiền chiện hót vang trong khi bay vào bầu trời. Suốt nhiều dặm khắp chung quanh đó, anh không nhìn thấy một người nào, không có gì cả, ngoại trừ mặt đất và bầu trời bao la, tiếng hót của những con chim chiền chiện, và sự thoáng đãng của không gian. Anh dừng chân lại, nhìn ra chung quanh mình, rồi ngước mắt nhìn lên bầu trời trong xanh. Thế rồi anh quỳ gối xuống cám ơn Thiên Chúa, vì đã được phóng thích. Trong khi cầu nguyện, một câu nói chợt nảy đến trong anh, diễn tả được cảm giác mà anh đang có: “Tôi đã kêu cầu Thiên Chúa từ nơi nhà tù chật hẹp của tôi, và Người đã đáp lại trong sự tự do của không gian”. Anh không thể nói được là mình đã quỳ gối tại đó trong bao lâu, miệng còn lập đi lập lại câu nói này. Nhưng sau này, anh kể “Trong ngày hôm đó và ngay tại thời điểm đó, cuộc sống mới của tôi bắt đầu. Tôi tiến triển từng bước một, cho đến khi một lần nữa, tôi được trở thành một con người.
Chúng ta không thể tách biệt niềm vui mà Frankl đã cảm nhận được ngày hôm đó, trong một cánh đồng phủ đầy hoa, với nỗi đau khổ mà anh đã trải qua trong trại giam. Trên thực tế, niềm vui này sẽ không có ý nghĩa, nếu trước đó, không xảy ra nỗi đau khổ. Tương tự như vậy, chúng ta không thể tách biệt sự sống lại của Chúa Giêsu với cuộc thương khó và cái chết của Người. Không thể tách biệt vinh quang của Người với nỗi đau đớn của Người. Mặc dù một cách chậm chạp, nhưng các Kitô hữu tiên khởi đã thấu hiểu rằng cuộc thương khó và cái chết của Đức Giêsu chính là cách để Người đi vào trong vinh quang của Người.
Chúng ta không thể có được ngày Chúa Nhật Phục Sinh, mà không có ngày Thứ Sáu Tuần Thánh. Nhưng khi đang trải qua ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, thì chúng ta nên nhớ đến ngày Chúa Nhật Phục Sinh.
- Sáng ngày Chúa Nhật Phục Sinh, khi các nữ môn đệ lên đường đi ra viếng mộ Đức Giêsu, thì họ rất thắc mắc rằng: Ai đã lăn tảng đá lớn đặt ở lối đi vào mộ?
Có một người đàn ông đã cãi nhau với cha của mình, hậu quả là suốt mấy năm trời, anh ta không hề nói chuyện với ông cụ, mặc dù hai cha con chỉ sống cách xa nhau vài dặm đường. Anh ta là người con trai duy nhất; mẹ của anh đã rời bỏ gia đình. Vì thế hiện nay, ông cụ sống cô đơn một mình. Thế giới của ông càng ngày càng nhỏ bé và tối tăm hơn, với từng ngày trôi qua. Ông cụ chưa chết đi, nhưng về mặt ý nghĩa, thì ông cụ đã như ở trong mộ rồi.
Chúng ta kinh ngạc về năng quyền mà Đức Giêsu để cho kẻ chết sống lại, quả thật đứng là như thế. Chẳng hạn, người con trai trong câu chuyện trên có thể lăn tảng đá ra khỏi ngôi mộ của người cha. Bằng một lời nói hoặc một cử chỉ, anh ta có thể giải thoát ông cụ khỏi ngôi mộ của nỗi cô đơn và tuyệt vọng của ông. Và bằng cách giúp đỡ người cha, anh ta cũng sẽ giúp đỡ được chính bản thân mình. Đây là một trong những cách đền bù đáng quý của cuộc sống, mà chúng ta không thể làm phấn chấn tinh thần cho người khác, nếu chúng ta không biết cũng tự gây phấn khởi cho chính bản thân mình.
14. Chúa đã sống lại! Halleluia
(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP.)
Trong suốt Mùa Chay, nhất là Tuần Thánh, đỉnh cao là đêm Vọng Phục Sinh, Chúng ta được Giáo Hội qua các nghi thức cử hành, mời gọi chúng ta hướng về Quê Trời, cởi bỏ con người cũ, mặc lấy con người mới là chính Đức Kitô. Từ bỏ tội lỗi để sống xứng đáng là con cái Chúa. Ra khỏi bóng tối để đi vào Ánh Sáng. Những ý nghĩa này, đã được các nghi thức tối hôm qua diễn tả thật rõ nét. Thánh lễ giờ đây, chúng ta được Giáo Hội mời gọi hãy hân hoan hát lên bài ca “Chúa Đã Sống Lại! Halleluiya!” và hãy loan tin vui này đến tận cùng trái đất. Nhưng điều quan trọng là làm sao chúng ta tin? Làm sao chúng ta dám loan truyền Chúa đã sống lại? Dựa vào đâu để xác tín điều đó?
- Ngôi mộ bị bỏ trống?
Bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe, thuật lại sự kiện Chúa Phục Sinh. Bắt đầu từ việc bà Maria Mácđala đi ra mộ, mang theo thuốc thơm để sức xác Chúa. Khi tới nơi, bà ngỡ ngàng vì những gì hiện lên trước mắt bà. Tảng đã khổng lồ đã lăn ra khỏi mồ. Như vậy, theo linh tính, bà biết rằng xác Chúa không còn trong đó. Phải chăng người ta đã mang xác Chúa đi chỗ khác? Có thể là do một hoặc nhiều người đã lấy cắp xác Chúa? Bà liền chạy về báo cho các môn đệ, và Phêrô cùng với Gioan đã chạy tới, nhưng tiến thêm một bước nữa, cả hai ông đều vào và thấy khăn vải quấn người Đức Giêsu cũng như khăn che đầu vẫn còn đó. Một trong hai ông đã tin, đó là Gioan. Sự kiện ngôi mộ trống đã rõ ràng. Chắc chắn không còn xác Đức Giêsu trong đó. Nhưng Chúa đã sống lại hay bị mang đi hoặc bị đánh cắp? Tin Mừng cho chúng ta thấy có những suy nghĩ trái chiều. Maria Mácđala thì cho rằng: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để người ở đâu”. Với các Kinh Sư, Luật Sĩ, Thượng Tế…và những kẻ chủ mưu giết Đức Giêsu, sau khi nghe tin Chúa đã sống lại thì đã dàn dựng một vở kịch nhằm vu khống cho các môn đệ, đồng thời bảo các lính canh thế này: “Ban đêm đang lúc chúng tôi ngủ, các môn đệ của hắn đã đến lấy trộm hắn đi. Nếu sự việc này đến tai quan Tổng trấn, chính chúng tôi sẽ dàn xếp với quan và lo cho các anh được vô sự” (Mt28:13-15).
Tuy nhiên việc phao tin là các môn đệ lấy cắp xác Đức Giêsu không khả tín cho lắm vì những lý do:
– Các môn đệ là những người ít học, đơn sơ chất phác. Những người chủ mưu giết Đức Giêsu thì có cả một kế hoạch (x. Mt 27, 62-66; 28,13-15).
– Khả năng chuyên môn của các môn đệ là chài lưới, thu thuế…Còn đội lính canh giữ Đức Giêsu thì tinh nhuệ và sắc bén (x. Mt 27, 62 – 66).
– Các môn đệ đang trong tình trạng sợ sệt, không thể nào lấy cắp xác Chúa mà vẫn ung dung xếp những giải khăn gọn gàng được (x. Ga 20:18-19).
– Các môn đệ là những người thụ động. Lính canh là những người chủ động…
Như vậy, không có thể bày đặt ra chuyện Chúa đã sống lại để rồi lừa dối được. Gioan đã hiểu điều đó nên ông đã tin.
Tuy nhiên, nếu chỉ có chứng cứ về ngôi mộ trống thì không thuyết phục cho lắm. Sự kiện này chỉ có tính cách khai mở và là dấu chỉ của sự phục sinh mà thôi. Bằng chứng cho thấy vẫn còn nhiều giả thiết trái ngược nhau được đưa ra. Vậy, chúng ta còn dựa vào đâu nữa?
- Những lần Đức Giêsu hiện ra và những lời Đức Giêsu đã báo trước
Đức Giêsu sống lại, Ngài đã hiện ra với rất nhiều người, có những lúc trong nhà, trên đường, ngoài bãi biển. Trong số những người được Chúa hiện ra, chúng ta gặp những tên tuổi và những nhóm người như: hiện ra cho Maria Mácđala (x. Ga 20, 11- 18); với các phụ nữ đi ra viếng mồ Ngài (x. Mt 28,9-10; Mc 16,9; Ga 20,11-18); hiện ra với 2 môn đệ trên đường về Emau (x. Mc 16,12-13; Lc 24,13-35); hiện ra với các môn đệ khi các ông đang họp kín, trong đó có Tôma (x. Ga 20,19-29); bên bờ hồ Giênêdarét (Ga 21); phép lạ đánh cá (x. Ga 21, 1- 14).v.v… ; và hiện ra tại Galilê, sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng (x. Mt 28,16-20; Mc 16: 14 -18; Lc 24: 36 -49; Ga 20: 19 -23; Cv 1:6-8).
Những lần hiện ra, có những nhận thức khác nhau, và việc nhận thức này được thực hiện theo nhiều mức độ khác nhau:
– Nhận ra khuôn mặt Đức Giêsu (x. Ga 20, 20.27);
– Nghe thấy những gì Ngài nói (x. Ga 20,16);
– Những hành động Chúa làm (x. Lc 24, 35);
– Hiểu Kinh Thánh (x. Lc 24,27.45).
Mặt khác, đây chính là sáng kiến từ phía Đức Giêsu: Ngài đến gặp họ (x. Mt 28,9); Ngài tiến lại gần các môn đệ, đến ở giữa họ, hiện ra với họ (x. Lc 24,15), đón gặp họ, cùng đi với họ, và, ở lại với họ (x. Lc 20,14;21,4).
Sự kiện Đức Giêsu hiện ra và việc nhận ra Ngài đã được tông đồ Tôma đáp lại cách tuyệt đối sau khi đã sỏ ngón tay vào lỗ đinh, thọc bàn tay vào cạnh sườn: “lạy Chúa tôi, lạy Chúa của tôi” (Ga 20,28). Mặt khác, Đức Giêsu còn ra dấu hiệu về việc làm chứng và sứ vụ. Đồng thời, những lần hiện ra, Ngài còn hứa hẹn và loan báo sẽ trao ban Chúa Thánh Thần đến để trợ giúp, đồng hành với các ông trong sứ vụ.
Cuối cùng, Đức Giêsu đã mở lòng trí các ông, để các ông nhớ lại tất cả những điều đã được báo trước trong Kinh Thánh và chính Ngài đã nói cho các ông trước khi lên Giêrusalem để chịu chết: “Thày đi Giêrusalem, chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại” (Mt 16, 21).
Các bằng chứng đã rõ. Chúng ta không thể không tin được. Chỉ có cố chấp và trai lì trong ích kỷ, tội lỗi…thì mới không tin mà thôi.
Như vậy, sự kiện Đức Giêsu sống lại là một biến cố lịch sử, với những chứng từ lịch sử được tất cả bốn sách Tin Mừng ghi lại: ngôi mộ trống, khăn liệm xếp ngay ngắn gọn gàng, Đức Giêsu đã nhiều lần hiện ra cùng ăn uống và đàm đạo với các môn đệ, sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng, và hứa sẽ đồng hành với các môn đệ mọi ngày cho đến tận thế qua việc trao ban Chúa Thánh Thần, và điều quan trọng nhất đó là những lần Ngài đã báo trước.
- Sự kiện Đức Giêsu sống lại và niềm tin của chúng ta
“Chúa Đã Sống Lại! Halêluiya!” đó là tiếng hô vui mừng của Phêrô, của Gioan, của các tông đồ…, và của mọi thế hệ Kitô hữu. Đó là niềm tin của Giáo Hội hơn 2000 năm qua, là Tin Mừng trọng đại không chỉ cho các môn đệ Đức Giêsu mà thôi, nhưng còn cho tất cả mọi người, mọi dân tộc, bởi vì: “Nếu Đức Kitô đã không sống lại, chúng ta là những người khốn khổ nhất trong mọi người” (1Cr 15, 19), và niềm tin của chúng ta trở nên hão huyền, lời rao giảng là vô cớ. Nhưng Ngài đã sống lại và đã phục sinh tâm hồn chúng ta, biến chúng ta thành con người mới: “Nếu Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết ngự trong anh em, thì Đấng đã làm cho Đức Giê-su sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới” (Rm 8, 11). Đây quả là Tin Mừng, và Tin Mừng đó phải được vang xa đến tận chân trời góc biển. Cái chết không còn là tiếng nói cuối cùng, bởi vì sau sự chết là sự sống lại, qua đau khổ là vinh quang. Sự kiện Chúa Phục Sinh, đem lại cho chúng ta niềm hy vọng cũng được Phục Sinh như Ngài.
Giờ đây, niềm tin vào Đức Giêsu Phục sinh lại một lần nữa được chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua Kinh Tin Kính: tôi tin Đức Giêsu […] Đấng đã “chịu nạn đời quan Phongxiô Philatô, chịu đóng đanh trên cây Thánh Giá, chết và táng xác, xuống ngục tổ tông, ngày thứ ba bởi trong kẻ chết sống lại; lên trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha phép tắc vô cùng; ngày sau bởi trời lại xuống phán xét kẻ sống và kẻ chết.”. Đây là niền tin của Giáo Hội và của mỗi chúng ta. Chúng ta hãnh diện, tự hào và tuyên xưng đức tin ấy cùng với Giáo Hội và trong Giáo Hội mà chúng ta là thành phần của Giáo Hội ấy. Amen.
(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển, S.S.P.)
(Lễ Đêm Phục Sinh – St 1,1-2,2; St 22,1-8; Xh 14,15-15,1a; Is 54,5-14; Br 3,9 – 15.32;4,4; Ed 36,16-17a.18-28; Rm 6,3-11; Mc 16, 1-8)
Thánh Phaolô dạy cho chúng ta biết rằng: “Nếu Đức Kitô đã không trỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng” (x. 1Cr 15,14).
Quả đúng như vậy: Đức Giêsu đã sống lại từ cõi chết. Ngài đã chiến thắng cũng như tiêu diệt bóng tối sự dữ và sự chết qua việc sống lại huy hoàng, để mở đường cho những ai tin cũng được sống lại như Ngài đã sống lại.
Đây là niềm tin và hy vọng tuyệt đối của tất cả chúng ta. Vì thế, đêm hôm nay được gọi là Đêm Hồng Phúc, Đêm Cứu Độ, Đêm Ánh Sáng, Đêm của Sự Sống. Đêm Mẹ của các đêm. Toàn bộ nghi thức phụng vụ mà chúng ta đang cử hành đều diễn tả những tâm tình trên cách sống động và sốt sắng, để đưa mỗi người chúng ta vào trong mầu nhiệm thánh, mầu nhiệm cứu chuộc.
Khởi đi từ việc Giáo Hội cử hành nghi thức thắp lửa Nến Phục Sinh. Đây là nghi thức làm toát lên vai trò của Đức Giêsu chính là Ánh Sáng chiếu soi thế gian. Ngài đến khai mở và dẫn đưa nhân loại thoát ra khỏi bóng đêm của tội lỗi để bước vào miền ánh sáng cứu độ.
Khi đã đi ra khỏi bóng đêm của cái chết để bước vào cõi sống, chúng ta hãy cùng với các thần thánh trên trời, nhân loại dưới thế và toàn thể vũ trụ hân hoan công bố Tin Mừng Phục Sinh và cùng nhau tạ ơn Thiên Chúa (x. Exsultet).
Tiếp theo, Mẹ Giáo Hội cho chúng ta đọc lại những bài sách thánh quan trọng trong lịch sử cứu chuộc, để cảm nhận được tình thương, sự trung tín của Thiên Chúa trên dân của Người như thế nào! Ngõ hầu giúp chúng ta xác tín mạnh mẽ rằng: Thiên Chúa – Đấng giàu lòng thương xót, chính Người là chủ tể trong toàn bộ lịch sử cứu độ của dân Người.
Đỉnh cao của lòng xót thương ấy chính là việc: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một để những ai tin vào Con của Người thì khỏi phải hư mất, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16).
Thế nên, sứ mạng của Đức Giêsu đến trong trần gian này là để cứu chuộc và khai mở cho nhân loại biết đích xác con đường cứu chuộc ấy là con đường tình yêu. Đây là con đường bản lề để dẫn tới mầu nhiệm phục sinh.
Không chỉ nói và dạy, nhưng Đức Giêsu còn đích thân khai mở con đường ấy bằng chính cuộc khổ nạn và phục sinh của mình.
Như vậy, nếu Đức Giêsu chết mà không phục sinh, hẳn tất cả những gì đã loan báo về Ngài trước đó đều vô hiệu, những Giáo Huấn của Ngài trở nên phù phiếm, lời rao giảng của các Tông đồ trở thành chiêu trò lừa bịp, và chúng ta trở thành những kẻ mê muội, dại dột khi tin vào một con người đã chết mà không bao giờ sống lại.
Nhưng, Đức Giêsu – Con Thiên Chúa hằng sống, đã sống lại vinh quang, khiến cho tất cả những lời các ngôn sứ tiên báo nay ứng nghiệm. Nhất là lời chứng của các Tông đồ trở nên sự thật. Giáo Huấn của Giáo Hội trở nên vững chắc. Và, niềm tin của chúng ta tràn đầy hy vọng. Vì thế, giáo phụ Tertulianô đã phát biểu rất chính xác qua một câu Latinh ngắn gọn như sau: “Fiducia christianorum resurrectio mortuorum; illam credentes, sumus: Niềm hy vọng của người Kitô đặt ở nơi sự việc kẻ chết sống lại; chính vì tin như thế, mà chúng ta mới là Kitô hữu”; chỗ khác, thánh Phaolô dạy: “Khi Đức Kitô, nguồn sống của chúng ta, xuất hiện, anh em sẽ được xuất hiện với Người và cùng Người hưởng phúc vinh quang” (Cl 3,4; x. 1Ga 3,2).
Đây thực sự là niềm vui khôn xiết tả và nguồn hy vọng được cứu độ trở nên tuyệt đối. Xin tạ ơn Chúa: Halêluiya.
Như thế, những gì diễn ra đêm nay không chỉ là một biến cố đã qua, nay được lặp lại, mà nó là một sự kiện sinh động đến sống động, bởi vì Đức Giêsu đã không kết thúc cuộc đời dương thế của Ngài bằng cái chết, nhưng là sự sống lại. Cái chết của Ngài không phải là dấu chấm hết, mà nó là một khởi đầu, khai mào cho một sự sống mới trong vinh quang dành cho tất cả những ai tin vào Người.
Sứ điệp mà Giáo Hội gửi đến cho mỗi người chúng ta hôm nay, đó là: Thiên Chúa luôn luôn yêu thương con người cách đặc biệt. Người đã, đang, và sẽ hiện diện cách trực tiếp, sống động trong lịch sử nhân loại cũng như nơi mỗi người chúng ta. Vì thế, chúng ta thuộc về con cái của sự sáng, sự sống, là những người đã được cứu chuộc nhờ Máu và Nước của Đức Giêsu.
Khi đã cảm nghiệm được tình thương của Thiên Chúa trên nhân loại và trong cuộc đời của chúng ta, đồng thời xác tín mạnh mẽ vào Đấng Phục Sinh, mỗi người chúng ta cần tu chỉnh cuộc sống của chính mình, để trở chứng nhân Tin Mừng Phục Sinh khi tin điều xác tín, sống những gì đã tin và thi hành những việc Chúa dạy. Những điều đó là:
Luôn biết xót thương người khác, nhất là những người tội lỗi, để tìm cách nâng họ dậy, khơi gợi niềm hy vọng, ngõ hầu họ cũng được tháp nhập vào đoàn Dân Thánh, dân được cứu chuộc.
Không bao giờ chấp nhận hay lựa chọn thói vô tâm, vô cảm, dửng dưng làm tinh thần chủ đạo trong những sinh hoạt và các mối tương quan hằng ngày của chúng ta.
Cần tránh cho xa những chân lý nửa vời, những trò đánh lận con đen, những thói ăn thời ở đợ, những hành vi tham nhũng, áp bức, bóc lột, gian dối, kiêu ngạo, ăn chơi đàn điếm…, đây là những bóng đêm của tội lỗi, là con đường dẫn đến sự chết, vì thế, chúng ta phải tránh cho xa kẻo mất ơn cứu độ.
Mong sao, trong Đêm Thánh, Đêm Hồng Ân cứu độ này sẽ đem lại cho chúng ta một luồng sinh khí mới, để mỗi người được tràn đầy niềm vui, hy vọng và bình an, hạnh phúc.
Lạy Chúa Giêsu, Đấng Phục Sinh, xin cho chúng con biết loan truyền Chúa chịu chết và tuyên xưng mạnh mẽ Chúa đã sống lại cho tới khi Chúa lại đến. Halêluiya. Amen.
16. Niềm tin chiến thắng sự sợ hãi
(Lễ Đêm Phục Sinh – Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Quốc Quang – Joshepus Quang Nguyễn)
Kết quả hình ảnh cho chúa phục sinh Với bài hát “niềm tin chiến thắng”, Nhạc sĩ Lê Quang viết rằng: “Tôi sẽ hát cho những niềm vui những nỗi buồn. Tôi sẽ hát cho giọt nứơc mắt lang trên môi ai. Đừng khóc nhé em! đừng buồn nhé anh, vì cuộc đời đau mãi chỉ có niềm vui, đâu mãi tươi sáng rạng ngời. Nhưng khi gặp khó khăn, đau đớn, buồn bã, nếu ta giữ một niềm tin, ta sẽ vượt qua và sẽ chiến thắng. Ngược lại, nếu thiếu niềm tin, ta dễ hoài nghi và luôn lo sợ, dễ thất vọng, chán chường, bỏ cuộc và dễ chiến bại”.
Thưa anh chị em,
Chính các tông đồ ngày xưa đã trải qua những giờ phút đen tối: Thầy chết, người ta lùng bắt, các ông thất vọng, sợ hãi, vì thiếu niềm tin vào quyền năng của Chúa và Lời Ngài. Hôm nay, “Vừa hết ngày sa-bát, bà Ma-ri-a Mác-đa-la với bà Ma-ri-a mẹ ông Gia-cô-bê, và bà Sa-lô-mê, mua dầu thơm để đi ướp xác Đức Giê-su. Sáng tinh sương ngày thứ nhất trong tuần, lúc mặt trời hé mọc, các bà ra mộ. Các bà bảo nhau: “Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mộ giùm ta đây? ” Nhưng vừa ngước mắt lên, các bà đã thấy tảng đá lăn ra một bên rồi, mà tảng đá ấy lớn lắm. Vào trong mộ, các bà thấy một người thanh niên ngồi bên phải, mặc áo trắng; các bà hoảng sợ” (Mc 16,1-5). Các bà sợ quá nên không thấy Chúa Giêsu Phục sinh hiện ra giữa các bà rõ ràng chàng thanh niên ấy là Chúa đứng sờ sờ ra đó. Sợ quá nên Vừa ra khỏi mộ, các bà liền chạy trốn, run lẩy bẩy, hết hồn hết vía. Các bà chẳng nói gì với ai và vẫn chưa tin Chúa đã sống lại. Tại sao các bà chưa tin? Vì một người mới bị giết chết, an táng trong mồ rõ ràng mà bây giờ lại đứng sờ sờ trước mặt các bà. Để củng cố đức tin, Chúa Giêsu bảo các bà: “Đừng hoảng sợ! Các bà tìm Đức Giê-su Na-da-rét, Đấng bị đóng đinh chứ gì! Người đã trỗi dậy rồi, không còn đây nữa. Xin các bà về nói với môn đệ Người và ông Phê-rô rằng Người sẽ đến Ga-li-lê trước các ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy Người như Người đã nói với các ông”.
Chúa Phục Sinh đã đem lại cho các tông đồ và những người phụ nữ niềm vui và niềm tin sắc đá. Họ đã bị lung lạc vì thấy Chúa Giêsu chết đau đớn nhục nhã trên thập gía, nay tìm lại được niềm tin vì thấy Ngài sống lại vinh quang. Các ngài đã buồn sầu lo sợ vì mất Thầy mình, nay được vui mừng vì gặp lại Thầy trong thân xác Phục Sinh. Niềm tin và niềm vui đó từ nay không bao giờ mất được nữa, vì Chúa Giêsu sẽ không bao giờ rời bỏ các môn đệ và các bà, và ở với họ mọi ngày cho đến tận thế. Cho nên, từ bây giờ dù gặp trăm ngàn khó khăn thử thách, họ vẫn vững tin rằng Chúa Giêsu Phục Sinh luôn đồng hành với mình để mình vượt lên chiến thắng mọi khó khăn như Thầy đã chiến thắng.
Chúa Kitô Phục Sinh không còn chết nữa. Ngài đang sống và hằng sống. Đối với Ngài, thời gian, không gian, không còn là cách trở. Nói khác đi, Ngài vẫn hiện diện với chúng ta y như là với các môn đệ và mấy người phụ nữ ngày xưa, có khi còn gần gũi thân thiết hơn nữa. Đặc Ngài đang sống để dù chúng ta có chết Ngài cũng làm cho ta sống lại. Chúa Phục Sinh luôn hiện diện trong ta qua Bí Tích Thánh Thể, khi chúng ta rước Ngài vào lòng Ngài sẽ làm cho đời ta bình an khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan. Ngược lại, chúng ta bỏ Ngài ra ngoài các biến cố trong đời vì luôn lo sợ không biết rõ những gì sẽ xảy ra trong cuộc sống và mình phải làm sao? Lo sợ vì bệnh lạ xuất hiện nhiều mà không có thốc chữa, sợ đi xe vì cháy nổ, sợ ăn thịt gia súc vì có hóa chất siêu nạt, lo sợ ăn rau quả vì có chất tăng trưởng, lo sợ vì gạo cao su, sợ gia đình bất hạnh vì con hư hỏng, hay ông ăn chả bà ăn nem… Nhưng điều đáng nói ở đây chính là việc đứng trước những lo âu hay đau khổ của cuộc sống, chúng ta dễ rơi vào cơn trống rỗng tâm linh đồng thời không tìm được ý nghĩa của cuộc sống. Điều nguy hiểm hơn chúng ta dễ cảm thấy mình như bị cô độc, dường Chúa như bỏ rơi.
Thật ra, Chúa luôn đồng hành và ở với chúng ta mỗi ngày cho đến tận thế, luôn nhìn thấy những băng khuâng lo lắng sợ hãi của ta, đồng thời giúp chúng ta nhìn sự hiện diện của Chúa Phục Sinh trong từng biến cố, từng thử thách, từng khổ đau, Ngài giúp chúng ta vượt khó, chiến đấu với những sợ hãi, vì Ngài quả quyết: “Chúng con đừng sợ, vì Thầy đã thắng thế gian”, nên chắc chắn chúng ta thắng vượt được khó khắn, đau khổ trước bóng tối của cuộc đời.
Lạy Chúa Giêsu phục sinh xin giúp chúng con luôn vững tin! Amen.
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu – Lễ Vọng Phục Sinh)
CON CHÚA PHỤC SINH – TRỜI ĐẤT MỚI
THẾ NHÂN THAY ĐỔI – XÁC HỒN VUI
Xét về bản tính nhân loại, văn sĩ trào phúng Mark Twain (Mỹ) nói: “Người ta không lúc nào thành thật hơn lúc nhận biết mình là kẻ dối trá” (A man is never more truthful than when he acknowledges himself a liar). Một kiểu nói khôi-hài-nhức-buốt. Khi còn mặc xác phàm, Chúa Giêsu đã xác định: “Sự thật sẽ giải phóng quý vị” (Ga 8:32). Được giải thoát là không còn lệ thuộc, không còn bị bất cứ thứ gì kìm kẹp. Đó là sự giải phóng (hoặc giải thoát) đích thực, chứ không phải loại giải phóng ảo theo kiểu “bánh vẽ” mà người ta vẫn hô hào, khoe khoang.
Sự giải thoát khá đa dạng, cụ thể và dễ nhận biết là “thoát khỏi lao tù” (dù đó là nhà tù lớn hay nhỏ). Tù nhân rất hạnh phúc khi được phóng thích. Bệnh nhân rất hạnh phúc khi được phục hồi. Người đang khát rất hạnh phúc khi được giải khát. Người mong chờ rất hạnh phúc khi được mãn nguyện. Và còn nhiều dạng hạnh phúc khác khi chúng ta được như ý. Nhưng người ta rất hạnh phúc khi được “cải lão hoàn đồng”, và chắc chắn không có hạnh phúc nào lớn hơn khi được “cải tử hoàn sinh”. Vậy mà chúng ta sẽ được tận hưởng loại hạnh phúc đặc biệt này, loại hạnh phúc mà chính Chúa Giêsu đã hứa ban: “Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14:3).
Theo tầm nhìn của nhân loại, Chúa Giêsu là người “thua cuộc”, thất bại ê chề, thế nhưng Ngài đã lật ngược thế cờ bằng cách phục sinh từ cõi chết, đúng như lời Ngài nói trước: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và ba ngày sau khi bị giết chết, Người sẽ sống lại” (Mc 9:31).
Đỉnh cao của Mùa Chay là Tuần Thánh, đỉnh cao của Tuần Thánh là Tam Nhật Vượt Qua. Tuần Thánh đa sắc màu mà lại thấm đậm nỗi buồn, thế nhưng đêm cuối tuần lại chan hòa niềm vui nối tiếp nỗi mừng. Vì thế, trong bài Công bố Tin mừng Phục sinh (Exultet), Giáo hội nhiều lần mời gọi mọi người “mừng vui lên!”, vì Đức Kitô “đã thay thế chúng ta trả nợ của Adam với Chúa Cha muôn thuở, và đã lấy máu hồng quý giá rửa sạch án tổ tông xưa”, và “vì đây là lễ vượt qua, lễ mà Chiên thật bị sát tế, trong máu Chiên môi miệng tín hữu được thánh hiến đêm nay”.
Hạnh phúc diệu kỳ “tỏa sáng” đêm nay, bởi vì đêm nay “là đêm mà cha ông chúng ta, là con cháu Israel, thoát ly Ai Cập xưa, Chúa đã cho tiến qua Biển Đỏ vẫn khô chân; là đêm nhờ ánh sáng cột lửa thiêng xóa tan mọi bóng tối nhân gian; là đêm mà hết những ai có lòng tin Chúa Kitô khắp trên trần gian, được cứu thoát hết các vết nhơ và tối tăm tội khiên, được ơn thiêng đưa về hợp đoàn cùng các thánh nhân; và “là đêm mà xiềng xích bị bẻ tung, Đức Kitô khải hoàn chiến thắng vinh quang”.
Và đặc biệt đêm nay còn là đêm hạnh phúc vô cùng bởi vì “nếu không được ơn cứu chuộc khỏi tội khiên, chúng ta sinh ra nào có ích chi!”. Thật kỳ diệu đối với phàm nhân: “Ôi nhiệm mầu thay! Lòng Yêu Thương của Chúa không ai hiểu thấu!”. Niềm vui đêm nay được tính theo cấp số nhân bởi vì “tội Adam đã được tẩy xóa chính nhờ sự chết Chúa Kitô!”. Vớ niềm vui tột đỉnh như vậy, Giáo hội đã gọi Tội Nguyên Tổ là “tội hồng phúc”, chính tội hồng phúc đó “đã ban cho chúng ta Đấng cứu chuộc rất cao sang”, và Giáo hội cũng gọi đêm nay là “đêm hồng phúc”, bởi vì đêm nay là “đêm nối kết trời đất”. Một “dấu cộng” tâm linh thật to lớn!
Thánh Vịnh gia xác định: “Lời Chúa phán quả là ngay thẳng, mọi việc Chúa làm đều đáng cậy tin. Chúa yêu thích điều công minh chính trực, tình thương Chúa chan hoà mặt đất. Một lời Chúa phán làm ra chín tầng trời, một hơi Chúa thở tạo thành muôn tinh tú” (Tv 33:4-6). Có đau khổ mới biết hạnh phúc ngọt ngào thế nào, và muốn vinh quang thì phải biết chịu đựng đau khổ. Đức Kitô đã đau khổ tột cùng nên mới được vinh quang, vì thế: “Hạnh phúc thay quốc gia được Chúa làm Chúa Tể, hạnh phúc thay dân nào Người chọn làm gia nghiệp” (Tv 33:12). Đồng thời chúng ta phải luôn cầu nguyện với Chúa: “Xin đổ tình thương xuống trên chúng con như chúng con hằng trông cậy nơi Ngài” (Tv 33:22). Lời cầu đó cũng chính là lời hứa của mỗi chúng ta thân thưa với Ngài – vị Chúa Tể càn khôn duy nhất.
Lạ lùng biết bao, chính câu hỏi của Thánh Phaolô cũng chính là câu trả lời: “Anh em không biết rằng khi chúng ta được dìm vào nước thanh tẩy, để thuộc về Đức Kitô Giêsu, là chúng ta được dìm vào trong cái chết của Ngài sao?” (Rm 6:3). Và rồi chính Thánh Phaolô đã giải thích rạch ròi: “Được dìm vào trong cái chết của Ngài là chúng ta đã cùng được mai táng với Ngài. Bởi thế, cũng như Ngài đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới” (Rm 6:4). Cụm từ “được dìm vào cái chết của Đức Kitô” cho thấy tình-trạng-thụ-động-hoàn-toàn-tín-thác, và đó chính là niềm hạnh phúc của chúng ta – những người tin nhận Đấng Cứu Thế Giêsu Kitô. Nghe có vẻ “ngược đời” lắm, chắc chắn những người không có niềm tin Kitô giáo sẽ không thể hiểu nổi, thế nhưng đó lại là sự thật trăm phần trăm, vừa mặc nhiên vừa minh nhiên.
Tình trạng “được dìm vào cái chết của Đức Kitô” không chỉ là hạnh phúc mà còn là sự may mắn của chúng ta, bởi vì “chúng ta đã NÊN MỘT với Đức Kitô NHỜ ĐƯỢC CHẾT như Ngài đã chết, thì chúng ta cũng sẽ NÊN MỘT với Ngài, NHỜ ĐƯỢC SỐNG LẠI như Ngài đã sống lại” (Rm 6:4). Việt ngữ “hay hơn” ngoại ngữ ở thể thụ động: cái gì “không tốt” thì nói BỊ, cái gì “tốt” thì nói ĐƯỢC. Và không chỉ vậy, “con người cũ nơi chúng ta đã bị đóng đinh vào thập giá với Đức Kitô, như vậy, con người do tội lỗi thống trị đã bị huỷ diệt, để chúng ta không còn làm nô lệ cho tội lỗi nữa” (Rm 6:6). Đó là cả một chuỗi kỳ diệu của cuộc đời người Công giáo.
Thật vậy, không kỳ diệu sao được, bởi vì bất kỳ “ai đã chết thì thoát khỏi quyền lực của tội lỗi” (Rm 6:7). Đúng như thế, “nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Kitô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người” (Rm 6:8). Thánh Phaolô xác quyết đó chính là NIỀM TIN của chúng ta. Từ 0 giờ đêm Thứ Năm rạng sáng Thứ Sáu Tuần Thánh, những kẻ thủ ác tưởng đã chiến thắng, và từ 3 giờ chiều Thứ Sáu Tuần Thánh, Tử thần cũng cho rằng nó đã chiếm ưu thế, nhưng rồi hắn đành “bó tay” từ Đêm Vọng Phục Sinh: “Đức Kitô đã sống lại từ cõi chết thì không bao giờ Ngài chết nữa, cái chết chẳng còn quyền chi đối với Ngài. Ngài đã chết là chết đối với tội lỗi, và một lần là đủ” (Rm 6:9-10).
Sự thật minh nhiên: Đức Giêsu đã thực sự sống lại, đúng như lời Ngài đã nói trước. Ngài sống cho Thiên Chúa, và chắc chắn chúng ta cũng cùng sống lại với Ngài. Còn hạnh phúc nào hơn? Đó là điều “trên cả tuyệt vời”. Tuy nhiên, không thể cứ “khơi khơi”, không thể cứ “thấy sang bắt quàng làm họ”, hoặc sống kiểu “cục muối cắn đôi, cục đường ăn cả”, mà phải có điều kiện “ắt có và đủ”, nghĩa là ai đã sống Mùa Chay thì mới có thể cảm nhận trọn vẹn niềm vui phục sinh, và chỉ những ai đã “dám chết cho tội” thì mới xứng đáng cùng phục sinh với Đức Kitô: “Hãy coi mình như đã chết đối với tội lỗi, nhưng nay lại sống cho Thiên Chúa, trong Đức Kitô Giêsu” (Rm 6:11).
Ngay thời điểm vừa hết ngày Sabát, bà Maria Mácđala với bà Maria – mẹ ông Giacôbê, và bà Salômê, họ mua dầu thơm để đi ướp xác Đức Giêsu. Đó là sáng tinh sương ngày thứ nhất trong tuần, lúc mặt trời hé mọc, các bà ra mộ. Họ ngạc nhiên: “Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mộ giùm ta đây?” (Mc 16:3), vì tảng đá lấp cửa mộ là tảng đá lớn lắm, có thể vài đàn ông lực lưỡng mới có thể lăn ra nổi, thế mà họ vừa ngước mắt lên đã thấy tảng đá lăn ra một bên rồi. Ngạc nhiên này tiếp theo ngạc nhiên khác. Họ vào trong mộ thì thấy một người thanh niên ngồi bên phải, mặc áo trắng. Là phụ nữ “yếu bóng vía” nên họ hoảng sợ. Nhưng người thanh niên liền trấn an: “Đừng hoảng sợ!” (Mc 16:6a), rồi người thanh niên đó xác định: “Các bà tìm Đức Giêsu Nadarét, Đấng bị đóng đinh chứ gì! Ngài đã trỗi dậy rồi, không còn đây nữa. Chỗ đã đặt Ngài đây này!” (Mc 16:6b). Chắc chắn rồi, rõ ràng rồi. Thế mà những kẻ thủ ác, vốn tâm địa xấu xa, quen thói ăn không nói có, dám hối lộ cho đám lính một số tiền để chúng phao tin tào lao! (x. Mt 28:13-14). Những kẻ xấu đó không ai xa lạ, mà chính là các thượng tế lừa đảo.
Sau đó, chính người-thanh-niên-áo-trắng đó còn căn dặn họ thêm: “Xin các bà về nói với môn đệ Ngài và ông Phêrô rằng Ngài sẽ đến Galilê trước các ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy Ngài như Ngài đã nói với các ông” (Mc 16:7). Chắc lúc đó các bà nhà ta run như cầy sấy, sợ quá nên chẳng nói được lời nào. Thảo nào vừa nghe người thanh niên kia nói xong, “họ vừa ra khỏi mộ liền chạy trốn, run lẩy bẩy, hết hồn hết vía” (Mc 16:8a), thậm chí “chẳng nói gì với ai vì sợ hãi” (Mc 16:8). Thật hay mơ vậy ta? Thế là thế nào?
Ôi chao, thật tội nghiệp các chị em phụ nữ quá! Chiều Thứ Sáu, họ không sợ mà cứ lẽo đẽo tiễn Chúa Giêsu lên Đồi Can-vê như “đưa đám tang sống” và khóc hết nước mắt. Thế mà bây giờ, biết Chúa Giêsu đã sống lại, họ lại sợ hãi và chạy mất dép như ma đuổi. Phụ nữ là vậy, thông cảm! Việc cần quan tâm lúc này là: ĐỨC KITÔ ĐÃ PHỤC SINH. Hãy vui mừng lên – Alleluia!
Lạy Thiên Chúa hằng sinh và hằng hữu, tất cả là hồng ân vô biên của Ngài. Chúng con thật hạnh phúc được đắm mình trong Biển Hồng Ân Thương Xót vô biên của Ngài. Chúng con xin tạ ơn Thánh Phụ đã ban Thánh Tử Giêsu cho chúng con, xin trọn đời tạ ơn Đức Kitô đã cứu độ chúng con, và xin tạ ơn Thánh Linh luôn hướng dẫn chúng con trong mọi hoàn cảnh. Cúi xin Ba Ngôi gìn giữ, nâng đỡ và thánh hóa chúng con, đừng để chúng con phải thiếu vắng Chúa bao giờ. Xin cho mọi người cảm nhận được niềm vui phục sinh trong mọi hoàn cảnh của mình. Chúng con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu – Chúa Nhật Phục Sinh)
MỘ ĐÁ CHỨNG MINH ĐỨC CHÚA SỐNG LẠI
NHÂN GIAN LOAN BÁO TIN MỪNG PHỤC SINH
Chúa Giêsu đã phục sinh khải hoàn, tất cả tín nhân hân hoan hợp xướng “Alleluia!”, nhưng đồng thời cũng phải có trọng trách: “Anh em PHẢI CỞI BỎ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí Chúa đổi mới tâm trí anh em, và PHẢI MẶC LẤY con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện” (Ep 4:22-24). Hai mệnh lệnh “phải” rất quyết liệt!
Chúa Giêsu đã chiến thắng Tử Thần, niềm vui phục sinh đang tràn ngập lòng người, ánh sáng phục sinh đang chiếu tỏa chói ngời trên mỗi Kitô hữu. Chúng ta vô cùng vui mừng vì Đức Kitô đã sống lại thật và lòng chúng ta đầy tin tưởng nhờ Lời Chúa động viên: “Đừng sợ! Ta là Đầu và là Cuối. Ta là Đấng Hằng Sống, Ta đã chết, và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời; Ta giữ chìa khoá của Tử thần và Âm phủ” (Kh 1:17-18). Chúa Giêsu sống lại là lời xác định về niềm tin của chúng ta: XÁC LOÀI NGƯỜI SẼ SỐNG LẠI. Chắc chắn như vậy, nhưng phần chúng ta là phải cố gắng sống để hoàn tất lời hứa của Ngài: “Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14:3).
Thiên Chúa là ĐẤNG CÔNG CHÍNH (Tv 11:7; Tv 35:28; Ga 17:25) nên Ngài cũng CÔNG MINH CHÍNH TRỰC (Dcr 9:9b; Hc 5:3; Br 2:6; Br 2:9; Đn 9:14; Tv 7:18; Tv 9:9; Tv 11:7; Tv 25:8; Tv 67:5; Tv 146:7). Ngài còn là ĐẤNG CẦM QUYỀN SINH TỬ (Đnl 32:39; 1 Sm 2:6; Kn 16:13) nhưng Ngài lại chẳng thiên vị bất kỳ ai, như Thánh Phêrô xác quyết: “Quả thật, tôi biết rõ Thiên Chúa không thiên vị người nào” (Cv 10:34). Đó là điều chắc chắn, dĩ nhiên cũng chẳng loại trừ ai, bởi vì MỌI NGƯỜI ĐỀU BÌNH ĐẲNG TRƯỚC MẶT CHÚA. Thế nên chớ cậy quyền ỷ thế hoặc ảo tưởng mình “ngon” hơn người khác!
Nói về Đấng Phục Sinh, Thánh Phêrô giải thích một loạt: “Đức Giêsu xuất thân từ Nadarét, Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Ngài. Đi tới đâu là Ngài thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Ngài” (Cv 10:37-38). Rút kinh nghiệm sau lần lỡ chối bỏ Sư Phụ Giêsu của mình chỉ vì quá khiếp nhược, và rồi nhận biết sự thông cảm của Thầy khi Thầy quay lại nhìn mình (Lc 22:61), ông Phêrô “thót tim” khi thấy ánh mắt ấy “rất lạ”, vừa nhân từ vừa trách móc, nhẹ nhàng mà có sức xoáy vào sâu vào lòng người, nên ông đã “khóc hết nước mắt”, khóc vì biết mình yếu đuối và khốn nạn. Nhưng điều đó lại là đại phúc. Không biết khóc cho tội mình mới là khốn nạn đời đời.
Ngay sáng sớm, được mấy phụ nữ báo “tin nóng”, ông Phêrô cũng đã ba chân bốn cẳng chạy tới mộ, thế là chắc chắn rồi. Từ khi biết chắc Thầy Giêsu đã thực sự sống lại, ông Phêrô mạnh dạn nói một lèo, nói như chưa bao giờ được nói: “Còn chúng tôi đây xin làm chứng về mọi việc Ngài đã làm trong cả vùng dân Do Thái và tại chính Giêrusalem. Họ đã treo Ngài lên cây gỗ mà giết đi. Ngày thứ ba, Thiên Chúa đã làm cho Ngài trỗi dậy, và cho Ngài xuất hiện tỏ tường, không phải trước mặt toàn dân, nhưng trước mặt những chứng nhân Thiên Chúa đã tuyển chọn từ trước, là chúng tôi, những kẻ đã được cùng ăn cùng uống với Ngài, sau khi Ngài từ cõi chết sống lại. Ngài truyền cho chúng tôi phải rao giảng cho dân, và long trọng làm chứng rằng chính Ngài là Đấng Thiên Chúa đặt làm thẩm phán, để xét xử kẻ sống và kẻ chết. Tất cả các ngôn sứ đều làm chứng về Ngài và nói rằng phàm ai tin vào Ngài thì sẽ nhờ danh Ngài mà được ơn tha tội” (Cv 10:39-43). Chẳng còn thứ gì có thể khiến ông lo sợ như trước nữa. Ông đã biến đổi thành một con người hoàn toàn mới.
Trước đây, một Phêrô-năng-động-và-cương-trực (trước mặt đám côn đồ mà ông dám rút gươm chém đứt tai một người đầy tớ thầy thượng tế cũng “liều mạng” lắm chứ – Ga 18:10) đã biến thành một Phêrô-khiếp-nhược (chối Thầy khi chỉ có mấy đứa tớ gái chân yếu tay mềm – Mt 26:69-75; Mc 14:66-72; Lc 22:56 -62; Ga 18:15-18, 25-27). Thế nhưng sau khi Chúa Giêsu phục sinh, một Phêrô-hèn-nhát-và-nhu-nhược đã biến thành một Phêrô-mạnh-mẽ-và-can-đảm, lại dám nói thẳng nói thật như xưa. Đó chính là nhờ sự tác động của Chúa Thánh Thần, Đấng canh tân mọi sự.
Và rồi mỗi chúng ta cũng chẳng hơn gì Phêrô, cũng đã bao phen “chối” Chúa, thậm chí còn dám “bán” Chúa không văn tự. Nếu không tin cứ “sờ gáy” và thật lòng xét mình kỹ lưỡng mà xem. Nhưng dù chúng ta dã tâm với Ngài thì Ngài vẫn cho là “chuyện nhỏ”, và Ngài sẵn sàng “cho qua” hết, chỉ cần chúng ta thật lòng sám hối. Mặc dù tội lỗi và bất xứng, nhưng chúng ta hãy can đảm kêu gọi: “Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 118:1). Cả Thánh Vịnh 136 cũng lặp đi lặp lại 26 lần điệp ca này: “Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương”. Hãy vững lòng tin tưởng và tự thề hứa: “Tôi không phải chết, nhưng tôi sẽ sống, để loan báo những công việc Chúa làm” (Tv 118:21). Tại sao làm vậy? Đây là lý do minh nhiên:
Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ
Lại trở nên đá tảng góc tường
Đó chính là công trình của Chúa
Một công trình kỳ diệu vô thường
(Tv 118:22-23)
Với lòng nhiệt thành và sự ân cần, Thánh Phaolô căn dặn mỗi chúng ta: “Anh chị em đã được trỗi dậy cùng với Đức Kitô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh chị em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới. Thật vậy, anh chị em đã chết, và sự sống mới của anh chị em hiện đang tiềm tàng với Đức Kitô nơi Thiên Chúa” (Cl 3:1-3). Có lẽ sợ chúng ta nản chí sờn lòng nên Thánh Phaolô tiếp tục động viên: “Khi Đức Kitô, nguồn sống của chúng ta xuất hiện, anh chị em sẽ được xuất hiện với Ngài, và cùng Ngài hưởng phúc vinh quang” (Cl 3:4). Đó là lời hứa chắc chắn và là niềm tin bất tử của tất cả chúng ta – những người đã, đang và sẽ hành động vì Đức-Kitô-Phục-Sinh.
Đây là tường thuật của người-môn-đệ-Chúa-yêu: Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Maria Mađalêna đi đến mộ, thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ. Bà liền chạy về gặp ông Simôn Phêrô và người môn đệ Đức Giêsu thương mến.
Lo sợ và hoang mang, Cô Maria Mađalêna hốt hoảng thông báo: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ, chúng tôi chẳng biết họ để Ngài ở đâu” (Ga 20:2). Vì quá sợ bọn thủ ác mà ai cũng quên khuấy những gì Thầy mình đã nói trước. Con người thế đấy, nỗi sợ hãi khiến người ta hóa ngớ ngẩn. Nghe nói vậy, ông Phêrô và Gioan liền tức tốc chạy ra mộ, họ cùng chạy, chạy như bay. Nhưng chàng trai Gioan trẻ hơn nên chạy mau hơn ông Phêrô và đã tới mộ trước. Chàng Gioan cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào, vì lịch sự và vì “kính lão đắc thọ”.
Sau đó, ông Phêrô cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. Bấy giờ Gioan mới bước vào. Chàng Gioan “đã thấy và đã tin” (Ga 20:8). THẤY và TIN là hai động từ quan trọng. Thấy rồi mà không lòng tin thì cũng vô ích. Nếu thấy và tin rồi cũng chưa xong, mà còn có bổn phận phải làm chứng. Một “chiếc kiềng” vững chắc nhờ cả ba chân: Thấy – Tin – Thực Thi.
Dựa vào Kinh Thánh, chúng ta được biết rằng ĐỨC GIÊSU PHẢI TRỖI DẬY TỪ CÕI CHẾT. Nhưng trước đó, cả Phêrô và Gioan cũng chưa hiểu (Ga 20:9), dù cả hai ông đều là những đệ tử ruột của Chúa Giêsu. Thế nên người thời nay, tất nhiên không loại trừ mỗi chúng ta, cho rằng “không thấy thì rất khó tin” – theo kiểu thực nghiệm. Nhưng Chúa Giêsu lại xác định: “Phúc thay những người KHÔNG THẤY MÀ TIN!” (Ga 20:29). Không thấy mà vẫn tin, đó không phải là hồ đồ, mù quáng hoặc ảo tưởng, mà là đức tin do Thiên Chúa mặc khải.
Lạy Thiên Chúa uy linh cao cả, xin tạ ơn Ngài đã soi sáng cho chúng con nhận biết Ngài là Thiên Chúa duy nhất, nhận biết Đức Kitô là Đấng chịu chết và sống lại, xin ban thêm đức tin cho chúng con, xin giúp chúng con sống trọn niềm vui phục sinh ngay trên đường lữ hành trần gian này, đồng thời cũng giúp chúng con can đảm làm chứng nhân về Ngài trong suốt cuộc đời này. Chúng con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô Phục Sinh, Đấng cứu độ duy nhất của chúng con. Amen.
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Chuyện kể rằng… Tại một hội nghị tôn giáo, người ta đưa ra một câu hỏi thú vị: “Sau khi chết, thủ lĩnh tôn giáo của quý vị để lại di sản gì?”. Các vị lãnh đạo các tôn giáo lần lượt trả lời. Người thì nói di sản là chút “tro tàn”, người thì nói là “chút hài cốt”, người thì nói là “mấy cọng râu”, người thì nói là vật này hoặc vật nọ. Cuối cùng, vị lãnh đạo Công giáo trả lời: “Chúa Giêsu của chúng tôi để lại một di sản là NGÔI MỘ TRỐNG”.
Thật kỳ diệu, “ngôi mộ trống trơn” đó lại chứa đựng tất cả. Thiên thần đã nói với mấy phụ nữ đạo đức: “Sao các bà lại tìm Người Sống ở giữa kẻ chết? Người không còn đây nữa, nhưng đã trỗi dậy rồi” (Lc 24:5-6). Lời Đức Kitô nói trước, giờ đã ứng nghiệm. Vâng, Ngài đã sống lại thật rồi: “Alleluia! Lễ Vượt Qua của chúng ta là Ðức Kitô đã hiến tế, vậy chúng ta hãy mừng lễ trong Chúa” (1 Cr 5:7b-8a).
Sự thật minh nhiên, không thể chối cãi, lịch sử và khoa khảo cổ đã cho thấy nhiều chứng cớ, chứng tỏ rằng thực sự có một Ông Giêsu bị đóng đinh, được mai táng và đã sống lại – dù sự thật này bị một số người bóp méo, vì họ cố chấp hoặc vô thần.
Đã và đang có các nhân chứng ở khắp nơi, điển hình nhất là ông Phêrô. Kinh Thánh cho biết: “Một hôm, tại nhà ông Co-nê-li-ô, ông Phêrô lên tiếng: “Quả thật, tôi biết rõ Thiên Chúa không thiên vị người nào. Nhưng hễ ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở lành, thì dù thuộc bất cứ dân tộc nào, cũng đều được Người tiếp nhận” (Cv 10:34-35). Chúng ta cũng nên nhớ rằng Kinh Thánh là bộ sách được dịch ra nhiều thứ tiếng nhất trên thế giới, và được bán chạy nhất thế giới, ước tính mỗi năm có thêm 100 triệu bản (1). Điều đó chứng tỏ rằng Kinh Thánh nói những điều có thật, chứ không hư cấu hoặc bịa đặt.
Một Phêrô hôm nay hoàn toàn khác một Phêrô hôm qua, con người khiếp đảm đã biến thành con người can đảm. Chính ông đã tới nơi chôn cất Đức Giêsu Kitô và ông thấy ngôi mộ trống trơn. Vì thế, ông tin và ông có trách nhiệm phải chia sẻ niềm tin đó với người khác. Ông hùng hồn rao giảng về Đức Kitô: “Quý vị biết rõ biến cố đã xảy ra trong toàn cõi Giuđê, bắt đầu từ miền Galilê, sau phép rửa mà ông Gioan rao giảng. Đức Giêsu xuất thân từ Nadarét, Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Người. Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Người” (Cv 10:37-38).
Và ông dẫn chứng cụ thể: “Còn chúng tôi đây xin làm chứng về mọi việc Người đã làm trong cả vùng dân Do-thái và tại chính Giêrusalem. Họ đã treo Người lên cây gỗ mà giết đi. Ngày thứ ba, Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy, và cho Người xuất hiện tỏ tường, không phải trước mặt toàn dân, nhưng trước mặt những chứng nhân Thiên Chúa đã tuyển chọn từ trước, là chúng tôi, những kẻ đã được cùng ăn cùng uống với Người, sau khi Người từ cõi chết sống lại. Người truyền cho chúng tôi phải rao giảng cho dân, và long trọng làm chứng rằng chính Người là Đấng Thiên Chúa đặt làm thẩm phán, để xét xử kẻ sống và kẻ chết. Tất cả các ngôn sứ đều làm chứng về Người và nói rằng phàm ai tin vào Người thì sẽ nhờ danh Người mà được ơn tha tội” (Cv 10:39-43). Tin mừng Chúa Giêsu Phục Sinh là sự thật của các sự thật, là sự thật hơn cả sự thật, không gì có thể chối cãi.
Thật hạnh phúc vì chúng ta có được đức tin tông truyền và vẫn đang cố gắng sống niềm tin đó. Hôm nay là dịp chúng ta xem lại đức tin của mình, và hãy xác định lại: “Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 118:1). Chúng ta chỉ là con số “không” to lớn, vậy thì không thể không tạ ơn, vì “tay hữu Chúa đã ra oai thần lực, tay hữu Chúa giơ cao, tay hữu Chúa đã ra oai thần lực” (Tv 118:16). Kinh Thánh đã nói: “Không thuốc nào chữa cho con người khỏi chết” (Kn 2:1). Nhưng chúng ta không phải chết tủi nhục, mà được sống mãi nhờ Đấng Phục Sinh. Như vậy, ngoài việc tạ ơn, chúng ta còn phải tự hứa: “Tôi không phải chết, nhưng tôi sẽ sống, để loan báo những công việc Chúa làm” (Tv 118:17)
Tác giả Thánh Vịnh nói rằng “tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường”, và xác nhận “đó chính là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta” (Tv 118:22-23). Niềm vui nối tiếp nỗi mừng, với lý do vô thường: “Đây là ngày Chúa làm ra – Cùng nhau ta hãy reo ca vui mừng” (Tv 118:24).
Thánh Phaolô nói: “Anh em đã được trỗi dậy cùng với Đức Kitô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới” (Cl 3:1-2). Thì phải thế thôi, không thể khác được, vì Chúa Giêsu đã xác định: “Tôi không thuộc về thế gian này” (Ga 8:23). Chúng ta là môn đệ, là con cái, là những người đi tìm Đấng Phục Sinh, chắc chắn chúng ta cũng phải noi gương Ngài, một lòng một dạ chỉ “tìm kiếm và ái mộ những sự trên trời” mà thôi.
Thánh Phaolô cho biết lý do: “Thật vậy, anh em đã chết, và sự sống mới của anh em hiện đang tiềm tàng với Đức Kitô nơi Thiên Chúa. Khi Đức Kitô, nguồn sống của chúng ta xuất hiện, anh em sẽ được xuất hiện với Người, và cùng Người hưởng phúc vinh quang” (Cl 3:3-4). Xác đất vật hèn, chúng ta chỉ là bùn đất nhơ nhớp, hôi thối hơn đống rác, ấy thế mà chúng ta lại được hưởng phúc vinh quang cùng với Đấng Phục Sinh Giêsu Kitô. Chuyện như huyền thoại mà lại là sự thật. Quá đỗi kỳ diệu!
Tuy nhiên, đừng vì thế mà ẢO TƯỞNG, ảo tưởng sinh KIÊU NGẠO, kiêu ngạo sinh CỐ CHẤP, cố chấp thì… “hết thuốc chữa”. Thánh Phaolô căn dặn: “Lý do khiến anh em vênh vang chẳng đẹp đẽ gì! Anh em không biết rằng chỉ một chút men cũng đủ làm cho cả khối bột dậy lên sao? Anh em hãy loại bỏ men cũ để trở thành bột mới, vì anh em là bánh không men” (1 Cr 5:6-7). Vì thế, “chúng ta đừng lấy men cũ, là lòng gian tà và độc ác, nhưng hãy lấy bánh không men, là lòng tinh tuyền và chân thật, mà ăn mừng đại lễ” (1 Cr 5:8).
Trình thuật Ga 20:1-9 ngắn gọn, nhưng vẫn đầy đủ các chi tiết, đặc biệt là chuyện người ta đi tìm Đấng Phục Sinh Giêsu Kitô.
Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Maria Mácđala đi đến mộ thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ. Chắc hẳn lúc đó bà hốt hoảng và quan ngại lắm, phụ nữ mà, thấy gì khác lạ là thấy lo lắng rồi. Thế nên bà liền chạy về gặp ông Simôn Phêrô và người môn đệ Đức Giêsu thương mến. Bà thông báo khẩn: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ, và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu”. Nghe vậy, cả ông Phêrô và chàng Gioan cũng vội vã đi ra mộ. Họ không đi bộ mà chạy. Chắc hẳn họ cũng đang hoang mang, không biết kẻ nào to gan mà đưa thi hài Thầy đi đâu mất tiêu!
Cả hai đều ráng chạy cho mau, nhưng chàng Gioan trẻ hơn nên chạy mau hơn ông Phêrô và đã tới mộ trước. Chàng Gioan cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào. Sau đó, ông Phêrô cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. Rất gọn gàng. Thế thì không thể bị đánh cắp. Kẻ trộm nào cũng sợ, vội vàng vơ vét chứ đâu có bình tĩnh mà xếp gọn gàng khăn khố như thế chứ? Chắc chắn chẳng kẻ nào to gan mà lấy trộm xác Thầy được đâu!
Rồi Gioan cũng đi vào theo, chàng đã thấy và đã tin. Trước đó, hai ông còn lo sợ, chưa hiểu hết lời Kinh Thánh đã nói trước rằng Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết. Giờ đây, hai năm rõ mười, họ an tâm trở về, không chỉ hết lo sợ mà còn vui mừng khôn tả: Thầy đã phục sinh rồi, alleluia! (2)
Lạy Thiên Chúa Cha hằng hữu và hằng sinh, Con Một Yêu Dấu của Ngài là Đức Giêsu Kitô đã phục sinh vinh hiển, chúng con vô cùng hạnh phúc, và xin cho chúng con được sống lại thật về phần linh hồn, đồng thời cũng biết nhiệt thành làm nhân chứng giữa cuộc đời hôm nay. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
***
(1) Có 10 cuốn sách được đọc nhiều nhất thế giới trong hơn nửa thế kỷ qua, Kinh Thánh đứng hàng đầu: [1] Kinh Thánh (3,9 tỷ bản), [2] Các Trích Dẫn từ Mao Trạch Đông (820 triệu bản), [3] Harry Potter (400 triệu bản), [4] Chúa Tể Những Chiếc Nhẫn (103 triệu bản), [5] Nhà Giả Kim: 65 triệu bản, [6] Mật Mã Da Vinci (57 triệu bản), [7] Bộ truyện Chạng Vạng (43 triệu bản), [8] Cuốn Theo Chiều Gió (33 triệu bản), [9] Suy Nghĩ và Làm Giàu (30 triệu bản), [10] Nhật Ký của Anne Frank (27 triệu bản). Kinh Thánh là cuốn sách cổ xưa nhất nhưng lại có tỷ lệ “vượt trội” hơn các sách khác.
(2) Nghe Hallelujah của nhà soạn nhạc Handel (1685-1759)
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Chúa Giêsu phục sinh khải hoàn, chúng ta hân hoan hợp xướng: “Alleluia!”, nhưng đồng thời chúng ta cũng có trọng trách: “Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí Chúa đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện” (Ep 4:22-24).
Ánh sáng Phục sinh đang chiếu tỏa chói ngời trên mỗi chúng ta. Chúng ta vô cùng vui mừng vì Đức Kitô đã sống lại thật và lòng chúng ta đầy tin tưởng nhờ Lời Chúa động viên: “Đừng sợ! Ta là Đầu và là Cuối. Ta là Đấng Hằng Sống, Ta đã chết, và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời; Ta giữ chìa khoá của Tử thần và Âm phủ” (Kh 1:17-18).
Thánh Phêrô xác quyết: “Quả thật, tôi biết rõ Thiên Chúa không thiên vị người nào” (Cv 10:34). Đó là điều chắc chắn, và không loại trừ ai, vì mọi người đều bình đẳng trước mặt Chúa. Đừng cậy quyền ỷ thế hoặc ảo tưởng mình “ngon” hơn người khác!
Thánh Phêrô giải thích một loạt: “Đức Giêsu xuất thân từ Nadarét, Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Ngài. Đi tới đâu là Ngài thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Ngài” (Cv 10:37-38). Sau khi lỡ chối bỏ Sư phụ mình vì khiếp nhược và nhận biết sự thông cảm của Sư phụ Giêsu khi Ngài quay lại nhìn mình (Lc 22:61), ông Phêrô “thót tim” khi thấy ánh mắt ấy “rất lạ”, vừa nhân từ vừa trách móc, nhẹ nhàng mà có sức xoáy vào sâu vào lòng người, nên ông đã “khóc hết nước mắt”.
Sau khi biết Thầy Giêsu đã thực sự sống lại, ông Phêrô mạnh dạn nói một lèo, nói như chưa bao giờ được nói: “Còn chúng tôi đây xin làm chứng về mọi việc Ngài đã làm trong cả vùng dân Do Thái và tại chính Giêrusalem. Họ đã treo Ngài lên cây gỗ mà giết đi. Ngày thứ ba, Thiên Chúa đã làm cho Ngài trỗi dậy, và cho Ngài xuất hiện tỏ tường, không phải trước mặt toàn dân, nhưng trước mặt những chứng nhân Thiên Chúa đã tuyển chọn từ trước, là chúng tôi, những kẻ đã được cùng ăn cùng uống với Ngài, sau khi Ngài từ cõi chết sống lại. Ngài truyền cho chúng tôi phải rao giảng cho dân, và long trọng làm chứng rằng chính Ngài là Đấng Thiên Chúa đặt làm thẩm phán, để xét xử kẻ sống và kẻ chết. Tất cả các ngôn sứ đều làm chứng về Ngài và nói rằng phàm ai tin vào Ngài thì sẽ nhờ danh Ngài mà được ơn tha tội” (Cv 10:39-43).
Trước đây, một Phêrô-năng-động-và-thẳng-tính (trước mặt đám côn đồ mà ông dám rút gươm chém đứt tai một người đầy tớ thầy thượng tế – Ga 18:10) đã biến thành một Phêrô-khiếp-nhược. Nhưng sau khi Chúa Giêsu phục sinh, một Phêrô-nhát-đảm đã biến thành một Phêrô-can-đảm, lại dám nói thẳng nói thật như xưa. Đó là tác động của Chúa Thánh Thần!
Chúng ta cũng vậy, cũng đã bao phen “chối” Chúa và “bán” Chúa không văn tự. Nếu không tin cứ “sờ gáy” và thật lòng xét mình kỹ lưỡng mà xem. Nhưng dù chúng ta dã tâm với Ngài thì Ngài vẫn cho là “chuyện nhỏ”, và Ngài sẵn sàng “cho qua” hết. Vì thế, chúng ta can đảm kêu gọi: “Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 118:1). Cả Thánh vịnh 136 cũng lặp đi lặp lại 26 lần điệp khúc: “Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương”. Chúng ta tin tưởng và đoan hứa: “Tôi không phải chết, nhưng tôi sẽ sống, để loan báo những công việc Chúa làm” (Tv 118:21). Tại sao? Vì:
Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ
Lại trở nên đá tảng góc tường
Đó chính là công trình của Chúa
Một công trình kỳ diệu vô thường (Tv 118:22-23)
Thánh Phaolô căn dặn mỗi chúng ta: “Anh chị em đã được trỗi dậy cùng với Đức Kitô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh chị em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới. Thật vậy, anh chị em đã chết, và sự sống mới của anh chị em hiện đang tiềm tàng với Đức Kitô nơi Thiên Chúa” (Cl 3:1-3). Sợ chúng ta nản chí sờn lòng, Thánh Phaolô khuyến khích: “Khi Đức Kitô, nguồn sống của chúng ta xuất hiện, anh chị em sẽ được xuất hiện với Ngài, và cùng Ngài hưởng phúc vinh quang” (Cl 3:4). Lời hứa chắc chắn đó là niềm tin bất tử của tất cả chúng ta – những người đã, đang và sẽ hành động vì Đức-Kitô-Phục-Sinh.
Người-môn-đệ-Chúa-yêu (Gioan) tường thuật: Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Maria Mađalêna đi đến mộ, thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ. Bà liền chạy về gặp ông Simôn Phêrô và người môn đệ Đức Giêsu thương mến.
Maria Mađalêna hốt hoảng thông báo: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ, chúng tôi chẳng biết họ để Ngài ở đâu” (Ga 20:2). Vì quá sợ bọn thủ ác mà ai cũng quên khuấy những gì Thầy mình nói trước. Nghe vậy, ông Phêrô và Gioan liền tức tốc đi ra mộ. Cả hai người cùng chạy. Nhưng Gioan trẻ hơn nên chạy mau hơn ông Phêrô và đã tới mộ trước. Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào, vì lịch sự và vì “kính lão đắc thọ”.
Ông Phêrô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. Bấy giờ Gioan mới bước vào. Ông “đã thấy và đã tin” (Ga 20:8). THẤY và TIN là hai động từ quan trọng. Thấy rồi, liệu có đủ lòng tin? Nếu thấy và tin rồi thì phải có bổn phận làm chứng.
Theo Kinh thánh, Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết. Nhưng trước đó, cả Phêrô và Gioan cũng chưa hiểu (Ga 20:9), dù cả hai ông đều là những đệ tử ruột của Chúa Giêsu. Thế nên người thời nay, kể cả chúng ta, không thấy thì rất khó tin. Nhưng Chúa Giêsu lại xác định: “Phúc thay những người không thấy mà tin!” (Ga 20:29).
Lạy Chúa, xin thêm đức tin cho chúng con và xin giúp chúng con sống trọn niềm vui phục sinh ngay trên cuộc lữ hành trần gian này, đồng thời giúp chúng con can đảm làm chứng nhân của Ngài suốt đời trong từng nhịp thở. Chúng con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô Phục Sinh, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.
21. Alleluia, Chúa đã Phục Sinh
(Suy niệm chú giải Lời Chúa của Lm. Inhaxiô Hồ Thông)
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật Phục Sinh tập trung vào biến cố Phục Sinh của Đức Giêsu, vì thế, bỏ qua Bài Đọc Cựu Ước quen thuộc để nhường chỗ cho Tân Ước. Sau khi Đức Giêsu đã hoàn tất Kinh Thánh, Giáo Hội không còn lý do gì quan tâm đến những bản văn tiên báo. Khởi đi từ lễ Phục Sinh cho đến lễ Ngũ Tuần, Bài Đọc I được trích dẫn từ sách Công Vụ Tông Đồ. Đây là một truyền thống xa xưa lên đến tận thế kỷ thứ tư. Cv 10: 34a, 37-43
Đoạn sách Công Vụ nhắc chúng ta nhớ rằng đức tin của chúng ta vào Đức Ki-tô Phục Sinh dựa trên lời chứng của các Tông Đồ. Chính lời chứng của thánh Phê-rô, vị lãnh đạo của Giáo Hội, được nêu bật trong đoạn sách Công Vụ này.
Cl 3: 1-4
Đoạn trích thư gởi tín hữu Cô-lô-xê dẫn đưa chúng ta vào trung tâm mầu nhiệm Phục Sinh, mở ra cho chúng ta những chiều kích thần học của biến cố này.
Ga 20: 1-9
Sau cùng, Tin Mừng tường thuật cho chúng ta một câu chuyện sống động nhất và chính xác nhất về cuộc khám phá ngôi mộ trống, khởi điểm đức tin của các Tông Đồ vào biến cố Phục Sinh.
BÀI ĐỌC I (Cv 10: 34a, 37-43)
Sách Công Vụ được giới thiệu như phần tiếp theo của Tin Mừng Thứ Ba: cùng một tác giả: thánh Lu-ca, và cùng một người nhận: ông Thê-ô-phi-lô, một Ki-tô hữu trí thức thuộc tầng lớp thượng lưu, nhưng cũng có thể là một nhân vật hư cấu biểu tượng “người Chúa thương mến” mà bất kỳ tên người Ki-tô hữu nào có thể điền tên mình vào đây.
Thánh Lu-ca mang nỗi bận lòng của một sử gia: “tra cứu đầu đuôi mọi sự”. Trong sách Tin Mừng của mình, thánh ký đã quan tâm đến cuộc đời thơ ấu của Đức Giê-su; trong sách Công Vụ Tông Đồ, thánh ký tường thuật cuộc đời thơ ấu của Giáo Hội. Trong phần thứ nhất của sách Công Vụ Tông Đồ, thánh Lu-ca nêu bật nhân cách của thánh Phê-rô, trong phần thứ hai là dung mạo của thánh Phao-lô.
Thánh Lu-ca nhiều lần nhấn mạnh các Tông Đồ đã mạnh mẽ làm chứng về biến cố Phục Sinh như thế nào. Diễn từ của thánh Phê-rô tại nhà ông Co-nê-li-ô, viên đại đội trưởng người Rô-ma, cung cấp một ví dụ. Đó là lý do chọn lựa đoạn trích này vào Chúa Nhật Phục Sinh này.
- Cuộc thăm viếng mục vụ của thánh Phê-rô
Vị lãnh đạo Giáo Hội đang thực hiện một cuộc “thăm viếng mục vụ”. Sau cuộc bách hại giáng xuống cộng đoàn Ki-tô hữu Giê-ru-sa-lem non trẻ vào năm 36 (năm mà thánh Tê-pha-nô được phúc tử đạo), nay sóng gió đã qua đi. Thánh Phê-rô lợi dụng thời kỳ lắng dịu này để viếng thăm những giáo đoàn vừa mới được thành lập. Sách Công Vụ nói với chúng ta, “thánh Phê-rô rảo khắp nơi” (Cv 9: 32). Chính như vậy thánh nhân đến miền duyên hải mà vừa mới đây “phó tế” Phi-líp-phê đã mang Tin Mừng đến đó.
- Thánh Phê-rô lần đầu tiên đến nhà một người ngoại giáo
Trong khi thánh Phê-rô đang ở nhà tại Gia-phô thì một viên đại đội trưởng người Rô-ma đồn trú ở Xê-da-rê cách đó khoảng năm mươi cây số, sai người đến mời thánh nhân đến nhà ông. Viên đại đội trưởng là một cảm tình viên của Do thái giáo, trong số những người được gọi “những người kính sợ Thiên Chúa”. Sách Công Vụ nói với chúng ta ông là người đạo đức và rộng tay bố thí.
Thánh Phê-rô đến nhà ông. Đây là lần đầu tiên thánh nhân bước vào nhà một người không chịu phép cắt bì, bất chấp những cấm kỵ lâu đời. Lệnh cấm tiếp xúc với những người không chịu phép cắt bì không được phát biểu trong Lề Luật, nhưng phát xuất từ tập quán và lời giải thích của các kinh sư. Lý do đầu tiên chính là để tránh mọi tiêm nhiễm của thế giới ngoại giáo vào dân Chúa, nhưng dần dần lệnh cấm này phổ biến và tuân giữ nghiêm nhặt. Lần đầu tiên thánh nhân mang sứ điệp Tin Mừng đến một người lương dân và tất cả gia quyến của ông. Đây thực sự là một kinh nghiệm chấn động.
- Bài diễn từ của thánh Phê-rô
Bài diễn từ của thánh Phê-rô là một bản tóm tắt Tin Mừng, nhưng không cùng chung những điểm nhấn như những bài diễn từ mà thánh nhân đã công bố ở Giê-ru-sa-lem, ở đó thánh Tông Đồ đã minh chứng cho người Do thái thấy rằng Đức Giê-su đã thực hiện những lời hứa Kinh Thánh và Ngài là Đấng Mê-si-a. Ở Xê-da-rê, ngỏ lời với một cử tọa lương dân, thánh Phê-rô nhấn mạnh phẩm chất “chứng nhân” của mình: chính thánh nhân và các vị Tông Đồ khác đã là những người chứng kiến những hành động của của Đức Giê-su người Na-da-rét, cuộc khổ nạn và cái chết của Ngài, và nhất là cuộc Phục Sinh của Ngài. Thánh nhân là một trong số những người “đã được cùng ăn cùng uống với Ngài sau khi Ngài đã từ cõi chết sống lại”. Đấng Phục Sinh đã ủy nhiệm họ làm chứng rằng Thiên Chúa đã đặt Ngài làm Thẩm Phán để xét xử cả người sống lẫn kẻ chết. Đối với những người có ý định gia nhập Hội Thánh và đón nhận phép Rửa, thánh nhân tế nhị nói rằng vị Thẩm Phán này cũng là Đấng tha tội. Thánh nhân trích dẫn Kinh Thánh để nhấn mạnh rằng đó là lời loan báo của các ngôn sứ: “Phàm ai tin vào Người thì sẽ nhờ danh Người mà được ơn tha tội”.
Giáo Hội đặt nền tảng đức tin của mình vào biến cố Phục Sinh dựa trên lời chứng của các Tông Đồ. Giáo Hội xem lời chứng này dứt khoát đến độ Giáo Hội đã không bao giờ cảm thấy cần phải tuyên xưng biến cố Phục Sinh như một tín điều. Sự kiện hiển nhiên buộc phải nhận như thế; nền tảng quá vững chắc: những chứng nhân đã “thấy” và “đã sống” với Đức Ki-tô phục sinh.
BÀI ĐỌC II (Cl 3: 1-4)
Thánh Phao-lô viết thư gởi tín hữu Cô-lô-xê trong khi bị giam cầm ở Rô-ma vào những năm 61-62. Trong đoạn trích thư này, thánh nhân đưa ra cho chúng ta chiều kích thần học về sự Phục Sinh một cách sâu xa.
- Lập luận của thánh Phao-lô
Thánh Phao-lô là nhân chứng của Đức Ki-tô Phục Sinh. Đấng Phục Sinh đã nắm bắt thánh nhân trên đường Đa-mát, đã tỏ mình ra cho thánh nhân trong ánh sáng chói lòa, đã cho thánh nhân những lời dạy của Ngài và trao phó sứ mạng cho thánh nhân.
Lập luận của thánh Phao-lô xem ra có vẻ mâu thuẫn: trước hết, thánh nhân nói: “Anh em đã được phục sinh cùng với Đức Ki-tô”, tiếp đó: “Anh em đã chết cùng với Đức Ki-tô” (tức là chết cho tội lỗi). Thật ra, đây là một trong những phương thức của thánh Phao-lô: trước tiên thánh nhân đề cao thực tại tinh thần; từ đó, cho thấy những hậu quả “luân lý” đòi buộc cách ăn nếp ở của chúng ta; tiếp đến, những hậu quả “hữu thể”, tức là những hậu quả ghi dấu ấn trên bản thân của chúng ta.
- Người Ki-tô hữu
Như trường hợp ở đây. Thánh Phao-lô định nghĩa người Kitô hữu là người, nhờ bí tích Thánh Tẩy và cuộc sống bí tích, dự phần vào sự Phục Sinh của Đức Ki-tô, vì thế, họ được sống lại rồi. Trong thư gởi các tín hữu Ê-phê-xô, thánh nhân diễn tả thực tại này còn bạo dạn hơn nữa, khi thánh nhân dùng thì quá khứ: “Người đã cho chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Giê-su Ki-tô trên cõi trời” (Ep 2: 6).
Vì thế, từ hoàn cảnh tinh thần này của người Ki-tô hữu, thánh Phao-lô nhấn mạnh trước tiên những hậu quả luân lý: cần thiết phải nghĩ đến những gì thuộc thiên giới. Tiếp đó, thánh nhân nói đến những hậu quả hữu thể: được sống lại rồi, tức là đã chết cho tội lỗi, đó là được biến đổi tận bên trong. Bên ngoài không có gì thay đổi, nhưng một năng lực thần linh ẩn kín ở bên trong người Ki-tô hữu, mà ánh sáng rực rỡ của nó sẽ chỉ được tỏ rạng một cách viên mãn vào ngày chung cuộc. Đây là ý tưởng rất thân thiết đối với thánh Phao-lô: sống theo Đức Ki-tô đảm bảo vinh quang tương lai của chúng ta, chắc chắn chúng ta có được những bảo chứng về vinh quang của chúng ta rồi.
TIN MỪNG (Ga 20: 1-9)
Niềm xác tín của các Tông Đồ vào biến cố Phục Sinh của Đức Ki-tô đặt nền tảng trên hai kinh nghiệm. Chúng ta có thể nói rằng niềm xác tín này đã hình thành nên hai giai đoạn. Trước hết, việc “phát hiện ngôi mộ trống” là mặc khải gây kinh ngạc đầu tiên. Chính kinh nghiệm này đã mở mắt họ và đã khai lòng mở trí cho họ hiểu Kinh Thánh.
Tiếp đó, vào cũng một ngày hôm ấy, “những lần Đức Giê-su hiện ra” đem đến những bằng chứng khả giác về một người đang sống, tuy nhiên, các môn đệ không thể nào hiểu thấu được mầu nhiệm tôn vinh của Ngài. Nhưng thân xác của Đấng Phục Sinh rõ ràng là thân xác đã biến mất khỏi ngôi mộ, thân xác vẫn in dấu những vết thương tử nạn của Ngài. Vì thế, đây không là một bóng ma, cũng không thân xác giả mạo. Hai kinh nghiệm củng cố cho nhau, bổ túc lẫn nhau. Các Tông Đồ làm chứng về niềm xác tín tận mức này cho đến phải hy sinh mạng sống của mình.
- Ngày thứ nhất trong tuần
Tin Mừng Gioan dâng hiến cho chúng ta một bài trình thuật sống động và chính xác về cuộc phát hiện ngôi mộ trống, một bài trình thuật của một “chứng nhân nhãn tiền”. Như thường hằng trong Tin Mừng Gioan, những chi tiết mặc khải những ý nghĩa sâu xa.
Ngày sa-bát đã chấm dứt vào buổi chiều hôm qua, ngày thứ nhất trong tuần đã khởi sự, ngày thứ nhất này sẽ là Ngày Chúa Nhật của chúng ta, “Ngày của Chúa”, chính xác vì đó là ngày của biến cố Phục Sinh.
- Bà Ma-ri-a Mác-đa-la
Thánh Gioan nói: “Sáng sớm, lúc trời còn tối, bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ”. Bà Ma-ri-a Mác-đa-la là một trong số các người phụ nữ đã cũng đi với Đức Giê-su và nhóm Mười Hai trong những cuộc hành trình truyền giáo của Ngài khắp miền Ga-li-lê (Lc 8: 1-3); “các bà đã chứng kiến” cuộc Thương Khó và Tử Nạn của Chúa Giê-su (Lc 23: 49); các bà cùng với Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, kiên vững bên thập giá vào những giây phút sau cùng của Đức Giê-su (Ga 19: 25); và “các bà đã đế ý nhìn ngôi mộ và xem xác Ngài được đặt như thế nào” (Lc 23: 55). Bây giờ, sau ngày hưu lễ, các bà đi viếng mộ. Tin Mừng nói với chúng ta rằng các bà đến mộ “lúc trời còn tối”: tình yêu và niềm tôn kính của bà thúc đẩy bước chân dạn dĩ của bà ra đi càng sớm chừng nào có thể để được ở bên cạnh thi thể của Chúa chúng ta.
Ở đây, Tin Mừng Thứ Tư chỉ nêu đích danh bà Ma-ri-a Mác-đa-la; tuy nhiên, chính bản văn làm chứng rằng còn có các người phụ nữ khác cùng đi với bà, vì bà Ma-ri-a Mác-đa-la nói: “Chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu” (20: 2). Thật ra, thánh Mát-thêu nêu tên hai người phụ nữ: bà Ma-ri-a Mác-đa-la và một bà khác cùng tên là Ma-ri-a (Mt 28 : 1); còn thánh Mác-cô lại kể ra ba người phụ nữ: bà Ma-ri-a Mác-đa-la, bà Ma-ri-a, mẹ của ông Gia-cô-bê, và bà Sa-lô-mê (Mc 16 : 1), riêng thánh Lu-ca còn kể ra nhiều người phụ nữ hơn nữa (Lc 24 : 1). Nhưng trong số những người phụ nữ đó, bà Ma-ri-a Mác-đa-la luôn luôn được nêu đích danh đầu tiên.
Tại sao chỉ một mình bà Ma-ri-a Mác-đa-la được nêu đích danh ở đây? Chắc chắn vì trong số những thánh nữ trung tín này, kỷ niệm của bà nổi bật nhất (thánh Gioan biên soạn Tin Mừng của mình với một hồi tưởng nào đó). Bà là người được diễm phúc chứng kiến cuộc hiện ra đầu tiên trong số những lần hiện ra của Đấng Phục Sinh được các sách Tin Mừng tường thuật, và bà cũng là người đầu tiên được Đấng Phục Sinh sai đi loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho các Tông Đồ; vì thế, chẳng lạ gì truyền thống Giáo Hội gọi bà là “Tông Đồ của các Tông Đồ”, theo kiểu nói tuyệt đối của người Do thái, nghĩa là bà là “người được sai đi tuyệt hảo”.
- Thánh Phê-rô và thánh Gioan
Khi bà Ma-ri-a Mác-đa-la báo tin cho thánh Phê-rô và thánh Gioan, lúc đó, có thể cả hai ông đang tá túc dưới một mái nhà. Hai ông thường được nêu tên cùng nhau và hoạt động cùng nhau (Cv 3: 1-11; 4: 1-22). Cả hai ông đều đã là nhân chứng về cuộc Biến Hình, nhất là cuộc phục sinh của anh La-da-rô, chắc chắn kinh nghiệm này giúp hai ông hiểu biến cố mà hai ông trải qua vào buổi sáng này.
Thánh Phê-rô lớn tuổi hơn, vì thế thánh nhân không thể chạy theo kịp sức trẻ của thánh Gioan. Thánh Gioan đến mộ trước nhưng chỉ đứng bên ngoài mà liếc nhìn vào bên trong ngôi mộ. Để tỏ lòng kính trọng người lớn tuổi, thánh Gioan đứng đợi và nhường cho thánh Phê-rô vào mộ trước tiên. Ở nơi sự kiện này, thánh ký hàm ý rằng thánh Gioan nhận ra quyền lãnh đạo của thánh Phê-rô. Thật ra, theo Tin Mừng Gioan, quyền lãnh đạo của thánh Phê-rô đối với các Tông Đồ và toàn thể Giáo Hội sẽ được công bố chỉ sau khi Đấng Phục Sinh gặp gỡ các ông bên bờ hồ Ti-bê-ri-a vào bữa ăn mà chính Ngài đã dọn sẵn cho các ông trong sương mờ sáng sớm (Ga 21: 15-17), tuy nhiên đã được hàm chứa rồi ở nơi cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa Chúa Giê-su và thánh Phê-rô khi Ngài long trọng đổi tên: “Anh là Si-mon, con ông Gioan, anh sẽ được gọi là Kê-pha, tức là Phê-rô” (Ga 1: 42) và ở nơi sự kiện trước ngôi mộ này.
Như vậy, cả hai người đều cùng thấy hiện trường. Chi tiết này có một tầm quan trọng đặc biệt, vì đối với luật Do thái, một sự kiện chỉ được chứng thực nếu có tối thiểu hai nhân chứng. Trước đây, Đức Giê-su đã nhắc lại điều này cho những người Biệt Phái: “Trong Lề Luật của các ông, có chép rằng lời chứng của hai người là chứng thật” (Ga 8: 17). Ngoài ra, theo luật, lời chứng của những người phụ nữ thì không có giá trị.
- Những băng vải và khăn che đầu được cuốn lại và xếp riêng một nơi
Một mặt, hai ông không chỉ chứng kiến ngôi mộ trống, nhưng còn thấy những băng vải liệm và khăn che đầu được cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. Cảnh tượng này được lập lại đến hai lần (20: 5 và 6-7) đánh động sâu xa hai vị Tông Đồ. Nếu thi thể bị đánh cắp, băng vải liệm và khăn che đầu có lẽ đã bị vất bừa bãi rồi. Thế mà, tất cả đều được xếp gọn gàng ngăn nắp. Mặt khác, làm thế nào không nghĩ đến việc La-da-rô được sống lại bước ra khỏi mồ, “chân tay còn quấn vải, và mặt còn phủ khăn” (Ga 11: 44)? Đức Giê-su hoàn toàn tự do, không còn bị những băng vải liệm buộc chặt thân thể của Ngài, biểu tượng xích xiềng của tử thần. Như vậy, La-da-rô dù được sống lại nhưng vẫn còn nằm trong vòng kiềm tỏa của tử thần nên rồi sẽ phải chết một lần nữa, trong khi tử thần từ nay không có quyền hành gì trên Chúa Giê-su nữa: Ngài đã vĩnh viễn đánh bại tử thần. Chắc chắn, thánh Gioan đã hiểu dấu chỉ này và xao động đến mức thánh nhân đã phải thốt lên: “Tôi đã thấy và đã tin”. Rõ ràng lời tuyên xưng này diễn đạt quá trình từ “thấy” đến “gắn bó trọn vẹn” với Đấng Phục Sinh.
Ánh sáng niềm tin bừng lên trong lòng “người môn đệ Chúa yêu” này trước ngôi mộ trống cùng với những băng vải liệm và khăn che đầu được cuốn lại gọn gàng và xếp riêng ra một nơi. Dù trước đây niềm tin của thánh nhân đã bị chao đảo trước những biến cố đau thương của Thầy, tình yêu của thánh nhân đã không hề suy giảm như thánh nhân đã cho thấy khi bước theo từng bước chân của Thầy lên đến tận đỉnh đồi Sọ và chứng kiến giây phút đau thương sau cùng của Thầy. Chính độ nhạy bén của tình yêu này giờ đây dẫn đưa thánh nhân đến niềm tin vào sự Phục Sinh của Thầy ngay tức khắc. Cũng chính độ nhạy bén của tình yêu này mà vài ngày sau đó cũng chính thánh nhân sẽ là người đầu tiên nhận ra Thầy mình trên bờ hồ Ti-bê-ri-a trong sương mờ buổi sớm (21: 4, 7). Người môn đệ được yêu và đang yêu này chỉ thấy cái tối thiểu, tuy nhiên lại tin cái tối đa. Độ nhạy bén của con tim hỗ trợ cho thánh nhân rất nhiều để hiểu biết con người và sự vật. Quả thật, nhà tư tưởng Pascal đã nói: “Con tim có lý lẽ của nó mà lý trí không sao hiểu được”.
- Theo lời Kinh Thánh
Nhờ độ nhạy bén của con tim, người môn đệ Chúa yêu đạt đến niềm tin; tuy nhiên, ông cũng cần đến ánh sáng của lý trí: “Thật vậy, trước đó, hai ông chưa hiểu rằng: theo Kinh Thánh, Đức Ki-tô phải chỗi dậy từ cõi chết”. Lời này ám chỉ đến tiến trình các môn đệ hậu phục sinh giải thích biến cố Phục Sinh của Chúa Ki-tô nhờ ánh sáng Cựu Ước (Ga 2: 17, 22; 12: 16). Hơn nữa, Chúa Thánh Thần, Đấng khai lòng mở trí của họ để hiểu nội dung Kinh Thánh, chưa được ban cho (x. Ga 14: 26; Lc 24: 45).
Các bản văn Kinh Thánh lại hiện ra trong tâm trí hai ông. Người ta có thể phỏng đoán rằng họ nghĩ đến Thánh Vịnh 16, vì vài tuần sau đó, chính Thánh Vịnh này mà thánh Phê-rô sẽ trích dẫn cho đám đông ở Giê-ru-sa-lem để đưa ra những khẳng định của mình liên quan đến biến cố Phục Sinh (Cv 2 : 24-31). Quả thật, chúng ta đọc trong Thánh Vịnh 16 những hàng này: “Thân xác con cũng nghĩ ngơi an toàn. Vì Chúa chẳng đành để mặc con trong cõi âm ty, không để kẻ hiếu trung này hư nát trong phần mộ” (Tv 16: 9-10).
Vì thế, truyền thống đã áp dụng Thánh Vịnh này vào Đấng Mê-si-a. Như vậy, hai vị Tông Đồ rời khỏi ngôi mộ với hai niềm xác tín: trước hết, chứng thực những điều các ông đã chứng kiến; sau nữa, khẳng định những lời Kinh Thánh loan báo.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Quốc Quang – Joshepus Quang Nguyễn)
NIỀM TIN CHÚA PHỤC SINH ĐỔI MỚI ĐỜI TA
Hôm nay, toàn thể Hội Thánh hân hoan kỷ niệm ngày Đức Giêsu phục sinh. Đây là một biến cố vĩ đại, làm nền tảng cho niềm tin của chúng ta. Qủa thế, Thánh Phaolô nói: “Nếu Đức Kitô đã không sống lại, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng” (1Cr 15,14); và “Nếu Đức Kitô đã không sống lại, thì lòng tin của anh em thật hão huyền, và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của anh em. Hơn nữa, cả những người đã an nghỉ trong Đức Kitô cũng bị tiêu vong. Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Kitô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người” (1Cr 15,17-19).
Ðể hiểu thấu mầu nhiệm Phục Sinh, chúng ta cần dừng lại thật lâu và sâu nơi ngôi mộ trống nơi trang Tin Mừng chúng ta vừa nghe. Một ngôi mộ chôn Chúa Giêsu là mới hoàn toàn, chưa chôn cất ai (Ga 19,41). Ngôi mộ này của ông Giô-xép, người trong Thượng Hội Ðồng, và cũng là một môn đệ âm thầm của Ðức Giêsu. Ông đã đến gặp chính quyền để xin xác của Thầy mình và tẩm liệm cẩn thận. Ngôi mộ nằm im lìm như trăm ngàn ngôi mộ khác. Một tảng đá to ngạo nghễ che cửa mộ. Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ, thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ. Bà chạy về báo cho Phêrô và Gioan, hai ông liền chạy đến mộ, nhưng môn đệ kia chạy mau hơn ông Phê-rô và đã tới mộ trước. Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào. Ông Si-môn Phê-rô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giê-su. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin. Thật vậy, trước đó, hai ông chưa hiểu rằng: theo Kinh Thánh, Đức Giê-su phải trỗi dậy từ cõi chết. Rõ ràng, từ ngôi mộ, từ tối tăm chết chóc và rữa nát, sự sống đã bật dậy, cửa mộ đã mở toang vì ngôi mộ không thể chứa được Ðấng đã phục sinh.
Qủa thật, Chúa Giêsu đã Phục Sinh, nghĩa là Ngài đã sống lại từ cõi chết. Ngài không sống lại một thời gian để rồi lại phải chết. Ngài hoàn toàn chiến thắng sự chết. Sự chết không còn làm gì được Ngài. Không định luật tự nhiên nào có thể chi phối được Ngài. Như vậy, Phục Sinh của Đức Giêsu đã trở nên nguồn mạch sự sống và là sự sống lại của mỗi người chúng ta. “Ta là sự sống lại và là sự sống” (Ga 11,24).
Đức Giêsu sống lại là để đem lại cho chúng ta sự sống mới, và trở nên những con người mới, ngay bây giờ và chính tại đây, như thánh Phaolô nói: “Nếu Thần Khí ngự trong anh em, Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, thì Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới” (Rm 8,11). Vậy, chúng ta chỉ có được sự sống mới sau khi chết đi con người cũ, có nghĩa là chúng ta phải dứt khoát từ bỏ con người cũ, là con người ích kỷ, chỉ nghĩ tới mình, lo cho mình, chỉ quan tâm tới hạnh phúc và đau khổ của chính mình, không quan tâm gì tới ai, không lo cho ai. Đây chính là điều mà Đức Giáo Hoàng Phanxicô cho là thói vô cảm toàn cầu hóa. Có diệt trừ thói vô cảm này, là nguyên nhân mọi tội lỗi, chúng ta mới có được sự sống mới. Vì vậy Thánh Phaolô nói: “Nếu sống nhờ Thần Khí, anh em diệt trừ những hành vi của con người ích kỷ nơi anh em thì anh em sẽ được sống” (Rm 8,13).
Thánh Phaolô xác định: “Con người mới là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa” (Ep 4,24); đồng thời “đổi mới luôn luôn để nên giống như hình ảnh Đấng dựng nên mình” (Cl 3,10). Như vậy, con người mới chính là con người hoàn nguyên, nghĩa là trở về với tình trạng tốt đẹp nguyên thủy khi được Thiên Chúa tạo dựng, trước khi con người phạm tội. Đó là con người phản ánh trung thực bản chất của Thiên Chúa, là Tình Yêu. Vậy, để có một đời sống mới, một tinh thần mới, để trở nên con người mới, với một sức mạnh mới, ta cần có một quyết tâm từ bỏ con người cũ là con người ích kỷ, chỉ quan tâm lo cho bản thân mình, để mặc lấy con người mới sự sống mới của Chúa Giêsu Kitô là sống vị tha, sống yêu thương, sống cho sống với và sống vì tha nhân. Vì vậy, trong bài đọc 2, Thánh Phaolô kêu gọi: “Anh em đã được trỗi dậy cùng với Đức Ki-tô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Ki-tô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới”. Có như thế, việc sống lại của Đức Giêsu mới thật sự ích lợi cho đời sống Kitô hữu của ta.
Ước gì, qua Thánh Lễ này, xin Chúa Giêsu phục sinh biến đổi cuộc đời mỗi người trong giáo xứ chúng ta trong Năm Phúc hóa giáo xứ và cộng đoàn biết sống vị tha, yêu thương và phục vụ mọi người, đừng vô cảm trước nỗi thống khổ anh chị em xung quanh mình. Xin Thánh Thần của Cha biến đổi chúng con. Amen. Alleluia!
Tạp chí “Bách Khoa Văn Học” số ra tháng sáu năm 1991, có đăng một truyện ngắn với tựa đề là “Mùi Cọp”. Câu truyện đại khái như thế này: Có một đôi vợ chồng trẻ nọ. Chồng là giảng viên đại học. Còn vợ vừa là diễn viên, vừa là người dạy thú của một đoàn xiếc. Người chồng, mặc dù nhận thấy nghề dạy thú cua vợ mình có một cái gì đó không bình thường, nhất là cái mùi cọp, lúc nào cũng hăng hắc, xuất phát từ thân thể của vợ. Tuy nhiên, anh vẫn yêu vợ tha thiết. Cái mùi cọp thật là khó chịu, nhưng người diễn viên dạy thu không thể không cần đến cái mùi ấy. Chính nhờ cái mùi ấy mà bày cọp dữ mới nhận ra cô và mới ngoan ngoãn vâng lời cô. Cho đến một hôm, họ giận nhau. Tình trạng này kéo dài nhiều ngày. Cuối cùng, người vợ chủ động làm lành. Chị chọn một giải pháp rất bất ngờ đối với anh và cũng rất xa lạ đối với chị, đó là chị đã tẩy sạch mùi cọp bằng nước hoa thơm phức. Họ đã làm hòa cùng nhau. Thế nhưng, đêm hôm sau, người vợ ấy đã chết. Chị đã chết vì con cọp dữ mà chị đã thuần hóa. Số là nó đã không nhận ra chị, bởi vì cái mùi cọp quen thuộc không còn, mà chỉ có mùi nước hoa xa lạ. Con cọp dữ đã hoảng hốt trước cái mùi lạ lẫm ấy, nên đã tự vệ bằng cách tấn công chị. Và thế là chỉ trong khoảng khắc, chị đã bị tan xác dưới những móng vuốt của con cọp mà chị đã hết lòng yêu thương.
Từ câu chuyện trên, chúng ta cảm nhận được tình thương yêu của người vợ. Vì yêu thương chồng, chị đã chấp nhận gột rửa chính mình và cuối cùng đã hy sinh chính mạng sống của mình. Tình yêu đích thực không phải chỉ là chết đi một ít, nhưng là chết đi trọn vẹn, để làm phát sinh sự sống mới. Đó cũng chính là ý nghĩa cái chết và sự sống lại của Đức Kitô, mà Giáo Hội mời gọi chúng ta chiêm ngắm trong mùa Phục sinh.
Thực vậy, Ngài đã yêu và yêu cho đến cùng, nghĩa là hiến chính mạng sống mình vì chúng ta như lời Ngài đã xác quyết: Không ai yêu hơn người dám hy sinh mạng sống mình vì bạn hữu. Và sự Phục Sinh vinh hiển của Ngài chính là một sức sống mới bừng lên từ tình yêu tha thiết ấy,
Chúng ta cũng thế, trong đêm thánh vọng Phục Sinh, Giáo Hội mời gọi chúng ta lặp lại lời hứa của ngày lãnh nhận bí tích Rửa Tội. Với bí tích Rửa Tội, chúng ta đã được mai táng với Đức Kitô, đề rồi được phục sinh trong sự sống mới của Ngài. Mai táng vơi Đức Kitô, có nghĩa là chôn vùi con người cũ tội lỗi của chúng ta, là khước từ cái mùi của dục vọng sai trái, là từ bỏ tất cả những gì lôi kéo chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa. Và Thánh Phaolô cũng đã khuyên nhủ chúng ta: Hãy mai táng con người cũ, đề mặc lấy con người mới của Đức Kitô.
Xin Đức Kitô Phục Sinh luôn chiếu tỏa anh sáng của Ngài vào trong tâm hồn u tối của mỗi người, để chúng ta hiểu được những đòi hỏi đích thực của đức tin, vì theo Chúa đó là bước đi trên con đường thập giá, bước đi trên con đường chiến đầu và hy sinh, nhờ đó, chúng ta sẽ được chia sẻ phần vinh quang Phục Sinh với Ngài.
Làm thế nào để mỗi người chúng ta ý thức được tầm mức quan trọng của việc Chúa sống lại, đó chính là mục đích của phụng vụ hôm nay và của mùa Phục Sinh.
Thực vậy, nếu không ý thức được tầm mức quan trọng đó, chúng ta sẽ không tha thiết với việc kết hợp cùng Đức Kitô phục sinh. Và nếu không kết hiệp với Ngài thì chúng ta cũng chẳng có đời sống mới. Cuộc đời của chúng ta sẽ hoàn toàn vô ích về phương diện tôn giáo, chính thánh Phaolô đã viết: Nếu Đức Kitô không sống lại, thì đức tin của anh em trở thành hão huyền và chúng ta quả là những kẻ dại dột nhất. Nói cách khác, vì đạo của chúng ta xây dựng trên nền tảng niềm tin Chúa sống lại, nên chúng ta phải xác tín, phải chắc chắn về niềm tin ấy, thì mới hy vọng xây dựng được một đời sống đạo đức vững vàng. Vậy chúng ta hãy theo phụng vụ của Giáo Hội để thêm ý thức về niềm tin ấy.
Trước hết phụng vụ lần lượt trích dẫn các đoạn văn Kinh Thánh nói về việc Chúa sống lại. Qua đó chúng ta thấy việc Chúa sống lại là một biến cố rõ ràng, nhưng quá bất ngờ đối với tất cả mọi người, đặc biệt đối với những người tin Chúa. Mặc dù Ngài đã khẳng định một cách công khai và không úp mơ rằng Ngài sẽ bị nộp, bị đánh, bị treo trên thập giá và ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại. Thế nhưng Phêrô chỉ để ý đến đoạn đầu mà thôi. Ông khăng khăng xin Chúa đừng làm như vậy, đừng để mình bị bắt. Ông không để ý đến câu cuối cùng nói rằng: Ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại.
Các tông đồ khác cũng chẳng để ý hơn. Họ có nghe nói nhưng không tin. Nói đúng hơn là họ không muốn tin. Nên vừa thấy Chúa bị bắt, là họ đã bỏ Chúa, chối Chúa, muốn trở về làng cũ và chấm dứt lý tưởng theo Chúa. Hay họ đã rút lui vào nhà, đóng kín cửa, không dám ló mặt ra. Họ chỉ nhớ Đức Kitô chịu chết. Người Do Thái có thể sắp đến bắt họ.
Kẻ thù của Chúa thì cẩn thận hơn. Họ đã nghe Chúa nói đến việc Ngài sẽ sống lại. Họ nhớ vậy nên xin Philatô cho đặt lính gác mồ. Họ tưởng rằng có thể ngăn chặn không cho Chúa phục sinh.
Nhưng Chúa đã làm một việc kỳ diệu trước mắt thiên hạ, cả những kẻ tin cũng như không tin. Ngài làm một việc thật ngoạn mục, để ai tin thì được thấm thía tình Ngài yêu thương họ, còn ai không tin thì phải bàng hoàng khiếp sợ.
Việc Chúa phục sinh vì thế không phải là chuyện do mấy tông đồ bịa đặt ra. Họ không còn đầu óc nào, để nhớ lại lời Chúa nói trước, thì làm sao có được trí tưởng tượng xếp đặt khéo léo cho câu chuyện. Cả Phêrô lẫn Gioan đều nhận được tin Thầy sống lại và được Madalêna cho hay xác Thầy không còn ở trong mồ nữa. Hai ông đã ra đi, người đi chậm kẻ chạy nhanh. Nhưng cả hai đều đã quan sát rõ ràng và tỉ mỉ: Các khăn liệm còn đó nhưng Chúa Giêsu thì ở đâu? Phải đợi đến khi nhận được nhiều bằng chứng khác thêm vào bằng chứng mồ rỗng và nhất là khi được Chúa hiện ra trò chuyện, ăn uống và dạy dỗ thêm, thì các ông mới thật sự tin rằng Chúa đã sống lại.
Như vậy, niềm tin của các tông đồ không những đã căn cứ vào lời Chúa báo trước, mà còn vào các sự kiện, các bằng chứng rõ ràng của nhiều người khác nhau. Đức tin ấy sáng suốt và vững vàng đến nỗi tất cả đã bằng lòng chịu chết để làm chứng cho việc Chúa đã sống lại. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta đã sống như thế nào và đã làm được những gì, để niềm tin Chúa sống lại nơi chúng ta được chiếu toả cho những người chung quanh.
Kết quả một cuộc điều tra mới đây tại Pháp cho thấy 84% người Pháp cho mình là người công giáo, nghĩa là có lãnh nhận Bí tích Rửa Tội. Nhưng chỉ có 32% là con tin vào sự sống lại. Và người ta phỏng đoán đến năm 2020 thì con số những người tin vào sự sống lại sẽ giảm xuống, chỉ còn độ 10%. Nếu số liệu trên là sát với thực tế và điều phỏng đoán trên là đáng tin cậy, thì tình trạng niềm tin hôm nay quả là bi đát. Tại sao lại có hiện tượng ấy?
Phải chăng con người ngày nay quá quen với những ky thuật khoa học có thể kiểm chứng, để không còn nhạy cảm đủ với niềm tin, vốn khởi đi từ những cảm nghiệm. Hay nói theo kiểu thánh Phaolô: Vì quá mải mê những sự dưới đất đến nỗi không còn tha thiết với những sự tren trời. Chính vì thế, chúng ta cần phải khám phá lại niềm tin vào Đức Kitô phục sinh, là nền tảng cho cuộc sống của người tín hữu hôm nay.
Như chúng ta đã biết Phục Sinh là một biến cố quan trọng bởi vì không có nó thì niềm tin sẽ trở thành một việc luống công vô ích, thế mà biến cố quan trọng ấy chỉ được ghi nhận bằng một sự kiện đơn giản: Ngôi mộ trống rỗng. Thế nhưng điều đơn giản ấy nếu không là dấu chứng lịch sử để mà biện bạch thì lại là dấu chỉ mở về một thực tại khác. Đó là niềm tin Phục Sinh qua những chặng đường khám phá.
Thực vậy, từ khám phá đầu tiên về cửa mồ mở toang, khiến Mađalena phải hốt hoảng, tới khám phá tiếp theo về dây băng còn nguyên và khăn liệm được cuộn lại, khiến Phêrô phải kinh ngạc không nói nên lời, để rồi kết thúc bằng khám phá bất ngờ của Gioan khi ông nối kết những dấu chỉ kia với lời Kinh Thánh để làm bừng lên một cảm nghiệm mới và hết sức lạ lùng: ông đã tin.
Mồ rỗng và khăn liệm còn đó là gì nếu không phải là một dấu chỉ cho sự phục sinh theo Kinh Thánh. Thực vậy, Đức Kitô là Thiên Chúa hằng sống, nên Ngài không thể bị chôn vùi trong cõi chết. Là Đấng quyền năng, nên Ngài không thể bị giam hãm trong ngục thất của tử thần. Là Đấng của vĩnh cửu, nên Ngài không thể bị giới hạn trong thời gian. Là ánh sáng, lẽ nào Ngài lại bị bao vây bởi bóng tối. Là Đấng tạo dựng, lẽ nào Ngài lại bị thân phận con người cầm chân. Bởi đó không còn một cách nào khác hơn là Ngài đã phục sinh.
Từ đó, ngày Phục Sinh được gọi là ngày Chúa nhật, ngày của Chúa. Biến cố Phục Sinh không phải chỉ là một biến cố có tính cách lịch sử mà hơn thế nữa, còn là một biến cố làm nên lịch sử, vì biến cố ấy không ngừng được công bố và trở thành nền tảng niềm tin cho cả Giáo Hội. Bởi vì một khi Đức Kitô là đầu đã sống lại, thì chúng ta là chi thể, một ngày kia cũng sẽ sống lại, nếu như chúng ta trung thành gắn bó mật thiết với Ngài.
(Suy niệm của Lm. Minh Anh)
“Đây là ‘ngày Chúa đã làm ra’, nào ta hãy vui mừng hoan hỷ!”.
Kính thưa Anh Chị em,
“Đây là ‘ngày Chúa đã làm ra’, nào ta hãy vui mừng hoan hỷ!”. Chúng ta vui mừng hoan hỷ vì Chúa Kitô đã sống lại. Qua cuộc khổ nạn, Con Thiên Chúa đã ôm tội ác của cả nhân loại vào trong tử huyệt, nhưng Ngài không còn ở đó; Ngài chôn vùi sự dữ vào lòng đất và chỗi dậy để khởi đầu một sự sống mới. Chúa đã sống lại! Sự ác không phải là tiếng nói cuối cùng, tử thần bị đánh bại; Ngài đã chiến thắng sự chết, trả lại cho nhân loại sự thanh bình của vườn địa đàng, đất trời reo ca.
Nhiều nơi trên thế giới, lễ Phục Sinh đến vào mùa xuân. Đây là thời điểm thiên nhiên tự nó mang đến sự khởi đầu của một cuộc sống mới. Những bông hoa tulips bắt đầu vươn lên khỏi mặt đất im lìm lạnh giá, những chiếc lá bắt đầu nhú trên cành cây biến khu rừng thành một biển xanh, mặt trời bắt đầu toả sáng với ánh hào quang rạng rỡ, mang theo hơi ấm khi nó mọc lên. Muôn vật tự nó phản ánh vinh hiển và vẻ huy hoàng sự Phục Sinh của Chúa Kitô theo nhiều cách. Cái chết của mùa đông phản ánh cái chết của Ngài và sự im lặng của ngôi mộ chiều ngày thứ Bảy. Mọi thứ đi vào im ắng; cảnh vật dường như chết đi, cả động vật và côn trùng cũng chìm vào trạng thái ngủ đông với nhiều hình thức bất động khác nhau. Tuy nhiên, vào một thời điểm, khi sự ấm áp của mặt trời toả lan, một lần nữa, thiên nhiên được gọi từ cái chết mùa đông sang sự sống hừng hực của mùa xuân.
Thiên Chúa nói theo nhiều cách, chu kỳ của thiên nhiên là một trong những cách thức dễ thấy nhất. Hơi ấm sẽ trở lại sau mùa đông, thiên nhiên trỗi dậy và trái đất lại ca hát. Vậy nếu Cha Trên Trời chăm chút nâng niu từng tạo vật nhỏ bé đến như thế, thì Ngài còn quan tâm đến việc tái tạo loài người bao nhiêu nữa? Ngài quan tâm đến sự Phục Sinh của Con Chí Ái của Ngài đến mức nào? Và nhất là, Ngài còn quan tâm bao nhiêu đến việc chúng ta bước vào một cuộc sống mới đã giành cho từng người nhờ sự Phục Sinh của con Ngài? Hãy để vẻ đẹp của tạo vật trở nên dấu chỉ cho chúng ta về một thực tại vĩ đại hơn vô hạn. Hãy để bản thân cuốn hút vào sự mới mẻ được tặng ban trong sự Phục Sinh của Chúa Kitô. Vươn lên có nghĩa là trở nên một tạo vật mới trong Ngài.
Hãy gẫm suy những lời tuyệt diệu này, “Đây là ‘ngày Chúa đã làm ra’, nào ta hãy vui mừng hoan hỷ”. ‘Ngày’ chúng ta vui mừng trong cuộc sống mới mà Thiên Chúa ban cho linh hồn mỗi người là ‘ở đây, lúc này’. Đó là một ngày mới, ngày vinh quang, được biến đổi bởi một con người, một Thiên Chúa, Đấng Phục Sinh, Đức Giêsu Kitô. Cuộc sống mới phải bắt đầu ngay giờ này và phải liên tục trở nên mới mẻ, rạng ngời, khi chúng ta ngày càng đi sâu hơn vào vinh quang của sự Phục Sinh. Hãy suy gẫm về ‘ngày mới’ này, để Ngài ban cho chúng ta điều đó qua quyền năng Phục Sinh.
Anh Chị em,
“Chúa Kitô đã sống lại!” không phải là một công thức ma thuật làm cho các vấn đề tan biến. Không! Sự Phục Sinh của Chúa Kitô không làm điều đó; nhưng thay vào đó, là sự chiến thắng của tình yêu đối với cội rễ của cái ác, một chiến thắng không ‘bỏ qua’ đau khổ và cái chết, nhưng ‘vượt qua’ chúng, ‘đứng trên’ chúng, mở ra một con đường trong vực thẳm, biến cái ác thành cái thiện, và đây là dấu ấn độc đáo cho thấy quyền năng đích thực của Thiên Chúa. Và như thế, ngày lễ Phục Sinh đúng là một ngày tưng bừng hỷ hoan, “Đây là ‘ngày Chúa đã làm ra’, nào ta hãy vui mừng hoan hỷ”.
Trước một thị trấn Áo, tướng Massena bất ngờ xuất hiện với 18.000 quân. Hội đồng thị trấn họp, đầu hàng là câu trả lời duy nhất. Thế nhưng, một cựu quan chức nói, “Hôm nay là lễ Phục Sinh, hãy mừng lễ và cứ để mọi rắc rối cho Chúa, Chúa có cách của Chúa”. Họ cử người đến nhà thờ, xin cha xứ rung chuông báo lễ. Nghe tiếng chuông nhà thờ, quân của Napoléon suy luận, quân đội Áo đã đến giải cứu; họ phá trại và biến mất trước khi chuông của Kinh Vinh Danh ngừng vang lên.
Anh Chị em,
Ngày Phục Sinh là ‘ngày Chúa đã làm ra’. Ngài làm ra lại trời mới đất mới mà con người đã hủy hoại; Ngài nối lại tương quan giữa con người với Thiên Chúa mà Adam đã đánh mất; Ngài giao hoà lại ‘người với Chúa’, ‘người với người’ mà tội đã cắt đứt. Vâng, nơi sự Phục Sinh của Chúa Con, Chúa Cha đã bắt đầu một cuộc sáng tạo mới. Thế nhưng, không phải chỉ hôm nay mới là ‘ngày Chúa đã làm ra’, nhưng mọi ngày là ‘ngày Chúa đã làm ra’; vì thế, chúng ta hãy tưng bừng hỷ hoan. Hãy để cho mình được tưng bừng hỷ hoan, người sống với mình được tưng bừng hỷ hoan. Muốn thế, hãy để mọi rắc rối trong tay Chúa, Chúa có cách của Chúa. Hãy thôi làm điều ác nhưng không ngừng gieo rắc thiện hảo, an bình; hãy là con cái của Đấng Phục Sinh; bớt tìm “những sự thuộc hạ giới và không ngừng tìm kiếm những gì thuộc thượng giới” như thư Côlôssê hôm nay nhắc nhở.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa Phục Sinh, con tạ ơn Chúa đã dùng cái chết đau thương của Ngài mà ‘sinh lại’ thế giới; xin cho con biết sống mọi ‘ngày Chúa đã làm ra’ với ‘tư chất’ của một người con đã được Chúa cứu chuộc: tưng bừng hỷ hoan; và biết ra đi chia sẻ niềm vui ‘được tái sinh’ của mình”, Amen.
27. “Đức Giêsu đã trỗi dậy từ cõi chết”
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Văn Nam)
Tin mừng Ga 20,1-9 – Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ, thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ.
Suy niệm:
Đức Kitô đã sống lại thật! Đó là sứ điệp vĩ đại nhất, quan trọng nhất của Kitô giáo mà phụng vụ lời Chúa hôm nay muốn trình bày cho chúng ta trong ngày lễ mừng Chúa Phục Sinh.
Sách Công Vụ đã ghi lại lời rao giảng của Thánh Phêrô. Ngài đã long trọng xác quyết với viên đại đội trưởng Rôma là Corlanio và cả gia đình ông:“Đức Kitô đã sống lại thật!”. Sau đó, ông và cả gia đình xin học đạo và được rửa tội gia nhập đạo. Phêrô còn xác quyết: Sự chết và phục sinh là cao điểm của cuộc đời Chúa Giêsu và Đức Kitô phục sinh là nền tảng đời sống đức tin của người Kitô hữu.
Thánh Phaolô kêu gọi tín hữu Colosê: Anh em được hiệp thông với Đức Kitô Phục Sinh, thì hãy tìm kiếm những sự trên trời để cùng Người hưởng phúc vinh quang.
Tin mừng hôm nay ghi lại hiện tượng mồ trống, không còn xác Chúa Giêsu ở đó qua ba nhân chứng là Maria Madalena, Phêrô và Gioan. Tất cả đều chứng kiến tận mắt ngôi mộ trống, tảng đá lấp cửa mộ được đẩy qua một bên, khăn liệm xác Chúa xếp lạ gọn ghẽ. Những sự kiện này là bằng chứng xác thực Đức Giêsu Kitô đã sống lại thật. Sau đây chúng ta cùng nhau suy niệm về thái độ của 3 nhân chứng:
- Ngày mai táng Chúa Giêsu, đau buồn, lo âu, sợ hãi bao trùm Maria Madalena và những người phụ nữ đạo đức. Việc xức thuốc thơm thân xác Chúa được làm một cách vội vã, không được chu đáo. Vì thế, vào sáng sớm bà đem thuốc thơm đến mộ để ướp lại xác Chúa. Khi đến nơi, bà thấy ngôi mộ trống, cửa mộ mở toang, không còn thấy xác Thầy ở đó. Maria đã vội vã báo tin cho Phêrô và Gioan. Đối với Maria Madalena, bà đến mộ để xức thuốc thơm cho thân xác Chúa cho chu đáo hơn và bà đến mộ để gặp lại xác Chúa với tâm trạng như thế, bà nhìn vào ngôi mộ trống, bà khó có thể nhận ra Chúa đã sống lại.
- Còn đối với Phêrô, ông sợ hãi, buồn lo vì đã chối Chúa, vì sợ liên lụy “Họ đã giết Thầy, thì cũng có thể giết các đồ đệ”. Điều hiển nhiên là “Chúa đã chết và đang an nghỉ trong ngôi mộ đá”. Điều ông mong muốn là đừng có điều gì rắc rối xảy ra nữa. Ông chạy đến mộ với tâm trạng lo sợ bàng hoàng, ông đã không xác nhận Chúa Giêsu đã từ cõi chết sống lại.
- Sau cùng là thái độ của Gioan. Ông thương Chúa Giêsu và biết rằng Chúa Giêsu yêu mến ông hơn các tông đồ. Tình yêu của ông đã được biểu lộ trong những giờ phút sau hết của Chúa Giêsu. Ông đã theo Chúa trên con đường khổ nạn cho đến lúc cuối cùng và có mặt dưới chân thập giá, an táng Chúa Giêsu… Kinh nghiệm cho thấy khi yêu thương ai, ta luôn nghĩ đến người ấy, luôn cảm thấy sự hiện diện của người ấy trong đời mình, cho dù phải xa cách nhau. Với tâm tình yêu mến đó, Gioan đã nhận ra Đức Giêsu đã sống lại từ cói chết: “Ông đã thấy và ông đã tin”.
Từ đó, chúng ta kết luận: Tình yêu dẫn đến đức tin. Những lo lắng, toan tính trần gian như Maria Madalena đi tìm xác Chúa không đưa đến niềm tin. Những suy tư lý luận của Phêrô chẳng đưa tới đâu, chỉ có tình yêu của Gioan mới dẫn ông tới niềm tin vào Đức Kitô phục sinh.
Tin Đức Kitô Phục Sinh và cảm nghiệm được ơn phục sinh, các tông đồ mở toang cửa, hăng say ra đi đem Tin mừng Phục sinh cho mọi người bất chấp mọi khó khăn gian khổ. Người Kitô hữu tin vào Đức Kitô phục sinh, không được giữ niềm vui cho mình, mà phải loan tin vui đó cho mọi người trong gia đình, trong xã hội bằng cách giúp đỡ, chia sẻ, phục vụ mọi người trong yêu thương.
28. Đức Kitô đã sống lại thật – ViKiNi
(Suy niệm của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm – trong ‘Xây Nha Trên Đá’)
- “Nếu Đức Kitô không sống lại, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng. Và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng. Thế ra chúng tôi là những chứng nhân giả của Thiên Chúa, như thế là chúng tôi chống lại Thiên Chúa” (1Cor. 15, 14-15).
Thánh Phaolô thật rõ ràng, thật quả quyết về Đức Giêsu đã sống lại, nếu Người không sống lại thì Phaolô và tất cả các tông đồ, các tín hữu thời đó vừa phạm tội ác chống lại Thiên Chúa, vừa bị người đời bắt bớ, đánh đập, tù ngục và đóng đinh giết đi. Các tông đồ chịu chết vì điều giả dối đó để làm gì? Để chịu khốn nạn hơn hết mọi người sao? Và giả dối thì tất nhiên, Giáo hội không thể xuất hiện và tồn tại bền vững cho đến ngày nay được. Nhưng chính vì Đức Kitô đã sống lại, đã tiếp xúc với các tông đồ, các ông đã trông thấy, ăn uống, đã đụng chạm đến Người, đã nhận nhiệm vụ Người trao phó đi giảng dạy muôn dân, cho muôn dân tin mà được cứu độ, được sống lại, giải thoát họ khỏi cái chết kinh khủng ngàn thu. Chính vì Đức Kitô sống lại, Phaolô đã bỏ đường bắt đạo, trở lại giảng đạo, giảng sự sống lại của Đức Kitô, ông đã sống chết vì Đức Kitô, đã chịu trăm ngàn khổ cực, đã chịu đóng đinh như Đức Kitô để rao giảng Đức Kitô sống lại cho muôn dân được sống lại với Đức Kitô.
Khi Đức Giêsu bị bắt, bị xét xử, bị đóng đinh chết trên thập giá, thì các tông đồ bỏ trốn, tinh thần các ông đã chết, khi các ông nghe tin mồ trống, các ông cũng khủng hoảng, vì lính canh mồ đang phao tin các môn đệ đã lấy trộm xác. Đó là án tử hình đang đeo vào cổ các ông. Luật thời đó kết án tử hình kẻ trộm cắp. Nhưng khi gặp Đức Giêsu sống lại, các ông đã trở nên dũng mạnh, can trường đứng trước công trường rao giảng Đức Giêsu đã chịu chết và sống lại cho toàn dân đang dự lễ tại đền thánh Giêrusalem (Cv. 2,14-4,31). Các ông còn vui mừng khi bị điệu ra trước thượng hội đồng Do thái để chịu xét xử tù ngục, đánh đòn, chịu khổ vì Đức Kitô. Tuy nhiên, người ta vẫn thắc mắc: Sự sống lại của Đức Kitô quan trọng như vậy, đã thay đổi cuộc sống của các tông đồ như vậy, đã lôi cuốn dân chúng đồng thời với các ông trở lại như vậy, để xây dựng Giáo hội tồn tại vững bền như vậy, tại sao bốn thánh sử chỉ kể lại vắn tắt hai ba lần Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ thôi? Còn về cuộc chịu chết khổ nạn của Đức Giêsu thì các ngài viết rất dài và đầy đủ chi tiết.
- Thánh Marcô chỉ viết 8 câu kể tên 3 bà đi thăm mộ và hoảng sợ khi vào trong mộ thấy một thanh niên mặc áo trắng nói: Đức Giêsu Nagiareth …. đã chỗi dậy rồi …”.
Thánh Luca kể hai lần Chúa hiện ra: Một lần hiện ra với hai môn đệ trên đường Emmau, một lần hiện ra với các tông đồ, Người chúc bình an cho các ông rồi cho các ông rờ xem chân tay có xương thịt rõ ràng, chứ không phải ma, và ăn trước mặt các ông. Rồi Người dạy dỗ và mở trí các ông hiểu Kinh Thánh ứng nghiệm về Người. Người truyền cho các ông đi rao giảng cho muôn dân, rồi Người được rước lên trời.
Thánh Matthêu chỉ kể vắn tắt Đức Giêsu hiện ra với các phụ nữ, rồi hiện ra với 11 môn đệ. Ngài nhấn mạnh đến việc các thượng tế lừa đảo, bảo lính canh mồ phao tin các môn đệ lấy trộm xác.
Thánh Gioan kể dài hơn: Chúa hiện ra ba lần: trước hết với Maria Madalena, và hai lần với các môn đệ: một lần không có ông Tôma, lần sau có cả Tôma, và đoạn 21 cuối do các môn đệ Gioan kể thêm Đức Giêsu hiện ra ơ biển hồ Tiberia lúc các ông đánh cá. Người nướng cá cho các ông ăn và hỏi ba lần Phêrô “Con có yêu mến Thầy không?”.
Thánh Gioan cũng thêm một chi tiết khá tế nhị: Phêrô và Gioan chạy ra mộ khi vào mộ, ông thấy nhưng băng vải và khăn che đầu Đức Giêsu cuốn lại và xếp riêng ra một nơi, chứng tỏ: Không ai đưa xác đi đâu và Đức Giêsu đã sống lại đàng hoàng mới có sự sắp xếp như vậy.
- Sở dĩ các ngài viết vắn tắt về sự sống lại của Đức Giêsu, có lẽ vì những lý do sau:
Thứ nhất: Sự sống lại của Đức Giêsu khác với sự sống lại mà Người đã cho Lagiarô hay con trai bà góa thành Naim và con gái ông Giairô chết được sống lại ở đời này, rồi lại chết. Sự sống lại của Đức Giêsu là sự sống đời đời: “Người không còn chết nữa. Sự chết không còn làm chủ được Người nữa” (Rm. 6, 9). Thân xác Người trở nên vinh hiển: “Người sẽ biến đổi thân xác hèn hạ của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Phil. 3, 21). “Thiên Chúa còn đặt mọi thù địch dưới chân Người, thù địch cuối cùng là sự chết” (1Cor. 15, 25-26). Như vậy Người đã chiến thắng sự chết. Cho nên không thể dùng ngôn ngữ trần gian nào diễn tả sự sống lại huyền diệu của Đức Giêsu được. Các ngài chỉ có thể kể: Người hiện ra đúng như Người lúc bị đóng đinh, có xương thịt, có lỗ đinh đóng chân tay và cạnh sườn, có ăn nói, dậy dỗ, trao quyền rao giảng Tin mừng, chứ không như bóng ma quái. Đồng thời Người lại giống như thần thiêng, không bị lệ thuộc vật chất, Người hiện ra gặp các ông mọi nơi, mọi chỗ dù cửa nhà đóng kín. Thật lạ lùng mãnh liệt đối với các ông. Cho nên chỉ kể thế là đủ.
Thứ hai: Các tông đồ đã trực diện hiển nhiên trước sự sống lại diệu huyền của Chúa, đâu cần phải sống lâu bên Chúa mới nhận ra Người sống lại. Các ông tiếp xúc trực tiếp với Người bằng tất cả mọi giác quan: tai, mắt, miệng lưỡi, chân tay, lòng trí và cả tâm hồn với mọi cảm tính từ hoảng sợ, nghi ngờ đến vui mừng, yêu mến tha thiết, từ đời sống lo âu đến đời sống bình thường, từ chốn ẩn lánh kín đáo đến công trường trước đông đảo quần chúng, hơn nữa chính Chúa còn mở trí cho các ông thấu hiểu các sách luật Môisê, các Ngôn sứ và Thánh vịnh, Thánh Kinh đã ứng nghiệm về Người (Lc. 24, 44-45). Chính các tông đồ là những cuốn sách sống động cho muôn dân hơn muôn vàn sách viết chữ. Chính các ông là những chứng nhân trực tiếp rõ ràng nhất bằng lời giảng, bằng đời sống, bằng gương lành, và bằng chính những cái chết anh dũng của các ngài, nhất là bằng ân sủng của Chúa Con, bằng tình yêu của Chúa Cha và bằng tác động của Chúa Thánh Thần. Những người có thiện tâm đều tin vững vàng Đức Giêsu đã sống lại thật. Kẻ cố chấp, ác tâm thì dù biết moi chi tiết rõ ràng, như quân dữ, họ cũng viện mọi lẽ để không tin Người.
Thứ ba: Như Tử Cống hỏi Khổng Tử: “Người chết còn biết không?”. Người đáp: “Nếu Ta nói: Người chết còn biết, thì sợ con cháu hiếu thảo liền chết theo ông cha, nếu Ta nói người chết không còn biết nữa, thì sợ con cháu bất hiếu, cha mẹ chết bỏ không chôn” (Khổng Tử gia ngữ: Trí tự VIII.)
Cũng vậy, nếu Chúa không sống lại, hay vật chất hóa sự sống lại của Chúa bang xương bằng thịt cho người ta thấy luôn luôn, thì người ta không còn tin Chúa bởi trời xuống nữa. Người ta chết là hết, hay người ta tìm được thuốc trường sinh, thì người ta không cần Thiên Chúa nữa. Người ta sẽ sống thoải mái theo thú tính của mình và chắc chắn thế giới này sẽ nguy hiểm kinh khủng vì ai cũng lo giành dựt, xâm chiếm về cho mình hưởng thụ.
Nếu Đức Giêsu sống lại hoàn toàn vô hình, các tông đồ không thấy Người sống lại thì chắc các ông sẽ không thể tin Người sống lại, do đó, các ông đâu còn dám chết đi để làm chứng Người sống lại.
Cho nên Đức Giêsu đã xuống thế gian làm người để chết đi và sống lại cho người ta thấy tình thương bao la hữu hình của Người để người ta kính mến Người, và lên trời vô hình để người ta tin Người là Thiên Chúa hằng sống.
Lạy Chúa Giêsu, Người đã sống lại thật. Alleluia. Chúng con phấn khởi vui mừng. Alleluia. Chúng con cảm tạ và tung hô Chúa muôn đời. Alleluia.
(Suy niệm của Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
- DẪN NHẬP.
Các bài đọc trong thánh lễ hôm nay đều nói đến việc Đức Giêsu sống lại. Thánh Phêrô đã loan báo cho quan bách quản Cornêliô về các sự việc đã xẩy ra nơi Chúa Giêsu: đi truyền giáo, chịu chết trên thập giá và sống lại vinh quang (Bài đọc 1)
Thánh Gioan nói cho biết sự kiện ngôi mộ trống mà ngài đã tận mắt trông thấy là bằng chứng nói lên việc Chúa sống lại (Bài Tin mừng)
Còn thánh Phaolô khuyên các tín hữu hãy tin vào Chúa sống lại, hãy hướng lòng về trời là quê hương thật và đừng để những đam mê trần tục chi phối làm hư hỏng con người (Bài đọc 2).
- TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: Cv 10,34.37-43.
Viên quan bách quản Rôma, là người ngoại giáo, khi nghe biết về Chúa Giêsu, đã đến xin ông Phêrô làm phép rửa để được gia nhập cộng đoàn các tín hữu đầu tiên. Thánh Phêrô đã nhắc cho ông và gia đình ông niềm tin căn bản này: Đức Giêsu đã phục sinh. Đây là bài giảng đầu tiên mà Phêrô dạy dỗ cho những người tân tòng. Thánh Kinh gọi bài giảng truyền giáo này là Keryma. Lược đồ của mỗi Keryma thường là:
- a) Tóm tắt cuộc đời của Đức Giêsu ở trần thế.
- b) Cái chết của Ngài.
- c) Việc Ngài sống lại.
- d) Kêu gọi hãy tin vào Ngài để được ơn cứu độ.
Tin vào Chúa Kitô phục sinh là một điều kiện tiên quyết phải có vì nếu Chúa Giêsu không sống lại thì niềm tin của ta trở nên trống rỗng. Vì thế, sự phục sinh của Đức Giêsu chính là trung tâm của lịch sử nhân loại, là nền tảng cho niềm tin Kitô giáo.
+ Bài đọc 2: Cl 3,1-4).
Trong bức thư gửi cho tín hữu Côlôssê, thánh Phaolô kêu gọi những ai đã nhờ phép rửa mà được tham dự vào mầu niệm Vượt qua, hãy sống một đời sống tỏa hương thánh thiện:”Hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giói”(Cl 3,1-2).
Các tín hữu đã tin vào Chúa Phục sinh, nhưng chưa đủ, còn phải thể hiện niềm tin đó trong cuộc sống. Mặc dầu phải sống giữa những thay đổi của trần gian này, phải chịu vật chất chi phối, nhưng đừng để lòng mình ra nặng nề, hãy hướng lòng trí về trời là quê hương thật. Đức Kitô phục sinh đem đến cho chúng ta niềm hy vọng trong cuộc sống hiện tại để hướng về cuộc sống mai hậu.
Người tín hữu tìm được ý nghĩa thực của đời sống dưới ánh sáng phục sinh mà họ đang tiến về. Do đó, họ không được thoát ly khỏi cuộc sống đời này với nhiều nghĩa vụ, bao gian nan thử thách; tuy thế, họ đã tìm được ý nghĩa của cuộc sống trong sự kết hợp với Đức Kitô Phục sinh.
+ Bài Tin Mừng: Ga 20,1-9.
Trong bài Tin mừng này, thánh Gioan nhắc đến Maria, người tội lỗi, mà Chúa đã trừ cho khỏi bảy qủi. Bà rất yêu mến Chúa. Ngay sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần bà đã ra mộ viếng Chúa, nhưng thấy mộ trống. Bà tức tốc chạy về báo tin cho ông Phêrô và các tông đồ biết: người ta đã lấy trộm xác Chúa. Ông Phêrô và Gioan đã ra mộ và thấy sự kiện ấy: ngôi mộ trống. Phêrô tỏ ra không hoảng hốt, ông bình tĩnh, xem ra ông đã tin Thầy mình phục sinh rồi.
Thực ra, sự kiện ngôi mộ trống chưa có thể xác quyết được sự kiện Chúa sống lại. Chúng ta còn phải nhờ Kinh Thánh và với đức tin chân thật thì mới có thể tin Chúa đã sống lại. Chính người Do thái không tin vào sự kiện đó và cho rằng xác Đức Giêsu đã bị lấy trộm đi. Việc Chúa sống lại chỉ là tin vịt do các môn đệ dựng nên. Tuy thế, đối với ông Gioan thì không còn nghi ngờ gì nũa:”Ông đã thấy và ông đã tin” (Ga 20,9).
- THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Thành công và thất bại
- ĐỨC GIÊSU THÀNH CÔNG HAY THẤT BẠI?
Trong mùa chay, cách riêng trong tuần thánh vừa qua, tâm trí chúng ta luôn luôn bị căng thẳng, tâm hồn chúng ta luôn luôn bị xúc động và hồi hộp khi suy ngắm những biến chuyển nơi Chúa Giêsu trước đây ngót hai ngàn năm, mà Giáo hội đã diễn lại một cách sống động khác nào sự việc đang xẩy ra vậy:
Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem (Ga 12,13)
Chúa từ giã các môn đệ (Mt 16,45).
Chúa ăn bữa tối sau hết (Mc 14,15).
Chúa rửa chân cho 12 tông đồ (Ga 13,50.
Chúa lập phép Thánh Thể (Lc 22,17).
Chúa vào vườn Cây Dầu cầu nguyện (Lc 22,42).
Chúa bị Giuđa tìm bắt (Lc 22,48).
Chúa bị điệu đến dinh Philatô (Lc 23,1)
Chúa chịu đánh đòn (Mt 26,67).
Chúa chịu đội mạo gai (Mt 27,29).
Chúa bị nhạo báng (Mt 27,30).
Chúa phải vác thánh giá nặng (Lc 23,26).
Và sau cùng Chúa phải chịu đóng đinh vào thập giá (Lc 23,33).
Tất cả những điều này đã làm lu mờ sự nghiệp của Chúa: nào làm bánh hóa ra nhiều – nào kẻ mù được sáng – kẻ điếc được nghe – kẻ câm được nói – kẻ què được đi – kẻ chết sống lại với những niềm tin Người là Đấng Cứu thế muôn dân đợi trông – là Con Thiên Chúa, tất cả đều tan đi như mây khói.
Nhưng ở đời có tan thì lại có hợp, có mưa rồi lại có nắng, và có thất bại rồi mới có thành công vì như người ta nói:”Thất bại là mẹ thành công”. Nếu chỉ dừng lại ở đây thì Đức Giêsu đã thất bại hoàn toàn, bởi vì người ta thường nói: chết là hết, bao nhiêu sự nghiệp đều tiêu tan. Có biết bao nhiêu anh hùng cái thế, bao nhiêu bậc vĩ nhân trên thế giới đã làm được những công việc vĩ đại, nhưng rồi họ cũng đã ra đi, họ bị lãng quên cùng thời gian, họa chăng chỉ còn trong sử sách.
Nhưng đối với Đức Giêsu, Ngài đã thành công giữa những thất bại. Những thất bại Ngài phải chịu trong một thời gian càng làm cho thành công của Ngài thêm vinh quang. Đúng như văn hào Corneille đã nói:”Chiến đấu có gian nan, khải hoàn mới vinh quang”. Nhìn vào cuộc tử nạn của Ngài, ta thấy Ngài thất bại hoàn toàn bởi vì bao nhiêu sự nghiệp lẫy lừng Ngài đã làm trong ba năm truyền giáo đã bị tiêu tan. Nhưng Thiên Chúa đã làm cho Ngài sống lại như lời Ngài đã báo trước lúc còn sinh thời. Ngài đã sống lại, nên các sự nghiệp xem ra đã bị tiêu tan, ngày này cũng được sống lại theo và muôn đời sẽ còn ghi nhớ những công việc ấy. Ngày nay, sau 2000 năm, hằng tỷ người vẫn còn nhắc đến những sự kiện ấy, nhất là trong Tuần thánh vừa qua.
- THẤT BẠI VÀ THÀNH CÔNG TRONG ĐỜI THƯỜNG.
- Suy nghĩ của người đời.
Trong cuộc sống hằng ngày, không ai dám nói rằng mình chưa bao giờ gặp đau khổ, chưa bao giờ nếm mùi thất bại, chỉ có những kẻ không làm gì thì mới không thất bại. Thất bại và thành công luôn đi đôi với nhau, cũng như vinh với nhục là chị em với nhau, đã có vinh thì có nhục:
Nước dưới sông có khi trong khi đục,
Trang anh hùng có khi nhục khi vinh.
(Tục ngữ)
Xưa nay biết bao người không thành công, chí không đạt được, là vì bỏ cuộc giữa đường, thất vọng tràn trề khi gặp hết tai nọ đến nạn kia. Người có chí phải bền gan gánh vác việc đời, bắt chước theo câu phương ngôn người Nhật:”Ngã xuống bảy lần, lần thứ tám đứng dậy “ mà hành động thì mới mong thành đạt.
Ngày xưa, Hán Bái Công đánh với Hạng Vũ, trăm trận đều thua, vậy mà ông vẫn không hề thối chí, cho đến khi thắng trận cuối cùng thì thành được đế nghiệp. Lưu Bị đời Tam quốc, lúc chưa gặp thời, lang thang ở trọ hết nơi này sang nơi khác, không mảnh đất dung thân, thất bại bao phen, nhiều lần suýt vong mạng, vậy mà vẫn bền gan chịu đựng cho đến ngày làm vua một cõi.
(Nguyễn văn Y, Có chí thì nên, 1971, tr 24-25)
Muốn thành công phải chấp nhận thất bại vì như người ta thường nói:”Thất bại là mẹ thành công”. Đối với người hèn kém thì thất bại là cơ hội làm cho họ nhụt chí, còn đối với người hùng thì thất bại là dịp thúc đẩy họ tiến lên hơn.
Vì thế, René Bazin, hàn lâm viện Pháp, có khuyên mọi người: ”Đừng sợ thất bại. Lần thất bại thứ nhất cần phải có, vì nhờ đó mà ý chí ta thêm cứng cát. Lần thất bại thứ hai có thể có ích. Bị bại lần thứ ba mà anh vẫn đứng vững, thì anh thật là một người…, anh như chùm nho chín ở trên đá sỏi: Không có thứ nho nào ngọt hơn nữa”.
Hòn sỏi nào tròn trịa trơn láng mà chẳng phải chịu biết bao nhiêu sự cọ xát từ tháng năm này sang tháng năm khác. Con người muốn đạt được sự cao qúi của tâm hồn, học hỏi được kinh nghiệm sống, không thể chưa từng va chạm tới trăm đau nghìn khổ. Xưa nay anh hùng hào kiệt, chí sĩ văn gia, những bậc tài hoa dường như đều trần ai như thế cả. Nếu mỗi lần gặp gian nguy, trở ngại mà lùi lại thì bao giờ mới đặt chân được đến đài vinh quang (Sđd, trang 27).
Cũng trong tư tưởng ấy, Abraham Lincoln nói:”Điều mà tôi muốn hiểu trước hết, không phải là anh có thất bại không, mà là anh có biết chấp nhận sự thất bại của anh không”.
Ông Henry Ford cũng khuyên:”Một cuộc thất bại chỉ là cơ hội để thử lại lần thứ nhì với nhiều khôn ngoan hơn”.
- Chuyển bại thành thắng.
Trong cuộc sống thường ngày cũng như trong đời sống thiêng liêng, chúng ta đã có kinh nghiệm: không thiếu gì thành công, nhưng cũng chứa đầy thất bại. Có người vui sướng đón nhận những thành công và buồn rầu chấp nhận thất bại; nhưng cũng có những con người xứng đáng là con người: đón nhận thành công nhưng cũng bình tĩnh và đôi khi vui lòng đón nhận thất bại. Đối với những con người này, họ coi thất bại chỉ là động lực khiến họ mạnh dạn tiến lên đến thành công. Thành thử, thất bại không còn gì là đáng sợ mà chỉ là cơ hội cho họ can đảm hơn.
Ai cũng đã có lần thành công mỹ mãn, nhưng cũng đã có lần gặp những thất bại chua cay. Thất bại cũng có ý nghĩa của nó.
Có hai loại thất bại:
– Thất bại khách quan (hay thụ động, tiêu cực).
– Thất bại chủ quan (hay chủ động, tích cực).
Thất bại khách quan: đó là những thất bại không thể tránh được vì nó vượt quá sức lực của con người. Đó là tình trạng bi đát, không còn cách nào tránh né và cũng không thể chỗi dậy được. Đối với những loại thất bại này, người ta chỉ thụ động chịu đựng ví dụ như bệnh tật, sa cơ thất thế, thua trận…
Thất bại chủ quan: đó là những thất bại có tính toán trước theo phương pháp:”Thả con tép, bắt con tôm” hay “Hy sinh đời bố, củng cố đời con”. Người ta sẵn sàng chịu những thất bại nhỏ để đạt tới những thành công lớn, hay ít ra chịu thất bại trước mắt để thành công trong tương lai. Như vậy, người ta không nhằm rước lấy thất bại những nhằm đón lấy thành công sau này.
– Chúng ta đã có kinh nghiệm trong thể thao: muốn nhảy xa, muốn nhảy cao, người ta phải lùi lại nhiều bước rồi mới tiến lên, mới nhảy cao, nhảy xa được, những bước lùi đó chính là những bước tiến, vì không có nó thì không thể nhảy cao, nhảy xa được.
– Trong chiến trận cũng thế: đôi khi người ta phải giả vờ thua chạy tháo lui cho quân địch đuổi theo, khi quân địch lọt vào vòng vây, khi ấy người ta mới phản công, chiến thuật này rất nguy hiểm, đã bị lọt vào trong vòng vây, quân địch không còn cách nào tháo lui được nữa và chắc chắn người ta thành công.
– Trong cuộc sống hằng ngày, người ta cần phải hiểu phương cách “Tiến thoái”. Tiến là đi lên, thoái là đi xuống hoặc rút lui. Có một sự tương quan biện chứng giữa tiến và lùi. Tiến chưa hẳn đã thắng và lùi chưa hẳn đã thua. Trong cái lùi đã có cái thắng. Như trong thể thao và trận chiến, chúng ta đã nhận thấy phải có lùi thì mới tiến được, lùi là điều kiện phải có để tiến, lùi đây là lùi chiến thuật.
Chúng ta thử xem câu nói này có đúng không? Mới đọc xem ra vô lý, nhưng nếu suy nghĩ kỹ thì câu nói ấy rất hay. Đây là một kiểu nói bắt người đọc phải động não mới tìm ra ý nghĩa của nó:”
“Một ngàn việc tiến,
“Chín trăm chín mươi chín việc lùi,
đó là TIẾN BỘ”.
(Henri Frédéric AMIEL)
III. THẤT BẠI VÀ THÀNH CÔNG TRONG ĐỜI SỐNG THIÊNG LIÊNG.
- Chúa đã sống lại thật.
Khi còn sinh thời, Đức Giêsu đã nhiều lần loan báo trước Ngài sẽ bị bắt, đánh đòn, giết chết và sau ba ngày thì sống lại. Sự kiện tiên tri Giona nằm trong bụng cá ba ngày và việc xây đền thờ Giêrusalem trong ba ngày đã là những hình ảnh báo trước việc Đức Giêsu sống lại sau ba ngày đã chết. Trên dương gian này, những ai đã chết là chết luôn, chỉ có Đức Giêsu mới có thể dùng quyền năng của mình mà tự sống lại.
Đức Giêsu đã sống lại thế nào? Ai đã khám phá ra điều này? Cả bốn sách Tin mừng đều tường thuật về biến cố này, nhưng đều không cho biết Đức Giêsu đã sống lại thế nào. Vì thật sự, không ai có mặt để chứng kiến biến cố lịch sử quan trọng này. Nhưng có những nhân chứng đã thấy ngôi mộ trống, họ quả quyết xác Chúa không còn trong mộ, và sau đó Chúa đã hiện ra nhiều lần với họ, xác nhận Ngài đã sống lại, đồng thời dạy bảo họ nhiều điều. Đó là các tông đồ và một số phụ nữ… những nhân chứng về sự sống lại của Đức Giêsu.
Như vậy, một điều chắc chắn: sự kiện Đức Giêsu phục sinh không thể minh chứng một cách rõ ràng như chúng ta minh chứng một biến cố, một sự kiện tự nhiên mà phải dùng đến đức tin. Cho nên, đối với chúng ta việc Chúa sống lại là vấn đề đức tin: phúc cho ai không thấy mà tin.
- Phải sống theo niềm tin ấy.
Trong mùa Phục sinh chúng ta vẫn đọc đi đọc lại câu:”Người đã sống lại thật như lời đã phán hứa”. Chúng ta tin thật Đức Giêsu đã sống lại như lời minh chứng của Thánh Kinh, chúng ta hân hoan ca mừng việc Chúa sống lại vì Ngài đã chết để tiêu diệt sự chết và đã sống lại để phục hồi sự sống cho chúng ta. Chúng ta tin chắc như vậy! Nhưng tin như thế vẫn chưa đủ, còn phải thể hiện niềm tin ấy ra trong cuộc sống hằng ngày. Phải theo gương Đức Giêsu mà chết đi để rồi mới sống lại được. Phần thưởng của chúng ta chỉ có được sau khi đã trải qua mọi thử thách trong cuộc sống ở trần gian này: per crucem ad lucem!
- a) Có những nghịch lý phải chấp nhận.
Chúng ta đã có một gương sán lạn của Đức Giêsu: Người đã chịu chết để chuộc tội cho nhân loại. Trước mặt người đời, người ta cho là Đức Giêsu đã thất bại hoàn toàn vì chết là một thất bại, mọi sự nghiệp đã tan thành mây khói. Nếu chết là hết mà không có sự sống lại thì Đức Giêsu bị thất bại hoàn toàn, nhưng sau cái chết đã có sự sống lại. Ngài đã dùng sự chết để đánh tan cái chết và sống lại để phục hồi sự sống lại cho chúng ta. Vậy Ngài đã chuyển bại thành thắng, đã thành công trong thất bại.
Trong cuộc sống của chúng ta cũng thế, chúng ta phải chấp nhận hy sinh, phải lột bỏ con người cũ đầy tội lối để mặc lấy con người mới thánh thiện. Chúng ta có chết đi cho tội lỗi thì mới hy vọng được sống lại vinh quang như lời Chúa Giêsu dã nói:”Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12,24). Như vậy, chúng ta phải đón nhận những thất bại đời này để chuẩn bị cho đời sau. Đây chỉ là thất bại chiến thuật vì trong thất bại đã có chiến thắng.
Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta thấy có những nghịch lý. Nghịch lý là điều thoạt xem có vẻ phi lý nhưng khi suy nghĩ kỹ thì thấy rất hợp lý. Chúng ta thấy có nghịch lý giữa “mất” và “được” hay giữa “bị” và “được”. Theo khuynh hướng tự nhiên thì ai cũng muốn “được” và sợ “mất”, muốn “sống” hơn là “chết”. Nhưng nghịch lý thay! Nhiều khi vì “được” mà phải “mất”. Ví dụ: bạn muốn cho có một mùa bội thu thì hạt giống phải “bị” mục nát ra thì mới có thể “được” một mùa bội thu, nếu không “bị” thì cũng chẳng có “được”.
Hay một ví dụ khác: trong một vụ tranh cãi bạn cố gắng dùng đủ mọi mưu mô để tranh cãi cho bằng được, kết quả là bạn thắng trong vụ cãi nhưng mất tình nghĩa bạn bè hay người thân; trái lại, nhiều khi “mất” mà lại “được”. Ví dụ: thánh Anphongsô là một luật sư nổi tiếng. Một lần kia ngài biện hộ cho một vụ kiện lớn, ngài bị thua. Thất bại ê chề hôm đó đã giúp cho ngài nhận thức rằng danh vọng thế gian chỉ là giả trá, ngài đi tìm một lẽ sống khác và trở thành một vị thánh lập dòng (Cf Carôlô).
Chúng ta cũng thấy có một nghịch lý nữa giữa “sống” và chết”. Chết và sống không phải là ø hai điều luôn đối nghịch nhau, nhiều khi chúng liên kết hỗ trợ nhau: sự chết nuôi sự sống và sự sống sống được là nhờ sự chết. Ví dụ: con vật phải chết đi mới có thịt nuôi sống con người, hay cây nến sáp phải chảy ra và bị đốt thì anh sáng mới bùng lên soi sáng cho con người.
Đối với cái chết của Chúa trên thập giá cũng vậy. Đức Giêsu chính là Đấng mà con rắn đồng trong sa mạc là hình ảnh loan báo trước:”Khi các ông đưa Con người lên cao, các ông sẽ nhận biết Ta là ai”. Như thế việc Đức Giêsu chết trên thập giá không phải là một thất bại mà là một chiến thắng. Ngài không “bị” mà “được” đưa lên cao để trở thành nguồn ơn cứu độ cho những ai tin tưởng nhìn lên Ngài.
Vì thế, chính khi Đức Giêsu “bị” giết chết trên thập giá là lúc Ngài “được” tôn vinh và là nguồn ơn cứu độ cho nhiều người. Khi chúng ta “bị” đau khổ nhưng biết nhìn lên thập giá Đức Giêsu là lúc chúng ta “được” cứu độ. Nhìn ngược lại ngày xưa, khi nguyên tổ tưởng mình “được” bằng Thiên Chúa thì lại “bị” đuổi ra khỏi vườn địa đàng.
Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta hãy nghiền ngẫm câu nói của Đức Giêsu:”Ai yêu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời”(Ga 12,25). Như vậy, chúng ta thấy rõ tương quan giữa cái “mất” và cái “còn”.
Truyện gợi ý: Phải biết tan biến đi
Nếu Đức Giêsu là người Ả rập, thì thay vì hình ảnh của hạt lúa được gieo vào lòng đất, có lẽ Ngài sẽ kể câu truyện ngụ ngôn sau đây:
Một dòng suối mát rơi từ ngọn núi, chảy qua một đồng bằng cho đến khi chạm đến một sa mạc. Tại đây, nó chợt nhận ra nước của mình bắt đầu bốc hơi và khô dần. Dù vậy, dòng nước vẫn quyết tâm băng qua sa mạc. Nó nghe có tiếng thì thầm:
– Nếu ngươi muốn, ngươi có thể băng qua sa mạc được, bởi vì gió vẫn làm được điều đó.
Dòng suối giận dữ:
– Nhưng ta có phải là gió đâu?
Nó thấy gợi ý của tiếng thì thầm là điều ngu xuẩn, nhưng tiếng nói vẫn tỏ ra kiên nhẫn:
– Gió sẽ mang ngươi đi. Dĩ nhiên với điều kiện là ngươi phải tan biến đi trong gió.
Dòng suối suy nghĩ miên man về ý nghĩa này: nó vẫn chưa hiểu được tại sao nó phải tan biến đi, phải chăng nó phải đánh mất chính mình? Điều gì bảo đảm được rằng khi băng qua hết sa mạc, nó sẽ tìm lại được bản thân một cách nguyên vẹn? Đọc được ý nghĩ của nó, gió mới lên tiếng
– Ngươi chỉ cần tin tưởng nơi ta, không còn cách nào khác nữa đâu.
Dòng suối vẫn tiếp tục giữ giọng kiêu hãnh:
– Đồng ý, nhưng ta không thể chấp nhận tan biến được.
Tiếng nói thì thầm giải thích:
– Ngươi không thể băng qua sa mạc mà vẫn giữ nguyên hình nguyên trạng được. Làm thế ngươi chẳng khác nào một con rắn xấu xí, nhưng nếu ngươi để cho gió mang ngươi đi xuyên qua sa mạc, thì bên kia sa mạc, ngươi sẽ hiện nguyên hình là một dòng suối xinh đẹp. Dòng suối thắc mắc:
– Vẫn một dòng suối như cũ ư?
Giọng nói giải thích:
– Dĩ nhiên, ngươi sẽ tìm gặp lại bản thân, tóm lại nếu ngươi cứ chần chừ đứng ở đây, ngươi cũng sẽ đánh mất chính mình ngươi mà thôi.
Thế là dòng suối chấp nhận biến thành hơi nước và để cho gió mang đi. Nó cùng với gió băng qua sa mạc. Và khi cả hai đến đầu ngọn núi bên kia sa mạc, gió để cho nó rơi từ từ như mưa. Không mấy chốc, dòng suối gặp lại chính nó, đẹp hơn, trong suốt hơn.
(R. Veritas, Mạch nước trường sinh, tr 96-97)
Hạt lúa có được gieo vào lòng đất để thối đi mới có thể sinh hoa kếtr quả. Dòng suối có chấp nhận tan biến trong gió mới có thể gặp lại bản thân. Đây là định luật của cuộc sống thiêng liêng mà Đức Giêsu đã vạch ra cho chúng ta. Đây là con đường siêu thoát, con đường chiến đấu, ai muốn được sự sống đời đời không thể đi theo con đường nào khác.
- b) Chiến đấu không lùi bước.
Đức Giêsu đã chỉ đường dẫn lối cho chúng ta tiến tới cuộc sống đời đời. Con đường ấy là con đường khổ giá. Con đường từ bỏ, con đường siêu thoát chính mình, vì Đức Giêsu đã phán:”Ai muốn theo Ta hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo”. Đấy là con đường một chiều, ai đã theo thì chỉ có tiến chứ không có lùi, như thế mới xứng đáng làm môn đệ của Chúa:”Ai đã tra tay cầm cầy mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa”(Lc 9,62).
Thập giá của Chúa trao không nặng lắm, luôn vừa sức ta, nhưng đòi hỏi ta phải kiên trì vác hằng ngày vì sự khốn khó ngày nào đủ cho ngày ấy. Hãy bắt tay vào việc ngay, đừng chần chừ, đừng để công việc hôm nay sang ngày hôm sau. Về vấn đề này, ta hãy nghe John Newton nói:
“Những khổ sở mà đời chúng ta phải chịu cũng giống như một bó củi rất to và rất nặng. Chắc chắn chúng ta không vác nổi. Nhưng Thiên Chúa đã thương tháo dây bó củi đó ra, rồi chia nó ra để mỗi ngày chỉ chất lên vai ta một khúc thôi. Hôm sau một khúc nữa, và hôm sau tiếp tục… Cuối cùng ta cũng vác xong hết bó củi. Nhiều người lại không làm như thế: chẳng những họ chất lên vai khúc củi của hôm nay mà còn thêm vào đó khúc củi của hôm qua và khúc củi của ngày mai. Lạ gì họ không vác nổi”.
Hãy tin tưởng cất bước, quyết không lùi trước những khó khăn. Phần thưởng chỉ dành cho những ai chiến đấu và kiên trì cho đến cùng. Hãy tin tưởng vào Chúa, Đấng đã trải qua mọi khó khăn sẽ giúp đỡ chúng ta vượt qua mọi thử thách. Trong cuộc chiến này, chúng ta chỉ biết tiến chứ không biết lùi.
Truyện: Quên bài kèn rút lui.
Trong một trận giao tranh ác liệt giữa quân của Napoléon và quân địch, trận chiến càng về khuya càng ác liệt và phần thắng dần dần nghiêng về phía địch. Quân của Napoléon chết rất nhiều, hàng ngũ rối loạn mặc dầu cuộc chiến đấu vẫn còn tiếp tục nhưng rời rạc. Nhìn rõ thế trận, Napoléon biết phải làm gì, vua gọi tên lính thổi kèn lại gần và ra lệnh:”Hãy thổi kèn lui binh vì quân ta chết quá nhiều”.
Tên lính trẻ được lệnh, nhảy tót lên ngựa, phi nhanh ra giữa trận, và đưa kèn lên thổi hồi kèn thúc trận một cách mạnh mẽ. Quân của Napoléon đang mệt mỏi và thất vọng, nghe tiếng kèn thúc quân, tưởng có viện binh tới giúp, chồm dậy phản công kịch liệt. Kèn cứ thổi, đám tàn quân vươn mình lên vừa đánh vừa la hét. Kết quả thế trận thay đổi: quân của Napoléon toàn thắng bất ngờ. Tuy nhiên, hoàng đế Napoléon sai bắt tên lính kèn kia lại, và khiển trách y rất nặng nề về tội bất tuân thượng lệnh. Anh lính bình tĩnh tâu:”Muôn tâu đức vua, từ khi được theo bước chân ngài trong binh lửa, và chiến đấu trăm trận đều trăm thắng cho nên hạ thần đã quên hẳn bài kèn rút lui rồi”.
Muốn có chiến thắng thì phải chiến đấu. Chiến đấu càng cam go, chiến thắng càng vinh quang. Không có thành công nào mà không đòi cố gắng. Thành công của chúng ta là biết lắng nghe và thi hành thánh ý Chúa. Để giúp chúng ta biết cách kiên trì sống theo thánh ý Chúa với niềm tin tưởng trong gian truân, chúng ta hãy đọc đoạn thư của thánh Phaolo âtông đồ gửi cho tín hữu Do thái sau đây:
“Anh em đã quên lời khuyên nhủ được nói với anh em như với những người con: Con ơi, đừng coi nhẹ Lời Chúa sửa dạy, chớ nản lòng khi Người khiển trách. Vì Chúa thương ai thì mới sửa dạy kẻ ấy, và có nhận ai làm con thì Người mới cho roi cho vọt. Anh em hãy kiên trì cho Thiên Chúa sửa dạy. Người đối xử với anh em như với những người con. Thật vậy, có đứa con nào mà người cha không sửa dạy? Nếu anh em không được sửa dạy như tất cả mọi người, thì khi đó anh em là con ngoại hôn, chứ không phải là con chính thức. Vả lại, chúng ta có cha trần thế sửa dạy mà chúng ta vẫn tôn kính, thì chúng ta lại càng phải tùng phục Cha trên trời để được sống. Cha trần thế sửa dạy chúng ta trong một thời gian ngắn, và theo sở thích của mình; còn Thiên Chúa sửa dạy là vì lợi ích của chúng ta.
30. Galilê, điểm hẹn của Chúa Giêsu
(Suy niệm của Lm Giuse Đỗ Văn Thụy)
Tin mừng Ga 20, 1-9: Galilê, một vùng đất đã ghi đậm kỷ niệm về tất cả những lời nói và hành động hết sức gần gũi của Đức Giêsu Nagiaret. Chính vì vậy, biến cố Phục Sinh cần phải được nối lại với những gì xảy ra trước đó ở Galilê…
Chúng ta cần dừng lại thật lâu bên mộ Chúa để hiểu mầu nhiệm Vượt Qua. Một ngôi mộ mới, chưa chôn cất ai. Ngôi mộ này ngôi mộ của ông Giuse, một môn đệ âm thầm của Đức Giêsu. Ngôi mộ nằm im lìm như trăm ngàn ngôi mộ khác. Một tảng đá to ngạo nghễ che cửa mồ. Xác Đức Giêsu nằm trong mộ, tối tăm, như hạt lúa ủ trong lòng đất.
Một đêm thật u buồn, thật ảm đạm! Ba phụ nữ chỉ mong cho chóng sáng. Họ thấp thỏm không ngủ được, chỉ nghĩ đến ngôi mộ, với xác của Thầy nằm đó. Và khi lóe lên những tia nắng đầu tiên của mặt trời, thì cả ba đã sẵn sàng ra thăm mộ, với dầu thơm vừa mua được để ướp xác.
Khi đi đường, họ chỉ có một nỗi bận tâm: “Ai sẽ lăn tảng đá ra cho chúng ta?” Tảng đá to lớn, thật là một trở ngại… Nhưng lạ thay, khi đến nơi, các bà thấy tảng đá đã được lăn ra một bên, và xác của Thầy cũng không còn ở đó nữa. Sứ thần Chúa loan báo Tin Vui: Đấng Bị Đóng Đinh đã chỗi dậy, Ngài hẹn gặp các môn đệ tại Galilê.
Tại sao Chúa lại hẹn gặp các môn đệ tại Galilê mà lại không ở một nơi nào khác?
Vậy việc hẹn gặp ở Galilê mang ý nghĩa gì?
Và đâu là lý do để Chúa hẹn gặp các môn đệ ở Galilê?
Câu trả lời vẫn là: Galilê là quê hương của các môn đệ.
Mọi sự đều bắt đầu ở đó. Một ngày kia, Đức Giêsu đã đến với họ. Ngàibắt gặp họ đang hành nghề đánh cá. Họ hết sức xúc động trước cái nhìn và lời lẽ của Ngài. Họ bị đánh động và cảm thấy như một niềm hy vọng mãnh liệt vươn dậy trong lòng, đến nỗi họ đã không ngần ngại đi theo Ngài với niềm hăng say nhiệt tình của tuổi trẻ và với tất cả niềm hạnh phúc vì đã tìm ra Đấng mà các tiên tri loan báo, Đấng mà mọi người chờ mong.
Galilê, đó là nơi mà Đức Giêsu đã để lại dấu vết hiện diện của Ngài:
– là Cana, nơi Ngài đã hóa nước thành rượu ngon,
– là ngọn núi nơi Ngài công bố các Mối Phúc Thật,
– là những phép lạ chữa lành bệnh tật mà họ là nhân chứng với tất cả sự kinh ngạc,
– là những đám đông hứng khởi và ngày một đông đảo hơn,
– là những bữa ăn cùng nhau chia sẻ,
– là những nẻo đường rong ruổi mà các môn đệ đi theo Đức Giêsu.
Như thế, Galilê, một vùng đất đã ghi đậm kỷ niệm về tất cả những lời nói và hành động hết sức gần gũi của Đức Giêsu Nagiaret. Chính vì vậy, biến cố Phục Sinh cần phải được nối lại với những gì xảy ra trước đó ở Galilê.
Trở lại Galilê là cách thức giúp họ tìm lại một con người rất thật và rất gần gũi của Đức Giêsu. Gặp lại như thế quả là hết sức cần thiết, nhất là vào thời điểm mà Đức Giêsu khẳng định với họ cách long trọng về vương quyền của Ngài trước khi trở về với Chúa Cha (Mt 28,18).
Các môn đệ cần phải hiểu rằng không có sự cắt đứt giữa Đức Giêsu Lịch Sử và Đức Chúa Phục Sinh, Đấng chiến thắng sự chết cũng chính là con người rất gần gũi, “rất người’ mà họ đã từng kề cận, đã từng chung sống.
Được gặp lại Đức Giêsu Phục Sinh ở Galilê, nghĩa là ở chính nơi mà họ đã biết đến, đã ngưỡng mộ và yêu mến Ngài, quả là một khoảnh khắc mang tính chất quyết định. Cuộc gặp gỡ đã nối kết vinh quang của Đấng Phục Sinh với cuộc đời trần thế của Ngài và do đó tạo nên một ký ức sống động về kinh nghiệm Tin Mừng Phục Sinh. Các môn đệ sống lại kinh nghiệm đó, nhưng lần này là trong Ánh Sáng Phục Sinh. Từ nay tâm trí họ, Đức Giêsu Lịch Sử và Đức Chúa Phục Sinh là một.
Hơn nữa, một điều chúng ta cần lưu ý ở đây là việc trở lại Galilê cũng như việc Chúa Phục Sinh tỏ mình cho các môn đệ xảy ra giữa hai biến cố Phục Sinh và Hiện Xuống. Vì thế, cần phải hiểu việc Chúa hiện ra tại Galilê như sự chuẩn bị cho biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống. Với cuộc gặp gỡ này, Chúa Giêsu cho môn đệ thấy rằng, vinh quang Thiên Chúa mà Ngài vừa bước vào cũng chính là ánh vinh quang của đức ái thần linh đã dẫn dắt Ngài suốt trên con đường trần thế và đưa Ngài đến chỗ trao hiến chính mạng sống mình. Sự trao hiến này mạnh hơn cả sự chết và đó cũng chính là sự sống mà Thiên Chúa tặng ban cho nhân loại.
Như vậy việc trở lại Galilê mang chiều kích của một kinh nghiệm thiêng liêng, chứ không phải chỉ là sự trở về một nơi chốn theo nghĩa địa lý. Đó thực sự là một cuộc khám phá, dưới ánh sáng của ChúaThánh Thần. Dưới ánn sáng của Chúa Thánh Thần, các môn đệ cũng như chúng ta khám phá ra nơi nhân tính của Đức Kitô Lịch Sử, một tình yêu siêu việt đã hiến ban cho chúng ta cách nhưng không. Khi đón nhận tình yêu này, chúng ta thông hiệp vào sự sống viên mãn. Một sự sống vừa nâng cao và tái tạo chúng ta từ nơi thâm sâu của con người, vừa dẫn đưa chúng ta vào một thế giới rộng lớn bao la. Một kinh nghiệm như thế cho chúng ta thấy rằng mình được nâng đỡ, được bao bọc bởi một tình yêu, một tình yêu chỉ mong muốn thông ban sự sống, thông ban sự thánh thiện, thông ban niềm vui và vinh quang của Thiên Chúa cho chúng ta. Amen.
Cuốn sách “Ngang qua thung lũng sông Kwai” cho chúng ta thấy: Vào thời đệ nhị thế chiến, những người lính đồng minh bị quân đội Nhật bắt làm tù binh, được đem tới vùng biên giới Miến Điện và Thái Lan để xây dựng tuyến đường sắt vận chuyển vũ khí. Cuộc sống ở đây thật là khắc nghiệt. Họ bị cưỡng bức lao động dưới cái nóng như đổ lửa, có khi lên tới những 49 độ. Họ bị đối xử một cách tàn thệ. Chính cuộc sống khắc khổ này đã làm cho họ trở nên độc ác. Họ lấy luật rừng mà cư xử với nhau. Họ trộm cắp của nhau, nghi ngờ và chỉ điểm lẫn nhau.
Thế rồi một điều khó tin đã xảy ra: Có hai tù nhân nọ, đã tổ chưc cho những bạn tù của mình trở thành một nhóm để cùng nhau học hỏi Lời Chúa. Và nhờ sự học hỏi này, mà Lời Chúa bắt đầu thấm vào tâm hồn họ, để rồi chính họ khám phá ra Đức Kitô đang sống giữa họ. Ngài hiểu và cảm thông với họ, bởi vì Ngài cũng đã từng sống vất vưởng, đã từng chịu đói khát mệt mỏi, đã từng bị phản bội và bị đánh đòn. Tất cả những lời Ngài nói, những việc Ngài làm đều mang một ý nghĩa mới và trở nên sống động đối với họ. Đám tù nhân không còn nghĩ rằng mình là nạn nhân của một cuộc chiến dã man. Họ không còn chỉ điểm và trộm cắp của nhau, nhưng bắt đầu đối xử với nhau bằng thương yêu và nhất là họ bắt đầu cầu nguyện cho nhau.
Từ đó, trong trại bắt đầu có những tiếng hát vui tươi thay thế cho sự thinh lặng oi bức và căng thẳng, giống hệt sự khác biệt giữa cái chết và sự phục sinh. Hay nói một cách khác, sự biến đổi xảy ra trong trại tù là một lễ phục sinh, là một phép lạ làm cho họ tin tưởng lẫn nhau thay vì trước đó đã nghi ngờ nhau. Làm cho họ biết chia sẻ với nhau thay vì trước đó chỉ biết trộm cắp của nhau. Làm cho họ biết giúp đỡ nhau thay vì trước đó chỉ tìm cách chỉ điểm lẫn nhau.
Ơn phục sinh và sự biến đổi này cũng có thể xảy ra cho bản thân chúng ta, nếu như chúng ta biết mở rộng tâm hồn để đón nhận Đức Kitô và ơn sủng của Ngài. Hãy để Ngài giúp chúng ta biết tin tưởng nhau như xưa chứ đừng phản bội nhau. Hãy để Ngài giúp chúng ta yêu thương nhau như xưa chứ đừng từ khước nhau. Hãy để Ngài giúp chúng ta biết tiếp tục hy vọng khi niềm tin tưởng đã tan vỡ. Hãy để Ngài giúp chúng ta nhặt lên những mảnh vụn và khởi sự lại từ đầu khi mà chúng ta dường như sẵn sàng xoá bỏ chúng đi. Hãy cộng tác với Ngài trong cộng cuộc thăng tiến bản thân, đổi mới cuộc đời vì như lời thánh Augustinô đã từng xác quyết: Khi tạo dựng nên chúng ta, Chúa không cần hỏi ý kiến chúng ta, nhưng để cứu chuộc chúng ta, Ngài cần chúng ta ưng thuận và cộng tác với Ngài.
Và như thế, không cần phải đợi đến lúc chết, mà hơn thế nữa, ngay từ bây giờ, chúng ta đã có thể tham dự vào quyền năng phục sinh của Chúa.
Một cậu bé hỏi mẹ về đứa em mới chết hiện đang ở đâu. Người mẹ đáp: Em con đang ở trên thiên đàng với Chúa Giêsu. Mấy ngày sau, bà mẹ nói chuyện với bạn bè tỏ ý đau buồn khi nhắc đến đứa con mới mất. Bé ngạc nhiên hỏi mẹ: Khi mẹ mất vật gì, tức là mẹ không biết nó đang ở đâu phải không mẹ? Bà mẹ đáp: Phải. Bé hỏi tiếp: Mẹ biết em con đang ở với Chúa, sao mẹ lại nói là em con đã mất? Bà mẹ chợt tỉnh, không còn đau buồn nữa, mà ý thức con mình đang vui hưởng hạnh phúc thiên đàng.
Thánh Phaolô quả quyết: “Nếu Chúa Kitô không sống lại thì niềm tin của chúng ta là điều vô ích, chúng ta là những người khờ dại nhất vì chúng ta tin tưởng vào một điều hão huyền”. Có bao nhiêu bậc vĩ nhân của thế giới đã từng chết cho hoà bình. Có bao nhiêu con người đã sống, đã chết và đe lại cho nhân loại một gương mẫu hay một giáo thuyết cao cả hướng dẫn cuộc sống con người. Tuy nhiên trong lịch sử nhân loại, chưa từng có một bậc vĩ nhân hay một thánh hiền nào được tuyên xưng là đã sống lại, duy chỉ có một mình Chúa Giêsu là được các tín hữu tin nhận và tuyên xưng Đấng Phục Sinh. Nếu Chúa Giêsu không sống lại thì cái chết của Ngài, dù có một giá trị cao cả đến đâu, thì cũng chỉ là một cái chết trong muôn ngàn cái chet của loài người, nghĩa là không hề có giá trị cứu rỗi. Vậy đâu là ý nghĩa của biến cố Phục sinh?
Phục sinh không có nghĩa là hồi sinh trở về đời sống cũ, giống như trường hợp cậu con trai bà goá thành Naim, em bé gái 12 tuổi, và đặc biệt là ông Ladarô đã chết 4 ngày được Chúa Giêsu cho sống lại. Cả ba trường hợp này, người chết đều sống lại, nhưng đó chỉ là trở lại với đời sống cũ. Có nghĩa là một ngày nào đó họ cũng phải theo cai số phận chung của loài người là trở về với bụi đất. Họ vẫn còn nằm dưới quyền của sự chết.
Trường hợp của Chúa Giêsu hoàn toàn khác hẳn. Quả thực, Ngài đã chết, nhưng khi nói rằng Ngài Phục sinh, có nghĩa là Ngài hoàn toàn chiến thắng sự chết, Ngài không sống lại một thời gian để rồi lại chết. Sống lại đối với Chúa Giêsu có nghĩa là mặc lấy sự sống sung mãn mới mẻ đến độ sự chết không còn chi phối nữa, cũng không một định luật tự nhiên nào có thể ảnh hưởng được Ngài: Ngài đến với các môn đệ khi cửa đóng kín, Ngài chuyện vãn với họ, ăn uống với họ, nhiều người trong họ sờ được Ngài như một người đang sống chứ không phải như một bóng ma. Đó là tình trạng đích thực của sự sống lại mà một số môn đệ của Chúa Giêsu đã cảm nghiệm được mỗi lần Ngài hiện ra với họ.
Là những chứng nhân của Đấng Phục sinh, các môn đệ Đức Giêsu đã ra đi khắp nơi để rao giang Tin Mừng của Ngài. Tin Mừng ấy là: “Ai tin nhận Đức Giêsu, tuyên xưng Ngài là Chúa và sống theo giáo huấn của Ngài, người đó cũng sẽ được phục sinh như Ngài”. Họ không thể là một nhóm người lừa bịp bởi vì không một kẻ lừa bịp nào chịu lấy mạng sống của mình đeể làm chứng cho điều mình rao giảng. Qua 2000 năm, không biết bao nhiêu sợi dây được nối kết bằng máu và bằng những cuộc sống phi thường của các tín hữu Kitô ở mọi nơi và trong mọi lúc. Ngày nay tất cả mọi tín hữu trên khắp thế giới đều được liên kết bởi cùng một niềm tin, đó là sự Phục sinh của Đức Giêsu Kitô.
Nói đến niềm tin là nói đến một cái gì mà khoa học không thể kiểm chứng được. Sự Phục sinh của Đức Giêsu quả thật không thuộc trật tự khả giác. Người ta không thể dùng bất cứ tiêu chuẩn khoa học nào để kiểm chứng niềm tin ấy. Hai ngàn năm qua, các tín hữu Kitô tin chắc rằng với không biết bao nhiêu sóng gió đã xảy ra cho Giáo Hội, nếu Đấng Phục sinh không hiện diện trong Giáo Hội của Ngài, thì Giáo Hội không thể nào tồn tại cho đến ngày nay. Nếu giờ đây các tín hữu Việt Nam cố gắng sống thánh thiện, tốt lanh, chịu đựng mọi thứ bách hại là bởi vì họ thực sự có Đấng Phục sinh đang sống trong họ và ở với họ. Nếu giữa những mất mát thương đau của cuộc sống họ vẫn đứng vững được là bởi vì họ tin vào sự Phục sinh mà họ cũng sẽ được tham dự vào trong ngày sau hết. Chính niềm tin ấy mang lại ý nghĩa cho cuộc sống, hướng dẫn các Kitô hữu bước qua tăm tối và giúp cho họ sống vui tươi, can đảm và kiên nhẫn trong mọi nghịch cảnh.
33. Tin Mừng Phục Sinh (Mc 16,1-7)
(Suy niệm của Thiên Phúc, trong “Như Thầy Đã Yêu” năm B).
Bà Regina Riley hằng cầu nguyện cho hai cậu con trai đã xa rời đức tin nhiều năm… Bỗng một sáng Chúa nhật, bà không thể tin vào mắt mình, hai đứa con bước vào nhà thờ ngồi ghế đối diện với bà. Tan lễ, bà liền hỏi lý do nào khiến các con trở về với Chúa. Đứa con nhỏ mau mắn kể lại:
Thời gian nghỉ hè tại Colorado, vào một sáng Chúa nhật, chúng con đang lái xe thả dốc trong cơn mưa tầm tã. Bỗng nhiên, một cụ già không dù che, người ướt sũng đang vội vã bước đi, dáng điệu khập khiễng.
Chúng con dừng lại mời cụ lên xe, mới được biết cụ đang đi lễ, đến một nhà thờ cách đó 5 cây số. Chúng con liền đưa cụ đến dự lễ. Nhưng vì trời vẫn mưa nên hai anh em quyết định vào xem lễ rồi cùng đó cụ về. Lạ thay, sau khi lắng nghe Lời Chúa chúng con rất xúc động, tâm hồn như được đổi mới hoàn toàn. Mẹ biết không, luc bấy giờ chúng con như được trở về nhà sau một chuyến đi dài đầy mệt mỏi.
***
Câu chuyện hai anh em gặp gỡ cụ già xa lạ sẽ minh hoạ cho chúng ta bài Tin Mừng Phục Sinh hôm nay.
Bà Maria Macđala, bà Maria mẹ ông Giacobe, và bà Salome là ba phụ nữ nhân đức từng theo giúp Đức Giêsu và các môn đệ. Các bà đã từng được Thầy Giêsu dạy dỗ, yêu thương. Nhưng giông tố kinh hoàng của chiều Thứ Sáu Tuần Thánh đã cướp đi người Thầy rất đáng kính yeu của họ Giờ đây, Thầy đã nằm yên trong một đá. Còn lại gì? Hay chỉ còn bao kỷ niệm thân thương và nước mắt. Để vơi đi nỗi sầu, các bà chỉ biết mua dầu thơm về ướp xác Thầy. Nhưng “Ai sẽ lăn giùm tảng đá ra cho chúng ta?” (Mc 16,3).
Kinh ngạc thay, khi đến nơi, các bà đã thấy tảng đá được lăn ra một bên, và xác Thầy cũng không còn nữa. Chỉ còn đó, sứ thần chờ để loan báo Tin Mừng: “Đấng bị đóng đinh đã sống lại rồi, Người hẹn gặp lại các môn đệ tại Galile” (x. Mc 16,7). Từ ngôi mộ trống, nơi tối tăm và chết chóc, sự sống đã bừng lên.
Hai anh em trong câu chuyện trên cũng đã một thời tin theo Chúa. Nhưng giông tố của thời niên thiếu đến, đã cướp đi bao kỷ niệm đạo đức thuở ấu thơ. Thế rồi, cụ già đã xuất hiện loan báo một tin mừng, không phải bằng lời mà bằng gương sáng đạo đức: “Thầy Giêsu, hẹn gặp lại các con nơi thánh đường”.
- Tin Mừng chính là: Hễ có giông tố của chiều Thứ Sáu Tuần Thánh, thì cũng có bình an của sáng Chúa nhật Phục Sinh.
- Tin Mừng chính là: Hễ có bình minh là có niềm hy vọng, có trở về là có đôi mới.
- Tin Mừng chính là: Nếu ta cùng chết với Đức Kitô, ta sẽ cùng được sống lại với Người.
- Tin Mừng chính là: Nếu có tình yêu quằn quại trên thập giá, thì cũng có tình yêu rạng rỡ sáng Phục Sinh.
***
Lạy Chúa, Xin cho chúng con luôn xác tín rằng:
Mỗi lần chúng con trở về sau những lầm lỗi, là chúng con đang Phục Sinh với Chúa.
Mỗi lần chúng con tin tưởng sau những lần phản bội niềm tin, là chúng con đang sống lại với Người.
Mỗi lần chúng con tiếp tục cố gắng sau những lần thất bại đắng cay, là chúng con đang ra khỏi mồ trống.
Xin giúp chúng con biết mở rộng tâm hồn để đón nhận ân sủng Phục Sinh của Chúa. Amen.
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta cùng nhau chia sẻ về ba thái độ. Trước hết là thái đo của Mađalena.
Thực vậy, tập tục liệm xác của người Do Thái bao gồm việc rửa xác, ướp thuốc thơm và gói lại bằng tấm vải trắng, lấy dây băng cuộn lại từ đầu đến chân, xong xuôi đâu đó thì đem đặt xác vào trong huyệt được đục sẵn nơi vách đá và lấy tảng đá to lấp đậy cửa hang.
Vì hối hả, nên khi về nhà, Mađalêna mới nhận ra rằng mình đã không cẩn thận đủ đối với Chúa Giêsu, bà nóng lòng chờ đến sau ngày thứ bảy, tức là ngày thứ nhất trong tuần.
Phải, vào sáng ngày thứ nhất trong tuần, đối với chúng ta hiện nay thì đó là ngày Chúa nhật, bà đem thuốc thơm đến mồ để ướp xác lại. Khi đến nơi, bà thấy ngôi mộ trống trơn. Cửa đã được đẩy qua một ben và Chúa Giêsu không còn ở trong đó nữa. Vì thế, bà vội vã chạy về báo tin cho Phêrô và Gioan. Rồi cả hai ông đều chạy đến mồ. Đối với Mađalêna, bà đến mồ chỉ mong để ướp xác Chúa lại cho chu đáo hơn, nói cách khác, bà đến mồ chỉ để tìm lại một xác chết. Với tâm trạng như thế, khi nhìn thấy ngôi mộ trống trơn, bà khó có thể nhận ra Chúa đã sống lại.
Còn Phêrô? Ông đã sợ hãi, ông đã chối Chúa vì sợ bị liên luỵ. Chúa đã chết va nghỉ yên trong mồ. Điều ông mong muốn lúc đó là đừng có gì rắc rối xảy ra nữa. Xin được hai chữ bình yên. Nhưng tại sao lại có sự kiện mất xác Chúa? Ông chạy đến mồ với tất cả mọi lo sợ trong đầu óc. Ông lo sợ một nhóm nào đó, sau khi giết Chúa Giêsu, lại tìm cách phá rối các ông để kết án và xử tử các ông.
Là trưởng nhóm, ông chạy đến mồ, quan sát những gì đã xảy ra và tìm cách biện minh: Tại sao thế này và tại sao thế nọ? Vơi một tâm trạng như thế, ông cũng khó có thể nhận ra Chúa đã sống lại.
Sau cùng là thái độ của Gioan. Ông yêu thương Chúa Giêsu và biết rằng Chúa cũng rất yêu thương ông. Tình yêu của ông được biểu lộ nhất là trong những giờ phút sau hết của Chúa Giêsu. Ông đã theo chân Chúa trên con đường thập giá cho đến phút cuối cùng và chỉ trở về nhà với Mẹ Maria sau khi đã chôn cất Chúa.
Kinh nghiệm cho thấy khi yêu thương ai, chúng ta luôn nghĩ đến người ấy, luôn cảm thấy sự hiện diện của người ấy trong cuộc đời mình, cho dù hoàn cảnh bắt buộc phải xa cách nhau. Với cái nhìn đó, Gioan đã dễ dàng nhận ra sự kiện Chúa đã sống lại: Ông đã thấy và ông đã tin.
Từ đó, chúng ta kết luận: tình yêu dẫn đến đức tin. Những lo lắng trần gian, như lo lắng của Mađalêna đi tìm xác chết không vượt lên được. Những suy tư lý luận của Phêrô chẳng đưa tới đâu, chỉ có tình yêu của Gioan mới dan ông mau chóng tới niềm tin vào Chúa Giêsu phục sinh.
Trong cuộc hành trình đức tin, chúng ta chỉ có thể cảm thấy sự hiện diện của Chúa và chỉ có thể hiểu được mọi biến cố trong cuộc đời mình, nếu chúng ta noi gương Gioan, để cho lòng trí mình luôn tiến triển trên con đường tình yêu của Chúa.
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Ngọc Long)
Trong đêm Phục Sinh mừng kỷ niệm Chúa Giêsu sống lại, Giáo hội rước Cây nến Phục sinh cháy sáng bừng bừng tiến vào nhà thờ và hát ca ngợi: Lumen Christi – Ánh sáng Chúa Kitô!
Trong khung cảnh đêm tối chỉ một mình ánh sáng từ Cây nến Phục sinh tỏa ra hương vị thánh thiêng cả nhà thờ. Ánh sáng lung linh thật đẹp và thi vị! Nhưng phải chăng ánh sáng này có gì đặc biệt khác với ánh sáng từ các ngọn nến khác khi cũng được đốt lên? Tại sao Giáo hội lại xưng tụng đây là Ánh sáng Chúa Kitô từ Cây nến Phục sinh trong đêm này?
Trong đời sống nhiều khi chúng ta phải ngồi suy nghĩ hằng giờ, có khi cả tuần lễ, cả tháng trời mong tìm ra giải đáp cho một vấn đề. Nhưng vẫn trong vòng bế tắc… Bỗng dưng một tia sáng lóe lên trong tâm trí.. thế là trong người rộn lên niềm mừng vui vì ta tìm ra đáp số cho vấn đề đang suy nghĩ. Ánh sáng này thật lạ lùng huyền bí và có giá trị khôn lường. Cả tâm hồn lẫn trí khôn cùng làn da thớ thịt gân cốt mạch máu lúc này bừng lên sức sống mới. Trong người cảm thấy khoan khoái nhẹ nhàng. Trên gương mặt lộ hẳn niềm rộn vui. Có người cảm thấy sung sướng quá cười nói, ca hát, múa nhảy như lúc lên “cơn”! Ánh sáng này chiếu tỏa từ trong thâm tâm ra bên ngoài. Anh sáng này đánh thức ta bừng dậy.
Tia sáng lóe lên trong tâm trí. Đó là điều bất ngờ xảy đến không ai có thể làm ra được. Tia sáng này không được bật lên như ngọn đèn điện, khi em bé đưa tay bật nút điện ở trên tường hay do bạn trẻ bật hộp quẹt lấy lửa hút thuốc. Không, tia sáng này không do chúng ta nối chế ra. Tia sáng này đến từ một nguồn ánh sáng khác. Tia sáng này là quà tặng, là ân đức từ trời cao chiếu xuống. Tia sáng lóe lên trong tâm trí!
Kinh thánh thuật lại công trình sáng tạo trời đất bắt đầu bằng việc Thiên Chúa tác tạo ánh sáng. Ngài phán: “Hãy có ánh sáng! Và liền có ánh sáng” (Gen 1,3). Ánh sáng này là hình ảnh Chúa Giêsu đến chiếu sáng trần gian như chính ngài khẳng định: “Thầy là ánh sáng trần gian” (Gioan 8,12) Ánh sáng Chúa Kitô: Lumen Christi!
Ngày nay những phong trào, những lý thuyết hứa hẹn mang lại ánh sáng, hào quang soi chiếu cuộc sống, tam hồn con người luôn luôn thu hút mọi giới. Con người khao khát tìm về ánh sáng cho cuộc đời. Và những gì ngoài đường xá phố chợ đèn điện chiếu sáng thường gợi chú ý mọi người. Nhưng tia sáng bừng lên trong tâm trí không phải là món hàng bày bán trong cửa tiệm bán đồ điện. Người ta không thể bật tia sáng này lên như bật ngọn đèn neon trong nhà mình.
Lumen Christi – Ánh sáng Chúa Kitô không phải là sản phẩm như cây nến có thể mua trong cửa hàng đem về đốt lên trong phòng khách, trong bàn ăn, để tăng vẻ đầm ấm thân mật.
Không, Ánh sáng Chúa Kitô không dừng lại nơi đây như thế. Ánh sáng này dọi chiếu, soi đường chỉ phương hướng cho con người, như chính Chúa Giêsu khẳng định: “Thầy là ánh sáng trần gian”.
Trong ánh sáng Chúa Kitô con người nhận ra nhau là anh em con một Cha trên trời. Cho dù khác nhau về nhiều mặt, nhưng trong ánh sáng Chúa Kitô tất cả mọi người cùng có nhân vị như nhau. Chúa Giêsu đến trần gian mang ánh sáng tình yêu đến cho mọi người. Ngài không dùng quyền hay làm phép lạ xóa tan bóng tối, nhưng Ngài không sợ bóng tối, trái lại soi chiếu vào trong bóng tối. Trong ánh sáng Ngai chúng ta nhận ra những khuyết điểm yếu kém đời mình.
Lumen Christi – Ánh sáng Chúa Kitô là ánh sáng lóe lên từ trong tâm hồn. Ánh sáng này có sức soi chiếu mang niềm vui mừng phấn khởi cho tâm hồn con người.
(Suy niệm của Lm. Vũ Xuân Hạnh)
Chiếm vị trí quan trọng trong Kitô giáo, mầu nhiệm Phục sinh trở thành mầu nhiệm trung tâm của niềm hy vọng vĩnh cửu mà loài người mong đợi. Bởi thế không lạ gì thời gian cử hành mầu nhiệm Phục sinh là thời gian cao điểm của cả năm phụng vụ. Vì là mầu nhiệm cao cả, lễ Phục sinh trở thành Đại lễ mà không lễ nào có thể vượt qua.
Nhưng không phải chỉ có phụng vụ mới nhấn mạnh tầm quan trọng của lễ Phục sinh. Đúng hơn, phụng vụ chỉ dựa trên những gì đã được mạc khải, vì thế ta hãy nhìn lại chính lời mạc khải của Chúa từ trong Thánh Kinh, nhất là nơi các sách Tin Mừng như nền tảng của đời sống Giáo Hội để mà suy nghĩ, để cầu nguyện và để sống.
Chỉ nơi bốn sách Tin Mừng mà thôi, ta đã có đến 131 câu đề cập đến biến cố Phục sinh, kể từ lúc các phụ nữ đi thăm mồ từ sáng sớm, đã phát hiện ra ngôi mộ trống và được báo cho biết Chúa đã sống lại, đến biến cố thăng thiên. Sách Công vụ Tông đồ và các thư Tân Ước còn cung cấp thêm 160 câu về đề tài Phục Sinh của Chúa chúng ta. Chỉ riêng thánh Phaolô đã có 22 lần nhắc đến.
Không ai phủ nhận rằng, mầu nhiệm nhập thể của Chúa Kitô là mầu nhiệm có tầm quan trọng. Vì khởi đi từ mầu nhiệm này, Con Thiên Chúa làm người. Phải có một con người – Thiên Chúa ấy, thì hôm nay mới có Đại lễ Vượt qua thánh thiện này. Biến cố giáng sinh còn là một sự kiện lịch sử quan trọng, không chỉ vì biến cố ấy trở thành cái mốc quan trọng của thời gian, nhờ đó loài người biết được năm tháng ngày giờ, nhưng biến cố nhập thể còn quan trọng hơn nhiều trong niềm tin vào một dòng lịch sử có bàn tay Thiên Chúa đang điều khiển từng ngày, để hướng dẫn, lèo lái mọi biến cố lịch sử theo ý Ngài: lịch sử cứu độ. Chính biến cố nhập thể ấy, đã làm cho lịch sử cứu độ lật sang trang mới. Và Đấng Phục Sinh hôm nay là trung tâm của cả dòng lịch sử đang trôi giữa mọi chiều kích lịch sử của con người và thế giới ấy. Bởi thế, không ai còn nghi ngờ rằng, mầu nhiệm Nhập thể và Giáng sinh là mầu nhiệm rất quang trọng. Thế nhưng mầu nhiệm quan trọng ấy chỉ được nhắc đến ít hơn nhiều so với mầu nhiệmVượt qua.
Vì sao sự Phục sinh của Chúa Kitô lại quan trọng như thế? Là bởi vì Kitô giáo không bao giờ là một mớ lý thuyết trừu tượng, nhằm cung cấp một hệ thống giáo điều hay tín lý. Nhưng Kitô giáo trước tiên là một phẩm vị, là một lẽ sống, là chân lý được cụ thể nơi một con người. Con người ấy cũng chính là Con Thiên Chúa đã đến trần gian, sống trong trần gian và dạy người ta phải sống các giá trị cao cả, các giá trị mang chiều kích thánh thiên hướng về Thiên Chúa:
Phúc cho các ngươi là những kẻ nghèo
Phúc cho các người là người hiền lành
Phúc cho các ngươi là những người phải chịu đau khổ
Phúc cho các ngươi là những người ao ước trọn lành
Phúc cho các ngươi vì các ngươi biết xót thương
Phúc cho các ngươi vì đã giữ lòng trong sạch
Phúc cho các ngươi là người mang lại bình an
Phúc cho các ngươi vì lẽ đạo mà bị bắt bớ…
Vì Kitô giáo đặt trung tâm vào Chúa Kitô, bởi thế tất cả những gì là chân lý Kitô giáo phải thuộc về một chân lý nguồn, chân lý mà từ đó phát xuất mọi lẽ sống. Do đó, những giá trị cao cả hướng về Thiên Chúa được tóm gọn trong các mối phúc ấy, đã bị người đời đóng đinh cùng với Đấng đã từng giảng dạy nó. Và hôm nay, hay cho hết mọi thời, nếu loài người đã đóng đi Giêsu, thì những giá trị mà Giêsu rao giảng cũng đã chết một cái chết đáng thương như chính Giêsu vậy.
Nhưng không, Giêsu đã chiến thắng. Giêsu là một con người rất bình thường, nhưng cũng là một Thiên Chúa mà tình yêu của Người có sức cứu độ diệu kỳ. Vì thế, một khi Giêsu đã bước ra khỏi mồ, đã toàn thắng, đã khải hoàn phục sinh, thì tất cả những giá trị cao cả mà Giêsu đã rao giảng, đã sống, và đã chết cho nó, trở thành những giá trị vĩnh cửu, những giá trị mà tất cả những ai nghe theo và sống, sẽ mang trong mình chiều kích phục sinh như chính Giêsu, Đức Chúa chúng ta.
Bởi thế, nếu giáo thuyết của Chúa Giêsu có cao đến đâu, siêu phàm cách mấy, nhưng bản thân Người không phục sinh, Người chỉ là một kẻ nói dối, một tên bịp bợm. Và những giáo thuyết ấy sẽ không có bất cứ một giá trị nào. Nhưng hôm nay Chúa Giêsu đã sống lại và vẫn đang sống, sống đến muôn đời, cho nên nếu Kitô giáo là chân lý cụ thể nơi một con người mang tên Giêsu, và chính Đấng mang tên Giêsu là trung tâm của Kitô giáo, thì giáo thuyết của Người là một giáo thuyết tuyệt đối, một giáo thuyết chứa chan niềm an ủi, niềm hy vọng và vĩnh cửu.
Tắt một lời: Đối với Kitô giáo, chỉ có Chúa Kitô, nhờ Chúa Kitô, và trong Chúa Kitô, mọi giá trị của cuộc sống trở thành vĩnh cửu. Trung thành với giáo huấn của Chúa Kitô, Kitô giáo mãi mãi đặt niềm hy vọng cánh chung của mình nơi Người. Bởi thế mà Phục sinh trở thành Đại lễ, và niềm tin phục sinh chiếm chỗ quan trọng trong mọi sinh hoạt của đời sống Giáo Hội, đi từ Lời mạc khải của Thánh Kinh, đến phụng vụ, và đến từng ngõ ngách của đời sống riêng tư nơi mỗi Kitô hữu. Vì nói như thánh Phaolô: Nếu Chúa Kitô không sống lại, chúng ta là những người vô phúc nhất, ngu đần nhất, vì đã đặt tin tưởng và một chuyện hảo huyền. Nếu Chúa Kitô đã không sống lại, ta vẫn mang tội lỗi ở trong mình, không ai có thể giải cứu được, không ai đưa ta đến gặp Thiên Chúa được. Nếu Chúa kitô không sống lại, thập giá chỉ là dấu của nhục nhã, đau khổ của con người sẽ không có lối thoát, cái chết của con người sẽ là đường cùng, là ngõ cụt (1Cr 15, 12 tt).
Lạy Đấng Phục Sinh là Đức Chúa chúng con tôn thờ, chúng con tin Chúa và hy vọng vào Chúa, vì chỉ có Chúa, Đấng Phục Sinh duy nhất mới có thể đưa chúng con đến với Thiên Chúa. Xin ban bình an cho chúng con, để dù vác thập giá nặng nề đến đâu, dù thập giá có làm chúng con ngã xuống vì hết sức, vì tàn hơi, chúng con vẫn can đảm đặt niềm tin và hy vọng vào Chúa, Đấng Phục sinh vinh hiển đang đổ tràn ơn Phục sinh trong cuộc đời chúng con.
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Đêm Vọng Phục Sinh (Mc 16, 1-8)
Đêm Canh Thức Phục Sinh là đêm trọng nhất và là đỉnh cao nhất trong Năm Phụng Vụ của Hội Thánh. Từ xa xưa, đêm nay là “đêm của Đức Chúa” (Xh 12, 42) và buổi canh thức cử hành đêm nay, tưởng nhớ đến đêm Chúa sống lại, đêm Thánh “mẹ của mọi đêm thánh” (thánh Augustinô). Vì trong đêm nay Giáo hội đợi chờ Chúa Phục Sinh và cử hành các bí tích khai tâm kitô giáo.
Đêm nay là đêm tôn vinh và cảm tạ, vì Thiên Chúa đã, đang và mãi mãi yêu thương con người, đêm nối kết trời với đất, con người với Thiên Chúa, và con người trần thế với nhau.
Lễ nghi Canh Thức long trọng đêm nay làm cho chúng ta sống lại biến cố Chúa Phục Sinh, một bien cố có tính cách quyết định và luôn thời sự, Mầu Nhiệm trung tâm của đức tin Kitô giáo. Đêm nay, vô số những cây nến phục sinh được đốt lên trong các nhà thờ tượng trưng ánh sáng Chúa Kitô đã và còn đang sáng soi nhan loại, ánh sáng không bao giờ lụi đi, ánh sang chiến thắng bóng tối của tội lỗi và sự dữ…(x. Exsultet). Còn hạnh phúc và hy vọng nào lớn lao hơn, khi Con Thiên Chúa sống lại, để tất cả những ai tin vào Người cũng sẽ đươc sống lại vinh quang. Vì thế Giáo hội trần thế đêm nay với niềm vui khôn tả đều đồng thanh công bố Tin Mừng Phục Sinh cho toàn thế giới: “Mừng vui lên”, mừng vui lên hỡi muôn lớp cơ binh thiền thần… Cùng vui lên hỡi các nhiệm mầu thánh này…Và vui lên, toàn trái đất…Cùng vui lên, ôi Mẹ Hội Thánh…(x. Exsultet) vì Chúa đã sống lại.
Chúa Giêsu thành Nagiarét, Đấng chịu đóng đinh, đã sống lại từ trong cõi chết sau ba ngày bị mai táng trong mồ, đúng như lời Kinh Thánh. Lời loan báo của “một thanh niên ngồi bên phải, mặc áo dài trắng” (Mc 16, 5) làm các bà vui mừng nhưng cũng làm “các bà khiếp sợ” (Mc 16, 5). Người thanh niên đó bảo bà Maria Mađalêna, bà Maria, me ông Gia-côbê và bà Salômê rằng: “Các bà đừng sợ: Các bà đi tìm Chúa Giêsu Nadarét chịu đóng đinh, nhưng Người đã sống lại, không còn ở đây nữa ”. (Mc 16, 6). Vâng Người đã sống lại rồi.
Chúng ta cứ thử tưởng tượng xem tâm tình của mấy phụ nữ đi “mua thuốc thơm để đi xức xác Chúa Giêsu. Và từ sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, khi mặt trời hé mọc, các bà đến mồ ” (Mc 16, 1-2), biết mình phận liễu đào tơ, chân yếu tay mền, khó khăn lơn nhất đối với các bà là tảng đá lấp cửa mồ, họ bảo nhau: “Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mồ cho chúng ta?” (Mc 16, 3). Đang khi bàn tán như vậy thì này kìa “tảng đá đã được lăn ra bên cạnh” (Mc 16, 4). Phải nói thật là những tâm tình u buồn và chán nản vì Chúa đã chết, những tâm tình không tin và kinh ngạc vì sự việc quá bất ngờ để có thể tin thật rằng Chúa đã sống lại. Nghe tin ấy cho dù người thanh niên đã trấn an, các bà vẫn “chạy ra khỏi mồ trốn đi, run rẩy kinh hồn chẳng dám nói gì với ai vì sợ hãi” (Mc 16, 8).
Vâng, Chúa Kitô đã đã sống lại sáng láng bước ra khỏi mồ, sau khi tiêu diệt sự chết, bẻ gãy mọi ràng buộc của ngôi mộ. Chính vì thế mà các Thiên Thần từ trời cao đã tuyên bố: “Người đã sống lại, không còn ở đây nữa” (Mc 16, 6). Con Thiên Chúa không còn ở trong mộ, bởi vì Người không thể nào là người tù của sự chết (x. Cv 2, 24) và ngôi mộ không thể nào giữ lại “Đấng hằng sống” (Kh 1,8), Đấng là chính nguồn mạch của sự sống đã kết thúc cuộc hành trình nơi ngôi mộ như mọi người, nhưng Người đã chiến thắng sự chết, sống lại ra khỏi mồ. Người đã mở lòng đất và mở ra thật rộng để hướng về Trời, đưa chúng ta ra khỏi mồ tăm tối, dẫn chúng ta từ đất về trời với Chúa Cha.
Mừng vui lên, sao không thể không vui, bởi vì đêm nay Chúa Kitô ra khỏi ngục vinh thắng, đêm mà xiềng xích sự chết do Tội tổ tông gây ra bị bẻ gãy. Sự chết đó đã khiến cho bao người thất vọng, làm tiêu tán hết mọi nỗ lực của con người. Nay Con Thiên Chúa, vì yêu thương đã vâng phục, với cái giá phải trả là chết trên thập giá, để hoa giải tội nhân với Chúa, mang lại sự sống cho con người. Từ nay con người phải chết sẽ được sống, ơn làm con cái Chúa được phục hồi, sự chết sẽ không còn cơ hội để khống chế và tiêu tan những cố gắng của con người nưa. Nhờ bí tích Rửa Tội, chúng ta được kết hiệp với Chúa Kitô, sự Phục Sinh của Người trở thành sự phục sinh của chúng ta, như lời tiên tri Ezechiel đã loan báo: “Đây, Ta mở ra các mồ mả của các người; Ta phục sinh các người từ các mồ mả, hỡi dân ta ơi, và ta sẽ dẫn các người trở lại xứ sở của Israel” (Ed 37,12). Những lời tiên tri trên có một giá trị đặc biệt trong ngày Chúa phục sinh, bởi vì hôm nay được nên trọn lời hứa của Đấng Tạo Hóa.
Ngày hôm nay, trong thời đại chúng ta đây, thời đại bị ghi dấu bởi sự lo âu và không chắc chắn, thời đại khủng hoảng, mất niềm tin vào nhau, chúng ta được sống biến cố Phục Sinh, một biến cố đã thay đổi dung mạo cuộc đời chúng ta, đổi thay cả lịch sử nhân lọai. Tất cả những ai đang bị áp bức bởi những mối dây ràng buộc của đau khổ, của sự chết, đang chờ đợi niềm hy vọng từ Chúa Kitô Phục Sinh, cả đôi khi họ chờ đợi một cách vo ý thức.
Cùng với Giáo Hội, những lời của bài ca Exsultet, “Hãy vui lên, hỡi ca đoàn các thiên thần, hãy hát lên… hỡi trái đất, hãy nhảy mừng”. Biến cố Phục Sinh của Chúa bao trùm toàn thể vũ trụ, và liên kết đất trời chung lại với nhau. Một lần nữa, với những lời của bài ca “Hãy vui lên”, chúng ta có thể cao rao: “Chúa Kitô… Đấng từ cõi chết sống lại và chiếu toả ánh sáng bình an của Người trên toàn thể nhân loại, Đấng là Con Thiên Chúa, là Đấng hằng sống và hằng trị mãi mãi muôn đời”. Amen.
(Suy niệm của Lm Antôn Nguyễn Văn Độ)
Đêm Vọng Phục Sinh (Mc 16, 1-8)
“Mừng vui lên”, đó là lời đầu tiên của Giáo hội cất cao giọng công bố với niềm vui cả thể trong Đêm canh thức Phục sinh, đồng thời mời gọi con cái mình cùng mừng vui vì niềm vui ơn cứu độ. Chúa Kitô Vị Thủ Lãnh của chúng ta sau khi đã hiến mình chịu chết, Người đã sống lại khải hoàn và qua sự sống lại ấy, Người trao ban Sự Sống Mới cho chúng ta.
Đêm nay, chúng ta vui mừng chiêm ngắm vinh quang chiến thắng rạng ngời của Chúa Giêsu trên đau khổ và sự chết, để tất cả những ai tìm kiếm và tin vào Chúa là Chân lý thì được đời sống đời đời. Chúa Giêsu sống lại, niềm hy vọng của chúng ta. Không ai phải thất vọng, như những bà dù đã an táng Chúa, vẫn “mua thuốc thơm để đi xức xác Chúa Giêsu” (Mc 16,1) không một ai trong các bà tuyệt vọng hết.
Chúa Giêsu sống lại là một điều có thật không thể nghi ngờ. Chẳng có gì ngạc nhiên khi một sự kiện hiển nhiên từ trời, một thân xác phục sinh, các phương tiện trên mặt đất không tài nào nắm bắt được. Nhưng từ sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, bà Maria Mađalêna, bà Maria, mẹ ông Giacôbê và bà Salômê là những chứng nhân không thể sai được, sau nhiều lần Chúa hiện ra, tất cả những ngờ vực bị loại trừ, lời thien thần nói với các bà: “Các bà đừng sợ: Các bà đi tìm Chúa Giêsu Nadarét chịu đóng đinh, nhưng Người đã sống lại, không còn ở đây nữa. Đây là chỗ người ta đã đặt Người” (Mc 16, 6).
Vâng, Người đã sống lại rồi, hãy tìm kiếm sự hiện diện của Chúa ở đây, ngay bây giờ, giữa dân Chúa, giữa những khổ đau của Người, và hãy đi theo Chúa. Trong lá thư ngày thứ Tư Lễ Tro, Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI nói với chúng ta rằng: “Ơn cứu độ quả là hồng ân, đó là ân sủng của Thiên Chúa, nhưng nó có ảnh hưởng đến sự hiện hữu của tôi, cần có sự đồng ý của tôi, sự thật, có nghĩa là mong muốn sống như Chúa Giêsu, đi theo Người “.
Còn sự vui mừng nào lớn hơn niềm vui Chúa sống lại, sự kiện này mang lại cho chúng ta một câu trả lời thỏa đáng về những vấn nạn của những người vẫn hỏi chúng ta: chúng ta đang chờ đợi điền gì sau cái chết ? Đâu là ý nghĩa của khổ đau ? Chúng ta chắc chắn rằng sau khi chết một cuộc sống mới đang chờ đón chúng ta: “Ở đó các ông sẽ thấy Người như Người đã từng nói trước” (Mc 16, 7). Thánh Phaolô khẳng định với niềm xác tín rằng: “Nếu chúng ta đã chết với Đức Kitô, chúng ta tin rằng chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người, vì biết rằng Đức Kitô, một khi từ cõi chết sống lại, Người không chết nữa, sự chết không còn làm chủ được Người nữa” (Rm 6,8-9). Khi được hỏi về ngày sau hết, người Kitô hữu phải trả lời một cách hợp lý với niềm vui và hy vọng.
Tin Mừng lễ Vọng đêm nay nhấn mạnh rằng người thanh niên tức thiên thần ngồi bên phải mộ đã nói với các bà về ý nghĩa của khổ đau, Thập giá và vinh quang: Đấng đã sống lại chính là Đấng bị đóng đinh. Saint Leo cả nói: “… (nhờ thập giá của Chúa) những người tin kín múc được sức mạnh từ sự yếu đuối, vinh quang từ sự nhục nhã, sự sống từ cái chết “, những thập giá hàng ngày là một con đường Phục Sinh.
Phần chúng ta, “chạy ra khỏi mồ…” (Mc 16,8), trở về từ nỗi khổ đau, ngờ vực trong ta, chúng ta hãy mang đến cho những người xung quanh ta đang ở trong thung lũng đầy nước mắt niềm hy vọng và sự tự tin. Bóng tối của ngôi mộ bừng sáng lên lời hứa bất tử. Chúng ta hãy xin Chúa Giêsu hướng chúng ta dõi mắt về trời để có thế nhìn thấy Dân Vượt Qua. Chúng ta cũng cầu xin cho những ai sống trong buồn sầu của ngày “Thứ Sáu Tuần Thánh” trở thành một dân sống trong niềm vui của lễ Vượt Qua.
Mừng vui lên, vì Chúa đã sống lại thật rồi. Allêluia, Allêluia, Allêluia.
(Suy niệm của Jaime L. Waters – Chuyển ngữ ĐCV Sao Biển)
CHÚA GIÊSU ĐÃ SỐNG LẠI, SỰ CHẾT ĐÃ BỊ ĐẨY XA
Mừng Chúa Phục sinh! Hôm nay, chúng ta cử hành việc Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết. Bài đọc một và bài Tin mừng đưa ra những hiểu biết sâu sắc về các chứng nhân Kitô hữu thời kỳ đầu để có thể giúp chúng ta trong vai trò chứng nhân cho Chúa Kitô hôm nay.
Trong bài đọc một trích từ sách Tông đồ Công vụ, thánh Phêrô đã giảng cho nhóm người Do Thái và dân ngoại về sự công bằng và cởi mở của Thiên Chúa dành cho mọi dân tộc. Qua việc nêu bật sứ vụ rao giảng và chữa lành của Chúa Giêsu, thánh Phêrô khẳng định rằng các môn đệ của Chúa Giêsu chính là chứng nhân cho Người. Thánh Phêrô cũng nhấn mạnh đến chứng nhân ngôn sứ, khi nói: “Mọi ngôn sứ đều làm chứng về Người rằng: Tất cả những ai tin vào Người, thì nhờ danh Người mà được tha tội.” Lời tuyên bố này nối kết Chúa Giêsu với truyền thống ngôn sứ của dân Do Thái đồng thời cũng mời gọi dân ngoại trở thành tín hữu và lôi kéo cả hai nhóm vào phong trào Kitô mới này. Ngay sau bài giảng, nhóm dân ngoại đã lãnh nhận Thánh Thần, chứng tỏ sức mạnh của chứng tá Kitô hữu trong việc truyền cảm hứng niềm tin.
Tin mừng theo thánh Gioan hôm nay tập trung vào ba chứng nhân Kitô hữu đầu tiên – Maria Mađalêna, người môn đệ được Chúa yêu mến và Simon Phêrô – và cuộc gặp gỡ của họ tại ngôi mộ trống. Hành động của họ có thể được xem như là việc hình thành phẩm trật về vai trò và trách nhiệm trong truyền thống, mặc dù điều này lẽ ra nên tránh. Ví dụ như, bà Maria (và có lẽ đi cùng với vài người phụ nữ khác) không vào trong ngôi mộ nhưng báo tin cho các môn đệ biết về việc ngôi mộ đã được mở ra. Người môn đệ được thương mến nhường chỗ cho ông Phêrô vào trước dù ông đã đến trước, có lẽ đây là một dấu chỉ để tỏ lòng tôn trọng thẩm quyền của thánh Phêrô. Kiểu đọc diễn biến sự kiện như vậy tạo ra một cuộc cạnh tranh không cần thiết và sự chuyển động quyền lực giữa các chứng nhân đầu tiên, có vẻ hạ thấp phụ nữ (bà Maria) và đề cao giáo sĩ (ông Phêrô) trên giáo dân (người môn đệ được thương mến). Thay vào đó, hành động của họ đã cho thấy những phản ứng khác nhau trước mầu nhiệm phục sinh; mỗi phản ứng đều quan trọng.
Theo truyền thống Nhất lãm, bà Maria phát hiện ra ngôi mộ trống có lẽ nhờ bà và những người phụ nữ khác đi xức dầu táng xác Chúa Giêsu. Việc bà Maria có mặt tại ngôi mộ cho thấy sự cam kết của bà đối với Chúa Kitô, ngay cả khi Người đã chết. Khi thấy tảng đá đã được lăn ra khỏi mộ, bà lo lắng là có thể ai đó đã chơi xấu, cho rằng những người đã gây nên cái chết của Chúa Giêsu rất có thể gây tác hại thêm bằng cách xúc phạm thân xác Ngài. Khi được cảnh bảo, bà đi báo tin cho hai môn đệ khác về sự việc ngôi mộ trống, bà trở thành người đầu tiên loan báo việc Chúa sống lại, ngay cả trước khi bà hoàn toàn nhận ra điều này, như đã xảy đến sau đó trong trình thuật.
Nhân chứng thứ hai là người môn đệ Chúa yêu, không phải là một trong mười hai Tông đồ mà là một môn đệ ẩn danh đôi khi được cho là tác giả Tin mừng Gioan. Khi nghe bà Maria kể lại sự việc, người môn đệ Chúa yêu chạy nhanh đến mộ, trở thành người đầu tiên đáp trả lời loan báo Chúa sống lại. Thay vì vào trong mộ, người môn đệ Chúa yêu cúi mình xuống nhìn, thay đổi tư thế để nhìn vào trong mộ và có lẽ ám chỉ cách ẩn dụ việc ông thay đổi nhận thức về sự thánh thiêng của những gì đã xảy ra trong ngôi mộ. Khi người môn đệ Chúa yêu bước vào mộ sau ông Phêrô, “Ông thấy và ông tin”, trở thành người đầu tiên tin Chúa sống lại.
Thánh Phêrô nôn nóng chạy đến mộ để tìm hiểu và gặp thấy ngôi mộ trống. Bước vào bên trong để kiểm tra ngôi mộ, ngài thấy các dây băng nhỏ và khăm liệm phủ đầu trước đó đã được dùng để quấn xác Chúa Giêsu. Những hành động này cho thấy ông Phêrô mong muốn được hiểu biết, qua đó trở thành người đầu tiên tiếp xúc với ngôi mộ trống và nỗ lực tìm hiểu mầu nhiệm phục sinh.
Những chứng nhân Kitô hữu đầu tiên này đã nỗ lực rất nhiều trước mầu nhiệm phục sinh. Phản ứng của họ hòa trộn giữa lo sợ, tin tưởng, ối rối và hiểu biết. Suốt mùa Phục sinh, chúng ta sẽ được nghe nhiều hơn về những phản ứng trên cũng như những cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô phục sinh và sứ vụ loan báo niềm tin, như chúng ta đã nghe trong bài đọc một. Các bài đọc này nhắc nhớ chúng ta rằng chứng tá Kitô hữu không chỉ nhìn nhận ngôi mộ trống, nhưng còn là một lời mời gọi để hành động. Khi Maria gặp thấy ngôi mộ trống, bà đã báo tin cho những người khác, họ đến rồi tin (người môn đệ được thương mến) và rồi tìm kiếm để hiểu biết (thánh Phêrô).
Khi bước vào mùa Phục sinh, chúng ta nên quan tâm đến việc làm thế nào để đời sống của chúng ta phản chiếu chứng tá về Chúa Kitô phục sinh. Hành động của chúng ta nên biểu lộ đức tin vào Đức Kitô và sự hiểu biết Tin Mừng, từ đó có thể truyền cảm hứng cho người khác tin vào Chúa Kitô.
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
CHÚA GIÊSU ĐÃ SỐNG LẠI NHƯ LỜI KINH THÁNH
Ngày thứ nhất trong tuần, ngày mà nước mắt chưa vơi, tình người chưa cạn. Maria Mađalêna, người đàn bà rất thật đàn bà, mạnh mẽ phi thường. Lúc các môn đệ, giới mày râu vai u thị bắp, có những vị được mệnh danh là con cái sấm sét, đang ẩn đâu đấy sau khi thầy bị bắt, bị giết và an táng trong mồ, thì Maria Mađalêna vẫn can đảm dõi bước theo Thầy trong hành trình Thương Khó, tận mắt thấy cảnh Thầy bị đánh đòn vai mang thập giá, can đảm hơn bà còn đứng dưới chân Thánh giá, chôn cất Thầy, nay lại ra viếng mồ Thầy khi trời còn chưa sáng như Matthêu thuật lại trong Tin Mừng hôm nay: “Ngày thứ nhất trong tuần vừa tảng sáng, Maria Mađalêna và bà Maria khác đến thăm mồ” (Mt 28,1). Lúc tranh tối tranh sáng, người ta thường hay sợ thế lực nào đó, Maria đã chứng tỏ bản lĩnh của mình.
Bà tới mộ, ô kìa, chuyện gì đã xảy ra vậy? Động chuyển mạnh vì Thiên Thần từ trời xuống và đến lăn tảng đá ra, rồi ngồi trên đó. Mặt Người sáng như chớp và áo Người trắng như tuyết. Trong lúc “lính canh khiếp đảm” (Mt 28,4) thì các bà lại được trấn an: “Các bà đừng sợ. Ta biết các bà tìm Chúa Giêsu, Người đã sống lại như lời Người đã nói” (Mt 28,5-6).
Chúa Giêsu đúng như lời Người đã báo trước
Sao tảng đá lấp cửa mồ lại lăn ra, xác Thầy tôi đâu? Cho dù can đảm, nhưng vốn bà vẫn là phái yếu, liễu yếu đào tơ, cần tìm người trợ giúp, hiển nhiên phải là các ông rồi. Bà liền tức tốc quay về tìm Simon Phêrô và người môn đệ kia được Chúa Giêsu yêu mến, với hy vọng mấy ông sẽ tìm ra thủ phạm, bà nói với các ông rằng: “Người ta đã lấy xác Thầy khỏi mồ, và chúng tôi không biết người ta đã để Thầy ở đâu?” (Ga 20, 2). Chúng ta cứ tưởng tượng xem, khi hay tin, tâm trạng các ông như thế nào lúc “cả hai cùng chạy, nhưng một ông chạy nhanh hơn, tới mộ trước cúi mình xuống thấy những khăn liệm để đó, nhưng ông không vào trong”(x. Ga 20, 4). Tại sao ông lại không vào trong? Ông không vào là vì ông tôn trọng Phêrô là đầu của nhóm. Ông thấy và ông tin Người phải sống lại từ cõi chết, đúng như lời Kinh Thánh. Chúa đã sống lại thật rồi! Allêluia! Allêluia! Allêluia! Chúng ta có tin không?
Tin Chúa Giêsu sống lại là tin từ trời
Nếu như ngày Con Thiên Chúa nhập thể làm người, Thiên Thần từ trời loan báo “Này bà sẽ thụ thai…” (x. Mt 1, 23). Ngày hạ sinh Con Một Chúa, cũng chính các Thiên Tần báo tin: “Này đây ta báo cho các người một tin mừng …” (Lc 2,10). Nay Chúa sống lại, cũng chính các Thiên Thần từ trời xuống loan tin cho bà Maria Mađalêna và truyền cho ba đi báo tin cho các môn đệ. Chúa sống lại, không phải do con người khám phá ra nhờ ngôi mộ trống hay những tấm khăn niệm. Không, Chúa sống lại là tin bởi trời, do trời mặc khải va sai các Thiên Thần loan tin cho người thế.
Sống Tin Mừng Phục Sinh
Hôm nay Giáo hội mừng Chúa sống lại với niềm vui khôn tả. Chúa Giêsu sống lại là một thực tế của lịch sử mà những người phụ nữ thánh thiện, các tông và môn đệ chứng thực, họ đã nhìn thấy và nhất là đã đụng chạm vào Chúa Giêsu Phục sinh. Lời của Phêrô là bằng chứng: “Chúng tôi là chứng nhân tất cả những gì Người đã làm trong nước Do-thái, và tại Giêrusalem, Người là Đấng người ta đã giết treo Người trên thập giá. Nhưng ngày thứ ba, Thiên Chúa đã cho Người sống lại và hiện ra không phải với toàn dân, mà là với chúng tôi là nhân chứng ” (Cv 10, 37-41).
Chính Phaolô, người Do thái nhiệt thành cũng quả quyết: “Vì tiên vàn mọi sự, tôi đã truyền lại cho anh em, điều mà chính tôi cũng đã chịu lấy: là Ðức Kitô đã chết vì tội lỗi ta, theo lời Kinh thánh, là Ngài đã bị chôn cất, là Ngài đã sống lại, ngày thứ ba, theo lời Kinh thánh, là Ngài đã hiện ra cho Kêpha, đoạn cho nhóm Mười hai. Rồi Ngài hiện ra cho hơn năm trăm anh em một lần, trong số đó phần đông hiện nay cũng còn sống, nhưng cũng có người đã yên nghỉ. Rồi Ngài đã hiện ra cho Giacôbê; đoạn cho các tông đồ hết thảy. Cuối hết Ngài đã hiện ra cho cả tôi nữa, không khác một đứa con ranh” (1 Cr 15, 3-8; Ga 20, 1-29); Mt 28, 9-10). Những người dân ngoại và Do thái cũng là những chứng nhân rất đặc biệt!
Bài Ca Tiếp Liên chúng ta hát trong ngày hôm nay nhắc lại biến cố lịch sử quan trọng này. Maria Madalêna đã thực sự gặp các thiên thần làm chứng tỏ tường, thấy y phục và khăn liệm của Đức Kitô Phục Sinh. Với hồng ân đức tin, đến lượt chúng ta phải công bố tin mừng Chúa phục sinh (x. Ca Tiếp Liên lễ Phục Sinh).
Mừng lễ Chúa Kitô Phục sinh là dịp để người kitô chúng ta vui mừng hân hoan và tràn trề niềm hy vọng vào một tương lai huy hoàng sáng lạng trong nước Thiên Chúa sau khi đã hoàn tất cuộc đời lữ thứ trần gian. Chúa Kitô Phục sinh khải hoàn, đó là niềm tin và lẽ sống của người Kitô. Hôm nay chúng ta hân hoan vui mừng với tinh thần mà thánh Phaolô nói: “Vì Chiên Vượt Qua của ta, là Đức Kitô, đã chịu sát tế. Cho nên ta hãy mừng lễ, đừng với men cũ, và men gian tà, ác độc, nhưng là với Bánh không men của lòng tinh tuyền và chân thật” (1Cr 5,7-8). Từ nay chúng ta quả quyết mà không sợ sai lầm rằng, cái chết không phải là tiếng nói cuối cùng nữa, bởi vì ngày chúng ta chịu phép rửa tội, “nhờ thanh tẩy, ta đã được mai táng làm một với Ngài trong sự chết, ngõ hầu như Ðức Kitô, nhờ bởi vinh quang của Cha, mà được sống lại từ cõi chết, thì cả ta nữa, ta cũng bước đi trong đời sống mới” (Rm 6, 4). Ước mong niềm tin vào Đấng Phục sinh luôn đem đến cho Giáo hội, cho thế giới và mọi người trên trái đất này sự bình an, ơn hiệp nhất để cùng hướng về mục đích đệ nhất của kiếp người là được hưởng sự sống vĩnh hằng trong ngày sau hết.
Sau khi hân hoan mừng Chúa Phục Sinh. Giáo hội muốn nhắn gửi mỗi người chúng ta rằng: hãy lên đường, để sự hiện diện của ta là lời chứng rao giảng hùng hồn về Đức Kitô đã chết đi, loan tin Người đã sống lại, trong vinh quang mai Người lại đến đón chúng ta, những người tin vào Đức Kitô lên trời về với Chúa Cha. Vì quê hương chúng ta là quê Trời, nước chúng ta là Nước Trời. Thánh Phao lô khuyên chúng ta “hãy tìm những sự trên trời, nơi Đức Kitô ngự bên hữu Thiên Chúa” (Cl 3, 3).
Chúa sống lại thật rồi, Allêluia! Kính dâng Người vinh quang và uy quyền đến muôn đời muôn thủa. Allêluia!
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thuỵ – TSVN)
Tin mừng Ga 20, 1-9, Người ta đã chôn Ngài trong mộ đá, nhưng rồi sáng ngày thứ nhất trong tuần, người ta không thấy xác Ngài nữa…
- Sự kiện ngôi mộ trống:
Đức Giêsu đã đi vào cõi chết của con người. Người ta đã chôn Ngài trong mộ đá, nhưng rồi sáng ngày thứ nhất trong tuần, người ta không thấy xác Ngài nữa.
– Bà Maria Mađalêna ra thăm mộ hoảng hốt kêu lên: người ta đã lấy xác Thầy rồi.
– Hai môn đệ Phêrô và Gioan chạy ra mộ, nhưng thấy ngôi mộ đã mở toang. Nhìn vào trong, thấy khăm liệm còn đó, Phêrô chẳng hiểu gì, còn Gioan đã thấy và tin.
Tại sao cả ba, đứng trước cùng một sự kiện, mà kẻ tin, người lại không tin?
Đó chính là tâm trạng của mỗi người đối với Chúa Giêsu.
- Tâm trạng của Maria Mađalêna và Gioan.
Khi người thân của chúng ta chết, chúng ta thường không muốn chấp nhận sự ra đi của họ. Chúng ta biết rằng họ đã chết, và chúng ta luôn cố gắng tạo ra một mối tương quan nào đó với họ. Một trong những cách thông thường nhất là ra viếng mộ. Ra viếng mộ với hy vọng làm vơi đi nỗi nhớ, nhưng chính việc ra viếng mộ lại càng làm cho chúng ta thương nhớ người chết hơn, bởi vì, chính lúc đứng trước ngôi mộ, lại là lúc, một lần nữa, chúng ta xác nhận rằng: người thân yêu của chúng ta đã chết thật. Nghĩa là giữa chúng ta và họ, không còn mối liên hệ bình thường như những người đang sống. Cũng vậy, ra viếng mộ, Maria cũng muốn cho vơi đi nỗi nhớ, nhớ một người đã chết và Maria chỉ nghĩ đến thi thể của thầy mình, nghĩa là bà đến đó để gặp một xác chết. Với tâm trạng đó, làm sao bà có thể nghĩ đến chuyện Chúa sống lại được.
Quả thật, đối với Maria Mađalêna, chết là nằm sâu trong lòng đất, chết là khép lại tất cả, chết là chấm dứt tất cả và đàng sau cái chết là một bóng đêm dày đặc.
Nhưng đối với Gioan, ngôi mộ đâu có mùi chết chóc, ngôi mộ đâu có hoang vu, ngôi mộ đâu có trống rỗng, nhưng ngôi mộ đã được mở ra và Đức Giêsu đã phục sinh và bước ra khỏi mồ.
- Tâm trạng của Phêrô và Gioan.
Còn Phêrô, ông đang sợ hãi, ông đang sợ bị liên lụy, ông đang sợ bị bắt bớ. Ông chạy ra ngôi mộ với tâm trạng đối phó. Với tâm trạng đó, làm sao ông có thể nghĩ đến việc Chúa sống lại được.
Chính vì vậy, Phêrô và Gioan, cả hai vào trong mộ, cả hai đều thấy khăn liệm, nhưng Phêrô chẳng hiểu gì, còn Gioan “ông đã thấy và tin”.Cũng với tâm tình này
Quả thực thánh Gioan đã yêu mến Chúa Giêsu. Tình yêu đó đã thể hiện ra bên ngòai, nhất là trong những giây phút cuối cùng của Chúa Giêsu. Thánh Gioan đã theo chân Chúa trên con đường khổ giá và là tông đồ duy nhất đứng dưới chân Thánh Giá đến giây phút cuối cùng và chỉ trở về nhà với mẹ Maria sau khi đã chôn cất Chúa Giêsu. Kinh nghiệm cho thấy, khi yêu ai thì ta luôn nghĩ đến người ấy, luôn cảm thấy sự hiện diện của người ấy trong cuộc đời mình, cho dù hòan cảnh có bắt buộc phải xa nhau. Thánh Gioan luôn nhớ tới Chúa Giêsu, luôn nhớ đến những lời giảng dạy của Thầy và hy vọng Thầy sẽ sống lại vì Thầy đã báo trước. Với tâm tình này Gioan đã nhận ra Chúa sống lại. Ông đã thấy và tin. Amen.
(Suy niệm của Lm. Vinh Sơn SCJ)
(Lc 24,1-12; Ga 20,1-9)
Một cuốn phim mang tựa đề “Thế Giới Trong Tăm Tối” diễn tả câu truyện về một nhà khảo cổ danh tiếng tổ chức một cuộc khai quật khoa học ở Giêrusalem.
Ngọn đồi Golgotha được cẩn thận đào bới, kể cả những phiến đá và các hang động của một nghĩa trang bên cạnh cũng được thăm dò khám xét kỹ lưỡng. Vì theo Tin Mừng Thánh Gioan, xác của Chúa Giêsu được chôn cất trong một phần mộ gần nơi Ngài bị án tử hình Thập giá. Sau bao công khó đào bới khám xét, một ngày kia nhà khảo cổ tuyên bố: “Tôi đã tìm được xác ông Giêsu”. Rồi ông to chức một cuộc họp báo rầm rộ, quy tụ hàng trăm ký giả và nhiếp ảnh viên để trình bày kết quả mỹ mãn của bao ngày tháng đào bới khảo cứu vất vả. Ông đã trưng dẫn trước mặt mọi người một xác người đã khô đét, nhưng còn có thể nhận ra là tay chân của xác người này bị đâm thủng, cạnh sườn bị đâm thâu và cả những dấu chứng tỏ thân xác ấy bị nhuốm máu qua những vết in trên tấm khăn liệm xác.
Cuốn phim quay lại cảnh mọi người im lang theo dõi bài thuyết trình của nhà khảo cố. Tình cờ có một phụ nữ phát biểu lớn tiếng: “Đây là sự thật hiển nhiên. Ông ta bị đóng đinh, đã chết và đã được táng xác” và nhà khảo cổ tiếp lời: “Vâng, đúng thế, bị đong đinh, chết và được an táng. Nhưng làm gì có chuyện Phục Sinh, bởi vì xác ông ta vẫn còn nằm đây”.
Tiếp đến, cuốn phim diễn tả hậu quả của cuộc tìm được xác ông Giêsu:
– Không ai còn mừng lễ Phục Sinh nữa.
– Một linh muc tắt đèn Nhà Chầu, cất Mình Thánh Chúa và đóng cửa nhà thờ.
– Chuông các thánh đường im tiếng.
– Các nữ tu cởi khăn trùm đầu.
– Thánh giá tại nhiều nơi bị hạ xuống…
– Thế giới chìm đắm trong màn đêm u tối dày đặc.
Cuon phim kết thúc với cảnh chính nhà khảo cổ đang hấp hối. Trước khi trút hơi thở cuối cùng, ông ta đã thú nhận: “Tôi đã đánh lừa thế giới. Chính tôi đã làm giả xác của ông Giêsu và bí mật đặt vào trong mộ mấy năm trươc khi khởi sự cuộc đào bới tìm kiếm này”.
Sau lời tuyên bố đó là cảnh hàng ngàn người tuôn đến ngôi mộ thánh ở Giêrusalem như chúng ta chứng kiến hàng năm trong Tuần Thánh. Những ngọn nến được thắp lên và các tín hữu mang những ngọn nến được thắp sáng, ngọn nến của niềm hy vọng đi khắp nơi soi sáng con đường tăm tối. Chuông các nhà thờ ngân vang như báo tin Chúa Giêsu đã Phục Sinh: Tình yêu mạnh hơn tội lỗi. Sự sống mạnh hơn cái chết (theo Radio Veritas)
Trung tâm niềm tin Kitô giáo biểu lộ là Đức Kitô tự nguyện chết để cứu độ nhân loại, Ngài đã phục sinhnhư Thánh Augustino ghi nhận rằng:“Lòng tin của Kitô hữu là sự Phục sinh của Chúa Kitô”. Bởi vì se không hiểu được những gì đã qua đi, và tương lai sẽ mịt mờ, nếu Niềm tin đó không được vững chắc như Thánh Phaolô tuyên tin: “Nếu Đức Kitô đã không chỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng và cả đức tin của anh em nữa cũng trống rỗng… và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của anh em” (1 Cr 15,14.17).Trống rỗng tức không thể nào có tương lai, và quá khứ và hiện tại thế gian vẫn còn rên siết trong tội lỗi.
Thật thế, Đức KitôPhục sinh dẫn nhân loại vào cuộc sống mai sau- bất diệt, nhưThánh Phaolôdạy: “Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người. Bởi thế, cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới. Thật vậy, vì chúng ta đã nên một với Đức Kitô nhờ được chết như Người đã chết, thì chúng ta cũng sẽ nên một với Người, nhờ được sống lại như Người đã sống lại” (Rm 6,4-5).
Đức Kitô Phục sinh Halléluia …
Cả bốn Tin Mừng và sách Tông Vụ Tông Đồ đều trình bày biến cố Đức Giêsu phục sinh hiện ra (x. Mt 28,9-20; Mc 16,1-19; Lc 24,13-53; Ga 20,11-23; Cv 1,6-11). Phêrô loan báo Đức Kitô sống lại trước toàn dân Israel (x. Cv 3,14-26) cũng như trước Thượng Hội Đồng Do thái (x. Cv 4,10). Phaolô cũng đã tuyên xưng cùng một niềm tin cho dân Do thái (x. Cv 13,33; 17,3) và trước Thượng Hội Đồng Do thái (x. Cv 23,6). Philiphê truyền bá Tin Mừng Phục sinh cho viên thái giám Êtiôpia (x. Cv 8,35), Phaolô loan bao Đức Kitô Phục Sinh cho dân ngoại (x. Cv 17,31). Chính các Tông đồ đã lấy máu đào và cái chết của mình để tuyên xưng niềm tin: Đức Kitô sống lại.
Không chỉ có những người theo Chúa tuyên xưng, cả người ngoài như Sử gia Flavius Josephus (37 – 100) chứng thực. Ông là một công dân La Mã gốc Do Thái cùng thời với các Tông Đồ, trong tác phẩm Antiquitates Judaicae (Cổ sử Do Thái), viết khoảng năm 93, có đoạn gọi là “Testimonium Flavianum” nói về sự chết và phục sinh của Giêsu: “Khi Pilate, theo cáo buộc của những người lãnh đạo chúng ta, kết án [Giêsu] đóng đinh trên thập tự giá, những kẻ yêu thương người ấy không chịu từ bỏ người, vì người hiện ra cùng họ trong ngày thứ ba, sống lại, như các tiên tri đã báo trước, cùng với nhiều điều kỳ lạ liên quan đến người…”
Trải qua 2000 năm, bất cứ ở đâu và trong các thời, Giáo hội cũng như mọi người con Kitô hữu luôn tuyên xưng niềm tin: Đức Kitô sống lại và loan truyền cho thế giới. Chính các anh hùng tử đạo cũng đã đổ máu đào để chứng thực niềm tin vào Chúa Sống lại là bất diệt, các vị Thánh nhân bác ái sống niềm tin Chúa phục sinh bằng phục vụ anh chị em bằng sức sống phi thường giữa thế gian.
Bởi vì tin vào Chúa sống lại, người Kitô Hữu mang sức sống với nguyên lý của đời sống mới: kết hợp với Đức Kitô phục sinh (Cl 3,1). Chính thân xác phục sinh của Ngài đã trở nên “con đường mới và sống động” (Dt 10,19-25) cho chúng ta. Người Kitô hữu cảm nghiệm trong thân xác phải chết của mình bằng niềm tin của Phaolô: “Vậy khi cái thân phải hư nát này mặc lấy sự bất diệt, khi cái thân phải chết này mặc lấy sự bất tử, thì bấy giờ sẽ ứng nghiệm lời Kinh Thánh sau đây: Tử thần đã bị chôn vùi. Đây giờ chien thắng” (1 Cr 15,54). Thật thế, chính trong niềm tin này chúng ta sẽ được như Đức Kitô “Gieo xuống là thân thể có sinh khí, mà chỗi dậy là thân thể có thần khí” (1Cr 15,44).
Cuộc sống mới của chúng ta, cuộc sống mang niềm tin Chúa sống lại được “chỗi dậy” (Cv 10,40), “lại đứng dậy” (x.1Tx1,10; Rm 10,91; Cr 15,20), “được tôn vinh” (Cv 3,13), “được nâng lên” (Cv 2,33. 5,31; 1Tm 3,16)…
Ơn Phục Sinh trong cuộc sống mới với sự “chỗi dậy” “lại đứng dậy” giup chúng ta tẩy trừ mọi tội lỗi,đẩy lui sức mạnh của sự chết ra khỏi con người bất toàn của chúng ta, chữa lành mọi vết thương tâm hồn. Những điều mà Thánh Gioan đã nói ngôn sứ trước cho những người sống niềm tin phục sinh: “Sẽ không còn sự chết, cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ biến mất” (Kh 21,4)
Trói Tử thần vào chân cây thập giá
Diệt tử thần khi Ngài tung huyệt đá
Là Chúa ôi! khi rạng rỡ Phục sinh
Chúng con đây tất cả được biến hình…
(Xuân Ly Băng, Phục sinh)
Thật thế biến hình trong Đức Kitô Phục sinh thân phận hạt lúa: “Nếu hạt lúa mì gieo xuống … chết đi, mới sai hoa kết trái” (Ga 12,24).
Khi chết là khi có sống vĩnh cửu… (Thánh Phanxicô Asisi).
(Suy niệm của Lm. Phan Long, OFM)
CÁC KITÔ HỮU TRỢ GIÚP NHAU NÊN THÁNH
“Ngươi hãy đứng dậy, vào thành, và người ta sẽ nói cho ngươi biết ngươi phải làm gì” (Cv 9,7). Câu nói này của Đức Giêsu Phục Sinh đã dạy cho Saul-Phaolô nhiều điều.
Cuộc gặp gỡ Đamát đã đánh ngay tâm điểm của lòng tự phụ tự mãn của Saun, khi cho ông thấy là: ông không tự đủ cho ông. Khi còn trai trẻ, còn khỏe mạnh, người ta tưởng không cần ai; thật ra không cần chờ đến tuổi già, hay khi mắc bệnh, cuộc sống của chúng ta là một chuỗi những trợ giúp cống hiến và đón nhận, về vật chất và nhất là về tinh thần. Rõ ràng chúng ta không làm ra bản thân chúng ta. Rõ ràng chúng ta không tự cung cấp cho mình mọi nhu yếu phẩm. Và càng rõ ràng hơn nữa, chúng ta cần được giúp đỡ để sống một đời sống trí tuệ, tinh thần, tâm linh quân bình, phong phú. Thân phận làm người là thân phận lệ thuộc. Điều đó thật đúng với Mẹ Maria: khi nhận mình chỉ là một nữ tỳ hèn mọn, Đức Maria nhìn nhận mình lệ thuộc tuyệt đối vào Thiên Chúa và người khác. Thế nhưng có mấy ai tự do và sống mạnh mẽ được như Mẹ?
1.- Cuộc đời chúng ta là kết quả của muôn vàn ân huệ
Chúng ta trở lại với thánh Phalô, tại Đamát vẫn còn là Saun. Khi ông đã bị mù mắt và té ngã trên đường vào Đamát, người ta đã cầm tay dắt ông vào trong thành. Một thầy rabbi còn trai trẻ, mới đây còn tỏ ra dồi dào sinh lực và sáng kiến, sẵn sàng đương đầu với những thách đố lớn nhất như tiêu diệt giáo phái mới vừa xuất hiện, đã hung hãn đi khắp nơi không mệt mỏi để tróc nã các Kitô hữu, thế mà bây giờ lại cần có người “cầm tay dắt đi vào Đamát”. Rõ ràng sự hùng mạnh của con người là một điều quá mong manh. Sức khỏe thể lý, của cải, nhan sắc là những yếu tố nay còn mai mất. Như vậy, không ai có lương tri mà lại đi tự hào về những yếu tố đó như thể chúng là bản chất của mình, chúng là chính mình. Ngạn ngữ Ả-rập có nói: “Khi ta cưỡi một con ngựa đẹp, thì hãy nhớ rằng con ngựa đẹp!” Bởi vì khi một người cưỡi con ngựa đẹp, nếu có nhiều cặp mắt nhìn vào để trầm trồ khen ngợi, thì tự nhiên anh ta lại thấy giá trị của mình tăng theo con ngựa, và dễ dàng đồng hóa sự khen ngợi đó vào chính bản thân mình. Trong khi có một điều đơn giản nhất mà người cưỡi ngựa chưa bao giờ hiểu: chính con ngựa mới là con ngựa đẹp! Đáng tiếc là suốt cuộc đời, ta vẫn cứ ngây ngô đồng hóa mình với bao nhiêu con ngựa như vậy? Tài sản, địa vị, quyền lực, kiến thức, đều là những con ngựa đẹp mà cuộc đời cho ta mượn để giúp nhau nên tốt hơn, và đôi khi cho ta mượn chỉ là để trang sức cho đời ta thêm đẹp, chỉ là để lót đỡ cho ta bớt ê chề, đau đớn, khi gặp những đau khổ trên đường đời. Lâu này, ta quên bẵng đi, cho rằng đó là cái thực của mình! Tấm gương Phaolô cho hiểu là chúng ta đều giới hạn, và đã là giới hạn, thì chúng ta luôn cần đến sự trợ giúp của nhau.
Khi đã vào thành Đamát, Saun lại phải tiếp tục chờ đợi, vì Đức Giêsu Phục Sinh đã nói: “Người ta sẽ nói cho ngươi biết ngươi phải làm gì” (Cv 9,7). Hẳn là Saun không thoải mái gì khi nghe câu nói đó: một con người quen tiên liệu, hoạch định chương trình, mà bây giờ phải chấp nhận những ẩn số, ngồi chờ một chương trình không biết thế nào, và ai là người thông tri cho mình. Rất khó chịu! Về phương diện thể lý, cần phải có Khanania, một người được Đức Chúa Phục Sinh phái đến, đến đặt tay trên Saun, để làm cho những cái gì như vảy bong ra khỏi mắt ông, và mắt ông được lành lại. Về phương diện thiêng liêng, Saun càng cần hơn nữa một sứ giả của Chúa, vẫn là Khanania, ban bí tích rửa tội cho. Saun thấy quá rõ: ông không tự đủ cho chính ông. Chúng ta không tự đủ cho chúng ta, vì sẽ có lúc chúng ta cần người này người nọ giúp đỡ để chúng ta được chữa lành chứng này tật nọ, để đưa chúng ta đi sâu vào đời sống trong Hội Thánh.
Sau này, Phaolô sẽ làm chứng về điều đó: “Bạn có gì mà bạn đã không nhận lãnh? Nếu đã nhận lãnh, tại sao lại vênh vang như thể đã không nhận lãnh?” (1 Cr 4,7). Khi đã gặp Đức Kitô Phục Sinh, Phaolô ý thức rất rõ rằng trọn vẹn cuộc đời và con người của ông là những ân huệ Thiên Chúa ban không, để rồi như ông nói trong Thư 2 Cr, “ông chỉ tự hào về những yếu đuối của ông” (2 Cr 12,5). Và ông đã ghi nhận là Chúa muốn ông khỏi tự cao tự đại, chính Chúa đã muốn ông phải chấp nhận thân phận yếu đuối giới hạn, bằng cách để cho “thân xác tôi như đã bị một cái dằm đâm vào” (2 Cr 12,7). Ông đã kho chịu lắm, nên “đã ba lần xin Chúa cho thoát khỏi nỗi khổ này” (2 Cr 12,8). Nhưng Chúa nhất định: “Ơn của Thầy đã đủ cho con, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối” (2 Cr 12,9). Và Phaolô đã hiểu, con người của ông yếu đuối và giới hạn, nên nếu ông làm được gì là Chúa trực tiếp làm qua ông. Thế là ông reo lên: “Khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (2 Cr 12,10).
Ngày trước, một người có thế giá thích nhấn mạnh trên gia đình từ đó ông đã xuất thân. Còn hôm nay, lại là chuyện ngược lại: người có thế giá thích nhấn mạnh trên tình trạng thấp hèn của những bước khởi đầu của họ. Họ muốn cho thấy rằng họ đạt thành công nhờ sức riêng. Họ là những con người tự tạo ra mình.
Cho dù điều này có đúng trong thế giới giao dịch thương mại, hoặc trong thế giới chính trị, hoặc thể thao, chắc chắn nó vẫn không đúng trong đời sống thiêng liêng. Không có vị thánh nào tự tạo ra mình. Chính Thiên Chúa lấy sáng kiến. Do đó ngay vị ần sĩ trong hoang địa cũng chỉ làm một việc là đáp trả lại ân ban của Thiên Chúa. Đây vừa là một chân lý tu đức nên tảng, vừa là một chân lý thần học chắc chắn: Bất cứ người nào cũng nhận đức tin từ một người khác. Chúng ta không cứu độ được chính chúng ta.
Các chân lý này có những hệ luận quan trọng. Chúng ta phải vừa sống tâm tình biết ơn vừa sống khiêm nhường. Biết ơn, bởi vì chúng ta chẳng là gì nếu không có các quà tặng của những người khác; không có sự quảng đại của mọi người, hẳn là chúng ta không thể nào có thể vào đời và bảo toàn cũng như phát huy sự sống. Và khiêm nhường, bởi vì chúng ta chẳng có lý do gì mà hãnh diện như thánh Phaolô đã viết. Khiêm nhường là thấy các sự vật như Thiên Chúa thấy chúng. Nếu chúng ta có thể làm như thế, hẳn là chúng ta sẽ thấy một chuỗi các nguyên nhân đàng sau các thành công của chúng ta, mà còn thấy cả một mạng lưới các tương quan, trong đó mọi điều chúng ta đã thực hiện được đều lệ thuộc một dàn các yếu tố, đó là chưa nói có nhiều yếu tố chúng ta chưa biết hoặc sẽ không bao giờ biết.
Phải nhấn mạnh thêm điều này nữa. Chúng ta không thể loại bỏ được các món nợ về lòng biết ơn chúng ta đã chồng chất lại. Vì thế chúng ta có thể trau dồi một linh đạo về lòng biết ơn. Có bao giờ chúng ta cầu nguyện cho các ông bà tổ tiên mà chúng ta không bao giờ biết mặt, ở vào một thời đại nhiều giới hạn hơn chúng ta hôm nay, mà đã sống và gìn giữ cho đức tin vừa tinh trong vừa sống động trong dòng họ chúng ta? Chúng ta có bao giờ cầu nguyện cho vị linh mục đã ban phép rửa tội cho chúng ta chăng? Chúng ta có bao giờ cầu nguyện cho vị thầy đã dạy chúng ta về các chân lý nền tảng cùa đức tin chúng ta?
Ngày Lễ Truyền Tin, chúng ta thấy Đức Maria đúng là không có gì cả, vì “nữ tỳ hèn mọn” có nghĩa là “tuyệt đối chỉ là nữ tỳ”. Nhưng do sống khiêm nhường và luôn luôn với lòng biết ơn, Mẹ đã có được tất cả những ân huệ cao quý, mà ân huệ tuyệt đối cao quý là Người Con yêu dấu, mà Mẹ ban cho chúng ta làm Đấng Cứu Độ.
2.- Những cộng sự viên cần thiết
Chúng ta là kết quả của biết bao đóng góp của biết bao người. Vô số người, chúng ta không biết tên biết mặt, nhưng luôn luôn có những người chúng ta biết rõ. Phaolô biết rõ là để cho hoạt động truyền giáo của ông đạt kết quả, ông cần phải đi Giêrusalem, dù là mãi ba năm sau biến cố Đamát, để trình diện với các vị lãnh đạo Hội Thánh: “diện kiến ông Kêpha,… gặp ông Giacôbê…” (Gl 1,14-15). Rồi mười bốn năm sau, ông lại lên Giêrusalem, để “trình bày cho người ta Tin Mừng tôi rao giảng cho dân ngoại, – cách riêng cho các vị có thế giá -, vì sợ rằng tôi ngược xuôi, và đã ngược xuôi vô ích” (Gl 2,2).
Trong những người đã cộng tác với Phaolô, phải kể đến những môn đệ thân tín là Titô và Timôthê, đôi vợ chồng Priska và Aquila, “hai anh chị đã liều mất đầuđể cứu mạng tôi” (Rm 16,4). Có những người tốt lành, nhưng lại muốn tranh hơn thua trong việc phục vụ, nên Phaolô mới viết như sau trong Thư Philípphê: “Tôi khuyên hai chị Êvôđia và khuyên cả chị Xintikhe nữa: xin hai chị sống hòa thuận với nhau trong Chúa. Tôi xin anh Xi-di-gót, người bạn chân thành đã đồng lao cộng khổ với tôi, xin anh giúp đỡ các chị ấy”. Lý do: “các chị đã giúp tôi chiến đấu trong Tin Mừng, cũng như anh Clêmentê và các cộng sự viên khác…” (Pl 4,2-3). Còn có thể kể thêm ra một số tên, mỗi tên đều có kèm theo một đánh giá của Phaolô: anh Êpênét, “bạn yêu quý của tôi, là của đầu mùa miền Tiểu Á dâng lên Đức Kitô”, chị Maria, “người đã vất vả nhiều vì anh em”, các anh Anrôních và Giunia, “bà con với tôi, và đã từng ngồi tù với tôi; các anh là những người xuất sắc trong các tông đồ, lại còn theo Đức Kitô trước tôi”, anh Apelê, “người đã từng được tôi luyện trong Đức Kitô”, hai chị Tryphen và Trôphyxa, chị Pexiđê, “những người đang vất vả vì Chúa” (Rm 16,5tt). Phaolô đã tỏ ra biết vị trí của mình trong mạng lưới các tương quan; ông cũng đã tạo ra được những người cộng sự tốt, để hỗ trợ nhau mà chu toàn việc Chúa.
Người ta có kinh nghiệm về những tập thể nào đó, ví được như một rổ cua, không cần đậy nắp, mà không con nào bò ra ngoài được, vì con nào leo lên, thì bị những con khác kéo xuống ngay. Cũng xin kể chuyện hai chú diều và hai con chim ưng. Hai chú diều bay trên bầu trời, chúng quyết định mở cuộc tỷ thí để xem ai sẽ bay cao hơn. Cạnh chúng có hai con chim ưng cũng đang mở cuộc thi tài. Chỉ trong chớp mắt, chúng bay vút lên trời. Nhưng hai chú diều thì cứ đảo bên này đảo bên kia, và không sao bay lên cao được. Sau này, diều hỏi chim ưng: “Chúng ta mở cuộc tỷ thí dưới cùng một bầu trời, nhưng vì sao các anh có thể bay lên cao, còn chúng tôi thì không?”
“Đó là vì nguyên tắc tỷ thí của chúng ta khác nhau!”, một chim ưng nói: “Nguyên tắc của chúng tôi là phải vượt thắng đối thủ; trong khi nguyên tắc của các anh lại là ngăn không cho đối thủ thắng mình”.
- “Thế thì có gì khác nhau giữa hai điều trên nào?”, diều hỏi.
- “Chúng hoàn toàn khác nhau chứ!”, chim ưng đáp.
“Theo nguyên tắc của chúng tôi, nếu đối thủ bay vượt hơn mình, thì mình phải cố gắng hết sức để có thể đuổi kịp và thắng; còn nếu mình vượt hơn, đối thủ cũng phải nỗ lực nhiều hơn để có thể bằng mình. Do đó, cả hai chúng tôi đều có thể bay vút lên giữa trời xanh. Còn theo nguyên tắc của các anh, thì nếu đối thủ bay cao hơn mình, mình phải tìm cách kéo đối thủ xuống. Nếu ta không thể bay lên được, thì mi cũng đừng hòng! Hai sợi dây của các anh cứ xoắn vào nhau như thế, làm sao bay lên cao?… Đó là cách nghĩ của các anh, và lẽ đương nhiên là cả hai đều thất bại”.
Hai con diều cứ tìm cách níu kéo nhau đó, đã được giải thích cặn kẽ về lý do khiến chúng không thể bay lên được. Trong đời, nào ai biết được có bao nhiêu “chú diều” đang lâm vào tình trạng như thế?
3.- Kết luận
Nhiệm vụ của chúng ta là xây dựng cộng đồng Kitô hữu, và đối với thánh Phaolô, điều này thường có nghĩa là sẵn sàng làm công việc góp ý sửa sai cho anh chị em, và dĩ nhiên, cũng sẵn sàng đón nhận sự góp ý của cộng đoàn. Chắc chắn công việc này không phải là làm một cảnh sát luân lý, nhưng là đáp lại sự thôi thúc của Chúa Thánh Thần mà sống bác ái trong những chi tiết cụ thể, nhỏ nhặt. Bởi vì, như thánh Phaolô nói, “bổn phận của chúng ta, những người có đức tin vững mạnh, là phải nâng đỡ những người yếu đuối, không có đức tin vững mạnh, chứ không phải chiều theo sở thích của mình” (Rm 15,1-2). Chúng ta sống không phải để làm theo sở thích của mình, mà là làm theo ý muốn của Thiên Chúa, do chỗ kiên nhẫn với người yếu và sẵn sàng sống đức ái thiết thực.
Lạy Chúa, Chúa biết những sức mạnh và những yếu kém của chúng con. Xin ban cho chúng con lương tri để chúng con tôn trọng những yếu đuối của người khác, và trợ giúp họ bằng sức mạnh Chúa đã ban cho chúng con. Và xin làm cho chúng con luôn luôn sẵn sàng dùng sức mạnh này mà chân thành thực thi bác ái nhằm phụng sự Chúa và phục vụ anh chị em. Amen.
44. Sống lại cùng Chúa Phục Sinh
(Suy niệm của AM Trần Bình An)
Khi thi thể của Valdelucio Goncalves, 54 tuổi, được mang đến nhà xác Bệnh viện đa khoa Menandro de Farias ở Salvador, miền đông Brazil, các bác sĩ khẳng định ông đã qua đời vì “suy hô hấp và suy tạng.” Khi đến nhà xác để liệm thi thể anh mình, Walterio, em trai của nạn nhân, đã sốc khi thấy xác người anh quằn quại trong túi đựng xác.
“Việc cần làm lúc đo là mặc đồ mới cho anh ấy để nhân viên tang lễ đến mang anh ấy đi. Nhưng khi đến gần thì tôi thấy thi thể cử động.” Ông Walterio kể lại. “Tôi như hóa rồ và thét lên để gọi nhân viên y tế. Họ kiểm tra và xác nhận anh ay còn sống”, ông này cho hay.
Gia đình ban đầu ngỡ Goncalves đã đầu hàng với căn bệnh ung thư dạ dày và cũng đã chuẩn bị sẵn những thứ cần thiết cho đám tang người này.
“Tất cả chúng tôi đều bàng hoàng khi họ gọi báo bác ấy đã qua đời. Mọi chuyện đã được sắp xếp trước sáng ngày tổ chức lễ tang. Chúng tôi cũng đã đăng báo cáo phó, mua quan tài và đăng ký làm đám ma cho bác”, cô Patricia Cintra, cháu ông Goncalves, nói với Daily Mirror. “Chân bác ấy đã được cột lại, mũi và tai đều đã được nhét bông gòn”,
Sau khi tỉnh lại, ông Goncalves nhanh chóng được đưa sang phòng chăm sóc đặc biệt, nhưng do quá lo lắng, nên người thân ông này đã chuyển ông sang một benh viện khác.
Do không nói được, Goncalves đã viết một lá thư miêu tả quá trình quay trở lại dương thế. Ông miêu tả việc sống lại như một phép màu được ban từ Chân phước Irma Dulce, một nữ tu Công giáo dòng Phan Sinh, được xem như một nữ thánh ở Brazil. “Tôi, Valdelucio, đã thấy thần chết ngay chân mình, nhưng đức tin quá lớn nên tôi đã được chữa khỏi,”ông viết.
“Hiện diện trước Chân phước Irma Dulce, tôi đã xin ban phép lạ cho tôi và ngài đã nghe lời thỉnh cầu của tôi,”người về từ cõi chết thuật lại. (Hoàng Uy, Daily Mirror 27.8.2014)
Với sự cầu bầu của Chân phước Irma Dulce, ông Valdelucio Goncalves đã thực sự hồi sinh, có nghĩa Goncalves mới chết lâm sàng, chưa hẳn chết thật. Chúa nhật hôm nay tôn vinh Chúa Giêsu đã chịu chết công khai trên thập giá, sau ba ngày an táng trong mộ, đã huy hoàng sống lại. Bà Maria Mađalêna ra thăm mộ vào sáng sớm, thì thấy ngôi mộ trống và xác Đức Giêsu không còn ở đó nữa. Bà về báo tin ngay cho các Tông Đồ. Ông Phêrô và ông Gioan cùng chạy đến mồ. Nhưng vào ngay lúc đó, chỉ có duy nhất mình ông Gioan “đã thấy và đã tin” Chúa Giêsu đã Phục sinh.
“Cả hai cùng chạy, nhưng môn đệ kia chạy nhanh hơn Phêrô và đến mộ trước ông.” (Ga 20, 4) Chẳng phải chỉ vì sức trẻ, cường tráng, mà ông Gioan chạy nhanh đến mồ trước ông Phêrô. Mà chính vì “Tình yêu Đức Kitô thôi thúc chúng tôi,” (2Cr 5, 14) như Thánh Phaolô đã diễn tả trong thư thứ hai gửi tín hữu Côrintô, ông Gioan đã được thúc bách bởi niềm tin và Tình Yêu cuồng nhiệt dành cho Đức Giêsu.
Tin Yêu
Trong Tin Mừng Thánh Gioan, ngài lấy làm vinh dự tự nhận mình là “Người môn đệ được Chúa yêu quý.” Ngài có một vị trí nổi bật trong số các tông đồ. Cùng với Phêrô và Giacôbê, ông Gioan là nhân chứng trong việc Đức Giêsu cho con gái ông Giaia sống lại (Mc 5, 37), Đức Giêsu biến hình (Mt 17, 1) và trong Vườn Cây Dầu (Mt 26, 37). Ông và Phêrô đã được Đức Giêsu sai vào thành phố, để thực hiện các việc chuẩn bị cho Bữa Tiệc Ly. (Lc 22, 8)
Trong bữa tiệc, ông được ngồi bên cạnh và ngả đầu vào ngưc Đức Giêsu (Ga 13, 23-25). Gioan cũng là môn đệ duy nhất đứng dưới chân thập giá trên đồi Calvê cùng với Mẹ Maria và các phụ nữ khác. Ông cũng đã đón Mẹ Maria về chăm sóc theo như lời trối của Đức Giêsu. (Ga 19, 25-27) Ngoài việc thấy và tin Chúa Phục Sinh từ ngôi mộ trống, ông Gioan cũng là người đầu tiên nhận được Chúa tỏ mình hiện ra bên Biển Hồ Tiberia. (Ga 21, 7)
Như thế, Tin Yêu chính là động lực khiến ông Gioan luôn gần gũi với Chúa Giêsu trong suốt cuộc khổ nạn, luôn tìm đến, nhận biết Chúa Giêsu đã Phục Sinh thật bén nhạy, mau mắn và chính xác.
“Không phải tin một Chúa xa xôi, mơ hồ, nhưng tin như Phêrô: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống,” tin như Gioan: “Ai không yêu mến, thì đã không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Tình Yêu.” (Đường Hy Vọng, số 277)
Vâng phục
Mặc dù “Người môn đệ được Chúa yêu quý” đến cửa mộ trước, ông vẫn không tự tiện vào, mà kính lão đắc thọ, nhường cho ông Simon Phêrô vào trước. Bấy giờ môn đệ kia mới vào, dù ông đã tới mồ trước.
Ông Gioan hoàn toàn tỏ ra khiêm nhường, kính trọng và vâng phục ông Phêrô, người anh cả trong các Tông đồ, mà Chúa Giêsu đã trao sứ mạng lãnh đạo Hội Thánh. (Mt 16, 18-19).
Hiệp thông cùng thái độ đó, Thánh Phaolô khuyên nhủ mọi người vâng lời, phục tùng Chủ Chiên: “Anh em hãy vâng lời những người lãnh đạo anh em và hãy phuc tùng họ, vì họ chăm sóc linh hồn anh em như những người sẽ phải trả lẽ với Thiên Chúa.” (Dt 13, 17)
“Luxiphe đã nổi loạn và liên lỉ xúi giục khởi nghĩa đó đây trong Hội Thánh. Khẩu hiệu của nó là: “Bất tuân phục.” (Đương Hy Vọng, số 394)
Đặc ân
“Ông thấy và ông tin, vì chưng các ông còn chưa hiểu rằng, theo Kinh Thánh, thì Người phải sống lại từ cõi chết.” (Ga 20, 8-9) Chỉ nhìn thấy những khăn liệm và dải băng sắp xếp ngay ngắn, thì ông Gioan đã hiểu và đã tin chắc chắn Chúa Giêsu đã sống lại từ cõi chết.
Đức tin không hề đơn sơ, giản dị và dễ dàng, vì ông Phêrô và bà Maria Mađalêna cũng nhìn thấy như vậy, sao cả hai lại đều chưa tin? Như vậy, niềm tin của Gioan chính là một đặc ân, ơn sủng của Chúa Giêsu ưu ái ban riêng. Phải chăng, nhờ toàn tâm toàn ý tin yêu và vâng phục, mà ông Gioan mới được diễm phúc này.
“Đức tin có phải là một hồng ân của Thiên Chúa không? Chắc chắn là vậy. Như thế, người nào không có đức tin, có thể được tha thứ không? Không. Tại sao? Tại vì nếu không có đức tin, thì làm sao lãnh nhận ơn tha thứ của Thiên Chúa được!” (P. Charles)
“Thành thực cầu xin như các Tông Đồ: “Xin Thầy thêm sức mạnh cho đức tin chúng con. “ (Đường Hy Vọng, số 282)
Lạy Chúa Giêsu, chúng con vốn yếu đuối, bất nghĩa, bất tín, bất trung, xin Ngài ban cho chúng con đầy ân sủng Chúa Thánh Thần, để củng cố niem Tin Yêu và hy vọng, hầu luôn được tìm thấy và gặp gỡ, hạnh ngộ cùng Chúa trên đường đời.
Lạy Mẹ Maria, kính xin Mẹ phù hộ chúng con khiêm tốn nhận biết thân phận mòng dòn, yếu đuối, dễ sa ngã, hầu canh tân, đổi mới. Kính xin Mẹ cứu giúp chúng con sống lại phần hồn cùng Chúa Giêsu Phục Sinh. Amen.
(Suy niệm của AM Trần Bình An)
Người đầu tiên phát hiện ngôi một trống, chính là bà Maria Macđala, vào sáng sớm đầu tuần, thấy tảng đá chặn cửa mồ đã lăn ra. Trước đó bà đã đứng dưới chân Thánh Giá cùng với Mẹ Maria và bà Maria, vợ ông Cơlôpat (G19, 25). Rồi sau đó, bà còn dự cuộc mai táng Chúa Giêsu. (Mt 27, 61)
Như thế bà Maria Macđala là nhân chứng thứ nhất và trọn vẹn nhất, vì đã theo dõi tường tận mọi việc. Tiếp đến, nhân chứng thứ hai là Người Môn Đệ Được Chúa Thương trẻ trung, nhanh nhẹn đến trước mồ. Thứ ba là ông Phêrô chậm chạp đến sau, nhưng lại vào mồ trước.
Nhân chứng Maria Macđala tuy vậy, chỉ dừng lại nghi vấn rất cụ thể: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ, và chúng tôi chẳng biết người ta để Người ở đâu?”(Ga 20,2) Như thế dữ kiện đầu tiên chỉ mới xác định ngôi mộ trống, mà chính bà Macđala biết chính xác Chúa Giêsu đã được mai táng tại đây.
Nhân chứng thứ hai và thứ ba vào trong mồ, đều thấy “những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giê su. Khăn này khong để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại xếp riêng ra một nơi”(Ga 20, 6-7) Ngay tức khắc Người Môn Đệ Được Chúa Thương liền giải mã được dấu chỉ này, nên “ông đã thấy và đã tin “ Chúa Phục Sinh. (Ga 20, 8)
Suốt ba năm sống bên cạnh Chúa, hẳn Người Môn Đệ Được Chúa Thương đã quá quen với thói ngăn nắp, thứ tự của Chúa Giêsu. Nên khi nhìn thấy tấm khăn liệm và khăn che đầu được sắp xếp cẩn thận và gọn ghẽ, thì ông hiểu ngay sự việc đã diễn biến thế nào, đồng thời hiểu Chúa nhắn lại điều gì.
Hơn nữa, cùng hiện diện với bà Maria Macđala dưới chân Thánh Giá, Người Môn Đệ Được Chúa Thương đã được Chúa trăn trối, giao phó cho Đức Mẹ: Thưa bà, đây là con của Bà. Rồi Người nói với môn đệ: Đây là mẹ của anh.”(Ga 19, 26=27) Tình bằng hữu hay tình thầy trò, nay được nâng cấp thành tình huynh đệ thắm thiết. Từ động lực tình yêu này, Người Môn Đệ Được Chúa Thương đã sớm có cái nhìn siêu nhiên, sớm ngộ ra Chúa đã sống lại thật.
Như thế, khi giang tay chịu đóng đinh trên cây Thập tự, Chúa Giêsu đã quy tụ những ai theo Người thành một gia đình hợp nhất, dưới sự che chở của Đức Thánh Mẫu Maria. Hố sâu xa cách đã được lấp đầy.
Mầu nhiệm Phục Sinh do vậy có thể gọi là mầu nhiệm Tình Yêu cứu độ. Những chứng nhân đâu tiên của Chúa Phục Sinh cũng là những chứng nhân Tình Yêu.
Lạy Chúa Giêsu xin soi sáng tim con bằng lửa Mến, như thánh Gioan ngày xưa, để con luôn biết trông cậy vào mầu nhiệm Phục Sinh, làm chứng nhân cho Tình Yêu Chúa.
Lạy Mẹ Thánh Mẫu, xin dìu dắt con trên đường hy vọng, như xưa kia Mẹ đã ân cần chăm sóc các Tông Đồ, để xứng đáng hưởng ơn cứu độ của Chúa. Amen.
46. Sự sống lại là niềm hy vọng
(Suy niệm của Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
Nếu sự chết là nỗi sợ hãi nhất của con người thì sự phục sinh là niềm hy vọng lớn nhất cho kiếp người chúng ta. Sinh bệnh lão tử là lẽ thường tình, nhưng chết rồi đi đâu mãi là câu hỏi của con người qua mọi thời đại. Con người vẫn trăn trở, thắc mắc. Có biết bao tôn giáo, có biết bao các hiền sĩ đã mải công đi tìm câu trả lời. Thánh Phao-lô cũng từng đối diện với câu hỏi đầy hóc búa ấy. Qua đây, thánh Phao-lô đã cho chúng ta hiểu thế nào về sự sống lại. Ngài nói:
“Khi anh em gieo giống, nếu hạt giống không chết đi thì sẽ không bao giờ nẩy mầm sống lại, cây non từ hạt giống mọc lên trông khác hẳn hạt lúc gieo xuống đất. Thiên Chúa cho nó hình thể theo ý Ngài, mỗi loại hạt giống sinh ra một loại cây; sự sống lại của người chết cũng thế, chết là thân thể hư nát nhưng sống lại là thân thể không hư nát, chết là thân thể xương thịt nhưng sống lại là thân thể thần linh, vì đã có thân thể xương thịt tất nhiên cũng có thân thể thần linh. Tôi xin tỏ cho anh em huyền nhiem nầy, chúng ta sẽ không chết hết nhưng tất cả đều sẽ biến hóa trong giây lát, trong chớp mắt, khi có tiếng kèn cuối cùng, vì kèn sẽ thổi. Người chết sẽ sống lại với thân thể không hư nát nữa và chúng ta, những người còn sống sẽ được biến hóa” (1 Cor 15, 35-52)
Hóa ra sự sống lại của con người cũng giống như một hạt giống được gieo xuống đất, mục nát chết đi thì sẽ trồi lên một cây mới. Sự sống của cây mới chắc chắn sẽ khác với hat giống khi gieo xuống. Cây lúa khác với hạt lúa. Con người sau khi sống lại cũng hoàn toàn đổi mới. Vì mang thân xác thần linh thì hoàn toàn khác với thân xác hữu hạn trần thế. Khi Chúa Giêsu sống lại trên thân xác của Ngài vẫn còn những vết sẹo. Ngài đã đề nghị Tô-ma hãy xỏ ngón tay vào những dấu đinh trên thân thể Ngài. Nhưng đó là một thân xác hoàn toàn mới, nên các môn đệ, các người phụ nữ thân tín cũng không nhận ra Người. Đó cũng là điều sẽ xảy ra cho tất cả mọi người như lời Chúa đã dạy: “Trong giây lát, trong chớp mắt sẽ có tiếng kèn cuối cùng vì kèn sẽ thổi, người chết sẽ sống lại với thân thể không hư nát nữa và chúng ta những người còn sống sẽ được biến đổi nên mới hơn”.
Tuy nhiên, Thánh Gioan còn cho biết: “Rồi tôi thấy trời mới, đất mới. Tôi cũng thấy thành thánh là Giê-ru-sa-lem mới từ thiên đàng của Thiên Chúa mà xuống, sửa soạn sẵn như một người vợ mới cưới trang sức cho chồng mình. Tôi nghe một tiếng lớn từ nơi ngai mà đến, nói rằng: nầy, đền tạm của Đức Chúa Trời ở giữa loài người! Ngài sẽ ở với chúng, và chúng sẽ làm dân Ngài; chính Thiên Chúa sẽ ở với chúng. Ngài sẽ lau hết nước mắt khỏi mắt họ; sẽ không còn chết chóc, buồn thảm, khóc lóc hay đau đớn nữa vì những việc cũ đã qua rồi”.
Đó là hình ảnh của thiên đàng, nơi Chúa sẽ thiết đãi muôn dân một bữa tiệc trường sinh. Như thế cuộc sống trên trần thế nầy là cuộc sống tạm, cuộc sống trên thiên đàng mới là cuộc sống vĩnh viễn. Cuộc sống thiên đàng có Chúa tỏ tường. Cuộc sống ấy không còn đau khổ vì chính Thiên Chúa se lau khổ dòng nước mắt. Chính Thiên Chúa sẽ ban bình an, hoan lạc cho con cái của Người.
Chúa Giêsu hôm nay đã bước qua cuộc sống tạm đời này để trở về cuộc sống vĩnh cửu trên trời. Sự sống lại của Ngài là niềm hy vọng lớn lao cho kiếp người chúng ta. Từ nay chúng ta không còn lo lắng về bước đường tương lai “chết rồi đi đâu?”. Từ nay chúng ta có một con đường để đi, để tiến về quê trời. Đó là con đường Giêsu. Con đường vâng phục thiên ý Chúa Cha. Con đường yêu thương và phục vụ cứu đời.
Cuộc sống này sẽ qua đi. Nhưng cuộc sống này lại là hạt giống, là căn nguyên để hình thành sự sống mai hậu. Điều này có nghĩa là sự sống của chúng ta có vĩnh cửu ở đời sau hay không còn tủy thuộc chúng ta đã sống một cuộc đời hôm nay như thế nào? Chúng ta có là hạt lúa thì mới sinh ra cây lúa ở đời sau. Chúng ta có sự sống trong Chúa hôm nay thì mai sau chúng ta mới sống lại trong Chúa vĩnh viễn.
Xin Chúa giúp chúng ta biết chọn Chúa trong cuộc đời này là cùng đích để mai sau chúng ta cũng được sống lại với Người. Amen.
(Suy niệm của Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
TRẦN GIAN TẠM BỢ – THIÊN ĐÀNG VĨNH CỬU
Con người thời nào cũng băn khoăn thắc mắc về mục đích của cuộc sống: sinh ra để làm gì và chết rồi đi đâu? Nhưng rồi cũng bế tắc. Không tìm được lời giải thích thỏa đáng. Chỉ biết rằng “có sinh có tử”. Con người sinh ra ắt có ngày chết.
Ngày xưa có một ông vua, tuổi đã quá thất tuần mà vẫn chưa xem được một quyển sách nào. Bộ sách mà ông thèm khát được đọc là bộ “Lịch sử loài người”. Nhưng vì bận rộn không có thì giờ đọc nên đã nhờ các nhà thông thái nghiên cứu và rút gọn lại trong một câu cho vua dễ nhớ và để làm kim chỉ nam cho cuộc sống. Sau một thời gian, ban tu thư đã trình lên vua một câu vắn tắt: ”Lịch sử loài người từ khai thiên lập địa đến giờ: loài người sinh ra để khổ rồi chết”. Nhà vua gật đầu. Đôi môi khô héo của nhà vua bỗng nở một nụ cười mãn nguyện… rồi tắt thở.
Cái chết đó là điều tất yếu của đời người. Nó là con đường mà ai cũng phải tới. Đây là điều mà trong bài Nối Vòng Tay Lớn của Trịnh Công Sơn cũng từng viết: “…người chết nối linh thiêng vào đời… …biển xanh sông gấm nối liền một vòng tử sinh…”
Thời gian thì trôi nhanh. Con người thì chẳng kìm được thời gian. Khiến cuộc đời trôi qua thật nhanh như cụ Nguyễn Khuyến từng nói:
“Người đời hữu tử hữu sinh
Sống lo xứng phận,
Nhớ từ năm trước vẫn thơ ngây,
Thoát chốc mà già đã tới ngay”
Nhưng trong thời đại hôm nay ta thấy cái chết chẳng đợi tuổi nữa. Lứa tuổi nào cũng có thể ra đi. Hằng ngày ta vẫn thấy hàng vạn cái chết khiến có người bảo rằng: “Thế giới như đang bước vào thời đại của những bữa tiệc về cái chết”.
Mỗi ngày, người ta nhìn thấy sự chết xuất hiện ở phía Đông, hướng Bắc, đâu đó trên hành tinh này và cũng xảy ra ngay chính ở nơi cư trú của mình. Ở Việt Nam trung bình một ngày có 33 người chết vì tai nạn giao thông. Mỗi năm có 200 ngàn người mắc bệnh ung thư. Mỗi năm có hơn 2 triệu thai nhi bị giết chết. Mỗi ngày trên thế giới có 25.000 người chết vì đói đặc biệt là Châu Phi…
Chết rồi sẽ đi đâu trong cõi linh thiêng này. Chẳng một triết gia nào tìm được câu trả lời thỏa đáng. Nhưng có một Đấng đã tự mình chết rồi sống lại. Sự phục sinh của Ngài đã trả lời cho mọi vấn nạn về kiếp sống con người. Như Thánh Phaolô quả quyết: “Nếu Chúa Kitô không sống lại thì niềm tin của chúng ta là điều vô ích, chúng ta là những người khờ dại nhất vì chúng ta tin tưởng vào một điều hão huyền”.
Có bao nhiêu bậc vĩ nhân của thế giới đã từng chết cho hoà bình. Có bao nhiêu con người đã sống, đã chết và để lại cho nhân loại một gương mẫu hay một giáo thuyết cao cả hướng dẫn cuộc sống con người. Tuy nhiên trong lịch sử nhân loại, chưa từng có một bậc vĩ nhân hay một thánh hiền nào được tuyên xưng là đã sống lại, duy chỉ có một mình Chúa Giêsu là được các tín hữu tin nhận và tuyên xưng Đấng Phục Sinh. Nếu Chúa Giêsu không sống lại thì cái chết của Ngài, dù có một giá trị cao cả đến đâu, thì cũng chỉ là một cái chết trong muôn ngàn cái chết của loài người, nghĩa là không hề có giá trị cứu rỗi.
Như vậy sự phục sinh của Đức Ky-tô là câu trả lời đầy đủ cho vấn nạn sống để làm gì? Và chết rồi đi đâu? Thánh Gioan còn cho biết thêm: “Rồi tôi thấy trời mới, đất mới. Tôi cũng thấy thành thánh là Giê-ru-sa-lem mới từ thiên đàng của Thiên Chúa mà xuống, sửa soạn sẵn như một người vợ mới cưới trang sức cho chồng mình. Ngài sẽ lau khô nước mắt của nhân sinh; sẽ không còn chết chóc, buồn thảm, khóc lóc hay đau đớn nữa vì những việc cũ đã qua rồi”.
Đó là hình ảnh của thiên đàng, nơi Chúa sẽ thiết đãi muôn dân một bữa tiệc trường sinh. Như thế cuộc sống trên trần thế nầy là cuộc sống tạm, cuộc sống trên thiên đàng mới là cuộc sống vĩnh viễn. Cuộc sống thiên đàng có Chúa tỏ tường. Cuộc sống ấy không còn đau khổ vì chính Thiên Chúa sẽ lau khổ dòng nước mắt. Chính Thiên Chúa sẽ ban bình an, hoan lạc cho con cái của Người.
Cuộc sống này sẽ qua đi. Nhưng cuộc sống này lại là hạt giống, là căn nguyên để hình thành sự sống mai hậu. Điều này có nghĩa là sự sống của chúng ta có vĩnh cửu ở đời sau hay không còn tùy thuộc chúng ta đã sống một cuộc đời hôm nay như thế nào? Chúng ta có là hạt lúa chịu mục nát thì mới sinh ra cây lúa ở đời sau. Chúng ta có sự sống trong Chúa hôm nay thì mai sau chúng ta mới sống lại trong vinh quang với Chúa muôn đời.
Xin Chúa giúp chúng ta biết chọn Chúa trong cuộc đời này là cùng đích để mai sau sẽ cũng được sống lại với Người trong vương quốc trường sinh. Amen.
(Suy niệm của Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
Một hôm, Đức Giáo Hoàng Innocenté IX mời người bạn thân của mình là cha Bề Trên Tổng Quyền Dòng Tên, lúc đó là cha Laudius Aquaviva, vào phòng riêng và chỉ cho cha một cái hộp nhỏ để trên bàn làm việc của mình và nói:
- Cha biết có gì trong hộp này không? Trong đó có điều quí nhất. Cha hãy mở ra xem.
Cha Aquaviva mở hộp ra và cha rất ngạc nhiên khi nhìn thấy trong hộp một xác người nhỏ xíu nằm ngay ngắn và giống như Đức Giáo Hoàng. Cha đang phân vân không biết tại sao, thì Đức Innocenté IX tâm sự như sau:
- Này Cha, hình người chết giống như tôi nằm trong hộp đó là điều rất quí giá. Bởi vì nó gợi lại cho tôi nhớ đến lúc mình sẽ phải chết. Và mỗi lần tôi cần phải quyết định điều gì quan trọng thì sau khi đã cầu nguyện, xin ơn Chúa soi sáng, tôi vào đây, mở hộp này ra, nhớ đến giây phút tôi phải chết rồi mới quyết định. Trước mọi quyết định, tôi đều tự hỏi: “Nếu tôi phải chết ngay trong lúc này thì tôi sẽ phải quyết định như thế nào”. Chính vì thế mà chiếc hộp này rất qúy đối với tôi.
Quả thực, chiếc quan tài là dấu chỉ của sự chết. Nhìn vào chiếc quan tài con người mới thấy sự mong manh của kiếp người. Có sinh – có tử. Cuộc đời vẫn vô thường. Như bông hoa sớm nở chiều tàn. Như “bóng câu qua cửa sổ”. Khoa học dù có tiến bộ tới đâu cũng không níu kéo được thời gian và tuổi thanh xuân. Tuổi xuân xinh đẹp rồi cũng tàn theo năm thang. Con người luôn phải chịu những khắc nghiệt của nhân sinh: Sinh – bệnh – lão – tử.
Nếu cuộc đời con người chỉ chìm đắm trong bể khổ: “sinh – bệnh – lão – tử”, thì quả thực là một mất mát trong kiếp người! Nếu cuộc đời con người phải vật vã khổ đau trong đời sống rồi tàn sức và chết đi thì cuộc sống con người là một bất hạnh! Nếu cuộc đời con người sinh ra rồi chết đi, tan biến không còn để lại gì thì cuộc đời này thật bất công cho những điều tốt chúng ta đã xây dựng, những việc lành chúng ta đã làm cho tha nhân. Nhưng là người ai trong chúng ta cũng tin có sự sống sau khi chết. Chết không phải là hết. Chết là chuyển đổi hình thức sống. sống tốt hơn, sống sung mãn hơn. Sự sống đời sau là điều phải có để trả lại lẽ công bằng cho những khuyến khuyết đời này. Đời sống đời sau phải có thì những nỗ lực vươn lên, những cố gắng sống có trách nhiệm mới làm cho những công viec đó có giá trị hạnh phúc đời này và vĩnh cửu đời sau. Niềm tin vào đời sau được thể hiện qua đời sống nơi các tôn giáo rất phong phú trên địa cầu. Có tôn giáo cho rằng chết là về miền cực lạc, về cõi bồng lai, vào niết bàn, hay đi gặp Đấng Ala…
Niềm tin ky-tô giáo mời gọi chúng ta tin vào sự phục sinh của Chúa Ky-tô. Niềm tin của sự sống lại sau cái chết. Sống lại nhưng không trở về cuộc sống dương gian. Nhưng sống lại để vào cõi phúc trường sinh, về nơi quê trời vinh hiển…
Hôm nay những người phụ nữ ra thăm mồ. Họ đã nhìn vào nấm mồ, nhưng không thấy gì. Nấm mồ trống. Nấm mồ không còn thân xác Chúa. Nấm mồ là bằng chứng nơi mai táng Giêsu hôm qua. Thế mà, hôm nay họ chỉ thấy nấm mồ trống Đây chính là bằng chứng của sự phục sinh của Chúa Giêsu. Nấm mồ hôm qua đã đậy kín bởi tảng đáng lấp mồ. Nấm mồ đã được lính gác canh giữ đề phòng các môn đệ lấy trộm xác Chúa. Nhưng hôm nay, tảng đá đã được lăn ra ngoài. Lính gác đã bỏ chạy trong đêm. Chỉ còn một ngôi mộ trống như dấu tích về sự trỗi dậy của Chúa Giêsu.
Vâng, nếu chiếc quan tài là dấu chỉ sự mong manh của kiếp người thì ngôi mộ trống là dấu chỉ cho sự sống lại của Chúa Giêsu. Chúa đã phục sinh theo như lời Người từng tiên báo: “Sau ba ngày Ta sẽ sống lại”. Chúa đã sống lại để mời gọi chúng ta tin rằng: Ngài cũng cho những ai tin vào Ngài thì đều được sống lại. Sự sống lại của Chúa Giêsu là phần thưởng của Chúa Cha dành cho Ngài vì cả đời tìm kiếm và thi hành thánh ý Chúa Cha. Sự sống lại của Chúa Giêsu là câu trả lời cho ý nghĩa cuộc đời này. Con người sinh ra để làm gì? Chết rồi đi đâu?
Vâng, con người sinh ra để tôn vinh Chúa. Con người luôn quy hướng về Đấng tạo thành. Con người từ tạo thiên lập địa vẫn tin có Trời, có thần thánh, có Đấng Tạo Dựng. Thế nên, đã là người đều tin có thần linh. Niềm tin Ky-tô giáo mời gọi chúng ta tin vào Thiên Chúa phải biết tôn vinh Chúa. Tôn vinh Chúa bằng đời sống lắng nghe và thi hành thánh ý Chúa. Tôn vinh Chúa khi sống theo lẽ phải, theo tiếng nói của lương tâm là lề luật Chúa khắc ghi vào trong tâm hồn con người. Con người còn có thể tôn vinh Chúa khi hết lòng yêu mến và phục vụ tha nhân… Khi con người tôn vinh Chúa ở đời này, Chúa sẽ ân thưởng hạnh phúc Nước Trời cho những ai tôn vinh Ngài.
Xin nhờ sự Phục Sinh của Chúa, ban cho chúng ta tìm được niềm vui trong đời sống hằng ngày khi cố gắng vươn lên hoàn thiện mình, khi dấn thân phục vụ tha nhân trong tình mến Chúa yeu người thiết tha. Amen.
(Suy niệm của Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
Người ta kể rằng: ở một cửa hàng bán hoa vừa xảy ra một sự nhầm lẫn thật ngộ nghĩnh. Ngày hôm đó, người bán hoa làm hai lẵng hoa cho hai khách hàng khác nhau. Một là để chúc mừng ngân hàng mới mở thêm một chi nhánh mới, và một là để chia buồn cho một đám tang. Thế nhưng, hai tấm thiệp đính kèm hai bó hoa bị đặt lộn, thành ra lẵng hoa gửi cho đám tang lại nhận đươc lời chúc: “chúc mừng khai trương cơ sở mới”. Ngược lại, thiệp trao cho ngân hàng lại ghi hàng chữ: “Thành thật chia buồn”.
Xem ra sự nhầm lẫn này tuy không hợp tình nhưng lại hợp lý. Vì đời là bể khổ. Ra khỏi cuộc đời la thoát khỏi khổ luỵ trần gian. Chết là lìa bỏ chỗ ở dưới đất mà lên trời. Chết là bỏ trần gian với bao bon chen vật lộn để về quê trời vĩnh cữu không còn khổ luỵ của tham sân si phàm trần. Chết là về nhà cha trong niem vui của đứa con xa nhà nay được hồi hương trở về. Như vậy, chết là vui mừng chứ không còn là thương tiếc. Ai lại thương tiếc khi một đứa con xa nhà nay trở về? Ai lại buồn khi được đoàn tụ bên Cha trên trời?
Truyền thống văn hoá Việt Nam vẫn tin rằng: chết là sự trở về, là quy tiên, là trờ về nơi mình đã xuất phát ra đi. Ngày xưa tại các nghĩa trang miền quê, người ta thường chôn người chết dưới lòng đất và vun phần trên thành hình một người phụ nữ mang thai. Điều này ngụ ý về một cuộc trở về với lòng đất mẹ. Chính nơi lòng mẹ, ta đã sinh ra. Đó là nơi kín đáo nhất, ấm cúng nhất. Khi chết là trở về nơi lòng đất mẹ cũng là nơi kín đáo và ấm cúng. Như thế, nấm mồ không phải là dấu chỉ về một con người đã chết dưới lòng đất lạnh mà là dấu chỉ cho cuộc trở về nguồn cội đích thực của mình, về nơi mà mình đã xuất phát ra đi.
Hôm nay, các người phụ nữ đến bên nấm mồ cua Chúa. Họ đã kinh ngạc và hãi hùng. Vì tảng đá che cửa mộ đã bị bật tung ra ngoài. Họ vào trong nhưng không thấy gì. Họ tưởng rằng xác Chúa đã bị ai đó lấy đi. Họ tìm kiếm nhưng vô vọng. Họ thấy một người mặc áo trắng, tưởng là người làm công nên mới hỏi: “ai đã lấy xác Chúa tôi rồi?”. Nhưng các bà lại nghe một lời mà chưa bao giờ được nghe: “Tại sao các bà lại tìm người sống ở giữa kẻ chết? Người đã trỗi dạy và ra khỏi mồ”. Nấm mồ này và khăn liệm này đã không còn dùng để phủ kín một đời người nữa! Nó không có ích cho người còn sống, có chăng là dấu chỉ cho sự thật hiển nhiên là Chúa đã sống lại từ trong cõi chết. Người không còn ở đây. Người đã ra khỏi mồ. Hãy đi báo tin cho các môn đệ và Người sẽ gặp các ông tại Ga-li-lê-a.
Vâng, Chúa đã phục sinh. Nấm mồ của sự chết đã bị bật tung. Sự lặng vắng cô quạnh của đêm tối sự chết đã bị đẩy lùi bằng ánh sáng phục sinh huy hoàng. Con người sinh ra không phải để chờ chết như bao người lầm tưởng. Sinh ra – lớn lên – gia nua – rồi chết. Thế là hết một cuộc đời. Sứ điệp phục sinh cho chúng ta hiểu rằng: con người sinh ra là bươc vào một cuộc hành trình tiền về nhà cha. Nơi mà ngày xưa Adam – Eva đã từ đó ra đi, nay nhờ cuộc Tử Nạn và Phục sinh của Chúa khai mở cho chúng ta con đường trờ về Nhà Cha. Chúa Phục sinh. Cửa trời rộng mở. Con người co thể hành hương về trời. Về với hạnh phúc bất diệt, là nơi “không còn sự chết, không còn than khóc đau thương nữa”. Nơi đó, không còn đêm tối, không còn những cuộc chia ly từ biệt, cũng không còn nước mắt nhớ thương.
Hôm nay Chúa đã phục sinh. Lòng chúng ta hãy trào dâng niềm hân hoan vì Chúa đã về nhà Cha. Ngài đã hứa thiên đàng cho người trộm lành. Ngài cũng hứa thiên đàng cho những ai tin theo Ngài: “Ta đi để dọn chỗ cho các con, để Thầy ở đâu các con cũng ở đó với Thầy”. Đó chính là nền tảng niềm tin của chúng ta. Chúng ta tin vào Đấng hằng sống để chúng ta được sống muôn đời.
Ước gì niềm vui Phục sinh sẽ biến đổi chúng ta thành con người mới. Con người của ân sủng. Con người của tự do không bị những đam mê thấp hèn thống trị, không bị những thói đời gian dối làm mất đi vẻ đẹp của phẩm giá cao quý của con người được tạo dựng giống hình ảnh Chúa. Ước gì niềm tin Chúa đã phục sinh giúp chúng ta biết chiến đấu mỗi ngày để chiến thắng cái ác, chiến thắng tật xấu bằng những hy sinh khổ chế, bằng cuộc sống bác ái yêu thương để mai này chúng ta cũng được phục sinh vinh hiển với Chúa. Nguyện xin Chúa là Đấng đã phục sinh từ cõi chết nâng đỡ chúng ta trên đường thánh giá hôm nay, để ngày sau chúng ta cùng được chung hưởng hạnh phúc quê trời. Amen.
50. Biến đổi trở thành con người mới
(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’ – Radio Veritas Asia)
Một câu chuyện dụ ngôn của Nhật Bản kể về Hoàng tử bị gù lưng, theo tục lệ của Hoàng Triều đang trị nước, bất cứ Hoàng tử nào được chỉ định thế nghiệp Vua Cha thì phải đúc tượng của mình đặt vào trong Bảo Tàng Viện của Quốc Gia để lưu danh muôn thuở. Tiếc thay vị Hoàng tử được chỉ định này lại là vị Hoàng tử bị khuyết tật gù lưng nên nhất định không chịu cho tạc tượng mình trưng trong Bảo Tàng Viện. Cuối cùng với áp lực của nhà Vua, Hoàng tử chấp nhận nhưng với hai điều kiện:
- Thứ nhất, tạc tượng Hoàng tử không bị gù lưng, nhưng đứng thẳng người như thể không bị khuyết tật nào cả.
- Thứ hai, Hoàng tử được giữ bức tượng này trong phòng riêng cho tới khi nào mình chết thì bức tượng mới được đem trưng trong Bảo Tàng Viện Quốc Gia.
Làm như vậy Hoàng tử muốn giấu đi những khuyết tật của mình không cho thần dân trong nước biết đến. Vua cha để tuỳ ý. Sau khi đã có bức tượng rồi, Hoàng tử đem trưng trong phòng riêng, hàng ngày đứng ngắm mình lâu trước bức tượng, vừa cố gắng thẳng người lên như bức tượng và điều lạ lùng xảy ra, sau thời gian dài ngắm bức tượng thẳng người, Hoàng tử cảm thấy mình như thật sự đã đứng thẳng người, không còn gù lưng nữa.
Đây là một chuyện dụ ngôn nhưng cũng có thể được người Kitô chúng ta áp dụng vào trong cuộc sống tinh thần của mình. Đến với Chúa Giêsu Kitô, khuyết tật gù lưng thể xác không có gì là xấu phải giấu diếm, nhưng gù lưng tinh thần không những là khuyết tật xấu, mà còn là tội lỗi, là những tật xấu bám chặt với điều xấu.
Hoàng tử gù lưng không bằng lòng với khuyết tật thân thể của mình. Người Kitô chúng ta cũng ý thức về những khuyết tật tinh thần của mình.
Không bao giờ bằng lòng với những khuyết tật này, Hoàng tử có một ước muốn mãnh liệt thoát ra cảnh gù lưng. Người Kitô cũng cần có ước muốn mạnh mẽ thoát ra khỏi những tật xấu của mình. Hoàng tử nhờ nhìn vào bức tượng thẳng người, là lý tưởng của mình và trở thành thẳng người; người Kitô chúng ta cần nhìn thẳng vào lý tưởng của chúng ta là Chúa Giêsu Kitô và không những phải nhìn từ cái nhìn bên ngoài mà thôi mà còn thực hiện điều Chúa Giêsu mong ước, đó là sống kết hiệp với Ngài để trở nên giống Chúa đến mức độ trở nên giống Chúa đến mưc độ như thánh Phaolô Tông Đồ đã sống: “Tôi sống nhưng không phải tôi sống, mà là Chúa Kitô sống trong tôi”.
Tôi sống nhưng không phải là tôi mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi. Chúa Giêsu là mẫu gương của chúng ta, Chúa đã thực hiện cuộc vượt qua, đã chết và sống lại để thực hiện ơn cứu rỗi cho chúng ta, để giải thoát chúng ta khỏi những gì gù lưng tật xấu, để trở thành của ăn nuôi sống chúng ta và biến đổi chúng ta thành con người mới được tái tạo theo hình ảnh Chúa Kitô, và chúng ta cần luôn nhìn vào Chúa Giêsu Kitô để giải thoát mình khỏi những tật xấu, để chúng ta không còn bị gù lưng tinh thần mà đứng thẳng lên sống lại cuộc sống mới vơi Chúa.
Vậy mừng Lễ Phục Sinh hôm nay, chúng ta phải nhất quyết luôn nhìn vào Chúa để sống đồng hoá với Chúa, để mình sống sự sống của Chúa, để trở nên giống như Chúa và được phục sinh với Chúa. Alleluia.
51. Chúa Giêsu khai sinh kỷ nguyên mới
(Trích từ ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm Ignatiô Trần Ngà)
Thế là cuối cùng, sau bao ngày chịu bắt bớ, xét xử, vu cáo, chịu đòn vọt rách nát thịt da, chịu vác thánh giá nặng nề tiến lên núi sọ trong khi sức tàn lực kiệt ngã lên té xuống nhiều lần, rồi lại phải chịu đóng đinh thân mình rất đỗi đau thương vào thập giá… Chúa Giêsu đã gục đầu tắt thở và được mai táng trong mồ. Tảng đá lấp cửa mồ đã đóng lại, đóng lại lịch sử một đời người đã làm những việc diệu kỳ. Cuối cùng, ngôi mộ đá được đóng lại, chôn vùi một Con Người tưởng là sẽ đem lại niềm hy vọng cho Israel.
Thế là hết! Còn đâu nữa những ngày nắng đẹp Ngài ngồi trên núi giảng bài tám phúc giữa đám đông quần chúng. Còn đâu nữa những buổi chiều trong hoang địa Ngài hoá bánh ra nhiều nuôi trên năm ngàn người ăn. Còn đâu nữa vị ngôn sứ oai hùng quát bảo cho sóng yên biển lặng. Còn đau nữa Con Người làm cho kẻ chết đội mồ sống lại, người phong hủi được chữa lành, người câm được nói, người điếc được nghe… Còn đâu nữa vị ngôn sứ đầy quyền năng trong lời nói và hành động phán bảo những điều đem lại phấn khởi cho bao người…
Đức Giêsu đã chết thật rồi, chẳng còn hy vọng gì nữa. Những môn đệ thân tín sau khi hoàn tất việc an táng Thầy thân yêu, giờ đây ra về trong u sầu tuyệt vọng. Mọi sự như chìm vào tang tóc đau thương.
Thế rồi điều kỳ diệu xảy ra: qua ngày thứ ba, từ lúc tờ mờ sáng, Maria Madalêna đi viếng mộ ngay từ sáng sớm cho vơi bớt đau thương. Tới nơi, bà hoảng hồn vì mồ đá mở toang. Nhìn vào bên trong không còn thấy thi hài của Thầy đâu nữa. Bà hoảng hốt chạy về báo tin cho các môn đệ. Các môn đệ ra tận nơi xem xét ngôi mộ trống và rồi sau đó lại ngỡ ngàng gặp gỡ Chúa phục sinh. Niềm vui tràn ngập cõi lòng. Bấy giờ các ngài mới biết la Chúa Giêsu đã sống lại. Ngôi mộ đá tưởng là nơi chôn vùi, nơi xoá sổ cuộc đời Thầy dấu ái, là điểm tận cùng của Chúa Giêsu nay đã trở thành khởi điểm cho một đời sống mới, thành tảng đá đầu tiên xây dựng Vương Quốc trường sinh.
Hôm nay, từ ngôi mộ trống và qua những lần hiện ra với các môn đệ sau khi phục sinh, Chúa Giêsu tỏ cho chúng ta thấy Ngài là Sự Sống lại và là Sự Sống như đã từng khẳng định với chị em Mác-ta và Maria: “Ta là sự sống lại và là sự sống! Ai tin Ta thì dù có chết cũng sẽ được sống. Và bất cứ ai sống mà tin Ta sẽ không chết bao giờ.”
***
Từ thời nguyên tổ phạm tội đến nay, tội lỗi thống trị và huỷ diệt sự sống con người. Con người vừa được sinh ra là đã mang án chết, như hoa còn đang nụ mà đã chớm lụi tàn, như nhộng chưa thành bướm mà đã phải tiêu vong… Mầm mống chết chóc hiện diện ngay giữa lòng cuộc sống và một sớm một chiều sẽ phá huỷ sự sống đi. Lưỡi hái tử thần như đang kề cổ mọi người và cướp đi sinh mạng của mọi người chẳng trừ ai.
Thế rồi qua sự phục sinh vinh hiển, Chúa Giêsu đã mở ra một kỷ nguyên mới: kỷ nguyên của sự sống vĩnh hằng. Ngài đã thắng sự chết. Thần Chết phải buông khí giới quy hàng. Loài người không còn phải bị tiêu diệt bởi lưỡi hái tử thần nhưng đã được cứu sống bởi quyền lực của Chúa Giêsu phục sinh. Sự sống đã được khai thông. Cai chết đã bị đẩy lùi. Ngôi mộ không còn là điểm tận cùng của kiếp người nhưng là khởi điểm cho một đời sống mới. Cái chết không còn là dấu chấm hết của cuộc đời nhưng là khúc dạo đầu cho bản giao hưởng trường sinh. Sự phục sinh của Chúa Giêsu đã xoá đi đêm dài tăm tối của kiếp sống đau thương để làm bừng lên bình minh của cuộc đời vĩnh cửu.
Xin mọi người hãy đến cùng Chúa phục sinh để đón nhận cuộc sống hồng phúc Ngài ban tặng.
(Trích từ ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’ – Radio Veritas Asia)
Trong đoạn Tin Mừng theo thánh Gioan chúng ta vừa đọc trên đây, tác giả chỉ nhắc đến bà Maria Madalena, nhưng qua ba Tin Mừng Nhất Lãm, chúng ta biết có thêm một vài người nữ cùng ra mộ Chúa Giêsu với bà. Các bà đi đến mộ và hốt hoảng khi thấy tảng đá chặn cửa mộ đã bị mở ra. Tại sao có chuyện kỳ cục như thế? Có ai muốn phá rối chăng? Bà Maria Madalena vội vàng chạy về báo tin cho Phêrô và người môn đệ Chúa Giêsu thương mến. Hai ông hối hả chạy đến mộ, hai ông đã thấy mộ trống với các khăn liệm còn lại ở đó, nhưng họ chẳng thấy xác Ngài đâu. Nhìn thấy quang cảnh, người môn đệ Chúa Giêsu thương mến biết rằng Thầy đã sống lại như lời Thầy đã nói.
Ngôi mộ trống là một dấu chỉ mà Chúa Giêsu gửi đến các môn đệ sáng ngày hôm đó. Đứng trước ngôi mộ trống, mỗi người có một phản ứng khác nhau. Các bà thì hoảng hốt, chạy về nhờ cậy các ông tới cứu. Ông Phêrô thì ngạc nhiên về sự việc xảy ra. Còn người môn đệ Chúa Giêsu thương mến thì tin rằng Thầy đã sống lại. Chúa đã sống lại thật. Allêluia.
Sự thật này có sức mạnh biến đổi cuộc đời chúng ta, đưa chúng ta ra khỏi bóng tối của sự sợ sệt, của nghi nan, để sống đến cùng đức tin của mình vào Chúa Kitô. Một ngôi mộ trống nhưng được giải thích bằng nhiều cách khác nhau, sẽ dẫn đến những phản ứng khác nhau.
Trong cuộc sống đức tin, mỗi người chúng ta đã nhiều lần đứng trước ngôi mộ trống của Chúa Giêsu, đó là những lần chúng ta băn khoăn đi tìm câu trả lời cho ý nghĩa đích thực của đời Kito. Dù đã được học hỏi về đức tin Kitô, đã được nghe giảng Lời Chúa, đã được chia sẻ kinh nghiệm sống đức tin của biết bao thế hệ tín hữu, nhưng những điều ấy không miễn cho chúng ta phải đối diện với đức tin của chính mình.
Như nhóm người cùng đi đến mộ Chúa Giêsu sáng sớm hôm ấy, chúng ta cùng hiệp thông với nhau nhưng không thể quyết định thay thế cho nhau. Giáo Hội khuyên chúng ta phải trả lời những câu hỏi về đức tin đặt ra cho chính mình. Có nhiều lúc chúng ta như rơi vào đêm tối bất an, tương tự như các môn đệ trong thời gian sau biến cố tử nạn của Chúa Giêsu, chúng ta nửa tin nửa ngờ. Một mặt chúng ta biết rằng đức tin vào Chúa Kitô có sức giải thoát chúng ta khỏi vòng vây tội lỗi và mang lại cho chúng ta một cuộc sống an bình hạnh phúc. Mặt khác, chúng ta phải đối diện với những thực tế cấp bách, thực tế xem ra không trùng khớp bao nhiêu với những điều mà đức tin dạy bảo chúng ta. Đức tin dạy chúng ta phải xây dựng hạnh phúc trên những nền tảng siêu nhiên. Thực tế lại cho thấy dường như những điều siêu nhiên chẳng giúp chúng ta đạt hạnh phúc mà đôi khi còn gây ra cho chúng ta bao nhiêu điều thiệt thòi phiền toái. Đức tin dạy chúng ta phải tập trung đầu tư cho cuộc sống vĩnh cửu mai sau, thực tế lại cho thấy mọi người đều dồn hết sức lực để xây dựng cho cuộc sống vắn vỏi ở đời này. Ai đúng, ai sai, ai khôn, ai dại? Chúng ta bối rối không biết phải theo ai bỏ ai đây? Trước những câu hỏi hóc búa này, chúng ta loay hoay tìm câu trả lời. Chúng ta cầu xin Chúa Giêsu soi sáng cho chúng ta. Nhưng có lúc, thay vì trực tiếp trả lời, Chúa Giêsu đưa chúng ta tới ngôi mộ trống của Người. Người gởi đến cho chúng ta những mật thư, những dấu chỉ, những lời nói, những biến cố đặc biệt xảy đến cho chúng ta. Muốn tìm ra lời đáp, chúng ta phải giai mã những tín hiệu này.
Khi nhìn thấy ngôi mộ trống, người môn đệ Chúa Giêsu thương mến nhanh chóng nhận ra rằng Thầy mình đã sống lại, ông không nhìn bằng đôi mắt nhưng đã nhìn bằng con tim. Tác giả Tin Mừng theo thánh Gioan đã kín đáo không nêu tên người môn đệ này, nhưng truyền thống Giáo Hội vẫn cho đó chính là tông đồ Gioan. Ông là người được Chúa Giêsu yêu thương cách đặc biệt và ông cũng đáp lại Thầy mình với tình yêu thương nồng nàn. Chính tình yêu này mách bảo cho ông biết đích xác chuyện gì đã xảy ra với Thầy. Tình yêu hun đúc niềm tin và niềm tin giữ cho tình yêu luôn kiên vững.
Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, nhiều lúc con phải giải mã các tín hiệu mà Chúa gởi đến cho con trong cuộc sống. Xin Chúa giúp con luôn trung kiên trong tình yêu, để con nhanh chóng nhận ra sứ điệp mà Chúa muốn gởi đến cho con trước ngôi mộ trống của Chúa, xin cho con vững tin rằng Chúa đã sống lại thật. Allêluia.
53. Đức Kitô Phục Sinh niềm vui cuộc sống
Giáo Hội Chính Thống có một truyền thống rất ý nghĩa về lễ Phục Sinh: Sau Thánh Lễ mỗi người được phát cho một quả trứng gà đã được làm phép. Khi đến chúc mừng lễ cho nhau, người ta đập vỡ quả trứng và nói: “Đức Kitô đã sống lại”. Người kia cũng đập quả trứng và đáp lại: “Quả thật, Đức Kitô đã sống lại, Halleluia”.
Ngày nay, ở các nước Âu Châu vào dịp lễ Phục Sinh, người ta vẫn thấy trưng bày các quả trứng được trang trí tô vẽ đủ màu sắc rực rỡ, thậm chí có cả những quả trứng chocolate lớn nhỏ đủ cỡ dành để làm quà tặng mừng Chúa Phục Sinh.
Thưa anh chị em,
Quả trứng có vỡ ra, con gà mới có thể chào đời. Cũng thế, ngôi mồ có mở ra, Đức Kitô mới sống lại từ cõi chết. Trước khi đập vỡ quả trứng để chào đời, con gà đã phải ngủ vùi trong quả trứng. Cũng thế, Đức Kitô đã bị chôn vùi trong mồ ba ngày rồi mới sống lại. Tin Mừng hôm nay đã cho chúng ta thấy ngôi mồ trống và loan báo tin Đức Kitô đã sống lại.
Ngài đã chết. Người ta đã chôn Ngài trong mồ đá. Cửa mồ mở ra. Xác Ngài không còn đó nữa. Maria Madalena hoảng hốt kêu lên; “Người ta đã lấy mất xác Thầy rồi!”. Hai môn đệ Phêrô và Gioan chạy ra mồ kiểm chứng. Hai ông thấy mồ mở toang. Nhìn vào trong thấy khăn liệm còn đó, nhưng xác Ngài đã biến mất. Gioan, người môn đệ Chúa yêu, đã thấy và đã tin: Chúa đã sống lại thật như Ngài đã tiên báo.
Chúa đã sống lại. Chúa đã từ trong cõi chết sống lại. Ngài sống lại thật sự chứ không phải chỉ sống trong tưởng tượng, trong lòng tin của chúng ta, tuy chúng ta không thấy Ngài, tuy chúng ta chỉ nhận ra Ngài nhờ đức tin. Nhưng Ngài đang sống thật, dù chúng ta không tin. Ngài cũng đang sống thật, đang điều khiển dòng lịch sử. Chúa Giêsu đã sống lại. Ngài không tỏ mình cho quần chúng từng đi theo Ngài khi Ngài đi rao giảng, nhưng chỉ cho một số người được tuyển chọn để làm chứng nhân. Họ đã được thấy Ngài Phục Sinh, được ăn uống với Ngài sau khi Ngài từ cõi chết sống lại.
Người Do Thái không chịu tin, đút tiền cho lính canh để lấp liếm. Người Hy Lạp cười khinh bỉ khi nghe Thánh Phêrô nói đến hai tiếng “Phục Sinh”. Nhưng đối với chúng ta thì Chúa Giêsu sống lại đem ý nghĩa cho cuộc sống của chúng ta: Nếu Chúa Kitô không sống lại, chúng ta vẫn còn mang tội lỗi trong mình và không ai giải cứu được chúng ta, không ai đem chúng ta đến gặp Thiên Chúa được. Nếu Chúa Kitô không sống lại, chúng ta sẽ là những người vô phúc nhất, ngu đan nhất, vì chúng ta đặt tin tưởng vào một chuyện hão huyền. Nếu Chúa Kitô không sống lại, thì thập giá chỉ là dấu hiệu của ô nhục, những đau khổ của con người không có lối thoát và cái chết của con người là ngõ cụt, là đường cùng.
Nhưng Chúa Kitô đã sống lại. Ngài đã cho chúng ta niềm hy vọng. Ngài đã đem theo những đau khổ của loài người qua bên kia bờ tuyệt vọng, làm cho những đau thương quằn quại của con người không còn là nỗi quằn quại của kẻ sắp bị cái chết tiêu diệt, nhưng là nỗi đau của người mẹ đang sinh con, nỗi đau làm phát sinh sự sống mới. Chúa Kitô đã sống lại, thập giá không còn là dấu hiệu của ô nhục, nhưng là dấu hiệu của vinh quang. Tin Mừng theo Thánh Gioan quan niệm thập giá là nơi Chúa Giêsu được tôn vinh. Cái “Giờ” mà Chúa Giêsu vừa trông đợi vừa lo sợ, chính là giờ Ngài được giương cao trên thập giá để kéo mọi người lên cùng Ngài. Chúa Giêsu đã sống lại, khiến cho cái chết của chúng ta không còn là ngõ cụt, không còn là đêm tối tuyệt vọng nữa, vì ánh sáng của Chúa Kitô đã bừng lên trong cõi chết. Chúa Kitô đã sống lại, niềm hy vọng của chúng ta không phải là hão huyền, vì Ngài đang ngự bên hữu Thiên Chúa, Ngài đang điều khiển dòng lịch sử, và khi Ngài tỏ hiện trong vinh quang, thì chúng ta cũng được xuất hiện cùng với Ngài trong hạnh phúc và vinh quang bất diệt.
Anh chị em thân mến,
Chúng ta đã được sống lại với Chúa Kitô Phục Sinh. Nhờ phép Rửa, chúng ta đã được tham dự vào sự chết và sự sống lại của Chúa Kitô, được mang mầm sống mới trong mình, mầm sống ấy phải lớn lên trong cuộc sống mỗi ngày và sẽ đưa chúng ta vượt qua chính cái chết tự nhiên của con người để vào cuộc sống vinh quang với Chúa Kitô. Sự sống của chúng ta, vinh quang của chúng ta được dấu ẩn trong Chúa Kitô. Hiện giờ chúng ta chưa thay vinh quang ấy như thế nào, nhưng khi Chúa Kitô xuất hiện, chúng ta sẽ thấy. Vì Ngài thế nào thì chúng ta cũng sẽ giống như vậy.
Chúa Kitô đã chết và đã sống lại vì chúng ta, chính là để chúng ta không còn sống cho mình nưa, không còn khư khư giữ lấy mạng sống, giữ lấy sự bảo đảm an toàn ích kỷ của mình nữa, nhưng là phải sống cho Chúa Kitô và như Chúa Kitô, hoàn toàn vì Thiên Chúa và cho tha nhân. Nếu đã được sống lại với Chúa Kitô, chúng ta đừng tìm những gì con người ích kỷ hẹp hòi, con người theo xác thịt xui chúng ta tìm kiếm; nhưng hãy nhìn thẳng về cùng đích của chúng ta mà tiến lên. Chúa Kitô đã mang lại cho những đau khổ của con người một ý nghĩa, đã làm cho cuộc sống trần gian nầy không còn là một ảo tưởng, nhưng là một phản ảnh và là con đường đưa đến cuộc sống vĩnh cửu.
Nếu sự Phục Sinh của Chúa Giêsu thật là cần thiết cho chính Ngài và cho những người tin vào Ngài, thì nó cũng lại rất cần cho cuộc sống hôm nay của chúng ta, khi mà nhiều người chán sống, khi mà cuộc đời có quá nhiều cái làm chết con người hoặc coi thường mạng sống con người. Chúa sống lại là một tin vui cho người đang tin vào cuộc sống đời sau, và còn là lời cảnh tỉnh cho người tưởng chết là hết, chết là giải quyết tất cả…
Nếu chúng ta tin như vậy, thì hơn ai hết, chúng ta phải làm chứng cho niềm tin Phục Sinh nầy bằng cách dam chấp nhận gian khổ, chấp nhận hy sinh, để cùng với mọi người xây dựng một xã hội tốt đẹp, cho mọi người được sống xứng đáng phẩm giá con người hơn. Nếu chúng ta tin rằng mọi sự từ bỏ đều được Chúa đền bù, mọi hy sinh đều là tham dự vào hy sinh cao cả của Chúa Kitô, thì tại sao chúng ta không dám từ bỏ, không dám hy sinh? Nếu chúng ta tin rằng: Chúa Kitô đã giải thoát chúng ta khỏi ách tội lỗi, khỏi con người theo xác thịt ích kỷ hẹp hòi và cho chúng ta một Thần Khí mới, một tinh thần mới, thì tại sao chúng ta cứ tiếp tục sống ích kỷ hẹp hòi? Tại sao chúng ta cứ khư khư giữ lấy sự an toàn bản thân, không dám liều mạng, xả thân vì anh em, vì tha nhân? Hạt giống chỉ có thể nẩy mầm khi nó có thể phá huỷ được cái vỏ bao bọc nó. Con gà chỉ có thể ra đời khi phá vỡ vỏ trứng. Con tằm phải phá ổ kén mới thành con bướm. Có cuộc chuyển hoá hay vượt qua nào mà không đau kho, rướm máu?
Trong ngày mừng Chúa Phục Sinh, chúng ta hãy kiểm điểm xem: chúng ta đã thật sự sống niềm tin Phục Sinh chưa? Chúng ta đã đánh giá đúng những thực tại trần thế chưa? Chúng ta đã nhìn gian khổ, hy sinh, nỗ lực cua con người bằng cặp mắt nào, cặp mắt của một người chỉ tin vào của cải vật chất hay của một người tin vào một cuộc sống vượt trên cuộc sống trần gian nầy và làm cho cuộc sống trần gian nầy có ý nghĩa cao cả thật sự của nó? Trong Thánh Lễ Phục Sinh hôm nay, khi chúng ta mừng Chúa Kitô đã chết và đã sống lại vì chúng ta, chúng ta hãy cầu xin Ngài cho chúng ta biết sống như Ngài: sống cho Chúa và sống cho mọi người anh em.
Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước,
cũng đi vào. Ông đã thấy và ông đã tin (Ga 20, 8).
Biến cố Chúa Giêsu phục sinh là một sự kiện lịch sử vĩ đại, siêu việt là căn nguyên của niềm tin Kitô giáo. Chính Ngài đã khai mở cho con người một Trời mới, một đất mới và một cuộc sống mới.
Thời sơ khai, để diễn tả Đức Giêsu (Đấng đã chịu đóng đinh, đã chết nay đã sống lại và đang sống) các sách Phúc Âm đã không ngần ngại dùng những tang chứng vật chất như: Người cho động đến mình, cho xem dấu đinh, ăn uống… Ngày nay, dựa vào những hiểu biết khoa học, khoa chú giải thánh kinh đã không còn giải thích thánh kinh theo đúng với nghĩa đen của nó nữa. Nhưng điều đó không có nghĩa là gác bỏ đi sự thực hư của việc sống lại, mà là nghĩ đến ý nghĩa của việc Chúa Giêsu sống lại đối với đời sống chúng ta.
Quả thật, nếu nhìn các chứng từ trong thánh kinh như là một sư kiện lịch sử thì không thể làm thoả mãn được sự phục sinh của Chúa Giêsu, bởi ngoài sự kiện lịch sử, biến cố này còn là một biến cố đức tin. Do vậy, sự làm chứng của các Tông đồ (những người đã từng sống với Chúa Giêsu, đã từng xem Ngài là Đấng Messia, và nay lại công bố đã thấy Ngài vẫn sống sau cái chết) có cái gì đó không lịch sử và không thể lịch sử bởi chính sự phục sinh cũng như chính hành vi bước từ sự chết sang sự sống vĩnh cửu chỉ là một thực tại dành cho đức tin, vả lại các Tông đồ không thể tự đứng ra làm chứng cho hành vi này. Vậy điều chúng ta có thể cho là lịch sử chính là ngôi mộ trống và những lần hiện ra.
Ngôi mộ trống
Giá trị làm bằng chứng hiển nhiên của Ngôi Mộ trống nếu tách khỏi ngữ cảnh, tức là sự chứng kiến của các Tông đồ về những lần hiện ra thì vẫn là chi tiết khó chấp nhận, bởi việc khám phá ra ngôi mộ trống được các Phúc Âm thuật lại chẳng có vai trò bao nhiêu trong căn nguyên nảy sinh đức tin của các Tông đồ. Vả lại việc loan báo Tin Mừng thời sơ khai của các Tông đồ đã không nhắc đến cách rõ ràng về ngôi mộ trống. Thực ra, ngôi mộ trống tự mình nó không chứng minh được sự phục sinh, nhưng có lẽ đó là điều kiện cần thiết cho niềm tin của các tín hữu sơ khai ở Giêrusalem.
Những lần hiện ra
Trong Phúc Âm, các lần hiện ra của Chúa Giêsu là những bằng chứng then chốt cho biến cố Phục Sinh của Người. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý là sự Phục Sinh của Chúa Giêsu không phải là hồi sinh trở lại với cuộc sống trước kia của Người. Thân xác Người không thuộc về vũ trụ vật lý. Sự Phục Sinh của Chúa Giêsu cũng không phải là tiếp tục sự sống sau cái chết, nhưng là chiến thắng sự chết, và “Nhưng xét như Đấng đã từ cõi chết sống lại nhờ Thánh Thần, Người đã được đặt làm con Thiên Chúa với tất cả quyền năng ” (Rm1,4). Như vậy, những lần hiện ra cũng chính là Chúa Giêsu, nhưng với một cánh hiện hữu mới. Điều này làm cho ta có thể hiểu tại sao các Tông đồ đã không nhận ra Chúa Giêsu ngay khi Người hiện ra: cô Maria Macđala tưởng là người làm vườn cho đến khi Người gọi tên cô (Ga20,16); hai người môn đệ trên đường Emmau ngộ nhận Người là một Người lạ mặt (Lc 24,31); các môn đệ tưởng là ma (Lc 24,40)
Và như thế, những lần hiện ra cua Chúa Giêsu không phải là những sự kiện hiển nhiên để các Tông đồ nhận biết rằng: người đã hiện ra với họ là chính Chúa Giêsu mà họ đã từng biết trước khi Người chết trên thập giá, rồi sau đó họ tin vào Đấng Phục Sinh là Chúa Giêsu; nhưng là một tiến trình ngược lại, đó là: họ nhận ra sự hiện diện của một người, nhưng họ không biết là ai, và từ sự nhận thấy này, họ bước sang lĩnh vực đức tin nhờ một suy nghĩ về cuộc sống trước đó của họ với Chúa Giêsu, bây giờ sáng tỏ nhờ thánh kinh mà ” người đó ” giải thích cho. Họ nhận ra kẻ đó chính là Chúa Giêsu sống động, và chính Chúa Giêsu đã chỉ lối cho họ, bắt đầu từ quá khứ của họ, hướng về tương lai bằng cách giao phó cho họ một sứ mệnh: sứ mệnh làm nên Giáo Hội.
Tóm lại:
Sự sống lại của Chúa Giêsu là tín điều sống còn của đức tin kitô giáo, nếu Ngài không sống lại thì biến cố về sự Phục Sinh của Ngài chỉ là thần thoại và kitô giáo trở thành trò lừa bịp mọi người. Các chứng cứ về sự Phục Sinh có thể làm cho họ nghi ngờ, nhưng điều gì đã làm cho các Tông đồ từ những kẻ nhút nhát, sợ sệt lại hăng say ra đi làm chứng cho sự Phục Sinh, dù phải chịu đau khổ, gian nan và cả đến sinh mạng mình?
Vâng, đó chính là vì họ đã nhận ra được Chúa Giêsu Phục Sinh, Đấng đã chịu đóng đinh, đã chết, nay thật sự đã sống lại.
Sự sống lại của Chúa Giêsu còn là nguyên nhân cho sự sống lại của con người, bởi Ngài đã đánh bại sự chết bằng chính mạng sống của mình, và đã Phục Sinh để thân xác chúng ta được sống lại: ” Người đã chết và sống lại vì chúng ta” (2Cr5,15). Hơn thế nữa, đ ức tin kitô giáo dạy rằng: ” nếu chúng ta cùng chết với Đức Kitô, chúng ta sẽ cùng sống lại với Người ” (2Tm 2,11). Với niềm tin ấy, người kitô hữu đã tìm được câu giải đáp cho số phận tương lai của mình, và như thế, vấn nạn về sự sống lại của Chúa Giêsu không những là đáng tin mà còn là điều phải tin trong thế giới ngày nay.
Xin cho những người mang danh là kitô hữu cũng biết chết đi chính thân xác mình, tức là chết đi những hận thù, chia rẽ, ghen ghét… biết luôn tin tưởng, phó thác và sống trong niềm hoan lạc Phục Sinh của Chúa Kitô. Xin cho cuộc sống của mỗi người kitô hữu luôn là chứng nhân cho sự Phục Sinh của Ngài. Amen.
55. Niềm Tin Chúa Phục Sinh, Allêluia
(Suy niệm của Lm. Xuân Hy Vọng)
Thế giới đảo điên trước tin đồn, tin nóng hổi, nào là người từ cõi chết trở về dương gian, người nằm trong mồ chỗi dậy về với gia đình trước sự bàng hoàng, hoảng sợ của gia luyến, người được xác quyết là đã lìa thế, nay lại trở về, v.v…Theo thói thường, con người chúng ta có xu hướng mong mỏi sự kiện, thông tin ‘shock’, thích bàn tán, bàn luận về ‘thế giế bên kia’, phép lạ này phép lạ kia, v.v… Thế thì, đứng trước niềm xác tín, lòng tin Chúa Ki-tô phục sinh, chúng ta có thái độ thế nào, và sống chứng tá ra sao?
Trước tiên, chúng ta cùng tán tạ Thiên Chúa đã thực hiện biết bao kỳ công vĩ đại và hân hoan chia san niềm vui Chúa Phục Sinh với nhau “Chúa đã sống lại thật rồi, Allêluia”. Con thiết nghĩ, lời chúc mừng này chính là động lực, niềm xác tín của đời sống Ki-tô hữu chúng ta. Thánh Phao-lô đã từng khẳng định khi Ngài nói về sự phục sinh của Đức Ki-tô như sau: “Nếu Đức Ki-tô không chỗi dậy từ cõi chết, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng…và nếu Đức Ki-tô không chỗi dậy thì lòng tin của anh em thật hão huyền…nếu chúng ta chỉ đặt niềm tin vào Đức Ki-tô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết” (1Cr 15, 14.17.19). Vì thế, niềm vui phục sinh là bài ca tán tụng Thiên Chúa, là kim chỉ nam cho đời sống chúng ta.
Thế nhưng, Phục sinh khải hoàn này chẳng phải do công trạng, lòng đạo đức thánh thiện của riêng ta, mà đây chính là cuộc chiến thắng tử thần của Đức Giê-su Ki-tô, và nhờ vào lòng thương xót, nhân hậu của Thiên Chúa mà chúng ta được thông phần vào niềm hân hoan phục sinh của Chúa Ki-tô. Hơn nữa, một khi chúng ta kết hợp mật thiết với Ngài, đồng chịu tử nạn với Ngài, đóng đinh những sai lầm, tội lỗi, tính hư nết xấu của bản thân, thì chúng ta sẽ cùng được sống lại với Ngài. Ngạn ngữ phương tây có câu: “Có qua con đường thập giá, mới nhận vòng hoa phục sinh”. Thật vậy, lắm lúc, chúng ta mong muốn, hồ hởi đón nhận niềm vui, vòng hoa chiến thắng vinh quang, nhưng chúng ta chẳng muốn thông phần, chịu tử nạn, bước qua con đường hy sinh, dâng hiến ‘trên thập tự’! Lắm lúc, chúng ta khước từ lời mời gọi ‘uống chén đắng’ với Thầy Giê-su trong mọi giây phút sinh hoạt hằng ngày, ngược lại, chỉ toàn ước mong nhanh nhanh lãnh lấy triều thiên quang vinh!
Trong các bài đọc hôm nay, Chúa Ki-tô phục sinh mời gọi mỗi người trong chúng ta hãy xác tín, tin vào Người, vì chỉ có Ngài là sự sống lại và là sự sống (x. Ga 11, 25). Thứ đến, hãy trở nên nhân chứng cho Chúa Ki-tô phục sinh qua mọi sinh hoạt, mọi nơi, mọi lúc, trong mỗi cử chỉ, lời ăn, lối suy nghĩ, cách nhìn nhận vấn đề, cách sống xây dựng tình huynh đệ trong cộng đoàn, vì chúng ta là đoàn dân của Chúa Ki-tô phục sinh như chính Đức Hồng y Lu-is An-tô-ni-ô G. Tag-lê, Tổng trưởng Thánh bộ Truyền giảng Tin Mừng cho các Dân tộc, và trước kia là Tổng Giám mục Địa phận Ma-ni-la, Phi-luật-tân, đã xác tín khi Ngài viết tác phẩm suy tư về ơn gọi cùng đích của người Ki-tô hữu, và sứ mạng của Giáo Hội Công Giáo với tựa đề nguyên bản The Church: The People of the Resurrection (tạm dịch: Giáo Hội: Dân Chúa Phục Sinh). Theo ngài, mỗi Ki-tô hữu là một chứng nhân của niềm vui Phục Sinh, chứ không là người ủ dột, buồn sầu. Người Ki-tô hữu là chứng tá sống động của Chúa Ki-tô Phục Sinh, chứ chẳng phải là người vô cảm, vô hồn, chẳng màng đến sự thống khổ của đồng loại. Người Ki-tô hữu là những người con cưng của Giáo Hội, luôn mang trong mình niềm tin Chúa Ki-tô Phục Sinh, luôn mặc lấy con người mới, con người của sự chia san, của sự quên mình, luôn nghĩ cho tha nhân, và đặt Chúa Ki-tô làm chủ, trung tâm đời sống mình.
Như bà Ma-ri-a Mag-đa-lê-na, với lòng trìu mến, gắn bó với Chúa Giê-su, và nhất là bà đã đặt Ngài làm chủ, làm trung tâm của mọi sinh hoạt của bà, thế nên, bà đã chiến thắng nỗi sợ sệt khi phải một mình ra mộ lúc trời còn mờ tối (x. Ga 20, 1). Bà trở nên can đảm nhanh nhẹn chia san, loan truyền những gì bà cảm nghiệm và đón nhận từ Chúa Phục Sinh. Cũng như Phê-rô, Gio-an đã dật tung cánh cửa khép kín do nỗi sợ hãi, ra khỏi con người cũ, bước tới với niềm xác tín vào Chúa Phục Sinh, và trở nên chứng tá Tin Mừng “ông thấy và ông tin” (x. Ga 20, 9). Tương tự, Phao-lô được mời gọi hoán cải từ một người Biệt Phái bắt bớ các tín hữu tin vào Chúa Giê-su Phục Sinh, trở thành tông đồ nhiệt thành, sống và làm chứng cho Chúa Ki-tô Phục Sinh “…Người đã truyền chúng tôi rao giảng cho toàn dân và làm chứng rằng chính Người đã được Thiên Chúa tôn vinh…” (x. Cv 10, 42). Chúng ta được mời gọi trở nên nhân chứng của niềm tin hân hoan Chúa Phục Sinh trong đời sống thường nhật, và cũng được thông phần vào sự vui mừng trọn vẹn mà Chúa Phục Sinh mang lại cho chúng ta, đó là: ơn cứu độ, vinh quang chiến thắng sự chết.
Chúa đã sống lại thật rồi, Al-lê-lui-a! Chúng ta hãy hân hoan, mừng rỡ, chia san, thông truyền niềm vui Phục Sinh đến hết mọi người, mọi dân nước vì Chúa đã chiến thắng sự chết và sống lại vinh quang.
Trần hoàn vui ca mừng
Vì Chúa đã Phục sinh
Khắp nơi trong hoan lạc
Thần chết bị đập tan.
Al-lê-lui-a hoà vang
Muôn dân tung hô chứa chan
Al-lê-lui-a tán dương
Chúa Phục sinh khải hoàn. Amen!
56. Chúa đã sống lại! Alleluia
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’ – R. Veritas)
Một cuốn phim mang tựa đề “Thế Giới Trong Tăm Tối” diễn tả câu truyện về một nhà khảo cổ danh tiếng tổ chức một cuộc khai quật khoa học ở Giêrusalem. Ngọn đồi Golgotha được cẩn thận đào bới, kể cả những phiến đá và các hang động của một nghĩa trang bên cạnh cũng được thăm dò khám xét kỹ lưỡng. Vì theo Tin Mừng Thánh Gioan, xác của Chúa Giêsu được chôn cất trong một phần mộ gan nơi Ngài bị án tử hình Thập giá. Sau bao công khó đào bới khám xét, một ngày kia nhà khảo cổ tuyên bố: “Tôi đã tìm được xác ông Giêsu”. Rồi ông tổ chức một cuộc họp báo rầm rộ, quy tụ hàng trăm ký giả và nhiếp ảnh viên để trình bày kết quả mỹ mãn của bao ngày tháng đào bới khảo cứu vất vả. Ông đã trưng dẫn trước mặt mọi người một xác người đã khô đét, nhưng còn có thể nhận ra là tay chân của xác người này bị đâm thủng, cạnh sườn bị đâm thâu và cả những dấu chứng tỏ thân xác ấy bị nhuốm máu qua những vết in trên tấm khăn liệm xác. Cuốn phim quay lại cảnh mọi người im lặng theo dõi bài thuyết trình của nhà khảo cố. Tình cờ có một phụ nữ phát biểu lớn tiếng: “Đây là sự thật hiển nhiên. Ông ta bị đóng đinh, đã chết và đã được táng xác” và nhà khảo cổ tiếp lời: “Vâng, đúng thế, bị đóng đinh, chết và được an táng. Nhưng làm gì có chuyện Phục Sinh, bởi vì xác ông ta vẫn còn nằm đây”.
Tiếp đến, cuốn phim diễn tả hậu quả của cuộc tìm được xác ông Giêsu: Không ai còn mừng lễ Phục Sinh nữa. Một linh mục tắt đèn Nhà Chầu, cất Mình Thánh Chúa và đóng cửa nhà thờ. Chuông các thánh đường im tiếng. Các nữ tu cởi khăn trùm đầu. Thánh giá tại nhiều nơi bị hạ xuống. Đèn bên những ngôi mộ bị dập tắt. Thế giới chìm đắm trong màn đêm u tối dày đặc. Cuốn phim kết thúc với cảnh chính nhà khảo cổ đang hấp hối. Trước khi trút hơi thở cuối cùng, ông ta đã thú nhận: “Tôi đã đánh lừa thế giới. Chính tôi đã làm giả xác của ông Giêsu và bí mật đặt vào trong mộ mấy năm trước khi khởi sự cuộc đào bới tìm kiếm này”.
Sau lời tuyên bố đó là cảnh hàng ngàn người tuôn đến ngôi mộ thánh ở Giêrusalem như chúng ta chứng kiến hàng năm trong Tuần Thánh. Những ngọn nến được thắp lên và các tín hữu mang những ngọn nến được thắp sang, ngọn nến của niềm hy vọng đi khắp nơi soi sáng con đường tăm tối. Chuông các nhà thờ ngân vang như báo tin Chúa Giêsu đã Phục Sinh: Tình yêu mạnh hơn tội lỗi. Sự sống mạnh hơn cái chết.
Anh chị em thân mến,
câu truyện phim giả tưởng trên đây mang sứ điệp của lễ Phục Sinh mà những người Kitô hữu chúng ta tưởng niệm và mừng kính hôm nay. Đó là cuộc Phục Sinh của Chúa Giêsu không chỉ liên hệ đến cuộc đời của Ngài mà còn trực tiếp lien quan đến vận mạng của toàn thể nhân loại cũng như ảnh hưởng mật thiết đến cuộc sống, niềm tin và hy vọng của tôi cũng như của anh chị em. Vì, nếu Chúa Kitô không sống lại thì chúng ta vẫn còn mang tội lỗi trong mình và không ai giải cứu được chúng ta, không ai đem chúng ta đến gặp Thiên Chúa được. Nếu Chúa Kitô không sống lại, chúng ta sẽ là kẻ vô phúc nhất, ngu đần nhất, vì chúng ta đặt tin tưởng vào một chuyện hão huyền. Nếu Chúa Kitô không sống lại, thì thập giá chỉ là dấu hiệu của ô nhục, những đau khổ của con người không có lối thoát và cái chết của con người là ngõ cụt, là đường cùng.
Nhưng Chúa Kitô đã sống lại. Ngài đã cho chúng ta niềm hy vọng. Ngài đã đem theo những đau khổ của loài người qua bên kia bờ tuyệt vọng, làm cho những quằn quại của kẻ sắp bị cái chết tiêu diệt, nhưng là nỗi đau của người mẹ đang sinh con, nỗi đau làm phát sinh sự sống mới. Chua Giêsu sống lại, Thập giá không còn là dấu hiệu của ô nhục, nhưng là dấu hiệu của vinh quang.
Mừng Chúa sống lại, người Kitô hữu cũng mừng sự sống lại của chính mình bằng cách đổi mới cách sống của mình, như Thánh Phaolô đã kêu gọi: “Nếu anh em sống lại với Đức Kitô, anh em hãy nghĩ đến những sự trên trời chứ đừng nghĩ đến những sự dưới đất”. Đây không phải là lời khuyên xa lánh các thực tại trần thế. Trái lại, đây là lời mời gọi mỗi người Kitô hữu hãy tìm và thể hiện những giá trị mới của cuộc sống mà Chúa Giêsu đã mạc khải qua các giáo huấn, qua cuộc sống cũng như cái chết của Ngài.
Một em bé nọ thường nghe mẹ em buột miệng thốt lên: “Chúa đã sống lại, ta hãy vui lên!”. Mỗi khi gặp điều gì khó khăn trong cuộc sống, bà tự nhủ: “Chúa đã sống lại, hãy vui lên!”. Bà thường tự nhủ trong lòng, nhưng khi bà thốt lên thành tiếng, con trai bà cũng nghe được. Em bé bắt chước mẹ, em thốt lên câu đó mỗi khi em gặp điều bất bình, khi bạn bè chơi xỏ, khi gặp điều không được như ý… Và thú thật, khi thốt lên câu: “Chúa đã sống lại, ta hãy vui lên!” thì em bình thản trở lại. Hành động của bà mẹ và em bé kia nói lên cố gắng sống niềm vui Phục Sinh một cách cụ thể, chuyển tải một chân lý nền tảng nhất của đạo Kitô vào trong cuộc sống hằng ngày, qua đó, biểu lộ niềm tin và hy vọng. Tình yêu mạnh hơn tội lỗi. Sự sống mạnh hơn cái chết.
Thưa anh chị em.
Người Kitô hữu mừng Chúa sống lại cũng được mời gọi làm chứng cho niềm tin về sự sống mới này. Chúa Kitô đã chết và đã sống lại vì chúng ta, chính là để chúng ta khong còn sống cho mình nữa, không còn khư khư giữ lấy mạng sống, giữ lấy sự an toàn ích kỷ cho mình, nhưng là sống cho Chúa và như Chúa, hoàn toàn vì Thiên Chúa và cho mọi người. Ước chi Thánh lễ Phục Sinh hôm nay cũng như Thánh lễ mỗi ngày Chúa Nhật giúp chúng ta thực thi cụ thể trong cuộc sống lời chúng ta tuyên xưng: “Chúng con loan truyền Chúa đã chịu chết. Chúng con tuyên xưng Chúa đã sống lại. Chúng con đợi chờ ngày Chúa quang lâm”.
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
Cách đây ít lâu, một tờ báo phát hành tại Ca-li-phóc-ni-a, Hoa kỳ đứa tin như sau: có một công ty nhận làm dịch vụ ướp xác chết trong tủ lạnh để khỏi bị hư thối. Rồi với những khám phá và tiến bộ khoa học, những người chủ trương hy vọng rằng: họ có thể tìm ra nguyên nhân cái chết của xác đó, tình trạng bệnh lý của cái xác đó trước khi chết. Và trong tương lai, họ có thể điều trị chứng bệnh đã tìm thấy và làm cho cái xác ấy được sống lại và sống mãi.
Chúng ta thực sự không biết được chương trình này rồi sẽ ra sao, thành công hay không, chúng ta cứ chờ xem. Nhưng hôm nay, nói về sự sống lai của Chúa Giêsu, chúng ta không nói đến chuyện con người sẽ sống lại để tiếp tục sống mãi với cái thân xác mà người ta gọi là xác đất vật hèn này.
Vậy Chúa Giêsu sống lại là thế nào?
Khi sống lại Ngài có sống vơi thân xác cũ không? Ngay từ thời thánh Phao-lô tông đồ, trong thư gửi cho giáo đoàn Cô-rinh-tô, ngài cho biết đã có những người đặt ra các câu hỏi như thế. Và ngài đã khẳng định với họ rằng: thân xác phục sinh không giống như thân xác cũ trước kia, nhưng bất tử và thiêng liêng. Nghĩa là Chúa Giêsu đã sống lại trong thân xác của Ngài. Nhưng thân xác lúc sống lại hoàn toàn khác thân xác lúc còn sống trước kia. Cũng là thân xác lúc trước thật, nhưng sau khi sống lại thân xác Chúa Giêsu trở thành siêu việt, không còn bị ràng buộc bởi những cản trở vật chất nữa, không còn bị chi phối bởi những định luật của không gian và thời gian nữa, nên muốn đi lai đâu tùy ý, vượt qua tường hay vào trong phòng khi các cửa đều đóng kín, và biến mất liền sau đó như các sách Tin Mừng đã thuật lại. Vì thế, thánh Phaolô nói: “Ngài là Người Trời”.
Đây cũng là tình trạng của thân xác chúng ta sau này, nghĩa là sau ngày tận thế, thân xác chúng ta cũng sẽ trở nên giống thân xác của Chúa Giêsu sau khi sống lại, tức là trở nên siêu việt và linh thiêng như thế, tuy vẫn là thân xác của mình. Về điều này trí óc chúng ta không thể hiểu thấu được, vì chúng ta còn bị giới hạn trong những phạm trù của không gian và thời gian, và chúng ta chỉ có thể chấp nhận được bằng đức tin. Nhưng tin có cơ sở, có bằng chứng, đó là sự sống lại, sự phục sinh của Chúa Giêsu.
Như vậy, Chúa Giêsu đã sống lại, có nghĩa là Chúa Giêsu chết trên thập giá, bây giờ vẫn đang sống. Và nếu Ngài muốn, Ngài cũng sẽ xuất hiện cho chúng ta gặp Ngài tận mắt như các tông đồ xưa. Vì thế, chúng ta tin Chúa Giêsu là chúng ta tin một người sống, một người có thể gặp được. Những vĩ nhân trên đời, những anh hùng dân tộc…sự nghiệp của họ lẫy lừng nên chúng ta khâm phục; cuộc đời họ đáng quí, nên chúng ta tưởng nhớ. Và tưởng nhớ vì họ đã chết. Đâu còn gì để gặp gỡ và đâu còn gặp gỡ nữa mà bảo tin. Còn Chúa Giêsu thì hằng sống, Ngài đang sống thực. Chúng ta tin Ngài vì chúng ta vẫn gặp Ngài.
Trải qua gần hai ngàn năm, niềm tin của các tông đồ và của các tín hữu tiên khởi vẫn còn được tiếp tục tuyên xưng. Mãi mãi vẫn còn có người tuyên xưng Chúa Giêsu là Đức Kitô, là Chúa, là Con Thiên Chúa. Ngài đã chết để cứu chuoc chúng ta. Ngài đã sống lại để bảo đảm chúng ta cũng sẽ sống lại. Và hiện giờ Chúa Giêsu Phục Sinh vẫn đang đồng hành với chúng ta trong cuộc sống trần gian. Chúng ta vẫn gặp Ngài trong Giáo Hội, trong các bí tích, trong thánh lễ, trong cầu nguyện, trong lời Chúa và trong khi thi hành giới răn mới của Ngài.
Chúng ta hãy nhớ: ai cũng sống lại:
người tội lỗi hay người công chính, người có đạo hay không có đạo…đều sống lại. Nhưng sống lại để được thưởng hay chịu phạt, được lên thiên đàng hay xuống hỏa ngục…đều tùy thuộc vào cuộc sống hôm nay trên trần gian. Vì thế, cuộc sống hôm nay, tuy ngắn ngủi, nhưng lại là cái giá cho cuộc sống mai sau. Cho nên chúng ta cần sống đúng người Kitô hữu đã được cứu chuộc để được sống mãi với Chúa Ki-tô.
Dưới tựa đề “Trái tim của chàng E-rôn Phơ-lin (Errol Flinn) đã quá lâm lụy”, báo Pa-ri Mát (Paris Match) cho in tấm hình của Phơ-lin, một tài tử lừng danh của Hô-ly-út (Holywood). Tấm hình chụp Phơ-lin nằm trần như nhộng trên chiếc ghế xếp, tay phải cầm ly rượu uýt-ki, tay trái đặt nhẹ trên vai một phụ nữ xinh đẹp cũng đóng khố như chàng. Bên trên tấm hình có hàng chữ sau: “Errol Flinn đã chết như khi chàng sống”. Thì ra tấm hình này, tuy chụp Phơ-lin lúc còn sống, nhưng đồng thời nó cũng ghi lại đầy đủ chi tiết cái chết của chàng. Khi bệnh tim đến kết liễu đời chàng, người ta thấy Phơ-lin giống hệt như trong tấm hình chụp lúc còn sống.
Cây nghiêng về hướng nào sẽ ngả theo hướng đó. Đời sống thế nào, cái chết sẽ thế ấy. Anh chị em tin có đời sau và chắc anh chị em cũng đồng ý với tôi: sống the nào chết thế ấy. Thế thì chúng ta phải sống thế nào cho xứng đáng với phẩm giá con người. Hơn nữa, chúng ta còn phải cố gắng sống sao cho xứng đáng với chức vị là con Chúa nữa.
(Suy niệm của Lm Trầm Phúc)
Hôm nay, tiếng reo ca Alleluia vang dội trong khắp Giáo hội. Tất cả đều như sống lại sau những ngày đau thương thống khổ. Chúa đã sống lại rồi! Hết rồi những ngày buồn thảm sầu thương. Chúng ta đã thấy bừng lên sự sống mới từ con người đã chịu treo trên thập giá và đã sống lại. Một điều thật khó tin nhưng là một sự thật. Và chúng ta đang sống trong thực tại linh thiêng và khó tin đó. Chúng ta đang sống trong Đấng đã phục sinh vinh hiển. Không có sự phục sinh sẽ không có đạo Công giáo vì đó là nền tảng duy nhất, không thể thay thế.
Chúa Giêsu đã chết, đúng như lời Kinh Thánh. Ngài đã được mai và ngày thứ ba Ngài sống lại, đúng như lời Kinh Thánh. Và nếu Chúa Kitô không sống lại thì lời rao giảng của chúng tôi cũng trống rỗng. Thánh Phaolô đã quả quyết như thế.
Chúa Kitô đã sống lại. Tất cả đều sống lại với Ngài. Tất cả mọi sự đều trở nên trong sáng. “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống”. “Ta là sự sống lại và là sự sống”. “Ta là ánh sáng thế gian”… Tất cả trở nên sáng ngời và rõ rệt. Chúng ta tin vào một Thiên Chúa nhập thể nhưng là Thiên Chúa hằng sống. Ngài sống lại để mọi sự được tái sinh và chúng ta sẽ sống trong Ngài.
Các môn đệ không được như chúng ta. Họ phải đi ngang qua nhiều giai đoạn khó khăn mới đạt đến niềm tin vào sự sống lại của Chúa.
Trong tường thuật của thánh Gioan, chúng ta thấy Maria Magđala. Nàng đến mộ từ sáng sớm. Nàng không yên tâm, nàng chỉ nghĩ đến Chúa đang nằm trong mồ. Khi đến mộ, nàng thấy mộ đã mở toang. Tưởng là ai đã xúc phạm đến mộ, và đã cướp xác Thầy. Chuyện này cũng thường xảy ra thời bấy giờ. Nàng chạy nhanh về báo tin cho Phêrô.
Nghe tin báo như thế, Phêrô tức tốc chạy ra mộ để kiểm chứng. Gioan cũng chạy theo. Hai người cùng chạy. Việc này không thể chậm trễ được. Chúng ta thấy Gioan tôn trọng vị lãnh đạo của mình. Ông đến mộ trước nhưng không bước vào. Phêrô cũng đến và vào trong mộ. Các ông thấy gì? Ngôi mộ trống không, không còn thi hài ở đó nữa, nhưng còn thấy những băng vải quấn xác Chúa. Khăn liệm được xếp lại và để riêng, không để lẫn với những dây băng. Như thế ngôi mộ không bị xúc phạm và xác của Ngài không bị đánh cắp, vậy thì phải hiểu thế nào?
Nếu xác bị đánh cắp thì làm sao khăn liệm còn đó và cả dây băng? Môn đệ Chúa yêu kết luận: “Ông thấy và ông tin”. Ông đã đạt đến niềm tin. Phêrô không nói gì nhưng chắc hẳn đã thấy nhóm lên trong lòng niềm vui vì Thầy đã sống lại thật.
Niềm vui của chúng ta đã trọn vẹn vì chúng ta dám tin vào một Thiên Chúa Tình Yêu. Tình yêu đã đưa Chúa Giêsu đến với chúng ta, sống kiếp người của chúng ta, chết cho chúng ta, sống lại cho chúng ta. Niềm vui trần thế của chúng ta mong manh vì không có gì bảo đảm. Niềm vui phục sinh của chúng ta có bảo đảm vững chắc, vì chính Đấng phục sinh từ cõi chết là bảo đảm. Ngài là Thiên Chúa thật, Thiên Chúa toàn năng, đã chiến thắng sự chết và vẫn sống.
Cuộc sống hôm nay của chúng ta, niềm vui của chúng ta nằm trong tay toàn năng của Ngài. Ngài bao bọc chúng ta trong vòng tay yêu thương của Ngài. Chúng ta vẫn còn phải đương đầu với cuộc sống, với mọi cam go của cuộc sống, nhưng chúng ta không còn sợ sệt. Thiên Chúa Tình Yêu đã tràn ngập chúng ta. Sức sống thần linh của Ngài biến đổi tất cả. Chúng ta không đi về cõi hư vô, chúng ta đi về nguồn sống. Ngài chỉ cần một ngôi mộ trống để tỏ cho chúng ta thấy quyền năng vô song của Ngài.
Như Gioan, chúng ta chỉ cần tin. Niềm tin vào Chúa phục sinh là nền tảng của cuộc sống chúng ta. Chúa đã chết không phải vì Ngài thất bại, nhưng Ngài chết cho chúng ta. Ngài sống lại không phải sống lại cho Ngài mà cho chúng ta. Điều này có ý nghĩa gì? Phải chăng Ngài liên đới với chúng ta một cách sâu xa. Tất cả là cho chúng ta. Ngài đưa chúng ta vào cuộc sống thần linh của Ngài. Chúng ta không còn sống cho chính mình nữa mà sống cho Đấng đã chết và sống lại cho chúng ta. Thánh Phaolô đã cảm nghiệm một cách mạnh mẽ mối liên hệ này. Ngài nói: “Chúng ta cùng sống, cùng chết với Chúa Kitô”. Con người cũ của chúng ta phải chết đi, lúc đó con người mới sẽ xuất hiện trong ánh sáng của Đấng đã toàn thắng tội lỗi và sự chết. Lúc đó sẽ không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đấng đã thương chúng ta và đã chết cho chúng ta.
Làm sao con người cũ của chúng ta có thể chết được? Chúng ta được sinh ra trong tội. Con người xác thịt vẫn đòi chiếm phần nhất hảo. Chúng ta vẫn ngại khó, xác thịt vẫn nặng nề. Phiến đá cửa mộ quá lớn, “ai sẽ lăn tảng đá cửa mộ cho chúng ta?” Làm sao đóng đinh tính xác thịt chúng ta vào thập giá? Chúng ta thích sự lành nhưng chúng ta không làm, còn sự dữ chúng ta ghét, chúng ta lại làm”. “Ai sẽ cứu chúng ta khỏi cái xác phải chết này? Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta”. Chỉ có Ngài thôi vì chúng ta chỉ là tro bụi. Nhưng nếu chúng ta tin. Niềm tin sẽ cứu chúng ta. Chúa Giêsu đã nhiều lần nói như thế cho những người đã đến xin Ngài chữa lành.
Niềm tin không dễ dàng. Các môn đệ Chúa phải chập choạng trong đêm tối của lo sợ nghi nan mới tìm thấy ánh sáng. Chúng ta cũng thế. Việc Chúa phục sinh là một biến cố gây nghi vấn nhiều hơn là mang lại bình an. Nó xuất hiện trong thế giới của những kẻ phải chết làm sao dễ chấp nhận? Cái chết hôm nay như một thực tại hằng ngày. Những tai ương, những cảnh giết chóc xảy ra hằng ngày làm chúng ta xao xuyến. Cái chết của những người thân khiến chúng ta đau khổ. Nhưng niềm tin sẽ chiến thắng. Chúa hỏi chị Matta: “Con có tin không?” Chúa cũng hỏi chúng ta như thế. Hãy trả lời với Chúa như các môn đệ xưa kia: “Con tin, nhưng xin thêm đức tin cho con”.
Chúa Giêsu hôm qua đã là một tử tội: “Hãy đóng đinh nó vào thập giá!” Hôm nay, chính con người cũ của chúng ta trở thành tử tội: “Hãy đóng đinh nó vào thập giá!” Có như thế, chúng ta sẽ thành con người mới, được tái tạo trong Chúa Kitô. Hãy đi vào ánh sáng. Từ nay Chúa Kitô là ánh sáng của chúng ta, là vinh quang của chúng ta. Đừng mặc cảm vì chúng ta yếu đuối. Chúa đã nhận lấy tất cả sự yếu đuối của chúng ta. Ngài đã rửa sạch tất cả trong dòng máu tinh khiết của Ngài. Hãy vui lên! Hãy hát lên một bài ca mới: “Chúa đã sống lại thật rồi! Alleluia!”
Ngài đang ở đây. Ngài là Bánh Hằng Sống, là nguồn sống mới của chúng ta. Ăn lấy Ngài đi, tình yêu của Ngài sẽ là nguồn vui bất tận của chúng ta hôm nay và mãi mãi.
(Suy niệm của Lm Giuse Phạm Thanh Liêm)
Đức Giêsu đã sống lại. Ngài vẫn còn đang sống. Đó là niềm tin của các tông đồ. Đây cũng là niềm tin của tất cả Hội Thánh, của mọi Kitô hữu. Đức Giêsu đã sống lại, biến cố này làm chấn động tất cả, đặc biệt các tông đồ là những người liên hệ cụ thể với Đức Giêsu.
- Các tông đồ trước cái chết ô nhục của Đức Giêsu
Biến cố Đức Giêsu bị bắt và bị giết diễn ra quá nhanh, chỉ từ đêm thứ năm đến trưa thứ sáu, làm các tông đồ và các môn đệ bàng hoàng sửng sốt. Đức Giêsu bị giết, kéo theo tất cả các mơ ước của các tông đồ. Từ mơ ước “ngồi bên tả ngồi bên hữu” đến hoài bão xây dựng một nước Israel mới. Cái chết của Đức Giêsu đánh đo mọi hy vọng của các tông đồ.
Bây giờ Kitô hữu biết Đức Giêsu như các tông đồ biết Đức Giêsu sau khi Ngài đã sống lại; tuy nhiên, khi Đức Giêsu còn đang sống tại thế với họ, thì các tông đồ chưa biết rõ Đức Giêsu như sau khi Ngài phục sinh. Trước khi Đức Giêsu chết và sống lại, các tông đồ cũng như đa số dân Do Thái, tin Đức Giêsu là một tiên tri, và hơn nữa, là Đấng Kitô Thiên Chúa sai tới để giải phóng dân. Đa số người Do Thái thơi đó đang mong chờ Đấng Thiên Sai giải phóng họ khỏi cảnh đô hộ của người Roma. Họ mong chờ Đấng Thiên Sai (Đấng được xức dầu, Đấng Kitô) giải phóng họ, như trong quá khứ cha ông họ đã chờ đợi, cầu xin, và Thiên Chúa đã ban cho họ Môsê và các thẩm phán, để giải phóng họ khỏi cảnh áp bức.
Đức Giêsu chết, và một cái chết trần trụi ô nhục, làm các tông đồ vỡ mộng. Các tông đồ không chỉ vỡ mộng, mà còn bị khủng hoảng vì tại sao Thầy Giêsu của họ, một người tốt, một người làm nhiều dấu lạ, mà bây giờ Thiên Chúa lại bỏ Ngài, để Ngài phải chết ô nhục như vậy! Lúc Đức Giêsu còn đang sống với các tông đồ, các Ngài chưa biết Thiên Chúa là Ba Ngoi, và Đức Giêsu là Thiên Chúa Con như các Kitô hữu bây giờ. Các tông đồ buồn sầu, thất vọng, và bị khủng hoảng cả về niềm tin vào Thiên Chúa nữa.
- Các tông đồ trước sự kiện Đức Giêsu Phục Sinh
Tin Đức Giêsu đã song lại, do các chị phụ nữ mang lại, làm các tông đồ xao xuyến. Chuyện như mơ. Điều các chị phụ nữ nói làm sao tin được? Họ là phụ nữ mà. Gioan và Phêrô chạy tới mộ. Mồ trống. Cái gì đã xảy ra? Tin mừng Gioan nói: “ông thấy và ông tin” (Ga.20, 8). Gioan tin cái gì? Gioan không nói rõ về điều này. Chỉ biết rằng theo tin mừng Máccô: “Sau cùng, Người đã tỏ mình ra cho chính nhóm mười một đang khi các ông dùng bữa. Người khiển trách các ông khong tin và cứng lòng, bởi lẽ các ông không chịu tin những kẻ đã được thấy Người sau khi Người trổi dậy” (Mc.16, 14).
Không phải chỉ có tông đồ Thomas không tin Đức Giêsu sống lại cho dù các chị phụ nữ và các tông đồ khác đã loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho ông (Ga.20, 24-29), mà tất cả các tông đồ đều không tin Chúa phục sinh, kể cả hai môn đệ đã chán nản bỏ cuộc và đang trên đường về quê (Mc.16, 12-13). Biến cố Đức Giêsu phục sinh là bien cố rất khó tin, kể cả đối với các tông đồ, vì chẳng có tông đồ nào tin Đức Giêsu phục sinh nếu đã không được Đức Giêsu phục sinh hiện ra cho họ. Họ chỉ tin Đức Giêsu phục sinh khi họ thấy Ngài.
Trong các tin mừng có nói Đức Giêsu đã loan báo ba lần Ngài sẽ chết và sẽ sống lại (Mc.8, 31; 9, 30-32; 10, 32-34), nhưng các tông đồ đã quên điều này khi Ngài bị giết. Tại sao họ quên? Có thể vì chuyện đó không thể tin được nên các tông đồ đã quên. Chỉ sau khi sự thực xảy ra, nghĩa là, chỉ sau khi Đức Giêsu phục sinh, mới làm các tông đồ nhớ lại các lời đó thôi. Biến cố Đức Giêsu phục sinh, là biến cố không thể tin nếu không được tận mắt thấy Ngài (như cac chị phụ nữ và các tông đồ), và nếu có ai tin thì đó là một ơn vô cùng lớn: “Phúc cho ai không thấy mà tin” (Ga. 20, 29).
III. Con người trước tin mừng Đức Giêsu Phục Sinh
Một số người thời các tông đồ đã cho rằng, các tông đồ trộm xác Đức Giêsu và loan tin Ngài sống lại (Mt.28, 11-15). Thế nhưng, các tông đồ đã làm chuyện đó để làm gì? Tại sao tất cả các tông đồ (trừ Gioan) đã đem chính mạng sống họ để làm chứng rằng Đức Giêsu đã phuc sinh? Tại sao họ lại phải vất vả, gian khổ, và phải chết vì chuyện đó (nếu đó là gian dối thực!)?
Một số người thời đại cho rằng các tông đồ đã bị hoang tưởng tập thể. Họ đã mong Đức Giêsu sống lại, nên cứ tưởng rang Đức Giêsu sống lại thật. Tuy nhiên, như các tin mừng làm chứng, các tông đồ đâu có dễ tin Đức Giêsu sống lại. Chẳng có ai tin Đức Giêsu sống lại, nếu không phải chính họ đã thấy Ngài. Trường hợp tông đồ Thomas giúp Kitô hữu thấy điều này rõ ràng hơn. Sự cứng lòng của Thomas lại là một lý chứng giúp các Kitô hữu vững tin vào sự kiện Đức Giêsu phục sinh.
Một số khác cho rằng, Đức Giêsu có phục sinh hay không, cũng không quan trọng. Điều quan trọng là tin mừng Phục Sinh gợi cho người ta một ý nghĩa nào đó. Đức Giêsu Phục Sinh là một biểu tượng của một đời sống mới, của sự chiến thắng. Thánh Phaolô cũng phải đương đầu với lối giải thích này, và ngài nói: “nếu Đức Kitô đã không trỗi dậy, … thì đức tin của anh em thật hão huyền, và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của anh em…. Và nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Kitô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người” (1Cor.15, 12-19).
Kitô hữu là người tin Đức Giêsu sống lại thật sự, tuy dù sự sống lại của Đức Giêsu khác với sự sống lại của Ladarô (Ga.11, 1-44), của em bé (Mc.5, 21-43) được Đức Giêsu cho sống lại. Thân xác của Đức Giêsu Phục Sinh đã được biến đổi, vật chất không còn giới hạn được Ngài nữa. Thánh Phaolô gọi thân xác phục sinh là thân xác thần khí. Đức Giêsu phục sinh, là biến cố vô cùng quan trọng, và giúp con người hiểu hơn về Đức Giêsu, hiểu hơn về Thiên Chúa, và hiểu hơn về chính con người.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
- Bạn có tin Đức Giêsu đã phục sinh không? Tại sao bạn tin Ngài phục sinh?
- Tin Đức Giêsu phục sinh, bạn được lợi ích gì?
(Suy niệm của Lm. Phạm Quốc Hưng)
Trong Nghi Thức Phụng Vụ Vọng Phục Sinh, khi rước cây nến Phục Sinh đã được làm phép và thắp sáng vào trong nhà thờ, linh mục chủ tế đọc hay hát ba lần lơi tung hô “Ánh Sáng Chúa Kitô” và cộng đoàn cùng hân hoan đáp lại “Tạ ơn Chúa”. Từ đó, cây nến Phục Sinh chiếm một vị trí quan trọng trên cung thánh và luôn được cung kính như biểu tượng của chính Chúa Kitô-Đấng là chính Ánh Sáng đem lại sự sống đời đời.
Ánh sáng tuyệt đối cần thiết trong đời sống tự nhiên thế nào, niềm tin vào Chúa Kitô cũng tuyệt đối cần thiết trong đời sống thiêng liêng như thế. Nhờ ánh sáng tự nhiên, mắt chúng ta mới nhận biết các sự vật xung quanh. Nhờ Chúa Kitô là Ngôi Lời Nhập Thể, với con mắt đức tin chúng ta mới nhận biết các thực tại siêu nhiên, nhất là thực tại về Thiên Chúa và về chính con người chúng ta.
Qua bao thế hệ, loài người sống trong bóng đêm do tội lỗi gây ra. Trong bóng đêm ấy, con người bị trăn trở bởi biết bao bức xúc nghi nan, bị đau đớn buồn phiền vì bao hận thù chia rẽ, bị sợ hãi lo âu bởi đủ loại bệnh tật chiến tranh va luôn bị ám ảnh bởi tử thần. Trong bóng đêm ngàn đời ấy, con người khao khát ánh sáng toàn diện để nhận biết ý nghĩa cho cuộc sống của mình, mong mỏi tìm được câu trả lời cho những khúc mắc thẳm sâu của lòng mình.
Công Đồng Vaticanô II diễn tả những bức xúc muôn thuở của con người trong Hiến Chế Mục Vụ “Vui Mừng và Hy Vọng” với những lời thật súc tích như sau: “…trước sự tiến hóa hiện nay của thế giới, càng ngày càng có nhiều người hoặc đặt vấn đề hoặc nhận thức sâu sắc mới mẻ về những vấn đề hết sức căn bản như: Con người là gì? Đâu là ý nghĩa của đau khổ, sự dữ, cái chết? Sao chúng còn tiếp tục tồn tại mặc dù đã có bao nhiêu tiến bộ? Bao chiến thắng đạt được với giá đắt ấy có ích gì? Con người có thể đem lại gì cho xã hội và có thể trông đợi gì ở xã hội? Cái gì sẽ tiếp theo sau cuộc sống trần gian này?” (#10).
Tất cả những câu hỏi và những bức xúc muôn thuở của con người như được cô đọng nơi lời than của Chúa Giêsu Chịu Đóng Đinh Thập Giá trong cơn hấp hối vào Thứ Sáu Thánh: “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” (Mc 15:14).
Với Tin Mừng Phục Sinh, “Ánh Sáng Chúa Kitô” là câu trả lời cho tất cả!
Đó chính là điều Hội Thánh rao giảng cho mọi thời đại, như Công Đồng Vaticanô II xác định trong cùng văn kiện trên: “Giáo Hội tin rằng Chúa Kitô đã chết và sống lại cho moi người. Vì thế qua Thánh Thần của Người, Người ban cho con người ánh sáng và sức mạnh để con người có thể đáp lại thiên chức cao cả của mình. Giáo Hội cũng tin rằng dưới bầu trời này chẳng còn danh hiệu nào khác được ban cho loài người để loài người nhờ đó mà được cứu rỗi. Cũng thế, Giáo Hội tin rằng đầu mối, trung tâm và cùng đích của toàn thể lịch sử nhân loại đều ở trong Đức Kitô là Chúa và là Thầy của Giáo Hội. Hơn nữa, Giáo Hội còn tin rằng qua mọi thay đổi, có nhiều điều vẫn không đổi thay vì nền tảng cuối cùng của những điều không thay đổi này là Chúa Kitô, Đấng hôm qua, hôm nay và mãi mãi. Vậy dưới ánh sáng Chúa Kitô, Hình Ảnh của Thiên Chúa vô hình, Trưởng Tử giữa mọi thọ sinh, Công Đồng muốn nói với mọi người để làm sáng tỏ mầu nhiệm về con người và để cùng nhau tìm giải đáp cho những vấn đề chính yếu của thời đại chúng ta”.
Ánh Sáng Chúa Kitô Phục Sinh cho thấy rằng chính vì không muốn bỏ rơi nhân loại trong bóng tối của tội lỗi và sự chết, nên Thiên Chúa đã muốn Chúa Giêsu phải chịu bỏ rơi và chịu chết trong đau khổ nhục nhã ngút ngàn trên thập giá, để Ngươi sẽ sống lại trong vinh quang chiến thắng tội lỗi và sự chết hầu đem lại Ánh Sáng Đức Tin và Sự Sống Đời Đời cho nhân loại.
Ánh Sáng Chúa Kitô là Ánh Sáng Đức Tin chiến thắng tội lỗi, là Ánh Sáng Sự Sống tiêu diệt sự chết, là Ánh Sáng Tình Yêu xóa tan mọi hận thù, là Ánh Sáng Bình An xoa dịu mọi bức xúc, là Ánh Sáng Chân Lý phá tan mọi dối trá, là Ánh Sáng Toàn Thiện hủy diệt mọi gian ác, là Ánh Sáng Toàn Mỹ xóa bỏ mọi khuyet tật, là Ánh Sáng Hiệp Nhất hủy bỏ mọi chia rẽ và là Ánh Sáng của Tin Mừng làm biến tan mọi nỗi sầu khổ và làm thỏa mãn mọi ước vọng thẳm sâu nhất của cõi lòng mọi người.
Chấp nhận Ánh Sáng Chúa Kitô với lòng tin là đón nhận mọi phúc lộc cao quý tốt đẹp nhất hơn cả những gì lòng người có thể mơ tưởng và cầu xin!
Từ khước niềm tin vào Chúa Kitô là tự chọn ở lại trong bóng tối của tội lỗi ngàn đời!
Lạy Mẹ Maria là Nữ Vương Thiên Đàng, xin Mẹ cầu thay nguyện giúp cho chúng con có được đức tin mạnh mẽ và tuyệt hảo của Mẹ, để chúng con luôn được sống trong Ánh Sáng Chúa Kitô hôm nay và mãi mãi. Amen.
(Suy niệm của Lm Gioan Phan Tiến Dũng)
Lời mời gọi của bài Đáp ca trong ngày Lễ Chúa Phục Sinh: “Đây là ngày Chúa đã lập ra, chúng ta hãy mừng rỡ hân hoan”. Thưa ACE, ai trong chúng ta là những người có Niềm Vui của Chúa Phục Sinh ban tặng và Niềm Vui Phục Sinh này được thể hiện như thế nào trong tâm hồn và cuộc sống chúng ta? Cách riêng với giáo xứ, với từng gia đình và cộng đoàn, chúng ta có thực sự mở lòng để đón nhận và cảm nếm được ơn ban trọng đại của Chúa Phục Sinh trong năm nay?
Bài đọc một trong TĐCV tường thuật: Từ những con người yếu đuối, chối Chúa, chối Thầy như Phêrô và các môn đệ, giờ đây các ông lòng đầy hân hoan, ra đi loan báo tin vui về Đức Giêsu Kitô, Đấng đã chịu cực hình, chịu chết và nay đã sống lại thật. Vì các ông là những người có liên quan tới Chúa Giêsu, nên khi Chúa bị bắt và bị giết chết, thì họ đã lo sợ, hoang mang và bất an. Nhưng giờ đây, với ơn ban của Chúa Giêsu Phục Sinh, họ đã vui tươi, hăng say, can đảm, không còn sợ hãi mà ra đi, mạnh dạn rao truyền về Đức Kitô, Đấng đã Phục Sinh. Câu hỏi được đặt ra: Tại sao Phêrô và các tông đồ lại có niềm vui, ơn ban đặc biệt này? Thưa, đó là vì họ đã tin vào Đức Kitô, đã tin vào những gì mà Thầy Giêsu dạy; nhờ đức tin giúp họ mở lòng cho ơn Chúa để có sức mạnh và niềm vui.
Trong bài đọc hai, Thánh Phaolô hơn bất cứ ai khác đã được ơn thánh hoán cải vì Ngài đã tin vào Đức Giêsu Kitô, Đấng đến từ Thiên Chúa, Đấng đã chịu cực hình, chịu chết và phục sinh. Chính qua kinh nghiệm và cách sống của Phaolô, cho chúng ta phần nào có thể đồng cảm với chính con người yếu đuối tội lỗi của chúng ta. Vì Phaolô ngay từ ban đầu, ông đã không tin, không chấp nhận ông Giêsu Kitô chịu đóng đinh, Phaolô đã ra tay bắt hại những ai tin vào ông Giêsu nữa, vì cho rằng tin vào một người đã chết nhục nhã như vậy mà gọi là Thiên Chúa thì đúng là sự điên rồ, sỉ nhục. Thế nhưng, giờ đây khi đã được ơn đức tin và nhờ sự khiêm tốn sau cú ngã ngựa trên đường vào thành Đamas, Phaolô đã mạnh dạn tuyên xưng và loan truyền niềm tin của mình. “Tôi biết tôi đã tin vào ai”. Với lòng khiêm tốn khi đón nhận đức tin, Phaolô đã có đầy tràn niềm vui và bình an của Chúa Phục Sinh. Chính vì lẽ đó, với Phaolô giờ đây “Không có gì có thể tách tôi ra khỏi tình yêu của Đức Kitô”. Thật vậy, với kinh nghiệm của bản thân, nên Phaolô đã mời gọi chúng ta hãy tin vào Đức Giêsu Kitô và tìm kiếm những sự trên trời, nhờ đó chúng ta mới có niềm vui và bình an đích thực.
Tin mừng minh chứng và khẳng định cho chúng ta về những con người có niềm vui phục sinh, họ chính là những con người luôn sống gắn bó mật thiết và có lòng yêu mến cách đặc biệt dành cho Đức Giêsu Kitô. Maria Madalena, con người được lòng mến thôi thúc, “Bà đã đi ra mồ Chúa từ sáng sớm khi trời còn tối”. Tại sao Maria lại hăng say và vội vã như vậy? Phải chăng vì lòng luyến tiếc nhớ thương, hay vì bà muốn làm điều gì đó cho Chúa Giêsu, điều mà bà chưa thể làm khi Chúa chịu chết và táng xác? Thật vậy, với một người có lòng mến đặc biệt như Maria, nên khi chứng kiến ngôi mộ trống, thấy tảng đá che cửa mộ được lăn ra khỏi, thấy không còn xác Chúa trong mồ, bà đã không ngồi ở đó mà khóc lóc than van, nhưng đã chạy nhanh về tìm báo cho Phêrô, tường thuật lại sự việc cho các môn đệ. Với Phêrô và môn đệ khác được Chúa thương mến, khi được Maria báo tin, họ đã không một chút chần chừ, họ cũng vội vàng chạy đến mộ Chúa. Động lực nào đã thúc bách họ? Phải chăng vì họ đã ân hận khi chối bỏ Chúa, hay vì họ đã không làm tròn trách nhiệm của người môn đệ đối với Thầy của mình? Nhưng dù sao đi nữa, giờ đây vì lòng mến Chúa đã thôi thúc họ, nên họ đã ra đi đến mồ ngay. Họ không phải đi cách bình thường, nhưng “Cả hai cùng chạy”. Thật vậy, lòng mến đã thúc bách làm cho họ chạy và đưa họ đến gần Chúa trong hoàn cảnh khi có thể được. Đặc biệt hơn nữa, với người môn đệ mà Chúa Giêsu yêu, ông chạy nhanh hơn, đến mồ trước, nhưng ông không vào bên trong, ông đã để cho Phêrô vào trước, nhưng sau đó khi ông vào, “Ông thấy và ông đã tin”. Lòng mến dành cho Chúa và lòng tin vào Chúa chính là cung cách, thái độ sống của những người môn đệ Chúa, người sống gắn bó mật thiết với Chúa và được Chúa yêu.
Thưa ACE, để có được Niềm Vui của Chúa Phục Sinh và tâm hồn được mừng rỡ hân hoan, chúng ta được mời gọi hãy sống tinh thần, cung cách và thái độ như Maria Madalena, Phêrô, Phaolô và như người môn đệ Chúa yêu. Người môn đệ Chúa yêu không có tên, điều này được mở ra và mọi gọi tất cả chúng ta cũng hãy để cho Chúa yêu thương, hãy cố gắng để chúng ta cũng được trở nên người môn đệ Chúa yêu, bằng thái độ khiêm tốn, lòng tin, lòng mến của chúng ta vào Chúa. Amen.
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Tin mừng Ga 20, 1-9, Chúa Nhật Phục Sinh nói đến tảng đá lấp cửa mộ đã bị bật tung và mở toang. Sự kiện khởi đi buổi “sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần”
Tin Mừng Chúa Nhật Phục Sinh nói đến tảng đá lấp cửa mộ đã bị bật tung và mở toang. Sự kiện khởi đi buổi “sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần”, Maria Mađalêna đi thăm mộ và “thấy tảng đá đã được lăn ra khỏi mồ”, bà liền kết luận “người ta đã đem Chúa đi khỏi mồ, và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu”. Phêrô thinh lặng. Gioan “đã thấy và đã tin”.
Mađalêna đau khổ thất vọng nên chỉ thấy tảng đá là sự kết thúc. Bà chưa hiểu phía sau tảng đá được lăn ra kia ẩn chứa một mầu nhiệm siêu phàm.
Tông đồ Phêrô, quan sát kỹ lưỡng từ tảng đá cho đến ngôi mộ trống và tất cả những gì đã xảy ra nơi đây, nhưng ngài không nói gì, không bày tỏ thái độ mà chỉ thinh lặng. Vì sao vậy? Lý do có thể Phêrô là lãnh đạo tinh thần của nhóm tông đồ nên sự im lặng là cần thiết? băn khoăn, không biết nghĩ thế nào hay phải ăn nói làm sao! Tuy nhiên, căn cứ vào những gì Tin mừng trình bày, sự im lặng của Phêrô có nguyên nhân từ sự chưa hiểu thấu mầu nhiệm Phục sinh: “Trước đó, hai ông chưa hiểu rằng: Theo Kinh thánh, Đức Giêsu phải chỗi dậy từ cõi chết” (x. Ga 20,9).Thật thế, cho đến mãi sau này, khi đã được gặp Đấng Phục Sinh và đón nhận Thánh Thần, Phêrô mới hiểu vì sao ngôi mộ trống và tâm hồn ông lúc ấy mới bừng sáng để hiểu điều mà Kinh thánh từng loan báo. Phêrô là một người chân chất đơn sơ. Điều gì chưa biết thì im lặng và chờ đợi chứ không nhiều lời, không suy diễn.
“Khi từ mộ trở về, các bà Maria Macđala, bà Gioanna và bà Maria, mẹ ông Giacôbê và các bà khác cùng đi với mấy bà này. Các bà kể cho Nhóm Mười Một và mọi người khác biết tất cả những sự việc ấy. Nhưng các ông cho là chuyện vớ vẫn, nên chẳng tin” (Lc 24,11). Tảng đá nghi ngờ đang che mờ đôi mắt đức tin của họ.
Các thượng tế và kỳ mục thì lo âu sợ hãi trước hiện tượng mồ trống. Vì thế, các ông mới cho lính canh số tiền hậu hĩ và bảo những người này phao tin là các môn đệ của ông Giêsu đã đến lấy trộm xác: “các anh hãy nói như thế này: ban đêm đang lúc chúng tôi ngủ, các môn đệ đã đến lấy trộm xác” (Mt 28,13). Tảng đá ghen ghét đã bịt lối nhìn lối nghĩ của họ.
Cuối cùng chỉ có một người tin. Đó là Tông đồ Gioan. Nhưng Gioan tin không phải vì hiện tượng mồ trống mà vì những gì đã thấy. Gioan thấy gì? Ông thấy những băng vải và khăn che đầu không xếp lộn với nhau, nhưng để riêng ra một nơi. Cảnh tượng này làm Gioan nhớ lại lời Kinh Thánh nói rằng Đức Kitô phải chịu đau khổ, phải chết rồi mới chỗi dậy mà vào chốn vinh quang (Lc 24,26). Gioan đã chứng kiến dấu lạ Chúa Giêsu cho Ladarô sống lại. Ladarô ngồi dậy, nhưng thân mình còn quấn chặt các thứ khăn liệm, còn ở đây, mọi thứ được xếp gọn gàng. Gioan nhớ lại lời nói của Chúa Giêsu sau khi đuổi phường buôn bán ra khỏi đền thờ: “Hãy phá đền thờ này đi, và trong ba ngày Ta sẽ xây dựng lại” (Ga 2,19). Gioan còn nhớ điềm lạ của Giona với lời khẳng định của Chúa Giêsu: “Như Giona ở trong bụng cá ba ngày ba đêm thế nào, thì Con Người cũng sẽ ở trong lòng đất ba ngày đêm như vậy” (Mt 12,40). Gioan vẫn nhớ như in, trên núi Tabor, Chúa hiển dung và căn dặn các ông không được nói lại với ai về chuyện đó, cho đến khi Ngài sống lại từ cõi chết (Mc 9,9). Gioan luôn nhớ, trước lúc lên đường về Giêrusalem để dự lễ Vượt qua, Thầy cũng đã nói với 12 môn đệ thân tín: “Này, chúng ta lên Giêrusalem và sẽ hoàn tất cho Con Người mọi điều các tiên tri đã viết. Vì chưng Ngài sẽ bị nộp cho dân ngoại, sẽ bị nhạo báng, hành hạ, khạc nhổ, và sau khi đã đánh đòn Ngài, người ta sẽ giết Ngài, nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại” (Lc 18,31-33). Gioan ghi tạc vào lòng lời tâm sự của Thầy trong buổi tiệc ly: “Hết thảy các ngươi sẽ vấp ngã vì Ta trong đêm nay… Nhưng sau khi Ta sống lại, Ta sẽ đi trước các ngươi tới Galilê” (Mt 26,31-32)…Những lời đó làm Gioan tin chứ không phải thấy Đấng Phục Sinh. Gioan không thấy Đấng Phục Sinh nhưng ông tin Đấng mà ông yêu mến đã sống lại. Ngay từ giây phút đầu tiên khi thấy những vết tích còn để lại trong mồ trống, Gioan đã tin cách tuyệt đối. Tuy không thấy xác nhưng những vải liệm kia chính là những dấu chỉ có giá trị đối với ông. Nói như J.P Duplantier, “ngôi mộ không trống cũng chẳng đầy, nhưng nó đã trở nên một ngôn ngữ”. Nhờ việc chú ý đến thứ ngôn ngữ ấy, người môn đệ Chúa yêu đã khám phá và hiểu rằng Chúa Kitô đã toàn thắng sự chết, điều mà lúc bấy giờ ngoài ông ra, các môn đệ khác còn chưa hiểu nổi. Rõ ràng, thấy là nền tảng và bằng chứng cho lòng tin. Nhưng thấy ở đây không phải là thấy những sự kiện bên ngoài mà là thấy ý nghĩa bên trong gắn liền với sự kiện. Tông đồ Gioan thấy sự kiện những băng vải và khăn che đầu, nhưng vì nhớ lời Kinh Thánh mà tin. Thấy rồi mới tin là chuyện bình thường. Còn không thấy mà tin mới là phúc như lời Chúa Giêsu nói với tông đồ Tôma: “Phúc cho những ai không thấy mà tin” (Ga 20,28).
Sáng sớm ngày thứ nhất đầu tuần mới, tảng đá lấp cửa mồ đã mở toang. Nấm mồ lạnh lẽo, chật hẹp, tối tăm đã mở tung ra như cánh hoa hồng hay đôi môi thắm tươi của nụ cười thiếu nữ, đầy sức sống và bình an. Tảng đá lấp mộ làm sao niêm giữ được Đấng Phục Sinh! Nấm mồ chỉ là giai đoạn chuyển tiếp. Nó giống như lối đi ngầm dưới mặt đất, sẽ mở lên một vòm trời vinh quang. Chúa Giêsu dùng nó như cánh cửa mở vào miền đất tử thần và từ đó biến nó thành ngõ mở vào cõi sống trường sinh.
Có những hòn đá ta bước qua rất dễ. Có những tảng đá phải tốn thời giờ công sức mới dịch chuyển nó sang một bên để có đường đi. Nhưng cũng có nhữngtảng đá to chắn bít lối đi, che khuất tầm nhìn nênkhông thể bước tiến.Trong đời sống thường nhật, có biết bao tảng đá vô hình mà nặng nề, cần phải được tháo bỏ.Giuđa bán Thầy với giá 30 đồng bạc, cả một tảng đá tham lam đè nặng tâm hồn. Phêrô chối Thầy đến 3 lần, ấy là vì tảng đá sợ hãi che kín. Các môn đệ bỏ trốn,vì tảng đá nhát đảm sợ liên luỵ đang vây bủa. Mỗi người chúng ta có thể cũng đang bị một tảng đá vô hình nào đó đè nặng tâm hồn. Tảng đá đam mê nết xấu.Tảng đá ghen ghét, chia rẽ. Tảng đá đam mê dục vọng…Ai sẽ giúp chúng ta lăn những tảng đó ra?. Xin thưa là chính Chúa Giêsu Phục Sinh. Ngài sẽ giúp ta lăn tảng đá đó ra khỏi đời mình và làm cho tâm hồn ta được phục sinh để sống bình an.
Tảng đá to đã niêm phong cửa mồ, các Thượng tế và những người Pharisiêu xin Tổng trấn Philatô cắt đặt một tiểu đội binh sĩ đến canh ngôi mồ (Mt 27,62), và “Thế là họ ra đi canh giữ mồ, niêm phong tảng đá, rồi cắt lính canh mồ” (Mt 27,66). Tảng đá đó thể hiện sức mạnh quyền lực của sự dữ và sự thống trị của con người. Cận vệ đền thờ nghĩ rằng dấu niêm phong của lãnh đạo Do thái có khả năng thách thức được quyền phép Thiên Chúa sao? Đấng Phục Sinh đã bật tung tảng đá niêm phong, từ cõi chết, Người sống lại vinh quang, mở lối vào sự sống mới.
Chúa Giêsu sống lại, chân lý đã chiến thắng, tình yêu vượt trên hận thù và sự sống mạnh hơn sự chết. Phục Sinh là niềm tin và hy vọng cho người Kitô hữu vào sự sống mai sau: “Nếu chúng ta đã chết với Đức Kitô, chúng ta sẽ cùng sống với Người: đó là niềm tin của chúng ta” (Rm 6,8).
Phục Sinh là niềm vui của những người được Chúa Kitô đẩy tảng đá ra khỏi cuộc đời họ, làm cho tâm hồn họ được bình an. Như Giakêu, như Lêvi đã được Chúa Giêsu giải thoát khỏi tảng đá của tội lỗi nên họ cảm thấy tâm hồn nhẹ nhàng thanh thản và bước theo Chúa. Và còn biết bao tấm gương khác đã được giải thoát khỏi những tảng đá vô hình, và từ đó hân hoan bước theo Chúa Giêsu.
Chúa đã Phục Sinh. Tin vui làm ấm áp cõi lòng đang buồn phiền vì mất mát đắng cay. Tin mừng đã lau khô đôi mắt ngấn lệ khóc than tiếc thương của các môn đệ. Mầu nhiệm sự sống qua cái chết mà Thầy từng rao giảng thực sự được khai trương. Chúa đã chỗi dậy từ chính nơi đã được mai táng. Ánh sáng tràn ngập. Niềm hy vọng lớn lao đã được bắt đầu từ chính nơi hôm qua còn đầy đau thương tuyệt vọng. Chúa Phục Sinh đã đẩy mọi tảng đá nặng nề ra khỏi tâm hồn các môn đệ. Từ đây các môn sinh bắt đầu một hành trình mới, loan báo Tin mừng Phục sinh.
Chúa đã sống lại thật! Allêluia! Đó là niềm vui và tuyên tín của các Tông đồ. Niềm vui và tuyên tín đó đã được loan truyền cho tới ngày nay và mãi cho tới ngày tận cùng của nhân loại. Nhìn lại đời sống mình, chúng ta sẽ nhận thấy vô vàn sự phục sinh. Khi một tình bạn, một tình yêu bị tan vở, chúng ta biết hàn gắn lại bằng yêu thương thì đó không phải là sự phục sinh sao ? Khi mà chúng ta có kinh nghiệm về sự tha thứ, dẹp tan lòng thù hận, oán ghét thì đó là cuộc vượt qua phi thường…Tảng đá vô hình đè nặng được lăn ra khỏi tâm hồn chính là phục sinh. Tin vào Đấng Phục Sinh là thắp lên ánh sáng mới, là đón nhận tình yêu mới cho mùa xuân tâm hồn.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Tin mừng Ga 20, 1-9: Từ ngôi mồ trống, ánh sáng Phục sinh bừng toả. Sáng sớm ngày thứ nhất đầu tuần mới, tảng đá cửa mồ vỡ nát ra. Nấm mồ bằng đá nặng nề đã vỡ tan như vỏ trứng…
Trước khi rời nghĩa trang các phụ nữ đã có ý nhìn xem nơi người ta đặt xác Đức Kitô, Thầy dấu yêu của họ. Mong mau hết ngày hưu lễ, họ sẽ trở lại xức dầu thơm theo đúng nghi lễ. Họ im lặng canh thức và mua hương liệu chuẩn bị.
Tảng đá to đã niêm phong cửa mồ, các Thượng tế và những người Pharisiêu xin Tổng trấn Philatô cắt đặt một tiểu đội binh sĩ đến canh ngôi mồ (Mt 27,62), và “Thế là họ ra đi canh giữ mồ, niêm phong tảng đá, rồi cắt lính canh mồ” (Mt 27,66). Cận vệ đền thờ nghĩ rằng dấu niêm phong của lãnh đạo Do Thái có khả năng thách thức được quyền phép Đức Giêsu.
Giêsu người thành Nagiarét đã yên nghỉ trong mồ sâu. Tảng đá đã lấp cửa mồ. Noi lo sợ và niềm đau xót đã giam hãm các môn đệ trong các căn phòng đóng kín. Hãy yên nghỉ và quên đi những đau khổ. Hãy quên đi những oan kiên và tất tưởi của phận người. Hãy quên đi những tiếng la ó, những lời thóa ma và bản án bất công. Hãy quên đi những tiếng búa nặng nề trên những đinh nhọn xuyên thấu tay chân. Hãy quên đi cơn hấp hối kinh hoàng. Và hãy quên đi đồi Golgotha loang máu chiều tử nạn.
Câu chuyện tưởng đã ngũ yên, người đời sẽ mau quên lãng, chẳng còn ai nhắc tới Giêsu Nagiarét nữa…
Vậy mà, khi ngày Sabat chấm dứt, vào rạng sáng tinh mơ ngày thứ nhất trong tuần, Maria Mađalêna và một số phụ nữ đang âm thầm lặng lẽ dưới sương mai, gio sớm se lạnh, hối hả bước đi, lòng trí chỉ còn những kỷ niệm xót xa đắng đót. Họ vội vã chạy ra mồ để thi hành cử chỉ thương yêu cuối cùng đối với Thầy.
Đến cửa mồ, họ phát hiện ngôi mộ mở toang, trống rỗng, và thân xác Thầy yêu quý đã không còn trong đó nữa. Dầu thơm và hương liệu khuếch tán vị ngọt ngào ra khắp vũ trụ. Họ hết sức sững sờ khi thấy mồ trống, hai thiên sứ mặc áo trắng canh gác mồ, một phía đầu, một phía chân, nhưng không thấy xác Thầy. Họ nghĩ lại mất Thầy lần nữa. Họ hối hả chạy về báo tin cho nhóm Mười Hai. Họ xúc động và âu lo: “Chúa đã bị mang ra khỏi mồ. Chúng tôi không biết họ để Người ở đâu”.
Các môn đệ đã hoang mang sợ hãi, nay càng thêm hốt hoảng khi nghe tin này. Phêrô và Gioan cũng bị lôi cuốn và muốn tìm ra sự thật. Cả hai bắt đầu chạy ra mồ. Họ cùng chạy bên nhau, nhưng Gioan chạy nhanh hơn và đến mồ trước. Phêrô cũng vừa tới nơi. Tảng đá niêm mồ đã trở thành thử thách đầu tiên đối với niềm tin các môn đệ vào Thầy Giêsu. Trông thấy tảng đá lăn qua một bên, cả ba người đã có thể nhận ra dấu chỉ Chúa đã sống lại. Cả ba đều hụt hẫng, chưa thể thấu đạt những lời Chúa đã báo trước.
Tuy Phêrô, Gioan và Mađalêna chưa nhận ra ý nghĩa của dấu chỉ tảng đá lấp cửa mồ, nhưng những trải nghiệm thân tình sống với Thầy đã thôi thúc họ tìm hiểu cặn kẽ những gì vừa xảy đến sáng nay.
Gioan cúi xuống nhìn vào và thấy những khăn liệm ở trên đất. Rồi Phêrô bước hẳn vào trong mồ. Cả hai đều thấy “Những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuộn lại xếp riêng ra một nơi”. Đây là một dấu hiệu mang nhiều ý nghĩa: Thầy đã chỗi dậy, tự mình gỡ và xếp ngay ngắn các băng vải liệm và khăn băng đầu. Chỉ có người đang sống mới làm những việc tỉ mỉ đó. Thầy không còn chết nữa. Thầy đang sống. Thầy đã đánh bại sự chết và bước ra khỏi nấm mồ rồi. Gioan “đã thấy và đã tin”. Không như khi nhìn thấy tảng đá lăn qua một bên, lần này Gioan tin Thầy đã sống lại. Lời tuyên xưng “đã thấy và đã tin”. diễn đạt quá trình từ “thấy” đến gắn bó trọn vẹn niềm tin vào Đấng Phục Sinh.Gioan đã thấy các dấu chỉ lạ lùng của Ngôi Mộ Trống, khăn liệm và các thứ dây được xếp gọn gàng. Chính bởi Gioan đã chứng kiến dấu lạ Chúa Giêsu cho Lazarô sống lại. Khi Lazarô được Chúa cho sống lại, ông ngồi dậy, nhưng thân mình còn quấn chặt các thứ khăn liệm, còn ở đây, mọi thứ được xếp gọn gàng. Gioan nhớ lại lời Chúa Giêsu: Ngài phải chịu đau khổ trước khi bước vào vinh quang. Ngay giây phút thấy cũng là lúc Gioan nhớ lại lời nói của Chúa Giêsu sau khi đuổi phường buôn bán ra khỏi đền thờ: “Hãy phá đền thờ này đi, và trong ba ngày Ta sẽ xây dưng lại” (Ga 2,19). Gioan còn nhớ điềm lạ của Giona với lời khẳng định của Chúa Giêsu: “Như Giona ở trong bụng cá ba ngày ba đêm thế nào, thì Con Người cũng sẽ ở trong lòng đất ba ngày đêm như vậy” (Mt 12,40). Gioan vẫn nhớ như in, trên núi Tabor, Chúa hiển dung và căn dặn các ông không được nói lại với ai về chuyện đó, cho đến khi Ngài sống lại từ cõi chết (Mc 9,9). Gioan luôn nhớ, trước lúc lên đường về Giêrusalem để dự lễ Vượt qua, Thầy cũng đã nói với 12 môn đệ thân tín: “Này, chúng ta lên Giêrusalem và sẽ hoàn tất cho Con Người mọi điều các tiên tri đã viết. Vì chưng Ngài sẽ bị nộp cho dân ngoại, sẽ bị nhạo báng, hành hạ, khạc nhổ, và sau khi đã đánh đòn Ngài, người ta sẽ giết Ngài, nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại” (Lc 18,31-33). Gioan ghi tạc vào lòng lời tâm sự của Thầy trong buổi tiệc ly: “Hết thảy các ngươi sẽ vấp ngã vì Ta trong đêm nay… Nhưng sau khi Ta sống lai, Ta sẽ đi trước các ngươi tới Galilê” (Mt 26,31-32)…Nhờ ghi nhớ lời Chúa mà đức tin đã đến với Gioan sớm hơn Phêrô.
Từ ngôi mồ trống, ánh sáng Phục sinh bừng toả. Sáng sớm ngày thứ nhất đầu tuần mới, tảng đá cửa mồ vỡ nát ra. Nấm mồ bằng đá nặng nề đã vỡ tan như vỏ trứng. Nấm mồ lạnh lẽo, chật hẹp, tối tăm mở tung ra như cánh hoa hồng hay đôi môi thắm tươi của nụ cười thiếu nữ, đầy sức sống và bình an. Tảng đá lấp mộ làm sao niem giữ được Người! Nấm mồ chỉ là giai đoạn chuyển tiếp. Nó giống như lối đi ngầm dưới mặt đất, sẽ mở lên một vòm trời vinh quang. Đức Giêsu dùng nó như cánh cửa mở vào miền đất tử thần và từ đó biến nó thành ngõ mơ vào cõi sống trường sinh. Mặt Trời Công Chính đã Phục Sinh. Tin vui làm ấm áp cõi lòng đang buồn phiền vì mất mát đắng cay. Tin mừng đã lau khô đôi mắt ngấn lệ khóc tiếc thương của các môn đệ. Mầu nhiệm sự sống qua cái chết mà Thầy từng rao giảng thực sự được khai trương. Chúa đã chỗi dậy từ chính nơi đã được mai táng. Ánh sáng tràn ngập. Niềm hy vọng lớn lao đã được bắt đầu từ chính nơi hôm qua còn đầy đau thương tuyệt vọng.Từ đây cac môn đệ bắt đầu một hành trình mới, loan báo Tin mừng Phục sinh.
Chúa đã sống lại thật! Allêluia! Đó là niềm vui và tuyên tín của các Tông đồ. Niềm vui và tuyên tín đó đã được loan truyền cho tới ngày nay và mãi cho tới ngày tận cùng của nhân loại.
Chúa Giêsu Phục Sinh. Sự kiện lịch sử trọng đại này đã trở thành niềm tin và sức sống mãnh liệt cho nhân loại hơn hai ngàn năm qua. Phục Sinh là một biến cố làm nên lịch sử, và trở thành nền tảng niềm tin cho cả Giáo Hội. Hàng triệu triệu người đã sống với niềm tin Phục Sinh và hàng triệu triệu người đã chết để bảo vệ niềm tin Phục Sinh. Giáo Hội làm chứng bằng tình yêu và sự xác tín dọc dài dòng lịch sử.
Đức Kitô là Thiên Chúa hằng sống, nên Ngài không thể bị chôn vùi trong cõi chết. Là Đấng quyền năng, nên Ngài không thể bị giam hãm trong ngục thất của tử thần. Là Đấng vĩnh cửu, nên Ngài không thể bị giới hạn trong thời gian. Là ánh sáng, lẽ nào Ngài lại bị bao vây bởi bóng tối? Là Đấng tạo dựng, lẽ nào Ngài lại bị thân phận con người cầm chân? Chúa Kitô đã sống lại. Ngài đã đem theo những đau khổ của loài người đi về miền hạnh phúc. Ngài đưa cuộc sống trần gian hướng tới cuộc sống vĩnh cửu.
Chúa Kitô đã sống lại. Từ nay thập giá không còn là dấu hiệu của nhục nhã, nhưng là biểu tượng của vinh quang. Chúa Kitô đã sống lại, cái chết không còn là ngõ cụt mà là cánh cửa mở về đời sống mới. Chúa Kitô đã sống lại, Ngài đang ngự bên hữu Thiên Chúa, chúng ta cũng được hưởng vinh quang với Ngài. Đó là niềm tin và hy vọng của chúng ta.
Phục Sinh là biến cố lạ thường, chưa từng có bao giờ trong lịch sử nhân loại. Mầu nhiệm Phục Sinh là mầu nhiệm Tình Yêu cứu độ. Những chứng nhân đâu tiên của Chúa Phục Sinh cũng là những chứng nhân Tình Yêu.Các môn đệ, bằng các cảm nghiệm bản thân đã tin vào sự Phục Sinh của Thầy mình. Cảm nghiệm thì mỗi người mỗi cách. Mỗi người đều có một kinh nghiệm về đức tin vào Chúa Giêsu một cách khác nhau.
Có người được Chúa ban cho một tình yêu mạnh mẽ như Gioan, cho dù phải sống trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng luôn giữ vững niềm tin. Người môn đệ được yêu và đang yêu này chỉ “thấy cái tối thiểu”, tuy nhiên lại luôn “tin tối đa”. Tình yêu bồi bổ niềm tin và niềm tin giữ cho tình yêu luôn kiên vững.
Có người được Chúa ban cho những kinh nghiệm như Phêrô: yêu mến Thầy nồng nàn, nhưng hay nóng vội, quá tin tưởng vào sức mình; khi gặp những hoàn cảnh khó khăn thì lại trở nên nhát đảm, không dám bay tỏ niềm tin của mình. Nhưng một khi được gặp lại Chúa Phục Sinh, niềm tin đã trở thành như núi đá, không gì có thể lay chuyển được. Sẵn sàng dùng chính mạng sống mình để làm chứng cho đức tin.
Có người được Chúa ban cho một niềm tin đơn sơ như những người phụ nữ đạo đức. Họ chẳng cần lý luận, chỉ cần yêu mến Chúa và cảm nhận được lòng Chúa yêu thương. Họ sẵn sàng cho đi tất cả và chỉ mong được ở bên cạnh Thầy tôn kính.
Mỗi người có một cách thế tiếp cận niềm tin và biểu lộ đức tin; nhưng tất cả đều có một điểm chung là họ yêu mến Chúa và sẵn sàng làm chứng bằng cuộc sống và cả mạng sống của mình.
Xin cho mỗi người Kitô hữu chúng ta biết sống niềm vui Phục Sinh một cách mạnh mẽ, để có thể làm chứng cho Chúa bằng một đời sống tốt đẹp chan hòa bình an và sức sống.
64. Nhìn với cặp mắt trong sạch
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Con người ở đời thường khởi sư bằng cái có: có địa vị, có quyền thế, có bằng cấp, có tiền của, có sức mạnh, có tài năng … mới làm nên chuyện.Thiên Chúa lại thường khởi sự bằng cái không.Khi sáng tạo vũ trụ,Thiên Chúa khởi sự từ cái hoang vu trống rỗng không không: “Lúc khởi đầu Thiên Chúa sáng tạo trời đất, đất còn trống rỗng chưa có hình dạng, tối tăm bao trùm vực thẳm và Thần Khí Thiên Chúa bay lượn trên nước” (St 1,1-2).Thiên Chúa vẫn thích khởi đi từ cái không không để tạo dựng và tái tạo.
Cái hoang vu trống rỗng của “ngày thứ nhất” trong công trình sáng tạo trời đất sẽ lại xuất hiện trong một “ngày thứ nhất” khác: Ngày Chúa Giêsu Kitô sống lại từ cõi chết. Đó là cai trống rỗng của Ngôi Mộ Trống mà Mađalêna đã chứng kiến và đau buồn thốt lên “Người ta đã lấy mất xác Chúa tôi rồi”, Phêrô ngạc nhiên trong hoài nghi, Gioan “đã thấy và đã tin”.
Tất cả được khởi đầu bởi một sự kiện lạ lùng. Các phụ nữ ra mồ và thấy tảng đá lăn ra khỏi mộ. Tin tức hối hả đưa về khiến các môn đệ hốt hoảng. Phêrô và Gioan vội vã đi kiểm chứng sự việc. Cả hai cùng chạy ra mồ. Tốc độ khác nhau vì khả năng thể ly khác nhau. Phêrô đi vào trong mộ trước và thấy các băng vải và khăn liệm gấp lại để riêng ra mộtgóc. Người môn đệ Chúa yêu thương đến mộ trước nhưng lại vào sau. Gioan đi vào bên trong và thấy những băng vải liệm đươc xếp gọn gàng. Phêrô và Gioan không thấy xác Chúa trong ngôi mộ mở toang.
Có lẽ lúc này Philatô còn đang ngũ. Các Thượng tế, Kinh sư, Kỳ mục cũng thế. Họ ngủ thật say. Sung sướng vì đã dẹp yên được một chướng ngại tưng làm họ ghen tức, mất ăn mất ngủ. Mọi sự đã được giải quyết đúng như sự sắp đặt khéo léo của họ. Cái tên Giêsu rồi sẽ bị quên lãng, chẳng còn ai nhắc tới. Tảng đá to đã niêm phong cửa mộ. Giêsu Nazarath đã đi vào lòng đất lạnh.Họ hả hê vui sướng. Tử thần đắc ý vỗ tay reo vui. Xác Đức Giêsu nằm trong mộ huyệt tối tăm, như hạt lúa mục nát trong lòng đất.
Đối với những người vẫn thương mến Chúa Giêsu thì kể như đã hết. Không còn gì ngoài những kỷ niệm xót xa chua chát. Một thực tế phủ phàng trĩu nặng nổi âu lo sợ hải. Niềm hy vọng lớn lao xưa đã bị chôn vùi cùng với Giêsu Nazareth. Sáng nay, mấy chị em phụ nữ ra mộ thì cũng chỉ có mục đích là ươp lại cái xác không hồn chưa kịp thối rửa. Họ đi tìm một cái xác, một kẻ chết, nhưng họ đã đối diện với Ngôi Mộ Trống. Mađalêna đau khổ thốt lên “người ta đã đánh cắp xác Chúa tôi rồi”. Các Thiên Thần hiện ra cắt nghĩa Chúa đã sống lại. Không biết các bà đã tin hay chưa, họ vội chạy về báo tin cho các Tông Đồ.
Phản ứng của Phêrô là thinh lặng. Ông đang phân vân. Nếu có kẻ lấy trộm xác Thầy thì tại sao kẻ gian lại mất công xếp đặt khăn liệm và các dây vải cách thứ tự và gọn gàng như thế? Ông vẫn còn bàng hoàng về những lỗi lầm chối Thầy với niềm ăn năn thống hối. Ông chưa hiểu sống lại nghĩa là gì.
Còn Gioan thì “đã thấy và đã tin”. Gioan thấy gì? Thấy các dấu chỉ lạ lùng của Ngôi Mộ Trống. Khăn liệm và các thứ dây được xếp gọn gàng. Chính bởi Gioan đã chứng kiến dấu lạ Chúa Giêsu cho Lazarô sống lại. Khi Lazarô được Chúa cho sống lại, ông ngồi dậy, nhưng thân mình còn quấn chặt các thứ khăn liệm. Còn ở đây, mọi thứ được xếp gọn gàng. Gioan nhớ lại lời Chúa Giêsu: Ngài phải chịu nhiều đau khổ trước khi bước vào vinh quang. Nhờ ghi nhớ Lời Chúa mà đức tin đã đến với Gioan sớm hơn Phêrô.
Trước mọi phản ứng đó, Đức Kitô Phục Sinh đã biểu lộ một sự chiến thắng âm thầm. Không rình rang giữa tiếng kèn trống. Không cờ quạt giăng giăng khắp lối. Không tung hô reo hò của toàn dân.
Đức Kito đã chiến thắng tử thần.Thân thể bằng xương bằng thịt của Người hôm nay đã được “Thần Khí Hoá”. Từ đây, Người sống hoàn toàn bởi Thần Khí, vì chỉ “Thần Khí mới làm cho sống còn xác thịt thì có ích gì” (Ga 6,36). Các phép lạ về sự sống lại như con trai bà góa thành Naim (Lc 7,11-17), như con gái ông Giaia (Lc 8,40-56), như Lazarô (Ga 11,1-45) là hồi sinh trở về đời sống cũ. Sự Phục Sinh của Đức Kitô là sống lại từ cõi chết. Người hoàn toàn chiến thắng sự chết. Người trở nên nguồn mạch sự sống và là sự sống lại cho nhân loại “Ta là sự sống lại và là sự sống” (Ga 11,24)
Đức Kitô đã sống lại thật trong vinh quang. Người không mặc lấy một thân xác khác. Thân xác Phục Sinh của Người vẫn chính là thân xác trước đây chịu khổ hình, chết trên thập giá. Nay thân xác đó được biến đổi. Thân xác tâm linh không hư nát. Sự Phục Sinh của Đức Kitô không chỉ là phục hồi sự sống như trươc mà còn chuyển qua thể thức hiện hữu mới.Thân xác của Người được Thần Khí Hoá không bị vật chất cản trở. Đấng Phục Sinh đã nhiều lần hiện ra với các Tông Đồ, cũng cố đức tin, chuẩn bị tâm hồn cho các Tông đồ đón nhận Chúa Thánh Thần. Nhờ đó, các Tông đồ trở nên chứng nhân rao truyền sự chết và sống lại của Con Thiên Chúa.
Ngày nay nếu muốn làm chứng cho Đức Kitô Phục Sinh, chúng ta cũng cần khởi đi từ Ngôi Mộ Trống như các Tông Đồ ngày xưa. Nói theo ngôn ngữ tu đức là trở về đời sống thanh bạch. Đó là đời sống trong sạch, ngay lành và có tinh thần nghèo khó.
Thế giới hôm nay không thiếu những dấu chỉ của Đấng Phục Sinh. Nhưng không ai nhận thay được Người vì họ thiếu tâm hồn ngay thẳng trong sạch. Sứ điệp Giới trẻ năm 2015, ĐGH Phanxicô chọn câu Tin Mừng: “Phúc cho ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được thấy Thiên Chúa” (Mt 5,8). Đại hội Giới trẻ TGP Sài Gòn đã chọn chủ đề “Sống Sạch”. Giới trẻ sống sạch trong Tình Bạn, sạch trong Tình Chúa, sạch trong Thân xác, sạch trong Tâm hồn.ĐGH Phanxicô kêu mời mỗi người trẻ học cách phân định điều gì có thể “làm vẩn đục” tâm hồn của mình và học cách làm cho lương tâm của mình công chính nhạy bén để có thể “nhận định ý Chúa, biết được điều gì tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo” (Rm 12,2). Từ đó người trẻ thêm lòng yêu mến Chúa và dấn thân phục vụ. Thánh Gioan “Người môn đệ Đức Giêsu thương mến“ đi đến niềm tin nhờ lòng yêu mến nồng nàn. Đức Giêsu yêu mến Gioan, và Gioan cũng rất yêu mến Thầy. Gioan vẫn gắn bó với Thầy khi Thầy chẳng còn là gì trong cuộc khổ nạn.Chính kinh nghiệm tình yêu đối với Đức Giêsu đã làm cho Gioan tin nhận Đấng Phục Sinh khi nhìn thấy các dấu chỉ; và cũng chính kinh nghiệm này đã làm cho thánh nhân nhận ra “Hài Nhi bọc tả nằm trong máng cỏ“ là Ngôi Lời trở thành xác phàm (Ga 1,14).
Gioan đã đi vào Ngôi Mộ Trống. Gioan nhìn với cặp mắt trong sạch nên đã thấy và đã tin. Gioan không thấy Chúa, nhưng thấy dấu chỉ của Phục Sinh. Dầu vậy Gioan vẫn tin. Chúng ta không thấy Chúa mà vẫn tin vì “Phúc cho ai không thấy mà tin” (Ga 20,29). Phần chúng ta không thấy Chúa nhưng thấy Ngôi Mộ Trống là cái thế giới bao la đầy dấu chỉ sự hiện diện của Người. Chúng ta có thể thấy Chúa bằng tâm hồn khiêm nhu, bằng việc thực thi đức ái, sống phục vụ quên mình. Chúng ta có thể gặp Chúa qua nội tâm thanh thản bình an. Đó là những dấu chỉ Đấng Phục Sinh ban tặng.
Không có Phục Sinh, đức tin chúng ta chỉ là hảo huyền. Cuộc sống chúng ta có ý nghĩa gì nếu không có gì sau hết, nếu tất cả chỉ dừng lại ở đời này?
Nhìn lại đời sống mình, chúng ta sẽ nhận thấy vô vàn sự Phục sinh. Rất nhiều những cuộc vượt qua nho nhỏ trong đời sống hướng tới Phục Sinh. Khi một tình bạn, một tình yêu bị tan vở, chúng ta biết hàn gắn lại bằng yêu thương thì đó không phải là sự phục sinh sao? Khi ta có kinh nghiệm về sự tha thứ, dẹp tan lòng thù hận, loại trừ sự oán ghét, đó là cuộc vượt qua phi thường …
Như mùa xuân sau đông tàn, Phục Sinh mãi mãi vọt lên trong đời sống chúng ta những chồi lộc ân sủng, những sức sống tươi trẻ. Tin vào Đấng Phục Sinh là thắp lên ánh sáng mới, là đón nhận tình yêu mới cho mùa xuân tâm hồn.
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
NGÔI MỘ LÀ ĐIỂM KHỞI ĐẦU HAY LÀ ĐIỂM CUỐI?
Ngôi mộ là điểm cuối của cuộc đời?
Đối với người vô thần, thì ngôi mộ là điểm tận cùng của một kiếp người. Nơi đây vua cũng như dân, tướng cũng như quân, bậc anh hùng cũng như tên vô lại, người quyền quý cũng như kẻ cơ bần… đều phải vùi mình xuống, mục nát đi và trở thành cát bụi. Theo quan điểm nầy, ngôi mộ là điểm tận cung của kiếp người, là dấu chấm hết cho tất cả sự nghiệp.
“Trăm năm còn có gì đâu?
Chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì”. (Nguyễn Du)
Ngôi mộ là cửa đưa xuống âm ty?
Theo quan niệm của một số người khác, tuy ngôi mộ không phải là điểm tận cùng, là điểm kết thúc của kiếp người, nhưng được xem là một cánh cửa hãi hùng: cửa đưa xuống âm ty hay vào chín tầng địa ngục.
Ngôi mộ không còn là cửa tử nhưng là cửa sinh.
Bằng cuộc Vượt Qua của mình, Chúa Giêsu đã bật tung cửa mồ sống lại, đẩy lùi quyền lực sự chết đang bao trùm thế giới.
Người biến ngôi mộ là điểm cuối của đời người trở thành cửa ngõ dẫn vào cõi trường sinh; Người khiến cho cửa mồ đã từng há rộng nuốt lấy bao người xuống cõi âm ty trở thành cổng chào hân hoan tiếp đón nhân loại vào thiên quốc; Người đã biến đau thương của sự chết thành niềm hoan lạc của ngày phục sinh; biến ngày cuối của kiếp sống trần gian trở thành ngày thứ nhất trong đời sống mới! Từ đây ngôi mộ không là cửa tử nhưng là cửa sinh, đưa muôn người vào đời sống vinh quang bất diệt.
Phục sinh với Chúa Giêsu
Để cho ngôi mộ không còn là điểm tận cùng bi đat nhưng trở thành ngõ vào cuộc sống vinh quang thì trước hết chúng ta hãy gắn bó với Chúa Giêsu như chi thể liên kết với thân mình và vững tin vào Người như lời Người mời gọi: “Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta thì dù đã chết cũng sẽ được sống. Hễ ai sống mà tin Ta sẽ không chết bao giờ”. (Ga 11, 25)
Vậy thì cùng với Đức Giêsu Kitô, chúng ta hãy giã từ ngôi mộ giam nhốt chúng ta lâu nay trong tội lỗi. Cùng với Đức Giêsu Kitô, chúng ta hãy cởi bỏ những giây băng, những khăn trùm đầu, những tấm vải liệm ràng buộc gò bó chúng ta bấy lâu nay để vùng đứng lên bước vào đời sống mới. Cụ thể là chúng ta hãy từ bỏ những đam mê tội lỗi vốn trói buộc chúng ta và làm cho đời sống tâm linh chúng ta giẫy chết.
Chúa Giêsu là Đầu của chúng ta đã khải hoàn bước vào thiên quốc, là thân mình của Người, chúng ta chắc chắn sẽ được cùng Người tiến vào cõi vinh quang bất diệt.
Vậy ngay hôm nay, chúng ta hãy bắt đầu ngày thứ nhất của cuộc đời mới với Chúa Giêsu bằng tiếng reo alleluia và với niềm vui tràn ngập tâm hồn.
(Suy niệm của Lm. Giuse Trần Việt Hùng)
Phúc âm của thánh Gioan viết là ‘ngày đầu tuần’ và thánh Matthêô, Marcô và Luca gọi là ‘ngày thứ nhất trong tuần’, từ sáng sớm khi trời còn tối thì các bà ra thăm mộ và thấy tảng đá đã được lăn ra khỏi mộ. Ngôi mộ trống. Xác Chúa Giêsu không còn ở đó. Được báo tin, ông Phêrô và Gioan cùng chạy ra xem. Các ông chỉ thấy những khăn liệm và những giây băng còn lại đó. Đây là sự kiện nền tảng đã làm thay đổi tất cả. Một sự kiện chưa bao giờ xảy ra. Chua Giêsu đã phục sinh từ cõi chết. Sự kiện mồ trống và việc Chúa Giêsu hiện ra với nhiều người đã mở ra một kỷ nguyên mới của Nước Trời. Khởi đầu là ngày thứ nhất trong tuần, không còn theo ấn định ngày Sabát của Đạo Do-thái. Nước Trời không còn bị giới hạn trong không gian và thời gian. Chúa Giêsu đã mở một biên cương ngang qua ngưỡng cửa của sự chết tới sự sống lại.
Ánh sáng thật đã dọi chiếu vào thế gian. Chúa Giêsu đã phá tan bóng tối của sự chết và mở đường dẫn vào sự sống thật. Sự sống bắt nguồn từ Thiên Chúa. Sự sống được trao ban cho mọi loài, nhất là con người. Sự sống không bị tiêu diệt nhưng sự sống được thăng hoa. Sự sống cụ thể sẽ dẫn đến một sự sống tinh tuyền. Chúa Giêsu đã phán dậy: Quả thế, trong ngày sống lại, người ta chẳng lấy vợ lấy chồng, nhưng sẽ giống như các thiên thần trên trời (Mt 22,30). Sự sống đời đời vì Thiên Chúa là tác giả của sự sống. Thiên Chúa là Chúa của các kẻ sống. Thiên Chúa không tạo dựng con người để rồi bị tiêu diệt về hư vô. Đây chính là niềm hy vọng sự sống lại của chúng ta. Trong khi đối thoại với nhóm Sađucêo, họ không tin có sự sống lại, Chúa Giêsu đã trưng câu Kinh Thánh: Người phán: Ta là Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác và Thiên Chúa của Gia-cóp. Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là của kẻ sống.” (Mt 22,32)
Mỗi người chúng ta chỉ có kinh nghiệm về sự sống trong vật thể hay thân xác. Sự sống của thực vật, động vật và con người. Sự sống có nhiều cấp bậc, từ đơn sơ cho đến phức tạp. Điều kiện quan trọng nhất của sự song là cần có nước, khí thở và của ăn nuôi dưỡng. Thiên Chúa đã quan phòng đặt để tất cả mọi điều kiện sống trong thiên nhiên. Thiên Chúa phán: “Nước phải sinh ra đầy dẫy những sinh vật lúc nhúc và loài chim phải bay lượn trên mặt đất, dưới vòm trời.” (Stk 1,20). Sự sống liên kết với vật chất và thể xác làm cho một vật sống. Sống là có sự chuyển động tự bên trong ra bên ngoài. Tiên tri Êdêkiel diễn tả: Sông chảy đến đâu thì mọi sinh vật lúc nhúc ở đó sẽ được sống. Sẽ có rất nhiều cá, vì nước này chảy tới đâu, thì nó chữa lành; sông này chảy đến đâu, thì ở đó có sự sống (Êdêkiel 47,9).
Quan sát tất cả các loại thảo mộc từ những sợi rong reu bé tí cho tới những cây cổ thụ già cỗi, đều có sự sống luân chuyển hấp thụ dưỡng nuôi. Thực vật có sinh, có phát triển và có chết. Các loài động vật cũng thế, từ những siêu vi khuẩn nhỏ li ti cho tới những con khung long vĩ đại, đều có sự sống tiềm ẩn và nẩy sinh trong cơ thể. Mỗi loài thực vật cũng như động vật đều có sự truyền sinh riêng biệt. Sự sống nào cũng cần có sinh trưởng như hấp thụ, ăn uống, phát triển, già nua và diệt vong. Thiên Chúa tác tạo loài người có xác, có hồn và có khả năng phát triển không ngừng. Thiên Chúa trực tiếp tạo dựng con người và ban sự sống: Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật (Stk 2,7). Chúng ta không thể hiểu về mầu nhiệm sự sống. Chúng ta chỉ biết chiêm ngưỡng và cảm nghiệm sống.
Sự sống trao ban sự sống. Khi sự sống đã khởi đầu dù chỉ trong trưng nước là đã đi vào hiện hữu. Mỗi một sự sống là một qùa tặng vô giá của Thượng Đế. Con người không làm ra được sự sống nhưng chỉ nhận lãnh. Ngày nay con người dùng khoa học tân tiến để chiếm đoạt bản quyền của Đấng ban sự sống. Họ muốn ghép tạo ra sự sống theo ý họ. Con người đi tìm đủ mọi cách tiêu diệt sự sống tự nhiên để chuyển hoán qua sự sống nhân tạo. Chính con người đã toa rập giết chết Đấng trung gian sự sống. Tác giả sach Tông Đồ Công Vụ đã viết: Anh em đã giết Đấng khơi nguồn sự sống, nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy từ cõi chết: về điều này, chúng tôi xin làm chứng (Tđcv 3,15).
Chúa Giêsu là chính nguồn ban sự sống. Mỗi người chúng ta đều được chia sẻ sự sống trực tiếp từ Thiên Chúa. Sự sống nối dài từ đời này qua đời kia. Sự sống được chuyển đổi chứ không mất đi. Đức Giêsu phán: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống (Ga 11,25). Sự sống lại thật không còn tùy thuộc thân xác như cần ăn uống, hít thở mà là giống như các thiên thần. Chúa Giêsu đã chiến thắng sự chết và mang lại sự sống thật cho những kẻ đặt niềm tin nơi Chúa. Sự sống của chúng ta được ẩn dấu với Đức Kitô trong Thiên Chúa: Quả thật, họ không thể chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại (Lc 20,36).
Chúa Giêsu đã trút hơi thở trên thánh giá. Chúa đã từ giã cõi trần. Chấm dứt sự sống nơi thân xác. Đức Giêsu kêu lớn tiếng: Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha. Nói xong, Người tắt thở (Lc 23,46). Sự sống tạm cần phải thoát ly khỏi thân xác hay hư nát. Như hạt giống bị chôn vùi và tan rữa để sinh ra mầm sống. Chúa Kitô giã từ thân xác mà Ngài đã mặc lấy để trở thành con người. Chúa Giêsu đã hoàn tất sứ mệnh cứu độ trên thập giá. Chúa luôn mở rộng cánh cửa Nước Trời mời gọi mọi người bước vào. Nhận lãnh ơn cứu độ là trách nhiệm riêng của mỗi người chúng ta. Chúng ta có thể chấp nhận hay từ chối ơn cứu độ. Chúa không ép buộc chúng ta nhưng Chúa ban đủ ân sủng để giúp chúng ta thắng đạt.
Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ (Ga 3,17). Ơn cứu độ phổ quát cho mọi người. Ai tin vào Chúa Giêsu, sẽ được ánh sáng ban sự sống. Tin vào Chúa, có nghĩa là phải sống và thực hành lời Chúa dậy. Đức tin không có việc làm là đức tin mơ hồ, trừu tượng và lý thuyet. Chúng ta tin vào một Thiên Chúa yêu thương sống động. Mà Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống.” (Lc 20,38). Vũ trụ chuyển động, mọi sự sinh động và tất cả sinh linh đều đang sống trong sự quan phòng của Chúa. Thiên Chúa hằng hiện hữu và làm việc luôn. Thánh Gioan ghi rằng: Đức Giêsu đáp lại, “Cho đến nay, Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc.” (Ga 5,17).
Chúa Kitô đã sống lại từ cõi chết, là hoa qủa đầu mùa của những kẻ an giấc. Thánh Phaolô viết: Đức Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu (1Cr 15,20). Chúa Giêsu mở đường sự sống và đem lại cho chúng ta niềm hy vọng viên mãn. Chúng ta biết rằng vật chất thì thay đổi, tan biến và hư nát. Mọi vật hiện hữu trên trần thế rồi lại trở về hư vô cát bụi. Chỉ có Thần khí mới ban sự sống: Thần khí mới lam cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời Thầy nói với anh em là thần khí và là sự sống (Ga 6,63). Chúng ta hãy đặt niềm tin tưởng tuyệt đối nơi Chúa Giêsu Kitô. Ngài là Alpha và Ômega, là khởi điểm và là cùng đích. Mọi sự đều phải qui thuộc về Ngài. Hy vọng sau cuộc đời lữ hành dương thế, chúng ta sẽ được chung hưởng hạnh phúc viên mãn với Ngài. Alleluia!
(Suy niệm của PM. Cao Huy Hoàng)
“Maria Mađalêna đi ra mồ từ sáng sớm khi trời còn tối và bà thấy tảng đá đã được lăn ra khỏi mồ, bà liền chạy về tìm Simon-Phêrô và người môn đệ kia được Chúa Giêsu yêu mến, bà nói với các ông rằng: “Người ta đã lấy xác Thầy khỏi mồ, và chúng tôi không biết người ta đã để Thầy ở đâu” Phêrô và Gioan cũng đến mồ và chỉ thấy còn lại: “những khăn liệm để đó”, “những dây băng nhỏ để đó”, “khăn liệm che đầu cuộn lại để riêng một chỗ”.
Chúa Giêsu đã sống lại và đi ra khỏi mồ. Ngôi mộ trống. Đúng là: “theo Thánh Kinh, thì Người phải sống lại từ cõi chết”. (x. Ga 20, 1-9)
Đối với các Kitô hữu công giáo hôm nay, thì việc Chúa Giêsu sống lại là một tín điều, buộc phải tin. Nhưng khổ nỗi, điều gì buộc thì cũng không thoải mái cho bằng điều tự nguyện. Vì thế, từ đức tin “buộc phải tin” đến đức tin “tự nguyện tin”, các tín hữu Chúa đã phải trải qua hành trình “sống niềm tin phục sinh”, cảm nhận được niềm vui kỳ diệu, và cuối cùng là tự nguyện tin và tin tuyệt đối.
Tin vào Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh không phải là niềm tin nói, niềm tin viết, niềm tin giảng dạy thuyết pháp, niềm tin tranh luận phân tích, càng không phải là niềm tin phong trào hay lễ hội, nhưng là niềm tin được thể hiện bằng chính sự anh dũng dám buông bỏ tất cả, dám hy sinh tất cả, dám chết cả bạc tiền, cả danh dự, cả sự nghiệp, và cả những nhu cầu của cuộc sống thế trần này, để chỉ đổi lấy một sự sống lại ngay lúc này và mai sau. Người ước được sống lại ngay lúc này, là người biết mình đang bị giam hảm, đang mất tự do, đang bị nô lệ thần chết, hay đúng hơn, sống mà như đang chết trong tội lỗi. Người sống mầu nhiệm phục sinh, sống niềm vui phục sinh phải là người được thoát ra khỏi vòng giam hãm, người được tự do, người tinh tuyền trong trắng. Ấy vậy, khi suy gẫm về mầu nhiệm phục sinh, thì “ta hãy xin cho đặng sống lại thật về phần linh hồn”. Cách hành văn câu kinh có vẻ cũ kỹ, nhưng chất chứa một ý nghĩa luôn luôn mới, luôn luôn thời sự cho mỗi chúng ta.
Bạn và tôi có thể đã nhận bao nhiêu lời chúc mừng, bao nhiêu tin nhắn, cuộc điện thoại, điện thư với nội dung: “Alleluia. Mừng Chúa Sống Lại” hoặc “Alleluia. Happy Easter” trong ngày Đại Lễ Phục Sinh. Nhưng thử hỏi: có ai mừng lễ tôi, mừng lễ bạn mà dám gửi cho chúng ta câu này “Bạn đã sống lại thật về phần linh hồn chưa?” để nhắc nhở chúng ta rằng: chỉ có “sống lại thật về phần linh hồn” mới là niềm vui chính đáng của tôi, của bạn trong ngày Đại Lễ.
Thật đáng tiếc, chúng ta đã và đang Mừng Chúa Sống Lại như một lễ hội, hơn là mừng biến cố sống lại của chính linh hồn mình.
Này nhé, chúng ta đã qua một mùa chay nhiệm nhặt. Đã qua một tuần thánh sốt sắng buông bỏ mọi thứ ở đời, sốt sắng đến với tòa cáo giải, sốt sắng tham dự phụng vụ và những giờ ngắm… sốt sắng… ủ dột… phiền não…
Hôm nay, Đại Lễ Phục Sinh. Luật Hội Thánh buộc nghỉ việc xác để chúng ta mừng lễ. Nhưng mừng lễ thế nào? Mừng Chúa sống lại và mừng chúng ta được sống lại thật về phần linh hồn chứ?
Hay là mừng lễ như thế này:
Người chuẩn bị con heo quay, người con cầy tơ, người mấy con gà đi bộ hay dăm con vịt… mấy thùng bia, vài lít rượu hoặc ngơm ngã hơn là kiếm một chai Tây cho oách. Người mời thêm vài thân hữu, vài đồng nghiệp, vài người hàng xóm. Cứ nghĩ ăn càng to, khách càng đông thì như vậy là mừng lễ cách long trọng, xứng mặt anh hùng, đúng tầm đại gia hay ra vẻ nghệ sĩ sành điệu nhất. 10g sáng nhập tiệc mừng đại lễ. Cứ chén thoải mái. Tàn tiệc rồi mà chưa bí tỉ thì kéo nhau đi “tăng” hai vừa hát karaoke vừa lai rai thêm vài thùng nữa cho đến hồi vừa nói nói tiếng tây lẫn tiếng tàu, vừa vung tay lẫn đá chân đi hàng hai hàng ba mất thăng bằng. Đã vậy, còn đưa nhau đi “tăng” ba, phòng trà ca nhạc hay quán cà phê ôm nào mờ mờ ảo ảo cho nó sướng cái người. Mừng hết một ngày lễ Phục Sinh, chơi luôn đêm, xả láng sáng về sớm.
Đội quân tín hữu tóc dài cũng không kém. Nghỉ việc xác và mừng lễ Phục sinh lại là cơ hội chứng tỏ mình là phụ nữ mới trong cái xã hội gọi là giải phóng. Mà cụ thể nhất là giải phóng phụ nữ khỏi cái thân phận “trong nhà” để bà cũng được hưởng chế độ “ngoài cửa” khỏi lãng phí một đời hoa. Họ là những người buôn bán. Ai cũng đứng một sạp ở chợ. Mừng lễ, năm bảy chị thuê bao một chiếc 16 chỗ đi dã ngoại Phục Sinh. Ở đó, họ đã hẹn với cũng năm bảy ông cán bộ thuế vụ, công an. Và họ vui chơi thoải mái. Mừng lễ Phục sinh lại là cơ hội giảm thuế, cơ hội làm ăn. Khuya mới về. Như thế là mừng lễ.
Những người hơi có tí tuổi, đã vậy, thì trách chi tuổi trẻ. Quán nhậu nào cũng đông khách, cũng ồn ào. Quán karaoke nào cũng hết phòng, có phòng một cặp, có phòng đôi ba cặp trai gái. Đâu đâu cũng nghe thấy tiếng xe đua inh ỏi, ngửi thấy mùi khói khét, thi thoảng, kinh hồn hơn, lại có vài vụ ẩu đả…
Sáng thứ hai, tuần mới bắt đầu. Mùa phục sinh mới bắt đầu. Và đâu rồi lại cũng vào đấy. Chờ đến sang năm, sẽ mừng lễ to hơn…
May mắn thay, tôi được nghe kể lại có người ăn mừng lễ cách điệu nghệ hơn nhiều: Sau thánh lễ Phục Sinh, họ về nhà ăn điểm tâm phục sinh với vợ con một tí, rồi hẹn nhau một chuyến đi bất ngờ. Hai ông chở nhau trên chiếc Honda 79 cũ kỹ. Quần áo hơi luộm thuộm lùa thùa nếu không nói là chỉ vừa tươm tất chút nhưng không có vẻ gì là sang trọng cả. Họ vào làng kia, trong hóc núi. Họ định với nhau đóng vai người đi mua củ mì tươi để đến thăm từng nhà trong hóc núi. Ở đó, hai ông đã tìm được những niềm vui Phục Sinh lạ thường: Ít là có 7 gia đình công giáo trong hóc núi. Họ chẳng biết hôm nay lễ Phục Sinh.
– “Lâu rồi, tui không đến nhà thờ vì xa quá, lại chẳng có đứa mô chở đi”.
– “12 năm rồi tui chưa xưng tội ông à. Nhưng tui nghĩ ở mãi trong hóc núi nầy cũng chẳng có cái tội gì ngoài tội không xưng tội”.
– “Dạ, em đã trốn vào ở đây để làm rẫy được 3 năm rồi. Ban ngày, một mình với trời đất thiên nhiên, ban đêm, một mình với Chúa. Em không về dự lễ ở Giáo Xứ em, sinh dịp cho họ nguyền rủa em mà mang tội. Thỉnh thoảng về nhà thờ Chánh Tòa Phan Thiết xưng tội, dự lễ, rồi lại trở vào đây. Năm nay không dự lễ Phục Sinh được vì chị hàng xóm người lương, bên cạnh nhà em kìa, đang hấp hối”.
Có thể bạn còn nhiều cách mừng lễ hay hơn, đẹp hơn, nhưng thiết nghĩ không có cách nào tuyệt vời hơn là sống lại với Đức Kitô, cùng Đức Kitô ra khỏi mồ. Vâng, vì niềm vui Phục sinh đã được chuẩn bị từ một mùa chay thành tâm sốt sắng, một tuần thánh thánh thiện là để đi đến quyết định “ta hãy xin cho được sống lại thật về phần linh hồn”.
Vậy như Chúa Giêsu đã sống lại thật và đi ra khỏi mồ, mỗi tín hữu Chúa mừng Đại Lễ Phục Sinh của Chúa cũng chính là mừng cho mình có những quyết tâm sống lại và ra khỏi mồ, quyết tâm không trở lại nằm trong những nấm mồ tội lỗi nữa.
Ra khỏi mồ, và không bao giờ trở lại nấm mồ ích kỷ, tham lam đã từng chôn chặt đời mình chung với những bó tiền vô nghĩa chất đống chẳng sinh ích lợi gì cho phần rỗi đời mình.
Ra khỏi nấm mồ dửng dưng hờ hững từng chôn chặt đời mình trong tối tăm làm cho đôi mắt mình không thể ngó ra ngoài cái ngục tù kinh khủng ấy để nhìn thấy được bao nỗi đọa đày của nhân gian.
Ra khỏi nấm mồ vô cảm vô tâm từng chôn chặt con tim mình như con tim đóng băng lạnh lùng không có chỉ một chút lòng trắc ẩn, thương người.
Ra khỏi những nấm mồ nhơ nhớp dưới dáng vẻ sang trọng tiện nghi của những khách sạn, nhà hàng, sàn nhảy, từng giam hảm đời mình trong thú vui nhục dục.
Ra khỏi nấm mồ kiêu căng tự phụ để có thể nhận ra mình là hạt bụi tiểu tốt vô danh…
Hãy tưởng tượng, hãy hình dung, và hãy nhận thực ra rằng chúng ta đang sống trong những nấm mộ khi ta hãy đang còn sống.
Và hãy nhớ cho rằng sống niềm tin và niềm vui phục sinh là khẩn trương ra khỏi những nấm mồ ấy, và không bao giờ trở lại nữa.
Vâng, nấm mồ đời tôi, nấm mồ đời bạn, không là những nấm mồ trong tương lai như những nấm mồ hiện tại ở nghĩa trang Bình Hưng Hòa, hay nghĩa trang Giáo Xứ của tôi của bạn -trong đó, thân xác con người đang thối vữa, đang tan biến thành cát bụi chóng vánh, may ra, còn lại cái hộp sọ ghê rợn và vài chiếc xương khô mòn phai dần theo thời gian, năm tháng, nhưng là nấm mồ tội lỗi ngay hôm nay đang chôn chặt linh hồn mình. Nấm mồ cứ đầy hơn, cửa mồ mỗi kiên cố hơn, khi chúng ta bằng lòng để cho tội lỗi ngập ngục, khống chế.
Hãy anh dũng bước ra khỏi mồ.
“Thứ năm thì gẫm, Đức Chúa Giêsu sống lại. Ta hãy xin cho đặng sống lại thật về phần linh hồn”.
Nguyện xin ơn Phục Sinh của Chúa Giêsu giúp chúng con anh dũng đi ra khỏi những nấm mồ tội lỗi, để chúng con “đặng sống lại thật về phần linh hồn” và được hân hoan niềm vui phục sinh ngay khi còn sống trên dương gian này. Amen.
Bản tin trên Internet ngày 23-3-1998 có ghi: “Nạn tự tử tại Nhật Bản đạt tới mức kỷ lục. Các giới Nhật Bản cho biết mức độ tự tử trong nước tăng đến mức báo động. Trong mười tháng của năm 1998, hơn 27.000 người tự sát. Hầu hết những người tự tử là các nhà quản lý hay doanh nghiệp, do ảnh hưởng tình trạng suy thoai kinh tế trong nước Nhật kéo dài”. Và báo Công giáo và Dân tộc số 1296 năm 2001: ở An Độ đã có nhiều nông dân tự tử vì cảm thấy không còn lối thoát nào khác, khi giá nông sản giảm sút trầm trọng. Năm 2003 vừa qua có 120 người tự tử tại bang Pradesh và ở các bang khác cũng có những người tự tử tương tự.
Không chỉ riêng những nhà doanh nghiệp Nhật Bản, và các người nông dân An Độ mà còn nhiều người khác nữa, khi họ đặt mục tiêu của cuộc đời là sống thành công, thành công trong học hành, trong gia đình, trong việc làm và thành công ngoài xã hội. Họ bỏ mọi công lao, sức lực, tài trí để mong đạt được ước mơ này. Nhưng khi kỳ vọng đó gặp trở ngại, thất bại, họ cảm thấy chán nản, đau buồn vô vọng và tìm cách quyên sinh.
Đối với các môn đệ Đức Giêsu, biến cố ngày thứ sáu đã làm cho dự tính tương lai của các ông tan thành mây khói. Bao nhiêu hy vọng đã bị chôn vui trong ngôi mộ cùng với thân xác Đức Giêsu. Ngôi mộ biểu hiện cho sự thất bại hoàn toàn. Tâm trạng các môn đệ cũng giống như tâm trạng của những người nông dân An Độ hay những thương gia Nhật Bản, cũng đau khổ thất vọng, tương lai xán lạn nay đã bị chôn vùi. Không những thế các môn đệ còn lo sợ, lo sợ bị truy lùng bởi hàng lãnh đạo Do thái. Họ đã giết Thầy, thì coi chừng môn đệ họ cũng không tha. Vì thế các ông phải trốn tránh.
Nhưng, khi nghe bà Maria Madalena báo tin: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết để Người ở đâu?”, thì tâm trạng của các ông lại biến đổi ngược lại, theo lẽ bình thường, khi nghe báo tin người ta đem xác Chua đi đâu mất, thì sự sợ hãi của các ông càng tăng lên gấp bội. Nhưng ở đây, hai ông lại thoát khỏi tính e dè, khỏi sự im lặng sợ sệt. Các ông rời bỏ nơi ẩn nấp, vội vã chạy đến mộ. Trong sự vội vã và náo nức ấy, chúng ta thấy có một cái dấu hiệu gì đó, một dấu hiệu hy vọng loé lên, các ông đang hướng về một niềm hy vọng, niềm hy vọng này còn mơ hồ, nghi ngại, nhưng các ông vẫn chạy. Dù các ông đã biết xác Chúa không còn trong mộ nữa, nhưng họ vẫn chạy ra mộ, ra mộ không phải để thấy xác Chúa, mà họ hy vọng một tương lai, và để rồi chính nơi đây niềm hy vọng đã loé lên trong họ bây giờ được bừng sáng.
Thế nhưng, các ông đã thấy điều gì? Đa thấy Thầy mình chăng? Không! Các ông không thấy gì ngoài ngôi mộ trống rỗng với tảng đá lớn đã bị đẩy sang một bên, và những khăn liệm bên trong. Thánh Gioan cho chúng ta thấy Phêrô là người đầu tiên đi vào trong mộ. Ông thấy băng vải để ở đó và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. Nhưng không nói Phêrô có nhận ra dấu chỉ hay không? Phúc âm thánh Luca tường thuật lai rằng Phêrô chứng kiến ngôi mộ trống, nhưng trở về nhà “rất đỗi ngạc nhiên, không hiểu gì hết”. Còn Gioan, người môn đệ Đức Giêsu thương mến, ông cũng bước vào, ông đã thấy. Ông thấy cái gì? Ông cũng chỉ thấy những điều Phêrô đã thấy mà thôi. Nhưng ông đã nhận ra, nhận ra sự Phục sinh của Chúa Giêsu. Nếu như xác bị ăn trộm, thì kẻ trộm đâu có thời giờ để gỡ vải liệm, và khăn cuốn đầu được cuộn lại và đặt đúng chỗ, bên trong bang vải? Như vậy không có bàn tay bên ngoài tham dự vào. Chỉ một mình Gioan, với tâm hồn nhạy cảm, ông đã nhận ra Thầy mình hiện đang ở đâu qua ngôi mộ trống. Chúng ta tự hỏi chỉ qua ngôi mộ trống mà Gioan xác tín Đức Giesu đã Phục sinh? Thì xem ra niềm tin của Gioan không vững chắc, vì với một dấu chỉ mơ hồ là ngôi mộ trống mà ông đã tin: thật ra ông tin không phải dựa vào ngôi mộ, mà qua ngôi mộ và cách sắp xếp trong ngôi mộ, ông đã nhận ra Lời Chúa dạy dỗ các ông đã được ứng nghiệm: “Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ lên án xử tử Người và sẽ nộp Người cho dân ngoại. Họ sẽ nhạo báng Người, khạc nhổ vào Người, họ sẽ đánh đòn và giết chết Người. Ba ngày sau, Người sẽ sống lại.
Trong cuộc sống của chúng ta có biết bao dấu chỉ, thế nhưng chúng ta có hiểu được, có đọc được ý nghĩa của dấu chỉ đó hay không? Một cử chỉ, một lời nói, một sự vật… là những dấu chỉ còn hàm hồ, ẩn chứa bí mật! Chúng ta cần được giải thích: sự việc đó muốn nói gì? Cử chỉ đó hiểu như thế nào? Đó là một điều khó đối với chúng ta. Nhưng nếu chúng ta để cho Lời của Chúa soi sáng, đe Chúa Thánh Thần hướng dẫn, chúng ta sẽ hiểu được các biến cố đó.
Biến cố Phục sinh làm biến đổi hoàn toàn đời sống các môn đệ. Đời của họ đã giở sang một trang mới, mà không một khó khăn nào cản trở được niềm tin vào Đức Kitô, tin rằng sẽ được hưởng phúc vinh quang với Ngài, cho dù bao nhiêu lần bị đói khát, đánh đòn, tù đày… Nếu sự Phục sinh của Chúa Giêsu thật cần thiết cho các môn đệ, thì sự Phục sinh cũng thật cần thiết cho cuộc sống hôm nay của nhân loại, một cuộc sống còn nhiều khó khăn, đau khổ, chết chóc… Những lúc đó, chúng ta cần phải có sự nhạy cảm như Gioan, nhận ra Đấng Phục sinh, Đấng của niềm hy vọng. Người đã Phục sinh để khai mở một thế giới mới, một thế giới của công bình và bác ái, hoan lạc và bình an, khai mở một nhân loại mới, trong đó mọi người là anh em. Khi khai mở một thế giới mới, một nhân loại mới, Người đã cống hiến cho chúng ta một tương lai có khả năng lấp đầy những khát vọng sâu xa chất chứa trong lòng con người, khát vọng vốn làm nên biết bao dự phóng đời người.
Thế nhưng, trong đời sống nhiều khi chúng ta còn gặp biết bao nhiêu khó khăn, thử thách: trong công việc làm ăn, chúng ta cố gắng làm ăn lương thiện, nhưng vẫn thất bại, trì trệ không phát triển được; rồi bao nhiêu cố gắng trong việc giáo dục con cái, thế nhưng vẫn không thành công, cũng như nhiều lần bị hiểu lầm, bị lừa gạt làm cho chúng ta đánh mất đi niềm tin trong cuộc sống. Những lúc đó chúng ta có còn nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa, có còn dám tin tưởng và đặt hy vọng vào Đức Kitô hay không? Và nếu như một khi nhìn ra sự hiện diện và nghe được lời mời gọi của Đấng Phục sinh, đặc biệt là những biến cố đau thương, chúng ta có khả năng biến cuộc sống thành lời hy vọng hay không?
Như vậy, hy vọng của chúng ta, không phải là những thành công, những lợi lộc, tiếng tăm… ở trần gian này, vì chúng ta biết rằng đây chỉ là điều tạm thời, chóng qua, không có giá trị lâu bền, nó không làm cho tâm hồn chúng ta hạnh phúc được và khi chết chúng ta cũng chẳng mang đi được. Hy vọng của chúng ta chính là Đức Kitô, là Đấng đang sống, hiện đang ngự bên hữu Chúa Cha và đang cầu bầu cho chúng ta.
Trong niềm vui của ngày Chúa Phục sinh, chúng ta xin Chúa Kitô ban cho chúng ta nguồn hy vọng để biết nhìn thấy quyền năng sống lại của Thiên Chúa trong các cơn thử thách. Xin Ngài lăn tảng đá che lấp hy vọng ra khỏi cuộc đời chúng ta. Để rồi mỗi người chúng ta trở nên chứng nhân hy vọng, là dấu chỉ, là ánh sáng phục sinh chiếu toả cho những anh chị em đang sống trong sự thất vọng.
Có một cuốn phim, tựa đề là “Đức Giêsu Kitô”, đây là một cuốn phim nhạc nổi tiếng về cuộc đời Chúa Giêsu. Bằng ngôn ngữ của âm nhạc, tác giả cuốn phim đã cố gắng diễn tả cuộc đời Chúa Giêsu theo tâm thức của con người thời nay, giúp cho người xem có thể học hỏi và hiểu biết thêm về Chúa Giêsu. Nhưng có một thiếu sót lớn nhất của cuốn phim nhạc này là đã không đề cập đến việc Chúa Giêsu sống lại. Cuốn phim kết thúc cuộc đời của Chúa bằng cái chết treo trên thập giá.
Cuộc đời Chúa Giêsu chết là hết chăng? Những người không có niềm tin Kito giáo xem cuốn phim này sẽ kết luận như thế. Bởi vì “chết là hết”, đó là ý nghĩa thông thường của con người. Đó cũng là tâm trạng của các môn đệ Chúa Giêsu sau cái chết nhục nhã của Ngài: tất cả mọi hy vọng của họ đều tan thành mây khói. Thế nhưng, một biến cố bất ngờ đã xảy ra: Ngày thứ ba sau khi tử nạn, Chúa Giêsu đã sống lại. Đây là một biến cố vĩ đại, một sự kiện vô tiền khoáng hậu, độc nhất vô nhị, có một không hai trong lịch sử, một biến cố đã làm phát sinh một tổ chức lan rộng khắp thế giới mà chúng ta gọi là Kitô giáo.
Việc Chúa Giêsu Kitô sống lại là một biến cố cực kỳ quan trọng, nhưng lại là sự việc mà lý trí con người khó hiểu nổi, vì nó ở ngoài và vượt trên lịch sử nhân loại, không một người nào đã thấy và có kinh nghiệm. Ngay các môn đệ đi theo Ngài và được Ngài báo trước cho biết việc đó, thế mà khi Ngài sống lại họ cũng chưa tin, huong chi những người khác. Phục sinh là một chân lý mà người ta chỉ có thể chấp nhận được nhờ đức tin.
Tuy nhiên, biến cố Phục sinh cũng có những dấu hiệu bề ngoài chứng thực, như ngôi mộ trống, không có xác Chúa Giêsu ở đó. Ngài hiện ra cho mấy phụ nữ đến thăm mộ và nhất là một số môn đệ, họ nhận ra Ngài khi thấy những thương tích của cuộc khổ nạn trên thân thể Ngài và trò chuyện ăn uống với Ngài. Rồi Ngài đã làm cho các môn đe sau khi gặp gỡ, truyện trò, ăn uống với Ngài phải tin và xoay chuyển tầm nhìn của họ về Ngài: từ hồ nghi không tin đến tuyên xưng Ngài chính là Đức Kitô, đồng thời xoay chuyển cả lối sống của họ: từ thất vọng sợ hãi trở thành tin tưởng, can trường, rồi đồng loạt đi khắp nơi loan báo và minh chứng Ngài đã Phục sinh. Minh chứng cách trung thành và can đảm, không sợ bị đánh đòn, chế nhạo, cầm tù, mà còn sẵn sàng chịu tử hình nữa. Việc ngôi mộ trống, việc Ngài hiện ra nhiều lần, việc các môn đệ có niềm tin và lối sống mới sau khi gặp gỡ Chúa Phục sinh, tất cả đều có thật.
Quả thực, việc Chúa Giêsu sống lại là một biến cố cực kỳ quan trọng đối với chính Ngài, với giáo huấn của Ngài, với các môn đệ cũng như với tất cả mọi người, vì là nền tảng cho niềm tin và sự cứu độ của mọi người. Đối với Chúa Giêsu, sự sống lại chứng tỏ Ngài vừa là người thật (đã đau kho và chết) vừa là Thiên Chúa thật (đã sống lại và được tôn vinh) làm cho Ngài trở thành siêu việt trên tất cả mọi nhân vật tôn giáo trên thế giới, vì Ngài là hoa quả đầu mùa của nhân loại mở đường vào hạnh phúc that vĩnh hằng. Sự sống lại chứng tỏ giáo huấn của Ngài là do Thiên Chúa mạc khải và dẫn đưa con người chắc chắn đạt tới hạnh phúc ấy. Sự sống lại đã làm xoay chuyển tầm nhìn của các môn đệ về Ngài và xoay chuyển cả lối sống của các ông. Sau hết, sự sống lại là bảo đảm cho mọi người được sống lại thật và có thể được hưởng hạnh phúc vĩnh hằng như Ngài.
Trải qua hai ngàn năm, niềm tin của các tông đồ và của các tín hữu tiên khởi vẫn còn được tiếp tục tuyên xưng. Mãi mãi vẫn còn có người tuyên xưng Chúa Giêsu là Đức Kitô, là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế, là Chúa. Ngài đã chết để cứu chuộc chúng ta và Ngài đã sống lại để bảo đảm chúng ta cũng sẽ sống lại. Và hiện Chúa Kitô Phục sinh vẫn đang đồng hành với chúng ta trong cuộc sống trần gian. Chúng ta vẫn gặp Ngài trong Giáo Hội, trong các bí tích, trong cầu nguyện, trong lời Chúa và trong khi thi hành điều ran mới của Ngài.
(Giải thích bản văn Tin Mừng của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)
Chương 20 bắt đầu những trình thuật về Chúa sống lại, gồm: vào ngày thứ nhất trong tuần, buổi sáng, Maria Mađalêna và hai môn đệ đến mồ Chúa (20,1-10, Chúa hiện ra với Mađalêna (20,11-18); buổi chiều, Chúa hiện ra với các môn đệ (20,19-23); tám ngày sau, Chúa hiện ra lần nữa với các môn đệ, có cả Tôma (20,24-29), và kết luận (20,30-31). Đoạn 20,1-10 chia thành ba phần: Maria Mađalêna phát hiện mồ trống và đi báo tin (20,1-2); Phêrô và Gioan chạy ra mồ (20,3-4); cảnh bên trong mộ (5-8); kết luận của thánh sử (cc. 9-10).
Nấm mồ là trung tâm chú ý của trình thuật. Chữ “nấm mồ” được dùng đến 8 lần trong câu chuyện nầy. Maria Mađalêna, Phêrô và Gioan là những người chạy đi chạy lại vì nấm mồ đã được mở ra. Câu chuyện được trình bày theo cách nhìn nấm mồ từ xa, kéo lại gần, rồi lại lùi xa. Từ xa Maria Mađalêna thấy hòn đá lấp mồ đã được dời đi; cô chỉ đến gần mồ sau khi hai môn đệ đã đi khỏi đó (x. 20,11). Maria chạy về báo tin (c. 2). Phêrô và Gioan chạy đi. Họ chạy đến mồ vì tin xác Chúa đã được đem đi khỏi đó (c. 4 [2x]). Họ chạy và chạy nhanh theo sức; ở đây chỉ một sự hối hả. Tới nấm mồ, trong khi Gioan đứng ngoài để chờ Phêrô, nhìn vào trong ông thấy những tấm khăn liệm, othonion; đây là điều duy nhất ông ghi nhận (c. 5). Vào bên trong nấm mồ, vật đầu tiên mà Phêrô thấy cũng là những tấm khăn liệm (c. 6); vật nầy được nhắc thêm một lần nữa ở câu 7 để nhấn mạnh. Phần Gioan, cũng vào bên trong mồ với Phêrô. Ông thấy những tấm khăn liệm thêm một lần nữa và lần nầy ông tin (c. 8). Kết thúc câu chuyện là họ rời nấm mồ mà về nhà. Thánh sử chú thích là họ chưa hiểu lời kinh thánh là Chúa Giêsu phải sống lại.
Hòn đá được lăn ra khỏi cửa nấm mồ, những tấm khăn liệm và khăn bọc đầu là những dấu hiệu cho biết Chúa Giêsu đã sống lại. Trong trình thuật ngay trước, người ta tẩm liệm Người theo phong tục do thái là lấy khăn quấn đầu và toàn thân Người (19,40), rồi đặt Người vào trong nấm mồ mới (19,42). Người đã chết thật. Bây giờ, nấm mồ ấy đã được mở ra, những khăn liệm ấy đã được tháo gỡ ra và được xếp đặt gọn gàng. Người chết không còn trong đó nữa. Như những gì đã xảy ra cho Lazarô là nấm mồ đã được mở ra (11,4), băng vải đã được tháo gỡ khỏi ông và ông được cứu khỏi sự chết (11,44), cũng đã xảy ra cách tương tự cho Chúa Giêsu. Điều nầy chứng tỏ Người đã sống lại thật.
Một dấu hiệu khác chứng tỏ Chúa đã sống lại là lòng tin của Gioan. “Ông đã thấy và ông đã tin” (20,8). Việc “thấy”, blepo, của Maria Mađalêna, Gioan trong lần đầu tiên (20,1.5) và của Phêrô, theoreo (20,6) là dùng con mắt tự nhiên mà quan sát và nhận thức sự việc (x. 9,19.21; 11,9: 10,12; 12,45; 14,17.19). Ngược lại, khi Gioan thấy, orao, những tấm khăn liệm lần thứ hai, thì ông tin. Việc “thấy” lần nầy là bằng con mắt đức tin Thiên Chúa ban cho (x. 14,5). Như Abraham thấy ngày của Chúa và ông đã vui mừng (x. 8,56), như Isaia thấy vinh quang của Người và ông đã nói về Người, cũng vậy Gioan thấy khăn liệm của Người và đã tin Người đã sống lại.
Lúc nầy các môn đệ chưa nhớ lại lời kinh thánh nói về sự sống lại của Người (2,22). Maria Mađalêna đã loan tin vô bằng cớ là “Chúa đã bị lấy đi” (c. 1), trong khi Phêrô đã không loan báo được điều gì cho các môn đệ khác sau khi về lại từ nấm mồ, chỉ vì một điều là ông đã không thấy nấm mồ như Gioan đã thấy.
(Suy niệm của Lm. Thu Băng, CRM)
SỰ CHẾT VÀ PHỤC SINH CỦA CHÚA CHÍNH LÀ SỰ CỨU SỐNG CHÚNG TA (Jn. 20:1-9)
Vì thương con người Chúa đã hạ mình xuống thế mặc lấy xác thể của một nhân loại hoàn hảo, một xác thể tinh tuyền đầy năng lực sống trước khi Adong Evà phạm tội và một linh hồn là chính Thiên Tính của Ngài.
Với xác thể Thiên Chúa tinh tuyền ấy, Chúa Kitô đã sẵn sàng hy sinh gánh chịu mọi khổ nhục, mọi xúc phạm, mọi lăng mạ, mọi đòn vọt và hành tội trên thập giá làm nên giá công ơn vô lường cứu chuộc được hết mọi người chúng ta. Chính công ơn ấy đã trở nên năng lực làm phục sinh chính thể xác Ngài sau khi bị giết chết và toàn thể nhân loại trong ngày tận thế.
Với linh hồn thiên tính Chúa cũng đã lấy hết ý chí khiêm hạ vâng phục thánh ý Chúa Cha không đòi quyền ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng chấp nhận như một tôi đòi, nên như một kẻ lệ để lập công cứu rỗi linh hồn thế nhân. Chính công phúc cao cả ấy đã có năng lực phục hồi sự sống lại cho các linh hồn.
Do đó, sự chết và phục sinh của Chúa Kitô chính là năng lực phục hồi sự sống thật cho nhân loại và việc chúng ta long trọng cử hành lễ Chúa Phục sinh đêm nay cùng khắp mọi nơi trên thế giới nói lên điều xác tín đó. “Tôi tin xác loài người sẽ sống lại, tôi tin linh hồn hằng sống vậy. Amen”.
Qua Bí tích rửa tội, chúng ta đã được nhận lại làm con Thiên Chúa. Qua Bí tích rửa tội chúng ta cũng được phục hồi ơn thánh, được quyền thừa hưởng nước trời. Qua Bí tích Rửa tội năng lực phục sinh của Chúa Kitô được giữ lại mãi trong Chúng ta và làm động lực giúp chúng ta phục hồi mỗi khi chúng ta lãnh nhận ơn hòa giải.
Vậy để nên như hạt giống, nên như giọt nước mưa, nên như men trong bột, nên người công giáo đầy năng lực “sống thật”, chúng ta hãy sống “thân mật” với Chúa, dầu bên ngoài vẫn làm lụng, vẫn ăn uống, vẫn nghỉ ngơi, vẫn xử sự như mọi người, nhưng ý nghĩa cuộc đời và lý tưởng đời sống chúng ta phải sống khác hẳn, sống theo tinh thần Phúc âm:
– Nhiệt thành và sốt sáng trong việc sống đạo.
– Năng tập tành các nhân đức và hãm dẹp các đam mê.
– Sống quảng đại và bác ái với tha nhân.
– Xa tránh những thói hư tật xấu và dục vọng bất chính.
“Sống thật” còn có nghĩa là cuộc sống trần gian này phải sạch tội, phải nên người, phải nên thánh thiện, bởi vì người sống theo đam mê, sống trong tội lỗi thì dù có “sống về thể xác” nhưng kỳ thực họ đã “chết về phần linh hồn” rồi, nên không kễ là “sống thật” nữa.
Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn hiểu được rằng “Năng lực Phục sinh” của Chúa là sức sống mãnh liệt đang tiềm ẩn trong con, giúp con thắng lướt mọi sự dữ, mọi tật xấu và là sức sống giúp con biết sống mỗi ngày một ngay lành và thánh thiện. Amen.
(Suy niệm của Lm. Minh Vận, CRM)
Giáo Hội Đông Phương có một tục lệ rất hay và có nhiều ý nghĩa trong ngày mừng Đại Lễ Chúa Phục Sinh. Sau khi việc cử hành các nghi lễ phụng vụ được hoàn tất, ngươi ta phân phát trứng đã làm phép cho mọi người đang tham dự Thánh Lễ trong Thánh Đường, để chỉ rằng, tất cả đều được thông phần trong muôn phúc lành của Chúa trong ngày Đại Lễ. Sau đó người ta chúc mừng nhau và đập trứng. Khi đập trứng, người này xướng: “Chúa Kitô đã sống lại”. Người kia đáp lại: “Người đã sống lại thật”.
Mổ bể cái trứng, gà con chui ra, tượng trưng sự mở cửa mồ của Chúa Kitô, để Người bước ra. Cái trứng cũng chỉ sư sống mới, vì trong cái trứng chứa đựng một mầm sống của con gà con. Khi gà con nở ra khỏi trứng, xuất hiện một tạo vật mới.
Chúa Kitô sống lại, bước ra khỏi mồ cũng có một sự kiện tương tự như thế. Vì Chúa Kitô thực sự đã chịu tử hình và nay Ngài đã phục sinh vinh quang trước nhiều nhân chứng; cũng như cái trứng dường như là một vật chết trước khi nó phát sinh sự sống mới.
- NIỀM TIN MẦU NHIỆM CHÚA PHỤC SINH
Qua bốn mươi ngày chay tịnh sám hối chuẩn bị tâm hồn; nhất là trong Tam Nhật Thánh, chúng ta đã diễn lại Thiên Tình Sử đẫm máu của Chúa Cứu Thế, để tưởng niệm mầu nhiệm tình Chúa yêu thương nhân loại. Giờ đây, trong Đêm Cực Thánh này, chúng ta cung với toàn thể Giáo Hội hoàn vũ, cử hành đêm canh thức với tất cả tâm tình sốt mến của Mẹ Chí Thánh Chúa và các Tông Đồ của Người đang trông đợi vào lời tiên báo “Chúa sẽ phục sinh”. Nay đã được thực hiện, bằng tat cả niềm tin kính sùng mộ.
Chúng ta hân hoan long trọng mừng Đại Lễ Chúa Phục Sinh, là chúng ta mừng kính mầu nhiệm Chúa Kitô vượt qua cõi chết để bước vào nguồn sống mới bất diệt. Chúng ta mừng kính cuộc chiến thắng cua Chúa Kitô trên kẻ thù nghịch, là kẻ cầm đầu mọi tội lỗi và quyền lực hỏa ngục, để đạt tới cuộc khải hoàn vinh quang vĩnh cửu.
Quả thật, Chúa Kitô đã phục sinh, sự kiện lịch sử này đã được các sử gia đáng tin cậy minh xác, không ai có thể chối cãi được. Cả bốn Thánh Ký đã ghi chép rõ ràng trong Tin Mừng và sách Tông Đồ Công Vụ, bằng những chứng tích xác thực, đã được các chứng nhân thế giá, từng được diễm phúc chung sống với Chúa. Như Thánh Phêrô đã quả quyết: “Chúng tôi là chứng nhân tất cả những sự việc Chúa Kitô đã thực hiện trong nước Do Thái và tại Jerusalem, Người là Đấng người ta đã giết chết, khi treo Người trên Thập Giá. Nhưng ngày thứ ba, Thiên Chúa đã cho Người sống lại và hiện ra không phải với toàn dân, mà là với chúng tôi là những chứng nhân Thiên Chúa đã tuyển chọn trước, chính chúng tôi đã cùng được ăn uống với Người sau khi Người từ coi chết sống lại” (Act 10:39-4). Chính Chúa đã tỏ mình cho bà Maria Madalena khi bà tới thăm mồ vào tảng sáng, Người cũng hiện đến với các Tông Đồ trong Nhà Tiệc Ly và trên bờ biển Teberia, với hai môn đệ trên đường đi làng Emau. Đặc biệt, Người còn hiện đến với đông đủ các Tông Đồ đang hội họp trong Nhà Tiệc Ly lúc cửa vẫn đóng kín và phán với các ông: “Bình an cho các con!”. Rồi Người còn phán bảo riêng với Tôma, kẻ đã không tin vào lời các Tông Đồ khác thuật lại việc Chúa hiện đến với các ông, khi Tôma vắng mặt: “Hãy xỏ ngón tay con vào đây, xem có phải tay Thầy không, lại hãy thọc bàn tay con vào cạnh sườn Thầy. Chớ cứng lòng nữa, hãy vững tin”. Bấy giờ Tôma mới sửng sốt và sung sướng kêu lên: “Lạy Chúa tôi, lậy Thiên Chúa của tôi!”. Chúa Giêsu đáp lại: “Hỡi Tôma, vì con đã trông thấy Thầy nên con mới tin; phúc cho những ai đã không thấy mà vẫn vững lòng tin” (Jn 20:26-29).
Tất cả chúng ta là những con cái đã được Chúa yêu thương chúc phúc, vì chúng ta đã không thấy mà chúng ta vẫn vững lòng tin vào lời các Tông Đồ và Hội Thánh truyền dạy.
- HẠNH PHÚC ƠN LÀM CON THIÊN CHUA
Cũng trong Đêm Cực Thánh này, Giáo Hội muốn chúng ta tưởng nhớ lại hồng phúc chúng ta được làm con Thiên Chúa, nhờ công nghiệp cuộc tử nạn và phục sinh vinh hiển của Chúa Kitô, bằng việc truyền dạy chúng ta ôn lại những lời chúng ta đã long trọng tuyên thệ ngày lãnh Bí Tích Thánh Tẩy.
Trong ngày đó, chúng ta đã long trọng tuyên thệ: Từ bỏ tội lỗi để được sống sự tự do của con cái Thiên Chúa; từ bỏ mọi quyến rũ của tội lỗi để khỏi bị ách tội lỗi chế ngự; từ bỏ Satan là kẻ cầm đầu mọi tội lỗi. Đồng thời, chúng ta tuyên xưng niềm tin kính Thiên Chúa là Cha chúng ta và Đức Giêsu Kitô Con Chúa, sinh bởi Đức Trinh Nữ Maria và đã sống lại từ cõi chết, đang ngự bên hữu Chúa Cha; tin kính Chúa Thánh Thần, tin Giáo Hội Công Giáo và tất cả mọi điều Giáo Hội truyền dạy.
Được diễm phúc làm con Thiên Chúa là một ơn cao trọng vô cùng, là căn nguyên mọi ơn phúc Chúa ban cho chúng ta, như lời Thánh Gioan nhắn nhủ: “Anh chị em hãy xem, Thiên Chúa yêu thương chúng ta dường nào, để chúng ta được gọi là con cái Thiên Chúa và sự thực là thế” (I Jn 3:1). Bởi vì, chúng ta chỉ là một thụ tạo bất xưng, đã từng là nô lệ dưới quyền thống trị của Satan hỏa ngục và tội lỗi, là kẻ phản bội chỉ đáng Chúa trầm luân hỏa ngục vì án phạt nguyên tội di truyền và muôn vàn tội lỗi riêng chúng ta hằng xúc phạm đến Chúa. Nhưng nhờ công nghiệp sự chết và phục sinh của Chúa Kitô, chúng ta đã được tuyển chọn giữa muôn triệu người trên trần gian, được nâng lên hàng con cái Thiên Chúa, để được thừa hưởng lời Chúa hứa, sẽ được phục sinh với Người và lãnh gia nghiệp hạnh phúc vĩnh cửu mà Chúa đã sắm sẵn cho con cái trung thành, trong vinh quang bất diệt với Chúa trên Quê Trời.
III. ĐIỀU KIỆN SỐNG ƠN GỌI LÀM CON CHÚA
Để sống xứng với ơn gọi cao cả làm con cái Chúa và đáng được phục sinh với Chúa Kitô, để hưởng hạnh phúc gia nghiệp vĩnh cửu Chúa đã hứa ban, chúng ta hãy tuân giữ các giáo huấn Chúa dạy và sống theo mẫu gương đời sống Chúa đã thực hiện. Chính mẫu gương đời sống của Chúa Cứu Thế đã là một mãnh lực vô song thu hút, lôi cuốn muôn tâm hồn thiện chí tiến bước theo Chúa, sẵn sàng khước từ tất cả và chính bản thân, để được trở nên môn đệ của Chúa và cố gắng họa lại nơi bản than và cuộc sống mình chân dung đích thực và sống động của Đấng đã kêu gọi các ngài: “Nếu các con muốn theo Thầy, các con hãy từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Thầy” và Chúa còn nhắn nhủ: “Thầy đã làm gương cho các con, để các con bắt chước mà làm như Thầy đã làm”.
Để lập nên giá Ơn Cứu Độ chúng ta, Ngôi Hai Thiên Chúa đã phải từ khước mọi vinh quang cao cả, nhập thể mặc lốt phàm nhân, mang thân nô lệ, sống đời tôi tá và sau cùng, tự nguyện lãnh nhận mọi ô nhục, xỉ vả, hành xích của cuộc khổ nạn và bản án bất công như một tội nhân trọng phạm bị tử hình trên Thập Giá. Chính nhờ lễ hy sinh đó, Người đã trở nên căn nguyên Ơn Cứu Độ đời đời cho tất cả những ai tin kính thuần phục Người.
Trong một xưởng thợ, cả một nhóm công nhân nam nữ đang đua nhau chê bai Đạo Công Giáo, bọn họ cho rằng: Đạo làm mê muộn trí khôn, bóp nghẹt lẽ phải, làm sai lạc trí phán đoán tự nhiên của con người… Khi bọn họ vừa ngừng lời, một nam công nhân đã dõng dạc lên tiếng: “Phải, vì Đạo Chúa tôi đã mất tất cả!”
Mọi người đều hướng mắt trừng trừng nhìn anh ta. Người thợ nói tiếp: “Tôi là một tên bợm rượu say sưa tối ngày, đập đánh vợ con, phá tán xóm làng, cờ bạc hút xách, khiến ai cũng khinh chê thù ghét. Đạo Chúa đã hoán cải tôi, làm cho tôi đoạn tuyệt được tất cả những thứ đó. Đạo Chúa còn làm cho tôi mất đi biết bao tâm địa xấu xa, những đam mê tật xấu khác nữa… Xưa kia, Satan thống trị gia đình tôi, đã biến cái tổ ấm yêu đương thành một hỏa ngục. Thì nay, mọi phần tử trong gia đình tôi đã trở nên các Tín Hữu, con cái Thiên Chúa. Như vậy, tôi đã mất tất cả”.
Sau hết, người thợ đã lớn tiếng kêu gọi: “Hỡi các bạn, bây giờ các bạn biết Đạo Công Giáo đã làm cho tôi mất những gì rồi. Vậy các bạn hãy làm như tôi, hãy tin như tôi, tôi cam đoan chắc chắn với các bạn rằng, các bạn sẽ không phải hối hận đâu”.
Kết Luận
Lời Chúa phán dạy chúng ta: “Nếu hạt lúa miến gieo xuống lòng đất mà thối đi, nó chỉ trơ trơ không thể nào sinh được bông hat; nhưng nếu nó có chịu mục nát, nó mới nảy sinh mầm sống, vươn lên thành cây, trổ sinh bông hạt, đem lại một mùa thu hoạch dồi dào, khiến người thợ gặt được hân hoan vui sướng”.
Câu truyện trái “Trứng Phục Sinh” gợi lên cho chúng ta một hình ảnh cụ thể và sống động: Nó như một nấm mồ mà Chúa Kitô đã được mai táng tại đó. Con gà con làm bể chiếc trứng để chui ra, nhắc nhở chúng ta việc Chúa Kitô Phục Sinh bước ra khỏi mồ.
Là con cái Chúa, chúng ta chỉ được hưởng trọn niềm hân hoan trong ngày Đại Lễ mừng mầu nhiệm Chúa Kitô Phục Sinh, khi chúng ta sống đúng với ơn gọi cao cả được làm con cái Chúa, trở nên một tạo vật mới bằng cách quyết tâm từ bỏ tất cả những gì phản với tinh thần Chúa, tin kính mến yêu thực thi tất cả mọi giáo huấn Chúa và Giáo Hội truyền dạy như chúng ta đã long trọng tuyên thệ ngày lãnh Bí Tích Thánh Tẩy.
Trong những ngày này, chúng ta hớn hở mừng vui. Tiếng Alleluia không ngừng vang lên trên môi miệng chúng ta. Tại sao chúng ta hát đi hát lại điệp khúc hân hoan ấy? Phải chăng vì Đức Kitô đã chiến thắng kẻ thù? Phải chăng vì Ngài đã thực hiện một phép lạ vĩ đại nhất: sống lại từ trong kẻ chết? Tất cả những điều đó làm cho chúng ta vui mừng khi nghĩ về biến cố Phục sinh. Tuy nhiên, niềm vui còn dạt dào hơn nữa, khi chúng ta ngắm nhìn ngôi mộ rỗng của Ngài. Niềm vui dạt dào ấy đã được thánh Phaolô diễn tả như sau: Thiên Chúa đã cho Đức Kitô sống lại thế nào thì Ngài cũng sẽ dùng quyền năng để cho chúng ta được sống lại như vậy. Đó chính là một niềm an ủi tuyệt vời nhất, một ý nghĩ cao sâu nhất xuất phát từ ngôi mộ phục sinh: Nếu Đức Kitô đã sống lại, thì rồi đến lượt chúng ta, chúng ta cũng sẽ được sống lại.
Chúng ta thường nghe thấy lời phàn nàn và kết án như sau: Đạo Công giáo là một đạo quá nghiêm khắc bởi vì Đức Kitô đã nói: Ta đến không đem sự bình an, nhưng đem gươm giáo. Với lưỡi gươm lưỡi giáo này, phải chăng Ngài đã cắt đứt xác thịt và cuộc đời chúng ta? Đọc kinh, đi lễ, bố thí ma thôi chưa đủ, Ngài còn muốn chúng ta phải dâng hiến trọn cuộc sống cho Ngài, từ tư tưởng, lời nói đến việc làm. Tôi không được phép hưởng thụ những điều bất chính, dù chỉ trong tư tưởng mà thôi. Tôi muốn ăn uống no say, nhưng hôm nay lại là ngày giữ chay, nên tôi không được phép. Tôi muốn nằm ngủ nướng cho đẫy con mắt, nhưng hôm hay là Chúa nhật, tôi có bổn phận phải thức dậy để đi tham dự thánh lễ…Cho dù tội lỗi có hấp dẫn và quyến dũ, luôn mời gọi và lôi kéo đến đâu chăng nữa, thì chúng ta cũng không được phép chạy theo. Công giáo là một đạo nghiêm khắc, đòi chúng ta phải làm chủ thân xác, chế ngự những thèm muốn và hy sinh đời sống cho Đưc Kitô. Thế nhưng, cái đạo nghiêm khắc ấy đã đem đến cho chúng ta một tin mừng, đã hứa ban cho chúng ta một điều không ai có thể đem lại được, đó là: nếu Đức Kitô đã sống lại, thì rồi chúng ta cũng sẽ được sống lại. Nghĩa là một ngày kia, chúng ta sẽ tìm lại được cuộc sống vĩnh cửu đã mất đi vì tội lỗi. Niềm tin vào sự sống lại trước hết đã được chính Chúa Giêsu truyền dạy. Ngài đã nói nhiều lần để chứng tỏ tầm mức quan trọng của no. Thực vậy, Phúc âm thánh Gioan đã ghi lại: Giờ đến, khi mọi kẻ trong mồ nghe tiếng Ngài và bứơc ra. Những người làm lành sẽ sống lại để được sống. Còn những kẻ làm dữ sẽ sống lại để bị luận phạt…Thánh ý của Cha, Đang đã sai Ta là: bất kỳ ai thấy Con và tin ở Ngài, thì có sự sống vĩnh cửu. Và Ta, Ta sẽ cho họ sống lại ngày sau hết…Ai ăn thịt Ta và uông máy Ta, thì sẽ có sự sống đời đời.
Trước khi làm phép lạ cho Lagiarô sống lại, Ngài đã phán với Martha: Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta sẽ không chết, nhưng sẽ có sự sống đời đời. Sau cùng, khi bọn Sađucêô, những kẻ không tin vào sự sống lại dã nêu lên vấn nạn về một người đàn bà có bảy đời chồng và như vậy khi sống lại, bà ấy sẽ thuộc về ai? Chúa Giêsu đã trả lời cho họ như sau: Lúc bấy giờ, không còn vấn đề vợ chồng. Họ sẽ không chết nữa, nhưng sẽ trở nên như thiên thần. Họ sẽ là con cái của Thiên Chúa và của sự sống lại.
Chúng ta có thể suy ngắm về chính sự sống lại của Ngài để tìm thấy ở đó niềm hy vọng ủi an. Thực vậy, vào buổi sáng ngày thứ nhất, các bà đạo đức đi ra mồ để xức thuốc thơm cho thi thể Chúa. Vừa đi, các bà vừa thầm nghĩ: Ai sẽ lăn giùm tảng đá lấp cửa mồ? Phải, trước khi Đức Kitô phục sinh, một tảng đá nặng cũng đã lấp kín phần mộ của chúng ta và của những người thân yêu. Tảng đá của chết choc, đau khổ và tuyệt vọng. Bởi vì ngôi mộ chính là trạm chót, để rồi sau đó sẽ chấm dứt cuộc sống cũng như tình thương, sẽ chấm dứt mọi ý nghĩ cũng như mọi ước mơ. Phải chăng đó là sự chấm dứt của chính con người? Thế nhưng, Đức Kitô đã phục sinh. Tảng đá nặng đã bị lăn qua một bên, bởi vì Ngài đã giải quyết được vấn đề từng làm cho chúng ta băn khoăn lo nghĩ: Sau cái chết, sẽ còn lại gì? Sự phục sinh của Ngài chính là bảo chứng cho lời Ngài đã phán: Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta sẽ không phải chết, nhưng sẽ có sự sống đời đời.
Từ khi Đức Kitô nghỉ yên trong ngôi mộ, thì ngôi mộ đã trở nên một cái gì thánh thiện đối với chúng ta. Và hơn thế nữa, kể từ khi Đức Kitô sống lại, thì tất cả chúng ta, những con người phải chết, sẽ chờ mong buổi sáng phục sinh huy hoàng. Trước Đức Kitô, con người phải chết và trên bia mộ chúng ta ghi: Đây là nơi an nghỉ trong bong tối và trong tuyệt vọng. Nhưng từ khi Đức Kitô phục sinh, chúng ta có thể ghi trên bia mộ ấy như sau: Đậy là nơi an nghỉ trong tin yêu và hy vọng. Sau cùng, chúng ta có thể dùng suy luận để thấy được rằng: sự sống lại la một cái gì thích hợp với chương trình của Thiên Chúa, Đấng Tạo hóa. Thực vậy, chúng ta chỉ là người bao lâu hồn còn kết hiệp với xác. Giữa hồn và xác luôn có một liên hệ mật thiết. Nếu hồn mà buồn thì nước mắt sẽ tuôn trào. Nếu hồn mà vui thì khuôn mặt sẽ rạng rỡ. Bởi đó, sự phát triển toàn vẹn của con người đòi buộc hồn xác phải kết hiệp với nhau sau một thời gian bị cái chết tạm thời chia rẽ. Hơn thế nữa, việc sống lại còn là đều thích hợp với sự công bằng của Thiên Chúa. Thân xác của chúng ta đã tham dự vào tất cả những hành vi thánh thiện cũng như tội lỗi. Vì thế, sự công bằng đòi buộc: nếu thân xác đã tham dự vào những hành động toi lỗi thì cũng phải có những hình phạt dành cho thân xác. Trái lại, nếu thân xác đã tham dự vào những hành động thánh thiện, thì cũng phải có những phần thưởng dành cho thân xác.
Tóm lại, chúng ta sống là để chuẩn bị cho cái chết và chúng ta chết là để được sống đời đời.
Biến cố Phục Sinh của Chúa Giêsu đã xảy ra cách đây hơn 2000 năm rồi, và ngày nay có lẽ chúng ta cũng không thể cảm nhận được nỗi niềm vui sướng va hy vọng của các tông đồ ngày xưa khi nghe tin Chúa Giêsu sống lại. Tuy vậy, trong ít phút ngắn ngủi này, chúng ta thử làm sống lại một chút những tâm tình của các tông đồ trong ngày Chúa Phục Sinh, để thấy được sự kiện Phục Sinh của Chúa Giêsu đã đem lại ý nghĩa nào cho cuộc đời của các ông. Từ đó, chúng ta cũng hãy để cho Chúa Phục sinh tác động làm cho cuộc sống của chúng ta có một ý nghĩa. Hòa chung niềm hy vọng với dân tộc mình, các tông đồ cũng chờ mong một vị Cứu Tinh để giải phóng dân tộc ra khỏi cảnh nô lệ ngoại bang. Trong niềm hy vọng ấy, Đức Giêsu đã xuất hiện như một con người có thể đáp lại những khát vọng mãnh liệt của các ông. Chính vì thế mà các ông đã bỏ mọi sự để theo Người, tin tưởng hoàn toàn nơi Người, phó thác trọn cuộc đời cho Người và chấp nhận mọi đòi hỏi của Người. Thế nhưng, đáng buồn thay cho các ông biết bao, khi mà vào một buổi toi ngày thứ 5, thần tượng Giêsu của các ông đã bị bắt, bị tra tấn, bị đánh đòn, bị lăng mạ và cuốci cùng bị kết án tử hình, một cái chết đớn đau và tủi nhục trên thập giá. Điều đó làm các ông thất vọng biết là dường nào. Thế là hết. Thầy Giêsu đã chết, đã được chôn trong mồ đá. Điều đó có nghĩa là những niềm hy vọng, những hoài bão, những tin tưởng của các ông cũng chết theo và cuộc đời của các ông cũng bị chôn vùi trong những nấm mồ của tuyệt vọng và sợ hãi. Hiểu ván đề như thế chúng ta mới hiệu được rằng: khi các phụ nữ báo tin cho ông Phêrô và ông Gioan về việc Chúa sống lại thì quả thật đó là một nguồn tin gân chấn động rất mạnh cho các ông. Thầy Giêsu đã sống lại cũng có nghĩa là những ước mơ, những hy vọng của các ông cũng được sống lại. Chính vì vậy mà cả ông Phêrô và ông Gioan đã vội vã chạy ra mộ Chúa Giêsu như để kiểm nghiệm nguồn tin mà các phụ nữ vừa loan báo. Khi tới mồ, các ông thấy mồ trống, chỉ còn lại khăn liệm và khăn phủ đầu Chúa Giêsu. Thánh Gioan đã viết về chính mình: “Ông thấy và ông tin”. Rồi những ngày sau đó Chúa Giêsu đã hiện ra với các tông đồ nhiều lần như để củng cố niềm tin chắc chắn rằng: Thầy Giêsu của mình đã sông lại thật thì niềm tin ấy đã tạo nên một biến đổi triệt để nơi các ông.
– Trước đây các ông sợ hãi chạy trốn các nhà cầm quyền đạo đời, thì nay các ông hiên ngang ra vào công đường để rao giảng về Đức Kitô Phục Sinh. Các ông can đảm chấp nhận bắt bớ, chấp nhận đòn vọt và bao nhiêu thử thách khác để làm chứng rằng Đức Giêsu đã Phục Sinh.
– Trước đây các ông là những người nhỏ nhen, ham danh ham lợi, ghen tị với nhau về chỗ ngồi trên dưới, thì nay các ông quên bản thân mình để chỉ sống và chết cho Đấng Phục Sinh, đồng thời cũng sống và chết cho anh chị em mình.
Thế hệ của chúng ta hôm nay không được diễm phúc để thấy Chúa Phục Sinh như các tông đồ xưa, nhưng chúng ta tin lời rao giảng của các Ngài vì các Ngài là những chứng nhân trung thực bởi các Ngài đã dám hy sinh mạng sống để làm chứng cho sự thật ấy. Tuy nhiên, tin vào sự Phục Sinh không phải chỉ là chấp nhận trong trí khôn một chân lý, một sự kiện đã xảy ra trong lịch sử, nhưng còn là để cho Chúa Phục Sinh biến đổi cuộc đời mình, là để Người đưa mình ra khỏi những nấm mồ ích kỷ, hận thù, gian tham, lọc lừa, kiêu căng, tự mãn, ham mê sắc dục… Bao lâu chúng ta còn cố tình sống trong những nấm mồ ấy thì bấy lâu chúng ta chưa thật sự tin vào Chúa Phục Sinh. Va nếu thế thì lời tuyên xưng của chúng ta về việc Chúa Phục Sinh chỉ là những lời đâu môi chót lưỡi và chẳng đem lại lợi ích nào cho đời sống của chúng ta.
Xin cho mầu nhiệm Chúa Phục Sinh mà chúng ta kính nhớ hôm nay trở thành một động lực đổi mới cuộc đời chúng ta, để chúng ta đám sống, dám chết cho Chúa và cho nhau.
(Suy niệm của Lm Vũ Đình Tường)
Giây phút đầu tiên thấy mồ trống các bà hoảng hốt, lo sợ. Mồ trống, tâm hồn các bà cũng trống vắng, rỗng tuyếch. Tâm tư bồn chồn, lo lắng tự hỏi điều gì đã xảy ra. Xác Thầy ở đâu? Làm sao bây giờ? Hỏi ai kiếm cho? Giây phút đó các bà lo đến mất hồn, sợ đến lạc trí. Thầy mình yêu quí chết vẫn không yên. Mồ trống nghĩa là xác không còn trong đó nữa. Như thế xác Thầy giờ ở đâu? Mồ trống mang ý nghĩa bí ẩn gì đây? Các bà đi tìm câu trả lời. Có thể đau khổ hơn được nữa không khi Thầy đã chết. Thầy chết mả không đẹp, mồ không yên, vẫn có kẻ quấy phá. Mất xác.
Khi sự kiện xảy ra ngoài dự tính chúng ta thường nghĩ tới điều xấu, điều tệ, đau buồn. Các bà cũng không tránh khỏi lối suy nghĩ thông thường này. Các bà liên tưởng đến điều tệ hại nhất. Người ta vất xác Thầy đâu đó, quanh đây, trong vườn? Các bà đâu biết mồ trống là dấu chỉ của vui mừng, hy vọng đoàn tụ, tình thương và là dấu chỉ của Phục Sinh.
Vui mừng đoàn tụ
Trên đường ra mộ các bà hỏi nhau
‘Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mồ dùm ta đây? (Mc 16,8)
Tâm hồn các bà cũng nặng trĩu như tảng đá ngàn cân đè nặng tâm tư. Khi ngước mắt nhìn lên các bà thấy tảng đá đã lăn sang một bên. Hốt hoảng, lo sợ trong phút chốc rồi niềm vui chan hoà tràn ngập khi nghe đến đoàn tụ. Chính Đức Kitô chọn địa điểm đoàn tụ. Hãy đi nói với anh em ta và hẹn gặp nhau tại Galilê. ”Các ông sẽ được thấy Người như Người đã nói với các ông” Mc 16, 8.
Gặp Đức Kitô phục sinh lòng tràn ngập niềm vui, lo lắng, phiền muộn tan biến. Tảng đá ngàn cân biến khỏi tấm lòng u uẩn, sầu thương. Thay vào đó là niềm vui hoan lạc, hạnh phúc tràn trề, hy vọng cao vời.
Dấu chỉ của hy vọng
Đang lúc các bà lo lắng, sợ hãi, cúi gầm mặt xuống lệ ngắn, lệ dài sứ thần Chúa nói: ‘Sao các bà lại tìm người sống ở giữa kẻ chết? Người không còn đây nữa, nhưng đã sống lại rồi. Hãy nhớ lại điều Người đã nói với các bà hồi còn ở Galilê là Con Người phải bị nộp vào tay phường tội lỗi, và bị đóng đinh vào thập giá, rồi ngày thứ ba sống lại’ Lc 24, 5-7
Mồ trống là dấu chỉ của hy vọng. Mồ trống Đức Kitô làm tròn lời hứa xưa với các môn đệ. Mồ trống gợi nhớ điều Chúa nói trước đây.
Dấu chỉ của Phục Sinh
Trên đường đi Em mau các tông đồ không nhận biết Chúa khi Ngài đi đường đàm đạo với các ông về những sự kiện mới xảy ra trong mấy ngày qua. Mãi cho đến khi Chúa bẻ bánh các ông mới nhận ra Ngài.
‘Khi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ. Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người nhưng Người lại biến mất’ Lc 24,32
Mồ trống giúp các tông đồ sáng mắt, nhận ra Ngài lúc bẻ bánh. Các tông đồ nhận biết Chúa đã sống lại. Chính điều này đổi mới các ông, đổi mới cách suy nghĩ, cách sống và niềm tin. Biến các ông thành con người mới, người của thời đại hậu Phục Sinh.
(Suy niệm của Lm. Hồ Bặc Xái)
- Dẫn vào Thánh lễ
“Chúa đã sống lại rồi”, đó là tiếng hô vui mừng của Phêrô, của Gioan, của Phaolô và của mọi thế hệ kitô hữu. Đó là niềm tin của Giáo Hội. Cho dù cuộc sống có muôn vàn khó khăn và ai cũng phải chết, nhưng cái chết không phải là tiếng nói cuối cùng, bởi vì sau khi chết là sống lại, và ai chết trong Chúa thì sẽ được sống lại với Ngài. Trong Thánh lễ này, xin Chúa cho chúng ta càng ngày càng xác tín hơn về điều ấy.
- Gợi ý sám hối
- Vì chưa xác tín vào việc sống lại nên chúng ta sống như mục đích của cuộc đời chỉ là ở thế gian này.
- Vì chưa xác tín vào việc sống lại nên khi gặp gian nan thử thách, chúng ta ngã lòng, thất vọng.
- Cuộc sống chúng ta chưa là một bằng chứng trước mặt người thế về niềm tin có sự sống lại.
III. Lời Chúa
- Bài đọc I: Cv 10,34.37-43
Lời rao giảng này của Phêrô được các nhà Thánh Kinh gọi là Kerygma, tức là bài giảng truyền giáo. Lần đầu tiên ngõ lời với một nhóm thính giả mới, các tông đồ luôn giảng Kerygma.
Mỗi Kerygma, cho dù có khác nhau trong những chi tiết phụ, nhưng luôn gồm những yếu tố chính về Đức Giêsu: a/ Tóm tắt cuộc sống trần thế của Đức Giêsu; b/ Cái chết của Ngài; c/ Việc Ngài sống lại; d/ Kêu gọi tin vào Ngài để được cứu độ.
Tin vào nội dung Kerygma là bước đầu tiên và là điều quan trọng cơ bản để trở thành Kitô hữu.
- Đáp ca: Tv 117
Thánh vịnh này là tâm tình của người đã cảm nghiệm được tình thương và quyền năng của Thiên Chúa. Quyền năng và tình thương ấy đã chiến thắng tất cả, cho dù là khổ đau, là chết chóc. Tác giả muốn sống mãi để có thể ca tụng Thiên Chúa đến muôn đời.
- Bài Tin Mừng: Ga 20,1-9
Những chi tiết quan trọng nhất của bài tường thuật này là ngôi mồ trống và 3 phản ứng trước hiện tượng ấy.
- Maria Mađalêna nghĩ rằng “Người ta đã lấy mất Chúa rồi”. Bà hoang mang chạy đi báo tin “chẳng lành” ấy cho các tông đồ khác. Phải chờ đến khi Đức Giêsu phục sinh hiện ra với bà thì bà mới tin Ngài sống lại.
- Phêrô nhìn thấy những hiện tượng nhưng chưa có phản ứng nào cả.
- “Người môn đệ kia” khi thấy thì nhớ lại những lời Đức Giêsu đã nói trước nên đã tin ngay.
- Bài đọc II: Cl 3,1-4
Thánh Phaolô dạy cách sống của người thực sự tin vào việc Đức Giêsu sống lại:
Kitô hữu là người đã chết với Đức Giêsu và sống lại với Ngài.
Hãy tìm kiếm những gì thuộc về thượng giới.
Hãy hướng lòng trí về những gì thuộc về thượng giới.
- Gợi ý giảng
* 1. Hai cách nhìn
Trước ngôi mồ trống của Đức Giêsu, có hai cái nhìn, dẫn đến hai cái thấy khác nhau:
– Cái nhìn của bà Maria Magdala là cai nhìn tự nhiên, bị ảnh hưởng bởi tình cảm: chỉ mới nhìn tảng đá đã lăn khỏi mộ, tình cảm của bà bị tác động ngay khiến bà không còn thấy thêm điều gì khác mà chỉ nghĩ đến tình huống xấu nhất: “Người ta đã đem Chúa ra khoi mộ!” Cái nhìn tình cảm này không giúp thấy được sự thật mà chỉ làm cho bà buồn rầu, lo lắng, khóc lóc.
– Cái nhìn của người môn đệ Chúa yêu được đức tin hướng dẫn: Ông nghe nói tảng đá đã lăn khỏi mộ, ông chạy đến nơi để xem và xem xét rất kỹ. Ông cúi xuống nhìn vào trong, quan sát những tấm khăn liệm và dừng lại để suy nghĩ. Rồi ông nhớ lại những lời Thánh Kinh mà Đức Giêsu đã dạy. Cái nhìn này giúp ông thấy được sự thật: Đức Giêsu đã sống lại. Cái nhìn đức tin này đem lại cho ông niềm vui: “Ông đã thấy và đã tin”.
***
Có thể so sánh cái nhìn đức tin giống như người ta nhìn các sự vật trong đêm tối bằng ánh sáng của tia hồng ngoại, nên có thể thấy được những điều mà mắt thường không trông thấy.
Theo định nghĩa, “Tín hữu” là người tin. Vì thế tín hữu vừa có cái nhìn tự nhiên như mọi người, vừa phải có cái nhìn đức tin. Ai biết nhìn sự việc bằng đức tin thì sẽ thay mọi sự rất thanh thản và lạc quan.
Chẳng hạn Thánh Phaolô trong lúc đang ngồi tù và sắp bị đem ra xử, ông nghĩ đến hai tình huống có thể xảy ra: một là bị xử tử, hai là được tự do. Bằng cái nhìn đức tin, ông đã thấy song hay chết đều tốt cả: “Đối với tôi, sống là Đức Kitô và chết là một mối lợi” (Pl 1,21). Còn thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu sau khi đã nhìn lại mọi sự việc xảy đến trong đời mình bằng cặp mắt đức tin, đã kết luận “Tất cả là hồng ân”.
Đức Giêsu phục sinh đã chiếu một luồng sáng mới lên tất cả mọi sự. Thiết tưởng, việc đầu tiên mà chúng ta cần cố gắng và cũng là ơn đầu tiên mà chúng ta cần xin trong mùa Phục sinh là biết nhìn mọi sự bằng cặp mắt đức tin. Có như thế, trong tất cả mọi sự chúng ta mới đều có thể lạc quan cất lên tiếng hát đặc trưng của Mùa Phụng vụ này: Halleluia!
* 2. Tin là thế nào?
Đức tin của các tín hữu thường chỉ có một chiều kích, đó là chiều kích của trí óc: tin có Thiên Chúa; tin rằng Ngài đã tạo dựng mọi sự, Ngài biết mọi sự và điều hành mọi sự.
Đức tin của các tín hữu thường hướng tới đời sau: tin rằng mình sẽ được ở với Thiên Chúa sau khi từ giã cõi đời này.
Lời Chúa trong Thánh lễ hôm nay buộc ta phải điều chỉnh lại đức tin ấy: phải có thêm chiều kích hiện sinh nữa: Không chỉ tin bằng trí óc mà còn bằng cả cuộc sống. Không chỉ nhắm tới cuộc song mai sau, mà phải nghĩ tới cuộc sống hiện tại. Thánh Phaolô dạy: “Sự sống mới của anh em hiện đang tiềm tàng với Đức Kitô”.
* 3. Làm chứng là thế nào?
Chỉ có các tông đồ là những “chứng nhân” đúng nghĩa: các ngài đã cùng sống với Đức Giêsu, đã thấy Ngài chết và thấy Ngài sống lại. Việc làm chứng của các ngài dựa trên điều các ngài đã thấy.
Nhưng lời chứng xuất phát từ cảm nghiệm cũng có giá trị, nhiều khi lại còn có sức thuyết phục hơn. Chúng ta có thể làm chứng cho Đức Giêsu phục sinh theo cách thứ hai này: sống làm sao cho người ta biết chúng ta đang sống một cuộc sống mới, chúng ta hạnh phúc, chúng ta tự do, chúng ta vui mừng trong cuộc sống mới đó, và trong bất cứ hoàn cảnh nào lòng chúng ta cũng tràn trề hy vọng.
* 4. Tâm thức kiêu căng của kẻ chiến thắng
Nhiều người trách rằng những người công giáo có tâm thức kiêu căng vì nghĩ rằng mình là kẻ chiến thang, kẻ mạnh, kẻ giỏi hơn người… Tiếng pháp là “triomphalisme”. Thực ra, chúng ta có tâm thức đó không? Và xét cho cùng, nên có tâm thức đó không?
Chúng ta xác tín rằng chúng ta có một chỗ dựa vô cùng vững chắc là Đức Giêsu phục sinh, và cũng xác tín rằng nếu có Ngài phù trợ thì chúng ta sẽ vượt thắng tất cả. Những câu đáp ca hôm nay trích từ Thánh vịnh 117 tuyên bố niềm xác tín đó: “Tay hữu Chúa đã ra oai thần lực, tay hữu Chúa cao cả vô song. Tôi không phải chết nhưng còn sống mãi, để tường thuật những kỳ công Chúa làm”.
Thế nhưng, chúng ta không nên kiêu căng, cũng không nên khinh chê những người khác không có được niềm xác tín của chúng ta. Đúng hơn, chúng ta cần làm chứng cho họ và chia xẻ với họ niềm xác tín ấy, một niềm xác tín vẫn giúp con người lạc quan hy vọng cho dù đang ở giữa bao khổ đau, thất bại, bệnh tật và thậm chí sắp chết.
* 5. Mộ mở toang
Gioan “cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó… Ông đã thấy và đã tin. “
Nhưng ông thấy gì? Chẳng thấy gì hết. Có gì đâu mà thấy. Tuy vậy điều ông thấy đã dẫn ông tới chỗ tin.
Ta hãy nghiêng mình xuống như Gioan. Ta thấy gì? Một hố sâu thăm thẳm, đầy màu trắng. Một sự trống rỗng mênh mông dâng đầy mầm sống. Cờ tang khăn tang chuyển biến thành y phục ánh sáng. Một sự vắng mặt vang dội sự có mặt. Một sự im lặng của nấm mồ nói nhiều hơn mọi bài diễn văn. Một bức tường mà ta chỉ thấy được phần bị khoét lỗ. Một kết quả của tất cả mang dáng dấp khởi đầu. Một cái chết có bộ mặt một cuộc giáng sinh. Mầu nhiệm mà ta khám phá ra bí mật.
Vậy ai đã tạo ra ngôi mộ trống. Ngôi mộ đâu có trống. Vì Gioan đã thấy chân dung thực sự của Đức Giêsu, bạn ngài.
Ngôi mộ không trống, không sâu, không câm nín, không vương mùi chết chóc. Ngôi mộ nói. Nó sẽ nói. Hôm nay nó còn nói với ta. Ta có bị cụt hứng không? Vì sự vắng mặt này, lớn như một nấm mồ, chính là một sự hiện diện, vĩ đại như một phép lạ.
Dưới nhãn quan của não trạng hiện đại, đã thấm nhiễm vào ta, chết là hết. Chấm hết. Chết rồi chẳng còn gì ráo. Chẳng còn gì ngoài đêm đen. Chẳng còn gì ngoài trống rỗng và hư vô. Cái chết khép lại tất cả. Cái chết chôn kín đời ta.
Nhưng ở đây cái chết mở ra. Ngôi mộ của Người đã mở ra. Mở ra một mầu nhiem lớn lao. Một mầu nhiệm loan báo sự sống. Mầu nhiệm mang tên chỗi dậy. Phục sinh.
Ngôi mộ mở lòng mở trí ta. Ký ức sống và sống lại. Ta mở hồn ra với đức tin. Sau cùng ta hiểu rằng Đức Giêsu đã vượt qua bức tường sự chết, đã nâng phiến đá che mộ, đã hoàn thành Phục sinh báo trước. (G. Boucher, “Le ciel sur terre”, được trích trong Fiches dominicales, năm A, trang 122-123).
* 6. Tin mừng Phục sinh
Bà Regina Riley hằng cầu nguyện cho hai cậu con trai đã xa rời đức tin nhiều năm. Bỗng một sáng Chúa Nhật, bà không thể tin vào mắt mình, hai đứa con bước vào nhà thờ ngồi ghế đối diện với bà. Tan lễ, bà liền hỏi lý do nào khiến các con trở về với Chúa. Đứa con nhỏ mau mắn kể lại:
Thời gian nghỉ hè tại Colorado, vào một sáng Chúa Nhật, chúng con đang lái xe thả dốc trong cơn mưa tầm tã. Bỗng nhiên, một cụ già không dù che, người ướt sũng đang vội vã bước đi, dáng điệu khập khiễng. Chung con dừng lại mời cụ lên xe, mới được biết cụ đang đi lễ, đến một nhà thờ cách đó 5 cây số. Chúng con liền đưa cụ đến dự lễ. Nhưng vì trời vẫn mưa nên hai anh em quyết định vào xem lễ rồi cùng đón cụ về. Lạ thay, sau khi lắng nghe Lời Chúa chúng con rất xúc động, tâm hồn như được đổi mới hoàn toàn. Mẹ biết không, lúc bấy giờ chúng con như được trở về nhà sau một chuyến đi dài đầy mệt mỏi.
***
Câu chuyện hai anh em gặp gỡ cụ già xa lạ sẽ minh họa cho chúng ta bài Tin mừng Phục sinh hôm nay.
Bà Maria Macđala, bà Maria mẹ ông Giacôbê, và bà Salômê là ba phụ nữ nhân đức từng theo giúp Đức Giêsu và các môn đệ. Các bà đã từng được Thầy Giêsu dạy dỗ, yeu thương. Nhưng giông tố kinh hoàng của chiều thứ Sáu Tuần Thánh đã cướp đi người Thầy rất đáng kính yêu của họ. Giờ đây, Thầy đã nằm yên trong mộ đá. Còn lại gì? hay chỉ còn bao kỷ niệm thân thương và nước mắt. Để vơi đi nỗi sầu, các bà chỉ biết mua dầu thơm về ướp xác Thầy. Nhưng “Ai sẽ lăn dùm tảng đá ra cho chúng ta?” (Mc.16,3).
Kinh ngạc thay, khi đến nơi, các bà đã thấy tảng đá được lăn ra một bên, và xác Thầy cũng không còn nữa. Chỉ còn đó sứ thần chờ để loan báo Tin mừng: “Đấng bị đóng đinh đã sống lại rồi, Người hẹn gặp lại các môn đệ tại Galilê” (x. Mc.16,7). Từ ngôi mộ trống, nơi tối tăm và chết chóc, sự sống đã bừng lên.
Hai anh em trong câu chuyện trên cũng đã một thời tin theo Chúa. Nhưng giông tố của thời niên thiếu đến, đã cướp đi bao kỷ niệm đạo đức thuở ấu thơ. Thế rồi, cụ già đã xuất hiện loan báo một Tin mừng, không phải bằng lời mà bằng gương sáng đạo đức: “Thầy Giêsu hẹn gặp lại các con nơi thánh đường”.
Tin mừng chính là: Hễ có giông tố của chiều Thứ Sáu Tuần Thánh, thì cũng có bình an của sáng Chúa Nhật Phục sinh.
Tin mừng chính là: Hễ có bình an là có niem hy vọng, có trở về và có đổi mới.
Tin mừng chính là: Nếu ta cùng chết với Đức Kitô, ta sẽ cùng được sống lại với Người.
Tin mừng chính là: Nếu có tình yêu quằn quại trên thập giá, thì cũng có tình yêu rạng rỡ sáng Phục sinh.
***
Lạy Chúa,
Xin cho chúng con, luôn xác tín rằng:
Mỗi lần chúng con trở về sau những lầm lỗi,
là chúng con đang phục sinh với Chúa.
Mỗi lần chúng con tin tưởng sau những lần phản bội
niềm tin, là chúng con đang sống lại với Người.
Mỗi lần chúng con tiếp tục cố gắng sau những lần
thất bại đắng cay, là chúng con đang ra khỏi mồ trống.
Xin giúp chúng con biết mở rộng tâm hồn
để đón nhận ân sủng Phục sinh của Chúa. Amen. (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)
- Lời nguyện cho mọi người
(Như Lễ Đêm)
Chủ tế: Anh chị em thân mến, hôm nay toàn thể Hội thánh long trọng mừng Đức Giêsu Kitô sống lại vì đó là nền tảng cho niềm tin của Hội thánh, là nền tảng cho Tin mừng Người loan báo. Chúng ta hãy phấn khởi dâng lên Chúa những lời cầu nguyện sau đây:
- Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mọi người trong Hội thánh / đã được chết cho tội lỗi và sống lại trong Đức Kitô nhờ Bí tích Thanh tẩy / biết mau mắn từ bỏ tội ác / và sống theo đời sống mới của con cái Thiên Chúa.
- Chúng ta cầu xin Chúa cho những người không tin Chúa, chống lại Chúa và sống trong tình trạng tội lỗi / biết mở lòng mở trí đón nhận ánh sáng của Chúa Phục sinh / để tìm được chân lý và hy vọng cho đời mình.
- Chúng ta cầu xin Chúa cho những người đang sống trong nghèo đói, thất nghiệp không nhà không cửa / gặp được nhiều người giúp đỡ ủi an / và nhan ra Đức Giêsu là đã chết và sống lại vì yêu thương họ.
- Chúng ta cầu xin Chúa cho anh chị em giáo hữu trong họ đạo chúng ta / biết dùng lời nói và việc làm để làm chứng về Đức Giêsu Phục sinh / cho những người lương dan sống chung quanh chúng ta.
CT: Lạy Đức Giêsu, chúng con cảm tạ Chúa đã đem niềm vui phục sinh đến cho chúng con hôm nay, xin cho chúng con biết chia sẻ niềm vui và niềm tin ấy cho mọi người chúng con gặp để tất cả được chung hưởng niềm vui của con cái Chúa. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
- Trong Thánh lễ
– Trước kinh Lạy Cha: Đức Giêsu phục sinh đã thiết lập cơ sở vững chắc cho Nước Thiên Chúa. Chúng ta hãy cầu xin cho Nước ay được mở rộng khắp nơi, trong lòng mọi người.
– Sau kinh Lạy Cha: “… xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an, sự bình an mà Đức Giêsu phục sinh đã ban cho các môn đệ. Nhờ Cha rộng lòng thương cứu giúp, chúng con trở thành những con người mới, sẽ luôn luôn thoát khỏi tội lỗi và được an toàn khỏi mọi biến loạn…”
– Trước khi rước lễ: “Đây Chiên Thiên Chúa… phúc cho ai được mời đến dự tiệc của Đức Giêsu phục sinh, Đấng ban cho chúng ta một sự sống mới”.
VII. Giải tán
Đức Kitô đã sống lại và đang sống mãi. Ngài sống trong cuộc đời chúng ta và trong thế giới này. Chúng ta hãy làm những chứng nhân nhiệt tình cho Ngài, mang niềm vui và an bình đến cho mọi người. Halleluia, Halleluia.
77. Chúa Giêsu phải từ cõi chết sống lại.
(Suy niệm của Yvon Daigneault)
Mở đầu.
Bất chấp những bài hát, những lời tung hô và những bài giảng tuyên bố Chúa Giêsu đã sống lại, mầu nhiệm này vẫn hoàn toàn là mầu nhiệm đối với chúng ta và nó mãi mãi là mầu nhiệm cho đến tận cùng, cho đến khi chúng ta được hưởng kiến Thiên Chúa cùng với Chúa Kitô Phục Sinh. Vì vậy Tin Mừng mà chúng ta vừa mới đọc có một tầm quan trọng đặc biệt. Với một khoa tâm lý sâu sắc bài Tin Mừng này cho thấy nỗi bàng hoàng của các môn đệ sau cái chết của Chúa Giêsu – “người ta đã lấy Chúa khỏi mồ, và chúng tôi không biết họ đat Ngài ở đâu”, và nó mời gọi chúng ta phải có một thái độ đúng đắn, thái độ chính yếu mà Chúa chờ mong, đó là đức tin, – “ông đã thấy và đã tin”.
Sự Phục Sinh.
Người ta thường hay nói về sự Phục Sinh trong nhiều trường hợp: thiên nhiên sống lại; một người được đưa đến bệnh viện đã hoàn sinh trở về. Người ta muốn làm sống lại những truyền thống dân gian hoặc những thói quen tốt đã bị mai một, tất cả những gì đã bị thời gian làm cho muc nát tiêu tan.
Tất cả những điều đó chẳng liên quan gì đến sự Phục Sinh của Chúa Giêsu cả. Trong những thí dụ trên đây, đó chỉ là việc trở lui về quá khứ, tìm lại cái đã mất mà thôi. Chúa Giêsu không bắt đầu lại cuoc sống của Ngài như trước kia. Không thể nào nghĩ rằng Chúa Giêsu tìm lại những con đường xứ Palestine, những đóm lửa ven bờ hồ, những cuộc gặp gỡ trên đường, hoặc Ngài tiếp tục sứ vụ của mình trước đây, như thể cuộc tư nạn chỉ là một sự cắt đứt bất hạnh và tạm thời thôi.
Chúa Kitô đã chết thật sự. Điều này không chỉ có nghĩa là kết thúc tất cả mạng lưới tương quan, công việc và dự tính, như cái chết của mọi con người.
Chúa Kitô đã Phục Sinh. Không có nghĩa là Chúa Kitô tìm lại được sự sống sinh học và những sinh hoạt của Ngài trước kia, nhưng là Thiên Chúa ban cho Ngài một cuộc sống hoàn toàn mới mẻ trong một cách hiện hữu tuyệt đối mới mẻ mà nhân tính của Ngài tham gia trọn vẹn. Chúa Giêsu Phục Sinh hiệp thông hoàn toàn với chính cuộc sống của Thiên Chúa, với Ánh Sáng của Thiên Chúa, với Quyền Năng của Thiên Chúa, mà vẫn không ngừng đời đời là chính mình vơi thân xác của Ngài đã trở nên thần thiêng, và với tất cả những gì thuộc về thân xác: những mối dây thân ái, những kinh nghiệm đã có được, những bài học của một cuộc đời và cả những thử thách, những tương quan, nhưng ký ức…
Mầu nhiệm Đức Tin.
Khi chúng ta tuyên xưng đức tin: “Chúa Kitô đã Phục Sinh!”. Chúng ta khẳng định rằng giờ đây Ngài tràn đầy sự sống của Thiên Chúa và tất cả những gì liên kết Ngài với chúng ta, thay vì kết thúc, đã được thể hiện cách sung mãn. Vì vậy chúng ta đã tuyên bố rằng cả chúng ta nữa, vì thuộc về Chúa Kitô, chúng ta sẽ phục sinh với Ngài để dự phần vào vinh quang của Ngài.
Phục Sinh không phải là một kỷ niệm đẹp nhưng là biến cố luôn luôn hiện tại và hậu quả của nó liên lỉ được thấy rõ trên thế giới này, nhất là trong việc thông ban Thánh Thần, Đấng mà Chúa Cha và Chúa Con ban cho các môn đệ để biến đổi các ông và biến đổi thế giới này.
Phục Sinh là biến cố phải được biết, đón nhận và sống trong đức tin. Đức tin không phải là nhắm mắt mà nói “đúng thế” mặc dù tôi không hiểu gì hết, nhưng là tin tưởng vào Thiên Chúa, Đấng thực hiện biến cố này và khẳng định nó nhờ chứng tá của Thần khí Ngài.
Kết luận.
Đón nhận biến cố Phục Sinh với niềm tin, tức là tin tưởng vào Thiên Chúa Đấng đã mặc khải biến cố này trước hết cho các tông đồ, và sau đó cho chúng ta, qua các ngài. Nếu đối với các ngài mồ có vẻ trống, thì từ ngày ấy nó còn trống hơn nữa và không nơi nào từ hai ngàn năm qua người ta đã nhìn thấy Chúa Kitô trên trần thế này, nhưng Quyền Năng của Chúa Kitô hằng sống vẫn không ngớt biểu lộ.
Tại một nghĩa trang bên Đức, có mội ngôi mộ rất được chú ý, đó là ngôi mộ được làm bằng đá hoa cương, bên dưới đúc xi măng cột sắt rất kiên cố. Ngôi mộ được nhiều người chú ý vì đó là ngôi mộ của một người đàn bà giàu có. Trong chúc thư, bà yêu cầu người ta xây cho bà một ngôi mộ kiên cố, để nếu có sự sống lại của người chết, thì bà vẫn nằm yên dưới mộ. Trên mộ, bà ta xin đươc ghi: “Đây là ngôi mộ sẽ không bao giờ mở ra”.
Thời gian trôi qua, ngôi mộ xem ra vẫn kiên cố. Thế nhưng một hôm có một hạt giống rơi vào khe đá của ngôi mộ, gặp đất bên dưới, nó bắt đầu nẩy mầm, lớn lên thành cây, rễ của nó đâm xuyên qua ngôi mộ để rồi cuối cùng làm cho quan tài của người đàn bà vỡ ra.
Câu truyện trên đây có thể là một dụ ngôn về tình yêu vô bờ của Thiên Chúa đối với con người, khi Ngài cho Đức Kitô sống lai từ cõi chết để mở lối cho con người vào sự sống vĩnh cửu với Ngài. Con người có thể chối bỏ và khước từ Thiên Chúa, nhưng với muôn ngàn cách thế mà con người khôn lường được, Thiên Chúa vẫn tiếp tục theo đuổi con người. Con người tưởng mình có thể lẩn trốn được Thiên Chúa, nhưng khi một hạt giống nhỏ bé, tình yêu của Ngài vẫn tiếp tục len lỏi vào tâm hồn của con người. Thiên Chúa là Chúa của sự sống. Vinh quang, danh dự và niềm vui của ngài là con người được sống. Cho dù con người có loại bỏ Thiên Chúa để đi tìm cái chết, ngài vẫn đeo duổi và chờ đợi con người.
Anh chị em thân mến,
Chúa Giêsu đi vào cõi chết của con người. Người ta đã chôn ngài trong mộ đá. Nhưng rồi sang ngày thứ nhất trong tuần, người ta không thấy xác Ngài ở đó nữa. Bà Maria Mađalêna ra thăm mộ đã hoảng hốt kêu lên: “Người ta đã lấy mất xác thầy rồi!” Hai môn đệ Phêrô và Gioan chạy ra mộ kiểm chứng. Hai ông thấy ngôi mộ mở toang. Nhì vào trong thấy khăn liệm còn đó, nhưng xác Ngài đã biến mất. Phêrô im lặng suy nghĩ, còn Gioan, người môn đệ Chúa yêu đã thấy và đã tin: “Đúng như Thầy đã nói, Thầy đã sống lại thật rồi”.
Thưa anh chị em,
Tất cả khởi đầu với ngôi mộ trống. Nhưng nếu chỉ có ngôi mộ trống mà thôi thì cũng chẳng làm nên chuyện. Câu chuyện chỉ thực sự có ý nghĩa khi nó có nội dung, và nội dung ở đây là: “Ngài không còn ở trong mộ nữa, vì Ngài đã sống lại như Ngài đã nói”. Từ ngôi mộ ấy đã bật lên sự sống. Đó là niềm tin của chúng ta. Cả cuộc đời Kitô hữu là những cuộc mai táng liên tục, nhưng caí chết và từ bỏ liên tuc. Đừng sợ những ngôi mộ. Đừng sợ chôn đi điều phải chôn, mất đi điều phải mất. Đừng sợ bị thối rữa hay bị tảng đá to che chặt đời mình. Ước gì mọi ngôi mộ của chúng ta cũng giống như ngôi mộ của Chúa Giêsu: bị mở tung để sự sống bừng dậy.
Nếu Chúa Kitô đã không sống lại, thì mọi sự sẽ vẫn như cũ: sự sống có nghĩa lý gì, nếu bao giờ nó cũng kết liễu bằng cái chết như một trái thúi rơi nát dưới gốc cây? Con người có nghĩa là gì, neu mọi cố gắng đạt hạnh phúc chỉ bảo tồn được ảo tưởng của hạnh phúc, của những hạnh phúc luôn bị cái chết đe dọa từ bên trong? Tình yêu có nghĩa là gì, nếu mọi cú sét ái tình sẽ tắt nghẽn trên nấm mộ phân ly? Sống mà giả quên sự chết hiện diện khắp nơi, phải chăng là một trò chơi không xứng với một con người? Trò chơi của cuộc sống ấy sẽ phi lý và thất vọng, nếu Chúa Kitô đã không sống lại.
Thánh Phaolô đã nói: Nếu Chúa Kitô đã không sống lại, thì chúng ta là những người vô phúc nhất, ngu đần nhất, vì chúng ta đặt tin tưởng vào một chuyện hão huyền. Nếu Chúa Kitô đã không sống lại thì chúng ta vẫn còn mang tội lỗi ở trong mình và không ai giải cứu được chúng ta, không ai đem chúng ta đến gặp Thiên Chúa được. Nếu Chúa Kitô không sống lại, thì thập giá chỉ là dấu hiệu của nhục nhã, đau khổ của con người sẽ không có lối thoát và cái chết của con người sẽ la đường cùng, là ngõ cụt. (x. 1Cr 15,12tt)
Nhưng, Chúa Kitô đã sống lại thật rồi. Ngài đã đem theo những đau khổ của loài người qua bên kia bờ tuyệt vọng. Ngài đã làm cho những quằn quại đau thương của người sắp bị cái chết tiêu diệt, nhưng là nỗi đau của người mẹ đang sinh con, nỗi đau sẽ phát sinh sự sống mới, một niềm vui mới. Ngài đã làm cho cuộc sống trần gian không còn là một ảo tưởng, nhưng là một phản ảnh và là con đường đưa tới cuộc sống vĩnh cửu.
Đức Kitô đã sống lại: Từ nay thập giá không còn là dấu hiệu của nhục nhã, nhưng là dấu hiệu của vinh quang. Chúa Kitô đã sống lại, cái chết của con người không còn là đường cùng, là ngõ cụt, vì ánh sáng của Chúa Kitô đã bừng lên trong đêm tối, đã chiếu sáng ở cuối con đường hầm. Chúa Kitô đã sống lại, niềm hy vọng Phục Sinh của thân xác chúng ta không phải là hão huyền, vì Ngài đang ngự bên hữu Thiên Chúa, Ngai đang điều khiển giòng lịch sử và khi Ngài xuất hiện trong vinh quang, thì chúng ta cũng được xuất hiện trong vinh quan cùng với Ngài.
Chúa Kitô là người chiến thắng chung quyết trên đau khổ, tội lỗi và sự chết. Trong Ngài, mỗi người và cả nhân loại, quá khứ, hiện tại và tương lai đều phải chết và đã sống lại. Không còn người nào, không còn một tội nào, không còn một giây phút nào của cuộc sống chúng ta thoát khỏi cuộc chiến thắng cua Chúa Kitô. Không có gì nằm ở ngoài cuộc cứu độ mà Chúa Kitô đã vĩnh viễn hoàn thành. Ngài là Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại.
Anh chị em thân mến,
Chúa Kitô đã Phục Sinh, Ngài đang sống trong vinh quang của Chúa Cha. Chính vì chúng ta tin rằng chúng ta đã được Phục Sinh trong Chúa Kitô và sau này sẽ được Phục Sinh như Ngài, nên chúng ta đón nhận cuộc đời, kể cả đau khổ và cái chết, một cách tích cực, chủ động và vui tươi. Đau khổ khong còn phi lý nữa, bởi vì thập giá đã được đưa vào vinh quang Phục Sinh. Không còn gì là tuyệt đối bi đát, tuyệt đối hư hỏng, vì từ cái chết, Thiên Chúa đã làm phát sinh sự sống trong Chúa Kitô. Nếu chúng ta đã tin vào sự Phục Sinh, vào chiến thắng chung quyết của Chúa Kitô, thì chúng ta sẽ không còn lo âu buồn phiền, không còn sống ích kỷ hẹp hòi, mà dám từ bỏ, hy sinh, xả thân, liều mạng vì sự sống và hạnh phúc của mọi người. Phục Sinh không chỉ nhằm ngày mai, nhằm bên kia thế giới, nhằm thiên đàng đã được hứa ban. Phục Sinh cũng nhằm và còn nhằm hôm nay, nhằm chính cuộc sống cụ thể của chúng ta.
Chúng ta có thể thực hiện trước kỳ hạn lễ Vượt Qua của chúng ta trên miền đất chúng ta đang sống hằng ngày bằng cách sống cho tình yêu, chết vì tình yêu: yêu Chúa, yêu anh em, yêu quê hương, yêu đồng bào, đó phải là chương trình mới của cuộc sống vượt qua của chúng ta ở cõi đời này: chương trình Phục Sinh.
“Theo Kinh Thánh, Đức Giêsu phải chỗi dậy từ cõi chết”. (Ga 20, 9)
Chúng ta đã theo Chúa Giêsu đi vào tuần thương khó mà đỉnh cao là chứng kiến chính Chúa Giêsu đã chết trên thập giá. Hôm nay chúng ta hoan hỉ mừng biến cố Chúa Giêsu phục sinh.
Hoà cùng với niềm vui cùng đất trời, chúng ta sẽ được dẫn vào một luồng sáng mới. Luồng sáng này sẽ dẫn chúng ta ra khỏi tăm tối, đau khổ, chết chóc và chúng ta sẽ không còn đi trong bóng tối nữa vì ánh sáng đã đẩy lùi bóng tối sự chết qua một bên, giờ đây chỉ còn lại ánh sáng đem lại sự sống đó là Chúa Kitô, Ngài đã sống lại để đem lại sự sống đời đời cho chúng ta.
Bài phúc âm hôm nay (Ga 20, 1-9), Thánh Gioan đã mô tả hành trình đức tin của ba nhân vật: Maria Mađalêna, Phêrô và Gioan. Cả ba nhân vật trong phúc âm đều có hành động là “chạy”. Trước tiên là bà Maria Mađalêna, bà là người đầu tiên “chạy” ra mồ và đã khám phá ra ngôi mộ trống. Khi thấy ngôi mộ trống, bà không hiểu ai đã “lấy cắp” xác Chúa cho nên bà liền “chạy” về báo tin cho hai môn đệ Phêrô và Gioan. Tiếp sau đo, hai ông cũng “chạy” ra mồ và đã thấy sự việc như lời của bà Maria vừa thuật lại. Vậy, họ “chạy” để tìm cái gì? Mục đích của họ “chạy” là để tìm Chúa. Đây là cuộc hành trình của Đức tin mà Chúa đã sắp đặt những dấu chỉ để giúp họ tìm. Những dấu chỉ mà trong Tin Mừng nhắc đến là ngôi mộ trống, những khăn vải liệm được xếp gọn… Qua đó cũng cho chúng ta thấy được lòng tin của họ, khi hai môn đệ “chạy” ra mồ và đã tới thì chỉ có một môn đệ tuy đến sau nhưng ông đã thấy và đã tin như trong Tin Mừng có nói “Theo Kinh thánh, Đức Giêsu phải chỗi dậy từ cõi chết”(Ga 20, 9). Thực ra, Chúa Giêsu đã nói nhiều lần trong kinh thánh là việc Chúa chịu chết và song lại nhưng các ông vẫn chưa hiểu. Và hôm nay, Thánh Gioan đã hiểu Lời Chúa đã tiên báo: Chúa Giêsu đã sống lại và về cùng Thiên Chúa, cũng có nghĩa là Chúa chịu chết trên thập giá, đã chịu mai táng trong mồ và Ngài đã sống lại.
Đối với mỗi người chúng ta, chúng ta biết rằng trong cuộc sống đời thường của mình không phải duy nhất sẽ vật chất, thể xác mà còn nhắc nhở cho chúng ta sự sống Lời Chúa là sự sống về phần linh hồn. Như Chúa Giêsu đã nói “Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì được ích lợi gì” (Mc 8, 36). Có thể, trong cuộc sống nhiều lúc mọi sự xung quanh chúng ta đều chìm trong bóng tối nhưng chỉ có một tia sáng hy vọng lóe lên thì chúng ta phải làm gì? Chắc hẳn là sẽ có người nhanh chân “chạy” đến tia sáng đó, nhưng cũng có nhiều người không “chạy” tới mà chỉ biết đứng đó mà than khóc vì họ không tin, không yêu thương và không hy vọng vào ánh sáng đó sẽ cứu họ ra khỏi nơi tối tăm. Chúng ta nhớ rằng, trong cuộc sống của mỗi người không hẳn chỉ có bóng tối hoàn toàn mà vẫn còn một tia sáng đó là tia sáng của đức tin, của hy vọng và của yêu thương. Vì thế, chúng ta cần phải đặt niềm tin, niềm trông cậy, lòng mến vào Chúa để được Chúa dẫn vào ánh sáng của sự sống. Đối với tôi, cuộc sống của tôi nhiều lúc cũng gặp khó khăn, thử thách làm cho mình luôn đi trong tăm tối không con biết tin tưởng, hy vọng vào ai và cuộc sống của tôi trở nên chán nản! Tôi nghĩ cuộc sống của tôi vẫn còn một tia sáng mà bấy lâu tôi không tìm ra, cho đến ngày hôm nay tôi đã tìm ra ánh sáng đó là Lời Chúa. Vì “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho tôi bước và ánh sáng chỉ đường cho tôi đi” (Tv 118, 105). Mỗi người chúng ta hãy tìm đến Lời Chúa để lời Chúa dẫn đường cho mỗi người. Vì thế chúng ta phải có niềm tin vào Thiên Chúa vì Thiên Chua là Đấng tạo thành trời đất muôn vật hữu hình và vô hình, đó là Thiên Chúa quyền năng, Thiên Chúa thông minh và chân thật. Chúng ta cũng cần đặt niềm hy vọng, cậy vào công nghiệp của Chúa, Chúa mời gọi từ khởi sự cho đến hoàn thành. Và chúng ta cũng phải có lòng yêu mến vì Thiên Chúa là tình yêu luôn làm cho chúng ta cảm nhận tình yêu đó là thập giá. Cuộc sống mới là cuộc xây dựng trong tình yêu của mình. “Yêu thương là tha thứ tất cả, chịu đựng tất cả, hy vọng tất cả” (1Cr 13, 7).
Qua đoạn phúc âm này, chúng ta luôn ý thức tham dự thánh lễ cho sốt sắng, ý thức về giá trị Lời Chúa để Lời Chúa soi sáng cho chúng ta nhất là những ai còn ngủ mê trong tội lỗi hãy chỗi dậy để thấy vinh quang Phục Sinh của Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã sống lại và ra khỏi mồ, xin cho mỗi người chúng con biết đứng lên và trở về với Chúa sau mỗi lần vấp ngã để chúng con cũng được Phục Sinh với Chúa. Xin chiếu tỏa vinh quang của Chúa cho chúng con. Amen.
(Suy niệm của Noel Quesson)
“Alleluia! Alleluia!”
Một thời ở miền Nam này người ta đã xôn xao bàn tán về chuyện một người lính. Sau một trận đanh lớn, gia đình được giấy báo anh đã chết mất xác. Thân nhân anh đón nhận tin buồn này với tâm trạng hoảng hốt, buồn sầu. Một tang lễ lớn được cử hành với mọi thủ tục. Ba tháng sau người lính đột ngột trở về. Anh chưa chết, anh chỉ thất lạc và đã được anh em dân tộc nuôi dưỡng. Nay anh trở về. Vợ con và thân nhân anh phải mừng vui đến mức nào!
Niềm vui của các môn đệ và bạn hữu Chúa Giêsu trước Tin Mừng Chúa sống lại còn lớn lao hơn nhiều. Bao nhiêu người đi theo Chúa nghe những lời hay đẹp và mới lạ của Chúa, đặt cả tin tưởng và hy vọng vào Chúa, nhưng Chúa đã chết, chết đau khổ và nhục nhã. Mọi người được chứng kiến cái chết của Chúa, và đã an táng Chúa trong mộ được ba ngày.
Hôm nay là ngày đầu tuần. Mấy bà thân thuộc của Chúa đưa thuốc thơm ra mồ xức xác Chúa, biểu lộ cảm tình với người quá cố. Các bà vừa đi vừa lo không biết ai sẽ vần tảng đá lớn che cưa mồ ra giúp mình, nhưng khi tới nơi, các bà thấy tảng đá đã lăn ra một bên, mồ mở trống. Có một thanh niên mặc áo trắng ngồi bên phải mồ, khiến các bà hoảng sợ.
Thánh Marcô luôn chú tâm tới sự kiện. Ông diễn tả sư việc xảy ra mà không chú giải thêm gì. Ta thấy người thanh niên mặc đồ trắng, và màu trắng là màu ánh sáng, màu vinh quang. Một trang sử mới đã lật qua. Không còn mờ tối, không còn dấu ẩn. Chúng ta nghĩ tới cuộc tỏ hiện của Chúa trên núi Tabo xưa. Trong sách Khải huyền, màu trắng luôn biểu tượng cho cảnh vật trên trời. Đó cũng là điều kiện tâm hồn ta phải có để được tham dự vào vinh quang Phục Sinh của Chúa. Nhưng các bà đã hoảng sợ. Nỗi kinh sợ là dấu tỏ ra mình đang đối diện Thiên Chúa. trước khung cảnh khác lạ, hoặc đôi khi một niềm vui lớn quá cũng làm người ta hoảng sợ.
Người thanh niên bảo các bà: “Các bà đi tìm Giêsu Nagiaret, người bị đóng đinh phải không? Người đã sống lại, không còn ở đây nữa. Các bà hãy đi nói cho các môn đệ hay tin này”. Tin Mừng Chúa sống lại. Chúa đã ra khỏi mồ, mọi người phải ra đi báo Tin Mừng cho anh em. Tin Chúa sống lại cho tới nay vẫn là một mạc khải. Chúng ta còn nhớ chuyện Maria Mađala gặp Chúa Phục Sinh đã tưởng đó là bác làm vườn. Còn hai môn đệ trên đường Emau, vừa đi vừa nói chuyện với Chúa lâu giờ mà vẫn không nhận ra Người. Muốn nhan ra Chúa cần phải có tâm hồn xứng hợp sẵn sàng đón nhận Chúa. Phải được dọn dẹp bằng chính ân sủng trước khi được tiếp xúc với Chúa.
Thái độ các bà trong chuyện đã cho ta hiểu điều đó. Chúng ta đừng nghĩ mình có thể tìm ra những sự kiện rõ ràng trong Tin Mừng của Chúa. Tin Mừng luôn là một tia sáng từ trời. Chỉ những ai thành tâm, thiện ý, sẵn sàng đón nhận với tâm tình khiêm tốn mới có thể hưởng nhờ ơn Cứu độ.
Xin Chúa ban ánh sáng đức tin cho những người đang thành tâm tìm kiếm Chúa. AMEN. ALLELUIA!
Lễ Phục Sinh là một đại lễ của người Công giáo. Đây là ngày của Đức Giêsu, Người “anh” (Trưởng tử) của chúng ta đã phá tan xiềng xích của sự chết và sống lại vẻ vang từ trong nấm mồ. Đây quả thật là ngày của Chúa. Nhưng cũng là ngày của chúng ta, vì Chúa Giêsu đã chia sẻ hoa quả chiến thắng khải hoàn cho của chúng ta. Vì thế chúng ta hãy mở lòng mình ra để đón nhận niềm vui của ngày đại lễ này.
Bài Tin Mừng tường thuật cho chúng ta về việc Maria Macdala khám phá ra ngôi mộ trống với những mãnh vải liệm bề bộn còn đó. Điều này tự nó chưa phải là bằng chứng xác thực về sự Phục Sinh. Tuy nhiên, đây là những dấu chỉ gợi mở để dẫn ta đến một niềm tin mạnh mẽ rằng: Đức Giêsu đã thoát khỏi sự ràng buộc của của tử thần và chuẩn bị cho các môn đệ đón nhận Chúa Phục Sinh.
Chúng ta không thể hiểu hết được niềm vui lớn lao của Đức Giêsu Phục sinh nếu như chung ta hiểu được cái chết thật sự của Người. Các Tông Đồ, đặc biệt là hình ảnh và thái độ của Maria Madala đã theo chân Chúa trong suốt những chặng đường khổ giá cho phép chúng ta nhìn lại niềm tin của mình vào mầu Phục Sinh và chúng ta đã sống niềm tin ấy như thế nào?
Trước hết, chúng hãy nhìn về cuộc đời và sự biến đổi của Maria Madala. Hành trình đức tin của một cuộc đời với nhiều đau khổ và tủi nhục. Dù Phúc Âm không nói nhiều về bà, chúng ta chỉ biết bà là người ở Macdala và được Chúa Giêsu chữa khỏi bảy quỷ (x.Lc 8,2). Nhưng với chi tiết bà đi ra mồ Chúa lúc mờ sáng và phát hiện ra ngôi một trống. Bao nhiêu đó cũng đủ cho chúng ta hiểu được tam lòng yêu mến mà bà đã dành cho Chúa Giêsu.
Nhìn lại những ngày đầu, khi Chúa Giêsu lên Giêrusalem chịu khổ hình với đông đảo các môn đệ, đặc biệt là Nhóm Mười Hai là những môn đệ thân cận, được Chúa chọn cách riêng để cùng đồng cam cộng khổ với Người. Nhưng kết quả thật phủ phàng, tất cả đều bỏ Chúa, ngay cả Phêrô thủ lãnh của các Tông đồ đã từng thề hứa sống chết với Thầy, nhưng Phúc Âm cho thấy ông là người phản bội Chúa hơn ai hết. Theo Đức Giêsu đến chân thập giá chỉ toàn là phụ nữ ngoại trừ thánh Tông Đồ Gioan (Ga 19, 25). Thật là một điều đáng để chúng ta suy nghĩ. Đến khi Chúa chết, hạ xác và an táng cho Ngài cũng chỉ là những người mà không ai nghĩ là họ trung thành với Chúa.
Đặc biệt là hôm nay, ra mồ viếng Chúa sớm nhất chính là Maria Macdala (Ga 20, 1). Tin Mừng không nói các Tông Đồ và các môn đệ khác ở đâu và đang làm gì nhưng có điều chắc chan là họ không nôn nao ra thăm mộ Chúa. Còn Maria Macdala, có lẽ suốt đêm qua bà không hề chợp mắt. Trong khi cả thành Giêrusalem ồn ào náo nhiệt ăn lễ Vượt Qua, thì Maria chỉ mong cho trời mau sáng để để có thể ra thăm mo của Thầy mình, một người Thầy đã cứu vớt và mở ra cho cuộc đời bà một tia hy vọng, một con đường sống. Và lòng trung thành yêu mến Chúa của bà đã được đền đáp. Nhìn thấy Chúa Giêsu Phục Sinh là một hồng ân đặc biệt, hơn nữa bà còn được Chúa trao cho sứ mạng là loan báo Tin Mừng này cho các Tông Đồ và những người khác.
Trong cuộc đời của mỗi người chúng ta ít hay nhiều cũng cảm nhận được Chúa đã cứu vớt mình. Nhưng cảm nhận không chưa đủ mà chúng ta phải đáp trả tình thương đó ra sao mới là quan trọng. Giống như Maria Macdala, người phụ nữ của Tin Mừng Phục Sinh đã đáp trả bằng cả cuộc đời mình.
Chúa đã Phục Sinh Cách mấy ngàn năm, nhưng mỗi năm Giáo Hội tưởng niệm, kính nhớ ngày ấy không phải như biến cố đã qua mà còn nhắc nhở mỗi người chúng ta phải biết sống niềm tin đó. Nếu như cuộc sống của chúng ta bị bao bọc bởi ngày thứ tuần Thánh đợm màu tang tóc, thì ngay lễ Phục Sinh sẽ làm tan biến mọi đau khổ, thất vọng và mở ra cho chúng ta một tia hy vọng đằng sau cái chết chính là sự Phục Sinh vinh hiển. Vì khi đặt niềm tin vào Chúa Phục Sinh sẽ dẫn chúng ta đến một sự hoán cải va thay đổi. Niềm tin vào Chúa Phục Sinh cũng sẽ làm cho chúng ta không còn đặt nặng tìm kiếm những thú vui chóng qua ở đời này. Nhưng niềm tin ấy sẽ làm cho chúng ta quảng đại hơn trong việc hy sinh cuộc sống mình để lo lắng và làm cho mọi người được hạnh phúc.
Lạy Chúa! Xin cho chúng con hiểu rằng đau khổ và cái chết chì là là chìa khoá mở vào cuộc sống vĩnh cửu. Xin ánh sáng Phục Sinh của Chúa chiếu soi tâm hồn chúng con để xoá tan bóng đem âm u tội lỗi. Xin Chúa ban bình an Phục Sinh Ngài cho chúng con.
82. Chúa đã sống lại (Ga 20, 1-9).
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’ – của Radio Veritas Asia)
Trong đoạn Tin Mừng theo thánh Gioan chúng ta vừa đọc trên đây, tác giả chỉ nhắc đến bà Maria Madalena, nhưng qua ba Tin Mừng Nhất Lãm, chúng ta biết có thêm một vài người nữ cùng ra mộ Chúa Giêsu với bà. Các bà đi đến mộ và hốt hoảng khi thấy tảng đá chặn cửa mộ đã bị mở ra. Tại sao có chuyện kỳ cục như thế? Có ai muốn phá rối chăng? Bà Maria Madalena vội vàng chạy về báo tin cho Phêrô và người môn đệ Chúa Giêsu thương mến. Hai ông hối hả chạy đến mộ, hai ông đã thấy mộ trống với các khăn liệm còn lại ở đó, nhưng họ chẳng thấy xác Ngài đâu. Nhìn thấy quang cảnh, người môn đệ Chúa Giesu thương mến biết rằng Thầy đã sống lại như lời Thầy đã nói.
Ngôi mộ trống là một dấu chỉ mà Chúa Giêsu gửi đến các môn đệ sáng ngày hôm đó. Đứng trước ngôi mộ trống, mỗi người có một phản ứng khác nhau. Các bà thì hoảng hốt, chạy về nhờ cậy các ông tới cứu. Ông Phêrô thì ngạc nhiên về sự việc xảy ra. Còn người môn đệ Chúa Giêsu thương mến thì tin rằng Thầy đã sống lại. Chúa đã sống lại thật. Allêluia.
Sự thật này có sức mạnh biến đổi cuộc đời chúng ta, đưa chúng ta ra khỏi bóng tối của sự sợ sệt, của nghi nan, để sống đến cùng đức tin của mình vào Chúa Kitô. Một ngôi mộ trống nhưng được giải thích bằng nhiều cách khác nhau, sẽ dẫn đến những phản ứng khác nhau.
Trong cuộc sống đức tin, mỗi người chúng ta đã nhiều lần đứng trước ngôi mộ trống của Chúa Giêsu, đó là những lần chúng ta băn khoăn đi tìm câu trả lời cho ý nghĩa đích thực của đời Kitô. Dù đã được học hỏi về đức tin Kitô, đã được nghe giảng Lời Chúa, đã được chia sẻ kinh nghiệm sống đức tin của biết bao thế hệ tín hữu, nhưng những điều ấy không miễn cho chúng ta phải đối diện với đức tin của chính mình.
Như nhóm người cùng đi đến mộ Chúa Giêsu sáng sớm hôm ấy, chúng ta cùng hiệp thông với nhau nhưng không thể quyết định thay thế cho nhau. Giáo Hội khuyên chúng ta phải trả lời những câu hỏi về đức tin đặt ra cho chính mình. Có nhiều lúc chúng ta như rơi vào đêm tối bất an, tương tự như các môn đệ trong thời gian sau biến cố tử nạn của Chúa Giêsu, chúng ta nửa tin nửa ngờ. Một mặt chúng ta biết rằng đức tin vào Chúa Kitô có sức giải thoát chúng ta khỏi vòng vây tội lỗi và mang lại cho chúng ta một cuộc sống an bình hạnh phúc. Mặt khác, chúng ta phải đối diện với những thực tế cấp bách, thực tế xem ra không trùng khớp bao nhiêu với những điều mà đức tin dạy bao chúng ta. Đức tin dạy chúng ta phải xây dựng hạnh phúc trên những nền tảng siêu nhiên. Thực tế lại cho thấy dường như những điều siêu nhiên chẳng giúp chúng ta đạt hạnh phúc mà đôi khi còn gây ra cho chúng ta bao nhieu điều thiệt thòi phiền toái. Đức tin dạy chúng ta phải tập trung đầu tư cho cuộc sống vĩnh cửu mai sau, thực tế lại cho thấy mọi người đều dồn hết sức lực để xây dựng cho cuộc sống vắn vỏi ở đời này. Ai đúng, ai sai, ai khôn, ai dại? Chúng ta bối rối không biết phải theo ai bỏ ai đây? Trước những câu hỏi hóc búa này, chúng ta loay hoay tìm câu trả lời. Chúng ta cầu xin Chúa Giêsu soi sáng cho chúng ta. Nhưng có lúc, thay vì trực tiếp trả lời, Chúa Giêsu đưa chúng ta tới ngôi mộ trống của Người. Người gởi đến cho chúng ta những mật thư, những dấu chỉ, những lời nói, những biến cố đặc biệt xảy đến cho chúng ta. Muốn tìm ra lời đáp, chúng ta phải giải mã nhưng tín hiệu này.
Khi nhìn thấy ngôi mộ trống, người môn đệ Chúa Giêsu thương mến nhanh chóng nhận ra rằng Thầy mình đã sống lại, ông không nhìn bằng đôi mắt nhưng đã nhìn bằng con tim. Tác giả Tin Mừng theo thánh Gioan đã kín đáo không nêu tên người môn đệ này, nhưng truyền thống Giáo Hội vẫn cho đó chính là tông đồ Gioan. Ông là người được Chúa Giêsu yêu thương cách đặc biệt và ông cũng đáp lại Thầy mình với tình yêu thương nồng nàn. Chính tình yêu này mách bảo cho ông biết đích xác chuyện gì đã xảy ra với Thầy. Tình yêu hun đúc niềm tin và niềm tin giữ cho tình yêu luôn kiên vững.
Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, nhiều lúc con phải giải mã các tín hiệu mà Chúa gởi đến cho con trong cuộc sống. Xin Chúa giúp con luôn trung kiên trong tình yêu, để con nhanh chóng nhận ra sứ điệp mà Chúa muốn gởi đến cho con trước ngôi mộ trống của Chúa, xin cho con vững tin rằng Chúa đã sống lại thật. Allêluia.
Anh chị em thân mến.
Có lần tôi nhìn thấy một trẻ nhỏ rất dể thương, mọi người đang xúm quanh nó để bồng bế. Bổng nhiên đứa bé có vẽ như khó chịu và khóc lên. Mọi người cố tìm cách cho nó đừng khóc, ngỡ là nó đói, nên có người trao lại cho mẹ nó. Nhưng không phải thế, vì nó vẫn không chịu vật gì cho vào miệng. Người mẹ mới nhìn đứa trẻ một chút, bà mới tìm chay dầu, thoa lên bụng nó. Từ từ tiếng khóc của nó nhỏ dần, rồi dứt hẳn. Dường như nó mệt, nên nó nằm ngủ ngay trên tay của người mẹ. Tôi ngạc nhiên hết sức. Vì bà mẹ trẻ này không phải là một bác sĩ, cũng không phải là một thầy thuốc gì hết, nhưng tại sao bà chỉ nhìn con mình và biết nó đang cần gì.
Tôi chợt hiểu: Chỉ có tình yêu mách bảo cho bà. Thật thế, vì yêu thương con nên bà nhìn thấy những dấu hiệu, và tình yêu thúc bảo bà phải làm gì cho con mình. Ôi tình yêu bao la tuyệt vời.
Bao nhiêu người tới mồ Chúa Giêsu từ sáng sớm. Họ chạy tới, chạy lui, tìm người này người nọ. Nhưng tất cả đều không biết việc gì đã xảy ra, mặc dù họ cũng đã từng nghe câu: “Con người phải chịu đau khổ, chịu chết, nhưng sau ba ngày sẽ sống lại”. Vậy mà nhìn thấy thế họ vẫn không hiểu biết gì. Vì họ không có thời gian để nhớ, để hiểu những gì đã được nghe. Họ chỉ nghe, sau đó tất cả đều qua đi và không còn chút gì ở lại trong họ. Khi vị tông đồ trẻ chạy đến, ông cũng nhìn thấy tất cả như những người kia. Nhưng Ông thấy và ông tin. Tại sao thế?
Ông có nhìn thấy điều gì khác đâu, làm sao ông có được thái độ khác người như thế? Chính do tình yêu mách bảo ông. Ông là người được Chúa Giêsu yêu thương nhất, và chắc chắn ông cũng yêu thương Ngài nhiều hơn những ông khác. Những đấu hiệu của tình yêu đã mách bảo ông nên Ông đã thấy và Ông tin. Ông tin những điều Ngài đã nói, tin những việc Ngài đã làm và tin những gì Ngài đã hứa. Ôi sức mạnh của tình yêu.
Mỗi người trong chúng ta có một hoàn cảnh sống. Nhiều lần trong cuộc sống, chúng ta phải vất vã đấu tranh để mình được tồn tại. Còn hơn thế nữa, trong đấu tranh sinh tồn, ai cũng muốn cho đời sống của mình mỗi ngày được nâng cao hơn. Nhưng rồi mỗi người cứ làm việc như một cái máy, làm mà không cần suy tư. Có khi nào, chúng ta chợt tỉnh giấc, tự hỏi về mục đích cuộc đời của mình. Cũng được bao nhiêu lần, chúng ta ngồi yên tĩnh để nhìn lại quảng đời mình đã đi qua, xem nó tốt, xấu như thế nào không? Chắc là rất ít khi chúng ta nhận ra được dấu hiệu của tình yêu trong đời sống hằng ngày của mình. Chúng ta cứ chạy, cứ làm việc, cứ tìm kiếm. Nhưng, những gì mình đã nhận được. – Chúng ta cũng không bao giờ biết. Những gì mình không nhận được. – cũng không ảnh hưởng gì đến chúng ta. Những đều xảy ra bên ngoài, trước mắt chúng ta, vang động bên tai, có khi cũng làm cãn bước chân.
Nhưng tất cả những điều đó cũng không đánh động gì nỗi con người của chúng ta. Vì chúng ta làm, hoạt động, lo lắng, tất cả những đều đó chúng ta chỉ biết lo cho bản thân mình, vì chúng ta chỉ biết yêu có chính mình. Nhớ kỷ mà xem: Chúng ta lo gia đình, nhưng nếu có thành viên nào trong gia đình không chịu vâng theo những ý kiến riêng tư của chúng ta, khi đó phản ứng của chúng ta sẽ ra sao? hay có ai chỉ trích những việc làm của chúng ta, khi đó chúng ta có thành tâm nhìn lại để điều chỉnh cho đúng. Hay chúng ta vẫn ngoan cố và tìm cách loại địch thủ ra khỏi vòng cuộc song. Nếu chúng ta đặt để tình yêu trong công việc, thì trong tất cả mọi biến cố xảy đến trong cuộc đời, đều là dấu chỉ của Tình Yêu Thiên Chúa. Từ những may mắn, những bất hạnh của bản thân hay của những người chung quanh.
Tất cả đều là những dấu chỉ của Tình Yêu mà Thiên Chúa gửi đến cho chúng ta. Những dấu chỉ này chỉ những người luôn sống trong sự yêu thương bằng chính đời sống hằng ngày, trong tất cả mọi công việc bình thường của mình, họ mới nhận ra được. Còn ai không sống trong tình yêu thương, thì cho dù họ có giàu sang, tài giỏi hay thông minh xuất chúng đi nữa, vẫn không ích lợi gì. Vì họ nhìn mà không biết, nghe mà không hiểu.
Thiên Chúa yêu thương chúng ta, nên Ngài cũng luôn ban những dấu chỉ tình yêu. Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho mình biết luôn yêu thương, để tất cả những việc làm đều phát xuất bởi tình yêu. Xin Chúa cũng cho chúng ta được biết nhận ra những dấu chỉ tình yêu của Ngài gửi đến, để biết sống theo những dấu chỉ của Tình Yêu.
84. Tình yêu dẫn đến đức tin (Ga 20,1-9).
(Trích trong ‘Suy Niệm Lời Chúa’ của Radio Veritas Asia)
Trong Tin Mừng Chúa Nhật Phục Sinh, thánh Gioan kể lại cho chúng ta câu chuyện 3 người đi tìm Chúa: Maria Mađalêna, Gioan và Phêrô.
Khi đọc đoạn Phúc Âm đó, chắc chắn mỗi người chúng ta đều nhận thấy rằng tất cả 3 người đều đến mồ, đều thấy cùng một sự kiện mồ trống và khăn liệm, nhưng chỉ có mỗi mình Gioan là tin Chúa Giêsu đã sống lại. Thánh Gioan đã viết về chính mình rằng: “Ông thấy và ông đã tin”.
Để hiểu rõ câu chuyện, chúng ta hãy trở lại chương 16. Sau khi Chúa Giêsu chết, người Do Thái đến xin Philatô cho hạ xác những người đóng đinh xuống vì họ không muốn thấy xác chết treo trên thập giá trong ngày thứ bảy, ngày sabbat, nhất là ngày sabbat trong lễ Vượt Qua của họ.
Phép tắc, thủ tục xong, xác Chúa được hạ xuống. Theo phong tục người Do Thái, họ tính bắt đầu ngày mới từ lúc mặt trời lặn.
Maria Mađalêna và các môn đệ có mặt lo hối hả để chôn xác Chúa cho xong và ra về trước khi mặt trời lặn, nếu không họ sẽ lỗi luật tôn giáo vì ngày sabbat chỉ được đi bộ một quãng bằng ném hòn đá mà thôi.
Chúng ta cũng nên biết qua cách liệm xác của người Do Thái. Cách liệm xác của họ là rửa xác, ướp thuốc thơm và gói lại bằng tấm vai trắng, lấy băng quấn lại từ đầu đến chân như người ta băng bó vết thương, xong xuôi đâu đó đem đặt xác vào trong hang huyệt đục sẵn trong đá và lấy tảng đá to đậy cửa hang lại.
Vì hối hả nên Maria Mađalêna về nhà nhận thấy mình không cẩn thận đủ đối với Thầy Giêsu của mình và nóng lòng chờ đến sau ngày thứ bảy. Vào ngày thứ nhất trong tuần, tức ngày Chúa nhật, bà đem thuốc thơm đến mồ để ướp xác lại. Khi đến nơi bà thấy mồ trống, cửa đã được đẩy ra và Thầy không còn trong đó nên vội vã chạy về báo tin cho Phêrô và Gioan. Gioan là thanh niên trai trẻ chạy nhanh hơn Phêrô nên ra đến mồ trước. Đến nơi Gioan chỉ đứng ngoài khom người nhìn vào chờ Pherô đến, cả hai cùng vào mồ, họ đều thấy dây băng liệm và vải liệm, nhưng Gioan thú thực trong lòng ông đã tin Chúa sống lại. Phân tích tâm lý của 3 nhân vật, chúng ta sẽ thấy tại sao?
Đối với Maria Mađalêna, bà đến mo chỉ mong để ướp xác Thầy lại cho chu đáo hơn. Bà cầm thuốc thơm trong tay và đầu óc chỉ nghĩ đến thân thể đã nằm yên bất động. Nói tắt một lời: Bà đến mồ chỉ để tìm xác chết. Một tâm trạng như thế, thấy mồ trống không, bà khó có thể nhận ra tức thì Chúa Giêsu đã sống lại.
Còn Phêrô, ông đã sợ hãi. Ông đã chối Thầy của mình trong giờ phút Thầy bị hành hạ nhục nhã vì ông sợ bị liên lụy. Thầy đã chết và nằm yên trong mồ. Điều ông mong muốn lúc đó là xin đừng có gì rắc rối xảy ra nữa, xin được hai chữ “bình yên”. Nhưng tại sao lại có sự kiện mất xác này. Ông chạy đến mồ với tất cả mọi lo âu trong đầu. Ông lo nhóm nào đó sau khi giết Thầy lại tìm cách phá rối các tông đồ để kết án họ và xử tử họ nữa chăng. Ông là trưởng nhóm, vậy ông chạy đến mồ để quan sát những gì đã xảy ra. Vậy ông chạy đến mồ mà trong lòng chỉ lo nghĩ đến việc tại sao thế này, tại sao thế nọ để tìm cách đối phó. Với tâm trạng đó, Phêrô khó có thể nhận ra Chúa Giêsu đã sống lại.
Phần Gioan, ông yêu thương Chúa Giêsu và ông biết rằng Chúa Giêsu đã yêu thương ông. Trong Phúc Âm, khi ông viết một điều gì có đề cập đến mình trong đó, thánh Gioan luôn dùng kiểu nói “người môn đệ Chúa Giêsu yêu mến”. Thánh Gioan đã yêu mến Chúa Giêsu thật sự, tình yêu mến đó đã thể hiện ra bên ngoài, nhất là trong những giây phút cuối cùng của Chúa Giêsu. Thánh Gioan đã theo chân Chúa Giêsu trên con đường thập giá và là tông đồ duy nhất đứng dưới chân thánh giá cho đến giờ phút cuối cùng và chỉ trở về nhà với Mẹ Maria sau khi đã chôn cất Chúa Giêsu. Kinh nghiệm cho thấy, khi yêu ai thì ta luôn nghĩ đến người ấy, luôn cảm thấy sự hiện diện của người ấy trong cuộc đời mình cho dù hoàn cảnh bắt buộc phải xa nhau. Thánh Gioan luôn nhớ lại lời giảng dạy của Thầy trong lòng và hy vọng Thầy sẽ sống lại vì Thầy đã báo trước. Với cái nhìn đó, Gioan đã nhận ra dễ dàng sự kiện sống lại. Ông đã thấy và ông đã tin.
Qua câu chuyện, chúng ta thấy rõ ràng rằng: Tình yêu dẫn đến đức tin. Những lo âu trần gian như lo lắng của Maria Mađalêna đi tìm xác chết không vượt lên được. Những suy tư, lý luận lo âu của Phêrô đã không đưa đến đâu. Chỉ có tình yêu Chúa Giêsu của thánh Gioan đã đưa ông nhanh chóng đến đức tin vào Chúa Giêsu Phục Sinh.
Trong cuộc hành trình đức tin, chúng ta cùng tìm Chúa, chúng ta có thể cảm thấy sự hiện diện của Chúa, chúng ta có thể hiểu được ý nghĩa của mọi biến cố trong cuộc đời mình nếu chúng ta noi gương Gioan, để cho lòng trí mình luôn tiến trên con đường tình yêu Chúa.
Chúng ta đã trải qua những ngày kỷ niệm Chúa Giêsu đi vào cuộc thương khó, chịu chết để cứu chúng ta. Chúa là Đấng vô tội nhưng đã gánh lấy tội lỗi của chúng ta. Chúa đã chết vì tội của chúng ta. Chúa đã chết thay cho chúng ta. Nếu Chúa không chết thay cho chúng ta thì chúng ta sẽ phải chết.
Nhưng để cứu chúng ta Chúa Giêsu đã không dừng lại ở cái chết, Chúa đã chiến thắng sự chết và Chúa đã sống lại để cho chúng ta cũng được sống lại với Chúa.
Bài Tin Mừng hôm nay kể lại cho chúng ta về sự kiện sống lại của Chúa Giêsu. Hôm táng xác Chúa vào trong huyệt đa, vì gần đến ngày Sabát nên việc ướp xác Chúa chưa hoàn tất, chỉ mới làm sơ xài thôi; nên qua ngày Sabát, bà Maria Madalêna đã vội vả ra mộ Chúa từ sáng sớm để hoàn tất việc ướp xác Chúa.
Khi đến nơi bà thấy tảng đá đã được lăn ra khỏi mộ từ lúc nào rồi, nhìn vào ngôi mộ trống, không còn thấy xác Thầy nữa, Bà liền chạy tìm và gọi ông Phêrô cùng người môn đệ được Chúa Giêsu thương mến cách đặc biệt. Nghe vậy hai môn đệ Chúa Giêsu chạy đến, có lẻ họ nghĩ rằng ai đó đã lấy mất xác Thầy mình rồi. Chạy đến nơi mộ Chúa, các ông đã quan sát và thấy rõ mọi việc, điều đó làm các ông phân vân.
Tảng đá đã được lăn ra khỏi mộ, nhìn vào ngôi mộ trống các ông thấy: ” các dây băng nhỏ xếp để đó, và khăn liệm che đầu Người trước đây, khăn này không để lẫn với dây băng, nhưng cuộn lại để riêng một chỗ “. Ai đã trộm xác Thầy chăng? Nếu có kẻ nào đó trộm xác Thầy thì sao các dây băng và vải liệm lại xếp ngay ngắn và gọn gàng như thế. Kẻ trộm xác Chúa là kẻ có ý đồ xấu xa, làm sao lại có thể xếp các dây băng và vải liệm gọn gàng như thế, các thứ này vốn là đồ bỏ đi thì đâu cần phải làm thế đâu. Có một điều gì đó mà các môn đệ Chúa chưa hiểu nên các ông phân vân.
Ngôi mộ trống của Chúa Giêsu và vải khăn liệm là những dấu chỉ hổ trợ cho niềm tin vào Chúa Phục Sinh của Hội Thánh Công Giáo chúng ta. Niềm tin vào Chúa Giêsu Phục Sinh đã giúp Hội Thánh Công Giáo chúng ta luôn tồn tại với bao thay đổi không ngừng của lịch sử nhân loại.
Điều quan trọng và ích lợi cho chúng ta hơn cả là làm sao chúng ta sống mầu nhiệm Chúa Giêsu Phục Sinh trong đời sống làm kitô hữu của chúng ta đây?
Chúa đã chết cho chúng ta, nhờ đó chúng ta không phải hư mất đời đời. Chúa đã sống lại để ban sự sống mới cho chúng ta. Sự sống đó sẽ dẫn chúng ta về quê thật của mình là Nước Trời. Phần Chúa, Chúa đã chuẩn bị sẵn cho chúng ta tất cả rồi! Còn phần chúng ta, chúng ta đã chuẩn bị như thế nào trong việc đón nhận sự sống đời đời mà Chúa đã ban cho chúng ta?
Để đón nhận sự sống đời đời, chúng ta cần phải ” chết đi ” mỗi ngày với những tánh hư tật xấu, những ràng buộc của tội lỗi, những bất xứng trong đời của chúng ta đối với Chúa, đối với tha nhân và với bản thân cua mình nữa.
Đồng thời chúng ta cần phải trao dồi những điều tốt đẹp, học hỏi các nhân đức, thấm nhuần những lời dạy của Chúa Giêsu, rập khuôn mẫu đời sống mình theo mẫu gương của Chúa Giêsu. Làm cho đời sống mình mỗi ngày một sung mãn, phong phú và làm cho đời sống anh chị em chung quanh cũng được sung mãn, phong phú trong sự sống mới mà Chúa Giêsu đã đem lại cho chúng ta.
Có một chàng sinh viên, vừa thất bại trong việc học hành, lại vừa thất bại trong tình yêu của mình. Buồn chán, tối hôm đó, chàng đi lang thang ngoài bãi biển. Chàng ngồi nơi mỏm đá nhìn những ngọn sóng xô vào bờ dưới ánh trăng. Thế rồi, những chuyện đau buồn dần dần chìm lắng. Tất cả dường như đã qua đi. Chàng biết rằng: mặt trời lại sắp sửa mọc lên ở phương đông. Và khi mặt trời mọc lên, chàng cảm thấy như đón nhận được một nguồn sinh lực mới. Mọi dự tính ồ ạt trở về để rồi chàng đã quyết định một cách hăng say: sẽ bắt đầu lại tất cả.
Từ mẩu chuyện này, chúng ta đi vào biến cố Phục sinh mà chúng ta mừng kính hôm nay. Vậy biến cố này có ý nghĩa gì đối với chúng ta? Phục sinh có nghĩa là cảm nghiem được quyền năng của Chúa Giêsu đang biến đổi thảm cảnh cuộc đời chúng ta trở thành một khởi đầu vinh quang đầy mới mẻ.
Đây cũng là điều đã xảy ra cho các môn đệ. Thực vậy, trước buổi chiều ngày thứ sáu Tuần thánh, các môn đệ đã tìm thấy một hướng đi, một ý nghĩa cho cuộc sống, các ông đã dâng hiến bản thân cho Ngài và đã đặt mọi ước mơ vào Ngài.
Thế nhưng với cái chết của Ngài trên thập giá, thì mọi hy vọng, mọi mơ ước đều tan theo mây khói. Và khi bóng tối buông xuống, thì cuộc đời các ông dường như cũng bị chôn vùi trong lòng huyệt lạnh. Mọi sự thế là đã chấm dứt. Tan vỡ và phá sản, có những ông đã vội vã trở về với làng xưa và nghề cũ, như hai môn đệ trên đường đi Emmaus. Thế nhưng biến cố Phục sinh đã xảy ra và làm đảo lộn tất cả. Mặt trời mọc lên và Đức Kitô đã sống lại.
Kể từ lúc đó, quyền năng của Đấng Phục sinh bắt đầu hoạt dộng và biến đổi các ông. Từ một nhóm người tuyệt vọng, các ông trở thành một binh đoàn thừa sai gan dạ. Theo lệnh Chúa, các ông đã lên đường loan báo Tin mừng Phục sinh cho muôn dân.
Bất cứ nơi nào các ông rao giảng, thì quyền năng của Đấng Phục sinh cũng đều hoạt động trong mọi người, như đã từng hoạt động trong chính các ông. Và những điều kỳ diệu bắt đầu xảy ra. Tuyệt vọng đã nhường bước cho hy vọng. Hận thù đã nhường bước cho thương yêu. Đau kho đã nhường bước cho niềm vui. Còn chúng ta, chúng ta phải làm gì để hưởng được những sự kỳ diệu ấy?
Trước hết, lễ Phục sinh kêu mời chúng ta hãy mở rộng cõi lòng cho Đức Kitô để Ngài thực hiện nơi chúng ta những điều Ngài đã thực hiện cho các môn đệ và cho những người nghe lời các ông giảng dạy.
Tiếp đến, lễ Phục sinh kêu mời chúng ta hãy để cho Đức Kitô giúp chúng ta biết yêu thương trở lại sau khi tình yêu của chúng ta đã bị ai đó khước từ, đồng thời hãy để cho Đức Kitô giúp chúng ta tin tưởng trở lại sau khi niềm tin của chúng ta đã bị ai đó phản bội, cũng như hãy để cho Đức Kitô giúp chúng ta hy vọng trở lại sau khi chúng ta nhìn thấy niềm hy vọng của chúng ta bị lung lay và tàn lụi.
Sau cùng, lễ Phục sinh kêu mời chúng ta hãy để cho Đức Kitô giúp chúng ta lau khô những giọt nước mắt, tìm thấy nguồn sinh lực mới, sau khi đã thất bại, đã khổ đau. Đó là ý nghĩa, là Tin mừng mà Đức Kitô Phục sinh đem lại cho chúng ta.
87. Hãy khai phóng tâm trí (Mc 16,1-8).
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Trên lãnh vực bình giải uyên bác, bốn thiên ký sự của bốn Phúc Âm cùng thuật về sự Chúa sống lại, những ký ức ấy mới đây là đề tài cho nhiều công trình nghiên cứu, những tập nghiên cứu hay nhất đều đưa đến một sự khơi sâu đức tin. Tường trình ở đây về công cuộc nghiên cứu đó, là một việc không làm đươc. Ý định của Giáo Hội khi dạy đọc Phúc Âm trong phần phụng vụ thánh lễ là để xếp đặt một sự gặp gỡ sống động giữa tín hữu và Chúa Giêsu. Thế mà Phúc Âm cốt để loan báo trước hết là cho người nghèo. Vì vậy chúng ta sẽ cố gắng có được một não trạng của kẻ nghèo khó để đọc những thiên ký sự về Chúa sống lại. Sự nghèo khó, nói đến ở đây, không có nghĩa là ngu dốt hoặc ngây ngô khờ dại. Nghèo, nghĩa là dẹp bỏ hết những cái gì kềnh càng vướng vít của sự giàu có, dù là giàu có về kiến thức, để ao ước của cải quý trọng nhất là sự gặp gỡ Đức Kitô sống động. Chúng ta hãy vượt lên trên những phân tích, giả thuyết v,v… tuy không dám chê những công trình đó. Bằng một vận dụng đức tin, chúng ta hãy đi tìm Chúa. Nhiều khi chúng ta có ấn tượng rằng chúng ta đã đóng đinh Chúa, hoặc đã để mất Chúa… Không bao giờ lòng tin của chúng ta lại “thật” hơn khi thấy mộ Chua trống rỗng –Khi ta chấp nhận Tin Mừng trọng đại: Chúa Giêsu sống, Người hòa giải chúng ta, Người làm cho chúng ta sống.
Trong ký sự của thánh Maccô, chúng ta thấy mấy bà từ mờ sáng đi thăm mộ Chúa. Họ có ý định đến lam cho xong việc xức thơm thi hài Chúa. Họ chẳng nghĩ gì khác ngoài cuộc bận tâm đó. Các bà tự hỏi ai sẽ vần dùm tảng đá đậy cửa mồ. Nhưng mặc dù băn khoăn, họ vẫn tiến bước, tâm hồn bị thúc đẩy bởi lòng trung thành với Chúa. Thế mà, sửng sốt làm sao, họ tới nơi thì thấy tảng đá đã được ai vần sang một bên rồi. Họ đành liều, bước vào phòng ngoài của ngôi mộ, thấy một thanh niên cất tiếng nói với họ. Người đó cho biết Chúa Giêsu không còn là một người chết, nay Chúa đã sống lại. Từ ký sự của thánh Maccô, chúng ta rút ra được suy niệm gì bổ ích cho lòng tin của chúng ta?
1) Câu chuyện mấy bà đi tảo mộ Chúa rất có ý nghĩa cho một trong những giai đoạn của đức tin. Hành vi tin, lúc bắt đầu, là một sự cất bước không đắn đo suy tính, đi tìm một Đấng mà người ta không biết được toàn thể mầu nhiệm. Các bà chưa được biết mầu nhiệm Chúa Giêsu. Đối với họ, Chúa là Thày. Cái chết thê thảm của Thày làm cho họ chìm trong đau khổ và hoang mang quá đỗi. Nhưng linh tính khiến họ cảm thấy giữa Thày và họ chưa hết, vẫn còn liên hệ dù chỉ là việc đến mộ hoàn tất viếc xức thơm thi thể Thày đay thương tích sau cuộc khổ hình. Thăm mộ đem lại gì cho họ? Đem lại một sự hoang mang ghê gớm hơn nữa, họ chỉ thấy một khoảng trống. Họ khiếp sợ đến nỗi không thốt lên lời. Chỉ mãi sau này các bà mới tin. Có bao giờ chúng ta tự nhiên đến với Đức Kitô mà vẫn có ấn tượng về một sự trống rỗng mênh mông? Khoảng chân không đó cần thiết cho hành vi tin của chúng ta được thuần khiết. Chúng ta làm điều hợp lý khi nghe theo nội tâm thúc giục chúng ta tìm đến Đức Kitô.
2) Họ thấy tảng đá đã được vần sang một bên. Theo não trạng những Kitô hữu tiên khởi gốc Do Thái, đó là mộtsự kiện có ý nghĩa. Có nghĩa là thần chết đã bị đánh bại. Mộ được mở ra, tức là người chết không còn thuộc về cõi âm ty, nơi mà người Do Thái tưởng tượng những kẻ quá cố cư ngụ. Trong đời sống đức tin của chúng ta cũng vậy. Nếu có những lần chúng ta có ấn tượng về một khoảng trống rỗng mở ra trong cõi huyền vi chính vì những lúc đó trong một góc sâu tâm khảm chúng ta một sự sống lại đang chuẩn bị. Chúng ta chưa nắm được cái hiển nhiên –nhưng Chúa không muốn bị gò bó trong những hạn chế của chúng ta về tư tưởng, ước vọng, về cung cách sống đời Kitô hữu- Chúa vần sang một bên tảng đá nó đóng kín tâm trí chúng ta và Chúa chuẩn bị chúng ta sống lại cho một đời sống cuồng nhiệt hơn, thật hơn.
88. Đức tin của chúng ta (Lc 24,13-35).
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
ĐỨC TIN CỦA CHÚNG TA CÓ THEO KỊP HÀNH TRÌNH CỦA NHÂN LOẠI KHÔNG? (Đoạn suy niệm sau đây được đề nghị dùng ngày lễ Phục Sinh, trong lễ chiều. Tuy nhiên không cấm dùng trong các lễ sáng).
Sự việc Chúa hiện ra với các môn đệ thành Emau, chỉ có thánh Luca mới thuật. Các thánh chép sử khác không nói đến. Tuy nhiên trong Phúc Âm theo thánh Maccô, chương 16, câu 12, có một sự kiện “hiển nhiên” (theo nhận xét của cha Lagrange) đó là biến cố Emmau, và có thể đó là tóm lược ký sự của thánh Luca. Tất nhiên có những lần hiện ra khác mà các thánh chép sử không ghi lại. Mỗi vị chọn lọc trong những nguồn tài liệu truyền khẩu hoặc thanh văn, và ưu tiên chọn những sự kiện nào cùng hướng với những mối quan tâm của mình.
Với những lần Chúa hiện ra, chúng ta ra ngoài phạm vi lịch sử thuần túy nhân loại để bước vào lĩnh vực làm chứng cho một hành động cua tc. Thực tại mà người ta kiểm soát được trong điểm này là: có những vị đã đứng lên làm chứng rằng các vị đó đã tận mắt nhìn thấy Chúa Giêsu sống sau khi xảy ra một sự kiện được người đương thời kiểm nhận, đó là sự việc Chúa chết trên thập giá. Tất cả những chứng từ các vị nêu ra khiến cho trên bình diện lịch sử, chúng ta có những lý do cực kỳ vững mạnh để tin các vị. Sở dĩ những lý do ấy, nhìn bằng mắt khoa học, thì không có tính cách ép buộc phải tin – là bởi vì Chúa đã muốn dành một chỗ đứng cho ân sủng đức tin. Điều trực tiếp thu hút sự chú tâm của chúng ta ở đây, trong nội giới đức tin chúng ta, chính là nội dụng của chứng từ.
1) Trước kia, các môn đệ tưởng mình hiểu rõ Chúa. Này đây một nỗi thất vọng mênh mang đã phá tan niềm trông cậy họ có được nhờ vì hiểu Chúa. Thật ra, họ không thật sự hiểu Người. Thế mà xảy ra một biến cố tuyệt đối bất ngờ. Chua hiện ra với họ. Lúc đó, xuyên qua sự nhận ra Thày, họ thấy nổi lên trong lòng một cung cách mới để hiểu Chúa. Để tiện so sánh chúng ta có thể gợi lại lần sinh ra và lần tái sinh của chúng ta. Sau lần sinh ra, kế tiếp là thực nghiệm về cái chết –sự sống lại của chúng ta sẽ là lần tái sinh để sống sự sống viên mãn. Cũng vậy các môn đệ sau lần “hiểu biết” đầu tiên và thiếu sót về Chúa, tiếp đến thực nghiệm về thất vọng, họ “tai hiểu biết” Chúa Giêsu trong một lần gặp gỡ sâu sắc hơn. Họ bắt đầu thực sự hiểu biết Chúa.
Có một điều gì nổi lên trong họ những dịp tiếp xúc đầu tiên với Thày, những tháng ngày Người sống trong thể xác. Điều họ tưởng là bị tiêu hủy rồi, giờ đây lại nổi dạy, được khuếch đại và thanh lọc trong cuộc gặp gỡ sâu sắc với Chúa sống lại. Câu chuyện Emmau dĩ nhiên là phi thường. Tuy nhiên một câu chuyện khác ở cấp độ thấp hơn thế chẳng đã thôi thúc chúng ta dùng đức tin để thực nghiệm những khoảnh khắc mà sự khuất bóng người thân yêu làm cho ta thất vọng, sau đó, trong một vài trường hợp, là sự sống lại làm ta lóa mắt?
2) Về những ký sự thuật việc Chúa Phục Sinh, chúng ta trích dẫn sau đây một đoàn giáo huấn của hàng giáo phẩm hữu quyền, vì nó hợp thời:
“Nhờ những đoạn Phúc Âm đó, tôi có thể ngày nay trở nên giống các môn đệ Emmau, để hiệp thông với Chúa bằng lời nói và lương thực. Chúa Giêsu trên thập giá là hình ảnh “tình yêu bị đóng đinh” Chúa dạy tôi hãy nhận ra Người trong anh em đang đau khổ, xấu số, bị bách hại bởi công lý người đời. Chúa dạy tôi phấn đấu để tăng tình thương và công lý trong thế gian mà Chúa đã đến để cứu rỗi bằng thập giá và Phục Sinh của Người” (Đức Cha Weber, tập san “Tài liệu tham khảo Công giáo” số ngày 19-12-1971).
Sống hiệp thông với Chúa Giêsu chết và sống lại trong ta, chúng ta có thể đồng hành xứng đáng với nhân loại trong hành trình đi tìm hy vọng, và đem đến cho nhân loại Tin Mừng: Chúa Giêsu sống và làm cho chúng ta sống.
GỬI QUA TỘI LỖI
Lúc bay giờ trời đã bắt đầu tối, các tông đồ buồn bã ngồi thinh lặng trong phòng tiệc ly và cửa thì đóng kín. Các ông khẽ bàn bạc với nhau về Đức Kitô. Phêrô và Gioan đã đi đến ngôi mộ, nhưng ngôi mộ hoàn toàn trống trơn. Rồi những lời đồn thổi của các phụ nữ được loan truyền. Các môn đệ vừa lo sợ nhưng cũng cảm thấy một tia hy vọng lóe lên.
Thế rồi sự gì đã xảy ra? Có phải là một luồng ánh sáng? Hay là một bóng ma, một ảo ảnh? Không. Đó chính là Đức Kitô bằng xương bằng thịt với đôi mắt trìu mến. Ngài nói với các ông: Bằng an cho các con. Thầy đây mà. Đừng sợ. Có lẽ Ngài đã nói tiếp với các ông: Các con hãy vui mừng vì Ta đã chiến thắng tội lỗi và sự chết. Chiến thắng tội lỗi và sự chết là hai sứ điệp quan trọng mà Đức Kitô Phục sinh muốn gửi đến chúng ta, những người đã đặt trót niềm tin tưởng và cậy trông nơi Ngài.
Như chúng ta đã biết: Tội của Adong Eva được sánh ví như là một chiếc móc xích đầu tiên, kéo theo một chuỗi dài tội lỗi của nhân loại qua muôn thế hệ. Tội của Adong Eva đã mở toang cánh cửa để tội lỗi ùa tràn và ngự trị trần gian. Bởi tội của một người mà chúng ta phải chết, thì giờ đây, nhờ công phúc của một người mà chúng ta được sống. Thánh Ambrosio đã nói: Trời và đất cũng sẽ được sống lại trong Đức Kitô. Trần gian này, nhân loại này sẽ được sống lại, có nghĩa là những vết thương, những khổ đau do tội lỗi gây nên, sẽ được hàn gắn, sẽ được chữa lành, sẽ được xóa bỏ. Adong đã làm cho nhân loại chìm ngập trong tội lỗi và sự chết, thì giờ đây Đức Kitô Phục sinh sẽ khai mở một thế he mới trong ân sủng và tình thương nhờ đó mà nhân loại được bước vào cõi sống muôn đời.
Vì thế, lời nói đầu tiên của Đức Kitô Phục sinh là gì, nếu không phải là lời cầu chúc bình an: Bình an cho các con. Khi nói lời ấy, Ngài thổi hơi, tượng trưng cho Chúa Thánh Linh, trên các ông và trao cho các ông quyền tha tội. Chúa Giêsu đã thấu suốt tâm hồn chúng ta, Ngài biết rằng tâm hồn chúng ta đang khao khát sự bình an. Thế nhưng tội lỗi và sự bình an không thể nào đi đôi với nhau được. Tội lỗi là như trái phá, làm nổ tung sự bình an. Nó hủy diệt và phá vỡ sự bình an trong tâm hồn cũng như ngoài xã hội. Bởi đó, để chúng ta có được sự bình an đích thực, thì trươc hết Ngài phải tha thứ tội lỗi chúng ta, Ngài phải chiến thắng quyền lực của tội lỗi: Các con hãy nhận lấy Chúa Thánh Thần. Các con tha tội cho ai thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai thì tội người ấy bị cầm lại. Một tâm hồn tội lỗi bao giờ cũng sống trong lo âu, trong hận thù và không thể nào có được sự bình an, bởi vì sự bình an chỉ là kết quả của việc hòa giải giữa chúng ta với Thiên Chúa và giữa chúng ta với nhau, cũng như giữa chúng ta với chính bản thân mình. Cuộc tử nạn và sống lại của Chúa là nhịp cầu hòa giải, là nhịp cầu cảm thông đầu tiên, nối liền đất với trời, nối liền nhân loại với Thiên Chúa, nhờ nhịp cầu này mà chúng ta sẽ được Thiên Chúa thứ tha.
GỬI QUA SỰ CHẾT
Hậu quả của tội lỗi là sự chết. Cái chết phần xác và nhất là cái chết phần hồn. Từ ngàn xưa và cho đến ngày hôm nay, con người đã phải run sợ trước cái chết. Họ ra sức tìm kiếm viên thuốc trường sinh bất tử, để khỏi phải chết. Thế nhưng viên thuốc trường sinh ấy mãi mãi chỉ là một câu chuyện huyền thoại. Một giấc mơ chưa bao giờ trở thành sự thật. Cái chết là như một tiếng chuông gọi hồn. Nó sẽ vang lên bất kỳ lúc nào và bất kỳ ở đâu. Dù là vua chúa uy quyền thì cũng vẫn phải cúi đầu vâng theo. Không ai có thể chống cự lại nó. Cái chết là khung cửa hẹp đẩy chúng ta vào vùng tăm tối.
Thế nhưng Đưc Kitô đã hiên ngang bước vào, đã chiến thắng anh dũng và đã chiếu dọi vào khung cửa tăm tối ấy một luồng ánh sáng huy hoàng. Kể từ nay với Đức Kitô Phục sinh, dù chúng ta vẫn còn phải chết, nhưng cái chết không còn là một trạm cuối cùng để chấm dứt mọi sự, nhưng là một bước đi dứt khoát, để nhờ đó chúng ta được tiến vào vùng ánh sáng, được tiến vào cõi sống đời đời. Vì chúng ta đã được ghép, đã được tháp vào Đức Kitô. Hạt giống của sự sống vĩnh cửu đã được gieo trồng nơi con người chúng ta. Từ đó những tháng ngày hiện tại sẽ ngập tràn hy vọng, bởi vì cuộc đời chúng ta đang được dấu ấn trong Thiên Chúa, nơi Đức Kitô, nó sẽ nẩy mầm, đâm bông và kết trái trong ngày sống lại, khi Đức Kitô ngự đến trong vinh quang.
Cái chết là một định luật chung của số kiếp con người. Cho dù sông có cạn, núi có mòn thì sự thật này vẫn không hề thay đổi, vì từ trước đến nay, nào có ai thoát khỏi cái chết. Nó không phải là một cái gì xa lạ, nhưng là một cái gì thật gần gũi. Nó không phải là một con dao cắt đứt cuộc đời chúng ta, nhưng là một yếu tố luôn ở sẵn trong chúng ta. Từ khi chúng ta bắt đầu sống, thì chúng ta cũng bắt đầu chết. Càng đi xa trong cuộc sống, thì chúng ta lại càng tiến gần tới cái chết. Nếu cuộc sống là một chấm hỏi, thì cái chết cũng là một chấm hỏi, một vấn đề làm cho chúng ta ban khoăn lo nghĩ. Cái chết là như một vị nữ hoàng quyền uy, mà mọi người chúng ta đều phải vâng phục.
Tuy nhiên như chúng ta đã thấy: có một người trên trái đất này đã chiến thắng, đã vượt qua cái uy quyền của sự chết. Người ấy chính là Đức Kitô. Thánh Phaolô đã diễn tả như sau: Đức Kitô đã sống lại từ trong kẻ chết. Ngài sẽ không còn chết nữa và sự chết không còn quyền hành gì trên Ngài nữa. Hỡi sự chết, chiến thắng của ngươi ở đau? Hỡi sự chết, sức mạnh của ngươi ở đâu? Hãy cảm tạ Chúa, Đấng đã cho chúng ta chiến thắng nhờ Đức Kitô.
Kitô giáo là đạo của Tin Mừng. Hay nói một cách mạnh mẽ hơn, Kitô giáo đã trở thành một tin mừng cho nhân loại khi rao giảng sự chết của Đức Kitô đã chiến thắng tội lỗi và sự phục sinh của Ngài đã chiến thắng cái chết. Từ ngày Đức Kitô Phục sinh, chúng ta có quyền hy vọng và nói lên rằng: chúng ta sống là để chết và chúng ta chết là để được sống muôn đời. Cái thung lũng nước mắt chúng ta đang sống mới chỉ là một tiền đường, một khởi đầu cho tòa nhà vĩnh cửu, mà rồi chúng ta sẽ sống ở đó sau này. Ngày tháng hiện tại là hạt giống được gieo xuống đất để nảy sinh những hoa trái vĩnh cửu. Đó chính là sứ điệp mà Đức Kitô phục sinh đã gửi cho chúng ta.
Lạy Đức Kitô phục sinh,
Đã chiến thắng tội lỗi và sự chết,
Xin thương xót chúng con.
Chúa Giêsu Kitô, một vị tướng lãnh có một chiến lược hết sức ly kỳ: lùi một bước để tiến hai bước, Ngài lùi để tiến mạnh mẽ và chắc chắn hơn, Ngài nhượng bộ cho địch thù, để đang khi họ đàn hát vui mừng vì đã loại trừ được một đối thủ nguy hiểm thì Ngài quay lại mà chiếm cuộc toàn thắng cuối cùng, Ngài đã tự nộp mình cho những vua quan văn võ đạo đời về cả hai dân Do Thái và Rôma, họ đã đối xử với Ngài như bọn sói rừng hung dư xông vào cắn xé con chiên hiền lành: đánh đập Ngài, bắt Ngài vác thập giá và căng thây Ngài trên cái giá khổ hình đó, họ đã giết Ngài, chưa hết, một tên lính lại lấy lưỡi đòng đâm thủng trái tim Ngài. Lẽ nào một người đã bị đâm thủng trái tim mà còn sống được sao? Một người đã được chôn táng cẩn thận trong mộ đá mà còn sống sao?
Đúng thế, đúng như Chúa đã báo trước nhiều lần: “Con Người sẽ bị nộp cho kẻ gian ác, chúng sẽ giết Người, nhưng ngày thứ ba Người sẽ sống lại”. Hôm nay, không riêng gì Giáo Hội Công giáo mà tất cả những người tin Chúa Kitô trên khắp thế giới đều hân hoan mừng cuộc chiến thắng khải hoàn của Chúa Giêsu: Ngài đã sống lại, Ngài đã Phục sinh. Không có tác giả Tin Mừng nào thuật lại chính sự việc Chúa sống lại: Ngài sống lại đích xác vào giờ nào và như thế nào, điều đó không ai được biết, nhưng cả bốn sách Tin Mừng khi kể biến cố Chúa Giêsu sống lại đều nhất trí về ba điều: Thứ nhất, thời gian sống lại là sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, theo cách tính bây giờ là sáng sớm ngày Chúa nhật. Thứ hai, sự việc xảy ra là mộ trống, Chúa Giêsu không con ở trong mộ, có những nhân vật chứng kiến sự kiện này là cô Maria Macđala, hai tông đồ thế giá nhất là Phêrô và Gioan. Thứ ba, Chúa Giêsu đã hiện ra nhiều lần với các tông đồ và với nhiều người khác trong những hoan cảnh khác nhau.
Quả thực, một con người có tên là Giêsu, và còn được gọi là Kitô, đã từng khuấy động cả nước Do Thái, con người đó đã bị xét xử trong một vụ án công khai làm xôn xao cả thủ đô Giêrusalem, liên hệ đen cả chính quyền bảo hộ cao cấp nhất thời đó ở Palestine, con người đó đã bị giết chết trên thập giá, được an táng trong mộ đá, và mộ đã được niêm phong cẩn thận có lính gác. Thế rồi, đúng như đã nghe nói trước, ngày thứ ba sau khi chết, con người đó không còn trong mộ, Ngài đã sống lại. Đây là một biến cố vĩ đại, một sự kiện vô tiền khoáng hậu, độc nhất vô nhị, có một không hai trong lịch sử: Chúa Giêsu Kitô Phục sinh.
Đây là một sự kiện minh giáo hùng hồn nhất, chứng tỏ sứ mệnh thần linh của Chúa Giêsu, đồng thời đây cũng là một chân lý nòng cốt của đức tin Công giáo, là nền tảng căn bản cho lâu đài đức tin của chúng ta: Chúa sống lại mới cứu chuộc được nhân loại, nếu như Ngài chết luôn như các giáo chủ khác thì Ngài không có quyền gì cứu chuộc chúng ta, nhưng Ngài đã sống lại để chứng tỏ Ngài là Thiên Chúa, là Thiên Chúa hằng sống và là nguồn sống, tư đó Ngài ban sự sống cho tất cả mọi người, ai tin vào Ngài thì được sống đời đời.
Như vậy, một điều chắc chắn: sự kiện Chúa Phục sinh không thể minh chứng một cách rõ ràng như chúng ta minh chứng một sự kiện tự nhiên, không thể chụp hình, đo lường hay thí nghiệm được, vì cả nhân loại chỉ có một mình thân xác Chúa sống lại, lấy đâu mà thí nghiệm, kinh nghiệm, cho nên, việc Chúa sống lại, vấn đề chính yếu là đức tin: không thấy mà tin, bơi vì sự việc đó vượt trên phạm vi của khoa học thực nghiệm cũng như không thể nào dùng những lý luận hay những bằng chứng khoa học để minh chứng. Tuy nhiên, khi xem xét hậu quả của niềm tin nơi mầu nhiệm đó, người ta có thể nhận ra mầu nhiệm ấy chân thật, vững chắc.
Hậu quả của niềm tin đó là Kitô giáo nói chung và Giáo Hội Công giáo nói riêng. Nói rõ hơn, Kitô giáo chính là bằng chứng lịch sử cho sự kiện Phục sinh của Chúa Kitô, chính sự kiện Chúa Kitô Phục sinh đã phát sinh ra Kitô giáo, và cho đến ngày nay mầu nhiệm Phục vinh vẫn là nền tảng của Kitô giáo, không có Chúa Kitô Phục sinh không thể có Kitô giáo, hủy bỏ được Chúa Kitô Phục sinh, đao Kitô không còn. Lời thánh Phaolô xưa kia đã đúng, ngày nay vẫn đúng và sẽ còn đúng mãi: “Nếu Đức Kitô không sống lại thì tất cả niềm tin của chúng ta sụp đổ”. Như vậy, tất cả những điều trên đây cho chúng ta biết: mac dầu Kinh Thánh đã cống hiến cho chúng ta một số bằng chứng về sự Phục sinh của Chúa Kitô, nhưng đối với mầu nhiệm cao cả và nòng cốt này vẫn đòi hỏi chúng ta phải có một niềm tin, hay đúng hơn, một đức tin. Nếu Chúa Giêsu đòi hỏi chúng ta phải tin những điều Ngài giảng dạy và những việc Ngài làm nhân danh Thiên Chúa, thì Ngài lại càng đòi hỏi chúng ta phải đặt niềm tin sắt son gắn bó với mầu nhiệm Phục sinh, là cao điểm, là trung tâm điểm của toàn thể các mầu nhiệm của Ngài.
Tóm lại, sự kiện Chúa Kitô Phục sinh là một trong những chân lý đức tin, một mầu nhiệm. Đây là chân lý nền tảng cho cuộc sống đức tin và niềm hy vọng của chúng ta. Chân lý đức tin này giúp cho chúng ta có một cái nhìn mới về Thiên Chúa, về chính mình, về cuộc đời, về sự sống, sự chết, đời này, đời sau, về lịch sử, về những biến cố thăng trầm… những cái nhìn mới ấy không sách vở nào ban cho chúng ta được, mà chính mỗi người phải cảm nghiệm để hướng dẫn và giúp chúng ta sống mỗi ngày một tốt đẹp hơn. Như vậy cũng có nghĩa là chúng ta đừng bao giờ hài lòng với một đức tin lý thuyết và hình thức, nhưng phải sống một đức tin chân thật và thân ái. Nói rõ hơn, chính cách sống tốt đẹp của chúng ta, như thực hành các việc đạo đức cho nghiêm chỉnh, sống hài hòa, công bằng và yêu thương với mọi người… Sống như vậy là chúng ta đang thể hiện niềm tin vào Chúa Kitô Phục sinh và sự phục sinh của chính mình.
Hai Chúa nhật trước chúng ta suy niệm về vai trò của hy sinh và đau khổ, cũng như cách chúng có thể là người dọn đường cho sự sống. Hôm nay, chúng ta cử hành chính sự sống. Sự Phục sinh của Chúa Giêsu là dấu chỉ và là lời hứa, đem lại hy vọng cho chúng ta, mỗi khi chúng ta phải sống giữa những thử thách, đau khổ và nghịch cảnh. Chúng ta cử hành ngày Phục sinh kỳ diệu, là sự thật và là chiến thắng tối hậu của sự sống và tình yêu.
Tiếng reo vui từ khắp nơi: “Chúa Giêsu đã sống lại rồi”. Tiếng reo vui đó xuất phát từ kinh nghiệm được bà Maria Mađalêna ke lại: “Tôi đã thấy Chúa”. Đó cũng là thực tại mà các tông đồ sẽ chia sẻ với ông Tôma trong bài Tin Mừng tuần tới. Tin Mừng về việc Chúa Giêsu đã sống lại sẽ còn được chúng ta chia sẻ với toàn thể thế giới.
Ngày hôm nay không còn việc sầu thương khóc lóc nữa. Ngày hôm nay là thời giờ để vui mừng và tạ ơn.
Tất cả những đau khổ và hy sinh mà chúng ta đã trải qua là quan trọng vì chúng ta sẽ đem lại cho chúng ta một cảm nghiệm về niem hoan lạc tràn đầy của ngày Phục sinh. Nếu không có thập giá, nếu không có những đau khổ của Chúa Giêsu, thì sự sống lại sẽ mất đi quyền năng của nó là dấu chỉ của cuộc chiến thắng của Thiên Chúa trên tội lỗi và sự chết. Ngày hôm nay, chúng ta đã bắt đầu được chia sẻ cuộc chiến thắng quyết định của Chúa Kitô, và mang lấy trách nhiệm chia sẻ Tin Mừng này với mọi người. Sự Phục sinh làm biến đổi cách chúng ta nhìn về cuộc sống vĩnh cửu. Chúng ta không còn thất vọng khi phải đương đầu với thử thách và đau khổ nữa, nhưng chúng ta có thể nhìn thấy trước với niềm hy vọng sẽ được hưởng vinh quang mà các thánh sẽ lãnh nhận trong ngày tận thế.
Chúng ta hãy bước ra khỏi bóng tối của ngôi mồ và bước vào ánh sáng Phục sinh, rồi sống cuộc đời của mình trong niềm tín thác vào tình yêu vô biên mà Thiên Chúa dành cho chúng ta. Chúng ta hãy mở lòng ra để đón nhận ân sủng hy vọng. Chúng ta hãy để cho tâm trí mình được đổi mới và sống trong niềm xác tín vào lời hứa về sự sống đời đời, mà Chúa Giêsu đã hứa ban cho chúng ta nếu chúng ta đặt niềm tin, cậy, và yêu mến vào Người.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin ngự đến và đổi mới cuộc sống của con trong chân lý về sự sống lại. Xin đừng để con thất vọng khi gặp phải đau khổ và tội lỗi xảy đến trong cuộc đời, nhưng xin cho con luôn xác tín và chia sẻ cuộc chiến thắng của Chúa Kitô trong từng ngày sống của con.
Phụng vụ hôm nay trình bày cho ta sự tương phản giữa bóng tối và ánh sáng.
Mở đầu phần nghi thức, nhà thờ chìm trong bóng tối. Bóng tối tượng trưng cho thế lực sự dữ, sự ác. Khi Đức Giêsu chưa Phục sinh, sự dữ, sự ác còn thống trị. Nhân loại chìm ngập trong bóng tối sự chết.
Cây nến Phục sinh tượng trưng cho Đức Kitô Phục sinh. Đức Kitô Phục sinh chiếu lên nguồn sáng mơi, xua tan đi bóng đêm. Đức Kitô Phục sinh là sự sống mới đã chiến thắng sự chết.
Như cây nến muốn chiếu sáng phải tiêu hao chính mình, Đức Kitô đã phải chịu tiêu hao đi trong những đớn đau, khổ cực, tủi nhục và cả trong cái chết, mới đem lại ánh sáng sự sống cho ta.
Chúng ta là con cái Chúa, là con cái của sự sáng. Nhưng trong ta còn nhiều phần chưa thuộc về Chúa. Nhiều phần trong tâm hồn ta còn thuộc về bóng tối.
- Có thứ bóng tối tội lỗi nhận chìm linh hồn ta trong những vực sâu tối đen không có đường thoát ra.
- Có thứ bóng tối đam mê dục vọng dìm linh hồn ta trong cơn mê ngủ miệt mài, mất hết ý chí phấn đấu tiến lên.
- Có thứ bóng tối tham lam ích kỷ làm mờ lương tâm, lý trí, khiến ta coi tiền bạc trọng hơn tình nghĩa. Vì tiền bạc mà dám phạm những tội ác tày trời. Vì lợi nhuận của mình mà làm thiệt hại cho người khác.
- Có thứ bóng tối ghen ghét oán thù nó làm cho tâm hồn ta không lúc nào bình an, vì chìm ngập trong nỗi hận thù dai dẳng.
- Có thứ bóng tối tự ái kiêu căng khiến linh hồn ta không tìm thấy niềm vui trong sự khiêm nhường tha thứ.
Tất cả những bóng tối đó đang khiến linh hồn ta suy yếu, chết dần chết mòn. Tất cả những bóng tối đó ngăn chặn ánh sáng của Chúa, ngăn chặn dòng suối ơn lành của Chúa đổ vào hồn ta.
Để ánh sáng Phục sinh của Chúa tràn vào hồn ta, ta phải quét sạch những bóng tối còn vương vấn trong tâm hồn.
Cũng như cây nến phải chịu tiêu hao mòn mỏi mới nuôi được ánh sáng soi chiếu đêm tối, ta cũng phải phấn đấu với chính bản thân mình, quên mình, chịu chết cho tội lỗi, để ta sống một đời sống mới.
Khi phấn đấu đẩy lùi bóng tối tội lỗi, ta thoát được ách ma quỷ và được sống trong ánh sáng của Chúa, trở nên con cái ánh sáng.
Lạy Đức Kitô Phục sinh, Chúa đã chiến thắng ma quỷ, xin giúp chúng con chiến đấu với ma quỷ, để được sống một đời sống mới trong ánh sáng của Chúa.
Đức Kitô đã sống lại thế nào, thì chúng ta cũng sẽ được sống lại như vậy. Thế nhưng, làm sao chúng ta có thể sống lại được?
Có những kẻ nghĩ rằng: Sự sống lại làm sao có thể xảy ra cho những người chết mất xác, chết không toàn thây, chẳng hạn như bị pháo kích thân xác nổ tung thành từng mảnh nhỏ, hay chết chìm dưới lòng biển cả làm mồi cho cá mập? Chết mà không để lại một dấu vết nào cả.
Tôi xin hỏi lại họ: Phải chăng đó là điều khó khăn đối với quyền năng Thiên Chúa? Dựng nên một sự sống khi nó chưa có hay là phục hồi nó một khi đã có, thì đằng nào khó hơn? Làm cho một thân xác được sống lại hay là tạo thành nó từ hư vô, đằng nào khó hơn? Chẳng lẽ Đấng Toàn Năng, đã tạo dựng vũ trụ lại bất lực, không thể cứu chúng ta khỏi sự hư mất sao? Trong bức thư gửi giáo dân Côrintô, thánh Phaolô đã viết: Có người bảo kẻ chết làm sao sống lại được, họ sẽ lấy thân xac nào mà phục sinh? Thật là vô lý. Đúng thế. Thật là vô lý, nếu chúng ta bảo rằng Đấng đã tạo thành sự sống, lại không có thể trao ban sự sống ấy lại một lần nữa. Thật là vô lý nếu chúng ta bảo rằng một thân xac đã chết và bàn tay uy quyền của Chúa sẽ không thể nào làm cho nó sống lại.
Có kẻ thì nói: Tất cả đã bị vùi sâu trong lòng đất lạnh, tất cả đã trở về với cát bụi, thì làm sao có thể nghe thấy tiếng Con Thiên Chúa?
Như chúng ta đã biết: Lời của Thiên Chúa là Lời của uy quyền. Lời ấy đã phán: Hỡi chàng trai, Ta truyền cho con hãy chỗi dậy. Lập tức chàng trai thành Naim đã chỗi dậy, đã sống lại. Đứa con gái của ông Giairô, cũng đang nằm chết ở trên giường và Lời ấy đã vang lên: Hãy chỗi dậy. Lập tức, cháu bé ấy cũng đã chỗi dậy, cũng đã sống lại. Cũng như Lagiarô, mặc dầu đã được chôn táng trong mồ những bốn ngày rồi, nhưng khi Lời ấy vang lên, thì Lagiarô cũng đã chỗi dậy, cũng đã sống lại và ra khỏi mồ. Và như thế, Lời ấy cũng sẽ vang lên một lần nữa và tất cả mọi người đã chết đều được sống lại.
Nhìn vào cảnh vật thiên nhiên, chúng ta sẽ thấy được rằng Thiên Chúa đã in dấu chiến thắng trên vật chất. Sau đêm tối là hừng đông rạng rỡ. Sau mùa đông băng giá là mùa xuân huy hoàng. Một hạt giống mục thối cho mầm non vươn lên.
Với chúng ta cũng vậy, sẽ có một cuộc phục sinh để hoàn tất chương trình cứu độ. Bấy giờ sẽ không tang tóc và đau khổ, chết chóc và buồn phiền, bởi vì Thiên Chúa sẽ lau khô những giọt nước mắt chúng ta. Bấy giờ chúng ta sẽ tiến lên, lãnh nhận cuộc sống vĩnh cửu.
Vậy niềm tin vào sự sống lại sẽ đem đến cho chúng ta những hậu quả nào?
- Hậu quả thứ nhất, đó là một lời báo động: Hãy chuẩn bị cho ngày ấy vì ngày ấy là một ngày trọng đại nhất của lịch sử nhân loại. Cũng như ngày đầu tiên, Thiên Chúa phán: Hãy có ánh sáng và ánh sáng liền có. Thì trong ngày cuối cùng ấy, Thiên Chúa sẽ nói: Hãy có bóng tối và chấm dứt mọi sự. Lập tức đã xảy ra như thế. Rồi những người đã chết sẽ chỗi dậy và sống lại: Từng triệu triệu người, từ những ngôi mộ lộng lẫy hay từ lòng đất ở một nơi xa xôi nào đó, cũng như từ biển khơi bao la; những kẻ đã bị quên lãng, không một ai biết đến; những kẻ đã từng nếm mùi khổ đau trong cuộc sống; những người trung thành với Đức Kitô cũng như những kẻ phản bội Ngài…Tất cả sẽ nhìn thấy Con Người ngự đến trong vinh quang. Hãy chuẩn bị cho ngày ấy. Nếu một lúc nào đó chúng ta sẽ được sống lại, thì ngay từ giờ chúng ta phải mến Chúa và yêu người, vì cuộc đời vĩnh cửu không thể nào được tạo nên bởi một nếp sống tầm thường, trống rỗng và không một chút công nghiệp. Cũng như một hạt lúa lép hay một chiếc vỏ trấu sẽ không thể nào nảy mầm và mọc lên thành một cây lúa xanh tươi. Bởi đó, hãy chuẩn bị cho mình tấm áo cưới là tâm hồn trong sạch và đôi tay chất đầy công nghiệp, vì đó là những thứ hành trang cần thiết để được đón nhận vào nước trời.
- Niềm tin tưởng vào sự sống lại còn là một nguồn sức mạnh cho chúng ta trong những cám dỗ và thử thách. Thực vậy, thánh Phaolô đã viết: Nếu anh em được sống lại với Đức Kitô, thì anh em hãy tìm kiếm những sự trên trời. Nhờ việc Phục sinh mà chúng ta có được sức mạnh để đứng vững, để trung thành cùng Chúa. Nếu như bây giờ chúng ta phải chờ đợi, thì chắc chắn ngày huy hoàng ấy sẽ xuất hiện. Nếu như bây giờ chúng ta phải bước đi trong đêm tối, thì chắc chắn bình minh sẽ bừng sáng. Điều quan trọng đó là đừng bao giờ chúng ta thất vọng, đừng bao giờ chúng ta nản chí. Bởi vì, chúng ta không thể nào gặt hái khi những bông lúa còn xanh và chưa được chín vàng.
- Sau cùng, niềm tin tưởng vào sự sống lại sẽ là một niềm an ủi cho chúng ta. Thực vậy, người ta kể lại rằng: Những sắc dân bán khai ở Pérou, mỗi khi có nhật thực, mặt trời bắt đầu tối lại giữa ban ngày, thì họ vội vã giật tóc và nức nở khóc lóc một cách thảm thiết vì họ nghĩ rằng sẽ chẳng còn mặt trời nữa.
Với chúng ta thì khác. Từ ngày Đức Kitô Phục sinh, chúng ta biết rằng: Bóng tối và cái chết chỉ kéo dài một thời gian ngắn. Chúng ta có thể buồn và khóc trên phần mộ của những người thân yêu, nhưng nỗi buồn của chúng ta sẽ chẳng bao giờ đi đến chỗ tuyệt vọng như những kẻ không tin tưởng, bởi vì chúng ta biết rằng: Hạt lúa cần phải mục nát đi thì mới nảy mầm, lớn lên, đâm bông và kết trái.
Thiên Chúa đã làm cho Đức Kitô sống lại thế nào, thì Ngài cũng sẽ làm cho chúng ta được sống lại như vậy. Chúng ta cũng biết rằng: Mặt trời lặn vào ban chiều, nhưng sáng hôm sau, sẽ là hừng đông rạng rỡ. Mùa thu thì lá vàng rơi, nhưng khi mùa xuân trở lại, thì những cành cây trơ trụi sẽ đâm chồi nẩy lộc và trở nên xanh tươi.
Sau cùng, chúng ta cũng biết rằng: Hiện thời thân xác chúng ta sẽ phải chết đi, nhưng rồi ngày hội lớn sẽ đến và chúng ta sẽ được sống lại như lời Chúa đã phán: Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta thì dù có chết cũng sẽ sống. Và Ta, Ta sẽ cho họ được sống đời đời.
Cái chết là khung cửa hẹp mà tất cả chúng ta đều phải bước qua. Kẻ thì lo buồn run sợ, kẻ thì khóc lóc chống cự. Chỉ có một người đã hiên ngang bước vào, đã chiến thắng và đã chiếu vào khung cửa tối tam ấy một luồng ánh sáng. Người ấy chính là Đức Kitô Phục sinh, Ngài đã cầm trên tay cành lá chiến thắng và đem đến cho chúng ta một mùa xuân vĩnh cửu.
Trước ngôi mồ trống của Đức Giêsu, có hai cái nhìn, dẫn đến hai cái thấy khác nhau:
- Cái nhìn của bà Maria Magdala là cái nhìn tự nhiên, bị ảnh hưởng bởi tình cảm: chỉ mới nhìn tảng đá đã lăn khỏi mộ, tình cảm của bà bị tác động ngay khiến bà không còn thấy thêm điều gì khác mà chỉ nghĩ đến tình huống xấu nhất: “Người ta đẽ đem Chúa ra khỏi mộ!” Cái nhìn tình cảm này không giúp thấy được sự thật mà chỉ làm cho bà buồn rầu, lo lắng, khóc lóc.
- Cái nhìn của người môn đệ Chúa yêu được đức tin hướng dẫn: Ông nghe nói tảng đá đã lăn khỏi mộ, ông chạy đến nơi để xem và xem xét rất kỹ. Ông cúi xuống nhìn vào trong, quan sát những tấm khăn liệm và dừng lại để suy nghĩ. Rồi ông nhớ lại những lời Thánh kinh mà Đức Giêsu đã dạy. Cái nhìn này giúp ông thấy được sự thật: Đức Giêsu đã sống lại. Cái nhìn đức tin này đem lại cho ông niềm vui: “Ông đã thấy và đã tin”.
Có thể so sánh cái nhìn đức tin giống như người ta nhìn các sự vật trong đêm tối bằng ánh sáng của tia hồng ngoại, nên có thể thấy được những điều mà mắt thường không trông thấy. Theo định nghã, “Tín hữu” là người tin. Vì thế tín hữu vừa có cái nhìn tự nhiên như mọi người, vừa phải có cái nhìn đức tin. Ai biết nhìn sự việc bằng đức tin thì sẽ thấy mọi sự rất thanh thản và lạc quan.
Chẳng hạn thánh Phaolô trong lúc đang ngồi tù và sắp bị đem ra xử, ông nghĩ đến hai tình huống có thể xảy ra: một la bị xử tử, hai là được tự do. Bằng cái nhìn đức tin, ông đã thấy sống hay chết đều tốt cả: “Đối với tôi, sống là Đức Kitô và chết là một mối lợi”. Còn thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu sau khi đã nhìn lại mọi sự việc xảy đến trong đời mình bằng cặp mắt đức tin, đã kết luận “Tất cả là hồng ân”.
Đức Giêsu Phục sinh đã chiếu một luồng sáng mới lên tất cả mọi sự. Thiết tưởng, việc đầu tiên mà chúng ta cần cố gắng và cũng là ơn đầu tiên mà chúng ta cần xin trong mùa Phục sinh là biết nhìn mọi sự bằng cặp mắt đức tin. Có như thế, trong tất cả mọi sự chúng ta mới đều có thể lạc quan cất lên tiếng hát đặc trưng của Mùa Phụng vụ này: Halleluia!
Niềm vui mà các tông đồ cảm nghiệm được trong ngày Phục sinh hẳn phải lớn lao biết bao. Câu chuyện sau đây sẽ giúp chúng ta hiểu được phần nào cảm hứng nơi niềm vui của họ:
Trong thế chiến 1, một người Nga Cô-dắc có hai cậu con trai tên Peter và Gregory. Ngày kia, ông nhận được một lá thư từ tiền tuyến. Vì không biết đọc, nên ông đã đưa cho cô con gái. Đó là lá thư từ viên sĩ quan chỉ huy của Gregory, được mở đầu như sau: “Tôi rất tiếc khi báo tin cho ông biết rằng cậu con trai của ông là Gregory đã bị tử nạn trong khi thi hành công vụ vào ngày 10 tháng 7. Gregory là một anh lính xuất sắc, và đã chết một cái chết anh dũng. Ông có đủ lý do để tự hào về anh ấy…” Tin này gây ra hậu quả ngay tức khắc và hoảng hốt đối với người cha. Dường như ông bị suy kiệt một cách rõ rệt. Chỉ trong khoảng vài ngày, ông già hẳn đi, gần như trong một đêm, mái tóc của ông đa ngả màu bạc. Trí nhớ của ông bắt đầu xuống dốc, và thậm chí trí khôn của ông cũng bị ảnh hưởng. Ông bắt đầu uống nhiều rượu. Ông đặt lá thư đó bên dưới tượng thánh trong nhà bếp. Mỗi ngày, ông đều lấy lá thư đó ra, và yêu cầu cô con gái của ông đọc lại. Nhưng ngay khi cô bắt đầu đọc “Tôi rất tiếc khi báo tin cho ông rằng…” thì ông liền lấy lá thư đó lại và cất đi. Sau khi vị linh mục ở địa phương dâng thánh lễ cầu hồn cho con trai ông, thì ông cảm thấy hơi khá hơn.
12 ngày qua đi trong tình trạng đó. Đến ngày thứ 13, một lá thư thứ hai gửi về từ tiền tuyến. Lá thư này nói rằng con trai của ông chưa chết! Anh chỉ bị thương, và bị bỏ mặc cho chết ở trên chiến trường. Sáng hôm sau, anh đã bò suốt 4 dặm đường, để trở về hàng ngũ của anh, kéo lê theo một sĩ quan cũng bị thương. Anh đã được phong quân hàm hạ sĩ, và được trọng thưởng huy chương ghi nhận sự can đảm của anh. Cho đến nay, những vết thương của anh đã được phục hồi tại bệnh viện, và anh sẽ sớm được trở về với gia đình. Khi nghe đến đây, người cha sôi sục niềm vui, ông chộp lấy lá thư, và đem vào làng. Ông chặn lại bất cứ người nào ông gặp gỡ trên đường, ép từng người đọc lá thư đó. Ông giải thích “Con trai tôi vẫn còn sống! Nó đã được trọng thưởng huy chương vì lòng can đảm của nó!”.
Câu chuyện này đem đến cho chúng ta một số ý tưởng về niềm vui mà các môn đệ cảm nghiệm được trong lễ Phục sinh đầu tiên. Nhưng cũng có những sự khác biệt. Con trai của người Cô-dắc thực sự chưa chết. Đức Giêsu đã chết. Các môn đệ đã chứng kiến tận mắt cái chết của Người. Lúc bấy giờ, ngôi mộ trống trơn, và họ đã thấy Đức Giêsu vẫn sống! Tuy nhiên, chúng ta phải ghi nhớ rằng sự sống lại không phải là trở về với cuộc sống trần thế – Đức Giêsu sống lại với một sự sống mới vượt ra ngoài cái chết.
Niềm vui của họ sôi sục lên, vì Đức Giêsu, người đứng đầu và bạn bè của họ, đã bẻ gãy những xiềng xích của sự chết bằng chính sức mạnh của Thiên Chúa. Sự chết, kẻ thù cuối cùng và vĩ đại nhất, đã bị khuất phục nơi Người.
Niềm vui của các tông đồ cũng có nghĩa là niềm vui của cả chúng ta nữa. Điều này không ngay tức khắc lấy đi khỏi chúng ta nỗi sợ hãi đối với cái chết. Bởi vì chúng ta vẫn còn phải đi ngang qua cái chết. Nhưng chính bằng cách đi ngang qua cái chết, mà Đức Giêsu đã khuất phục được nó. Như vậy, điều này cũng dành cho chúng ta, là những kẻ tin tưởng nơi Người.
Nếu không có lễ Phục sinh, thì câu chuyện về Đức Giêsu sẽ chỉ sáng hơn đôi chút, so với một ánh lửa lóe lên trong đêm tối mà thôi. Bóng tối sẽ vẫn còn có tiếng nói sau cùng. Nhưng với sự sống lại, chúng ta biết rằng bóng tối sẽ không có tiếng nói sau cùng nữa. Chúng ta đừng e ngai trong việc tắm mình trong ánh sáng rạng ngời, mà Đức Kitô sống lại đã đưa vào thế giới bóng tối và cái chết của chúng ta.
Chúng ta không bao giờ nên để cho bất cứ điều gì lấy đầy nỗi buồn nơi chúng ta, đến nỗi chúng ta quên mất niềm vui Phục sinh, niềm vui của Đức Kitô sống lại từ cõi chết.
Chúng ta không thể nào đánh giá được tính cách vĩ đại nơi sự sống lại của Đức Giêsu, trừ phi chúng ta nhìn nhận đầy đủ sự thật về cái chết của Người. Đức Giêsu chết đi trong tối tăm. Nhưng Người đủ tin tưởng nơi Thiên Chúa, để có thể đương đầu với bóng tối, và chờ đợi sự sống lại. Cú nhảy vọt trong lòng tin của Người không uổng công. Chúa Cha đã nâng Người lên. Hiếm khi Kinh Thánh và Giáo hội tiên khởi nói rằng “ Đức Giêsu sống lại từ cõi chết”, nhưng nói rằng “Thiên Chúa đã cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết”. Đức Giêsu cũng phải thực hiện một cú nhảy vọt trong lòng tin, mà một ngày kia, chúng ta sẽ được mời gọi thực hiện.
Đức Giêsu đã đi vào trong bóng tối của cõi chết, và bật dậy trong chiến thắng. Ngài đã giành được chiến thắng của Người – Người đã chế ngự sự chết. Nhưng chiến thắng đó phải vận hành theo cách thế của nó, và trở thành một thực tại nơi chúng ta, các môn đệ của Người. Chúng ta đạt được chiến thắng của Người ngay trong bản chất của chúng ta. Nếu chúng ta không chiến đấu và chiến thắng ngay trong bản chất của mình, thì chúng ta sẽ không có khả năng được hưởng lợi từ chiến thắng của Người, nhưng chúng ta vẫn còn ở dưới quyền lực của cái chết.
Chúng ta không bao giờ được nghi ngờ về tự thân sự sống lại – Thiên Chúa không thể chết được. Nhưng điều đáng ngạc nhiên và là quà tặng của lễ Phục sinh chính là sự sống lại cũng cho cả chúng ta nữa. Đức Giêsu đã được sống lại trong máu thịt của chúng ta. Chính cái chết của chúng ta đã bị đánh bại.
Và chúng ta tiếp tục đi tới trong cuộc đời, dần dần trở nên có ý thức về tính hay chết của mình, và về cuộc hành trình không thể tránh khỏi hướng đến cái chết. Cái chết tao ra một thách đố khổng lồ đối với lòng tin của chúng ta, bởi vì chúng ta chỉ nhìn vào phía sau cái chết, giống như xuyên qua một tấm kính tối tăm. Nhưng trong ngày hôm nay, chúng ta được hít thở luồng không khí trong lành cua sự sống đời đời.
Dường như sức mạnh của bóng tối có thể đang lan tràn, nhưng chúng ta đã giành được chiến thắng rồi. Chúng ta phải tin tưởng vào chiến thắng đó, và không được sống như thể cái chết vẫn còn thống trị chúng ta.
Trở nên người Kitô hữu là trở nên một con người của niềm hy vọng, nhờ những gì đã xảy ra trong ngày thứ ba. Nhưng niềm hy vọng của người Kitô hữu không phải là sự lạc quan hời hợt, dựa trên sự khước từ nhìn vào các sự kiện. Nói đúng hơn, đó chính là niềm tin tưởng sâu xa nơi Thiên Chúa.
Ngày Thứ Sáu Tuần thánh, một ngày của bóng tối và cái chết, đến với tất cả mọi người. Cũng vậy, ngày Thứ Bảy Tuần Thánh là một ngày của sự trống rỗng và u buồn. Trong mấy ngày này, thật khó mà tin tưởng được. Nhưng ngày Chúa nhật Phục sinh, ngày của sự sống và niềm vui, chắc chắn sẽ giống như ánh bình minh vậy. Kẻ thù cuối cùng là sự chết đã bị chế ngự.
Trong lòng từ ái của Người, xin Chúa mở lòng trí chúng ta ra, để chúng ta có thể tin tưởng vào tin vui nơi chiến thắng của Người vượt lên trên sự chết. Trong tình yêu của Người đối với chúng ta, Thiên Chúa lôi kéo chúng ta hướng ra bên ngoài, để đi vào một nơi mà chúng ta chưa biết, ở thật xa, trong cõi vô biên, trong chốn đời đời. Chúng ta tiến tới một cách tin tưởng và hy vọng hơn, bởi vì Đức Giêsu, Anh Cả của chúng ta, đã đi trước chúng ta.
Trong Tin Mừng sáng Chúa nhật Phục Sinh hôm nay, thánh Gioan kể cho ta câu chuyện ba người đi tìm Chúa: Maria Madalena, Phêrô và Gioan. Khi đọc đoạn Phúc Am đó chắc chắn mỗi người chúng ta đều nhận thấy rằng, tất cả ba người đều đến mồ, đều thấy cùng một sự kiện “mồ trống và khăn liệm để qua một bên”, nhưng chỉ có một mình Gioan là tin Chúa Giêsu đã sống lại. Thánh Gioan viết về chính mình rằng: “Tôi thấy và tôi tin”.
Để hiểu rõ sự kiện chúng ta hãy trở lại chiều thứ Sáu, sau khi Chúa Giêsu chịu chết, Phúc Am ghi lại rằng, chiều Thứ Sáu hôm đó người Do thái đến xin Philatô cho hạ xác những người bị đóng đinh xuống, vì họ không muốn thấy xác chết treo trên thập giá trong ngày Thứ bảy là ngày nghỉ lễ, gọi là ngày Sabat. Hơn nữa, ngày Sabat đó lại là ngày Sabat trong mùa lễ Vượt qua của họ. Phép tắc thủ tục xong, xác Chúa Giêsu được hạ xuống thì đã chiều tà, và theo phong tục của người Do thái, họ tính ngày mới bắt đầu từ lúc mặt trời lặn, khi mỗi người với mắt thường nhìn thấy được ít nhất vì sao lấp lánh trên bầu trời. Vì thế Đức Mẹ cùng với bà Maria Madalena và các môn đệ phải hối hả lo chôn xác Chúa Giêsu cho xong để về nhà trước khi mặt trời lặn, nếu không họ sẽ lỗi luật tôn giáo, vì ngày Sabat chỉ được đi bộ một quãng bằng ném hòn đá mà thôi.
Ngoài ra, chúng ta cũng nên biết qua về cách liệm xác của người Do thái; cách liệm xác của họ là rửa xác, ướp thuốc thơm và gói lại trong tấm vải trắng, xong lấy băng vải quấn lại từ đầu đến chân như người ta băng bó vết thương, xong xuôi đâu đay thì đem đặt xác vào hang đục sẵn trong đá và lấy tảng đá lớn đậy cửa hang lại. Vì hối hả cho nên Maria Madalena về nhà nhận thấy mình không cẩn thận đủ với Thầy kính yêu của mình, nên bà nán lòng chờ đến ngày Thứ Bay là sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, tức là Ngày Chúa nhật, bà đem thuốc thơm đến mồ để ướp lại xác Chúa. Nhưng đến nơi bà thấy mồ trống, cửa đã được đẩy ra mà không thấy xác Chúa Giêsu còn trong đó nên vội vã chạy về báo tin cho Phêrô và Gioan, vì Gioan còn trẻ nên chạy nhanh hơn do đó mà đến mồ trước. Gioan chỉ đứng ngoài chờ Phêrô tới, cả hai cùng vào một lượt, họ nhìn thấy vải liệm và khăn che mặt để gọn vào một chỗ, nên Gioan thú thật trong lòng là ông tin Chúa đã sống lại.
Phân tích tâm lý của ba nhân vật chúng ta sẽ thấy tại sao đối với Maria Madalena, bà đến mồ chỉ mong ướp xác Thầy lại cho chu đáo hơn. Bà cầm thuốc thơm nơi tay mà đầu óc bà chỉ nghĩ đến một thi thể đã nằm yên bất động, nói tắt một lời là bà đến mồ để tìm xác chết. Trong một tâm trạng như thế, khi thấy ngôi mộ trống không, bà khó có thể nhận ra việc Chúa Giêsu sống lại thật.
Còn Phêrô, ông sợ hãi, ông đã chối Thầy mình trong giờ phút bị hành hạ nhục nhã và ông sợ sệt bị liên lụy vì Thầy đã chết, đã chôn yên trong mồ. Điều ông mong muốn lúc đó là xin đừng có gì rắc rối xảy ra nữa, xin được hai chữ “bình an”. Nhưng tại sao lại có sự kiện mất xác này? Ông chạy đến mồ với tất cả mọi lo âu trong đầu, ông đang lo có lẽ đứa nào đó sau khi giết Thầy lại tìm cách phá rối các tông đồ để kết án họ, để xử tử ho nữa chăng. Ông là trưởng nhóm, vậy ông chạy đến mồ để quan sát những gì đã xảy ra, trong lòng chỉ nghĩ đến việc tại sao thế này, tại sao thế nọ để tìm cách đối phó. Với tâm trạng đó, Phêrô khó có thể nhận ra Chúa Giêsu đã sống lại.
Phần Gioan, ông yêu thương Chúa Giêsu và ông biết rằng, Chúa Giêsu đã yêu thương ông. Trong Phúc Am của ông, khi viết điều gì có thể liên quan đến mình thì thánh Gioan luôn dùng kiểu nói: “Người môn đệ được Chúa Giêsu yêu dấu”. Thánh Gioan đã yêu mến Chúa Giêsu thật sự, tình yêu đó thể hiện ra bên ngoài, nhất là trong những giờ phút cuối cùng, thánh Gioan đã theo chân Chúa Giêsu trên đường thập giá và cũng là tông đo duy nhất đứng dưới chân thập giá. Cuối cùng, ngài chỉ về nhà cùng với Đức Mẹ sau khi chôn cất Chúa Giêsu xong.
Kinh nghiệm cho thấy rằng khi yêu ai thì người ta thường hay nghĩ đến người ấy, luôn cảm nghiệm cách hiện diện của người ấy trong cuộc đời của mình, dù cho nhiều khi hoàn cảnh bắt buộc phải xa nhau hoặc từ biệt. Gioan yêu mến Thày, vì thế Chúa Giêsu luôn hiện diện trong ông, vì vậy ông luôn nhớ lại lời giảng dạy của Thầy trong lòng và hy vọng Thầy sẽ sống lại. Vì Thầy đã từng nói: “Con Người sẽ bị nộp vào tay quân dữ, họ sẽ giết Ngài, nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại”. Với tâm tình đó, Gioan nhận ra dễ dàng việc Chúa Kitô Phục sinh. Ông đa thấy và ông đã tin.
Qua việc phân tích tâm lý của ba nhân vật phần nào có thể giúp cho chúng ta một bài học thật quí giá là: “Chỉ có tình yêu đích thực từ đáy tâm hồn mới làm cho người ta dễ nhận ra Chúa Kitô Phục sinh”. Thật vậy, cuộc đời của người Kitô hữu là một cuộc hành trình đức tin, chúng ta cùng đi tìm Chúa, chúng ta có thể cảm thấy sự hiện diện của Chúa. Chúng ta có thể hiểu được ý nghĩa của mọi biến cố trong cuộc đời cua mình, nếu chúng ta biết yêu Chúa như Gioan, nghĩa là làm cho tâm hồn mình luôn tiến bước trên con đường tình yêu của Chúa.
Ước gì cuộc hành trình đức tin ấy luôn là ngọn đèn soi dẫn chúng ta tiến bước trong cuộc sống trần gian này, để rồi giữa những thử thách của cuộc đời, chúng ta biết nhận ra được sự hiện diện của Chúa luôn đồng hành với chúng ta. Xin Ngài gìn giữ đức tin của chúng ta luôn vững mạnh, đức tin mà giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua kinh Tin Kính.
Chưa bao giờ Phụng vụ Lời Chúa lại dành cho giới phụ nữ một vị thế đáng trân trọng như hôm nay. Vâng, thực đấy. Tin Mừng lễ Phục Sinh nói nhiều đến họ. Họ là những người nhận được tín hiệu Phục Sinh đầu tiên, họ cũng là những người được Đấng Phục Sinh cho gặp mặt trước hết, và chính họ còn là những người được trao nhiệm vụ lớn lao là đem Tin Vui Phục Sinh đến cho các tông đồ. Nói khác đi, sơ dĩ giới nữ có được vị thế trân trọng là vì ưu thế của họ trước Tin Mừng Phục Sinh. Nhưng tại sao họ lại có được ưu thế ấy? Phải chăng chỉ vì họ là phụ nữ? Tất nhiên không phải thế, mà vì những lý do khác.
- SỞ DĨ GIỚI NỮ CÓ ĐƯỢC ƯU THẾ TRƯỚC TIN MỪNG PHỤC SINH, LÀ BỞI VÌ HỌ CÓ MỘT TRÁI TIM CHÂN THÀNH
Phúc Am kể: từ sáng sớm khi trời còn tối ngày thứ nhất trong tuần, các phụ nữ đã đến thăm mồ Chúa Giêsu. Các bà đến chẳng phải vì tò mò, bởi nếu có, thiết nghĩ sự sợ hãi còn lớn hơn sự tò mò nữa, mà đúng ra chỉ vì cảm tính rất phụ nữ: các bà yêu mến Chúa Giêsu, nên muốn được biểu tỏ cảm tình chăm sóc Ngài, cho dẫu Ngài đã bị đóng đinh, đã chết và đã được an táng trong huyệt đá. Thế thôi.
Người ta bảo: trái tim giới nam có nhiều ngăn được sắp xếp theo thứ tự ưu tiên lâu ngày thành nếp, ngày nào thứ tự ấy bị đảo lộn, ngày ấy có lộn xộn trong nhịp sống. Khong biết có phải vì thế mà giới nam ưa bị nhồi máu cơ tim? Người ta cũng bảo: trái tim giới nữ chỉ có một ngăn duy nhất, một khi ngăn ấy đã dành cho ai thì chỉ có trời mới biết điều gì xảy ra. Có lẽ vì thế, ghen tuông chính là thuộc tính đi liền với giới nữ? Không biết đúng sai? Nhưng nếu không sai, thì rõ ràng là trong khi đáng lẽ phải lâm vào cảnh thất vọng sợ sệt co cụm khép kín, thì giới nữ trong bài Phúc Am lại vượt lên để bất chấp tất cả: bất chấp sự chết, bất chấp mồ bị niêm phong, bất chấp cả lính canh, miễn là họ được ở gần vị Thầy tôn quý.
Thiết tưởng, một trái tim chân thành như thế, ở giới nữ cũng như ở bất cứ ai, cũng xứng đáng nhận được Tin Mừng Phục Sinh.
- SỞ DĨ GIỚI NỮ CÓ ĐƯỢC ƯU THẾ TRƯỚC TIN MỪNG PHỤC SINH, LÀ BỞI VÌ HỌ CÓ MỘT GẮN BÓ TRUNG THÀNH
Phúc âm hôm nay không thấy bóng tông đồ nào. Trước thảm kịch ngày thứ sáu tuần thánh, chẳng ai bảo ai, họ trốn chạy mỗi người một ngả. Mạnh miệng như ông Tôma có lần hạ quyết tâm “Nào cùng lên Giêrusalem chịu chết cả đám”, thế mà trong ngày thương khó của Chúa, ông là “người thợ lặn” giỏi nhất, lặn biệt tăm. Sôi noi như ông Phêrô có lúc đã quyết liệt “Dẫu mọi người bỏ Thầy, con đây xin đồng sinh đồng tử với Thầy”, thế rồi sau đó chính ông trở thành kẻ chối Chúa táo bạo nhất, không chỉ một lần mà những ba lần.
Trong khi ấy, phụ nữ lại là những kẻ gắn bó trung thành với Chúa Giêsu hơn bất cứ ai. Họ có mặt bên Chúa trong cuộc khổ nạn, họ đứng gần dưới chân thánh giá cùng với Mẹ Chúa, họ góp sức trong lúc an táng, và hôm nay, dẫu Chúa đã ba ngày bị vùi chôn trong ngôi mộ niêm phong, họ vẫn trung thành đến viếng thăm ngay từ khi bình minh ló rạng. Và thế là mồ đã mở toang và họ được hạnh phúc là những người đầu tiên ghi nhận sự kiện phục sinh, cho dẫu đó mới chỉ là dạng thức sơ khởi của một ngôi mộ trống vắng.
Nếu hạnh phúc không phải từ trời rơi xuống, mà “như ngọc trong đá không có cho ai đi qua hững hờ”, thì rõ ràng gặp được Tin Vui Phục sinh chính là hạnh phúc cho họ và cho tất cả những ai đã trung thành gắn bó với Đức Kitô trong cuộc khổ nạn đời sống hằng ngày, bất luận họ là giới nữ hay giới nam.
- SỞ DĨ GIỚI NỮ CÓ ĐƯỢC ƯU THẾ TRƯỚC TIN MỪNG PHỤC SINH, LÀ BỞI VÌ HỌ CÓ NHỮNG BƯỚC ĐI NHIỆT THÀNH
Để ý một chút, người ta thấy hình ảnh người nữ nêu lên trong Phúc âm hôm nay rất lạ. Thay vì dáng vẻ yểu điệu thục nữ như trong các buổi biểu diễn thời trang áo dài Việt Nam nhiều người đã xem, thay vì những bước chuyển động nhẹ nhàng và dịu dàng giới nữ muôn đời vốn có, hôm nay qua trang Tin Mừng họ lại chạy, chạy vội vàng, chạy hớt hải, cắm đầu mà chạy. Nhưng đó chính là hình ảnh sinh động minh họa cho một chuyển động nhiệt thành, chỉ có được khi đã tiếp cận với dấu chứng phục sinh và đã trở thành điều kiện cần thiết để loan tin vui Phục sinh đến với mọi người.
Trước biến cố Phục sinh, bọn lính canh đã khiếp sợ, bởi vì họ chỉ là những kẻ canh giữ xác chết, còn người phụ nữ ban đầu có vẻ sợ đấy, nhưng lòng nhiệt thành đã giúp họ thắng vượt tất cả. Để mãi mãi hiểu rằng: Tin Mừng Phục Sinh một khi đã nhận được, người ta không thể giữ riêng làm của gia bảo, cũng không thể dửng dưng lạnh lùng, gỗ đá, càng không thể đa hệ nửa sợ hãi nửa vui mừng, mà chỉ còn lại một niềm vui duy nhất là sẵn sàng gieo bước loan tin Phục sinh bằng đời thấm đẫm tin yêu hy vọng. Đó là ba lý do giải thích tại sao giới nữ lại có ưu thế trước Tin Mừng Phục sinh, và thiết tưởng đó cũng là những điều kiện cần thiết cho tất cả mọi người trong lòng tin vào Đức Kitô Nguồn Sống. Hôm nay, cùng với Giáo Hội, ta lặp lại lời tuyên xưng đức tin: Đức Kitô là điểm đến của chương trình cứu độ. Nếu Thiên Chúa đã sáng tạo con người cách lạ lùng, thì Ngài còn tái tạo con người trong Đức Kitô Phục Sinh một cách lạ lùng hơn nữa, dù đời người và người đời đầy dẫy những vực thẳm tội lỗi chết chóc, nhưng vẫn có đó chiều cao của ơn thánh và sự sống. Đức Kitô chiến thắng tội lỗi và sự chết là để mở ra cho ta đường vào cuộc sống mới, nhưng ta có mới được hay không, mới nhiều hay ít, mới trong hay ngoài là tùy thuộc vào tâm tình của ta hôm nay trước Chúa Kitô. Sẽ là đong đầy sự sống nếu ta biết dành cho Ngài một trái tim chân thành sẵn sàng rung động trước những lời goi của Tin Mừng giữa con lốc xoáy của kiểu sống kinh tế thị trường hiện tại. Sẽ là ngọt ngào sự sống nếu ta biết trung thành gắn bó với Đức Kitô vượt qua những nghịch cảnh không thiếu giữa chốn chợ đời. Và sẽ còn là vo cùng sự sống nếu ta biết dệt đời mình bằng những bước đi nhiệt thành tin yêu, cho dẫu ở đâu đó, người ta vẫn còn cư xử với nhau bằng hung ác của những trái tim chó sói, hay vẫn còn hiện diện bên nhau bằng giả dối của những chiếc mặt nạ da người. Được như thế, niềm tin vào Đức Kitô Phục sinh mới là niềm tin của sự sống và người ta mới có thể sống vươn lên nhờ lòng tin của mình. Và như thế, nghĩ đến ưu thế của giới nữ trước Tin Mừng Phục sinh hôm nay rốt cuộc cũng chính là nghĩ về mình. Chẳng phải vì muốn chơi đẹp như phép lịch sự phương Tây, cũng chẳng phải vì tình cờ ngẫu hứng mà Đức Kitô đã dành cho giới nữ ưu tiên ấy, mà chỉ vì muốn thông qua họ, cho thấy một chân lý. Đó là: tất cả những ai chân thành tin, trung thành hy vọng và nhiệt thành yêu mến gắn bó với Đức Kitô, dù phải trải qua những khổ nạn trong cuộc sống cụ thể hằng ngày, họ sẽ là những người hạnh phúc biết sống do và cho Đấng Phục sinh. Hôm nay Phụng vụ hát lên niềm vui Allêluia, chúc mọi người trở thành những nốt nhạc sống động trong khúc hát mới của những con người mới đi trên đường mới của Đức Kitô Phục sinh.
(Suy niệm của Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng)
Chúa đã phục sinh. Lẽ ra ta phải phục sinh với Chúa, phải bước ra khỏi vùng tối tăm để nhập cuộc với ánh sáng huy hoàng của ơn phục sinh.
Nhưng nhiều lần xét mình, ta chợt thảng thốt: cứ hết lễ phục sinh này đến lễ phục sinh khác, hết mùa phục sinh năm nay, lại đến phục sinh năm tới…, tâm hồn ta vẫn còn thuộc về bóng tối,
- Có thứ bóng tối tội lỗi nhận chìm linh hồn ta trong những vực sâu không có lối thoát.
- Có thứ bóng tối đam mê dục vọng gìm linh hồn ta trong cơn mê ngủ miệt mài, mất hết ý chí phấn đấu tiến lên.
- Có thứ bóng tối tham lam ích kỷ làm lu mờ lương tâm, lý trí, khiến ta coi tiền bạc trọng hơn tình nghĩa. Vì tiền bạc mà dám phạm tội. Vì lợi nhuận mà làm thiệt hại người khác.
- Có thứ bóng tối ghen ghét oán thù làm tâm hồn ta không lúc nào bình an, vì chìm ngập trong nỗi hận thù dai dẳng.
- Có thứ bóng tối tự ái kiêu căng khiến linh hồn ta không tìm thấy niềm vui trong sự khiêm nhường tha thứ.
Tất cả những bóng tối đó đang khiến linh hồn ta suy yếu, chết dần chết mòn. Tất cả những bóng tối đó ngăn chặn ánh sáng của Chúa, ngăn chặn dòng suối ơn lành của Chúa đổ vào hồn ta. Để ánh sáng Phục Sinh của Chúa tràn vào hồn ta, ta phải quét sạch những bóng tối còn vương vấn trong tâm hồn.
Mùa phục sinh luôn luôn có hình ảnh cây nến. Nến phục sinh tượng trưng Chúa Kitô, Đấng đã thoát ly khỏi tối tăm của thế gian, mang lại ánh sáng phục sinh vô biên cho chính thế gian, phá tan bóng tối thế gian.
Như cây nến phải chịu tiêu hao mòn mỏi mới giữ được ánh sáng soi chiếu đêm tối, ta cũng phải phấn đấu với chính bản thân, quên mình, chịu chết cho tội lỗi, để sống một đời sống mới cho Chúa va trong Chúa.
Khi phấn đấu đẩy lùi bóng tối tội lỗi, ta thoát được ách ma quỷ và được sống trong ánh sáng của Chúa, trở nên con cái ánh sáng.
Lạy Đức Kitô Phục Sinh, Chúa đã chiến thắng ma quỷ, xin giúp chúng con chiến đấu với ma quỷ, để được sống một đời sống mới trong ánh sáng của Chúa. Amen.
(Suy niệm của Lm. JB Nguyễn Minh Hùng)
Chiếm vị trí quan trọng trong Kitô giáo, mầu nhiệm Phục sinh trở thành mầu nhiệm trung tâm của niềm hy vọng vĩnh cửu mà loài người mong đợi. Bởi thế không lạ gì thời gian cử hành mầu nhiệm Phục sinh là thời gian cao điểm của cả năm phụng vụ. Vì là mầu nhiệm cao cả, lễ Phục sinh trở thành Đại lễ mà không lễ nào có thể vượt qua.
Nhưng không phải chỉ có phụng vụ mới nhấn mạnh tầm quan trọng của lễ Phục sinh. Đúng hơn, phụng vụ chỉ dựa trên những gì đã được mạc khải, vì thế ta hãy nhìn lại chính lời mạc khải của Chúa từ trong Thánh Kinh, nhất là nơi các sách Tin Mừng như nền tảng của đời sống Giáo Hội để mà suy nghĩ, để cầu nguyện và để sống.
Chỉ nơi bốn sách Tin Mừng mà thôi, ta đã có đến 131 câu đề cập đến biến cố Phục sinh, kể từ lúc các phu nữ đi thăm mồ từ sáng sớm, đã phát hiện ra ngôi mộ trống và được báo cho biết Chúa đã sống lại, đến biến cố thăng thiên. Sách Công vụ Tông đồ và các thư Tân Ước còn cung cấp thêm 160 câu về đề tài Phục Sinh của Chúa chúng ta. Chỉ riêng thánh Phaolô đã có 22 lần nhắc đến.
Không ai phủ nhận rằng, mầu nhiệm nhập thể của Chúa Kitô là mầu nhiệm có tầm quan trọng. Vì khởi đi từ mầu nhiệm này, Con Thiên Chúa làm người. Phải có một con người – Thiên Chúa ấy, thì hôm nay mới có Đại lễ Vượt qua thánh thiện này. Biến cố giáng sinh còn là một sự kiện lịch sử quan trọng, không chỉ vì biến cố ấy trở thành cái mốc quan trọng của thời gian, nhờ đó loài người biết được năm tháng ngày giờ, nhưng biến cố nhập thể còn quan trọng hơn nhiều trong niềm tin vào một dòng lịch sử có bàn tay Thiên Chúa đang điều khiển từng ngày, để hướng dẫn, lèo lái mọi biến cố lịch sử theo ý Ngai: lịch sử cứu độ. Chính biến cố nhập thể ấy, đã làm cho lịch sử cứu độ lật sang trang mới. Và Đấng Phục Sinh hôm nay là trung tâm của cả dòng lịch sử đang trôi giữa mọi chiều kích lịch sử của con người. Bởi thế, không ai còn nghi ngờ rằng, mầu nhiệm Nhập thể và Giáng sinh là mầu nhiệm rất quang trọng. Thế nhưng mầu nhiệm quan trọng ấy chỉ được nhắc đến ít hơn nhiều so với mầu nhiệmVượt qua.
Vì sao sự Phục sinh của Chúa Kitô lại quan trọng như thế? Là bởi vì Kitô giáo không bao giờ là một mớ lý thuyết trừu tượng, nhằm cung cấp một hệ thống giáo điều hay tín lý. Nhưng Kitô giáo trước tiên là một phẩm vị, là một lẽ sống, là chân lý được cụ thể nơi một con người. Con người ấy cũng chính là Con Thiên Chúa đã đến trần gian, sống trong trần gian và dạy người ta phải sống các giá trị cao cả, các giá trị mang chiều kích thánh thiên hướng về Thiên Chúa: “phúc cho các ngươi là những kẻ nghèo”; “phúc cho các người là người hiền lành”; “phúc cho các ngươi là những người phải chịu đau khổ”; “phúc cho các ngươi là những người ao ước trọn lành”; “phúc cho các ngươi vì các ngươi biết xót thương”; “phúc cho các ngươi vì đã giữ lòng trong sạch”; “phúc cho các ngươi là người mang lại bình an”; “phúc cho các ngươi vì lẽ đạo mà bị bắt bớ”…
Vì Kitô giáo đặt trung tâm vào Chúa Kitô, bởi thế tất cả những gì là chân lý Kitô giáo phải thuộc về một chân lý nguồn, chân lý mà từ đó phát xuất mọi lẽ sống. Do đó, những giá trị cao cả hướng về Thiên Chúa được tóm gọn trong các mối phúc ấy, đã bị người đời đóng đinh cùng với Đấng đã từng giảng dạy nó. Và hôm nay, hay cho hết mọi thời, nếu loài người đã đóng đi Giêsu, thì những giá trị mà Giêsu rao giảng cũng đã chết một cái chết đáng thương như chính Giêsu vậy. Nhưng không, Giêsu đã chiến thắng. Giêsu là một con người rất bình thường, nhưng cũng là một Thiên Chúa mà tình yêu của Người có sức cứu độ diệu kỳ. Vì thế, một khi Giêsu đã bước ra khỏi mồ, đã toàn thắng, đã khải hoàn phục sinh, thì tất cả những giá trị cao cả mà Giêsu đã rao giảng, đã sống, và đã chết cho nó, trở thành những giá trị vĩnh cửu, những giá trị mà tất cả những ai nghe theo và sống, sẽ mang trong mình chiều kích phục sinh như chính Giêsu, Đức Chúa chúng ta.
Bởi thế, nếu giáo thuyết của Chúa Giêsu có cao đến đâu, siêu phàm cách mấy, nhưng bản thân Người không phục sinh, Người chỉ là một kẻ nói dối, một tên bịp bợm. Và những giáo thuyết ấy sẽ không có bất cứ một giá trị nào. Nhưng hôm nay Chua Giêsu đã sống lại và vẫn đang sống, sống đến muôn đời, cho nên nếu Kitô giáo là chân lý cụ thể nơi một con người mang tên Giêsu, và chính Đấng mang tên Giêsu là trung tâm của Kitô giáo, thì giáo thuyết của Người là một giáo thuyết tuyệt đối, một giáo thuyết chứa chan niềm an ủi, niềm hy vọng và vĩnh cửu.
Tắt một lời: Đối với Kitô giáo, chỉ có Chúa Kitô, nhờ Chúa Kitô, và trong Chúa Kitô, mọi giá trị của cuộc sống trở thành vĩnh cửu. Trung thành với giáo huấn của Chúa Kitô, Kitô giáo mãi mãi đặt niềm hy vọng cánh chung của mình nơi Người. Bởi thế mà Phục sinh trở thành Đại lễ, và niềm tin phục sinh chiếm chỗ quan trọng trong mọi sinh hoạt của đời sống Giáo Hội, đi từ Lời mạc khải của Thánh Kinh, đến phụng vụ, và đến từng ngõ ngách của đời sống riêng tư nơi mỗi Kitô hữu. Vì nói như thánh Phaolô: Nếu Chúa Kitô không sống lại, chúng ta là những người vô phúc nhat, ngu đần nhất, vì đã đặt tin tưởng và một chuyện hảo huyền. Nếu Chúa Kitô đã không sống lại, ta vẫn mang tội lỗi ở trong mình, không ai có thể giải cứu được, không ai đưa ta đến gặp Thiên Chúa được. Nếu Chúa kitô khong sống lại, thập giá chỉ là dấu của nhục nhã, đau khổ của con người sẽ không có lối thoát, cái chết của con người sẽ là đường cùng, là ngõ cụt (1Cr 15, 12 tt).
Lạy Đấng Phục Sinh là Đức Chúa chúng con tôn thờ, chúng con tin Chúa và hy vọng vào Chúa, vì chỉ có Chúa, Đấng Phục Sinh duy nhất mới có thể đưa chúng con đến với Thiên Chúa. Xin ban bình an cho chúng con, để dù vác thập giá nặng nề đến đâu, dù thập giá có làm chúng con ngã xuong vì hết sức, vì tàn hơi, chúng con vẫn can đảm đặt niềm tin và hy vọng vào Chúa, Đấng Phục sinh vinh hiển đang đổ tràn ơn Phục sinh trong cuộc đời chúng con.
(Suy niệm của Lm. Mark Link, S.J.)
Chủ đề: “Phục sinh chính là tin mừng rằng
Chúa Giêsu sẵn sàng làm phép lạ trong cuộc đời chúng ta, nếu chúng ta để Người thi hành.”
Ernest Gordon có viết một quyển sách tựa đề Through the Valley of the Kwai River (Ngang Qua Thung Lũng Sông Kwai), trong đó ông trích dẫn một chuyện có thật xảy ra tại một trại tù binh Nhật dọc bờ sông Kwai trong thế chiến II. Nhiều người trong chúng ta đã nghe nói về trại này trong cuốn phim Bridge Over the River Kwai (Cầu Song Kwai). Nơi đây 12 ngàn tù binh đã chết vì bệnh tật và bị đối xử tàn tệ khi họ phải xây một tuyến đường xe lửa.
Đàn ông bị cưỡng bức lao động dưới cái nóng đôi khi lên đến 120 độ F (khoảng 49 độ C). Đầu trần, chân đất, họ vác từng thúng đá trên vai để xây cho xong toàn bộ tuyến đường. Họ chỉ mặc mỗi manh áo rách và nằm ngủ trên mặt đất không chăn chiếu.
Nhưng kẻ thù khủng khiếp nhất đối với họ không phải là lính Nhật hay cuộc sống gian khổ mà lại là chính họ. Theo lời kể của Gordon, vì quá sợ lính Nhật, nên các tù binh đã bị mắc chứng hoang tưởng. Họ lấy luật rừng cư xử với nhau. Họ trộm cắp của nhau, nghi ngờ nhau và chỉ điểm lẫn nhau. Bọn canh gac cười nhạo khi thấy những người lính da trắng từng kiêu hãnh biết bao giờ đây đang tiêu diệt lẫn nhau.
Thế rồi một điều khó tin đã xảy ra. Hai tù nhân nọ chia nhóm học hỏi Kinh Thánh cho các tù nhân khác. Qua việc học hỏi này, dần dà các tù nhân khám phá ra Chúa Giêsu là một người đang sống giữa họ. Hơn nữa, họ còn khám phá được rằng Chúa Giêsu hiểu rõ hoàn cảnh của ho. Người cũng không có chỗ gối đầu vào bên đêm. Người cũng đói khát, trơ trụi. Người cũng bị phản bội, cũng nếm roi đòn trên lưng.
Tất cả những gì về Chúa Giêsu–Người là gì, Người nói gì, Người làm gì–bắt đầu có ý nghĩa và trở nên sống động. Các tù nhân không còn cho rằng họ là nạn nhân của một tấn bi kịch độc ác nào đó. Họ không còn chỉ điểm. Họ không còn tiêu diệt lẫn nhau nữa.
Sự thay đổi tâm hồn của họ được tỏ lộ không đâu rõ rệt cho bằng trong lời cầu nguyện. Họ bắt đầu cầu nguyện cho nhau nhiều hơn cho chính mình. Và nếu có cầu xin cho chính họ, thì họ chẳng xin cho được điều gì. Mà xin cho sức mạnh mới mẻ trong tâm hồn của họ được bộc lộ.
Dần dà, cả trại đã được biến đổi, đến nỗi không phải chỉ đám lính Nhật mà cả các tù binh cũng phải ngạc nhiên. Một đêm nọ, sau khi gặp gỡ với nhóm học hỏi Kinh Thánh xong, Gordon khập khiễng bước về trại của mình. Đang lúc lần mò trong bóng đêm, ông bỗng nghe có tiếng nhiều người ca hát, có người dùng mảnh gỗ để gõ nhịp vào loong thiếc. Tiếng ca hát và tiếng gõ nhịp làm cho bóng đêm trở nên sống động. Sự khác biệt giữa tiếng hát vui tươi lúc đó và cái yên lặng chết chóc của những tháng qua là sự khác biệt giữa sự sống và sự chết-sự khác biệt giữa sự chết và sự phục sinh.
Câu chuyện về sự biến đổi trong trại tù của Nhật là một minh họa tuyệt vời cho lễ Phục Sinh hôm nay.
- Phục Sinh là phép lạ làm cho các tù nhân tin tưởng lẫn nhau sau khi đã nghi ngờ nhau.
- Phục Sinh là phép lạ giúp họ biết chia sẻ với nhau thay vì chỉ biết bóc lột nhau.
- Phục Sinh là phép lạ khiến họ biết giúp đỡ nhau thay vì chỉ tìm cách tố cáo nhau.
Và điều đó đã quy tụ chúng ta lại nơi giáo đường này trong buổi sáng Phục Sinh đẹp trời hôm nay. Đối với chúng ta, Phục Sinh là gì?
- Phục Sinh là sự nhận thức rằng sự biến đổi đời sống nơi các tù nhân kia cũng có thể xảy ra trong chính cuộc sống chúng ta.
- Phục Sinh là sự nhận thức rằng sự thay đổi nơi trại tù binh nọ cũng có thể xảy ra trong thế giới chúng ta.
Tất cả những gì chúng ta cần là điều mà các tù nhân ấy đã thi hành. Tất cả nhưng gì chúng ta cần là mở rộng tâm hồn để đón nhận các ơn sủng mà Chúa đã chiến thắng cho chúng ta vào dịp Phục Sinh cách đây 2000 năm.
Anh chị em thân mến trong Chúa Kitô, tin mừng Phục Sinh là không gì có thể chế ngự chúng ta được nữa–dù là sự ngã lòng, sự bất hạnh, sự ruồng bỏ, sự đớn đau và kể sự chết. Tin Mừng Phục Sinh là chúng ta không cần phải đợi đến khi chết mới được tham dự vào quyền năng phục sinh. Chúng ta có thể bắt đầu thi hành điều ấy ngay tự bây giờ.
Như thế, Phục Sinh mời gọi chúng ta mở rộng tâm hồn cho Chúa Giêsu Phục Sinh để Người làm cho chúng ta điều mà Người đã làm cho các tù binh trong trại tù của Nhật.
- Phục Sinh mời gọi chúng ta hãy để Chúa giúp chúng ta tin tưởng lẫn nhau sau khi phản bội nhau.
- Phục Sinh mời gọi chúng ta hãy để Chúa giúp chúng ta yêu thương nhau sau khi đã khước từ tình yêu của nhau.
- Phục Sinh mời gọi chúng ta hãy để Chúa giúp chúng ta lấy lại hy vọng sau khi chúng ta đã làm hy vọng ấy tan thành từng mảnh.
- Phục Sinh mời gọi chúng ta hãy để Chúa giúp chúng ta nhặt lại những mảnh vỡ ấy và bắt đầu lại sau khi chúng ta đã sẵn sàng bỏ cuộc.
Đây là tất cả ý nghĩa của Phục Sinh.
- Đó là một tin vui cho biết Chúa Giêsu Phục Sinh đang ở giữa chúng ta, ngay trong thánh đường này, vào buổi sáng hôm nay.
- Đó là một tin vui cho biết Chúa Giêsu đã chiến thắng sự dữ, sự chết và chúng ta cũng sẽ như vậy, nếu chúng ta mở rộng tâm hồn cho Người.
- Đó là một tin vui cho biết Chúa Giêsu sẵn sàng làm phép lạ cho chúng ta, nếu chúng ta để cho Người thi hành.
- Đó là một tin vui cho biết không gì có thể tiêu diệt được chúng ta, dù là đau đớn, ưu phiền, bị chối từ, tội lỗi và ngay cả sự chết.
Tóm lại, đó chính là tất cả những gì mà Phục Sinh mang lại cho chúng ta. Và đó chính là điều mà chúng ta hân hoan cử hành khi cùng nhau chuẩn bị bẻ bánh nhân ngày khai sinh đức tin Kitô Giáo của chúng ta hôm nay.
(Suy niệm của Lm. Minh Vận)
Hôm nay, chúng ta cùng với toàn thể Giáo Hội hân hoan mừng kính mầu nhiệm Chúa Kitô Phục Sinh. Đây là một sự kiện xác thực đã được lịch sử minh chứng tường tận, không ai có thể chối cãi được. Qua bài sách Tông Đồ Công Vụ, Thánh Sử Luca đã quả quyết: “Chúng tôi là chứng nhân tất cả những việc Chúa Kitô đã thực hiện trong nước Do Thái và tại Jerusalem, Người là Đấng người ta đã giết chết khi treo Người trên Thập Giá. Nhưng ngày thứ ba, Thiên Chúa đã cho Người sống lại và đã hiện ra không phải với toàn dân, mà là với chúng tôi là những nhân chứng Thiên Chúa đã tuyển chọn trước, chính chúng tôi đã ăn uống với Người sau khi Người từ cõi chết sống lại”.
Cũng chính trong bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe, Thánh Sử Gioan đã tường thuật sự kiện lịch sử này: Phêrô và Gioan, người môn đệ được Chúa Giêsu yêu mến, sau khi nghe Maria Madalena cho biết: “Người ta đã lấy xác Thầy ra khỏi mồ và chúng tôi không biết người ta đã để Thầy ở đâu”. Thế là hai vị chạy ra mồ, cúi xuong xem và đi vào trong mồ, không còn thấy xác Chúa mà chỉ còn thấy khăn liệm xác, bấy giờ các ông mới tin, bởi lẽ các ông chưa hiểu rằng, theo Thánh Kinh, thì Người phải sống lại từ cõi chết. Nếu chúng ta đọc tiếp đoan Tin Mừng này, chúng ta sẽ thấy Chúa hiện ra với Thánh Nữ Madalena khi hai Tông Đồ trở về nhà, lúc bà còn ngồi lại bên mồ mà khóc. Chính Thánh Sử Gioan còn thuật lại ba lần Chúa hiện ra với các Tông Đồ. Lần thứ nhất, chiều tối lúc các Tông Đồ đang hội họp trong một nơi, cửa vẫn đóng kín vì sợ người Do Thái, Chúa hiện đến đứng giữa các ông và phán: “Bình an cho các con!” Lần hai, vì Tôma lúc đó vắng mặt, được các Tông Đồ thuật lại, nhưng ông không tin. Tám hôm sau, các Tông Đồ cũng đang hội họp trong phòng đóng kín khi có mặt Tôma, Chúa hiện đến và phán với các ông: “Bình an cho các con!” Rồi Người bảo Tôma: “Hãy xỏ ngón tay con vào đây, xem có phải tay Thầy không, lại cũng thọc bàn tay con vào cạnh sườn Thầy. Chớ cứng lòng nữa, hãy vững tin!” Bấy giờ Tôma sung sướng kêu lên: “Lạy Chúa tôi! Lạy Thiên Chúa của tôi!” Chúa Giêsu đáp: “Hỡi Tôma! Vì con trông thấy Thay nên con mới tin; phúc cho những ai chẳng xem thấy mà cũng tin!” Tin Mừng còn thuật lại lần thứ ba Chúa hiện ra với các môn đệ trên bờ biển Tiberia, rồi sách Tông Đồ Công Vụ còn thuật lại việc Chúa hiện ra với hai môn đệ trên đường đi về làng Emau, cùng ăn uống và đàm đạo dạy dỗ các ông nhiều điều. Như thế, mọi lời tiên tri từ ngàn xưa đã nói về Người đều đã được ứng nghiệm.
- Xác tín ơn Phục Sinh vinh hiển
Là con cái Thiên Chúa, chúng ta được diễm phúc hơn cả các Thánh Tông Đồ, như lời Chúa đã phán với Thánh Tôma: “Vì con thấy Thầy nên con mới tin; phúc cho những ai chẳng xem thấy mà vốn vững niềm tin”. Bởi vì: “Tất cả những ai đặt niềm tin vào Chúa Kitô, thì nhờ danh Người mà được ơn tha tội, được cứu độ và đạt tới hạnh phúc vĩnh cửu muôn đời”.
Nhờ Mầu Nhiệm Chúa Kitô Phục Sinh làm bảo đảm vững chắc, chúng ta xác tín rằng: Chúng ta cũng sẽ được phục sinh vinh hiển với Chúa Kitô. Khi đó, chúng ta như một tạo vật mới, được nên giống như Chúa, để cũng được chung hưởng hạnh phúc vĩnh cửu và đồng hiển trị với Chúa trong Vương Quốc vinh quang bất diệt của Người. Để hiểu được phần nào mầu nhiệm Phục Sinh chúng ta sẽ được, khi chúng ta trở nên một tạo vật mới của Chúa; chúng ta lấy một ví dụ trong thiên nhiên: Khi con tằm đã đủ ngày đầy tháng, người ta đặt nó bám trên tấm phên tre kết thêm những cong rơm, phơi dưới ánh nắng trong ngày đẹp trời. Con tằm nhả tơ trong bụng và từ từ kết thành một tổ kén bằng tơ lụa vàng óng ánh tuyệt đẹp dưới ánh nắng. Khi xong nhiệm vụ, con tằm rút mình nằm trong tổ kén một thời gian, khi đó được gọi là con nhộng. Sau chu kỳ, con nhộng biến thái thành con nhài có cánh bay được, mà người ta gọi là con bướm, con nhài hay con bướm cắn tổ bay ra sinh trứng và nở thành những con tằm con… Cũng vậy, khi than xác chúng ta được phục sinh, chúng ta cũng trở thành một tạo vật mới tương tự. Còn hơn nữa, thân xác chúng ta được nên giống thân xác vinh hiển của Chúa Kitô, nó có thể thấu nhập tựa ánh sáng chiếu qua thủy tinh, như chính Chúa Kitô đã thấu nhập và hiện ra với các Tông Đồ trong phòng vẫn đóng kín.
- Từ cõi chết tới nguồn sống
Chúa Kitô đã vượt qua từ cõi chết tới nguồn sống, nghĩa là để được phục sinh vinh hiển, Ngài đã phải lãnh nhận mọi khổ thống trong cuộc khổ nạn và cái chết ô nhục, như một lễ hy sinh hiến tế dâng lên Chúa Cha, đền tạ phép công bình Thiên Chúa bị xúc phạm và trở nên Giá Ơn Cứu Độ cho nhân loại.
Để được xứng đáng hưởng Ơn Phục Sinh như Chúa, được lãnh Ơn Cứu Độ và đồng hưởng hạnh phúc vĩnh cửu với Chúa; chúng ta cũng phải sẵn sàng lãnh nhận mọi đau thương thử thách, phải chiến đấu can trường, cho tới lúc đạt được chiến thắng trong vinh quang, để được cùng với Chúa khải hoàn tiến về quê hương hạnh phúc, nơi mắt chưa hề xem, tai chưa hề nghe, lòng chưa hề cảm nghiệm được, hạnh phúc Chúa đã dành cho con cái trung thành của Chúa.
Như hạt lúa miến, cần phải chịu chôn vùi và chịu mục nát dưới lòng đất, mới có thể vươn lên thành cây xanh tươi đầy sức sống, trổ sinh bông hạt. Như Chúa Cứu Thế, phải chịu muôn vàn đau thương, chịu chết ô nhục trên Thập Giá, mới nên Giá Cứu Chuộc chúng ta. Chúng ta cũng phải cùng với Chúa vượt qua: “Từ thập giá tới vinh quang”, từ cõi chết tới nguồn sống. Vì theo lời Thánh Phanxicô: “Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”.
III. Một tấm gương anh dũng
Đây một tấm gương anh dũng: Ngày 22.9.1922, một nhóm 52 người Công Giáo đã chịu tử đạo tại Nhật Bản. Trong đoàn các Vị Tuẫn Giáo anh dũng đó, có một bà mẹ với cậu bé trai mới lên 4 tuổi tên là Ignatiô. Một năm trước đó, Cha Spinola đã ban Phép Thánh Tẩy cho em; lúc này chính Cha cũng đang chờ án chết. Ngài muốn gởi đến đoàn Anh Hùng đang chờ án tử hình những lời nhắn nhủ sau cùng của Vị Chủ Chăn. Thấy bà mẹ mà không thấy đứa con, Cha hỏi em bé ở đâu. Tức khắc, bà mẹ bồng con dơ lên cao cho Vị Chủ Chăn trông thấy. Bà nói: “Thưa cha, cháu đây. Cháu sắp chết với con và cháu hạnh phúc lắm rồi”. Rồi bà nói với con: “Con ơi, hãy nhìn xem vị Linh Mục đã biến con thành con Thiên Chúa, con hãy xin ngài ban phép lành cho con”.
Bé Ignatiô với bộ đồ mới tinh trắng toát, đôi tay chắp lại, dáng vẻ sốt mến như Thiên Thần, cúi đầu lãnh phép lành. Mọi người hiện diện nơi pháp trường thấy thế òa lên khóc. Nhiều chiếc đầu bị chém lăn lóc dưới chân em bé, kể cả chiếc đầu của mẹ em. Em vẫn không tỏ vẻ khiếp đản, trái lại còn tỏ ra rất anh dũng. Em quì xuống giữa vũng máu đào và nghiêng đầu, giơ cổ cho tên đao phủ chém.
Kết Luận
Lạy Chúa, xin thêm Đức Tin cho chúng con, để nhờ đó cuộc sống chúng con được biến đổi, bản thân chúng con được siêu thăng và trở nên một tạo vật mới. Chớ gì Đức Tin của chúng con đng được Chúa chúc phúc, vì chúng con không chỉ dựa vào điều mắt thấy tai nghe, nhưng là do niềm xác tín vào Lời Chúa mạc khải, bằng tất cả lòng yêu mến Chúa thiết tha, xứng với nghĩa vụ chúng con là con cái ngoan thảo của Chúa.
(Suy niệm của Lm. Thu Băng, CRM)
Hàng năm chúng ta cùng với Giáo Hội long trọng mừng đại lễ Phục sinh, mừng biến cố Chúa Kittô sống lại để phục hồi chúng ta trong ơn nghĩa tử. Đây là dịp tốt để chúng ta suy tư về sự phục sinh của mình. Mỗi người chúng ta có hai biến cố phục sinh: Phục sinh với Chúa qua Bí tích Thánh Tẩy và phục sinh viên mãn trong ngày chúng ta cùng sống lại trong vinh quang.
- Phục sinh trong Bí Tích Rừa tội.
Thực vậy, khi chịu phép Thánh Tẩy, chúng ta được phục hồi ơn làm con Thiên Chúa, được quyền hưởng gia nghiệp nước trời, được sống lại trong ơn nghĩa Chúa. Ơn Phục sinh này là cửa ngõ đón nhận chúng ta vào nhà Giáo hội, được biến đổi từ con người không có ơn nghĩa Chúa, đến tình trạng làm con, được gọi Chúa là Cha và được toàn thể các thánh trên trời và mọi phần tử Giáo hội trần gian là anh chị em. Cũng qua Bí tích này chúng ta được hiệp nhập với mầu nhiệm Phục sinh của Chúa Kitô, được thừa hưởng kho tàng ơn thánh mà Thiên Chúa đã ban cho Giáo Hội, được có khả năng làm việc lành đáng thưởng công và có một cuộc sống mới trong Chúa Thánh Thần (Glcg.1262). Chúng ta có thường xuyên cảm tạ Chúa vì ơn trọng này không?
- Phục sinh trong Bí Tích hòa giải:
Lại nữa, qua Bí tích Hòa giải, chúng ta được ơn trở về mỗi khi chúng ta dại dột phạm tội mất lòng Chúa. Nhờ Bí Tích này, chúng ta không những được làm hòa với Thiên Chúa, mà lại còn được thêm ơn thánh để bền lòng chiến đấu với những cơn thử thách mới. Như thế mỗi lần lãnh nhận Bí tích Hòa giải lại là một lần chúng ta cử hành lễ Phục sinh, tái diễn việc sống lại tư cõi chết tinh thần.
- Phục sinh trong ngày tận thế.
Trong kinh Tin kính, chúng ta tuyên xưng vững vàng “xác loài người sống lại để hưởng vui sự sống đời sau”. Điều này chứng tỏ chúng ta đang mong đợi một cuộc sống mới vĩnh cửu, mà Thiên Chúa vĩnh viễn ban lại cho chúng ta sự phục sinh bất diệt của thân xác, một cuộc sống lại kỳ diệu giống như cuộc sống lại với thân xác vinh quang của Đức Kitô, một thân xác linh thánh vượt trên cả vật chat.
Lễ Phục sinh thật là một cơ hội quí báu và thích hợp để chúng ta hướng về gia đình thiên quốc, hướng về sự sống vĩnh cửu quê trời. Khi nhắc lại cho mình tới nơi hạnh phúc ấy, chúng ta nhắc lại trách nhiệm của mình là làm sao sống xứng đáng với nghĩa vụ làm con dân nước trời? Phải sống theo lời mời gọi “trọn hảo hơn” của tin mừng. Không chỉ làm lợi cho cuộc đời trần thế, mà phải dành dụm cho sự sống ngày sau “Hãy lợi dụng của đời nay mà mua lấy nước thiên đàng”. Chúng ta hãy kiểm xem trong gia đình ai là người khao khát tìm kiếm sự sống lại? Ai là người biết đặt nước Thiên Chúa trên tất cả những lo lắng trần thế?
Xin Mẹ Maria, Mẹ Chúa Phục sinh chúc lành cho gia đình anh chị em và ban cho chúng ta ơn biết lợi dụng mùa thánh thiện này để nhớ đến ơn cứu sống Chúa Phục sinh dành cho chúng ta.
(Suy niệm của Ts. Trần Duyệt)
Thế là Giêsu người thành Nagiarét đã “mồ yên mả đẹp”. Thôi thì hãy yên nghỉ và quên đi những đau khổ, oan kiên và tất tưởi của cuộc sống. Quên đi những tiếng la ó, những lời thóa mạ, phản kháng, và bản án bất công đã đưa Ngài đến cái chết. Quên đi những tiếng búa chát chúa làm xuyên thấu tay chân bằng những chiếc đinh dài và nhọn nhưng rất vô tình. Quên đi cơn hấp hối kinh hoàng tưởng chừng “Cha nỡ bỏ con” (Mt 27:46). Quên đi đồi Golgotha loang máu. Và Giêsu ơi! Hãy ngủ yên.
Câu chuyện tưởng đã yên, nhưng mới sáng ngày thứ nhất trong tuần đã bị khua động trở lại. Ngài đã không ngủ yên. Ngài đã chỗi dậy và ra khỏi mồ. Maria Mađalêna và một số phụ nữ đã phát hiện ra rằng ngôi mộ đã trở thành trống rỗng, và thân xác Giêsu đã không còn trong đó nữa. Thế là một lần nữa, những thiếu phụ này lại bị xúc động và sợ hãi: “Chúa đã bị mang ra khỏi mồ. Chúng tôi không biết họ để Ngài ở đâu” (Gio 20:2). Điều này cung làm cho các môn đệ đã hoang mang sợ hãi, càng thêm hoang mang sợ hãi hơn. Phêrô và Gioan cũng đã bị lôi cuốn, và muốn tìm ra sự thật.
Những nhân chứng ấy không ai khác là Maria Mađalêna và một số phụ nữ, Phêrô và Gioan, những người mà liên hệ mật thiết với Đức Kitô đã được nói đến nhiều trong Tin Mừng (x Gio 20:1-10).
Thời gian là buổi sáng phục sinh, khi mà người, vật còn đang ngái ngủ. Khi ánh bình minh vừa ló rạng. Vào thời điểm ay, ta mường tượng các phụ nữ kia đang âm thầm và lặng lẽ bước đi trong sương mai, và những con gió thoảng buổi sáng đang làm họ se lạnh. Những cơn gió mát, nhẹ nhàng và thoang thoảng.
Không gian là ngôi mộ trống bên triền đồi Golgotha. Nơi mà buổi chiều thứ Sáu thảm sầu, một tử thi đã được chôn cất vội vàng.
Và Chúa Giêsu đã sống lại. Biến cố này đã trở thành niềm tin và sức sống mãnh liệt cho nhân loại trong suốt chiều dài lịch sử cứu độ. Hàng triệu triệu người đã sống với niềm tin này, và hàng triệu triệu người đã chết để bảo vệ niềm tin này. Nhưng đối với những người như chúng ta, những chứng từ ấy phải chăng vẫn còn là một nghi vấn! Và những chứng từ ấy có nghĩa gì trong cuộc sống đạo của mỗi Kitô hữu?
Có cần phải tình cảm và xúc động như Maria Mađalêna và những phụ nữ đã có mặt trong buổi sáng phục sinh không: “Thưa ông, nếu ông mang Ngài đi đâu, xin làm ơn chỉ cho tôi chỗ ông đã đặt Ngài để nhận Ngài lại” (Gio 20:15). Cuộc sống đạo, cuộc sống tâm linh đôi lúc cũng cần được nuôi dưỡng bởi những động lực và thôi thúc tình cảm như thế. Có lúc chúng ta cần phải xúc động khi tham dự những nghi lễ sốt sắng. Cũng có lúc chúng ta cần phải để lòng mình lắng đọng khi gối quì một mình trong thinh lặng tại một góc của giáo đường. Và cũng có lúc chúng ta phải để cho lòng mình thổn thức một niềm cảm xúc trước những vẻ đẹp và sự cuốn hút của Thiên Chúa qua những người, những vật, mà chúng ta đụng chạm tới.
Có cần phải hăm hở và nhiệt tình như Phêrô, như Gioan đã nhanh chân chạy ra mộ để tìm ra những dấu hiệu của cuộc phục sinh không: “Phêrô và môn đệ kia bắt đầu chạy ra mồ. Họ cùng chạy bên nhau, nhưng môn đệ kia chạy nhanh hơn và đến mồ trước. Ông không vào trong nhưng cúi xuống nhìn vào và thấy những khăn liệm ở trên đất” (Gio 20:3-5). Đời nội tâm nếu chỉ dựa vào những rung động của tình cảm sẽ dễ trở thành mê tín, dị đoan, nhìn Chúa Giêsu mà lại tưởng là người làm vườn. Hoặc ngược lại, nhìn người làm vườn mà lại cho là Chúa Giêsu, như trường hợp của Maria Mađalêna. Niềm tin, ngoài những yếu tố tình cảm cũng đòi hỏi những dấu hiệu khả tín và dựa vào những lý luận hợp lý. Có lẽ vì phản ứng tự nhiên ấy mà cả Phêrô lẫn Gioan đã hăm hở chạy ra mộ.
Nhưng có lẽ ít ai để ý và dành cho ngôi mộ trống kia một chỗ xứng hợp trong biến cố phục sinh. Phải chi ngôi mộ ấy đã bị phá hủy ngay đêm thứ Sáu do lính của La Mã thì mọi chuyện đã đổi chiều. Hoặc phải chăng đám lính canh của các Thượng Tế gửi tới vẫn còn đang thức khi nhóm phụ nữ đến mộ thì sự việc cũng lại khác hẳn. Nhưng ngôi mộ mà xác thân của Giêsu đã được mai táng, và từ ngôi mộ ấy, Chúa đã sống lại vẫn còn đó, trống vắng, và lạnh lùng. Người ta chỉ tìm được những giây băng, vải cuốn, và khăn liện. Chính vì vậy nên nó đã trở thành một dấu chỉ đầy ý nghĩa của biến cố phục sinh.
Ngôi mộ trống cho ta một ý niệm về thái độ dứt khoát với quá khứ. Đức Kitô đã để lại tất cả những gì thuộc về thế giới kẻ chết như khăn liệm và băng quấn lại cho thế giới của sự chết. Ngài đã ra khỏi mộ và không trở lại. Thân xác Ngài giờ đây là thân xác thần linh, thân xác có thể vào nhà nơi các môn đệ Ngài trong lúc vẫn cửa đóng, then cài. Và đó là ý nghĩa của sống lại, của phục sinh.
Ngôi mộ trống còn là một dấu chỉ để con người suy về quá khứ. Một quá khứ với những đa mê và dục vọng. Điều này cũng có nghĩa là chúng ta sẽ không ngoái nhìn lại quá khứ và không nên tiếc nuối những gì mình đã bỏ lại. Nếu Thiên Chúa có nhìn đến ta lúc này, thì Ngài sẽ nhìn thấy một tinh thần vượt thoát từ mồ sau tội lỗi. Và nếu con người có nhìn đến ta, thì họ sẽ chỉ thấy một chiếc khăn liệm gói trọn quá khứ, và hiện tại là sự đổi mới hoàn toàn.
Không luyến tiếc, không ngoảnh mặt lại với quá khứ, nhất là quá khứ từng làm cho con người hư hỏng và sa lầy trong vòng tội lụy, là thái độ mà Chúa Giêsu Phục Sinh muốn thấy nơi mỗi Kitô hữu. Họ cần phải dứt khoát với quá khứ ấy, nếu muốn cùng Ngài phục sinh như Tông Đồ Phaolô đã khẳng định: “Nếu ta cùng chết với Ngài ta sẽ cùng Ngài phục sinh” (Rom 6:5).
Cuộc đời và cuộc sống mỗi Kitô hữu cũng phải như ngôi mộ trống ngày phục sinh. Có nghĩa là chúng ta phải trở nên dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa, và sự song lại của Đức Kitô trong cuộc đời mình. Để được thế, trước hết ngôi mộ tâm linh này phải đĩn nhận Chúa Giêsu Tử Giá bằng những chứng từ cuộc sống, và để Ngài làm cho nở hoa, phục sinh trong quyền lực Thiên Chúa. Như vậy, mỗi khi có ai nhìn vào ngôi mộ tâm linh ấy, tức là linh hồn của mỗi Kitô hữu, họ sẽ khám phá ra không phải là những người giầu tình cảm đạo đức, những người thông thạo giáo lý, hiểu biết; nhưng hơn thế, họ nhận ra một Chúa Giêsu phục sinh và vinh hiển.
Ngôi mộ trống vẫn không nói nhiều. Ngôi mộ trống cũng vẫn im lìm một chỗ không di chuyển. Và ngôi mộ trống cũng vẫn chỉ là một ngôi mộ trống. Nhưng hình ảnh của nó gắn liền với buổi sáng phục sinh, với Maria Mađalêna, với Phêrô và Gioan, và tất cả những ai đang tin vào Con Thiên Chúa – Đấng xóa tội trần gian – đã chịu cực hình thập giá, và được mai táng trong đó. Và cũng từ ngôi mộ ấy, Ngài phuc sinh vinh hiển.
Cuộc đời tôi, cuộc hành trình tâm linh của tôi cũng cần phải giống như ngôi mộ trống kia, để tất cả những ai tò mò nhìn vào cũng nhận ra Chúa đã phục sinh.
(Suy Niệm của Lm Trần Bình Trọng)
Tại sao Chúa hiện ra với Mai Đệ Liên trước các tông đồ?
Dân tộc nào cũng có những câu chuyện thần thoại, càng thần thoại nếu trí tưởng tượng của họ càng giàu. Tuy nhiên câu chuyện của một người đã chết đi ba ngày, rồi tự mình song lại, là một câu chuyện khó tin, vượt sức tưởng tượng của loài người. Đối với những người không tin, thì đó chỉ là một câu chuyện hoang đường, không hơn, không kém. Tuy nhiên câu chuyện Đấng Cứu thế chết đi sống lại đã được các tiên tri loan báo cả ngàn năm trước, và chính Chúa cứu thế cũng tự loan báo. Để tẩy chay lời tiên tri về việc Đấng cứu thế phục sinh, những kẻ kết án Chúa đã sai quân lính canh mộ Chúa hầu tránh cái âm mưu có thể xẩy ra do môn đệ lấy trộm xác Chúa, rồi phao tin là Thày mình đã sống lại.
Việc Chúa phục sinh từ cõi chết là một biến cố quan trọng không những trong lịch sử Kitô giáo, mà còn có một chỗ đứng đáng kể trong lịch sử thế giới. Tuy nhiên cả thành Giêrusalem đều mê ngủ trước biến cố phục sinh của Chúa, và mọi sinh hoạt trong thành đều diễn ra bình thường. Còn các môn đệ Chúa thì hoang mang, không biết đâu là thực hư. Tất cả họ đeu bị khủng hoảng trầm trọng, không con hi vọng gì nữa. Tâm trí họ bị rối loạn vì những khiếp sợ và bực mình. Họ khiếp sợ vì người Do Thái bách hại. Họ bực mình vì cái chết của Thày mình đã làm tiêu tan mọi mối hi vọng.
Chỉ có bà Maria Mađalêna, có tên Việt là Mai Đệ Liên, là người đầu tiên đã xuất hiện đi ra khỏi nơi trú ẩn để tìm Chúa. Bà ta quá sầu khổ về cảnh đóng đinh của Thày mình, nên khi thấy mồ trống, bà ta không còn nghĩ gì khac, mà chỉ nghĩ về việc người ta đã lấy trộm xác Chúa. Mađalêna là người đầu tiên thấy Chúa sống lại, nhưng không nhận ra Người. Bà tưởng đó là người làm vườn cho tới khi Chúa gọi bà bằng tên Maria (Ga 20:16). Đến đây ba vội vã đi về kể cho Phê-rô và Gio-an là xác Chúa không còn ở trong mồ nữa.
Thật là một điều khó tin khi Mađalêna được coi là người đầu tiên loan báo tin mừng Chúa sống lại. Tuy bà ta không ý thức được rằng mình đã được chọn để loan báo cho hoàn cầu việc Chúa phục sinh. Làm sao Chúa hiện ra với bà, một người tội lỗi có lòng ăn năn sám hối, trước khi hiện ra với các môn đệ? Đó là vì bà đã ra viếng mộ Chúa trước tiên.
Cuối Phúc Âm Thánh Gioan hôm nay được thêm một ý tưởng rất quan trọng: Trước đó họ chưa hiểu rằng, theo Thánh kinh, Đức Giêsu phải sống lại từ cõi chết (Ga 9:20). Chính ông Phêrô đã không hiểu tại sao khăn liệm xác lại được để riêng một bên. Việc đối diện với Chúa phục sinh đã đổi hẳn tất cả. Bây giờ họ thấy, và họ tin. Sách Công Vụ Tông Đồ hôm nay ghi lại: Trước mặt những chứng nhân Thiên Chúa đã tuyển chọn từ trước là chúng tôi, những kẻ đã được cùng ăn uống với Người, sau khi Người từ cõi chết sống lại (Cv 10: 41).
Cũng như các tông đồ, cũng như Mađalêna, ta cũng có những lần hồ nghi về việc Chúa sống lại. Có những khi ta cảm thấy những giờ phút tuyệt vọng, chán chường, những ngày giờ, những năm tháng mà tâm hồn bị bóng tối bao phủ. Ta cảm thấy như là Chúa đi vắng, và không còn gì để bám víu. Tuy nhiên cũng như Mađalêna, cũng như Phêrô và Gio-an, ta vẫn phải đi tìm Chua, ngay cả khi ta cảm thấy khó tin vào Chúa. Chúa vẫn ở đó chờ đợi ta. Chúa vẫn đến với ta trong đời sống hằng ngày. Ta sẽ khó lòng tìm thấy Chúa nếu ta quá bận tâm lo lắng về những sự vật trần thế, nếu ta mê đắm theo đuổi những chuyện viển vông.
Phục sinh là thời giờ mà ta phải tìm ra câu trả lời cho những thắc mắc và khắc khoải của loài người:
- Ta đang tìm kiếm những gì?
- Có phải ta tìm Chúa và sự công chính của Nước Người hay không?
- Cái lẽ sống và cùng đích của đời sống ta là gì?
- Đâu là chỗ ta có thể bám víu khi mất đi của cải và người thân yêu?
- Ai là người có thể lấp đầy sự trống rỗng trong tâm hồn?
- Và ai là người có thể đem lại ý nghĩa cho cuộc sống?
(Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux)
NGÔI MỘ TRỐNG (16,1-8)
Khi đọc lại trình thuật này, một lần nữa ta cảm thấy đang đọc một bản tường thuật trực tiếp về một người đang sống. Như ta đã thấy, rõ ràng Maccô không phải là một phóng viên chuyên nghiệp, dù văn phong của ông rất sôi động, những tường thuật của ông không mang dáng vẻ gì là trực tiếp cả. Bằng những nét cụ thể, ông muốn truyền thông cho cộng đoàn Kitô hữu một kinh nghiệm về niềm tin sâu xa và chín chắn: đó là một quá trình 40 năm suy niệm (từ năm 30-70). Từ những nhận định này, ta phải hết sức lưu ý đến sứ điệp Maccô muốn nhắn gửi trong trình thuật này, qua những chi tiết ông viết lại.
Sau ngày Sabbat, mọi sự trở lại bình thường (c.1). Bối cảnh thời gian là chiều tối thứ bảy, khi những ngôi sao đầu tiên bắt đầu xuất hiện trên nền trời, báo hiệu ngày lễ nghỉ thánh đã hết. Trước khi trời tối hẳn, các cửa hiệu đều mở cửa bán hàng lại. Người Do Thái có tính lo. Chính vì vậy mà ba phụ nữ chứng kiến Chúa Giêsu chịu chết (15,40) đã lo lắng đi mua dầu thơm để tẩm xác Chúa Giêsu (công việc đáng lẽ phải được làm hôm trước đó). Đây không phải là ướp xác đúng nghĩa theo cách thức người Ai Cập, nhưng chỉ là xức hương liệu lên thi thể theo tập tục người Do Thái (Ga 19,40). Bằng lối tương phản mà Maccô rất sở trường, bóng tối của sự chết (15,33-34) được đặt song song với ánh sáng của một ngày mới (c.2). Ở đây tác giả Tin Mừng đã quy tụ mọi biểu hiệu tượng trưng cho việc khai sinh một thời đại mới. Nó ám chỉ rõ rệt đến buổi sáng đầu tiên của cuộc Sáng thế (St 1,3-5): đó là khởi nguyên cho một thế giới mới vừa xuất hiên. “Ngày thứ nhất trong tuần”, sau ngày hưu lễ Sabbat của người Do Thái, nay sẽ trở thành “ngày Chúa nhật”, dies dominica, “ngày của Chúa” Phục Sinh.
Buổi bình mình mới này xuất hiện trước cả các phụ nữ, những bà vẫn canh cánh mối bận tâm là phải đến cho bằng được để tỏ lòng với Người đã chết hôm trước. Câu hỏi các bà đặt ra khá vô duyên và muộn màng (c.3); hẳn các bà đã biết rằng cần hai hoặc ba người đàn ông mới vần nổi tảng đá rất nặng ra khỏi cửa mồ. Nhưng ở đây tác giả lại không hề chú trọng đến tâm lý nhân vật. Mối lo lắng của các bà là nhằm làm nổi bật nỗi ngạc nhiên xảy ra sau đó: các bà phát giác ra rằng tảng đá mà các bà lo lắng không thể lăn nổi nay đã được vần ra rồi (c.4). “Một bàn tay vô hình” mạnh mẽ phi thường đã thực hiện việc này. Trong văn bản Hy Lạp, người ta đọc thấy câu này: “Hòn đá đã bị lăn đi”. Lối dùng theo thể thụ động này diễn tả hành động của chính Thiên Chúa, tuy không nói rõ tên Ngài ra (x.Mt 28,2): Thiên thần của Chúa, đấng thay thế Ngài, đã lăn tảng đá. Sự kiện cửa mồ được mở ra mới chỉ là điều ngạc nhiên đầu tiên. Một sự thể đáng ngạc nhiên khác quan trọng hơn nhiều, đang chờ đợi các bà: các bà nhìn thấy một thanh niên ngồi bên phải, mặc toàn đồ trắng (c.5a). Cảnh tượng này làm cho độc giả ngày nay phải suy nghĩ. Việc một kẻ ăn mặc như thế, ngồi ở đấy, nơi chôn kẻ chết có ý nghĩa gì? Người ta nghĩ ngay đến chàng trai trẻ khi Chúa Giêsu bị bắt, đã quăng tấm vải choàng đi hầu dễ bề tẩu thoát (tấm vải=vải liệm chăng?) (14,51-52). Hơn nữa, người thanh niên “ngồi bên phải”… Đó là vị trí danh dự như người Kitô hữu hằng coi Chúa Giêsu vinh quang “ngự bên hữu” Chúa Cha (x.16-19b). Sau cùng, “mặc áo trắng” cũng như khi Chúa Giêsu biến hình các môn đệ thấy Ngài cũng mặc như vậy (9,3). Hầu như mọi sự kiện này đều khiến ta nghĩ rằng chính Chúa Giêsu “xuất hiện”! Nhưng tác giả Tin Mừng không cho là như thế. Và truyền thống Tin Mừng ở trình thuật này lại cho rằng đó là một hoặc hai Thiên thần (Mt 28,2b-3; Lc 24,4; Ga 20,12). Thiên thần là “sứ giả” của Thiên Chúa, là đấng thay thế Thiên Chúa vô hình. Sự xuất hiện của Thiên thần ở đây có nghĩa rằng sứ điệp các vị loan báo không phải là của loài người, mà đến từ Thiên Chúa. Thực vậy, người thanh niên loan báo Tin Mừng vượt khỏi trí khôn loài người (c.6b). Sứ điệp này mang một sắc thái hết sức mâu thuẫn: kẻ bị đóng đinh nay đã Phục Sinh. Kẻ bị chết đi, chết tàn nhẫn bằng khổ hình thập giá nay đã trở về cõi sống: Ngài là Đấng Hằng Sống! Đây chính là sứ điệp “Vượt Qua” mà các Tông đồ đã loan báo cho muôn dân (. Cv 2,22-36; 3,12-20 v.v…). Sự boi rối của các phụ nữ biểu lộ mối xúc động tôn giáo sâu xa khi đứng trước cõi siêu nhiên. Từ ngữ “hoảng sợ” (c.5) rất mãnh liệt và chỉ riêng Maccô dùng. Maccô luôn nhấn mạnh đến vực thẳm cách biệt giữa nhân loại va Thiên Chúa (x. 1,27; 9,15; 10,24a). Tin Mừng về Chúa Giêsu chiến thắng sự chết phải được công bố. Bởi vậy các bà được khuyên nhủ phải thông báo cho các môn đệ, nhất là Phêrô (c.7). Mọi Tông đồ đều được nhắn bảo tập trung về Galilê, ở đó Đấng Phục Sinh sẽ gặp lại họ và Ngài sẽ tới đó trước họ. Thế nghĩa là gì? Miền Galilê ở mãi phía bắc Palestin, là nơi Chúa Giêsu khởi đầu sứ vụ của mình (1,14-15), nơi Ngài dong duổi khá lâu trước khi lên Giêrusalem (9,30). Tác giả đã nhận định Galilê là môi trường điển hình cho việc tương giao Do Thái ngoại giáo, tượng trưng sự cởi mở đối với toàn thế giới. Bởi thế các môn đệ được mời gọi nhóm họp lại sau lưng Đức Giêsu Phục Sinh để chuẩn bị cho một sứ mạng rao truyền mới.
Như vậy các phụ nữ là những người được ký thác cho một chương trình tuyệt vời: phục hồi Tin Mừng với một sức mạnh mới mẻ.
Ta biết thêm gì nữa? Các bà chạy tron, lòng đầy sợ hãi, mà chẳng thông báo cho ai cả (c.8). Thái độ này khiến ta ngỡ ngàng. Và càng làm độc giả phải suy nghĩ đắn đo hơn khi biết rằng Maccô đã kết thúc tác phẩm của mình ở đây (ở câu 8). Các nhà chuyên mon đều đồng ý như thế. Phần nối tiếp sau đó (16,9-20), đoạn kết, không phải là văn phong của Maccô. Đó chỉ là một bản “phụ lục” thêm vào tác phẩm để tránh cho nó khỏi bị kết thúc đột ngột, đồng thời mang lại một chung cục có hậu hơn.
Bởi vậy ta cần tìm hiểu tại sao Tin Mừng Maccô nguyên thủy lại kết thúc với việc các phụ nữ sợ hãi, bỏ trốn và câm lặng như thế. Trước hết, nỗi lo sợ. Văn bản Tin Mừng ghi rằng các bà “run lẩy bẩy, het hồn hết vía”. Maccô bao giờ cũng trung thành từ đầu tới cuối khi nói đến khía cạnh này trong tác phẩm: khi chứng kiến các biểu lộ của Thiên Chúa con người bị hoảng loạn cực độ. Đó là trường hợp của đám đông dân chúng (2,12), của các môn đệ khi họ chứng kiến phép lạ của Thầy mình (5,42b; 6,50). Do vậy lẽ nào các phụ nữ lại không hoảng sợ và run rẩy khi được loan báo về sự Phục Sinh của Chúa Giêsu?
Kế đến là sự im lặng. Việc các phụ nữ không nói gì với ai cả còn chướng hơn việc họ đã nhận lãnh một sứ điệp phải truyền đạt (c.7). Và nếu quả thực các bà không truyền đạt lại –như các tác giả Tin Mừng cũng công nhận (Mt 28,8; Lc 24,9; Ga 20,2-18) ắt hẳn các Tông đồ cũng không thể biết gì cả… rồi chúng ta cũng vậy! Không biết gì! Nhưng ngay cả thái độ im lặng của các bà cũng đã ăn sâu vào máu thịt của Maccô. Ta thấy rằng các lời mặc khải mầu nhiệm Chúa Giêsu đã nhiều phen khiến bạn hữu Ngài hoàn toàn không hiểu gì. (Họ không dám hỏi lại Ngài 9,32). Do đó không lạ gì thái độ sợ hãi và câm lặng của các phụ nữ khi nhận được tin quá sức tưởng tượng rằng Đấng bị đóng đinh nay đã sống lại. Tin Mừng “Chúa Kitô đã Phục Sinh” bao giờ cũng là một tin khó rao truyền nhất, bởi lẽ hoàn toàn ngược với lý trí.
Đoạn cuối này của Tin Mừng Maccô hẳn làm cho ta phải kinh ngạc. Ta phải hết sức lưu ý chuyện cửa mồ được “mở ra” và sứ điệp của Thiên Chúa giao cho ta chỉ được đón nhận với một đức tin trần trụi như thế này: chứng minh là “kinh nghiệm sống” của những kẻ đã theo Thầy trong cuộc khổ nạn và Phục Sinh của Ngài.
(Chu giải mục vụ của Alain Marchabour)
CHÚA GIÊSU SỐNG LẠI (Ga 20,1-9)
Những lần hiện ra (20,1-29)
Các chương 20 và 21 thuật lại bốn lần Chúa Giêsu hiện ra khi Người sống lại: hiện ra với bà Maria Macđala (cc. 14-18), với các môn đệ mà không có ông Tôma (cc.19-23), với các môn đệ có ông Tôma trong tuần sau đó (cc. 19-23), với các môn đệ bên bờ Biển Hồ (chương 21 là chương mới được thêm vào Tin Mừng sau này). Một phần của nội dung trần thuật này đều thống nhất ở cả bốn Tin Mừng (ngôi mộ trống, hiện ra với các bà và với các Tông đồ). Thế nhưng Gioan, quả có sẵn trong tay các nguồn văn giống như các Tin Mừng Nhất Lãm, đã khôi phục lại cách rất khéo léo. Đặc biệt ông đã cá nhân hóa các kinh nghiệm về đức tin sau Phục Sinh, bằng cách quy kết các kinh nghiệm này cho những cá nhân riêng biệt, cũng như đánh dấu riêng các hình thức tin rất khác biệt: môn đệ được Chúa Giêsu thương mến tin mà không cần thấy (20,8); bà Maria Macđala chỉ nhận biết Chúa Giêsu khi Người gọi tên bà (20,16); các môn đệ thấy Người và tin vào Người (20,20); còn ông Tôma không muốn tin mà không thấy trước và sờ được Người.
Đoi với Gioan, cuộc Thương Khó và cái chết là Giờ được tôn vinh. Sự sống lại của Chúa Giêsu và những lần Chúa Giêsu hiện ra trong vinh quang quả là quan trọng, vì chúng đến thánh hóa toàn bộ quá trình của Chúa Giêsu, suy diễn từ buổi sơ khai bắt đầu từ sự sống lại sau cùng: “Khi Người từ cõi chết chỗi dậy, các môn đệ nhớ lại Người đã nói điều đó; họ tin vào Kinh Thánh và lời Chúa Giêsu đã nói” (2,22). Ngoài ra, chúng còn chuẩn bị thời kỳ của Giáo Hội khi Chúa Giêsu lên cùng Chúa Cha.
Bà Maria Macđala, ông Simon Phêrô và người Môn Đệ Kia (cc. 1-18)
Tiểu đoạn 1-18 được xây dựng chung quanh bốn nhân vật: bà Maria Macđala, ông Phêrô và người môn đệ kia và Chúa Giêsu. Sự việc diễn ra gần bên mộ, sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần. Bà Maria Macđala mở đầu và kết thúc bài trần thuật với hai sứ điệp dành cho các môn đệ, thoạt đầu đưa tin Chúa bị đem đi khỏi mộ (c.2), sau đó loan báo sự Phục Sinh (c.18). Có nhiều cảnh tượng khác nhau; đoạn dành cho bà Maria Macđala bị việc đi thăm mộ của hai môn đệ làm gián đoạn. Tuy vậy độ cao bi thảm hiện rõ trong những lần liên tiếp chạy đi chạy lại ngôi mộ: Bà Maria “thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ” (c.2); người môn đệ kia “thấy những băng vải (vải liệm theo bản dịch phụng vụ) còn ở đó”. Ông Phêrô thấy “băng vải và khăn che đầu” (c.7). Cuối cùng người môn đệ kia “thấy và tin” (c.8). qua các dấu chỉ càng lúc càng rõ nét, độc giả được chuẩn bị đi từ các dấu lạ tiến đến mặc khải về sự Phục Sinh của Chúa Giêsu.
NGÔI MỘ TRỐNG (cc.1-2)
Gioan có trước mặt trình thuật liên quan đến nhiều phụ nữ (chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu). Các Tin Mừng Nhất Lãm ghi nhận có hai bà (Mt 28,1), ba bà (Mc 16,1) hoặc nhiều hơn nữa (Lc 24,10). Gioan chọn xây dựng bài trần thuật của mình chung quanh một mình bà Maria Macđala. Việc bà đi đến mộ không nhằm mục đích thực dụng, bởi vì việc tẩm thuốc thơm đã được hai người đàn ông thực hiện vào áp ngày Sabát. Bà đến mộ trong tư thế thân thương và hiếu hạnh nhằm làm chậm đi sự chia cách với Chúa Giesu và kéo dài tang lễ (như đã xảy ra trong Ga 11,31). Tình huống nhắc đến đêm tối (của sự chết) và một bước khởi đầu (ngày thứ nhất). Tảng đá đã bị lăn khỏi mộ. Giống như các thánh sử khác, Gioan phòng giữ mầu nhiệm ve sự can thiệp của Thiên Chúa diễn ra mà không có nhân chứng, trước khi bà Maria đến. Cuộc gặp gỡ giữa bà Maria và Chúa Giêsu bị chậm lại vì được xen vào việc bà Maria chạy về gặp hai môn đệ.
HAI MÔN ĐỆ (cc.3-10)
Ông Phêrô và môn đệ Chúa Giêsu thương mến, cả hai đều có mặt ngay từ khởi đầu cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu trong một sự hết sức gần gũi với Người, đau thương cho ông Phêrô vì đã chối Thầy, trung thành nơi người môn đệ kia. Tích cực trong cuộc Thương Khó, hai ông còn tích cực hơn nữa trong việc khám phá mầu nhiệm Phục Sinh. Có sự chênh lệch giữa hai người cũng như có sự trổi vượt trong đức tin của người môn đệ được Chúa Giêsu thương mến, bởi lẽ môn đệ kia chạy tới mộ nhanh hơn (dấu chỉ sự vồn và ân cần lớn hơn chăng?), sau đó “ông thấy và tin”: dụng ngữ rõ ràng diễn đạt quá trình từ “thấy” đến sự gắn bó trọn vẹn với Chúa Giêsu Phục Sinh. Cảnh tượng đồ liem hoặc trật tự các đồ này được sắp xếp chứng tỏ rằng thi hài của Chúa Giêsu không bị đánh cắp, mà Chúa Giêsu đã bỏ đi, để lại khăn so có thứ tự nếp nang và đặt đúng vị trí Người mặc. Khác với anh Ladarô ra khỏi mồ, chân tay còn quấn vải, Chúa Giêsu không còn cần đến khăn vải nữa vì lẽ Người lìa bỏ thế giới loài người. Gioan không hề nói gì đến đức tin của ông Phêrô (Lc 24,12 nhấn mạnh ông Phêrô rất đỗi ngạc nhiên khi thấy những khăn liệm). Cho đến lúc ấy Kinh Thánh chưa hoàn toàn thuyết phục, tiếp nhận sự chứng nhận của nhiều dấu chỉ dồn dập trên đường của các môn đệ. Họ trở về nhà, nơi mà bà Maria Macđala sẽ mang Tin Mừng đến cho họ. Không tranh luận, không cạnh tranh ngoài mặt, cả hai môn đệ ra khỏi bài trần thuật cùng với sự trổi vượt thích đáng cho mỗi người: ông Phêrô được gia nhập trước tiên, trở nên cho Giáo Hội sơ khai một chứng nhân không thể chối cãi được. Còn người môn đệ kia trổi vượt hơn ông bởi sự gắn bó với Đức Kitô. Mối tương quan phức tạp giữa hai môn đệ này sẽ được minh giải nơi chương 21.
(Chú giải của Học viện Giáo Hoàng Pi-ô X Đà Lạt)
- Khi trình bày các biến cố ghi dấu và nối tiếp việc Chúa Giêsu sống lại, các thánh sử không muốn làm cho đọc giả bằng những cách diễn tả nhằm đánh động trí tưởng tượng, nhưng chỉ muốn tập trung vào những nét chính yếu: Chúa Giêsu đã sống lại, mộ của Ngài trống rỗng từ ngày Chúa nhật, và chính Ngài nhiều lần đã hiện ra với các tông đồ của Ngài như một người sống.
Các bài tường thuật của họ luôn luôn khác nhau và mỗi người trình bày theo một nhãn giới riêng. Nếu tất cả đồng ghi nhận việc ngôi mộ được phát hiện trống rỗng từ sáng Chúa nhật do một hay nhiều phụ nữ, một hay hai thiên thần loan báo sự sống lại, thì mỗi một thánh sử sau đó lại xếp đặt câu chuyện theo sơ đồ riêng. Vì lưu tâm đến tư tưởng: Chúa Giêsu là thầy của luật mới mà Ngài đã công bố trên núi miền Galilê (Mt 5,7), Mt chỉ muốn tường thuật việc Chúa hiện ra (sau khi sống lại) trên một ngọn núi miền Galilê. Ở đó Ngài sai các môn đồ đi rao giảng khắp thế giới như những vị thầy (Mt 28,16-20). Mc thì quan tâm đến việc minh chứng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa mà không tìm cách xác định vị trí các sự kiện được kể lại; ông chỉ vắn tắt nêu lên lần hiện ra với Madalena, với hai khách bộ hành, sau đó với nhóm 11 tông đồ trong một bữa ăn, có lẽ bữa ăn tối phục sinh, mà ông ghép luôn với việc sai các tông đồ đi truyền giáo (Mc 16,9-18). Lc chỉ trình bày sứ vụ Chúa Giêsu như một tiến trình từ Galilê về Giêrusalem và sứ vụ các tông đồ như một tiến trình khác từ Giêrusalem đến với thế giới (24,47), cho nên ông không ghi lại những lần hiện ra ở Galilê, vì sợ xáo trộn lược đồ địa dư của mình; ông kể lại rất dài dòng lần hiện ra với hai môn đệ làng Emmau, với các tông đồ trong bữa ăn vào chiều Phục sinh mà ông ghép luôn với việc sai đi truyền giáo (Lc 24,13-49).
Gioan thì xếp đặt câu chuyện về sứ vụ Chúa Giêsu cốt để xác định thiên tính của Ngài và trình bày các chứng nhân đã tin hay không tin vào Đức Kitô trần thế. Trong chương 20, ông vẫn đeo đuổi những mục tiêu ấy, liên quan đến việc Chúa Giêsu sống lại. Trước hết ông quả quyết Chúa Giêsu đã sống lại và tiến về Chúa Cha, sau đó, cho biết Maria Madalena và các môn đệ, ban đầu hoàn toàn không tin, nhưng dần dần đã tin vào sự sống lại, vào Đức Kitô thiên quốc thế nào. Câu chuyện bắt đầu bằng tiếng kêu thống khổ của Maia Madalena: “Người ta đã cất Chúa khỏi mộ, mà chúng tôi không biết họ đặt Ngài ở đâu!” để rồi kết thúc bằng việc tuyên xưng đức tin và hoàn hảo của Tôma, người nghi ngờ cố chấp nhất: “Lạy Chúa tôi và là Thiên Chúa tôi”.
Trong trình thuật này, như sẽ thấy, Gioan lần lượt gặp gỡ bản thánh sử khác nhưng không quan tâm kể lại tất cả. Cũng như trong các phần khác của phúc âm, ông thu gọn chứng từ của mình vào những yếu tố quan trọng để thêm rõ ràng và mạnh mẽ hơn; trong các đoạn văn liên hệ đến những người nữ thánh thiện, ông chỉ đề cập đến một người hoạt động và nổi bật hơn hết về đức tin là Maria Madalena. Ông bỏ qua nhiều cảnh huống hấp dẫn nhưng ít quan trọng; trong các lần hiện ra ông chỉ giữ lại những lần khơi dậy niềm tin và đánh tan nghi ngờ hay cứng lòng tin. Trong trang cuối của “Phúc âm các dấu chỉ”, hơn lúc nào hết, ông muốn đưa chúng ta đến hành động tuyệt vời của đức tin, là chóp đỉnh và mục tiêu của cả cuốn sách: “Lạy Chúa tôi và là Thiên Chúa tôi”.
- Khởi đầu câu chuyện, Gioan chỉ giới thiệu một mình Maria Madalena trên đường đến mộ, trong phúc âm nhất lãm thì nói đến nhiều người. Tuy nhiên, trên đường từ mộ về, Maria Madalena phát biểu ở ngôi thứ nhất số nhiều: “người ta đã cất chúa khỏi mộ, mà chúng tôi không biết họ đặt Ngài ở đâu” (c.2). Người ta đã tìm cách cắt nghĩa sự bất thường này bằng nhiều cách:
- Một vài nhà chú giải cho rằng Gioan chỉ kể tên Madalena vì bà là người đầu tiên được đề cập tới trong phúc âm nhất lãm và là người hoạt động nhất trong số các người nữ thánh thiện. Nếu Gioan không đề cập tới các người nữ khác, thì không phải là muốn cho người ta hiểu rằng Maria đã đi thăm mộ một mình đâu. Như một người chú trọng ăn thể, Gioan có thói quen đơn giản hóa: ông tách rời, rồi cho hai nhân vật chạm trán nhau để đề cao nét chính yếu của đề tài mà ông trình bày ở đây: là sự trái nghịch giữa phản ứng ngây ngô, đại lượng và đầy tình người của Maria Madalena và yêu sách của Chúa Giêsu kêu mời bà phải thấu hiểu bằng đức tin. Trong trường hợp này, tiếng “chúng tôi” của câu hai hình như được cắt nghĩa cách tự nhiên bằng sự kiện là Maria nói đại diện cho các người nữ khác cùng đi viếng mộ với bà mà đã về trước để báo tin cho Phêrô và Gioan.
- Wellhausen và Spitta thì nghĩ tiếng “chúng tôi” chỉ là một cố gắng của người viết để dung hòa Gioan và các phúc âm nhất lãm; nhưng trong khi câu chuyện của Gioan khác biệt với các phúc âm nhất lãm về nhiều khía cạnh, mà muốn dung hòa về một điểm nhỏ nhặt và tinh vi như thế thì thật là chuyện lạ.
- Bultmann và một vài nhà chú giải khác cho rằng: tiếng “chúng tôi” chỉ là một kiểu diễn tả của Do thái, có vài nét tương tự với Hy lạp. Dựa theo giả thuyết này, dalman (trong sách Grammatik des judischpalastinischen Aramaisch, xuất bản năm 1960) có viết: “trong tiếng Aramêo ở Galile, ngôi thứ nhất số nhiều được dùng để thế ngôi thứ nhất số ít”. Dầu có cách cắt nghĩa văn phạm như thế cũng chưa thỏa mãn, vì trong phần nối tiếp câu chuyện (c.13) Maria vẫn nói lại câu chuyện đó nhưng lần này thì ở số ít.
Trong các lối giải thích trên, thì hình như lối giải thích thứ nhất hay và tự nhiên hơn hết.
Hai chi tiết khác của câu chuyện được các nhà chú giải giải thích khác nhau.
Trước hết tại sao Gioan lại chạy đến mộ trước Phêrô? Vì Gioan trẻ và nhanh hơn. Lagrange và nhiều người khác giải thích như thế. Một lối giải thích khác cho rằng nếu Gioan chạy nhanh hơn và chạy đến trước vì ông là môn đệ Chúa yêu và tình yêu của Thầy đã thúc đẩy ông chạy nhanh hơn. Một vài nhà chú giải cổ xưa còn dám cho rằng Gioan chạy nhanh hơn vì ông là người độc thân. Người khác thấy đây là một biểu tượng đặc biệt: Gioan tượng trưng cho Kitô giáo gốc lương dân cởi mở đón nhận đức tin hơn, còn Phêrô tiêu biểu cho các tín hữu Do thái là những người đầu tiên được sát nhập vào giáo hội, mặc dầu đức tin của họ yếu kém hơn. Nhưng tiến vào ngôi mộ chưa phải là tin, hình như câu chuyện cũng muốn gợi ý là Gioan, người vào mộ sau hết lại chính là kẻ đạt đến đức tin trước hết. Trước những cố gắng giải thích rời rạc như vậy, cách khôn ngoan hơn hết có lẽ là xem như vấn đề không giải quyết được hoặc theo cách giải thích đơn giản và tự nhiên hơn hết: vì Gioan trẻ nên chạy nhanh hơn.
Chi tiết thứ hai: tại sao Gioan lại phải đợi Phêrô vào mộ trước rồi mới vào sau? Các nhà chú giải đưa ra nhiều lối giải thích khác nhau. cách thông thường hơn hết cho rằng Gioan có lẽ đã chờ Phêrô vì địa vị tối cao của Phêrô trong cộng đoàn các môn đệ. Người khác lại thấy trong chi tiết này một dấu vết của truyền thống trong Lc 24,12 theo đó thì chỉ có Phêrô chạy đến mộ mà thôi. Cách đơn giản hơn hết có lẽ nghĩ rằng: vì bàng hoàng trước cửa mộ rộng mở và những giải khăn liệm còn ở dưới đất nên Gioan đã chần chờ một vài giây phút trước sự kiện lạ lùng này, và như thế Phêrô đã đủ thì giờ bắt kịp; ông này thì tính tình nóng nẩy có lẽ đã chui vào mộ trước khi Gioan hết sững sờ. Cũng như trong các chi tiết khác thuộc loại này, việc tìm hiểu một biểu tượng để cắt nghĩa một sự kiện là điều không luôn luôn thích hợp mấy. Chắc hẳn, cách giải thích hay hơn hết thường là xác nhận rằng nếu như người chép sách Kinh thánh đã nghĩ rằng mình phải nêu lên một chi tiết không mấy quan trọng nào đó là vì sự kiện đã xảy ra như thế. Nằm trong biến cố quan trọng của cuộc đời Chúa Giêsu, một chi tiết đã đánh động ông, chi tiết tự nó không quan trọng, nhưng đã khắc sâu vào trong trí nhớ của ông vì có liên quan với biến cố quan trọng trên. Ngồi suy tưởng lại biến cố ấy, thánh sử cũng đồng thời nhớ lại chi tiết trên và ghi vào trong phúc âm mình để nói lên cái nét sống động và đích thật của biến cố.
Bên trong mộ, các khăn liệm vẫn còn. Khác với Lazarô khi sống lại (11,43), Chúa Giêsu không cần đến sự giúp đỡ nào của con người. Như Ngài đã lăn tảng đá đóng kín mộ ra thế nào, thì Ngài cũng tự tháo gỡ các khăn liệm và khăn phủ mặt thể ấy. Sự kiện các khăn liệm vẫn còn “đặt đó” và khăn phủ mặt “được buộc riêng ra một chỗ”, loại bỏ giả thiết cho rằng xác Chúa bị đánh cắp vội vã hoặc là bị đánh cắp một cách nào đó, vì không lẽ những người trộm xác lại có thể nghĩ đến chuyện lột trần xác chết như vậy. Chi tiết này là một dấu chỉ việc Chúa sống lại. Thực vậy khi chỉ nhìn dấu chỉ này thôi, Gioan liền tin vào Chúa sống lại, nhờ đức tin sống động của ông…Nếu không cần thấy Chúa đích thân sống lại để tin, thì ông cũng cần đến sức mạnh của dấu chỉ đó: “ông đã thấy và tin”. Ông thú nhận mình đã không thực hiện hoàn toàn lời chúc phúc của thày: “phúc cho ai không thấy mà tin” (20,29). Chỉ một mình Mẹ Chúa Giêsu, người đã tin ở con mình trước khi được thấy bao phép lạ (2,3-6), là đã chứng tỏ một đức tin hoàn hảo, đến độ người không xuất hiện tất cả các biến cố này. Người đã không cần đến bằng chứng hoặc dấu chỉ nào đề tin vào sự sống lại của con mình. Nếu Chúa Giêsu có hiện ra với người sau khi sống lại, thì hầu như chắc chắn là không phải để tỏ bằng chứng sống lại cho người, nhưng đúng hơn là để chia sẻ với người nguồn vui và chiến thắng vinh hiển của mình. Có lẽ có người chống lại giả thuyết cho rằng Chúa Giêsu vinh hiển đã hiện ra với mẹ Người, vì bản văn Mc nói rõ ràng: “Chúa Giêsu hiện ra trước hết với Maria Madalena (16,9), cả trước khi hiện ra với hai người nữ thánh thiện khác lúc họ đi loan báo cho các môn đệ; nhưng không có gì ngăn trở việc nghĩ rằng Chúa Giêsu hiện ra trước hết với mẹ Ngài như lòng đạo đức của các người tín hữu xưa nay vẫn thường tin như vậy. Nếu các tài liệu đã không thuật lại việc Chúa Giêsu hiện ra với mẹ Ngài, là vì nó có tính cách riêng tư. Còn về phần Phêrô, thì thánh sử không nêu lên việc ông đạt đến niềm tin nhờ vào dấu chỉ khăn liệm. Theo Lc và Phaolô, ông là người đầu tiên được diễm phúc thấy Chúa hiện ra với mình (1Cr 15,6; Lc 24,34). Có phải vì thế mà Lc và Phaolô muốn gián tiếp cho rằng Phêrô phải thấy Chúa sống lại đã rồi mới tin không?
- Môn đệ yêu dấu của Chúa Giêsu, một khi đã vào mộ thì thấy rõ điều mà Phêrô đang quan sát và chính ông khi mới tới mộ cũng thoáng thấy: đó chính là khăn liệm vẫn còn nguyên vẹn, ngôi mộ vẫn còn thứ tự không bị xáo trộn: giả thuyết xác bị mất trộm như vậy bị loại bỏ. “Ông tin”.
Một vài người nghĩ rằng kiểu nói này tương đương với “ông xác tín” và cần phải nối ghép câu ấy vào lời nói của Maria Madalena. Ông xác tín rằng bà đã nói thật và thêm tin tưởng vào lời bà hơn (khi đã thấy khăn liệm). Lối giải thích đó của W.Nank xem ra không thể đứng vững được. Trước hết nó không để ý đến sức mạnh của kiểu nói “thấy và tin” của thánh Gioan, hơn nữa, còn mâu thuẫn với toàn bộ câu chuyện. Thật vậy, Maria Madalena không chỉ nói Chúa không còn đó nữa mà còn quả quyết là họ đã “lấy mất” xác rồi. Mà chính điểm này đã bị loại bỏ vì khăn liệm và khăn phủ mặt còn nguyên. Sau hết giải thích như thế là làm suy yếu đi tầm quan trọng của việc sùng kính đối với đức tin vào sự sống lại của môn đệ Chúa Giêsu yêu và giản lược đức tin này vào việc hùa theo lời nói của Maria Madalena. Khi nhìn thấy ngôi mộ trống, khăn liệm và khăn khăn phủ mặt, người môn đệ Chúa Giêsu yêu liền tin rằng Chúa Giêsu đã sống lại.
Còn Phêrô thì sao? Phúc âm không nói gì. Lc 24,12 cho biết là ông trở về nhà, kinh ngạc về việc xảy ra. Một số đông các nhà chú giải nghĩ rằng: ý hướng của thánh sử, dĩ nhiên là Phêrô cũng tin. Có lẽ người ta suy diễn điều đó từ câu sau đây: “Là vì họ chưa hiểu lời kinh thánh là Ngài phải sống lại từ cõi chết” (Ga 20,9). Theo các nhà chú giải khác, thì hầu như thánh sử muốn biện minh cho người Chúa Giêsu yêu dấu, cố đề cao đức tin nhanh chóng của ông với sự chậm chạp của Phêrô: ông đã đến mộ trước tiên, thì cũng thế ông đã đạt được niềm tin phục sinh trước hết, và hồng ân này là do tình thương đặc biệt của Thiên Chúa. Dầu vậy, nói như Cha Lagrange là bản văn không đề cập đến Phêrô thì có lẽ đúng hơn. Nếu “môn đệ kia” chỉ nói cho mình thôi, thì phải là ông muốn nghi ngờ đức tin của ông đã nghiệm lòng: ông chỉ nói lên điều mình đang sống và cảm nghiệm.
Có nhiều lý lẽ vững vàng không cho phép nghi ngờ giá trị lịch sử và truyền thuyết liên quan đến việc khám phá mồ trống. Trước tiên là truyền thuyết này được xây dựng trên chứng từ của các người nữ. Mà chứng từ của phái nữ thì được coi là không thể chấp nhận (x.Lc 24,11), và các thánh sử đều đồng ý đặt chung từ đó dưới sự kiểm soát của các môn đệ, đặc biệt là thánh Phêrô. Ta không thấy lý do mà cộng đoàn Kitô hữu đã nêu lên vấn đề khó khăn đó nếu như thực tế không buộc như vậy. Đàng khác, cuộc tranh luận với người chống đối đã không bao giờ bàn về sự kiện ngôi mộ được phát hiện trống trơn, nhưng chỉ bàn về cách giải thích (x. Mt 27,62-66). Những kẻ nghịch đạo thời xưa cũng không bao giờ chối cãi sự kiện ấy. Qua bao nhiêu đổi thay của truyền thuyết phục sinh, sự xác quyết “mồ trống” vẫn không thay đổi.
KẾT LUẬN
Đoạn phúc âm này dẫn đưa chúng ta đến hai nền tảng thiết yếu của đức tin phục sinh: kinh thánh đã mạc khải chương trình Thiên Chúa, và chứng từ của các tông đồ, dựa trên kinh nghiệm mồ trống và các lần hiện ra, xác quyết rằng ý định Thiên Chúa đã được thực hiện trong Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa (20,30-31; Ga 1,1). Cho dẫu được căn cứ trên kinh nghiệm mồ trống và các lần hiện ra, đức tin phục sinh chỉ đạt mức độ sung mãn và chân lý hoàn toàn khi được đào sâu và kiện toàn trong sự thông hiểu ý định của Thiên Chúa mạc khải trong kinh thánh. Vì thế cho nên, câu tuyên xưng đức tin Kitô giáo cổ xưa nhất cũng mang khoản này: ”…theo lời kinh thánh” (1Cr 15,3-4); ngay chính Chúa Giêsu trên đường Emmau cũng “khởi từ Môisen và lướt qua hết thảy các tiên tri, Ngài dẫn giải cho họ (môn đệ) các điều đã viết về Ngài trong toàn bộ kinh thánh” (Lc 24,27.32). Chính nhờ sự thông hiểu ý định Thiên Chúa mà người môn đệ Chúa Giêsu yêu đã có trực giác ngay khi thấy dấu chỉ đầu tiên. Với ông dù chưa thấy Chúa, nhưng ý định của Thiên Chúa đã tỏ lộ; lời chúc phúc của Chúa được thực hiện cho ông rồi.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
- Điều gì đã đi sâu chừng nào vào đời sống của con người thì khó diễn tả chừng ấy. Kinh nghiệm đức tin vào Chúa Giêsu sống lại cũng vậy. Đối với người ngoại giáo, sự sống lại của Chúa Giêsu chỉ có thực trong niềm tin của các Kitô hữu. Còn đối với người Kitô hữu, sự sống lại của Chúa Giêsu là một thực tại còn xác thực hơn một sự kiện lịch sử đã được kiểm chứng cách chắc chắn nhất. Người Kitô hữu có thể biểu lộ niềm tin của mình thế nào trước người ngoại giáo hoặc giản dị hơn, trước đòi hỏi chính đáng của lý trí mình? Ai tin vào sự sống lại của Đức Kitô thì rồi cũng phải mặc lấy thái độ của các tông đồ. Nhờ vào ngôn ngữ và cách suy tư riêng của họ, các vị này chứng thực rằng họ đã quen biết Chúa Giêsu trước khi Ngài chết, họ đã gặp thấy lại Ngài đang sống. Họ làm chứng, nghĩa là họ quả quyết điều họ đã sống và thấy. Biến cố xảy ra thế nào, họ không hiểu. Chúa Giêsu vượt qua từ sự chết đến sự sống thế nào, Ngài làm thế nào mà hiện ra trong cách sống không còn như xưa nữa, các tông đồ không nói gì hết. Nhưng họ xác nhận sự kiện một cách chắc chắn tuyệt đối. Cũng vậy đức tin của người Kitô hữu hôm nay xác quyết sự chết và sự sống lại của Chúa Giêsu, nhưng không thể trả lời những vấn nạn đòi hỏi nó phải tường trình về cách thế sống lại. Tuy nhiên, nhờ vào sự hiện diện và hành động của Chúa Giêsu sống lại trong đời sống của mình. Họ có thể làm chứng cho Đức Kitô sống lại, nhưng không thể giải thích. Đó là mầu nhiệm, nhưng là một mầu nhiệm làm cho sống.
- “Cả hai cùng” Phêrô và Gioan vội vã chạy đến mộ, sau khi được Maria Madalena báo tin. Trong sự vội vã và nao nức ấy, hãy xem đó là một dấu hiệu tượng trưng. Chúng ta có bị thu hút về Chúa Giêsu sống lại và hiện đang sống không? Với Phêrô và Gioan, ngôi mộ biểu hiện cho sự thất bại hoàn toàn từ chiều thứ sáu. Thế mà giờ đây họ đang hướng về một niềm hy vọng, chắc chắn còn mơ hồ, nghi ngại, nhưng hoảng chạy. trong cuộc sống của chúng ta, có những lần thất bại mà chúng ta bị cám dỗ cho là tuyệt vọng không? Một ước vọng nào đó mà chúng ta đã không thể thực hiện được, một công việc tông đồ nào đó không có kết quả, một hạnh phúc chính đáng nào đó đã chìm mất trong thất bại… chúng ta có nguồn hy vọng để biết nhìn thấy quyền năng sống lại của Thiên Chúa trong các cơn thử thách không? Chúng ta là môn đệ của Đấng Sống lại, Ngài kêu mời chúng ta đừng bao giờ đặt hòn đá thất vọng trên bất cứ sự gì, nhưng luôn luôn hy vọng. Có lẽ điều sống lại sẽ khác với điều ta mơ ước, nhưng chắc chắn là điều tốt đẹp hơn.
- “Ông thấy và tin”. Câu nói này về Gioan. Bản văn thêm rằng, lúc ấy ông mới hiểu lời kinh thánh. Kinh thánh đây là Cựu ước. Thật vậy con người và cuộc đời Chúa Giêsu là ánh sáng chiếu soi Cựu ước. Người ta có thể nói như vậy về Tân ước. Phải đọc Thánh kinh như thế nào? Phải tìm gặp Chúa Giêsu Kitô, là chân lý, là sức mạnh, là cố vấn, là đạo đức, là chính cuộc sống của chúng ta.
- Sự sống lại của Chúa Giêsu vô hiệu hóa sức quyến rũ của những thắng lợi trần thế, bằng cách minh chứng rằng sự sống đích thực không tọa lạc nơi dương thế nhờ định luật đào thải hủy diệt, nhưng chính là sự trung thành với Thần khí, Đấng tác tạo con người mới của sự công chính và tình yêu Chúa Cha. Trong ý hướng ấy, Chúa Giêsu đã hủy diệt quyền lực tội lỗi cho dù ảo vọng của con người vẫn chưa tiêu tan, cho dù sự vô ý thức của chúng ta vẫn còn nặng nề khó lay chuyển; thực tế đã như thế rồi từ sáng phục sinh, lúc mà trong tiếng động đất, Chúa Giêsu con ông Giuse và bà Maria đã chỗi dậy khỏi mồ và tiến vào sự sống thật. Như thế một lần thay cho tất cả, Ngài minh chứng cho chúng ta rằng: con đường đưa tới hạnh phúc thật, con đường dẫn đến sự sống lại, không đi qua tội lỗi song qua lòng yêu mến Thiên Chúa và tha nhân vô điều kiện.
(Chú giải của Noel Quesson – Mc 16, 1-8)
Mỗi năm, chúng ta mừng Lễ Phục Sinh bằng cách lắng nghe sứ điệp của mỗi thánh sử. Năm nay, sau Bài thương khó theo thánh Maccô, chúng ta đọc tiếp trình thuật về biến cố “Phục sinh theo Thánh Maccô” trong Đêm canh thức này, trình thuật của Maccô het sức ngắn gọn, chỉ gồm có tám câu.
Vừa hết ngày Sabát, bà Maria Mácđala với bà Maria, mẹ ông Giacôbê, và bà Salômê, mua dầu thơm để ướp xác Đức Giêsu.
Chúng ta đã ghi nhận vai trò quan trọng của các “người nữ”. Theo Maccô, chỉ có các bà mới dám đi với Đức Giêsu tiến đến cái chết của Người trên đồi Golgotha… còn tất cả các nam môn đệ đều đã bỏ trốn (Mc 14,50-15,50).
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con tình yêu trung thành hơn. Xin Chúa đừng để chúng con bỏ rơi những người chúng con yêu thương.
Tôi ngắm nhìn những “phụ nữ tẩm xác”, tay bê nặng những bình dầu thơm, trời còn mờ sáng đang tiến thẳng tới một nghĩa địa. Các bà này chỉ lo lắng một điều: làm sao tam dầu thơm cho một xác chết, kết thúc bước đường phiêu lưu của “Đức Giêsu Nagiaret”… thể hiện những bổn phận yêu thương cuối cùng đối với một người thân yêu quá cố, bổ sung cho việc an táng một tử tội khả quan hơn, bơi vì buổi chiều ngày hành quyết người ta không có đủ giờ chôn cất đàng hoàng.
Sáng tinh sương ngày thứ nhất trong tuần, lúc mặt trời hé mọc, các bà ra mộ.
Đó là một buổi sáng. Một buổi sáng vùng Địa Trung Hải. Trời mát, không khí tươi dịu trên con đường dẫn đến các bà bước tới, lòng đau đớn với biết bao kỷ niệm. Chung quanh các bà, chim chóc đã bắt đầu ca hót. Xuyên qua các cành cây đang trổ những đọt mầm xanh non, mặt trời nhô lên ở chân trời. Một buổi sáng mới khởi sự Halleluia, Halleluia… Vâng, bắt đầu một tuần lễ mới, một thế giới mới, một cuộc tạo thành rưới, một kỷ niệm mới.
Các bà vừa đi vừa bảo nhau: “Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mộ giùm ta đây:” Nhưng vừa ngước mắt lên, các bà đã thấy tảng đá lăn qua một bên rồi, mà tảng đá ấy lớn lắm.
Chi tiết cụ thể này rất quan trọng. Cả bốn thánh sử đều đã ghi nhận. “Tảng đá đã được lăn ra”. Nhưng chỉ mình Maccô ghi nhận thêm, tảng đá đó lớn lắm? Chi tiết lịch sử này có thực, hoàn toàn phù hợp với kiểu cách mộ phần thời bấy giờ. Nhưng đối với Maccô cũng như đối với chúng ta ngày nay, thì đó là chi tiết tượng trưng đầy ý nghĩa: một bức tường thực sự ngăn cách con người với sự Phục sinh… được coi như một sự kiện không thể có được… ”Ai có thể cất gỡ được chướng ngại này?”. Chỉ mình Thiên Chúa mới có thể hủy bỏ được sức nặng ghê gớm của cái chết đang đè nặng trên nhân loại.
Vào trong mộ các bà thấy một người thanh niên ngoi bên phải, mặc áo trắng.
Trình thuật của Maccô, có vẻ giản đơn hơn trình thuật của Matthêu, vì không nói đến “thiên thần”, đến “đất rung chuyển” đến tia chớp sáng”… nhưng chỉ đề cập đến một “người thanh niên”. Maccô có ý giữ nét giản dị như thế: ông chỉ mượn một hình ảnh tối thiểu trong ngôn ngữ khải huyền thông dụng, để tránh những kiểu “tả ve” về biến cố Phục sinh. Ông cố khẳng định nguyên sự kiện đó. Nhưng ta biết rằng màu “trắng” luôn là dấu chỉ: đó là màu của ánh sáng, nghịch với bóng tối… đó là màu của vinh quang, màu của các vật thể trên trời. Vào ngày Biến Hình, cũng chính Maccô đã nói đến “một thứ trắng tinh không có một thợ nào trần gian giăt trắng được như vậy” (Mc 9,3). Trong sách Khải Huyền của Gioan, màu “trắng” luôn tượng trưng cho thế giới trên trời (Kh 2,17; 4,14-19; Ed 9,2; Đnl 7,9; Is 1,18; Kh 7,14-19,1-14).
Các bà hoảng sợ. Nhưng người thanh niên liền nói: “Đừng hoảng sợ!”.
Tất cả những trình thuật về Truyền tin (loan báo một sứ điệp của Chúa) trong Kinh Thánh đều ghi lại chi tiet này. Những gì thuộc về Thiên Chúa thường gây bối rối cho lý trí của con người và tạo nên một thú vị ngạc nhiên, sợ hãi thiêng thánh. Ở đây Maccô sử dụng một từ quen thuộc với ông (exéthambêthêsan = có nghĩa là các bà bối rối, hồn siêu phách lạc). Cũng như không người “Caphacnaum đã kinh ngạc” trước sự can thiệp đầu tiên của Đức Giêsu (Mc 1,27 xem thêm Mc 10,24-32 và 14,33).
Nhưng nếu sự đột xuất của Đấng hoàn toàn khác lạ thường gây bối rối, thì sự hiện diện của Người lại trấn an và làm ta bình tâm ngay. Thiên Chúa không đích thực là Đấng chỉ nhằm hù dọa chúng ta. Người vẫn thường nói: “Các ngươi đừng sợ”.
Thế nên, ta cần lưu ý, Maccô không thuật lại sự hiện ra đúng nghĩa của Đức Giêsu… Nhưng chỉ ghi một “Lời” mạc khải, qua một thiên sứ, nói lên “đức tin”, một trong những điểm của “kinh Tín Kính” ta vẫn đọc.
Các bà tìm Đức Giêsu Nagiaret, Đấng bị đóng đinh chứ gì! Người đã sống lại rồi, không còn ở đây nữa.
Người bị đóng đinh vì chúng tôi dưới thời Phongxiô Philatô, Ngày thứ ba, Người đã sống lại” Đó là lời tuyên xưng Đức tin của các Kitô hữu tiên khởi (Cv 2,23; 3,15; 4,10; 10,39; 13,28-30) Đó cũng là đức tin của chúng ta.
Trình thuật của Maccô nhấn mạnh những khía cạnh cụ thể, như thế muốn nói với chúng ta rằng, đó cũng chính là Đức Giêsu, “người Nagiaret”, kẻ “bị đóng đinh”, Đức Giêsu của lịch sử.
Kẻ bị đóng đinh đã thức dậy.
Kẻ bị đóng đinh đã phục sinh
Người không còn ở đây nữa! Vậy Người ở đâu?
Chỗ đã đặt Người đây này, xin các bà về nói với môn đệ Người và ông Phêrô như thế này: “Người sẽ đến Galilê trước các ông”.
Rõ ràng, Maccô không muốn chúng ta quan tâm đến “ngôi mộ” nữa, Thiên Chúa cũng không muốn con người để ý đến “mồ táng” đó. Cả Đức Giêsu cũng thế, trước khi chết, Người đã nói chính lời đó: “Sau khi sống lại, Thầy sẽ đến Galilê trước anh em” (Mc 14,28). Chàng “thanh niên mặc áo trắng ngồi bên hữu phải chăng là chính mình Đức Giêsu, một Giêsu mới, Đức Giêsu ngự bên hữu Đức Chúa Cha? Đức Giêsu mà người ta mới tiếp xúc đầu tiên, với con mắt trần gian, không còn nhận ra nữa; ta hãy nhớ lại trường hợp của Mácđala, tại khu vườn; bà cứ tưởng Người là người làm vườn” cũng như hai môn đệ làng Emmau, ‘con mắt họ đã bị đóng lại’
Hãy đi! Hãy ra đi! Đừng dừng lại tại ngôi mộ đó. Đừng ở lại Giêrusalem. Hãy đi về phía trước, nói Đức Giêsu đang sống động nơi Người đã đến trước anh em, nơi Người đã hẹn gặp anh em tại Galilê! Trên miền đất của anh em, những người xứ Galilê, trong đời sống hiện thực thường ngày. Đối với Maccô, Galilê là tên của vùng đất đó, có một ý nghĩa tượng trưng rất lớn. Ong đã nhắc đến tên đó 12 lần trong Tin Mừng của ông. Chính tại đó mà cuộc đời Đức Giêsu đã đạt tới đỉnh cao. Cũng tại đó lần đầu tiên Tin Mừng của Thiên Chúa đã vang lên. Chính Đức Giêsu đã biểu lộ những dấu lạ đầu tiên quyền năng của Người tại đó. Và cũng là nơi qui tụ nhiều đám đông.
Giờ đây, thời của Galilê lại bắt đầu, thời quy tụ một dân tộc mới chung quanh Phêrô, thời của những “dấu chỉ” mới, thời của Tin Mừng: Giáo Hội khởi sự… và giáo hội chính là nơi hiện diện của Đấng “không còn ở đây nữa, nghĩa là không còn ở trong mồ mà người ta đã chôn táng Người”. Đó là một lệnh lên đường. Nào, hãy lên đường. Đừng ở lại đây làm gì! Hãy đi nói với Phêrô. Hãy trở lại Galilê.
Ở đó các ông sẽ được thấy Người, như Người đã nói với các ông.
Ở đây không giải thích theo phạm vi triết học và lý luận. Các tông đồ cũng như chúng ta, được mời gọi tin theo một lời nói, và dấn thân trong một hành động hiện thực: Góp phần cho việc tập hợp những người tin Đức Giêsu chung quanh Phêrô, và thi hành những gì Đức Giêsu đã báo trước khi Người còn sống.
Đối với Maccô, tin vào việc sống lại, trước hết không phải là vấn đề gây nhức óc cho trí hiểu, nhưng là thái độ cùng với anh em mình dấn thân vào một cuộc sống mới, theo một Lời báo trước!
Vừa ra khỏi mộ, các bà liền cắm đầu chạy.
Các bà đã đến mộ cốt là làm được một việc, thế nhưng các bà lại phải đi mà không thể thi hành được điều đó. Các bà mang dầu thơm về. Các bà vội rời gót khỏi nơi đó.
Các bà run lẩy bẩy, hết hồn vía. Các bà chẳng nói gì với ai, vì sợ quá.
Đây là những lời cuối cùng của đoạn Tin Mừng Lễ Phục Sinh.
“Run lẩy bẩy” (tromos) và “ngây ngất xuất thần” (extasis). Làm sao có thể diễn tả hay hơn sự đột nhập bất ngờ và gây đảo lộn của Nước Thiên Chúa trong lịch sử con người? Xuyên suốt Tin Mừng của mình, Maccô đã nhấn mạnh đến “bí mật” che giấu căn tính đích thực của Đức Giêsu Nagiaret: mỗi lần có kẻ nào nói quá sớm Người là “Con Thiên Chúa”, Đức Giêsu đều buộc họ phải im lặng. Câu kết này của Maccô giữ trọn ý nghĩa. Chúng ta hãy trân trọng nó? Các người nữ “im lang” và “chẳng nói gì với ai”: Nói thế nào được khi con người Đức Giêsu đã vượt thoát khỏi mọi nắm giữ và trở nên một mầu nhiệm không còn thuộc phạm vi nhân loại, luôn gây bối rối.
Tất cả những ai muốn kiếm tìm trong những trình thuật trên, một sự “hiển nhiên tuyệt đối” một sự “ổn định hoàn toàn”, thì sẽ gặp thất vọng. Chính Maccô muốn dẫn chúng ta vào sự im lặng của Đức tin và thái độ tôn thờ. Lạy Chúa Giêsu, Chúa cao cả hơn mọi tưởng tượng của chúng con.
(Chú giải của Fiches Dominicales – Mc 16, 1-8)
ĐỨC GIÊSU NAGIARÉT
BỊ ĐÓNG ĐINH, NGƯỜI ĐÃ CHỖI DẬY RỒI
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI.
1) Bên kia bóng tối, ánh sáng ngày mới đang bừng lên
Anh sao mai xuất hiện đã đánh dấu ngày Sabát, ngày lễ nghỉ thánh, chính thức chấm dứt. Cuộc sống đã sớm trở lại với nhịp sống bình thường, các tiệm buôn đã mở cửa. Bà Maria Mácđala, bà Maria mẹ ông Giacôbê, và bà Salômê – ba bà này “đã đi theo và giúp đỡ Đức Giêsu khi người còn ở Galilê” (15,41), đã có mặt khi Đức Giêsu bị đóng đinh (15,40), và khi Người được chôn cất -đã có thể đi mua dầu thơm “để ướp xác Đức Giêsu”, mà chắc không phải là theo cách thưc người Ai cập, nhưng theo tục lệ của người Do thái: ướp xác bằng dầu thơm.
“Các bà ra mộ”, đến chỗ hẹn của cái chết. Nhưng bằng những hình ảnh biểu tượng khác nhau: “Sáng tinh sương”, “lúc mặt trời hé mọc” trình thuật đã báo trước một cuộc tạo dựng mới rồi. Bóng tối của sự chết sắp bị đẩy lui nhường chỗ cho ánh sáng của một ngày mới, cho một khởi sự mới của vũ trụ; đó là “ngày đầu tuần” của một công trình tạo dựng mới, ngày ấy chang bao lâu nữa sẽ được gọi là Chúa nhật, tiếng latinh là “dies dominica”, Ngày Chúa phục sinh.
Dọc đường đến mộ, khi nghĩ đến tảng đá lớn chắn cửa mồ, các bà cảm thấy lo âu. Nỗi lo âu ấy là chuyện rất bình thường, vả chăng còn là khá muộn màng: “Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mộ giùm ta đây”, bởi vì các bà biết rằng “tảng đá ấy lớn lắm” chỉ với sức lực của hai hoặc ba người đàn ông mới có thể lăn nổi tảng đá ấy. Tảng đá càng lơn, thì càng gây ngạc nhiên lớn hơn cho các bà sau này.
– Các bà ngạc nhiên trước hết vì “thấy tảng đá đã lăn ra một bên rồi”, điều không thể nào làm được đối với các bà. Các nhà chú giải muốn lưu ý ta về một chi tiet có tính khá soi sáng là: nguyên bản bằng tiếng Hy lạp dùng câu này ở thể thụ động (tảng đá đã được lăn ra một bên) nhằm “ám chỉ đó là hành động của Thiên Chúa mà không cần phải nói ra, còn sách bài đọc, thì rất tiếc là đã dịch câu đó ở thể bất định: “người ta đã lăn tảng đá rồi” (J.Hervieux, “L’evangile de Marc”, Centurion, trang 233).
Rồi tiếp đến là một ngạc nhiên khác: “vào trong mồ, các bà thấy một người thanh niên (tiếng Hy lạp là “neaniskos”) ngồi bên phải, mặc áo trắng”. Người ta nghĩ ngay đến “người thanh niên” (neanikos) được mô tả trong cảnh Chúa bị bắt; người thanh niên ấy chỉ khoác vỏn vẹn một “tấm vải gai” (tiếng Hy lạp là “sindona” có nghĩa là tấm vải liệm). Khi họ túm lấy anh, anh liền trút tấm vải lại, bỏ chạy trần truồng. Đây là cách dùng biểu tượng để diễn tả việc Đức Giêsu phục sinh thoát khỏi tay những kẻ thù tưởng là đã bắt được Người và giam hãm Người trong cái chết (Maccô 14,50, J.Hervieux, O.C. trang 216-217).
+ “Người thanh niên” trong trình thuật “ngồi bên phải” đó là địa vị danh dự mà các Kitô hữu vốn dành cho Đức Kitô vinh hiển: “Người ngự bên hữu Đức Chúa Cha”
+ Người thanh niên ấy mặc áo trắng, giống như Đức Giêsu biến hình sáng láng trên núi, ít lâu sau khi loan báo cuộc Thương Khó và Phục Sinh lần thứ nhất (9,3).
J.Hervieux nêu ý trước, rồi P.E Boismard cũng đồng tình: tất cả gần như khơi gợi một sự “xuất hiện” của Đức Giêsu. Còn tác giả Maccô thì không nói ra điều này. (O.C. trang 234).
- Bên kia nỗi sợ hãi là hướng mở ra với sứ mạng
Theo cách diễn tả sinh động của trình thuật, người thanh niên ấy không phải ở đó để làm gì. Nhưng là để nói lên một lời, để loan báo một Tin Vui, một Tin Mừng: “Các bà tìm Đức Giêsu Nagiaret, Đấng bi đóng đinh, chứ gì? người thanh niên ấy nói với ba phụ nữ. Người đã chỗi dậy rồi”.
Sứ điệp phục sinh chứa đựng trong mấy lời sau đây: “Đức Giêsu Nadarét mà các bà đã đi theo trong thời gian Người rao giảng ở Galilê, và đã thấy người chết tất tưởi trên thập giá, Đấng ấy nay đã sống lại: Người là Đấng-Hằng-Sống! Cũng chính sứ điệp ấy mà các tông đồ sẽ loan báo cho muôn dân sau này” (cf. Cv 2,22-36; 3,12-20; vv…).
Trước đây, ở phần đầu sách Tin Mừng Maccô (Phúc âm Chúa nhật V thường niên) ta được biết: sau một ngày bận rộn ở Caphácnaum, Đức Giêsu thức dậy sớm, đi đến một nơi thanh vắng để cầu nguyện. Các môn đệ kéo nhau đi tìm Chúa. Khi gặp Người, các ông được bảo đi đến một ‘nơi khác’: “Thôi, chúng ta đi nơi khác, đến các làng xa chung quanh, để Thầy còn rao giảng Tin Mừng ở những nơi đó nữa”. Còn ở đây, ở phần kết của sách Tin Mừng Maccô, khi ngày mới đang lên, các môn đệ cũng lại nhận được sứ điệp, qua trung gian các phụ nữ, để đi đến một nơi khác: Người không còn ở đây nữa… Người sẽ đến Galilê trước các ông. Ở đó các ông sẽ được thấy Người, như Người đã nói với các ông nơi hẹn gặp này, nơi Người sẽ “đến trước” các ông ấy chính là miền Galilê, nơi tiêu biểu cho sự chung sống lẫn lộn giữa người Do thái và dân ngoại. Đức Giêsu đã chọn Galilê để khởi đầu sứ mạng rao giảng của mình (1, 14-15), nên nơi đây, trở thành biểu tượng cho việc khai mở sứ mạng phổ quát vậy. J. Hervieux kết luận: “Các môn đệ được mời gọi tập họp lại đàng sau Đức Giêsu phục sinh, để khởi sự một cuộc lên đường mới ra đi truyền giáo” (O.C trang 234).
– Được mời gọi đem tin này đến cho “các môn đệ Người và Phêrô”, khi vừa ra khỏi mộ, các bà liền chạy trốn, “run lẩy bẩy”. “Các bà chẳng nói gì với ai, vì sợ quá”? Trình thuật về biến cố Phục sinh kết thúc với những lời trên, và sách Tin Mừng Maccô cũng kết thúc một cách chân chất như vậy.
Tại sao có sự sợ hãi như vậy? Tại sao lại yên lặng chẳng nói gì như thế Chắc hẳn là do sự xúc động mãnh liệt và bất ngờ trước lời loan báo quá lạ lùng về việc phục sinh của Đấng bị đóng đinh. Nhưng nỗi sợ hai không thốt lên lời này không thể ngăn cản các bà ra đi truyền lại sứ điệp, cũng như không thể ngăn cản các tông đồ rao truyền sứ điệp ấy cho đến tận cùng trái đất.
Theo P. Eboismard gợi ý, thì “Maccô coi các độc giả Tin Mừng của ngài là những người có đủ trí thông minh để hiểu, vậy thì ngài muốn truyền lại cho họ sứ điệp nào? Trong phần đầu sách Tin Mừng của ngài, thánh Maccô đã không ngần ngại mà còn lấy làm hứng thú nhấn mạnh đến sự ngớ ngẩn của các môn đệ vì các ông không sao hiểu biết được chân tính đích thực của Đức Giêsu. Ngay cả trường hợp ông Phêrô bất thình lình tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống cũng vậy. Đó chỉ là do Chúa tỏ cho ông biết mà thôi (…). Trong phần thứ hai của Tin Mừng cũng vậy, hết thảy các môn đệ không trừ một ai, kể cả ba người phụ nữ được coi như trung tín nhất, đều hoảng sợ và bỏ trốn cả (…). Thế nhưng các độc giả Tin Mừng của Maccô hẳn phải nhận thấy điều này, là sứ điệp của Đức Kitô được truyền lại cách trung thực “cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8) do chính những con người yếu đuối và khiếp nhược kia. Chính quyen năng của Thiên Chúa (hay của Đức Kitô phục sinh) đã phải tràn ngập tâm hồn các môn đệ để thông ban cho họ ơn can đảm và hiểu biết mà trước đây họ khiêm khuyết một cách thảm hại. Đó chính là sự lạ của Hội Thánh luc mới khai sinh mà thánh Luca sẽ thuật lại trong sách Công vụ Tông đồ. Còn Maccô thì để cho độc giả của mình tự hiểu, giống như ngài đã để cho độc giả tự hiểu rằng, nếu thánh Phêrô đã có thể nhận ra Đức Giêsu là Đấng Kitô thì chính là nhờ một sự can thiệp của Thiên Chúa vậy. (Xem “Jésus, un homme de Nazareth”, Cerf, 1996, trang 176).
(Chú giải của Fiches Dominicales – Ga 20,1-9)
GẶP NGƯỜI SỐNG NƠI MỘ ĐỨC GIÊSU
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1) Từ ngôi mộ “trống”
Sau ngày Sabát, đó là “ngày thứ nhất trong tuần”, kiểu nói đó gợi ý rằng thế giới đã khởi sự bước vào một thời điểm mới. Maria Mácđala, người phụ nữ đã đứng dưới chân thập giá Đức Giêsu, “đi đến mộ từ sáng sớm”. Chỉ có một mình bà đi tới mộ chứ không phải là ba bà như được kể lại trong Tin Mừng Maccô (Tin Mừng lễ Vọng Phục Sinh). Bà tới đó không phải vì ý muốn xức dầu thi hài, bởi lẽ việc chôn cất “theo tục lệ của người Do Thái (19,40), đã hoàn tất, nhưng theo X. Léon-Dufour, có lẽ “chỉ vì con tim thúc đẩy thôi” (“Đọc Tin Mừng Gioan”, quyển IV, Seuil, trang 203).
Vừa nhận thấy “tảng đá đã lăn khỏi mộ”, bà vội chạy về báo tin cho các môn đệ: từ ngôi mộ mở toang, bà kết luận là thi hài Chúa đã được đưa đi; từ “tảng đá đã lăn khỏi mộ”, bà kết luận là “người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ”? Bóng tối bao trùm bà Mácđala đã được gợi ý ngay từ đầu trình thuật: “Lúc trời còn tối”.
2) Đến dấu chỉ của ngôi mộ trống.
Phêrô là người được thánh sử nêu tên trước, nên dù chạy chậm hơn môn đệ kia, ông vẫn là người thứ nhất bước vào trong mộ và “nhìn thấy những băng vải để ở đó và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuộn lại, xếp riêng ra một nơi. Như vậy là giả thuyết Maria Mácđala đưa ra không vững nữa, vì “kẻ trộm sẽ chẳng lợi gì mà lấy băng vải, cuộn lại rồi đặt riêng ra một nơi” (Thánh Gioan Kim Khẩu). Nhưng ngoài nhận xét trên đây, người ta không thấy tác giả Gioan nói gì về phản ứng của Phêrô. Còn Luca thì viết: “Ông rất đỗi ngạc nhiên” (24,12). Trái lại, “Người môn đệ kia, người được Đức Giêsu thương mến”, tuy chạy tới mộ trước Phêrô, và vội cúi xuống để nhìn vào trong, nhưng lại nhường cho Phêrô tiến vào trước, chính người môn đệ ấy bằng trực giác của tình yêu, lại đang nhìn thấy trong cảnh mồ trống và cảnh các khăn vải sắp xếp ngăn nắp kia dấu chỉ của một Thực Tại Khác mà chỉ lòng tin mới cảm nhận được: “Ông đã thấy và ông đã tin”. Theo ông, không phải người ta đã lấy trộm xác Đức Giêsu; mà chính là quyền lực của sự sống dứt khoát tước hết quyền của sự chết.
- Léon tự hỏi: “người môn đệ kia đã thấy gì? Hẳn không phải là ông đã nhìn thấy Đấng phục sinh. Về phương diện này, ông cũng giống như người có lòng lin được cho là có phúc vì đã không thấy mà tin (20,29). Người có lòng tin thì chỉ dựa vào chứng từ của các môn đệ đầu tiên, còn Người-môn-đệ ấy thì tin khi nhìn thấy những dấu vết để lại trong mồ. Dù rằng chưa gặp gơ tiếp xúc với Đấng-Phục-sinh, ông đã có khả năng vượt qua vực thẳm ngăn cách: tuy không thấy xác ở đó, nhưng vải liệm đã là dấu chỉ giá trị đối với ông. Trước hết, việc các khăn vải được xếp đã ngăn nắp đã loại bo giả thuyết cho rằng người ta đã lấy cắp thi hài, điều mà có lẽ Phêrô đã kết luận. Sau nữa, tình yêu vốn đầy ắp con tim đã giúp cho người môn đệ ấy có được ánh sáng. Đối với ông, theo J.P. Duplantier nhận định, ngôi mo không trống cũng chẳng đầy, nhưng nó đã trở thánh một ngôn ngữ? Nhớ chú tâm lắng nghe ngôn ngữ ấy người môn đệ kia hiểu rằng Đức Kitô đã chiến thắng điều mà không ai tránh khỏi, nói cách khác, Đức Giêsu đã toàn thang sự chết (Sđd, trang 212).
Phần Giáo Hội sơ khai, sau khi đã có kinh nghiệm về Đấng Phục Sinh, sẽ còn phải đọc lại Thánh Kinh để soi sáng và nung đúc lòng tin cho mình. Vì “quả thực, cho tới lúc ấy – bản trình thuật kết luan – các môn đệ vẫn chưa hiểu rằng: theo Kinh Thánh, thì Đức Kitô phải sống lại từ cõi chết”.
BÀI ĐỌC THÊM
“Hiện diện của tình yêu”
(H. Vulliez, trong “Dieu si proche. Năm B”. Desclée de Brouwer trang 51).
Maria Mácđala chạy tới mồ và thấy mộ trống. Chỉ có băng vải và khăn liệm là lên tiếng nói rằng: xác đã để ở đó. Bây giờ thì không còn nữa! Chỉ có những điểm mốc cho biết là trước đây đã có một hiện diện – Maria Mácđala đứng trước một khoảng trống mênh mông. Những gì bà nhìn thấy lúc này thật khủng khiếp. Điều gì đã xảy ra? Còn đâu những lời hứa Người sẽ sống lại?
Lễ Phục sinh khởi đầu trước ngôi mộ trống. Ta không thể tin rằng Người-đang-sống. Sống một cách khác, nếu không trải qua khoảng trống này: đoạn tuyệt với sai lầm, từ bỏ mình hoàn toàn, vượt qua khoảng cách thăm thẳm do những sự đời này tạo nên, và cái chết. Phải vượt qua khoảng trống chóng mặt này, phải cảm thấy khao khát một Hiện-diện tuyệt đối. Mới có thể nói cho lòng mình và cho người khác rằng: Đức Giêsu, Người-bị-đóng- đinh vẫn đang sống. Thật là kỳ diệu và tuyệt vời khi được nhìn thấy bình minh sự sống mới ló dạng sau lúc vượt qua cái không trống rỗng này, và cũng thật là kỳ diệu và tuyệt vời khi băng qua vực thẳm tối tăm của cái chết người ta lại thấy mình sống trong ánh sáng chan hoà của đời đống phục sinh.
Đức Giêsu vắng mặt về thể lý là điều cần thiết để ta gặp gỡ Người Hiện Diện cách khác. Nhờ Người, đời sống thần linh lại được khơi con người. Sự Hiện Diện của Tình yêu là men làm dậy lên một nhân loại mới.
(Chú giải của William Barclay – Ga 20,1-10)
TÌNH YÊU GẶP BỐI RỐI (Ga 20,1-10)
Không ai yêu thương Chúa Giêsu bằng Maria Macđala. Luca cho chúng ta biết đã có bảy quỷ bị đuổi ra khỏi bà. Điều Chúa Giêsu làm cho bà không ai làm được và bà không thể nao quên. Có ý kiến vẫn cho rằng bà là tội nhân đáng ghê tởm mà Chúa Giêsu đã kêu gọi, đã tha thứ và thanh tẩy. Bà đã phạm tội nhiều, và cũng yêu mến nhiều, tình yêu thương là tất cả những gì bà cần đem đến.
Tại Palestine có phong tục viếng mộ người thân ba ngày sau khi thi hài được đặt vào phần mộ. Họ tin linh hồn người chết còn bay lượn và chờ đợi chung quanh phần mộ luôn ba ngày, sau đó mới bỏ đi, vì lúc đó thi thể không còn nhận diện được nữa, bởi đã bắt đầu thối rữa. Các bạn thân của Chúa Giêsu không thể nào không đến viếng mộ Ngài vào ngày Sabát là ngày thứ bảy của chúng ta. Vậy Maria đến mộ trước tiên vào ngày Chúa nhật. Bà đến thật sớm, chữ “rạng đông” là proi, chỉ canh chót trong bốn canh của đêm, từ ba giờ đến sáu giờ sáng. Lúc Maria đến mộ, trời còn mờ mờ, vì quá nóng lòng bà không thể trì hoãn hơn nữa.
Khi đến mộ, bà vô cùng kinh ngạc. Mồ mả thời xưa thường không có cửa để đóng lại. Tại lối ra vào mộ có một đường rãnh dưới mặt đất, trên có một tảng đá tròn như chiếc bánh xe, tảng đá được lăn vào chặn vào chỗ xem như cửa mộ, để bảo đảm không có ai lăn tảng đá ấy đi (Mt 27,26). Maria kinh hoàng khi thấy tảng đá đó đã bị lăn ra. Có hai điều xuất hiện trong trí bà. Bà nghĩ là người Do Thái đã lấy xác Chúa Giêsu đem đi nơi khác, vì họ chưa bằng lòng với việc giết Ngài trên thập giá mà còn muốn làm nhục thi thể Ngài thêm nữa. Cũng có một số người bất lương chuyên nghề đào mộ để ăn trộm xác. Có lẽ Maria nghĩ người ta đã lẻn vào trong mộ ăn cắp xác Chúa.
Đây là một tình cảnh mà Maria Macđala cảm thấy không thể đối phó được, nên chạy vào thành tìm Phêrô và Gioan. Maria là trường hợp tiêu biểu cho một người cứ tiếp tục yêu thương, cứ tiếp tục tin tưởng, dù mình không hiểu được. Đó là loại yêu thương, loai tin tưởng đến cuối cùng sẽ được tôn vinh.
PHÁT GIÁC QUAN TRỌNG
Câu chuyện ở đây cho thấy Phêrô vẫn còn là vị thủ lãnh mà các Tông đồ thừa nhận. Bà Maria đến tìm ông, bất chấp việc ông đã chối Chúa –việc chối Chúa của Phêrô hẳn là được loan truyền ra khắp nơi nhanh chóng lắm- Phêrô vẫn là người đứng đầu. Chúng ta vẫn thường nói đến nhược điểm và tính khí bất thường của ông, nhưng hẳn nơi con người ấy phải có một cái gì ưu việt hơn, mới khiến ông có thể đối mặt các đồng bạn sau cái vấp ngã tai hại biến ông thành kẻ hèn nhát. Nơi con người ông hẳn phải có một điểm gì đó khiến những người kia sẵn sàng thừa nhận ông vẫn là lãnh tụ sau biến cố đó. Sự yếu đuối nhất thời của Phêrô không thể bịt mắt chúng ta trước sức mạnh đạo đức cùng tầm vóc của ông, và trước sự kiện ông là người sinh ra để lãnh đạo.
Bây giờ, một điểm khác khiến Gioan chú ý: Các đồ khâm liệm không bị vứt bừa bãi vô trật tự, nhưng đều nằm y nguyên tại chỗ. Theo nguyên văn Hy Lạp có nghĩa là vải liệm nằm tại chỗ thi thể đã nằm, chiếc khăn nằm tại chỗ đặt cái đầu. Đồ khâm liệm không có vẻ gì là bị tháo ra và dẹp đi, nhưng đều nằm đúng chỗ vốn được sắp xếp, dường như chỉ có xác là biến mất khỏi đó. Khi thấy như vậy, Gioan biết ngay là có chuyện gì xảy ra và ông tin. Không phải những gì Gioan đã đọc trong Thánh Kinh thuyết phục ông tin Chúa Giêsu sống lại, nhưng chính những gì ông đang chứng kiến tận mắt.
Vai trò của tình yêu trong câu chuyện này thật phi thường. Chính bà Maria người yêu mến Chúa rất nhiều, đã đến mộ trước nhất. Chính Gioan, môn đệ được Chúa yêu mến và yêu Chúa, là người đầu tiên tin vào sự sống lại. Điều này luôn luôn là vinh dự lớn của Gioan. Ông là người đầu tiên hiểu và tin. Tình yêu đã cho cặp mắt ông đọc được các dấu hiệu, va tâm trí ông thấu hiểu sự việc.
Ở đây, chúng ta thấy quy luật quan trọng của đời sống. Bất luận việc gì, chúng ta không thể giải thích được tư tưởng của người khác, trừ phi giữa ta với họ có mối dây ưu ái, cảm thương nhau. Không ai có thể diễn thuyết hay viết lại thành công, cuộc đời, sự nghiệp của một người mà mình không thiện cảm. Các thính giả có thể thấy rõ một ca sĩ có thiện cảm với nhà soạn nhạc như thế nào qua tác phẩm đang trình diễn. Tình yêu là nhà lý giải vĩ đại. Tình yêu có thể biết ngay ý nghĩa sự việc mà nghiên cứu tìm tòi chẳng nhìn thấy. Người ta kể, có một họa sĩ trẻ đem tranh ông vẽ Chúa Giêsu đến để Dore cho ý kiến. Ông chần chừ, cuối cùng chỉ nói một câu: “Anh không yêu Ngài, bằng không anh đã vẽ Ngài đẹp hơn”. Chúng ta chẳng bao giờ hiểu Chúa Giêsu hoặc giúp người khác hiểu được Ngài, trừ phi chúng ta dành hết lòng và trí mình cho Ngài.
(Chú giải của William Barclay – Mc 16,1-8)
HÃY NÓI VỚI PHÊRÔ
Mọi người không có thì giờ lo liệu việc chăm sóc cuối cùng thi hài của Chúa Giêsu. Vì ngày Sabát đến nên các phụ nữ muốn ướp dầu thơm cho xác Chúa đã không thể làm theo ý muốn. Ngay khi hết ngày Sabát, từ sáng sớm, các bà bắt tay ngay vào công việc buồn thảm đó. Các bà chỉ lo lắng một điều là mộ không có cửa. Chữ cửa được nêu lên ở đây có nghĩa là một khe hở, ngay trước khe hở đó có một cái rãnh ngang, người ta đặt một tảng đá tròn, to bằng cái bánh xe bò tại đường rãnh đó và các phụ nữ này biết họ không đủ sức để lăn một khối đá to như thế ra khỏi mộ. Nhưng khi họ đến nơi, tảng đá đa bị lăn ra, và có một sứ giả thông báo cho họ những tin tức khó tin là Chúa Giêsu sống lại.
Có một điều chắc chắn là nếu Chúa Giêsu đã không từ kẻ chết sống lại thì chúng ta chẳng bao giờ được nghe nói về Ngài. Ý định của các phụ nữ này là đến để lo liệu lần chót cho thi hài người chết. Thái độ của các môn đệ Chúa là mọi sự đã kết thúc, hết sức bi thảm. Cho nên chứng cớ mạnh mẽ nhất cho sự sống lại của Chúa Giêsu là sự hien hữu của Hội Thánh. Chẳng có điều gì có thể thay đổi những người nam, người nữ đang buồn rầu, tuyệt vọng trở thành những con người rạng rỡ niềm vui, và có sự can đảm bùng cháy trong lòng. Phục Sinh là sự kiện trung tam cho toàn thể đức tin, chúng ta tin vào sự sống lại của Chúa Giêsu cho nên cũng có các hệ quả trực tiếp theo sau.
1/ Chúa Giêsu không phải chỉ là một nhân vật trong sách vở.
Ngài là một sự hiện diện sống động. Nếu chung ta chỉ nghiên cứu về Chúa Giêsu như nghiên cứu đời sống của bất kỳ một nhân vật vĩ đại trong lịch sử, điều đó vẫn chưa đủ. Có thể bắt đầu như vậy, nhưng đến kết cục, chúng ta phải gặp Ngài.
2/ Chúa Giêsu không phải là một kỷ niệm, Ngài là một hiện diện.
Kỷ niệm thân thương nhất cũng phai tàn. Người Hy Lạp có một từ để mô tả thời gian, có nghĩa là thời gian xoá sạch mọi sự. Nếu Chúa Giêsu không phải là một hiện diện sống mãi với chúng ta, thì thời gian chắc đã xoá nhoà kỷ niệm về Ngài khỏi ký ức của nhân loại từ lâu rồi. Chúa Giêsu không phải là một nhân vật để chúng ta đem ra bàn cãi, thảo luận. Ngài là một con người mà chúng ta có the gặp mặt.
3/ Đời sống Kitô hữu không phải là đời sống của một người biết về Chúa Giêsu, nhưng là đời sống của người biết rõ Chúa Giêsu.
Chúng ta biết về nữ hoàng Elizabeth, về thủ tưởng Winston Churchill hay về tổng thong Eisenhower, nhưng có rất ít người được biết chính họ. Nhà học giả lỗi lạc nhất thế giới, người biết đủ mọi sự về Chúa Giêsu vẫn kém xa một Kitô hữu đơn sơ hơn hết nhưng biết Ngài.
4/ Có một phẩm chất bất tận về đức tin.
Đức tin không hề đứng yên một chỗ. Vì Chúa Giêsu của chúng ta là Chúa hằng sống nên người ta luôn chờ đợi nhiều điều lạ lùng, nhiều chân lý mới mẻ được khám phá thêm mãi.
Nhưng điểm quý báu nhất trong đoạn sách này là mấy chữ không thấy chép trong các sách Phúc Âm khác. Vị sứ giả bảo: “Hãy về nói với môn đệ Người và ông Phêrô rằng…”. Thông điệp này sẽ làm cho lòng Phêrô phấn khởi biết bao. Có lẽ lúc ấy, ông đang bị giay vò vì nhớ lại sự bất trung của mình, thình lình có một thông điệp đặc biệt được gửi đến cho ông. Trong tất cả các môn đệ, chắc ông là người tiếp nhận thông điệp ấy bằng thái độ đặc biệt nhất. Đặc điểm của Chúa Giesu là không hề nghĩ đến sự sai quấy của Phêrô đối với Ngài mà chỉ nghĩ đến sự hối hận đang giày vò ông. Chúa Giêsu quan tâm nhiều đến việc an ủi một tội nhân đang ăn năn thống hối hơn là việc trừng phạt tội lỗi. Có người nói: “Điều cao quý nhất nơi Chúa Giêsu là cách Ngài tin cậy chúng ta ngay tại bãi chiến trường mà chúng ta đã bị đánh bại”.