Các bài suy niệm CHÚA NHẬT 34 THƯỜNG NIÊN – NĂM B
LỄ CHÚA KITÔ VUA
Lời Chúa: Đn. 7, 13-14; Kh. 1, 5-8; Ga. 18, 33b-37
MỤC LỤC
-
- Đứng về phía sự thật
- Vua Sự Thật
- Làm Vua là làm chứng.
- Đấng Thiên Sai là Vua.
- Vua của thế giới khác.
- Lễ Chúa Kitô Vua Vũ Trụ.
- Lễ Chúa Kitô Vua Vũ Trụ.
- Giêsu vua tình yêu.
- Vị vua không giống ai
- Vua sự thật
- Kitô Vua.
- Đức Giêsu Vua hoàn vũ.
- Thiên Vương.
- Kitô Vua.
- Đức Giêsu Kitô, vua vũ trụ.
- Lễ Đức Kitô Vua.
- Lễ Chúa Giêsu Kitô Vua.
- Vua tình yêu.
- Chúa Giêsu, Vua Tình Yêu.
- Chúa Kitô vua vũ trụ.
- Bất khả bại dù phải chết
- Lễ Chúa Yêsu Kitô- Vua Vũ Trụ.
- Lễ Chúa Kitô Vua.
- Chúa Giêsu, Vua Tình Yêu.
- Đức Kitô làm vua đời tôi
- Vương quốc của tình yêu.
- Lễ Chúa Kitô Vua Vũ Trụ.
- Lễ Chúa Giêsu Kitô Vua.
- Lễ Chúa Giêsu Kitô Vua.
- Lễ Chúa Giêsu Kitô Vua.
- Đức Vua Giêsu.
- Bị can Giêsu Kitô-Vua.
- Sự thật là gì?.
- Đệ nhất Thiên Vương.
- Vua Chân Lý.
- Một vị vua khác thường.
- Làm chứng cho sự thật
- Lễ Chúa Giêsu Kitô Vua.
- Chúa Giêsu là chân lý.
- Phiên tòa bất công.
- Lễ Chúa Giêsu Kitô Vua.
- Sự sống vương giả.
- Lễ Chúa Kitô Vua.
- Đức Giêsu Kitô là Vua.
- Vị vua không giống ai!
- Ai là vua của bạn?.
- Lễ Chúa Giêsu Kitô Vua.
- Lễ Chúa Giêsu Kitô Vua.
- Đức Giêsu Kitô là chân lý.
- Lễ Chúa Giêsu Kitô Vua.
- Vua Chân Lý.
- Nước Cha trị đến.
- Tôi là Vua.
- Đức Giêsu là Vua ư?.
- Thuộc về Chúa.
- Vua vĩnh cửu.
- Vạn tuế Vua Giêsu.
- Chúa Nhật 34 Thường Niên.
- Vương quyền tình yêu.
- Hoàng tử và người nghèo.
- Lễ Chúa Giêsu Kitô Vua.
- Vua lòng tin.
- Phục vụ.
- Chân Lý.
- Vua sự thật
- Vương Quốc Tình Yêu.
- Trung tín.
- Tôn thờ Vua Giêsu.
- Danh hiệu.
- Xét xử.
- Danh thánh.
- Vương miện.
- Tại sao Chúa Kitô là Vua?.
- Suy niệm của JKN.
- Đức Giêsu, vua niềm tin.
- Nước của Sự Thật
- Lễ Chúa Giêsu Kitô Vua.
- Lễ Chúa Giêsu Kitô Vua.
- Đức Kitô – Vua Niềm Tin.
- Lễ Chúa Giêsu Kitô Vua.
- Vua Tình Yêu.
- Chú giải của Noel Quesson.
- Lễ Chúa Giêsu Kitô Vua.
- Lễ Chúa Giêsu Kitô Vua.
- Vương quyền của Đức Giêsu.
- Vua Tình Yêu.
- Giêsu – Vua Tình Yêu.
- Lễ Chúa Giêsu Kitô Vua.
*********************************************
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Từ sau vụ nổ big-bang, vũ trụ được thành hình, và càng ngày càng bành trướng. Trái đất chỉ là một hạt bụi nhỏ xíu trong vũ trụ, nhưng nó lại lớn lao vô cùng, vì là hành tinh được Thiên Chúa yêu thương và cứu chuộc. Con Thiên Chúa đã ghi dấu chân mình trên mặt đất, đã sống trọn phận người bên cạnh nhân loại anh em.
Mừng lễ Đức Giêsu Kitô là Vua vũ trụ, chúng ta được mời gọi ngắm nhìn trái đất tròn. Đây là vũ trụ của hơn 6 tỉ người đang sống. Vũ trụ này sẽ đi về đâu? Lịch sử này sẽ đi về đâu? Tất cả sẽ được hội tụ và biến đổi nơi Đức Kitô, để rồi Ngài sẽ dâng lại tất cả cho Thiên Chúa Cha.
Tuy Đức Giêsu không nói rõ mình là vua, cũng không chịu để dân chúng tôn vương mình, nhưng Ngài lại nói nhiều về Nước của Ngài. Nước đó, Philatô chẳng có gì phải sợ. Một nước không có quân đội để chiến đấu, không có lãnh thổ trên bản đồ, không thuộc về thế gian. Nhưng Nước đó lại có những công dân thực sự. Bất cứ ai đứng về phiá sự thật thì thuộc về Nước này.
Họ bắt gặp sự thật nơi lời chứng của Đức Giêsu. Họ đã nghe tiếng Ngài và theo Ngài tiến bước. Có những người chưa biết Đức Giêsu, nhưng đã ở rất gần Ngài. Nước của Vua Giêsu là Nước của sự thật. Sống theo sự thật chẳng bao giờ dễ dàng. Kẻ trung thực thường thua thiệt, lại bị coi là dại dột. Sự dối trá nhiều khi được coi là khôn ngoan. Người ta dối trá một cách trơn tru, không chút áy náy.
“Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi”.
Chúng ta không nghe được tiếng Chúa, chỉ vì ta sợ sự thật, sợ nói thật, sợ sống thật, như Philatô muốn giữ ghế ngồi hơn là cứu người vô tội. Lương tâm bị băng hoại, lòng tin vào nhau bị đổ vỡ. Cuối cùng chính chúng ta là nạn nhân của mình, của một thế giới xây dựng trên những đồ giả.
Mừng lễ Đức Giêsu Kitô là Vua vũ trụ, ta đặt mình trước một thế giới bề bộn bao vấn đề: ô nhiễm môi trường, tăng dân số, aids, thất nghiệp, ma tuý, mafia, tham nhũng, nghèo đói, lạc hậu, bất công… Thế lực của sự dữ và tội ác có vẻ thắng thế, ích kỷ, hận thù, bạo lực tung hoành khắp nơi. Chúng ta không chỉ cầu xin cho Nước Chúa mau đến, mà còn đưa tinh thần Đức Kitô vào mọi cơ cấu trần gian: chính trị, xã hội, nghệ thuật, giáo dục, thể thao, giải trí…
Càng làm cho sự thật và tình yêu thắng thế thì Nước Chúa càng lớn dần lên cho đến lúc thành tựu viên mãn vào ngày tận thế. Xin Đức Giêsu làm vua cả vũ trụ loài người nhờ làm vua tiểu vũ trụ là cõi lòng từng Kitô hữu.
Gợi Ý Chia Sẻ
– Các bạn trẻ thường có một thần tượng để tôn sùng. Có người mê vua bóng đá Pelé hay vua nhạc rock Michael Jackson… Bạn có ai là thần tượng không? Bạn đã sống như thần tượng đó ra sao?
– Vũ trụ vật chất là quà tặng của Thiên Chúa cho con người, bạn nghĩ gì về nạn ô nhiễm ngày càng gia tăng trên trái đất do chặt cây, đốt rừng, nước thải, bụi khói, tiếng ồn…?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, nếu ngày mai Chúa quang lâm, chắc chúng con sẽ vô cùng lúng túng. Thế giới này còn bao điều khiếm khuyết, dở dang, còn bao điều nằm ngoài vòng tay của Chúa. Chúa đâu muốn đến để hủy diệt, Chúa đâu muốn mất một người nào…
Xin cho chúng con biết cộng tác với Chúa xây dựng một thế giới yêu thương và công bằng, vui tươi và hạnh phúc, để ngày Chúa đến thực là một ngày vui trọn vẹn cho mọi người và cho cả vũ trụ.
Xin nuôi dưỡng nơi chúng con niềm tin vững vàng và niềm hy vọng nồng cháy, để tất cả những gì chúng con làm đều nhằm chuẩn bị cho ngày Chúa trở lại.
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Chúa Giêsu thật là ngược đời. Khi làm phép lạ cho bánh hoá ra nhiều, dân chúng hân hoan phấn khởi, muốn tôn Ngài làm vua thì Ngài không muốn. Ngài phản đối bằng cách trốn đi. Cũng như hôm vinh quang vào thành Giêrusalem, dân chúng hân hoan, cởi áo lót đường, cầm cành lá phất phơ đón chào. Hôm ấy mà Chúa xưng vương thì quá thuận lợi. Thế mà Chúa phản đối bằng cách cỡi con lừa bé nhỏ, yếu ớt. Còn hôm nay, phận tội đồ đứng trước mặt quan án, bị dân chúng khinh khi chối bỏ, thân tàn ma dại, chẳng còn hình tượng con người nữa, thì Ngài lại hiên ngang xưng mình là vua. Chẳng phải vô tình, nhưng là cố ý. Hôm nay, đối diện với cái chết, đối diện với quyền lực và đối diện với sự hận thù, Chúa Giêsu muốn xưng vương trong hoàn cảnh này để làm chứng cho sự thật.
Sự thật mà Đức Giêsu làm chứng đó là có một vương quốc khác, vượt xa mọi vương quốc trần gian. Khi tự nguyện chấp nhận cái chết, Đức Giêsu muốn cho ta hiểu: Ngoài cuộc đời này còn có một cuộc đời khác. Ngoài thế giới này còn có một thế giới khác. Đó là vương quốc của Chúa. Đó là Nước Trời. Vương quốc ấy là vương quốc sự sống vì sẽ không còn bóng dáng cái chết. Khi còn ngày rộng tháng dài, Đức Giêsu không xưng vương. Nay cận kề cái chết Ngài mới xưng vương để dạy cho ta biết vương quốc của Ngài “không thuộc thế gian này”. Sự sống trần gian này chẳng đáng giá gì so với sự sống trong Nước Chúa. Vì thế muốn vào được vương quốc của Chúa, phải biết từ bỏ tất cả, kể cả mạng sống nữa.
Sự thật mà Đức Giêsu làm chứng đó là quyền năng của Chúa là trên hết. Khi một mình yếu đuối nhưng vẫn hiên ngang đối diện với Philatô tượng trưng cho quyền lực của đế quốc La mã bao trùm thiên hạ, Đức Giêsu muốn cho ta hiểu rằng Thiên Chúa là nguồn gốc của mọi quyền năng như Ngài đã trả lời Philatô: “Ông có quyền không bởi tự mình mà có, nhưng từ thành công ban cho”. Thánh nữ Xêxilia cũng nói: “Quyền uy ở đời giống như quả bong bóng. Nó không triển nở ở tự nó. Nó không tự mình tròn trịa được. Phải nhờ đến không khí. Nhưng chỉ một mũi kim cũng làm nó xẹp xuống”. Quyền uy trần gian mau tàn. Chỉ có quyền năng của Thiên Chúa mới bền vững. Chính vì thế Đức Giêsu không xưng vương khi tràn đầy uy tín, khi được dân chúng ngưỡng mộ. Vì nếu Ngài xưng vương khi được dân chúng tung hô vạn tuế, khi làm những việc kỳ lạ lớn lao, khi tràn đầy uy tín, thì vương quyền ấy chẳng hơn gì vương quyền của vua chúa trần gian khác. Nhưng hôm nay, khi mất hết mọi uy tín, không còn ai tung hô ủng hộ, Đức Giêsu xưng vương để cho ta thấy Ngài siêu thoát mọi quyền lực và vinh quang theo thói thế gian. Ngài chỉ trông cậy vào quyền năng của Thiên Chúa. Vì thế những ai muốn vào vương quyền của Ngài phải biết coi thường mọi vinh quang quyền thế ở trần gian.
Sự thật mà Đức Giêsu làm chứng đó là tình thương chiến thắng thù hận. Khi một mình đối diện với những ghen ghét thù hận của đám đông, Đức Giêsu muốn dạy ta biết Thiên Chúa là tình yêu. Đức Giêsu là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa trên trần gian. Vì yêu thương mà Ngài đã xuống trần gian. Ngài đã yêu thương cho đến chết vì yêu. Đó là tình yêu lớn lao nhất như lời Ngài nói: “Không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của người dám hy sinh tính mạng vì bạn hữu”. Dù những thù hận vây bọc, nhưng Đức Giêsu vẫn yêu thương. Hôm nay đơn thân độc mã trong vòng vây của hận thù, Đức Giêsu vẫn xưng vương để cho ta thấy: tình yêu thương đã chiến thắng. Hận thù đem lại chết chóc, chỉ có tình yêu thương mới cứu được thế giới.
Đức Giêsu đã chiến thắng. Ngài là Đấng đầu tiên từ trong kẻ chết sống lại. Với chiến thắng, Đức Giêsu mở cửa vương quốc của Ngài. Đó là vương quốc của Sự Thật. Chỉ những ai thuộc về sự thật mới được vào. Và những ai thuộc về sự thật phải biết chiến thắng sự giả trá. Sự giả trá đó là sự chết, đó là những vinh hoa phú quý trần gian và đó là lòng thù hận ghen ghét. Hiểu biết sự thật, đập tan sự dối trá, ta mới tiến vào Nước Sự Sống theo bước Đức Giêsu Kitô. Với chiến thắng Ngài thật sự là Đường dẫn đến Sự Thật và Sự Sống muôn đời.
Lạy Đức Giêsu là Vua của chúng con, xin cho chúng con được làm dân của Chúa, được thuộc về Nước Chúa, nước đầy tràn Sự Thật và Sự Sống, nước công chính và tình yêu muôn đời.
GỢI Ý CHIA SẺ
– Chúa Giêsu cho biết gì về vương quốc của Chúa?
– Chúa Giêsu cho biết gì về quyền năng của Chúa?
– Chúa Giêsu cho biết gì về cuộc chiến giữa tình thương và thù hận?
– Muốn sống trong vương quốc của Chúa, ta phải làm gì?
(Suy niệm của ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống)
Không còn nữa hình ảnh của những vì vua oai phong lẫm liệt như trong chế độ quân chủ ngày nào, nhưng thay vào đó là một lớp những nhà vua mới lên ngôi thần tượng, không ngai vàng mà nhiều khi cũng đầy uy lực: vua dầu hoả, vua xe hơi, vua trò chơi, vua bóng đá. Mỗi thời có những kiểu đăng quang riêng, và mỗi lĩnh vực cũng có những nhà vua riêng của mình.
Thuật ngữ “Vua” xem ra đã có nhiều biến thể. Phổ cập hơn nhưng cũng mong manh hơn, thời sự hơn và cũng đời thường hơn. Trong bối cảnh đó, lễ Chúa Kitô Vua lại trở về, vừa khép lại năm Phụng Vụ cũ vừa mở sang năm Phụng Vụ mới. Phải chăng đây cũng chỉ là một lễ đăng quang tương tự như các nhà vua trần thế? Hay là một lễ của niềm tin yêu hy vọng vào Chúa Kitô – Đấng làm Vua bằng cách làm chứng, hiến thân đến cùng trong tình yêu để mở ra triều đại cứu độ?
1) Chúa Kitô không làm Vua như những vua trần thế.
Có lẽ khi tự ý cho treo tấm bảng “Giêsu Nagiarét Vua dân Do Thái” lên đầu Thập giá, Philatô đã không nghĩ đến điều gì khác ngoài lợi thế chính trị cho ông, bất kể phải chơi khăm những người Do thái, nhưng có một điều ông không bao giờ nghĩ tới, mà điều đó lại thật quan trọng trong lợi thế đức tin của người Công giáo, đó là tấm bảng kia trong ý định của Thiên Chúa lại là một tuyên xưng không thể xoá nhoà.
Chúa Kitô không chỉ làm Vua một thời, mà là Vua vĩnh cửu. Dù trong đời sống công khai, có lần Người đã nặng lời quở trách Phêrô khi ông này chỉ muốn thấy nơi Người hình ảnh của một Đấng Messia dễ dãi đồng nghĩa với vị vua phàm trần, và Người cũng đã từng trốn chạy khỏi đám đông cuồng nhiệt khi họ muốn bắt Người làm vua sau phép lạ hoá bánh nhiều. Nhưng, trước mặt Philatô, Người đã công khai tuyên bố mình là Vua, để rồi trên Thập giá, chính lúc tưởng rằng chết đi, Người cho thấy mình còn sống mãi, và chính khi tưởng rằng bị huỷ diệt, Người cho thấy mình vẫn muôn thuở tồn tại. Thời gian là đại lượng dành cho những vị vua trần thế, còn Người vượt trên thời gian để mãi mãi là vị Vua vĩnh cửu.
Chúa Kitô không chỉ làm Vua dân Do thái mà là Vua phổ quát. Với cái chết của Người trên Thập giá trong tư cách Đấng Cứu Thế, một dân mới đã được khai sinh không phải giới hạn trong một vùng lãnh thổ địa lý mà đã mang lấy tầm vóc của cả thế giới vũ hoàn. Trong máu của Người, giao ước mới phổ quát đã hình thành vượt trên giao ước cũ vốn giới hạn nơi dân Do thái. Và trong công cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô, những gì cũ phải qua đi để nhường chỗ cho một triều đại mới vượt trên tất cả.
Người là Vua phổ quát vì Nước Người chẳng thuộc trật tự trần thế. Người là Vua vũ trụ bởi chính Người là Thủ Lãnh sẽ quy tụ mọi sự về một mối: “Khi nào Ta bị treo lên, Ta sẽ kéo mọi sự lên cùng Ta”. Và nếu theo nhãn giới của bài đọc thứ nhất và thứ hai với hình ảnh của “Đấng đến giữa mây trời” thì vương quyền của Chúa Kitô đã khác xa một trời một vực so với các vương quyền trần thế khác. Vương quyền trần thế dẫu có lan tràn khắp mặt đất cũng vẫn có thể đo lường được, còn vương quyền của Chúa Kitô vì vượt trên tất cả nên cũng vô phương dò thấu. Người là Vua muôn Vua.
Không phải vô tình mà phiên toà lễ Vượt Qua đã đặt Chúa Giêsu đối diện với Philatô, mà chính trong tư thế đối diện cộng với những đối chất qua lại đã làm nổi bật lên cái nghịch lý mầu nhiệm của Giờ Tử Nạn. Vào chính lúc quyền bính thế gian xem ra thắng thế còn quyền bính trời cao dường như hạ bệ, thì Chúa Giêsu đã tuyên bố mình là Vua. Lời tuyên bố như thế lẽ ra đẩy Philatô vào thế đối thủ, nhưng – Chúa Giêsu đã nhanh chóng khẳng định Nước Người chẳng thuộc trật tự chính trị thế gian, nên Tổng trấn Rôma dầu quyền uy là thế vẫn chỉ là chiếc bóng mờ nhạt đứng đó trong vai trò của một đối chứng hơn là một đối thủ để làm nổi bật lên dung mạo của Chúa Giêsu – Vua muôn Vua. Hơn nữa, bởi Philatô là một người ngoại nên tầm vóc của lời tuyên bố kia đã vượt xa giới hạn đạo giáo để trở thành phổ quát cho cả muôn người. Và hệ luỵ là quyền bính Philatô bởi thuộc về thế gian nên cũng qua đi với thế gian, còn vương quyền Chúa Kitô vẫn tồn tại mãi bởi thuộc về trật tự tâm linh để không gì có thể đặt giới hạn cho Người. Người là Vua vĩnh cửu.
2) Chúa Kitô làm Vua bằng cách làm chứng.
Dẫu vào Giờ Tử Nạn, Chúa Giêsu mới tuyên bố mình là Vua để khởi đầu cho một triều đại mới trong “sự thật và sự sống, thánh thiện và ân sủng, công chính, yêu thương và an bình” (Kinh Tiền Tụng), nhưng thực ra đó chỉ là đỉnh cao của một đời lựa chọn và là điểm đến của một quá trình thực thi sứ mệnh làm chứng cho sự thật: “Tôi sinh ra và đến thế gian là để làm chứng cho sự thật”. Nếu sự thật là chính Thiên Chúa, là thực tại thần linh, là “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi ban Con Một mình” như một kiểu nói của thánh Gioan hoặc là ơn cứu độ, thì trót cuộc đời của Chúa Giêsu là một công cuộc liên lỉ minh chứng.
Qua Nhập Thể, Người đã mang lấy bộ mặt đớn hèn của cả nhân loại. Qua Tử Nạn, Người đã nhận vào mình thân phận loài người tội lỗi. Qua Thập giá, Người đã sẵn sàng chấp nhận cái chết để cứu độ toàn thế giới. Và đỉnh cao Phục Sinh tôn vinh chỉ có được khi Người đã trải qua nẻo đường Thương Khó đến cùng trong số phận của “Người Tôi Tớ đau khổ”.
Rõ ràng là nơi Đức Kitô, làm Vua có nghĩa là làm chứng và làm chứng không chỉ bằng lời mà bằng chính cuộc đời của Người, trải dài từ Nhập Thể qua Tử Nạn cho đến Phục Sinh. Nói cách khác, làm chứng cho sự thật cũng là sống và chết cho sự thật ấy, và làm chứng cho hiện thân của Thiên Chúa ở giữa thế gian cũng chính là sống và chết để cho hiện thân tình thương được triển nở cách hiện thực sống động và viên thành.
Thảo nào vương quốc và vương quyền của Chúa Kitô thật khác lạ. Chẳng cần đến lực lượng để mà thiết lập, chẳng cần đến vũ lực để mà cai trị, cũng chẳng cần đến quân sự để mà bảo tồn. Như vậy, điều mà mọi vị vua trần thế mong ước là trải dài vương quốc trong không gian và thời gian, thì chỉ duy Chúa Kitô mới thực hiện được, không phải bằng vũ trang mà là bằng một tình thương không mệt mỏi hiến thân làm chứng cho sự thật. Và đó là phương thế duy nhất để thiết lập một Vương quốc phổ quát và vĩnh cửu. Trong ý hướng ấy, bài đọc thứ hai là một tiến trình mạch lạc không thể đảo ngược: chỉ khi nào sống trọn vai trò chứng nhân trung thành, Đức Kitô mới nên Trưởng Tử kẻ chết và làm Vua muôn vua.
3) Ai thuộc về sự thật thì nghe Đức Kitô.
Đức Kitô, Người làm Vua như thế đó. Nên mục đích của Thánh lễ hôm nay đối với mọi kẻ tin là: “tôn vương” Chúa Kitô trong cuộc sống của mình.
Thực ra thì cử hành lễ Chúa Kitô Vua vào Chúa Nhật cuối năm Phụng Vụ cũng nói lên niềm tin vào vương quyền Chúa Kitô như tinh thần của Thông điệp Quas Primas mà Đức Piô XI đã ban hành ngày 11 tháng 12 năm 1925, nhưng niềm tin vốn là một sự sống, nên chỉ khi thể hiện niềm tin bằng cuộc sống, tín hữu mới có thể an lòng là thần dân trong Vương quốc của Đức Kitô.
– Không thể nhận mình là dân của Vua Kitô trong khi cuộc sống cá nhân và gia đình lại nghiêng theo lối sống thế tục làm vẩn đục vũ trụ quan Kitô giáo, dần dà xa rời Giáo Hội và có nguy cơ chối bỏ vương quyền Chúa Kitô mà không hay biết.
– Cũng không thể nhận mình ở trong Vương Quốc của Đức Kitô mà hằng ngày một cách nào đó mình vẫn dửng dưng với sự hiện diện của Người trong cuộc sống con người như coi thường nhân phẩm, khinh rẻ người nghèo… càng không thể nhận mình sống trong Vương Quốc Đức Kitô khi mà cuộc sống chung riêng vẫn gây ra những oán thù, ghen ghét, gian tham, bất công, gương xấu, tội lỗi…
– Càng không thể nhận mình thuộc về vương quyền của Đức Kitô khi mình chưa thực sự hiến thân một cách nào đó để thể hiện tinh thần chứng nhân. Đức Kitô đã lấy cái chết để làm chứng, Kitô hữu cũng phải đi vào lối sống hy sinh mới có thể trở thành chứng nhân cho đức tin được. Đừng quên, chứng nhân có nghĩa là tử đạo và sống đạo một cách anh hùng cũng chính là chứng nhân.
Nhưng ai thuộc về sự thật thì nghe Đức Kitô và ai thuộc về Đức Kitô thì hãy để Người sống và lớn lên trong cuộc đời mình và chấp nhận để Người biến đổi toàn diện. Đồng thời, chính mình cũng cần nỗ lực “làm chứng” sao cho niềm tin luôn luôn vươn lên, mà cũng không quên nhiệt tình tông đồ là làm cho những người lân cận nhận biết và tin yêu Chúa Kitô nữa. Như thế là tin vào vương quyền Chúa Kitô, là “tôn vương” Chúa Kitô trong cuộc sống của mình và cũng là cùng với mọi người tích cực hoạt động cho công cuộc truyền giáo nhằm “quy tụ mọi sự trong Chúa Kitô”.
Ở Bãi Sau Vũng Tàu, có một tượng Chúa Kitô Vua thật lớn dựng trên triền núi quay mặt ra biển, đôi tay giang rộng như ôm lấy cả trùng dương. Ngư dân quanh đó kể lại rằng những khi ra khơi, họ vẫn căn cứ vào đó để mà định hướng đi về, và nhiều lần sóng gió họ cũng hướng về đó để mà cầu nguyện xin ơn bình an.
Giữa trùng dương cuộc sống, Kitô hữu biết rằng Chúa Kitô vẫn luôn hiện diện như một chuẩn đích để định hướng tin yêu hy vọng. Xin Người cũng làm Vua quy tụ mọi sự trong Vương Quốc vĩnh cửu của Người.
Lạy Chúa Kitô, cùng với Giáo Hội, hôm nay chúng con lặp lại niềm tin của mình vào Vương Quyền của Chúa. Xin chúc lành cho những ước nguyện chúng con dâng lên, để khi quyết tâm xa lìa tội lỗi và sống thánh thiện, chúng con được trở nên chứng nhân cho Chúa giữa lòng xã hội. Chúa là Đấng hằng sống hằng trị muôn đời. Amen.
(Suy niệm của Đức Gm Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Suy Niệm
Bài Tin Mừng theo thánh Yoan hôm nay cho chúng ta thấy rõ Đức Yêsu đã xưng mình là Vua trong một hoàn cảnh rất đặc biệt, không thể tưởng tượng được khiến chúng ta cũng phải thay đổi hết mọi quan niệm thông thường khi nghĩ đến tước hiệu làm Vua của Chúa Yêsu Kitô. Làm như vậy chúng ta không ngại mừng lễ Chúa Yêsu Kitô Vua trong bất cứ hoàn cảnh nào. Nhưng đồng thời nhờ vậy chúng ta cũng biết phải tránh những gì có thể gây nên những sự hiểu lầm về mầu nhiệm Chúa Yêsu là Vua. Để nắm vững vấn đề, chúng ta hãy sáng suốt nghe Lời Chúa dạy bảo hôm nay.
- Một Thị Kiến
Daniel kể lại một thị kiến ban đêm. Thực ra thị kiến này đi sau một thị kiến khác. Nhà tiên tri trên giường nằm đã thấy chiêm bao. Ông đã viết lại và đại khái ông nói như thế này: Tôi thấy bốn gió trời khuấy động biển cả. Và bốn mãnh thú to lớn khác nhau từ biển đi lên… Mãnh thú thứ tư dễ sợ đáng kinh và mạnh quá đỗi… Tôi mãi nhìn cho đến khi ngai được đặt hành và Đấng cao niên ngồi xuống… Pháp đình an tọa và sổ sách mở ra. Mãnh thú kia bị giết và thây nó bị hủy và phó cho lửa thiêu. Còn những mãnh thú khác, chúng bị tước hết quyền bính.
Nếu chúng ta đã nhớ những điều đã nói trong Chúa nhật trước về sách Daniel, chúng ta có thể dễ nhận ra ngay ý nhà tiên tri đang muốn nói gì. Biển cả trong quan niệm của các dân miền Cận Đông là nơi phát xuất ra nhiều sinh vật, nhưng lại toàn là các mãnh thú, tượng trưng cho sự dữ. Bốn mãnh thú ở đây là những sức mạnh chính trị thời bấy giờ, thay lượt nhau thống lãnh các dân tộc và đặc biệt dân riêng của Chúa. Mãnh thú thứ tư dữ dằn hơn hết chính là Antiôkô, vị vua bắt đạo làm đổ máu người lành. Sự dữ tung hoành như vậy cho đến khi trời mở ra. Ngày của Chúa đến. Người ngự trên ngai; tổ chức pháp đình; sổ sách công tội được mở ra. Các kẻ dữ lần lượt chịu tội.
Đó là thị kiến thứ nhất. Nói đúng ra đó là phần đầu của một chiêm bao còn tiếp diễn. Nó diễn tả các sự dữ xảy ra ở đời này, cho đến khi Thiên Chúa ban ơn cứu độ. Lúc này sẽ là phần thị kiến sau. Daniel thấy với mây trời như thể một Con Người đến. Ngài tiến lại Đấng cao niên và được ban tặng quyền bính, vinh dự và vương triều.
Ngài là ai mà quyền bính sẽ không bị hủy và tất cả các dân phải làm tôi Ngài? Theo Daniel, đó là dân thánh của Chúa. Họ không sinh ra từ biển, tức là không bởi sự dữ mà có. Trái lại, họ đến với mây trời, ám chỉ họ bởi chính Thiên Chúa mà ra vì mây trời vẫn là một trong những hình ảnh để chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa. Có lẽ theo Daniel nữa, thì họ là những người lành thánh đã “giữ mình” trong thời bắt bớ của Antiôkô, và là các thánh nhân đã đổ máu vì Thiên Chúa trong cuộc bắt đạo này. Đến ngày của Người, họ sẽ được đưa lên gần Thiên Chúa. Và Người sẽ ban tặng họ vinh dự, quyền uy, vương triều. Họ được chia sẻ quyền cai trị của Thiên Chúa và quyền bính của họ sẽ vô tận.
Đó là cái nhìn đức tin của Daniel về thời cuộc lúc bấy giờ. Về sau, người ta có thói quen lấy vinh dự của toàn thể đặt nơi vị thủ lãnh của mình. Và danh từ Con Người không được hiểu về toàn dân thánh nữa, nhưng được dành riêng cho Đức Kitô, vị Thiên Sai cứu thế. Là vì theo quan niệm thời xưa, cái gì vị thủ lãnh được cũng là để toàn thể hưởng. Dù sao cũng vì quan niệm này mà bài sách hôm nay đã được dùng để gợi lên vương triều của Chúa Yêsu Kitô. Chúng ta chấp nhận, nhưng không được quên ý của Daniel. Vương triều chỉ được ban cho những ai đã có công phấn đấu, đến cả thí mạng mình nữa. Và chỉ được ban trong ngày của Chúa, tức là trên bình diện Nước Trời, chứ không phải ở trần gian này. Những điều này rất cần để hiểu bài Tin Mừng hôm nay.
- Một Cuộc Tra Hỏi
Thánh Yoan cho chúng ta thấy Đức Yêsu bấy giờ đang ở trước tòa Philatô. Ông này rất lúng túng. Người Dothái không chịu vào phủ đường vì sợ mắc uế không ăn lễ vượt qua chiều hôm ấy được. Do đó Philatô lúc phải ra gặp họ ở ngoài phủ đường, lúc lại phải đi vào trong, tra hỏi riêng Đức Yêsu. Ông lúng túng lúc ra lúc vào. Nhất là ông không biết phải xử vụ này ra sao. Người Dothái đòi xử tử Ngài… Còn Ngài nào có tội lỗi gì? Đứng về quan điểm hành chính Rôma, chỉ có việc họ cáo Ngài là Vua là đáng kể. Nhưng không lẽ một con người như vậy mà lại là vua? Thành ra ông bắt đầu hỏi Ngài: “Ông mà lại là Vua dân Dothái sao?” Ông hỏi mà không tin ở lời mình.
Rõ ràng ông rất lúng túng. Có lẽ vì vậy mà thay vì trả lời, Đức Yêsu lại hỏi ông: “Tự mình ông, ông nói thế, hay đã có ai khác nói với ông về tôi?” Dường như Người muốn giúp ông biện phân ra sự thật. Nhưng ông lại không muốn. Ông vừa muốn nói sự thật vừa không. Ông lấp lửng trả lời theo kiểu nghi vấn: “Tôi là Dothái hay sao?”. Có nghĩa là người Do Thái nào nói với tôi điều đó? Thế thì sao ông không nhận quách đi, chính ông nghĩ như vậy. Nhưng thật sự ông không có ý tưởng như thế. Và nếu có, ông không hỏi nữa, hay có hỏi cũng sẽ có giọng tra hỏi hơn. Đàng này, ông đã hỏi chỉ vì người Do Thái đã cáo Ngài là Vua… mà như ông thấy, điều đó không thật được. Thế nên ông lúng túng…
Để ra khỏi thế khó xử này, Philatô chuyển sang chuyện khác. Ông nói rằng người Dothái đã nộp Ngài cho ông, thì hỏi Ngài để làm gì? Nhưng Đức Yêsu không muốn bước sang chuyện ấy. Không gỡ được nghi vấn lúc đầu cho ông, lương tâm ông chỉ có thể cứ rối thêm mãi. Đàng khác Ngài cần thực hiện mọi lời Kinh Thánh. Mà Kinh Thánh bảo: Đấng Thiên Sai là Vua. Cho đến nay Ngài từ chối danh hiệu này kẻo người ta hiểu lầm. Nay đến lúc phải làm trọn lời sách thánh. Daniel không tiên báo Con Người là Vua trước pháp đình, như chúng ta đã thấy ở trên sao?
Do đó, Đức Yêsu đã tuyên bố: “Nước Tôi không thuộc về thế gian này…” để nói lên rằng Người không phủ nhận mình là Vua, nhưng đồng thời lại khẳng định Người không là Vua theo kiểu thế gian. Philatô có thể đã giựt mình. Ông hỏi lại cho chắc: “Vậy thì Ông là Vua sao?”. Đức Yêsu khẳng định một lần nữa: “Ông nói đó: Tôi là Vua”. Tức là Người thấy Philatô không còn hoài nghi như lúc đầu nữa. Ông đã bắt đầu tin Ngài là Vua. Nhưng để ông đừng hiểu lầm, Ngài đã nói thêm: Ngài không làm Vua theo kiểu thế gian để cai trị trên người ta, nhưng để làm chứng cho sự thật. Philatô chắc chắn hiểu được phần đầu trong câu trả lời; vì ông vẫn nghĩ rằng theo quan điểm thế gian Ngài không thể nào là Vua được. Ngài không có bá quan văn võ, cũng chẳng có binh lính. Và chẳng thiết đến vấn đề này. Có bao giờ Ngài lộ ra ý tưởng muốn tổ chức một triều đình đâu? Vua gì mà để mình bị bắt nộp như thế này? Đàng khác, Ngài uy nghi, sáng suốt, không thể có đầu óc điên đến nỗi tưởng mình làm Vua theo nghĩa bình thường được. Philatô đồng ý Ngài không là Vua theo kiểu thế gian.
Còn câu Ngài xác định sứ mệnh làm Vua của Ngài là làm chứng về sự thật, thì Philatô vừa không hiểu vừa không muốn hiểu. Người ta nói rằng ông có quan điểm triết học hoài nghi, tức là không nghĩ rằng có sự thật, vì theo ông sự thật chẳng là gì cả.
Tiếc thay, ông không nhớ mình đang đứng trước một Con Người tôn giáo, chứ không phải con người triết học. Đức Yêsu không nói triết lý, nhưng nói tư tưởng Thánh Kinh. Thế mà sách Samuel quyển 2 chương 14 khẳng định Salomon, con Đavít không những có quyền trị dân mà còn được ơn khôn ngoan. Vị hoàng đế lý tưởng là người biết được ý Thiên Chúa để đem ra cai trị. Thế nên sáng sáng ngài phải có tấm lòng của môn đệ để đón nhận Lời khôn ngoan của Chúa để biết đàng biện phân phải trái cho dân. Ở đây, Đức Yêsu còn muốn nói xa hơn nữa vì Người còn hơn Salomon và là Con Đavít sâu xa hơn vua này. Người sinh ra để đem chân lý, tức là sự thật trọn vẹn xuống mạc khải cho loài người. Người đem sự khôn ngoan của Thiên Chúa đến. Người là chính sự khôn ngoan ấy. Người là mạc khải của Đức Chúa Cha để cứu chuộc và nuôi sống người ta. Người là Vua khi đưa người ta vào sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Và việc này chỉ xảy ra trong mầu nhiệm thập giá, là sự điên rồ trước mắt thế gian nhưng lại là sự khôn ngoan cao cả được giấu kín cho đến thời sung mãn.
Những ý tưởng này Philatô làm sao nhận được? Nhưng ông đã nhận Ngài là Vua. Ông để cho lính tráng chế diễu Ngài là Vua. Ông không nói gì khi chúng đội triều thiên gai và khoác áo đỏ hoàng đế cho Ngài. Chính ông sẽ còn đặt Ngài ngồi trên tòa ở nơi gọi là Gabbata và giới thiệu Ngài với dân Dothái: này là Vua các ngươi. Và cuối cùng chính ông truyền đóng bản án “Yêsu Vua Do Thái” lên đầu thập giá và khăng khăng bảo phải cứ để như vậy. Ông đã thi hành nhiều việc theo ý Chúa mà ông không biết. Chính Đức Yêsu nói: Ngài sẽ kéo mọi người lên khi được treo lên. Thế mà Philatô lại đặt Ngài ngồi trên tòa và kéo Ngài lên cây thập tự. Ông đã giúp Ngài làm Vua trong mầu nhiệm Thánh giá theo như sách Daniel đã gợi lên.
Nhà tiên tri này đã mô tả Con Người được trao vương triều khi sự dữ đã bị đánh bại và Con Người đã ở trong mây trời. Những điều đó đã xảy ra trong mầu nhiệm Vượt qua của Đức Yêsu cứu thế, là mầu nhiệm tiêu diệt tội lỗi và đi vào vinh quang Thiên Chúa. Chúa Yêsu Kitô làm Vua theo nghĩa đó… Nhưng không phải để cho mình, mà là để cho mọi người. Đó là điều mà bài sách Khải huyền muốn nói lên.
- Một Dân Vương Đế
Thật ra thì bài sách Daniel đã nói rồi. Con người được lãnh vương quyền trong bài tiên tri đọc hôm nay thoạt đầu là toàn dân thánh của Thiên Chúa. Về sau người ta mới đặt nó nơi Vị Thủ Lãnh như nơi kết tinh mọi vinh dự tập thể. Ở đây tác giả sách Khải huyền cho thấy sự thật thì chính Vị Thủ Lãnh của đạo mới thông đạt vương quyền của Ngài cho toàn dân.
Chắc chắn quan điểm của ông đúng hơn. Vì vương quyền nói đây không phải là cái gì của trần gian, nhưng là một đặc quyền của Thiên Chúa mà người ta được tham dự. Chính Ngài mới là Vua theo nghĩa tuyệt đối và cao siêu. Ngài chủ sự tất cả, và nhất là cứu thế là công trình của Ngài. Người ta chỉ có thể tham dự vào vương quyền của Ngài khi được giải thoát khỏi tội lỗi, để được đưa ra khỏi Nước tối tăm mà vào trong Nước sáng láng, thánh thiện của Ngài. Thế mà mọi người chỉ có thể được tha tội nhờ Đức Yêsu và trong Đức Yêsu. Chính Máu Ngài đã cứu thoát chúng ta khỏi tội lỗi và đã làm ta thành một vương quốc tư tế cho Thiên Chúa.
Chúng ta đội ơn Ngài nhưng không được quên kết hiệp với Ngài. Đó là điều kiện tiên quyết để được tham dự quyền bính của Ngài. Người ta đã khởi sự kết hiệp với Ngài trong bí tích Rửa tội là mầu nhiệm thánh giá Chúa Kitô. Nhưng còn phải ở trong mầu nhiệm ấy không ngừng để có thể mãi mãi là Con Người của sách Daniel, đang tiến lại gần Thiên Chúa để được trao ban vương triều.
Giờ đây cả cộng đoàn tín hữu cũng làm thành người Con Người ấy. Chúng ta tiến lên mầu nhiệm bàn thờ để được Con Người là Đức Yêsu Kitô Cứu thế kéo lên. Chúng ta được ra khỏi Nước tối tăm của tội lỗi để được đưa vào Nước sáng láng của ân sủng. Chúng ta có thể và phải giữ ơn “làm Vua” ấy trong tất cả đời sống, khi chúng ta sống mầu nhiệm thánh giá trong mọi sinh hoạt của cuộc đời. “Con Người” mà Daniel đã nhìn thấy trong chiêm bao, thật sự đang hiện thân nơi chúng ta, nhờ ơn của Chúa Yêsu Kitô là Vua trên thánh giá đã kéo chúng ta lên gần Thiên Chúa để chúng ta được trao ban Vương triều. Chúng ta hãy suy nghĩ những điều ấy và đem ra thi hành… Cuộc đời của chúng ta sẽ là tiếng tung hô không ngừng: Chúa Yêsu Kitô Vua muôn năm!
(Suy niệm của Dã Quỳ)
Phụng vụ Lễ Chúa Kitô Vua, Giáo Hội muốn trình bày cho ta biết ý nghĩa đích thực Vương Quyền của Chúa Giêsu, cách thế Người sống và thể hiện vương quyền. Đồng thời cho chúng ta cơ hội để xác tín và qui phục Chúa là Vua của ta.
Đứng trước tổng trấn Philatô, Chúa Giêsu đã tuyên bố “Tôi là Vua” (Ga 18,37), nhưng Người xác định rằng: “Nước tôi không thuộc về thế gian này.” (Ga 18,36) Vương quốc của Chúa Giêsu là vương quốc của Thiên Chúa. Chúa Giêsu là vua vì Người đã được Chúa Cha xức dầu tấn phong và trao cho Người vương quyền. Người sống trong sự kết hiệp thâm sâu với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Cùng với Chúa Cha và Thánh Thần, Người là Thiên Chúa, Người tạo dựng trời và đất, Người là vua của tất cả những kẻ sống. Người là vua trong Nước Trời và cũng là vua vũ trụ này nhưng với một phương cách khác với vua chúa trần gian.
Vua trần gian cần binh lính bảo vệ, canh giữ lãnh thổ và vương quyền của họ. Với Chúa Giêsu thì không như thế. Người không bao giờ có lính tráng và cũng không muốn có. Người chỉ có môn đệ và gọi họ là bạn hữu. Mọi người là con cái của Người, là anh em với nhau Những vua ở trần gian này thường giàu có về tài sản, vàng bạc để chứng minh uy thế và quyền lực của họ. Đối với Chúa Giêsu thì không có điều đó. Người không có gì cả. “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu.” (Mt 8,20)
Những vua chúa và hoàng hậu của trần gian này luôn có đầy tớ hầu hạ xung quanh họ. Còn Chúa Giêsu thì không. Ngôi vua của Người đã dẫn Người đến phục vụ tất cả mọi người “Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá cứu chuộc muôn người.” (Mt 20,28)
Ngôi vua của Chúa Giêsu là Vua Tình Yêu. Người tự hạ đến trần gian để rao giảng và để làm chứng cho tình yêu của Chúa Cha đối với nhân loại. Người đồng hóa với mọi người nhất là những người nghèo khổ. Đi đến đâu là Người thi ân giáng phúc, tìm kiếm, chữa lành những ai đau bệnh và tha thứ tội lỗi “Vì Con Người đến để tìm và cứu chữa những gì đã mất.” (Lc 19,10) Người yêu thương ta đến cùng khi hy sinh cả mạng sống cho ta và tha thứ đến cùng khi Người cầu xin Cha tha cho những kẻ giết Người. Trên thập giá, Người đã diễn tả tình yêu tột đỉnh mà Người dành cho chúng ta. Chính qua cái chết và sự Phục sinh vinh hiển, Vua Giêsu đã chiến thắng và khải hoàn tiến vào Vương quốc của Người vì “Đức Kitô phải nắm vương quyền cho đến khi Thiên Chúa đặt mọi thù địch dưới chân Người. Thù địch cuối cùng bị tiêu diệt là sự chết” (1Cr 15,25-26). Từ đó Người mở cửa vương quốc của Người cho chúng ta và triều đại Người vĩnh cửu trường tồn. Triều đại của sự sống và sự thật, của ân sủng và thánh thiện, của tình yêu và bình an.
Vương quốc của Vua Giêsu là nơi mà ở đó người ta yêu thương nhau vì là vương quốc tình yêu. Chỉ có luật yêu thương và Vua Tình Yêu cai trị. Vậy ta cần tập sống yêu thương, tha thứ như lời Chúa dạy và như mẫu gương Chúa yêu thương ta ngay từ bây giờ để rồi ta được trở thành công dân của Vua Tình Yêu và được hưởng hạnh phúc trong vương quốc của Người.
Vương quốc của Vua Giêsu không ở trần gian này vì trần gian chỉ là cõi tạm, sẽ có một ngày kết thúc. Vậy ta hãy biết sống thanh thoát với những ràng buộc của trần gian là danh lợi thú, để không bị quyền lực và vinh quang trần thế làm chủ thì ta mới có thể tự do tín thác vào quyền năng của Thiên Chúa. Tin nhận Chúa Giêsu là Chủ, là Vua, là Chúa của đời ta và hướng lòng về Vương quốc vĩnh cửu mà Thiên Chúa đã yêu thương dành sẵn cho ta và đang chờ ta như Lời Chúa hứa: “Thầy đi để dọn chỗ cho anh em… để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó.” (Ga 14,2-3)
Lạy Chúa Giêsu Vua Tình Yêu, xin qui tụ tất cả chúng con dưới quyền thủ lãnh của Chúa. Xin hãy giải thoát chúng con khỏi vòng nô lệ tội lỗi, để chúng con biết phụng thờ và yêu mến Chúa là Vua của chúng con và ngày sau xin đón chúng con vào vương quốc của Chúa. Amen.
(Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành)
Khi đề cập đến danh xưng vua, chúng ta liên tưởng tới thời kỳ quân chủ. Nhưng thời kỳ quân chủ đã qua. Hiện nay chỉ còn một số rất ít nước còn có vua, nhưng vua chỉ là danh hiệu chứ không thực quyền. Mặc dầu không sống trong thời kỳ quân chủ, nhưng có lẽ ai trong chúng ta cũng hiểu được phần nào về vai trò của ông vua trong một đất nước hay lãnh thổ.
Vua đi liền với quyền. Có thể nói vua có toàn quyền trên thần dân, kể cả quyền trên mạng sống. Nhưng việc thi hành quyền như thế nào thì tuỳ thuộc từng vị. Đa số các vị vua dùng quyền để cai trị thần dân một cách độc ác, tàn nhẫn như vua Hêrôđê, vua Minh mạng, vua Thiệu trị…Nhưng cũng có những vị vua nhân hậu, hết mực yêu thương thần dân như vua Thánh Louis Nước Pháp(1214 – 1270).
Còn vua Kitô thì sao? Chắc chắn một điều rằng: Ngài là vua nhưng không phải như những ông vua trần thế. Ngài là Vua trên hết các vua, là Chúa trên hết các chúa. Ngài là Vua vũ trụ, “Nước Ngài không thuộc về thế gian này” (x Ga 18,36). Ngài là Vua chân lý, chính Ngài đã nói điều đó với Philatô: “Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là chỉ để làm chứng về Chân lý. Ai thuộc về Chân lý thì nghe tiếng Tôi”(Ga 18,37). Ngài là Vua yêu thương, vì “Người đã dùng máu Người mà rửa chúng ta sạch mọi tội lỗi”(x. Kh 1,5).
- Chúa Kitô Là Vua Chân Lý
Thật vậy, Thiên Chúa là nguồn mạch mọi chân lý. Lời của Ngài là chân lý. Lề luật của Ngài là chân lý. Nơi Chúa Giêsu Kitô, chân lý của Thiên Chúa đã được bày tỏ cách trọn vẹn. Chính Ngài là chân lý: “Tôi là đường là sự thật và là sự sống”(Ga 14,6). Suốt cuộc đời của Ngài đã làm chứng cho chân lý. Một vài lần dân chúng muốn Ngài làm vua: Lần thứ nhất, sau khi làm phép lạ hoá bánh ra nhiều. Lần thứ hai, khi Ngài bước vào thành thánh Giêsuzalem, dân chúng hoan hô, trải áo lên đường cho Ngài đi. Nếu Ngài xưng vương một trong hai lần đó thì rất thuận lợi. Nhưng Ngài đã từ chối. Vì, vị vua mà dân chúng quan niệm không đúng với tước hiệu vua của Ngài. Còn hôm nay, Ngài là một tử tội trước mặt quan toà Philatô, không có lợi thế gì, nhưng Ngài đã xưng mình là vua, vì đó là sự thật. Ngài xưng vua để làm chứng cho sự thật. Vương quốc của Ngài “Không khi nào bị phá huỷ” (x. Đn 7,14). “Quyền năng của Ngài là quyền năng vĩnh cửu, không khi nào bị cất mất”(x. Đn 7,14).
Mỗi người Kitô hữu chúng ta là môn đệ của Vua Kitô, muốn bước theo Ngài cần phải sống theo chân lý, làm chứng cho chân lý, vì “Ai thuộc về chân lý thì nghe tiếng Tôi”(X. Ga 18,37). Sống theo chân lý là sống ngay thẳng, thật thà, chân thành, tránh sự giả hình, giả bộ. Bởi vì “Người ta không thể sống với nhau, nếu không có sự tin tưởng nhau, nghĩa là nói sự thật với nhau”. Theo lẽ công bằng, “Mỗi người phải thành thật bày tỏ sự thật cho người khác”(Thánh Tôma Aq.) Sống theo chân lý là chấp nhận sống trong sự đơn sơ của một cuộc sống phù hợp với gương mẫu của Chúa và đứng vững trong chân lý của Ngài:”Nếu chúng ta nói chúng ta hiệp thông với Ngài, mà chúng ta lại bước đi trong tối tăm, thì chúng ta nói dối, và chúng ta không hành động theo chân lý”(1Ga 1,6).
Làm chứng cho chân lý là phải tuyên xưng đức tin của mình một cách rõ ràng không úp mở, “Đừng hổ thẹn vì phải làm chứng cho Chúa chúng ta” (x. 2Tm 1,8). Làm chứng cho chân lý đòi buộc phải chấp nhận hy sinh, có khi phải hy sinh cả tính mạng. Như trường hợp các Thánh Tử Đạo. Đó là sự làm chứng tối cao cho chân lý và cho đức tin. Làm chứng cho chân lý là phải loại bỏ những xúc phạm đến chân lý: Nghĩa là không được làm chứng gian và bội thề; Không được nói xấu và vu khống phá hoại thanh danh và danh dự của tha nhân; Không được khoe khoang, vì khoe khoang cũng là một lỗi nghịch với sự chân thật; Không được châm biếm, tìm cách hạ giá người khác bằng cách diễu cợt có ác ý một cử chỉ nào đó của tha nhân; Không được nói dối “Nói dối là nói điều không đúng, với ý định đánh lừa người ta”(Thánh Augustinô). “Có thì nói có, không thì nói không” (Mt 5,37). Chúa Kitô đã tố cáo sự nói dối, coi đó là việc làm của ma quỷ (x.Ga 8,44). Làm chứng cho chân lý là biết tôn trọng sự thật. Mỗi người chúng ta có quyền nói lên sự thật, nhưng đây không phải là một quyền tuyệt đối, vô điều kiện. Vì không phải sự thật nào cũng được phép nói ra. Bí mật của bí tích Hoà giải thì bất khả xâm phạm. Các bí mật về nghề nghiệp cũng phải giữ kín. Những điều tâm sự có hại cho tha nhân cũng không được tiết lộ. (x. GL GHCG số 2464 – 2513)
- Chúa Kitô Là Vua Yêu Thương
Triết gia Soren Kierkegaard sống tại Đan Mạch cách đây khoảng 150 năm có kể câu chuyện sau: Có một vị vua nọ đắm say một cô thôn nữ nhưng không thể cưới nàng làm vợ, bởi vì vua chúa không bao giờ cưới nông dân. Sau khi đã lật đi lật lại nhiều giải pháp, cuối cùng vua đã đi đến quyết định từ bỏ ngôi báu để trở nên một nông dân hèn hạ và dâng hiến tình yêu mình cho người thôn nữ kia để giữa hai người có được một tình yêu đích thực.
Việc làm của vị vua trong câu chuyện trên giúp chúng ta liên tưởng tới hành vi tự hạ của Vua Kitô. Thật vậy, vì yêu thương nhân loại, Ngài đã tự hạ mình làm một con người như chúng ta ngoại trừ tội lỗi. Vì yêu thương, Ngài đã chấp nhận sinh ra trong hang đá lạnh lẽo, thiếu thốn đủ thứ. Vì tình yêu, Ngài đã chấp nhận sống ẩn dật, âm thầm, làm nghề thợ mộc giúp đỡ Đức Mẹ và Thánh Giuse trong suốt 30 năm. Vì yêu thương, Ngài đã lên đường rao giảng Tin mừng để chu toàn sứ mạng của mình trong suốt ba năm. Trong ba năm đó, Chúa đã gọi, chọn và huấn luyện các tông đồ, là những cán bộ nòng cốt của Giáo Hội thuở ban đầu. Tình thương của Ngài đã chạm đến biết bao nhiêu hạng người trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống: Những người bị bệnh hoạn tật nguyền; những người tội lỗi; những người bị áp bức bóc lột; những người nghèo đói khổ đau. Và để dạy cho các môn đệ bài học về sự yêu thương, tối thứ năm tuần thánh, Ngài đã đích thân rửa chân cho các môn đệ và dặn họ rằng: “Nếu Thầy là Chúa, là Thầy mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau” (Ga 13, 14). Vì yêu thương, Ngài đã chấp nhận sự chống đối, ghen ghét, làm hại mà đỉnh cao là cái chết nhục nhã trên thập giá. Cái chết của Ngài làm chứng cho tình yêu, vì”Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15, 13). Vì yêu thương nhân loại, nên trước khi về trời, Ngài đã lập các bí tích, nhất là Bí tích Truyền Chức và Thánh Thể để ở lại với loài người cho đến tận thế.
Để thuộc về công dân nước trời, mỗi người kitô hữu chúng ta cần phải biết sống yêu thương. Trong bài Tin mừng Thánh Mathêu kể về sự phán xét chung (x. Mt 25, 31-46) cho chúng ta thấy, tiêu chuẩn duy nhất Chúa phán xét chúng ta là Tình Yêu. Vậy, hãy cố gắng thể hiện tình yêu thương trong cuộc sống. Đó chính là những công việc từ tâm, là những hành vi bác ái chúng ta làm để giúp đỡ người đồng loại trong những thiếu thốn vật chất và tinh thần. Dạy dỗ, khuyên răn, an ủi, khích lệ là những công cuộc từ tâm tinh thần, cũng như tha thứ và nhẫn nhục chịu đựng. Còn các việc từ thiện vật chất thường là: Nuôi dưỡng những người đói khổ, lo nơi trú ngụ cho người vô gia cư, lo áo mặc cho người rách rưới, thăm viếng các bệnh nhân và các tù nhân, lo mai táng người chết. Trong số các hành vi này, bố thí cho người nghèo là một trong những chứng từ chính yếu của đức bác ái huynh đệ, đó cũng là một hành vi công chính đẹp lòng Thiên Chúa (x. Gl GHCG số 2447).
Tóm lại, Chúa Kitô là Vua. Ngài là Vua Chân lý. Ngài là Vua Yêu thương. Mỗi người chúng ta muốn thuộc về thần dân của Ngài thì hãy sống theo Chân lý và làm chứng cho Chân lý. Hãy sống yêu thương, và thể hiện tình yêu thương đó đến với tất cả mọi người trong mọi hoàn cảnh. Amen.
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
VUA VƯƠNG QUỐC YÊU THƯƠNG VÀ AN BÌNH
Chúa Nhật cuối cùng của năm phụng vụ, Giáo hội long trọng cử hành lễ Chúa Kitô là Vua vũ trụ với niềm vui khôn tả, đồng thời quả quyết rằng Người là Vua và là Chúa chúng ta.
Đã từ lâu, trong ngôn ngữ thông thường, người ta đã gán cho Chúa Giêsu Kitô tước hiệu Vua; Đúng, Người là Vua trên hết các vua, là Chúa trên hết các Chúa, trổi vượt trên hết mọi loài, thống trị lòng người, Người hiển trị đến muôn đời. Chúa Giêsu là vua lòng người, với tình yêu và lòng trùi mến, Người lôi kéo mọi con tim đến với mình. Người là “Con Chiên đã bị giết nay xứng đáng lãnh nhận thần tính và uy quyền, khôn ngoan cùng sức mạnh, danh dự với vinh quang…” (Ca nhập lễ).
Lễ Chúa Kitô Vua tương đối mới, nhưng có nền tảng Thánh Kinh và thần học sâu xa. Từ tước hiệu vua, được áp dụng cho Chúa Giêsu thật quan trọng trong các Tin Mừng, chính Tin Mừng cung cấp cho chúng ta một bài đọc đầy đủ về dung mạo cũng như sứ vụ của Đấng Cứu Thế. Khởi đi từ “Vua người Do thái”, dẫn đến tước hiệu “Vua của thế giới”, “Chúa của vũ trụ và lịch sử”, vượt qua mọi kỳ vọng của dân Do thái.
Trọng tâm tiến trình mạc khải về vương quốc của Vua Giêsu, còn tiềm ẩn bí mật về cái chết và sự phục sinh của Người. Khi bị treo trên thập giá, các thượng tế, luật sĩ và kỳ lão nhạo báng Người rằng: “Nếu ông là vua Do thái; thì hãy xuống khỏi thập giá đi để chúng ta tin nào” (Mt 27, 42).
Trong thực tế, Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa đã tự ý nộp mình chịu khổ hình và chịu chết trên cây Thánh Giá, một nghịch lý của Vua Giêsu thể hiện thánh ý Chúa Cha trên sự bất tuân của tội lỗi. Chính sự hiến mình làm của lễ đền tội này mà Chúa Giêsu đã trở thành Vua vũ trụ, như Người đã tuyên bố với các tông đồ sau khi sống lại, “Thầy đã được trao mọi quyền năng trên trời dưới đất” (Mt 28, 18).
Quyền bính của Chúa Kitô Vua ở đây là gì? Hẳn không phải là quyền bính của các vua trần thế và những kẻ có thế lực; nhưng là quyền năng thiêng liêng có thể ban sự sống thần linh để giải thoát chúng ta khỏi sự dữ, đánh bại sự thống trị của thần chết. Đây là quyền năng yêu thương, một quyền năng có thể rút từ sự ác ra sự lành, làm cho tâm hồn chai đá ra mềm mỏng, mang lại hòa bình cho những cuộc xung đột, biến tăm tối thành hy vọng. Vương quốc của Chúa Kitô không hề áp đặt bất cứ điều gì và luôn tôn trọng tự do của con người. Khi Philatô hỏi Chúa Giêsu rằng: “Ông có phải là Vua dân Do-thái không?” (Ga 18, 33) Bị hỏi, nhưng với tư cách là Vua, Chúa Giêsu không trả lời câu hỏi của Philatô, mà Chúa hỏi lại ông: “Quan tự ý nói thế, hay là có người khác nói với quan về tôi?” (Ga 18, 35)
Khi thi hành sứ mạng công khai, đã có lần đám đông dân chúng muốn tôn Chúa lên làm vua, nhưng Người lại chốn khỏi Vương quốc thế trần, đúng như Chúa nói với Philatô: “Nước tôi không thuộc về thế gian này” (Ga 18, 36). Chúa là Vua không có quân đội, không khí giáp.
Cung điện Người ở đâu? Thưa, Người ngự trị trong lòng chúng ta. “Vua không có cung điện” nhưng toàn trái đất thuộc về Người. Nhờ Người mà thế giới này được tác tạo. Trước Philatô, kẻ có quyền ra án tử cho Chúa, Chúa khẳng định, “Tôi đến trần gian để làm chứng cho Chân Lý” (Ga 18, 37).
Vậy chúng ta theo ai: Thiên Chúa hay ma quỷ? Sự thật hay giả dối? Tùy chúng ta lựa chọn. Chọn theo Chúa Kitô không bảo đảm cho chúng ta sự thành công theo những tiêu chuẩn thế gian, nhưng bình an và niềm vui thì chỉ mình Người mới có thể mang lại cho chúng ta. Với Người, chúng ta có thể xây dựng yêu thương và an bình. Chúa là “Vua, của một vương quốc gồm những người tội lỗi!” Chúng ta phải thường xuyên lặp lại: Xin thương đến con là kẻ tội lỗi, để chúng ta nhìn anh em mình với lòng từ bi. Họ cũng là những tội nhân nghèo như chúng ta. Chúa là Vua của những người nghèo! Chúng ta biết tình yêu đầy ân sủng của Thiên Chúa là sự giàu có của chúng ta, chúng ta sẽ không bao giờ thiếu nó. Chúa là “Vua của một vương quốc huynh đệ!” Hãy là những người anh em yêu thương nhau! Trong mắt Chúa Giêsu, Bình an và Tình yêu lan tỏa. Vì vậy, Tin Mừng trình bày Chúa Giêsu, Vua vũ trụ bị kết án, Philatô là kẻ xét xử Người.
Khi nói: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Philatô hỏi lại: “Vậy ông là Vua ư?” Chúa Giêsu đáp: “Quan nói đúng. Tôi là Vua. Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là chỉ để làm chứng về Chân lý. Ai thuộc về Chân lý thì nghe tiếng Tôi” (Ga 18, 36-37).
Chúng ta đang ở trong thế gian, nhưng không thuộc về thế gian. Chúng ta có bổn phận làm cho tình yêu, sự dịu dàng, hiền lành, vẻ đẹp trở lại vương quốc này. Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế, Người đã không đến để xét xử nhân loại, nhưng là để cứu. Người là Đấng công chính duy nhất, thế chỗ cho tội nhân.
Để phục vụ Đức Giêsu Vua, chúng ta phải chấp nhận làm việc mỗi ngày cho Triều Đại cánh chung đang đến… điều ấy không xảy ra mà không có chiến đấu: Vâng, Vua chúng ta yêu cầu chúng ta cầm sẵn vũ khí trong tay để chiến đấu, chống lại “các thế lực của bóng tối” (Cl 1, 13). Cùng với Người, chúng ta nắm chắc phền thắng (x. Ga 16, 33), nhưng với điều kiện là chúng ta cũng tham gia chiến đấu, chiến đấu hàng ngày với ba thù là ma quỉ, thế gian và xác thịt… vì “những ngày là xấu xa! “ (Ep 5, 16) và rằng “cả thế giới nằm dưới sự thống trị của ma quỷ” (1 Ga 5, 19).
Làm cho Chúa hiển trị, tiên vàn vẫn là làm cho Chúa hiển trị trong lòng chúng ta… khi tuyên xưng đức tin trong cuộc sống hàng ngày cách cá nhân hay cộng đoàn, chúng ta không xấu hổ! (LG §31). Lời Đức thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II nói cùng dân chúng ngày 15 tháng 6 năm 1993 vẫn còn vang vọng: “Hãy đi đến các ngả đường, sống đức tin của chúng con với niềm vui vẻ, hãy mang đến cho mọi người Ơn cứu độ của Đức Kitô, ơn ấy phải thâm nhập vào trong gia đình, trường học, trong các nền văn hóa và đời sống chính trị!” Đừng sợ phải đi ngược dòng! Làm cho Đức Kitô hiển trị, là trở nên tông đồ lôi kéo nhiều linh hồn về với Chúa là Vua Vương Quốc Yêu Thương và An Bình.
(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
Khi nói tới “vua” là chúng ta nghĩ ngay đến ngai vàng, hoàng cung, quyền lực, kẻ hầu người hạ, quan quân, vũ khí… Nhưng ngày nay người ta thường gán chức vua cho những ai thành công trong một lãnh vực nào đó. Chẳng hạn, Ông Henri Ford là vua xe hơi, cầu thủ bóng đá Maradona là vua sân cỏ, rồi có vua đầu bếp, vua mì tôm, vua ca nhạc…
Còn Đức Kitô hôm nay chúng ta tuyên xưng Ngài là vua, thì Ngài là loại vua nào? Khi nghe những trang Tin Mừng và nhìn vào chính con người Chúa Giêsu ta chẳng thấy Ngài có gì vua cả. Ngược lại, ta chỉ thấy Ngài lang thang trên những nẻo đường bụi bậm xứ Palestine, với một vài đệ tử ít ỏi, còn xung quanh là những người nghèo nàn khố rách áo ôm, tật bệnh, tội lỗi….
Nhưng, thực tế, Chúa Giêsu là Vua, Vua của mọi người. Ngài là con người tuyệt vời nhất với đầy đủ những đức tính hoàn hảo nhất. Ngài còn là Vua trên tất cả các vua trần gian vì Ngài là Thiên Chúa, Đấng tạo dựng nên trời đất muôn vật muôn loài và thống trị vũ trụ này.
Mừng lễ Đức Giêsu Kitô, Vua vũ trụ, chúng ta được mời gọi nhìn lên Vua của chúng ta. Một vị vua không ngồi trên ngai vàng, nhưng treo trên thập giá. Một vị vua không cai trị bằng quyền uy vũ lực, nhưng dựa trên tình yêu thương xót. Một vị vua không có lãnh thổ trên bản đồ thế giới, nhưng nằm sâu trong trái tim mọi người. Vương quốc của Ngài là vương quốc của chân lý và sự thật, cho nên Ngài quả quyết với ông Philatô và chúng ta hôm nay rằng: “Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi” (Ga 18,37).
Sự thật là gì?
Quan Philatô hỏi nhưng Chúa Giêsu không trả lời bằng lời nói mà bằng hành động của Ngài là yêu thương cứu độ hết mọi người. Sự thật cứu độ của Chúa Giêsu là yêu thương cứu độ hết mọi người. Qủa thế, trọn cuộc sống dương gian của Chúa Giêsu, từ lúc chào đời cho đến chết và phục sinh, được gồm tóm trong hai chữ “YÊU THƯƠNG”.
– Thứ nhất, vì yêu thương, “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế” (Pl 2,6-7).
– Thứ hai, vì thương yêu, Chúa Giêsu đã mạc khải Chúa Cha (Ga 8,19) và căn tính của mình cho mọi người biết Ngài là Con Thiên Chúa (Ga 10,36), là Đấng Mêsia (Ga 1,36-41) được Chúa Cha sai đến (Ga 3,17a). Ngài còn mạc khải Nước Thiên Chúa để phàm ai tin vào Ngài sẽ được Nước ấy làm gia nghiệp (Ga 3,5) và được sống muôn đời (Ga 3,15).
– Thứ ba, vì yêu thương, Ngôi Hai Thiên Chúa đến thế gian như người tôi tớ phục vụ và cứu độ hết mọi người (Ga 5,20-27).
– Cuối cùng, vì yêu thương, Chúa Giêsu đã hiến thân mình trên cây thập giá để cho mọi người được hưởng tình yêu dạt dào của Thiên Chúa (Ga 14,1-3).
Vì vậy, trong bài đọc 2 Thánh Gioan xác tín rằng: “Đức Giêsu Ki-tô là vị Chứng Nhân trung thành, là Trưởng Tử trong số những người từ cõi chết chỗi dậy, là Thủ Lãnh mọi vương đế trần gian, ban cho anh em ân sủng và bình an. Người đã yêu mến chúng ta và lấy máu mình rửa sạch tội lỗi chúng ta, làm cho chúng ta trở thành vương quốc và hàng tư tế để phụng sự Thiên Chúa là Cha của Người” (Kh 1,5-6).
Vậy, vương quốc của Vua Giêsu còn là vương quốc của Tình yêu, Chúa Giêsu là vua Tình yêu, nên chỉ những ai sống yêu thương mới đích thực là thần dân của Người. Qủa thế, giáo lý Hội Thánh Công giáo dạy khi lãnh nhận Bí Tích Rủa Tội, chúng ta tham dự vào chức tư tế, sứ mạng Ngôn Sứ và vương đế tình yêu của Chúa Giêsu. Vì thế, qua mỗi thánh lễ Chúa Giêsu kêu gọi chúng ta khi ra về phải thi hành sứ mạng vương đế tình yêu trong cuộc sống. Tình yêu của Chúa Giêsu là tình yêu chân tình, chung thủy, trung tín và tình yêu hy sinh cho người mình yêu. Cho nên, Chúa Giêsu dạy rằng không có tình yêu nào quý hơn tình yêu của người thí mạng vì mọi người mình yêu dù người ấy là kẻ thù của ta. Đây là nét đặc trưng nổi bậc nhất của đạo Công Giáo chúng ta.
Chúng ta được hạnh phúc trở thành con cái, anh em và là công dân của Nước Trời, là thần dân đích thực của Giêsu, Vua Tình yêu. Cho nên, yêu thương là lẽ sống của từng cá nhân, gia đình, và cộng đoàn. Vì “Đâu có tình yêu thương ở đấy có Đức Chúa Trời”. Có Chúa trong tâm hồn chúng ta luôn cảm thấy bình an, hạnh phúc. Đồng thời Vua Giêsu sẽ thúc dục chúng ta học và sống với Ngài: lòng nhân hậu, thương xót người, hiền lành, khiêm nhường và phục vụ hết mọi người. Còn mọi thứ khác chỉ là kiểu cách, rườm rà, câu nệ, phô trương, là thanh la phèng phèng nghe đã lỗ tai rồi bay đi thôi.
Vì vậy, Thánh Gioan tông đồ nói rằng: “Chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm. Căn cứ vào đó, chúng ta biết mình đứng về sự thật và sẽ được an lòng trước mặt Thiên Chúa” (1Ga 3,18-19). Đặc biệt hơn nữa, Năm Thánh Lòng Thương Xot sắp khai mạc, trong Tông Sắc “Dung Nhan Lòng Thươn Xót”, Đức Thánh Cha mời gọi chúng ta rằng: “Nếu chúng ta ngước mắt nhìn lên Chúa Giêsu và ngước mắt nhìn lên dung nhan nhân hậu của Ngài, chúng ta sẽ thấy được Tình Yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi chí thánh. Tình Yêu này rõ ràng và trở nên cụ thể trong toàn bộ cuộc sống của Chúa Giêsu. Ngôi vị của Ngài không phải là bất cứ điều gì khác ngoài Tình Yêu, một Tình Yêu tự hiến (số 8§1). Tình Yêu nhân hậu của các Ki-tô hữu cũng phải nằm trên hành trình yêu thương của Chúa Giêsu Vua. Người yêu thương chúng ta thế nào thì con cái cũng phải yêu thương thể ấy. Nếu như Thiên Chúa là Đấng Thương Xót thì chúng ta cũng được kêu gọi để xót thương nhau” (số 9§4).
Lạy Chúa, chúng con là đôi tay và đôi chân của Chúa, là miệng lưỡi và trái tim yêu thương của Người. Xin cho chúng con biết cộng tác với Chúa, xây dựng một thế giới yêu thương và chân thật, vui tươi và hạnh phúc, để Nước Chúa hiển trị muôn đời. Amen.
Mỗi năm, cứ đến Chúa nhật cuối cùng thì Phụng vụ lại mừng kính Đức Kitô là Vua. Thế nhưng, Ngài là vua theo ý nghĩa nào?
Khi Philatô chất vấn Chúa Giêsu: Ông có phải là vua không? Chúa Giêsu đã trả lời: Phải, tôi là vua. Cũng là một khái niệm làm vua, nhưng Philatô có kinh nghiệm khác, người Do Thái có kinh nghiệm khác, còn Chúa Giêsu thì cũng có kinh nghiệm khác. Philatô thì coi làm vua là người ngự trị trong vinh quang, theo kiểu Caesar lúc bấy giờ đang trị vì tại Rôma. Người Do Thái thì coi làm vua là phải nổi lên để giải phóng dân tộc khỏi sự bóc lột và kìm kẹp của đế quốc Rôma, đem lại cho quê hương đất nước một thời đại hoàng kim. Còn Chúa Giêsu thì sao? Quan niệm của Ngài có mang nặng màu sắc chính trị và trần tục hay không?
Khi Chúa Giêsu bắt đầu cuộc sống công khai, các Phúc Âm đều nói tới những cơn cám dỗ Ngài phải chịu trong hoang địa. Chủ đề của những cơn cám dỗ ấy xoay quanh và gắn liền với uy quyền, với khái niệm làm vua. Và chúng ta thấy Chúa Giêsu đã đương đầu, đã khước từ sự cám dỗ ấy, không phải chỉ ở trong hoang địa, mà còn kéo dài trong suốt cả cuộc đời của Ngài. Sự cám dỗ ấy đến từ phía dân chúng, cũng như đến từ thẳm sâu cõi lòng của Ngài. Chẳng hạn sau khi làm phép lạ cho bánh hóa nhiều, dân chúng muôn tôn Ngài lên làm vua, nhưng Ngài đã lẩn trôn họ. Đứng trước tòa án của Philatô cũng vậy. Sau khi xác quyết mình là vua, thì Ngài đã lập tức xác định ngay lập trường của mình: Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thì binh đội của tôi đã chiến đấu, để tôi không bị nộp cho người Do Thái.
Bởi đó, chúng ta thấy Chúa Giêsu không từ chối tư cách làm vua của Ngài, nhưng kinh nghiệm làm vua ấy có một nét khác lạ và sâu xa. Chính vì thế, Ngài đã khước từ mọi kinh nghiệm trần gian của việc làm vua. Thái độ của Chúa Giêsu là luôn tránh né, để khỏi gây hiểu lầm về tính cách thiên sai của Ngài: Ngài đã tự coi mình là người tôi tớ đau khổ của Thiên Chúa mà tiên tri Isaia đã nói tới. Ngài đến để hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người.
Như thế, chúng ta thấy có một sự đối chọi gay gắt giữa khái niệm làm vua để thống trị và quy hướng về mình, với hình ảnh người tôi tờ đau khổ, thinh lặng và chịu đựng mọi khinh bỉ, nhưng nhờ đó đã làm phát sinh ra sự sống ơn sủng, cũng như làm phát sinh ra sự giải thoát khỏi những trói buộc của tội lỗi. Hẳn thực Chúa Giêsu đã sống cho người khác, đã xử trí các tương quan bằng lòng yêu mến. Ngài đã lên ngôi khi bị treo trên thập giá. Giới luật Ngài dùng để cai trị, đó là giới luật yêu thương. Ngài đã làm gương cho chúng ta về tinh thần phục vụ bằng việc quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ. Ngài là một vị vua không ngai vàng, không cung điện, không binh đội. Ngài là một vị vua không giống ai.
Vì thế mỗi người chúng ta hãy tự vấn lương tâm xem: Tôi phải làm gì? Tôi phải sống thế nào, để xứng đáng là thần dân trong vương quốc của Ngài.
(Suy niệm của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Chúng ta mừng lễ Đức Giêsu làm vua. Đáng lẽ Tin mừng phải diễn tả quang cảnh tôn vinh Đức Giêsu như một ngày lễ phong vương long trọng theo phong cách lễ nghi tôn vương của các vua trần gian. Nhưng Tin mừng chỉ kể lại phiên tòa xét xử Đức Giêsu. Trên ngai, chánh án toàn quyền Philatô; dưới quảng trường nguyên cáo là các thượng tế và dân chúng; đứng trước vành móng ngựa, bị cáo là Đức Giêsu đầu đội triều thiên gai, hai tay bị trói.
Chánh án hỏi: “Ông có phải là vua dân Do thái không?”. Bị cáo hỏi lại Chánh án: “Ông tự ý nói điều ấy hay có ai khác nói với ông về tôi?”. Chánh án đáp: “Tôi đâu có phải là người Do thái, dân ông và các thượng tế đã nộp ông cho tôi”. Toàn quyền Philatô đại diện hoàng đế La mã, cai trị nước Do thái. Thời đó, đế quốc La mã thống trị 8 nước Âu châu (Ý, Pháp, Anh, Đức, Áo, Nam Tư, Romani, Hy Lạp) 5 nước Á châu (Thổ Nhĩ Kỳ, Syrie, Lyban, Palestine, Do thái) và 5 nước Phi châu (Ai cập, Lybie, Tunisi, Algêrie, Marốc). Chánh án Philatô hỏi bị cáo Giêsu, Đức Giêsu không trả lời, nhưng hỏi lại Philatô và Philatô đã phải trả lời: “Tôi đâu có phải là người Do thái, dân ông và các trưởng tế đã nộp ông cho tôi”. Câu trả lời của Philatô đã cho thấy ông thú nhận ba điều:
Thứ nhất: Philatô là chánh án xét xử Đức Giêsu, nhưng Đức Giêsu không bị dồn vào thế bị động, không bị xét xử, Người đã chủ động, đứng ra xét xử Philatô. Rõ ràng Philatô đã phải thú nhận mình không biết gì về Đức Giêsu, ông chỉ nghe dân chúng và các thượng tế tố cáo Đức Giêsu nổi loạn làm vua. Toàn quyền Philatô là chánh án không biết bị cáo có tội gì, không biết sự thật mà dám xét xử thì làm sao có công lý.
Thứ hai: Toàn quyền Philatô nắm giữ quân đội La mã hùng mạnh để giữ gìn an ninh trật tự, để chiến đấu dẹp những kẻ nổi loạn chống lại hoàng đế; thế mà ông không hề phải dùng quân lính dẹp loạn, quân ông không phải chiến đấu với Đức Giêsu. Như vậy, Đức Giêsu có nổi loạn đâu! Sao ông dám kết án Đức Giêsu nổi dậy làm vua? Ông đã xét xử mù quáng.
Thứ ba: Philatô thay mặt hoàng đế cai trị dân Do thái, như vậy, ông cũng là vua nước nhỏ, vua dân Do thái. Vua phải biết thương dân. Ông chưa biết người dân có tội, đã bắt trói, cầm tù, đánh đập, đội mạo gai, ông thật là thứ vua tàn ác, dã man. Quả thực, mấy năm trước đó, Philatô đã đóng đinh hàng ngàn người thuộc phái Nhiệt thành cuồng tín (Zelotes) nổi loạn (Lc. 13, 1-3).
Sau khi Philatô thú nhận tội lỗi của mình, Đức Giêsu mới tuyên bố: “Nước Tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước Tôi thuộc về thế gian này, thì người của Tôi đã chiến đấu không để Tôi bị nộp cho người Do thái”.
– Trước hết, Đức Giêsu đã phân biệt nước Người không thuộc về thế gian này. Nước thế gian như đế quốc La mã, vua có binh hùng tướng mạnh, đi xâm lăng thống trị các dân tộc yếu hơn, bắt họ làm nô lệ cho đế quốc. Vua tha hồ bóc lột đàn áp để giết người cướp của. Vua độc tài, độc tôn muốn làm gì thì làm, muốn giết ai thì giết, muốn phong ai thì phong, dù là kẻ bất tài, thất đức.
– Thứ đến, nước Đức Giêsu cũng không phải nước dân Do thái mong đợi. Nước Do thái mong ước là nước con vua Đa vít: bách chiến bách thắng để giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ, và còn thống trị muôn dân nữa. Vua Cứu thế sẽ khôn ngoan hơn Salomon để các vua chúa vương hầu khắp thiên hạ phải tôn vinh Ngài và “đổ về thủ đô Giêrusalem, nguồn phong phú biển cả, và của cải muôn dân đến cho ngươi. Lạc đà đàn đàn che rợp đất, tải vàng với hương trầm, hết thảy kéo lại cho ngươi” (Is. 60, 5-6). “Ngươi sẽ được gọi là Cố vấn kỳ diệu, thần Anh dũng, Cha muôn thuở, Vua thái bình, quyền bính vô tận trên ngai Đa vít” (Is. 9, 5-6).
– Sau cùng, nước Đức Giêsu là nước không thuộc về thế gian này, không có quân tướng, vũ khí nên Người sẵn sàng nộp mình cho người Do thái. Nước Người là nước huyền nhiệm, nước trời muôn thuở, vô biên, không có lãnh thổ, không thuộc trần gian, nhưng có từ nguyên thủy đến tận cùng thế giới (Alpha và Ômêga), nước thuộc về Đấng đã có, đang có và sẽ đến.
Tiếp đến, Đức Giêsu nói: “Tôi sinh ra, đã đến thế gian là để làm chứng cho sự thật, ai đứng về phía sự thật đều nghe tiếng Tôi”. Sự thật đó là gì? Sự thật đó là đường cứu độ đưa con người đến sự sống muôn đời. “Tôi là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống”. Nước Đức Giêsu khác hẳn nước thế gian. Nước thế gian chỉ đưa đến nô lệ, bất công, chiến tranh và chết chóc.
Đức Giêsu đã kêu gọi Philatô nghe tiếng Người đứng về phía sự thật. Nhưng bị đắm chìm trong quyền bính, danh vọng, Philatô đã đứng về phía gian ác của phường bất chính đổ vạ cáo gian nên đã trao Người cho lý hình đóng đinh và đâm thâu vào Thánh Tâm Người (Ga. 19, 34). Thánh Tâm đầy lòng thương xót đã rộng lòng khoan dung tha thứ:
“Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng lầm chẳng biết”. Nhận ra vua sự thật, vua tình thương, anh trộm lành đã nói: “Ông này có làm điều gì sai trái đâu!”. Và anh đã cầu nguyện với Người: “Lạy Đức Giêsu, khi nào vào nước Ngài, xin nhớ đến tôi”. Anh chỉ dám xin nhớ, không dám xin cứu, không dám xin được vào nước Người vì anh thấy mình quá bất xứng, quá tội lỗi. Nhưng Đức Giêsu thấy lòng thông cảm khiêm tốn của anh, Người đã dịu dàng nói với anh: “Tôi nói thật, hôm nay anh sẽ được ở với Tôi trên nước thiên đàng” (Lc. 23, 41-42).
Nhận ra vua sự thật, vua tình thương, viên đại đội trưởng đã tuyên xưng tôn vinh Thiên Chúa: “Người này quả thật là công chính”. Và tất cả đám người đã tụ tập đông đảo xem thấy cảnh tượng ấy, đều đấm ngực trở về nhà (Lc. 23, 47-48).
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con nhận biết Chúa là vua sự thật để chỉ đường chân thật cho chúng con đi, là vua nhân ái, đến hy sinh hiến mạng sống cho chúng con được sống muôn đời.
Quan đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, chúng ta ghi nhận một cuộc hỏi cung kỳ lạ trong đó bị cáo lại đặt vấn đề với quan toà và hướng dẫn cả cuộc tranh luận về tước hiệu Vua dân Do Thái.
Thực vậy, Chúa Giêsu biết rằng chính dân Do Thái đã tố cáo Người xưng mình là vua. Nếu không có lời tố cáo này, Philatô chẳng bao giờ có ý bắt và kết án Người. Và bây giờ, nếu ông có quan tâm thì cũng chỉ vì khía cạnh chính trị của lời tố cáo này mà thôi, bởi vì ông đại diện cho hoàng đế Rôma, cai trị đất nước Do Thái.
Nhưng Chúa Giêsu nói tiếp với quan tổng trấn rằng: Nước Người không thuộc về thế gian này. Đối với người Do Thái cũng như đối với Philatô, danh từ vua chỉ có một ý nghĩa duy nhất là một lãnh tụ chính trị, có vương quốc, có thần dân với bộ máy cai trị và quân đội, để bảo vệ chủ quyền và an ninh cho đất nước. Nếu Chúa là vua theo nghĩa này thì hẳn thần dân của Người đã không để cho Người rơi vào tay họ. Chính họ cũng biết điều đó. Sau phép lạ bánh hoá nhiều, Người đã từ chối ý định của họ là muốn tôn Người làm vua.
Chúa là Vua, nhưng Người không cạnh tranh với hoàng đế Rôma vì nước Người không thuộc về thế gian này. Vương quốc của Người được thiết lập ngay trong lễ Vượt qua, khi Người phó mình chịu chết để vâng phục thánh ý Chúa Cha: Ngày nào Ta bị treo lên khỏi đất, ta sẽ kéo mọi sự đến cùng Ta. Đức Kitô thi hành vương quyền của mình bằng cách kéo loài người khỏi sự chết để dẫn đưa họ vào nhà Chúa Cha.
Điều nghịch lý là ở chỗ ngay trong cuộc khổ nạn, Đức Kitô mới xưng mình là vua và ngay khi bị treo trên thập giá Người mới chứng tỏ mình thật sự là vua. Trong suốt cuộc xét xử, Philatô đã tỏ ra là một quan toà nghiêng ngửa và yếu đuối. Ông ta biết Chúa Giêsu không có tội gì và muốn tìm cách tha Người, nhưng ông lại sợ áp lực của người Do Thái: Nếu quan tha nó thì quan không phải là bạn hữu của hoàng đế.
Thế thì nguy rồi, chức vụ của mình, gia sản của mình và ngay cả mạng sống của mình cũng có thể tiêu ma. Thôi mặc kệ cho sự thật, mặc kệ cho bị cáo phải tử hình. Ta lo cho ta trước đã. Đó là một con người không trung thực và hèn nhát. Dù biết Chúa Giêsu không có tội muốn làm loạn, muốn xưng vương, nhưng Philatô vẫn cứ treo bản án: Giêsu Nadarét, vua dân Do Thái.
Còn chúng ta thì sao? Chúng ta có dám đứng về phía của chân lý của sự thật hay không? Chúng ta có dám chấp nhận những hy sinh, những thiệt thòi để cho Nước Chúa được trị đến hay không?
(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)
Elvis Aron Presley (1935–1977) được gọi là Vua nhạc rock and roll, thường được tôn vinh Ông Vua nhạc rock, là một ca sĩ và diễn viên người Mỹ. Tạp chí Rolling Stone từng viết “Elvis chính là rock ‘n roll” và phần lớn tác phẩm của Elvis là hoàn hảo. Trong suốt sự nghiệp ca hát của mình kéo dài đến 2 thập kỷ, Elvis Presley đã lập và phá vỡ những kỷ lục về lượng khán giả đến xem trình diễn, cũng như lượng đĩa nhạc được tiêu thụ.
Là một trong những tên tuổi nổi tiếng của làng nhạc, Presley sống một cuộc đời xa hoa, phú quý. Nhưng hiếm ai biết, tuổi thơ của anh rất thiếu thốn. Cậu bé Elvis sinh ngày 8/1/1935 trong một mái lều xiêu vẹo ở Tupelo, Mississippi. Dù nghèo khó, thường phải ăn chỉ có độc bánh mì, nhưng bù lại, gia đình chăm sóc Elvis Presley khá quy củ và cẩn thận. Cho đến tận năm 15 tuổi, bà mẹ vẫn phải đưa cậu đến trường, để ngăn không cho lũ trẻ chọc ghẹo con bà. Đến sinh nhật 11 tuổi, Elvis lần đầu tiên được tiếp xúc với nhạc cụ, đó là một cây guitare. Ban đầu, cậu tỏ vẻ hơi hậm hực vì cậu thèm được có một chiếc xe đạp mới, hay một khẩu súng, nhưng dần già, Presley bị cây đàn cuốn hút đến quên cả ăn ngủ.
Chỉ vài năm sau, trên các sân khấu bắt đầu xuất hiện một anh chàng khá điển trai, biểu diễn hết mình, với những cú lắc hông dữ dội, đầy gợi cảm. Lần đầu tiên được các thiếu nữ ở dưới khán đài reo hò, la hét, Elvis đã băn khoăn hỏi ông bầu: “Liệu tôi có làm gì sai không mà bị mọi người la dữ như vậy?” để rồi nhận được câu trả lời: “Dù anh có làm gì đi nữa, thì tốt hơn cả là trở lại sân khấu ngay lập tức và tua lại màn trình diễn đó đi!” Đến năm 20 tuổi, Elvis kiếm được hợp đồng ghi âm đầu tiên, trị giá chỉ có 30.000 USD, nhưng một năm sau, anh đã làm cả thế giới phải ngỡ ngàng, khi giành liên tiếp ngôi vị quán quân ở các bảng xếp hạng và nhanh chóng trở thành triệu phú.Trong thời gian ở Đức, Elvis làm quen với cô nàng Priscilla Beaulieu và sau 8 năm tìm hiểu, họ quyết định đi đến hôn nhân. Lấy vợ, anh trở nên “ngoan ngoãn” hơn hẳn, và sau một lần tuyên truyền về tác hại của ma tuý, Elvis đã được Tổng thống Mỹ Nixon trao tặng huân chương đặc biệt. Tuy nhiên, đang trong thời kỳ đỉnh cao sự nghiệp thì Elvis bị bắt đi lính, và chàng thanh niên này đã tỏ ra mình là một kẻ văn võ song toàn. Không chỉ giành tiếng vang trong lĩnh vực nghệ thuật, anh còn được các đồng đội vị nể khi đoạt được đai đen Karatê.
Sau khi đi quân dịch, Presley lại trở về ánh đèn sân khấu. Năm 1973, show hoà nhạc đặc biệt Elvis: Aloha From Hawaii, được phát sóng trực tiếp trên 40 quốc gia, đã thu hút trên 1 tỷ người xem, thậm chí còn nhiều hơn cả chương trình cuộc thám hiểm đầu tiên lên mặt trăng. Nhưng sau sự kiện này, sức khoẻ của Elvis tụt dốc không phanh. Cuộc hôn nhân tan vỡ càng làm ông Vua nhạc rock and roll lún sâu vào vũng lầy đen tối. Gần như không đêm nào mà anh không phải dùng đến thuốc ngủ. Đến ngày 16/8/1977, ngôi sao sáng đã tắt hẳn trên bầu trời âm nhạc, để lại bao nỗi thương tiếc cho fan hâm mộ. (Wikipedia)
Hôm nay Giáo Hội long trọng mừng lễ Chúa Kitô Vua. Vị Minh Quân Giêsu vô cùng vĩ đại, cao sang và trường cửu, không ồn ào, hào nhoáng, phô trương, cũng chẳng phù phiếm như Vua Rock kia. Vì Người là Đức Vua Tình Yêu, Đức Vua Công Chính, Đức Vua Bình An. “Nhờ Người, vạn vật được tạo thành, và không có Người thì chẳng có gì được tạo thành. Điều đã được tạo thành ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại.” (Ga 1, 3 – 4)
“Ông có phải là vua dân Do Thái không?” Quan Tổng trấn Philatô mỉa mai hỏi Đức Giêsu. Người không nhận cũng chẳng chối, mà hỏi lại điều đó do ai nói ra, rồi giải thích cặn kẽ. “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thì những người của tôi đã chiến đấu để tôi không bị nộp cho người Do-thái, nhưng mà nước tôi không thuộc chốn này.” Nước Chúa thật kỳ lạ, hoàn toàn trái ngược với thế gian, nhưng vẫn hiện diện và tồn tại.
Đức Vua Tình Yêu
“Thiên Chúa là Tình Yêu.” Thánh Gioan đã long trọng khẳng định trong Thư thứ nhất. (1Ga 4, 16) Bởi vì “Thiên Chúa yêu thế gian đến ban Con Một mình, để ai tin vào Con thì không phải chết song được sự sống đời đời.” (Ga 3, 16) Đức Giêsu đã hoàn toàn vâng phục Thánh Ý Thiên Chúa, thể hiện công khai Tình Yêu qua cuộc đời rao giảng Tin Mừng. Vì yêu thương nhân loại, Người mặc lấy thân xác phàm nhân, nghèo khó, cơ hàn, tầm thường, để gần gũi, an ủi, vỗ về, dẫn dắt mọi người đến sự sống vĩnh cửu. Người chính là ánh sáng, soi chiếu vào chốn tăm tối, tội lỗi, để cứu thoát con người khỏi lầm lạc, chết chóc.”Ta là sự sáng đã đến thế gian, để bất cứ ai tin Ta, người ấy sẽ không ở trong sự tối tăm.” (Ga 12, 46)
Nhân ái, khiêm nhu, hiền hậu, khoan dung, tha thứ, Đức Vua Giêsu luôn mãi yêu thương mọi người, nhất là những ai lạc bầy, lẻ đàn, như người thu thuế, phụ nữ hư hỏng, những kẻ bệnh tật, nghèo khổ, bị xã hội loại trừ phân biệt…”Ta đã đến không phải để xét xử thế gian, nhưng là để cứu độ thế gian.” (Ga 12, 47)
Đức Vua Giêsu đã hiến tế chính thân mình để minh chứng cho Tình Yêu vô biên của Người với nhân loại. “Không tình yêu nào lớn hơn tình yêu của kẻ hy sinh mạng sống vì bạn hữu mình.” (Ga 15, 13).
Đức Vua Công Chính
“Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích làm chứng cho sự thật.” (Ga 18, 36-37) Đức Giêsu khéo léo xác nhận chức vụ cao cả, vĩ đại của Người, là làm chứng cho sự thật, cho sự công chính giữa thế gian, đang bị chìm đắm, mê muội trong sự giả dối, gian tà, lưu manh, háo danh, háo lợi. Người đem Tin Mừng đến hạ bệ, giải thoát, xua đuổi, những ngẫu tượng, những tà thần ra khỏi tâm hồn con người. “Thiên Chúa đã giải thoát chúng ta khỏi quyền lực tối tăm, và đưa vào vương quốc Thánh Tử chí ái.” (Cl 1, 13) Tiếc thay, không phải ai cũng sẵn sàng mở lòng đón nhận Đức Vua Công Chính.”Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận.”(Ga 1, 11)
Chỉ duy nhất Đức Vua Giêsu mới có thể dẫn dắt con người đến nguồn sống vĩnh cứu. Bởi vì Người chính là chánh đạo, là ánh sáng cứu độ: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Thầy.” (Ga 14, 6)
Đức Vua Bình An
“Tất cả hãy đến với Ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi. Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng, và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an. Vì ách của Ta thì êm ái và gánh của Ta thì nhẹ nhàng.” (Mt 11, 28 – 30) Trong một thế giới ồn ào, xô bồ, thực dụng, chụp giựt cơ hội làm giàu, tranh nhau chức quyền, con người điên đảo, quay cuồng, chạy theo gía trị vật chất, phàm tục, làm sao có bình an trong tâm hồn? Phước thay, Đức Giêsu đã kịp thời đem lại bình an cho nhân loại. “Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.” (Lc 2, 14)
Sự bình an đích thực không thể bỗng dưng mà có, nếu không nhờ Đức Vua Giêsu chịu hy sinh, hiến tế trên đồi Golgotha. “Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời.” (Cl 1, 20)
Đức Vua Bình An luôn thân thương mời gọi con người gia nhập vào Nước Chúa, sống theo đường lối của Người, theo chân lý của Người, tuân thủ theo Bát Phúc, thì mới được hưởng phúc an bình và niềm vui. “Nước Thiên Chúa là sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần.” (Rm 14, 17)
“Con nắm vững một đường lối tông đồ: “Thí mạng vì anh em.” Vì không có tình yêu nào lớn lao hơn. Con hao mòn từng giây phút và sẵn sàng tiêu hao, để chinh phục anh em về với Chúa.” (Đường Hy Vọng, số 981)
Lạy Chúa Giêsu, Vua trên hết các vua, nhưng không thống trị, mà yêu thương phục vụ, không chỉ thị ra lệnh, mà chỉ khuyên nhủ, ủi an, không gay gắt kết án, mà chỉ ra tay cứu giúp, không trừ khử, mà luôn đi tìm kẻ lạc đường trở về. Xin Người dạy cho chúng con sống trung thành với Tin Mừng, để xứng đáng làm công dân Nước Trời.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa mà vô cùng khiêm hạ, hiền hậu, từ bi, nhân ái, xin Mẹ giúp chúng con cải tà quy chánh, một lòng một dạ tuân giữ Hiến Chương Nước Trời, để được Đức Vua Giêsu thương yêu mãi. Amen.
(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)
Nhu cầu quan trọng nhất của một quân vương là quyền lực. Vị quân vương phải theo các quy tắc thực tế để nắm giữ quyền lực này. Có hai cách duy trì quyền lực: luật pháp và sức mạnh. Cách thứ nhất thì tốt nhưng luôn luôn không đủ. Vị quân vương giỏi phải dùng cách thứ hai, cách của sức mạnh.
Quân vương phải biết học hỏi từ bản tính của dã thú, biết kết hợp sức mạnh của sư tử với sự tinh ranh của cáo. Sư tử không thể tự bảo vệ mình tránh các cạm bẫy, còn cáo thì lại không thể chống lại sói. Vì thế, cần phải là cáo để nhận ra những cạm bẫy và là sư tử để doạ sói.
Quân vương không cần giữ lời hứa, nếu có điều gì chạm vào quyền lợi của ông ta. Phần lớn con người thì bất lương, vô ơn, lường gạt, nói dối, sợ nguy hiểm và tham lợi, cho nên tại sao vị quân vương phải lương thiện với họ.
Một quân vương nên để cho người dân yêu mến hay sợ hãi? Có thể ông ta cần cả hai. Nhưng nếu phải chọn một trong hai, thì an toàn hơn là để cho người dân khiếp sợ. Tuy nhiên tôi cho rằng vị quân vương nên làm ra vẻ bác ái và trọng danh dự, vì dù sao phần lớn con người thường bị lường gạt bởi sự phô trương, và tôi đồng ý rằng một quân vương không kiểm soát được mình thì giống như một kẻ điên, và không còn điều nghi ngờ về một chính quyền được điều hành bằng luật pháp.(Niccolò Machiavelli, Le Prince)
Bài Tin Mừng hôm nay cũng đề cập đến vương quyền. Quan Philatô hỏi Chúa Giêsu: ”Ông có phải là vua dân Do Thái không?” Thay vì trả lời, Chúa Giêsu lại đáp lại bằng một câu hỏi: “Ngài tự ý nói điều ấy, hay những người khác đã nói về tôi?” Quan Philatô phủ nhận mình không là dân Do Thái, rồi lại hỏi câu khác: “Ông đã lảm gì?”Chúa Giêsu không trả lời câu hỏi này, mà khẳng định môt điều hoàn toàn xa lạ với câu nghi vấn nêu ra. Quan Philatô trở lại câu hỏi ban đầu: “Vậy ông là vua sao?” Chúa Giêsu lại khéo léo tránh né: “Chính ngài nói rằng tôi là vua.” Lần thứ hai Người tế nhị từ chối vương quyền trần thế.
Quân Vương
Quan Philatô đã cố ý gài bẫy Chúa Giêsu nhìn nhận vương quyền, nhằm hai mục đích, trước là ghép tội mưu phản, sau là bêu riếu, sỉ nhục Chúa Giêsu. Nhưng Người đã khôn ngoan đối đáp, lấy lại thế chủ động, cật vấn trở lại, khiến quan Philatô lúng túng, phải thanh minh, kẻo bị liên lụy, mang tiếng là a dua với dân Do Thái, cố tình phong vương cho Chúa Giêsu, có thể bị mang tội phản quốc, khiến ông phải vội đính chính ngay:”Tôi là người Do Thái sao? Chính dân của ông và các thượng tế đã nộp ông cho tôi.”
Nếu muốn làm vua, Chúa Giêsu đã có nhiều cơ hội được lên ngôi nhờ chính quần chúng tôn phong, như sau khi hai lần hóa bánh nuôi hàng ngàn người, như khi được chào đón trọng thể vào Đền Thánh Giêrusalem…Nếu thành quân vương, thì làm sao thoát được thói bá đạo để củng cố quyền lực, như Niccolo Machiavelli đã trình bày trong tác phẩm Quân Vương.
Nhân cơ hội thẩm vấn công khai, trước chính quyền đô hộ, Chúa Giêsu loan báo rộng rãi về Vương Quốc của Người, hoàn toàn thoát tục: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu, không để tôi bị nộp cho người Do Thái.”
Thiên Vương
Chúa Giêsu nhấn mạnh thêm một lần nữa: “Nhưng thật ra nước tôi không thuộc chốn này.” Như thế, Người muốn nói đến Nước Trời, Thiên Quốc, niềm hy vọng và cứu cánh của con người. Bởi vậy, Người khẳng định vai trò và nhiệm vụ khi đến thế gian: “Tôi đã sinh ra và đến thế gian nhằm mục đích này: Làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi.” (Ga 18, 37).
Vương quyền của Chúa Giêsu đặt trên nền tảng sự thật, yêu thương và phục vụ, chứ không phải lừa dối, mỵ dân, thù hận và áp bức như quân vương thế gian. Người còn làm gương, sống đúng theo lề luật Nước Trời, khiêm hạ, nhịn nhục, chịu khinh rẻ, phỉ báng, chịu cáo gian, vu khống, mà vẫn yêu thương và phục vụ cho đến hơi thở cuối cùng. Còn thần dân trung tín của Người là những người nghe theo và thực thi Lời Người dạy.
Tuy nhiên, con người thường vẫn hay tôn thờ đồng tiền như là vua của mình. Tiền như tiên, như Phật, là sức bật của tuổi trẻ, là sức khỏe của tuổi già…Hoặc công danh là tiên đế, thái thượng hoàng. Hoặc hưởng thụ, xác thịt, xa hoa là quân vương. Chạy theo “đồ giả,” “hàng giả” bóng bẩy, hào nhoáng, màu mè, hấp dẫn, mà bỏ qua “đồ thật”, “hàng thật” chân chất, tốt gỗ hơn tốt nước sơn. Mải mê chạy theo các thờ lạy các hôn quân hỗn tạp, vô tình xa lánh Minh Quân duy nhất. Tuy nhiên, Đấng Thiên Vương cứ vẫn nhẫn nại, chờ đợi các con dê ham vui, sớm sám hối, ăn năn, trở thành chiên ngoan, sớm nhận ra vị Vua đang yêu thương mình quá bội.
Đấng Thiên Vương Giêsu lấy thịnh tình đối xử với con dân. Luôn săn sóc, luôn nâng đỡ, luôn an ủi và mời gọi những kẻ khốn cùng, những con chiên lạc, những đứa con hoang đàng, tả tơi, kiệt lực, kiệt sức, sám hối trở về. Vì Tình Yệu vô bờ bến, Thiên Vương Giêsu đã phải hạ mình, chịu khổ hình và chịu chết, đền thay nguyện giúp cho mọi tâm hồn tội lỗi, hầu cứu rỗi thoát khỏi án phạt muôn đời.
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy luôn làm Vua tâm trí và cõi lòng của con, để con có thể thuộc về Người từng giây phút trong cuộc đời.
Lạy Mẹ Maria, xin giúp con luôn biết sống xứng đáng là con dân của Vua Kitô, Đấng hằng chăm sóc và ban muôn hồng ân, để con được sống muôn đời trên Nước Trời. Amen.
Trong lịch sử nhân loại, không thiếu gì những ông vua bị đem ra xét xử và bị đem ra hành quyết. Nhưng khi một ông vua bị đem đi hành quyết thì ông ta đã bị truất quyền hay bị cướp quyền. Đối với những kẻ hành quyết hay lên án ông, thì ông không còn được nhìn nhận là vua nữa. Đó là trường hợp vua Louis 16 của nước Pháp chẳng hạn. Vì thế, người ta không bao giờ nói xử tử vua Louis 16 mà xử tử một người với cái tên thật của người ấy chứ không phải là tên hiệu.
Trường hợp Chúa Giêsu thì khác hẳn. Trước khi bị điệu ra trước tòa án Philatô, Ngài chưa bao giờ thực sự là vua, theo kiểu các vua chúa trần gian, tuy rằng Ngài đã có cơ hội lên ngôi nếu như Ngài muốn. Trái lại chỉ khi bị bắt và bị giải ra trước tòa tổng trấn Philatô, Ngài mới dõng dạc tuyên bố công khai: Phải, tôi là vua, tôi đã sinh ra và đã đến thế gian là để làm chứng cho sự thật.
Thực ra thì Chúa Giêsu không bao giờ trực tiếp khẳng định Ngài là vua, nhưng Ngài nói với Philatô: Nước tôi không thuộc về thế gian này, nếu nước tôi thuộc về thế gian này thì người của tôi đã chiến đấu để tôi không bị nộp cho người Do Thái, nhưng quả thật, nước tôi không thuộc về thế gian này.
Câu trả lời muốn nói lên rằng Chúa Giêsu có một vương quốc, thế nhưng vương quốc đó ở đâu? Ở trên trời hay ở một hành tinh nào khác? Hay là vương quốc ấy chỉ có ở đời sau? Chúa Giêsu không bảo rằng: Nước tôi không ở thế gian này, mà Ngài nói: Nước tôi không thuộc về thế gian này.
Cũng như các môn đệ tuy ở giữa thế gian mà không thuộc về thế gian, chúng ta có thể nói: Nước Thiên Chúa ở ngay giữa thế gian này, nhưng lại không thuộc về thế gian này. Bởi vì như thánh Phaolô cũng đã xác quyết: Nước Thiên Chúa không phải là chuyện ăn uống, nhưng là công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần.
Điều ấy có nghĩa Nước Thiên Chúa là một thực tại tâm linh đã bắt đầu hình thành ngay giữa lòng thế giới hiện đại, nhưng không thuộc về trật tự hay những lãnh vực trần gian, do đó người ta không thể nói rằng: Nước Thiên Chúa đây này hoặc kia kìa, mặc dầu nước ấy đang thực sự ở giữa chúng ta.
Vương quốc của Chúa Giêsu không phải là một lãnh thổ, mà trước hết là cộng đoàn những con người tin theo Chúa và sống tinh thần bác ái yêu thương đối với mọi người. Bởi đó, những ai sống theo chân lý của tình thương, nghĩa là xác tín rằng chỉ có tình thương mới thực sự đem lại công lý hòa bình và hoan lạc cho loài người. Một khi xác tín như vậy, chúng ta sẽ đem hết tài năng, sức lực và thời giờ vào công trình xây dựng một cộng đồng huynh đệ bác ái: tất cả những người ấy sẽ tạo nên nước Đức Kitô ngay hôm nay, ở trong thế giới này.
Thế nhưng, không một công trình xây dựng nào mà lại không đòi hỏi mồ hôi nước mắt và đôi khi cả xương máu nữa. Bởi vì để hạt giống có thể trở thành cây lúa đâm bông kết trái, thì hạt giống đó phải chết đi, đó chính là lý do khiến Đức Kitô đã lấy chính thân mình làm nền tảng, làm nguyên lý hay làm mầm phát sinh vương quốc Ngài muốn thiết lập. Bởi thế, cây thập giá chính là ngai Ngài đã chọn để lên ngôi, mạo gai là vương miện Ngài chọn cho lễ đăng quang và trái tim Ngài bị đâm thâu và mở rộng là biểu tượng của vương quốc mở ra cho mọi người.
15. Đức Giêsu Kitô, vua vũ trụ
(Trích trong “Như Thầy Đã Yêu” của Thiên Phúc)
Đại Hội Trẻ Thế giới tại Pháp, hàng trăm ngàn thanh niên nô nức, tiến về thủ đô Paris dự đại hội để gặp gỡ, lắng nghe, và hiệp thông với Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, đấng thay mặt Đức Kitô ở trần gian.
Hệ thống xe điện ngầm Métro nổi tiếng của Paris dường như lúc nào cũng chật ních người. Hôm ấy, một cụ già ăn xin mù loà cũng cố chen lên một toa xe nhờ chú chó dẫn đường. Cụ vừa đi, vừa chìa cái đĩa nhôm để kêu gọi lòng hảo tâm của giới trẻ. Tuy ồn ào nhưng người ta cũng nghe được những tiếng kêu loảng xoảng của những đồng cắc rơi vào đĩa. Đi ngược chiều với cụ, một cô bé xanh xao gầy còm cũng ngửa nón xin mọi người giúp đỡ. Khi hai người bất hạnh gặp nhau, cô bé tránh qua một bên cho người hành khất mù loà tiến bước. Và đầy kinh ngạc, các bạn trẻ không thể tin vào mắt mình, cô bé đã dốc hết số tiền kiếm được của mình đổ tất cả vào cái đĩa nhôm kia.
***
Mừng lễ Đức Giêsu Kitô, Vua vũ trụ, chúng ta được mời gọi nhìn ngắm thế giới: gồm 6 tỷ người đang sống trên đó. Với bao cảnh thất nghiệp, nghèo đói, lạc hậu, bất công. Với bao tệ nạn tham nhũng, ma tuý, mafia, sida. Với bao nhiêu thiên tai lũ lụt, động đất, cháy rừng… Thế lực của sự dữ và tội lỗi đang tung hoành khắp nơi.
Mừng lễ Đức Giêsu Kitô, Vua vũ trụ, chúng ta được mời gọi nhìn lên Vua của chúng ta. Một vị vua không ngồi trên ngai vàng, nhưng treo trên thập giá. Một vị vua không cai trị bằng quyền uy vũ lực, nhưng dựa trên tình yêu thương. Một vị vua không có lãnh thổ trên bản đồ thế giới, nhưng nằm sâu trong trái tim mọi người.
Vương quốc của Vua Giêsu là vương quốc của Sự thật: “Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi” (Ga.18,37). Sống theo sự thật chẳng dễ dàng chút nào, vì người thành thật thường thua thiệt, và kẻ dối trá lại được coi là khôn ngoan. Nhưng chỉ có những ai dám nói sự thật, chấp nhận sự thật, và sống theo sự thật mới được sống trong vương quốc của Người.
Vương quốc của Vua Giêsu còn là vương quốc của Tình yêu: “Con người không đến để được phục vụ, nhưng để phục vụ hiến mạng sống cho nhiều người” (Mc.10,45). Yêu mình, yêu thân nhân bạn bè thì dễ dàng; yêu người xa lạ, yêu kẻ thù, mới thật là khó. Nhưng Chúa chính là vua Tình yêu, nên chỉ những ai sống yêu thương mới đích thực là thần dân của Người.
Cô bé ăn xin trên xe điện ngầm trong câu chuyện trên đây, đã biết cho đi tất cả những gì mình có, những gì cần thiết nhất để sống mà không tính toán so đo. Đó mới thật là công dân của Nước Trời, là thần dân đích thực của Giêsu, Vua Tình yêu.
Đối với người tín hữu, công dân tương lai của Nước Trời, thì yêu thương là lẽ sống của mọi cá nhân, gia đình, và cộng đoàn. Dường như sống yêu thương sẽ thấy đời đơn giản, cuộc sống nhẹ nhàng thênh thang. “Đâu có tình yêu thương ở đấy có Đức Chúa Trời”. Có Chúa trong tâm hồn họ luôn cảm thấy bình an, hạnh phúc. Còn mọi thứ khác chỉ là kiểu cách, rườm rà, câu nệ, phô trương, là thanh la, não bạt, là tiếng muỗi vo ve.
***
Lạy Chúa, chúng con là đôi tay và đôi chân của Chúa, là miệng lưỡi và trái tim yêu thương của Người.
Xin cho chúng con biết cộng tác với Chúa, xây dựng một thế giới yêu thương và chân thật, vui tươi và hạnh phúc, để ngày Chúa đến trong vinh quang là một ngày vui trọn vẹn, một ngày hội lớn cho toàn thể nhân loại. Amen.
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
Chủ Đề: Đức Giêsu là vua
- Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Hôm nay là Chúa nhựt cuối cùng của năm phụng vụ. Lời Chúa vạch cho chúng ta thấy lúc tận cùng của thời gian Đức Giêsu sẽ làm vua ngự trị trên toàn thể mọi sự và mọi người. Nhưng từ nay cho đến lúc đó, Chúa vẫn làm vua trong lòng những người tin cậy và yêu mến Ngài.
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy cầu xin Chúa giúp chúng ta nhận thức vị trí và vai trò làm vua của Chúa trên cuộc đời chúng ta, đồng thời xin Chúa cũng giúp chúng ta phụng thờ Ngài cho xứng đáng.
- Gợi ý sám hối
- Chúng ta đã tôn thờ những “vua” khác không phải là Chúa, như tiền bạc, danh vọng, lạc thú v.v.
- Chúng ta không sống theo sự dẫn dắt của Chúa.
- Chúng ta không sống theo luật của Nước Chúa là luật yêu thương.
III. Lời Chúa
- Bài đọc I (Đn 7,13-14)
Trong sách Đaniên, có một nhân vật rất đặc biệt được gọi là Con Người. Con Người đã phải chịu rất nhiều đau khổ. Tuy nhiên trong thị kiến của đoạn này, Đaniên thấy Đấng Lão Thành (tức Thiên Chúa) trao cho Con Người quyền thống trị tất cả loài người.
Nhân vật Con Người ấy chính là hình ảnh tiên báo Đấng Messia. Và Đức Giêsu chính là Đấng Messia hoàn thành lời tiên tri ấy.
- Đáp ca (Tv 92)
Thánh vịnh này thuộc loại Thánh vịnh vương giả: ca tụng Thiên Chúa là vua. Ngai vàng Người kiên cố tự ngàn xưa và triều đại Người tồn tại mãi qua muôn thế hệ.
- Tin Mừng (Ga 18,33b-37)
Đoạn Tin Mừng này là một phần cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu và Philatô. Philatô hỏi “Vậy ông là vua ư?”. Đức Giêsu vừa đáp vừa giải thích:
- “Quan nói đúng, tôi là vua.”
- “Nhưng nước tôi không thuộc thế gian này.”: Nước của Chúa không giống nước trần gian.
- “Tôi sinh ra và đến trong thế gian này chỉ để làm chứng về Chân lý”: Chúa làm vua cũng không giống cách làm vua của trần gian. Ngài làm vua để phục vụ chân lý.
- “Ai thuộc về chân lý thì nghe tiếng tôi”: Công dân của Nước Chúa là những kẻ yêu chuộng chân lý.
- Bài đọc II (Kn 1,5-8)
Đoạn sách Khải huyền này cũng mô tả Đức Giêsu là Vua: (1) Vì yêu thương chúng ta, Ngài đã lấy máu mình rửa sạch mọi tội lỗi của chúng ta; (2) Sau khi chịu nạn chịu chết, Ngài được tôn lên làm Vua mọi loài; (3) Ngài làm cho chúng ta trở thành vương quốc của Ngài.
- Gợi ý giảng
* 1. Đức Kitô là Vua
Một triết gia đã đưa ra một nhận định rất bi quan: “Homo homini lupus”: con người là lang sói của con người. Lang sói là một loài thu dữ, bản tính thích tấn công, cắn xé và giết chóc. Thế mà loài người lại giống với loài thú dữ đó, luôn luôn tấn công nhau, cấu xé và giết chóc nhau.
Bởi vậy một sử gia đã đưa ra một kết luận tương tự với nhận định bi quan của triết gia trên: lịch sử loài người là một chuỗi những cuộc chiến tranh liên tiếp nhau. Từ khi có loài người trên mặt đất này cho đến nay, có mấy khi mà loài người được hưởng thái bình? Hầu hết thời gian lịch sử của loài người đều là chiến tranh. Gần đây nhất là 2 cuộc thế giới đại chiến, cuộc thứ nhất kéo dài từ năm 1914 đến 1918, làm cho 8.700.000 người chết; cuộc thứ hai từ năm 1939 đến năm 1945, giết chết thêm 40 triệu sinh mạng nữa. Và hiện nay cả loài người đều phập phòng lo sợ sẽ xảy ra một cuộc đại chiến lần thứ 3 với những vũ khí hạt nhân. Lần này không phải chỉ có 8.700.000 người chết, hay 40 triệu người chết mà là tất cả mọi người, trái đất sẽ nổ tung, toàn thể loài người sẽ bị tiêu diệt.
Tại sao loài người chúng ta, một loài người có trí khôn, biết suy nghĩ, một loài cao hơn tất cả mọi loài vật khác mà lại cư xử với nhau một cách ngu xuẩn như vậy? Tôi nghĩ rằng trong con người chúng ta vừa có tính thú vừa có tính người: tính thú thì giống như loài lang sói hung dữ cấu xé lẫn nhau, còn tính người là có trí khôn biết suy nghĩ biết tính toán. Khi buông trôi theo tính thú thì loài người chiến tranh với nhau; và nếu con người lại dùng cái trí khôn ngoan của tính người để phục vụ cho cái tính thú kia thì con người lại càng dã man hung dữ làm hại nhau còn hơn loài sang sói đích thực nữa. Điều đáng tiếc là trong hầu hết lịch sự quá khứ, con người đã buông theo cái tính thú đó. Vì thế mà lịch sử loài người đã là lịch sử của một chuỗi những cuộc chiến tranh liên tiếp nhau.
Cho nên trong bối cảnh giữa 2 cuộc chiến tranh thế giới làm chết hàng mấy chục triệu sinh mạng con người như thế, ngày 11.12.1925, Đức Giáo Hoàng Piô XI đã thiết lập Lễ Chúa Kitô Vua, mục đích là để cầu nguyện cho loài người thôi đừng buông theo tính thú mà cấu xé lẫn nhau, các nước đừng nuôi mộng bá chủ hoàn cầu mà chinh chiến với nhau; nhưng mọi người hãy suy phục vương quyền Chúa Kitô và xây dựng vương quốc của Ngài, ĐGH coi đó là chấm dứt chiến tranh
Vương quyền của Chúa Kitô không xây dựng trên sức mạnh, không củng cố bằng bạo lực theo kiểu các nước trần gian. Bởi thế Chúa Giêsu đã nói: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thì thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị bắt như thế này”. Nói cách khác, Chúa Giêsu không thích chiến tranh, không muốn có phe phái, phe này chiến đấu chống lại phe kia. Vương quyền của Chúa xây dựng trên sự thật, như Lời Chúa nói “Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là để làm chứng cho sự thật”. Nhưng sự thật là gì? Là cái làm cho con người đúng là con người chứ không phải là lang sói. Con người phải phát huy cái tính người của mình và đồng thời dần dần loại bỏ đi cái tính thú trong mình. Con người cố gắng sống cho ra người, mọi người biết tôn trọng nhân phẩm nhân quyền của nhau, mọi người nhắc nhở nhau và giúp nhau làm những việc tốt mà lương tâm chân chính của con người dạy phải làm. Người nào sống như vậy thì là người sống trong vương quốc của Chúa; người nào, cố gắng làm cho nhiều người khác cũng sống như vậy thì là đang xây dựng vương quốc của Chúa.
Nhưng xin được nói thêm cho rõ kẻo có người hiểu lầm: để làm công dân của Nước Chúa, điều cốt yếu là cố gắng theo Lời Chúa dạy để sống cho đúng là một con người, sống theo tính người chứ không phải theo tính thú. Do đó, xây dựng Nước Chúa, hay mở mang Nước Chúa cũng là cố gắng làm cho có thêm nhiều người biết theo Lời Chúa dạy mà sống theo tính người như vậy. Không nhất thiết người ta phải rửa tội, phải theo đạo, phải gia nhập Giáo Hội. Điều cốt yếu là người ta phải theo những giá trị mà Tin Mừng Chúa đã đề ra: sống theo lương tâm ngay chính, sống hoà thuận, thương yêu, làm những việc lành… Càng có thêm nhiều người sống như thế thì Nước Chúa càng mở rộng; và khi nào tất cả loài người biết sống như thế thì là lúc Nước Chúa đã trị đến. Và khi đó là thời thái bình, hạnh phúc.
Sở dĩ loài người cứ luôn làm hại làm khổ lẫn nhau là vì loài người còn sống theo cái tính thú trong mình. Vậy nếu muốn cho loài người hoà thuận với nhau để cùng nhau chung hưởng thái bình thì loài người phải sống theo cái tính người, gồm có những đức tính mà Chúa đã dạy chúng ta trong Tin Mừng. Con người sống đúng là con người. Đức Giêsu gọi đó là Sự Thật; còn ngôn ngữ phụng vụ hôm nay thì gọi đó là vương quyền, vương quốc của Chúa Kitô. Nước Chúa. Ai sống theo những giá trị Tin Mừng để thành người hơn thì người đó thuộc về Nước Chúa; ai giúp cho người khác sống theo những giá trị Tin Mừng ấy thì người đó đang mở mang Nước Chúa; và khi mọi người, dù có đạo hay không có đạo, đều sống theo những giá trị Tin Mừng ấy, thì đó là thời Nước Chúa đã trị đến.
Hôm nay là Chúa nhật cuối cùng của năm phụng vụ. Tuần sau là Mùa Vọng, bắt đầu một năm Phụng vụ khác rồi. Giáo hội đặt lễ Chúa Kitô Vua vào Chúa Nhật cuối cùng này, cũng có ý nghĩa: đó là ước nguyện sao cho cuối cùng tất cả mọi người đều ở trong Nước Chúa, một nước chỉ có hoà thuận yêu thương, một nước thái bình hạnh phúc.
Phần mỗi người chúng ta, hãy cố gắng xứng đáng là một công dân Nước Chúa, nghĩa là biết sống đúng tính người, sống theo lương tâm, sống hoà thuận, yêu thương, làm việc lành theo lời dạy của Tin Mừng. Chúng ta cũng hãy cố gắng mở mang Nước Chúa bằng cách làm cho thêm nhiều người khác cũng biết sống hoà thuận yêu thương sống theo lương tâm và làm việc lành như vậy.
* 2. Một tước hiệu không xứng hợp
Trong số những tước hiệu mà ta có thể gọi Đức Giêsu, có lẽ tước hiệu “vua” là không xứng hợp nhất. Khi nói tới “vua” là ta nghĩ đến ngai vàng, vương miện, hoàng cung, quyền lực, kẻ hầu người hạ, quan quân, vũ khí v.v. Thế mà khi nhìn vào Đức Giêsu ta chẳng thấy có gì cả. Ngược lại, ta chỉ thấy Ngài lang thang trên những nẻo đường bụi bậm xứ Palestine, với một nhúm môn đệ ít ỏi, vây quanh là những người nghèo nàn, tật bệnh, tội lỗi và những người bị xã hội loại trừ.
Tuy nhiên, nhìn trên bình diện siêu nhiên thì Đức Giêsu đúng thật là vua. Ngài là vua và là Vua trên tất cả các vua, bởi vì Ngài là Thiên Chúa, Đấng thống trị vũ trụ. Ngay cả trên bình diện tự nhiên, Đức Giêsu cũng xứng đáng là Vua, Vua của mọi người: Ngài là con người tuyệt vời nhất với đầy đủ những đức tính hoàn hảo nhất. Ngài đến với ai là vận mạng của người đó được thay đổi thành tốt hơn. Có những người tưởng rằng mình là người lớn bằng cách khiến cho mọi người cảm thấy nhỏ trước mặt mình. Nhưng người lớn đích thực là người làm cho ai nấy đều cảm thấy lớn lên. Theo nghĩa này, Đức Giêsu đích thực là Vua.
Chúng ta nên phân biệt quyền lực và ảnh hưởng. Philatô có quyền lực trên dân, nhưng kẻ có ảnh hưởng trên dân chính là Đức Giêsu. Ảnh hưởng của Ngài đem lại cho con người ơn tha thứ, sự phục hồi nhân phẩm, bình an, yêu thương, hạnh phúc. (Viết theo Flor McCarthy)
* 3. Đức Giêsu Kitô, vua vũ trụ
Đại Hội Trẻ Thế giới tại Pháp, hàng trăm ngàn thanh niên nô nức, tiến về thủ đô Paris dự đại hội để gặp gỡ, lắng nghe, và hiệp thông với Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, đấng thay mặt Đức Kitô ở trần gian.
Hệ thống xe điện ngầm Métro nổi tiếng của Paris dường như lúc nào cũng chật ních người. Hôm ấy, một cụ già ăn xin mù loà cũng cố chen lên một toa xe nhờ chú chó dẫn đường. Cụ vừa đi, vừa chìa cái đĩa nhôm để kêu gọi lòng hảo tâm của giới trẻ. Tuy ồn ào nhưng người ta cũng nghe được những tiếng kêu loảng xoảng của những đồng cắc rơi vào đĩa. Đi ngược chiều với cụ, một cô bé xanh xao gầy còm cũng ngửa nón xin mọi người giúp đỡ. Khi hai người bất hạnh gặp nhau, cô bé tránh qua một bên cho người hành khất mù loà tiến bước. Và đầy kinh ngạc, các bạn trẻ không thể tin vào mắt mình, cô bé đã dốc hết số tiền kiếm được của mình đổ tất cả vào cái đĩa nhôm kia.
***
Mừng lễ Đức Giêsu Kitô, Vua vũ trụ, chúng ta được mời gọi nhìn ngắm thế giới: gồm 6 tỷ người đang sống trên đó. Với bao cảnh thất nghiệp, nghèo đói, lạc hậu, bất công. Với bao tệ nạn tham nhũng, ma tuý, mafia, sida. Với bao nhiêu thiên tai lũ lụt, động đất, cháy rừng… Thế lực của sự dữ và tội lỗi đang tung hoành khắp nơi.
Mừng lễ Đức Giêsu Kitô, Vua vũ trụ, chúng ta được mời gọi nhìn lên Vua của chúng ta. Một vị vua không ngồi trên ngai vàng, nhưng treo trên thập giá. Một vị vua không cai trị bằng quyền uy vũ lực, nhưng dựa trên tình yêu thương. Một vị vua không có lãnh thổ trên bản đồ thế giới, nhưng nằm sâu trong trái tim mọi người.
- Vương quốc của Vua Giêsu là vương quốc của Sự thật: “Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi” (Ga.18,37). Sống theo sự thật chẳng dễ dàng chút nào, vì người thành thật thường thua thiệt, và kẻ dối trá lại được coi là khôn ngoan. Nhưng chỉ có những ai dám nói sự thật, chấp nhận sự thật, và sống theo sự thật mới được sống trong vương quốc của Người.
- Vương quốc của Vua Giêsu còn là vương quốc của Tình yêu: “Con người không đến để được phục vụ, nhưng để phục vụ hiến mạng sống cho nhiều người” (Mc.10,45). Yêu mình, yêu thân nhân bạn bè thì dễ dàng; yêu người xa lạ, yêu kẻ thù, mới thật là khó. Nhưng Chúa chính là vua Tình yêu, nên chỉ những ai sống yêu thương mới đích thực là thần dân của Người.
Cô bé ăn xin trên xe điện ngầm trong câu chuyện trên đây, đã biết cho đi tất cả những gì mình có, những gì cần thiết nhất để sống mà không tính toán so đo. Đó mới thật là công dân của Nước Trời, là thần dân đích thực của Giêsu, Vua Tình yêu.
Đối với người tín hữu, công dân tương lai của Nước Trời, thì yêu thương là lẽ sống của mọi cá nhân, gia đình, và cộng đoàn. Dường như sống yêu thương sẽ thấy đời đơn giản, cuộc sống nhẹ nhàng thênh thang. “Đâu có tình yêu thương ở đấy có Đức Chúa Trời”. Có Chúa trong tâm hồn họ luôn cảm thấy bình an, hạnh phúc. Còn mọi thứ khác chỉ là kiểu cách, rườm rà, câu nệ, phô trương, là thanh la, não bạt, là tiếng muỗi vo ve.
***
Lạy Chúa, chúng con là đôi tay và đôi chân của Chúa, là miệng lưỡi và trái tim yêu thương của Người. Xin cho chúng con biết cộng tác với Chúa, xây dựng một thế giới yêu thương và chân thật, vui tươi và hạnh phúc, để ngày Chúa đến trong vinh quang là một ngày vui trọn vẹn, một ngày hội lớn cho toàn thể nhân loại. Amen. (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)
* 4. Vua tình yêu
Dầu cha mẹ có bỏ con đi nữa…
Lê Quang Độ (Ricardo Conelo) từ nhỏ vẫn được ba má yêu quí, đến trường tỏ ra là người học trò xuất sắc. Nhưng bầu khí nơi trường học không được lành mạnh. Ở tuổi lên 10, em Độ đã ghiền xì ke. Em nhớ không có lý do gì để ghiền cả ngoài tính tò mò. Khởi sự em hút cần sa. Kế đến em nhập băng nhóm đi cướp giật. Lên 12 tuổi Độ đã được cảnh sát thành phố Sao Paolo của nước Braxin biết đến. Bố em tưởng có thể nhốt em trong phòng nhưng vô ích vì Độ luôn tìm ra cách thoát khỏi bàn tay của bố, với những gì có thể ăn cắp được nơi gia đình để tiếp tục hút. Chưa thất vọng, bố em dời gia đình đi nơi khác, nhưng Độ vẫn tìm cách nhập vào một băng nhóm ghiền Cocaine và những thứ nặng hơn nữa. Bố em hết chịu nỗi đành phải đuổi em đi để cứu nguy cho gia đình. Không chỗ tựa, Độ càng sa lầy. Nhưng nếu người thiếu niên đáng thương này có cơ may làm lại cuộc đời thì nhờ sức mạnh nào? Ai là người cuối cùng sẽ hoán cải được em để em nên người hữu ích cho xã hội? Bị đuổi khỏi gia đình, Độ trở nên mồi ngon cho tổ chức buôn ma tuý bất hợp pháp trong vùng. Tối đầu tiên đến với nhóm, Độ được mời tới dự bữa ăn, trong đó kẻ tố cáo bạn với cảnh sát đã bị bắn ngay nơi bàn ăn khiến Độ cũng bị bắn lây vào cẳng. Chàng liền chạy vào bệnh viện. Tưởng thoát khỏi sự truy lùng nhưng cảnh sát đã xuất hiện ngay bên giường. Họ chuyển Độ sang nhà tù dành cho thanh thiếu niên. Chính ở đây Độ may mắn nhận sự giúp đỡ của Trung Tâm Hy Vọng, là tổ chức thiện nguyện giúp phục hồi niềm hy vọng nơi người ghiền ma tuý. Sau này Độ mới biết đó là tổ chức do linh mục Hoàng Tâm Phú (Haus Stapelp) là thân hữu của phong trào Focolare điều khiển. Độ được an ủi nhiều do bầu khí đón tiếp nồng hậu của Trung Tâm ngay tối hôm đầu tiên đến đó. Độ sống chung với mười hai người trẻ khác, mà Độ là người trẻ nhất, nhưng lại là kẻ cứng đầu nhất, luôn gây chuyện và chơi khăm người khác, luôn hành động thiếu đắn đo.
Hãy còn có Chúa đón nhận con
Ba tháng sau người ta phải đưa Độ tới trung tâm dành cho thanh thiếu niên ghiền nặng hơn. Chính ở đây Độ khám phá những điều cơ bản nhất về bản thân. Lần đầu tiên Độ thốt lên lời than thở với Đấng em gọi là Thiên Chúa nhưng thực ra chưa bao giờ em được học biết Ngài. Cha mẹ em chỉ là người Công Giáo theo danh xưng mà thôi vì chưa bao giờ họ đi nhà thờ. Vậy em đã xin Chúa cho em cơ hội để bỏ hút xì ke, đổi mới cuộc đời và nên giống những người trẻ mà Độ biết là đã thành công theo lý tưởng sống vì người khác.
Quả thật, em đã được ban cho cơ hội giúp người khác là Lâm Đình Ái (Claudio). Đó là một bạn trẻ mắc bệnh AIDS ngủ cùng phòng với Độ. Bệnh nhân chỉ còn chờ chết, không thể tự mình lo lấy mình nữa. Ngày kia Độ đã xin Chúa để được thấy dung mạo Chúa nơi dung mạo bệnh nhân trẻ này. Thế rồi em được giao việc tắm rửa, cạo râu và giúp người bệnh này ăn uống. Điều em không thể cắt nghĩa được là em nghiệm thấy sự sống mới đang lớn lên nơi tâm hồn em nhờ mối tương quan sống động giữa em và Thiên Chúa. Từ từ em khám phá ra nơi bản thân một tấm lòng quảng đại như thuộc bản năng đang được triển nở. Những người chung quanh em khó lòng tin được rằng điều gì đó thực sự đang xảy ra khiến em trở nên con người khác trước kia. Chẳng hạn, buổi tối hôm ấy em muốn đưa lời Tin Mừng ra thực thi, lời Tin Mừng mà Trung Tâm này sử dụng để chữa trị bệnh nhân, là “Hãy làm cho người khác điều bạn muốn người khác làm cho bạn.” Vậy tối hôm ấy em sắp bàn tử tế, đặc biệt để mừng sinh nhật một bạn trẻ ở Trung Tâm. Khi bạn ấy xuất hiện, em Độ đã niềm nở đưa bạn ấy ra ngoài và tặng chiếc áo mà chính Độ rất thích mặc để diện. Người nhận được quà cảm động đến rơi lệ khiến Độ cũng rưng rưng hai hàng lệ. Đó là những con người chưa bao giờ nghiệm được tình yêu Thiên Chúa, nay khám phá ra điều đó qua cử chỉ cho và nhận quà. Em Độ nghiệm thấy ơn bình an như được gia tăng mỗi khi em làm điều này điều kia cho người khác. Tự nhiên em sốt sắng tham dự thánh lễ mỗi ngày. Khi ấy em lên 17 và được giao việc chăm sóc bệnh nhân mới được Trung Tâm tiếp nhận để chữa trị. Trong nhóm này có một người đã 40 tuổi mà ai cũng nhìn nhận là người khó tính. Thế mà Độ đã thành công trong việc chinh phục người ấy.
Nhiều lần Độ trở về thăm gia đình nhưng chưa ai tỏ ra chú ý tới sự kiện là em không còn như trước nữa, kể cả mẹ em là người đã quá khổ vì em. Nhưng lần kia người anh của Độ đã trách mắng Độ cách thậm tệ trước mặt mọi người trong một cuộc họp mừng của gia đình. Người anh ấy rất ngỡ ngàng thấy Độ điềm tĩnh khác thường. Hơn nữa, còn xảy ra là khi Độ dọn đồ mà người anh ấy tỏ dấu ưa thích thứ thuốc thơm thoa xức sau khi cạo râu, em liền tặng lọ thuốc đó cho anh ấy! Cứ như vậy Độ tìm lại được tình thương của gia đình để không còn phải trở về với Trung Tâm nữa. Nhưng quan trọng hơn vẫn là ơn Chúa thúc đẩy lòng em khiến em được thanh lọc khỏi những đam mê hầu sống sự sống hoàn toàn mới của Tin Mừng, để trở nên người hữu ích cho xã hội. Hiện em sống bình thường trong nghề giáo viên. Cuộc hoán cải của Lê Quang Độ làm nổi bật tình thương của Thiên Chúa và sự ưu ái của Ngài dành cho những kẻ bé mọn. Thiên Chúa không bỏ rơi một ai, ngược lại, kẻ càng bị người đời khinh chê và gạt sang bên lề, thì Ngài càng ưu ái tìm kiếm và đưa vào Vương Quốc của Ngài.
Cựu Ước không thiếu lời khẳng định về tình yêu trước sau như một của Thiên Chúa đối với thọ tạo. Thánh vịnh gia nói: “Dầu cha mẹ có bỏ con đi nữa, thì hãy còn có Chúa đón nhận con” (Tv 26,10). Tác giả sách Huấn Ca còn nói “Thiên Chúa nhân từ và biết vật Người nắn lên. Người không huỷ, không bỏ, nhưng dung tha” (17,21). Còn sách Khôn Ngoan dạy: “Quả thật những gì có trong vạn vật, Người đều yêu mến. Vì Người nắn nên gì Người không ghét bỏ. Vả lại có gì tồn tại được nếu Người không muốn? Làm sao nó được bảo tồn điều Người đã không gọi (đến tên)? Với mọi vật, Người xử khoan dung vì chúng là của Người, lạy Chúa Tể hiếu sinh!” (12,24-26). Thực ra Nước của Thiên Chúa là Nước mang lại cảnh hoà bình cho trăm họ, nhưng sự công chính của Thiên Chúa chủ yếu không khởi đi từ việc phân phối của cải để ai nấy nhận được những gì thuộc về mình. Tất cả những gì mà con người có cũng đều do Thiên Chúa ban nhưng không, dù là ngang qua cha mẹ hay do chính mình làm nên, cuối cùng cũng do chính Chúa là cội nguồn. Vậy sự công chính của Thiên Chúa khởi đi từ lòng ưu ái của Người dành cho dân nghèo. Cho nên Thánh Vịnh gia khi nói tới việc xét xử dân theo công lý thì nói ngay tới việc bênh vực quyền lợi kẻ nghèo hèn và ra tay cứu độ kẻ nghèo khó (x. Tv 71,1-4)
Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống cho đoàn chiên
Với Đức Giêsu trong Tân Ước, sự ưu ái của Thiên Chúa dành cho người nghèo càng khiến ta phải ngỡ ngàng. Một trăm con chiên chỉ có một con bị lạc, chủ chiên cũng tập trung hết sự chăm chú của mình vào chiên lạc đó cho tới khi tìm được; người đó sẽ vác nó lên vai đưa về và mở tiệc mừng. Mười đồng bạc mà một đồng bị mất thì người mất cũng thắp đèn tìm cho kỳ được; người đó còn mời bạn bè xóm ngõ tới mừng vì đã tìm thấy. Phương chi người cha có hai con mà một đứa đi bụi đời này về, nào người cha đó lại không mở tiệc ăn mừng con trở về hay sao? Đó là ba dụ ngôn trong Tin Mừng Luca (15,1-32) về lòng nhân hậu của Thiên Chúa đối với tội nhân, là người nghèo cần Chúa thương xót. Tin Mừng Gioan cũng cho thấy lòng thương xót đó của Thiên Chúa, nhưng nhấn mạnh về cái giá Người sẵn sàng trả là chính mạng sống của Con Thiên Chúa làm người. Sau khi chữa người bại liệt, Đức Giêsu bị người Do Thái tìm cách giết (x. Ga 5,18). Khi người mù từ tuổi mới sinh được Đức Giêsu chữa lành, người đó liền bị cha mẹ bỏ rơi và giới lãnh đạo Do Thái giáo trục xuất (x. Ga 9,21 và 34) Nhưng Đức Giêsu đã không bỏ rơi anh, Người đã tìm đến với anh và tự mạc khải bản thân Người cho anh (cc 35-38). Người còn tuyên bố “Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10,11). Đó chính là ý nghĩa mà Tin Mừng Gioan hiểu về lời tuyên bố của thượng tế Caipha khi nói “thà một người chết thay cho dân còn hơn toàn dân bị tiêu diệt” (Ga 11,50).
Bài Tin Mừng hôm nay với lời tuyên bố của Đức Giêsu là “Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi.” (c.37). Tin Mừng Gioan cho biết phản ứng của ông Philatô là nêu câu hỏi “Sự thật là gì?” (c.38). Nhưng ông đã không muốn nghe Đức Giêsu trả lời. Ông đã ra ngoài để gặp người Do Thái nên ông đã không đứng về phía sự thật là chính Đức Giêsu Vua Tình Yêu, hiện thân của lòng thương xót của Thiên Chúa đối với cả loài người. (Lm Augustine sj, Vietcatholic 2001)
- Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, hôm nay Hội thánh suy tôn Đức Giêsu Kitô là Vua vũ trụ, vua hiền hậu, vua mà uy quyền là tình yêu tự hiến. Chúng ta cùng dâng lên Người lời cầu nguyện khiêm tốn sau đây:
- Đức Giêsu là Vua đến trần gian để làm chứng về sự thật, là chính Thiên Chúa / xin cho Hội thánh luôn tuân lệnh Người để làm chứng cho mọi người rằng Thiên Chúa là tình yêu.
- Đức Giêsu là Vua nhưng Nước Người không thuộc về thế gian này / Xin cho các nhà lãnh đạo các nước trần gian hiểu rằng: Nước Chúa không cạnh tranh với nước của họ / nhưng đem lại sự thật, công lý và hòa bình cho các nước trần gian.
- Đức Giêsu là Vua tự hiến để cứu độ mọi người / Xin cho những người đang bị áp bức, bóc lột, tù đày / và những người nghèo đói, dốt nát / sớm được Người giải thoát để sống như công dân trong Nước Chúa.
- Đức Giêsu là Vua tình yêu, Người cai trị bằng phục vụ / Xin cho anh chị em trong họ đạo chúng ta là công dân Nước Chúa / biết noi gương phục vụ của Người.
Chủ tế: Lạy Đức Giêsu, chúng con đã được Chúa mời gọi vào Nước Chúa, làm công dân của Nước Chúa, Xin giúp chúng con luôn hăng say hoạt động để Nước Chúa mở rộng đến mọi tâm hồn. Chúa là Đấng hằng sống…
- Trong Thánh lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Trong ngày lễ kính Đức Giêsu là Vua hôm nay, chúng ta hãy đặc biệt cầu xin cho Nước Chúa mau trị đến trong cõi lòng mọi người.
- Trước rước lễ: Vua Giêsu đã thương mời chúng ta đến dự tiệc của Ngài. Chúng ta hãy đến dự tiệc thánh trong tâm tình biết ơn và cảm mến. “Đây Chiên Thiên Chúa…”
VII. Giải tán
Trong khi chờ đợi ngày Đức Giêsu hoàn toàn làm Vua toàn thể nhân loại, mỗi người chúng ta hãy cố gắng làm một công dân xứng đáng của Nước Chúa, đó là hằng ngày thực hiện giới luật yêu thương.
(Suy niệm của Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
- DẪN NHẬP
Hôm nay là Chúa nhật cuối cùng kết thúc năm Phụng vụ, Giáo hội mừng lễ Chúa Kitô Vua vũ trụ. Điều đó nói lên rằng, Đức Giêsu Kitô, sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ Chúa Cha trao phó, được Chúa Cha trao quyền cai trị muôn loài trên trời dưới đất và sẽ kết thúc lịch sử loài người trong vinh quang để mọi sự sẽ được “restaurare in Christo”.
Trong suốt quãng đường đi truyền giáo, Đức Giêsu chỉ đi rao giảng Tin mừng về Nước Thiên Chúa và chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền cho người ta. Chưa bao giờ Đức Giêsu dám nhận mình là vua, mặc dầu dân chúng hồ hởi tôn vinh Ngài. Nhưng về cuối đời, trong cuộc thương khó, Ngài đã công khai xác nhận vương quyền của Ngài trước mặt quan Philatô:”Ngài nói đúng, Tôi là vua”(Ga 18,37), nhưng để tránh ngộ nhận, Ngài nói thêm:”Nhưng nước tôi không thuộc thế gian này”(Ga 18,36).
Vậy nếu Đức Giêsu không có lấy một tấc đất để cắm dùi thì nước của Ngài ở đâu? Thần dân của Ngài là ai? Vương quyền này được thiết lập và thực hiện bằng những phương tiện nào?
Nhờ Bí tích rửa tội, chúng ta đã được tham dự vào vương quyền của Đức Kitô, chúng ta có nhiệm vụ phải bảo vệ và làm cho vương quyền của Ngài được mở rộng để tất cả mọi nguời nhận biết Đức Giêsu là vua vũ trụ và hết lòng tin theo Ngài.
- TÌM HIỂU LỜI CHÚA
+ Bài đọc 1: Đn 7,13-14
Vào thế kỷ thứ 2, đức tin bị đe dọa trầm trọng. Tác giả Sách Thánh muốn khích lệ các người đồng hương của mình vững chí trong cơn thử thách, thì trong một thị kiến, Đaniel nhìn ngắm bốn Con Thú tượng trưng từ biển nhô lên và cập vào đất liền: chúng biểu thị những vương quốc đã liên tiếp nhau đe dọa Israel. Chính lúc đó xuất hiện một khuôn mặt bí ẩn, được mô tả như một Con Người. Lúc đó Đấng Lão thành (tức Thiên Chúa) cũng hiện ra và trao cho Con Người quyền thống trị tất cả loài nguời và thiết lập một vương quyền vĩnh cửu và phổ quát.
Nhân vật Con Người ấy chính là hình ảnh tiên báo Đấng Messia. Và Đức Giêsu chính là Đấng Messia hoàn thành lời tiên tri ấy.
+ Bài đọc 2: Kh 1,5-8
Đoạn sách Khải huyền này cũng mô tả Đức Giêsu là Vua. Ngài đã yêu thương chúng ta, đã lấy máu mình mà rửa sạch mọi tội lỗi của chúng ta. Được phục sinh vì đã làm chứng cho đến chết chương trình của Chúa Cha, Đức Kitô đã trở nên “Thủ lãnh các vương đế trần gian”, nhận đuợc mọi quyền năng để dẫn dắt lịch sử nhân loại. Ngài làm cho chúng ta trở thành vương quốc của Ngài. Vương quốc này chưa hoàn tất. Nhưng vào thời sau hết, Đức Kitô sẽ hiển trị trong uy quyền, thắng vượt sự dữ và lầm lạc. Ngài là vua hoàn vũ và vĩnh cửu.
+ Bài Tin mừng: Ga 18,33b-37
Từ truớc tới nay, Đức Giêsu chỉ đi rao giảng Tin nừng về Nước Thiên Chúa, chữa lành mọi tật nguyền cho người ta. Không bao giờ Ngài tự xưng là vua. Ngài còn trốn tránh khi dân chúng tung hô Ngài là vua. Không bao giờ Ngài làm điều gì tỏ ra cạnh tranh với nhà cầm quyền.
Bị người Do thái tố cáo trước nhà cầm quyền là Ngài muốn làm vua. Philatô hỏi Đức Giêsu:”Vậy ông là vua ư”? Nhân dịp này, Đức Giêsu vừa đáp vừa giải thích cho ông Philatô:
- Ngài là vua thật, đúng như lời ông nói.
- Nước Ngài không thuộc thế gian này.
- Nước Ngài không giống như nước trần gian, không cạnh tranh với quyền lực nào.
- Nước Ngài là vương quốc sự thật: sự thật về Thiên Chúa, sự thật về con người, sự thật về mọi loài thọ tạo.
- Ngài đến làm chứng cho sự thật. Ai yêu sự thật thì thuộc về vương quốc Ngài.
- THỰC HÀNH LỜI CHÚA
Tin theo Đức Kitô Vua
- LỊCH SỬ LỄ CHÚA KITÔ VUA
Một triết gia đã đưa ra một nhận định rất bi quan: “Homo homini lupus”: con người là lang sói của con ngươi. Con người đã trở nên một thú dữ hay tấn công, cắn xé và giết chóc. Lịch sử loài người là một chuỗi những cuộc chiến tranh liên tiếp. Hai cuộc thế chiến thứ nhất và thứ hai đã cướp đi sinh mạng của gần 50 triệu người, không kể những người bị thương, mất tài sản và thiệt hại vật chất khôn lường.
Cho nên ngày 12.11.1927, Đức Giáo hoàng Piô XI đã thiết lập lễ Chúa Kitô Vua, mục đích là để cầu cho loài người thôi đừng buông theo thú tính mà cắn xé lẫn nhau, các nước đừng nuôi mộng bá chủ hoàn cầu mà gây chiến với nhau.
Đàng khác, thế giới đang dần rời bỏ Chúa, muốn khai trừ Chúa ra khỏi các tâm hồn, các gia đình, các xã hội, thế giới muốn xây xã hội trên nền tảng thuần túy nhân loại. Trong trường hợp đó, Đức Giáo hoàng muốn công bố những quyền bất khả xâm phạm của Chúa Kitô: Ngài là vua vũ trụ, vua các thiên thần và loài người.
Ngoài ra, Đức Giáo hoàng cũng nghĩ rằng cần phải phản ứng lại mấy sự lệch lạc trong quan niệm đạo đức tân thời phát sinh ngay trong Công giáo tiến hành ở một số nơi. Người ta đang có khuynh hướng nhìn nơi Đức Giêsu chỉ là người Anh Cả, người bạn và đối xử với Chúa bằng vai,…là bạn đường, bạn làm việc… Lễ Chúa Kitô Vua nhắc cho người ta rằng: Đức Giêsu còn là Đấng Toàn Năng, Đấng vô cùng vô biên, Vua các vua. Ngài còn là Đấng Hữu, ta có là nhờ Ngài, và bổn phận chính yếu nhất là Thờ Lạy Ngài (Trần văn Khả).
- ĐỨC GIÊSU LÀ VUA
- Đức Giêsu khẳng định
Trước toà án, Philatô hỏi Đức Giêsu: “Ông có phải là vua dân Do thái không”? Đức Giêsu có thể trả lời là có hay không, tùy theo ý của người hỏi.
Nếu người Do thái hỏi Ngài câu ấy, thì câu ấy có nghĩa là: ông có phải là Đấng Messia không? Nhưng khi Philatô hỏi thì câu ấy có ý nghĩa là: ông có phải là kẻ cầm đầu xúi giục dân Do thái phản loạn không? Theo não trạng của người Do thái, thì Đấng Messia, vị cứu tinh của dân tộc ắt phải là một thủ lãnh của đoàn quân nổi loạn chống lại Rôma để giải phóng dân Do thái khỏi ách thống trị của đế quốc. Nếu Ngài là người nổi loạn chống lại Rôma, thì dân Do thái sẽ theo Ngài. Nhưng họ thấy Ngài không phải là người nổi loạn như ý muốn của họ, mà lại có những ý tưởng lạ đời đi ngược lại tư tưởng truyền thống của chính tôn giáo của họ, nên họ muốn tiêu diệt Ngài. Để làm điều ấy, họ chụp mũ Ngài là người phản loạn, chống lại Rôma.
Nhưng Philatô nhận ra ngay là: nếu Đức Giêsu là kẻ đứng về phía người Do thái để chống lại Rôma, thì họ đã chẳng nộp Ngài cho ông. Vì thế, câu ông hỏi Đức Giêsu chỉ hỏi cho có lệ, chứ ông đã biết Ngài vô tội, và chỉ vì ghen ghét mà dân chúng nộp Ngài cho ông. Nhưng cũng chính nhờ ông ta hỏi điều ấy mà chúng ta được mạc khải một chân lý quan trọng: Đức Giêsu chính là Vua như Ngài đã xác nhận: “Tôi được sinh ra là để làm vua”.
Tuy Đức Giêsu xác định Ngài là vua, nhưng với tước hiệu là vua mà Philatô đang muốn điều tra, ít nhất có ba cách làm “Vua”:
- Vua theo nghĩa chính trị, theo kiểu Rôma: người ta thống trị kẻ khác bằng nô lệ hoá họ: “Một ngàn năm đô hộ giặc Tầu, một trăm năm đô hộ giặc Tây”(Trịnh công Sơn).
- Vua theo nghĩa Thiên sai, theo kiểu mong đợi của người Do thái: một người thuộc dòng dõi vua Đavít chính thức lên ngôi, và chiến thắng kẻ thù của Israel, của Chúa bằng cách đè bẹp chúng.
- Sau hết, Vua theo cách của Đức Giêsu: một vương quyền huyền bí, không ép buộc ai, không đè bẹp ai như “bạn có muốn theo tôi không”, “Các bạn cũng muốn bỏ đi sao”? Một vương quyền mà lại để “Vua” bị giao nộp cho kẻ thù mà không chống cự, một tổng thống mà không có “vệ binh” để bảo vệ mình, không cận vệ để bao bọc trước đám dông (Noel Quesson).
- Vương quốc của Đức Giêsu
- a) Nước Ngài không thuộc thế gian này
Khi Philatô hỏi Đức Giêsu:”Ông có phải là vua dân Do thái không”? Đức Giêsu trả lời:”Tôi là vua, nhưng không phải của nguời Do thái như ông hiểu vì nước tôi không thuộc thế gian này”(x. Ga 18,33-36).
Nếu Đức Giêsu không phải là một vua của một nước trần gian, thì nước của Ngài ở đâu? Ngài là vua của ai?
Làm vua có nhiều cách, không nhất thiết cứ phải có đất đai, lãnh thổ, có quân đội, triều đình… mới là vua. Người ta vẫn nói:”vua dầu lửa”, “vua xe hơi”, “vua bóng đá”,v.v… mặc dầu những ông vua này không có quân đội, không cai trị ai. Đức Giêsu không những làm vua hiểu theo nghĩa bóng, mà đích thực Ngài là vua hiểu theo nghĩa đen, nghĩa chính thức của từ “vua”.
Ngài là vua, vua của cả vũ trụ, của cả trần gian, của cả nhân loại, vì Ngài chính là Ngôi Lời, một trong Ba Ngôi Thiên Chúa đã dựng nên muôn loài muôn vật trong vũ trụ. Thánh Kinh viết:”Nhờ Ngài, vạn vật được tạo thành, và không có Ngài thì chẳng có gì được tạo thành”(Ga 1,3; x. 1,10). Ngài là vua của thế giới, nên đến ngày chung thẩm, chính Ngài sẽ là người đến phán xét trần gian với tư cách một vị vua (Mt 25,34).
Thế gian này có nhiều nước, mỗi nuớc có một ông vua. Nhưng Ngài là vua cả thế gian, cả vũ trụ, nên Ngài là Vua trên hết các vua, Chúa trên hết các chúa.
Truyện: Nước Ta chỉ có trên thế gian này.
Ông SELMA LAGERLOP có viết một câu truyện như sau: Ở thành La mã, trong một đền thờ dâng kính Đức Mẹ, gần đồi Capitole, có một tượng Chúa Hài đồng rất đẹp. Chung quanh vòng hào quang có khắc câu Phúc âm rằng:”NƯỚC TA CHẲNG CÓ TRÊN THẾ GIAN NÀY”(GA 18,38).
Một hôm, một phụ nữ thượng lưu, người Anh, tới viếng đền thờ, và tượng Chúa Hài đồng đã lọt mắt bà. Bà liền nài nẵng chuộc cho kỳ được. Khổ thay! Không ai đồng ý cả. Bà ta mới thuê thợ gọt một tượng khác, giống y như tượng Chúa Hài đồng bà đã trông thấy. Rồi một hôm dùng thủ đoạn, đem đổi lấy tượng thật. Nhưng không biết là vô tình hay hữu ý, thay vì viết vào vòng hào quang rằng “Nước Ta chẳng có trên thế gian này”, thì bác thợ kia lại viết: “Nước Ta chỉ có trên trần gian này”. Ít lâu sau, không hiểu tại sao, tượng thật Chúa Hài đồng bỏ lâu đài của chủ mới, trở về đền thờ cũ lại như xưa. Mưu mô bại lộ ra. Người coi đền thờ liền đem tượng giả ném xuống chân đồi Capitole. Người phụ nữ kia, buồn tiếc, đi tìm, gặp được và trở về nước với pho tượng giả, còn nguyên vẹn với vòng hào quang ngạo mạn kia. Từ ấy, tượng giả cứ chuyền tay nhau, người này sang người khác, hết thành nọ đến thành kia… Một hôm tượng ấy tới thành Paris. Quân Cách mạng mới đem đi biểu diễn qua các đại lộ, và hiệu triệu dân chúng rằng:”Nước Ta chỉ có trên thế gian này. Hãy mau mau phân chia tài sản cho nhau, để mọi người được bình đẳng vui sống. Nước Ta chỉ có trên thế gian này. Chết là sự đổ vỡ vô phương cứu vãn”!(Vũ minh Nghiễm, Vươn, 1966, tr 54-55).
- b) Vương quốc của sự thật.
Philatô hỏi Ngài: “Thế thì ông là vua sao”? Ngài đáp ngay:”Đúng thế, chính vì thế mà tôi đã sinh ra và đến trong thế gian này, đó là để làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi”(Ga 18,37).
Vương quốc sự thật chính là nước của Ngài. Nước đó hoàn toàn khác biệt với đế quốc của vua César. Nước của César chỉ cai trị thể xác của loài người, còn vương quốc của Ngài chiếm hữu những tấm lòng. Thế lực của César là binh đội, khí giới, thành trì, nhưng sức mạnh của vương quốc của Chúa là những nguyên tắc, tình cảm và tư tưởng. Công dân của đế quốc César chỉ được hưởng an toàn bên ngoài và bảo đảm tài sản vật chất, nhưng phước hạnh trong Nước Chúa là an lạc và vui mừng trong Thánh Thần”(x. Rm 14,17). Dù là rộng lớn, đế quốc Rôma cũng bị giới hạn, nhưng vương quốc của Chúa vô biên và được quyền thiết lập tại mọi nơi. Cũng như hầu hết các nước thuộc về đất, đế quốc Rôma rồi sẽ chấm dứt, còn vương quốc Sự Thật sẽ tồn tại muôn đời.
- c) Vương quốc tình yêu.
Vương quốc của vua Giêsu là vương quốc của Tình yêu: “Con người không đến để được phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá chuộc cho nhiều người”(Mc 10,45). Đức Kitô là vua, nhưng Ngài khác với những vua khác ở chỗ: để cai trị, các vua khác dùng quyền lực, còn Ngài dùng tình thương. Thật vậy, Ngài yêu thương mọi nguời, mọi con dân của Ngài như một mục tử tốt lành yêu thương chăn dắt đoàn chiên, biết rõ từng con một, và sẵn sàng hy sinh mạng sống mình vì lợi ích của con chiên (x. Ga 10,11-16). Ngài hành xử như thế vì Ngài là Thiên Chúa, mà “Thiên Chúa là Tình yêu” (1Ga 4,8). Trong thực tế, Ngài đã hy sinh trên thập giá một cách khổ nhục để cứu nhân loại, là con dân được Thiên Chúa trao cho Ngài quyền cai trị.
- d) Vương quốc của phục vụ.
Mừng lề Đức Giêsu Kitô, Vua vũ trụ, chúng ta được mời gọi nhìn lên vua của chúng ta. Một vị vua không ngồi trên ngai vàng, nhưng trên thập giá. Một vị vua không cai trị bằng quyền lực, nhưng dựa trên tình yêu thương, phục vụ. Một vị vua không có lãnh thổ, nhưng nằm sâu trong trái tim mọi người. Một vị vua chỉ biết dấn thân phục vụ.
Truyện: Hoàng tử Alexis.
Truyện cổ Nga thuật lại rằng: Vào thời Trung cổ, hoàng tử Alexis cũng như bao vua chúa khác sống trong cung điện nguy nga tráng lệ, trong khi dân chúng chung quanh phải sống trong những khu xóm nghèo nàn tồi tệ.
Thế nhưng, Alexis rất hiểu nỗi cơ cực của thần dân và cảm thương họ. Ông bỏ ra mỗi ngày một ít thời giờ để thăm họ. Nhưng, dù cố gắng đến đâu, Alexis vẫn không thu phục được lòng yêu mến của thần dân. Vì thế, sau mỗi lần thăm họ trở về, ông thấy lòng mình buồn rười rượi. Ngày kia, có một người lạ mặt đi vào khu xóm, ăn mặc đơn sơ, anh tự xưng là Bác sĩ, anh săn sóc những người già cả, bệnh tật. Đặc biệt Bác sĩ không lấy tiền thù lao, và còn phát thuốc miễn phí cho thần dân.
Bác sĩ ấy trở thành người của xóm nghèo, được mọi nguời yêu mến kính phục. Ngày ngày, anh dàn xếp những cuộc cãi vã, tranh giành, hoà giải những thù oán, và giúp đỡ họ sống đúng với phẩm giá con nguời.
Bác sĩ trẻ đó chính là Hoàng tử Alexis, người đã bỏ cung điện giầu sang đến sống với thần dân nghèo khổ và trở nên bạn bè của họ, để yêu thương săn sóc và phục vụ họ.
Đức Kitô thực sự là một vị Vua đầy uy quyền. Ngài đã trở nên giống chúng ta, để yêu thương phục vụ chúng ta. Ngài đã phán:”Con người không đến để được phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến mạng sống cứu chuộc cho nhiều người”.
- Chỉ có Đức Giêsu là Vua.
- Tuy trước toà án Philatô, Đức Giêsu đã chính thức tuyên bố và xác nhận Ngài là vua, nhưng thực sự danh hiệu Vua ấy đã được tiên báo như tiên tri Daniel đã nhìn thấy “như là Con Người đến trong đám mây trời… quyền năng vĩnh cửu”(Dn 7,13; và Gioan, cụ già trên đảo Patmos đã được thị kiến: “Đấng là Alpha và Omêga là nguyên thủy, là cùng tận, Đấng đang có, đã có và sẽ đến, Đấng là Thiên Chúa”(Kh 1,8). Ngài làm cho chúng thành một vương quốc tư tế, để phụng sự Đức Chúa Cha, là Thiên Chúa và là Cha của Ngài”.
- Nhìn ra vua sự thật, vua tình thương, anh trộm lành đã nói: “Ông này có làm điều gì sai trái đâu”? Và anh đã cầu nguyện với Ngài:”Lạy Ngài, khi nào về Nước Ngài, xin nhớ đến tôi”. Anh chỉ dám xin nhớ, không dám xin cứu, không dám được xin vào nước Ngài vì anh thấy mình quá bất xứng, quá tội lỗi. Nhưng Đức Giêsu thấy lòng thông cảm khiêm nhường của anh, Ngài đã dịu dàng nói với anh:”Tôi nói thật hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên nước thiên đàng”(Lc 23,41-42).
- Cái lý do khiến Đức Giêsu làm vua đã được thánh Phaolô nói rất xác đáng trong đoạn văn gủi cho tín hữu Côlôssê:”
“Ngài là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử giữa mọi thụ sinh. Vì trong Ngài vạn vật đã được tạo thành, chốn trời cao và nơi dương thế, vật hữu hình, vật vô hình, dù là thiên toà, hay thiên chủ, dù là thiên phủ hay uy linh: mọi sự đã được tạo thành nhờ Ngài và cho Ngài! Và Ngài có ưu thắng trên mọi sự, và mọi sự đếu tồn tại trong Ngài. Và Ngài là đầu của thân mình, tức là Hội thánh, Ngài là khởi nguyên, là trưởng tử giữa các vong nhân, ngõ hầu trong muôn sự Ngài là đệ nhất vô song! Vì chưng Thiên Chúa đã quyết ý cho tất cả Viên mãn đậu tại trong Ngài và đã giảng hoà cả vạn vật nhờ Ngài và cho Ngài, đã ban lại bình an nhờ bửu huyết đổ nơi thập giá của Ngài cho mọi vật dù ở dưới đất hay trên trời”(Cl 1,15-20).
Truyện: Chỉ có Chúa là Vua
Lịch sử nước Anh có kể rằng hồi ấy, nước Anh có một ông vua đạo đức tên là Cannut III. Ông là vua của một cường quốc, nên chung quanh ông hay có những quan nịnh thần ton hót. Một hôm trong một buổi triều yết, các nịnh thần tâu:”Thánh Thượng” là vua trên hết các vua, là chúa trên các chúa, có quyền trên mặt đất và biển cả. Nghe vậy nhà vua muốn cho họ một bài học, liền mời tất cả đi ra bờ biển.
Đứng trước đại dương, ông tuyên bố:”Ta là vua trên hết các vua, có quyền trên đất liền và trên biển cả. Vậy ta truyền cho sóng biển không được trở tới”. Nhưng nước vẫn dâng lên, sóng vẫn trở tới làm ướt hết áo cẩm bào của vua cũng như triều thần. Nhà vua đi vào trong một thánh đuờng đến trước tượng chuộc tội, lấy chiếc vương miện đội trên đầu Chúa và nói: ”Lạy Chúa, chỉ có Chúa là Vua trên hết các vua, là Chúa trên hết các chúa”. (Hồng Phúc, Suy niệm Lời Chúa năm B, tr 169).
III. HÃY TIN THEO ĐỨC KITÔ VUA.
- Không đuợc bắt cá hai tay.
Câu tục ngữ này có ý nói: hai tay đều thò xuống bắt cá, không phải là hai tay định bắt một mà mỗi tay bắt một con cá. Câu này thường để chỉ người mưu một lúc cả hai việc, hy vọng rằng hễ hỏng việc này thì còn việc kia. Vì thế người ta nói:
Thôi đừng bắt cá hai tay,
Cá thì xuống bể, chim bay về ngàn. (Ca dao)
Trong việc tin theo Chúa, Đức Giêsu đã khẳng định”Không ai có thể làm tôi hai chủ vì hoặc ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc gắn bó chủ này mà khinh chủ nọ. Không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa tiền tài” (Mt 6,24; Lc 16,13). Chúng ta phải dứt khoát trên đường theo Chúa, không thể trung lập được, hoặc chọn Thiên Chúa, hoặc chọn thần Mammon, nếu không thì sẽ mất cả chì lẫn chài. Người xưa đã nói: “Trung thần bất sự nhị quân”: tôi trung không thể thờ hai vua, vì trong thực tế, câu ngạn ngữ này lúc nào cũng đúng: “Thiên vô nhị nhật, dân vô nhị vương”.
Truyện: Đức Hồng y Deschamps
Hồng y Deschamps, Tổng giám mục Mailines, khi còn là thanh niên, đã có ý muốn học hành thật giỏi để đạt được một địa vị cao trong hàng ngũ các quan chức triều đình. Một hôm, Deschamps đã được chứng kiến lễ đăng quang lên ngôi vua cách long trọng của nhà vua Bỉ. Từ cửa sổ của một nhà cao tầng, Deschamps chăm chú theo dõi diễn tiến của buổi lễ từ đầu đến cuối. Có thể nói đấy là một buổi lễ hội vừa tưng bừng náo nhiệt với cờ xí và biểu ngữ rợp trời, và tiếng trống dồn dập và tiếng kèn đồng thổi lên inh ỏi với hàng vạn người đến tham dự.
Trọng tâm buổi lễ là nghi thức tấn phong hoàng thái tử lên ngai vàng kế vị vua cha mới băng hà, với việc đội vương miện và nhận phủ việt. Buổi lễ kết thúc bằng một cuộc diễn hành của hoàng gia cùng với đoàn tùy tùng. Đoàn rước đi theo hàng đôi kéo dài cả cây số. Sau khi cuộc lễ kết thúc, quảng trường trở lại bầu khí bình lặng như mọi khi. Deschamps tự nhủ mình rằng:”Thế là một ông vua đã qua đi”. Rồi được ơn Chúa kêu gọi. Deschamps đã suy nghĩ nhiều ngày sau đó và cuối cùng đã quyết định như sau: “Tôi không muốn phục vụ cho ông vua sẽ qua đi. Tôi muốn phục vụ ông vua tồn tại mãi mãi là Vua Giêsu”.
Deschamps đã dứt khoát từ bỏ giấc mơ danh vọng chức quyền thế gian như trước đây anh mơ tưởng, để xin gia nhập vào một dòng khổ tu và khoác vào mình chiếc áo tu sĩ. Sau một thời gian tu học, thầy Deschamps đã đuợc thụ phong Linh mục, rồi sau đó được tấn phong Giám mục và cuối cùng được phong tước vị Hồng y Giáo chủ, trở thành niên tưởng của hàng Giám mục Bỉ.
- Làm gì để xây dựng Nước Chúa.
Nhờ Bí tích rửa tội, chúng ta đã được trở thành công dân Nước Trời, chúng ta được ở trong một Vương quốc: “Vương quốc vĩnh cửu và vô biên, vương quốc tràn đầy sự thật và sự sống, đầy tràn ân sủng và thánh thiện, đầy tràn tình thương, công lý và bình an”(Kinh Tiền tụng lễ Chúa Kitô Vua). Đức Kitô cai trị trên những ai chấp nhận chân lý Ngài mạc khải cho: tình yêu của Chúa Cha. Ngài làm người để chiếu toả tình yêu ấy, để con người có thể nhận ra và tiếp nhận, và như thế những ai nhận biết vương quốc và vương quyền của Đức Kitô thì thần phục Ngài là Vua vũ trụ muôn đời.
Khi chịu phép Rửa tội, các tín hữu đã được tham dự vào vương quyền của Đức Kitô. Chúa Kitô không còn đi đó đây trên mặt đất để dạy dỗ và chữa lành dân chúng như Ngài đã từng làm nữa, Ngài chỉ có thể làm được điều đó thông qua thân thể mầu nhiệm của Ngài. Chúng ta là tay, là chân, là miệng lưỡi, là trái tim của Ngài. Nói khác đi, vương quốc Thiên Chúa mà Đức Giêsu đã thiết lập khi Ngài còn ở duơng trần này sẽ phải được chính chúng ta bổ túc bằng cuộc sống trần gian của chúng ta. Điều cốt yếu là chúng ta phải theo những giá trị mà Tin mừng Chúa đã đề ra: sống theo lương tâm ngay chính, sống hoà thuận, thương yêu, làm những việc lành… Càng có thêm người sống như thế thì Nước Chúa càng mở rộng; và khi nào tất cả loài người biết sống như thế thì Nước Chúa đã trị đến. Và khi đó là thời thái bình, hạnh phúc.
Truyện: Pho tượng Chúa Giêsu Vua.
Trên đỉnh ngọn núi Corovado ở Nam Mỹ, người ta đã dựng một pho tượng Chúa Giêsu vua. Ở xa trông lại, du khách trông như pho tượng chạm trời, vì tượng cao hơn 30 mét. Đứng sừng sững, bao quát cả một vùng bát ngát mênh mông, pho tượng đã làm tăng thêm vẻ đẹp cho kinh thành Rio de Janeiro, thủ đô nước Brasil.
Bạn thử nghĩ biết bao công phu mới dựng được pho tượng ấy! Chuyên chở vật liệu từ chân lên đỉnh núi, sườn núi lởm chởm. Nhưng người ta chưa thỏa mãn. Trong không trung đã có tượng Chúa Giêsu Vua, người ta còn muốn dựng một pho tượng ở đáy biển để chứng tỏ vương quyền khắp nơi của Chúa Giêsu
Tạo hóa hình như cũng chiều lòng người đã dành cho họ một nơi đẹp đẽ để thực hiện ý tưởng cao qúi ấy. Ở biển Italia, không xa Napoli, làn nước trong xanh, lăn tăn gợn sóng, chính chỗ đáy biển ấy người ta đã chọn để dựng tượng Chúa Giêsu Vua. Biết bao công lao.
Có những tầu đánh cá nối đuôi nhau ra đó để tung hoa chào mừng Chúa. Còn những tầu ngầm cũng lượn quanh viếng thăm Chuá. Tuy nước trong đẹp nhưng rêu xanh thường rủ nhau đến bám tượng đá. Nên hằng năm người ta phải tổ chức một cuộc cạo rêu và tắm rửa cho tượng. (Ngọc Miện, Phút chiều tà, 1957, tr 83)
Ngày nay, người ta thường gán chức vua cho những ai thành công trong một lãnh vực nào đó, chẳng hạn như ông Honda là vua xe máy, vì ông rất thành công trong việc chế tạo các loại xe tự động vừa bền lại vừa đẹp. Ông Henri Ford là vua xe hơi. Cầu thủ bóng đá Maradona là vua sân cỏ. Còn Đức Kitô, khi chúng ta tuyên xưng Ngài là vua, thì Ngài là loại vua nào? Để trả lời cho câu hỏi này, chúng ta có thể xác quyết mạnh mẽ mà không sợ lầm lẫn: Ngài là Vua, nhưng lại là Vua Tình Yêu, vì Ngài đứng đầu trong lãnh vực yêu thương phục vụ.
Thực vậy, không một ai đã yêu thương như Ngài. Vì yêu thương, Ngài đã chịu chết ngay cả khi chúng ta là kẻ tội lỗi. Cái chết của Ngài là một bằng chứng hùng hồn, là một đỉnh cao tuyệt vời của tình yêu như lời Ngài nói: Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu. Vì yêu thương, Ngài đã tự xoá bỏ mình đi, hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân phận nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Ngài lại còn vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá. Ngài đã hiến thân như người mục tử hy sinh tính mạng để bảo vệ cho đoàn chiên.
Ngài cảm thông thân phận yếu đuối của chúng ta nên không nghiêm khắc kết án. Ngay cả người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Ngài nhân từ dạy chúng ta: Hãy nghiêm khắc với bản thân và rộng rãi với người khác. Không bới lông tìm vết, không nguyền rủa chửi bới. Hãy yêu thương kẻ thù và tha thứ cho nhau mãi mãi. Ngài đề cao phục vụ và kêu gọi chúng ta phục vụ, vì thế Ngài nói: Ta không đến để được phục vụ, nhưng đến để phụv vụ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người. Ngài muốn chúng ta noi gương bắt chước Ngài, cũng sống tình bác ái yêu thương và phục vụ. Và để cho việc yêu thương không chỉ là một lời khuyên tuỳ ý, nhưng là một mệnh lệnh có tính cách bắt buộc, Ngài đã ban bố giới luật yêu thương: Thầy ban cho các con một điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau. Và tình yêu thương đã trở thành một giới răn quan trọng nhất như là lòng kính mến Thiên Chúa.
Tình yêu thương của Chúa Giêsu đã trở nên nguồn cảm hứng vô tận cho biết bao nhiêu sáng kiến, bao nhiêu tổ chức, bao nhiêu phong trào, bao nhiêu dòng tu chuyên lo việc yêu thương phục vụ. Chúng ta thử thưởng tượng xem: Thế giới này sẽ ra sao, nếu đã không có những người, những phong trào, những tổ chức, những dòng tu như thế. Nhân vật hiện nay đang được cả thế giới ngưỡng mộ, tôn vinh đó là Mẹ Têrêsa Calcutta. Vì sao? Vì Mẹ đã noi gương Đức Kitô và thực hành lời Ngài dạy, đó là đem tình thương đến cho những người nghèo khổ và bất hạnh.
Quả thực, trong lịch sử nhân loại, không có một nhân vật nào giàu lòng nhân từ thương xót như Đức Kitô. Thật lạ lùng vì mặc dù là Đấng Tối Cao, Ngài vẫn tự nguyện làm người tôi tớ, phục vụ chúng ta. Và còn lạ lùng hơn nữa vì mặc dù Ngài không cần ai, song Ngài lại muốn cần đến chúng ta và tình yêu của chúng ta. Và sau hết, điều lạ lùng hơn cả vì mặc dù là Thiên Chúa, Ngài lại khao khát trở nên bạn hữu của chúng ta và chờ mong chúng ta tiếp nhận Ngài qua những kẻ khổ đau và bất hạnh.
(Suy niệm của Lm Hồng Phúc)
Hình ảnh Chúa Giêsu phác hoạ về ngày phán xét thế giới trong Tin Mừng hôm nay cho thấy tính nghiêm trọng trong ngày xử án của vị vua vũ trụ. Đó là ngày tách chiên ra khỏi dê, tách ánh sáng ra khỏi bóng tối, tách sự sống ra khỏi sự chết. Quan trọng như thế mà tất cả cán cân công lý của ngày phán xét chỉ dựa trên có một điều luật duy nhất. Lạ lùng hơn nữa là chính cả chiên lẫn dê đều sửng sốt không biết mình đã thi hành hay không thi hành điều luật ấy khi nào. Đến nỗi vua vũ trụ phải giải thích “Điều gì các ngươi đã làm cho một người anh em nhỏ nhất của Ta đây, là đã làm cho chính Ta” (Mt 25, 40)
Điều luật đó chính là Đức Ái.
Nhưng tại sao vua vũ trụ lại chỉ sử dụng có một khuôn vàng thước ngọc duy nhất ấy? Là vì động lực thúc bách Thiên Chúa tạo dựng trời đất cũng xuất phát duy nhất bởi tình yêu. Đã xuất phát điểm bởi tình yêu thì chung cuộc cũng trở về duy nhất bởi tình yêu. Ta nhận ra dung mạo của vị vua vũ trụ trong một chân dung được khắc hoạ là vị vua tình yêu! Không ai khác, đó chính là “Giêsu Nazareth – vua Do Thái.”
Danh hiệu này bằng chữ viết, dưới danh nghĩa một bản án do Philatô cho đóng phía trên đầu Đức Giêsu. Người Do Thái đã tẩy chay danh hiệu trên vì họ không chấp nhận một bản án tố cáo tội họ đóng đinh giết vua của mình. Họ đề nghị công thức: “Người này xưng mình…” nhưng Philatô đâu có tự ý, chính ông đã hỏi Chúa Giêsu “Ông là Vua ư?” và Đức Giêsu đã xác nhận “Ông nói đúng tôi là Vua” (Mt 27,11) thế nên Philatô đã đanh thép như chính Đức Giêsu đã xác nhận để khẳng khái trả lời cho người Do Thái rằng: “Điều ta đã viết là viết” (Ga 19,22)
Với những sự kiện trên, chứng tỏ người Do Thái đã bị tước bỏ mọi quyền chọn lựa. Không phải họ phủ nhận mà bản án không có giá trị, ngược lại dù họ đã từng muốn tôn vinh Chúa Giêsu lên làm vua vì lý do duy vật chất, sau khi được chứng kiến Chúa làm phép lạ hoá bánh ra nhiều, thì Chúa cũng đã bỏ họ để lên núi một mình (x. Ga 6, 5-27)
Đặc quyền bị tước bỏ là do sự suy thoái của chính họ. Dân tộc Do Thái là một dân được chính Yavê Thiên Chúa tuyển chọn. Họ cũng chọn chính Yavê là Vua độc tôn duy nhất. Vậy mà sau những năm sống trong sa mạc hoang vắng, tâm hồn của họ cũng cằn cỗi dần theo. Sự kiện đòi thiết lập vua trên dân Israel đời tiên tri Samuel, là một biểu hiện khai mào cho tình trạng suy thoái xa rời tối thượng quyền của Thiên Chúa, sự suy thoái sẽ trượt dốc từ Saul qua các triều đại kế tiếp và cao trào suy thoái là vào chính thời Đức Giêsu, khi mà một Dân riêng được Thiên Chúa tuyển chọn lại không một chút nhục nhã lớn tiếng tuyên bố với Philatô, kẻ trị vì trên tự do của họ rằng, “Chúng tôi chỉ có một vua là vua Xêda mà thôi” (Ga 19, 15)
Khước từ vua tình yêu, họ chỉ còn vua chính trị. Cách tuyên bố của họ vì chính trị, để khai trừ Đức Giêsu Nazareth mà họ thù ghét hơn, nhưng chính vì thế mà bản án Philatô viết cũng chính trị và họ phải lãnh nhận hậu quả cũng chính trị! Bản án trở thành bản tố cáo thái độ thù ghét của thế hệ Do Thái quá khích cực đoan nhưng diễn tả một tình yêu lớn nhất của người dám chết cho người mình yêu.
Mới đây, tôi đã giải thích ý nghĩa tượng Chúa Giêsu chịu khổ nạn cho một nhà văn quân đội khi ông về thăm Nhà thờ chính toà Phát Diệm: “Quan niệm Phật giáo muốn mưu cầu hạnh phúc chúng sinh phải tránh tham, sân, si và diệt dục. Còn Công giáo thì khác, Đức Giêsu, Ngôi Lời Thiên Chúa, không tránh mà còn nhập thể vào thân xác tham, sân, si của con người. Sau tham, sân, si là cái chết của chính Ngài, sau cái chết của Ngài là tình yêu lớn nhất: chết cho người mình yêu.”
Mọi thách đố, chướng ngại không thể trở thành rào cản. Đức Giêsu tuyên bố: “Tôi sinh ra và đến trong thế gian là để làm chứng cho sự thật, ai hâm mộ sự thật thì nghe tôi” (Ga 18,37) “Khi những người được mời không xứng đáng thì những kẻ qua đường được mời vào đầy phòng cưới dự tiệc” (x. Mt 22,2-10) Vua tình yêu vẫn mở tiệc cưới, phòng tiệc vẫn đầy người dự, nhưng là người mới, áo cưới mới.
Ý thức vua tình yêu trao ban ân huệ cách nhưng không, Dân mới của Thiên Chúa hiểu rằng chỉ có tình yêu đáp đền tình yêu, hàng ngày trong lời Kinh Lạy Cha – lời Kinh trọng nhất – Hội Thánh lớn tiếng xin cho Nước Cha trị đến trong tâm hồn và trong mỗi gia đình – Nước tình yêu, Nước công bình, Nước sự sống, Nước ơn phúc, Nước hoà bình.
Anh chị em thân mến.Trong thời gian nầy, đài truyền hình Vĩnh Long đang chiếu bộ phim Dương Gia Tướng. Bộ phim nói lên sự trung thành của một gia tộc. Trung thành trong mọi trường hợp. Có những lúc bị nịnh thần hảm hại, gia tộc họ Dương phải nhà tan cửa nát, nhưng vẫn một mực trung thành. Một sự trung thành dường như mù quáng. Trung thành với đất nước, trung thành với nhà vua. Nhưng nhà vua trong câu chuyện, có vẽ như quá hồ đồ và nông cạn, không đủ khôn ngoan sáng suốt để phân minh tỏ tường. Vậy mà Dương Gia vẫn trung thành. Đáng quý thay chữ trung thành không gì có thể thay đỗi được.
Hôm nay toàn thể Giáo Hội long trọng mừng lễ Chúa Kitô Vua vũ trụ. Nói đến danh từ Vua, chúng ta nghĩ ngay đến chế độ phong kiến mà chúng ta đã từng học biết, đã từng nghe, khiến không khỏi rùn mình khiếp sợ. Nhưng chúng ta cùng nhìn lại, cùng nghe lại vị Vua của mình: “Nước tôi không thuộc thế gian nầy”, “Tôi sinh ra, và đến trong thế gian để làm chứng cho chân lý, ai thuộc về chân lý thì nghe tiếng tôi”.
Đức Kitô là Vua của chân lý, nước Ngài không thuộc về thế gian nầy với những tranh chấp hận thù. Ngài đến để phục vụ, đem tình thương, đem bình an cho mọi người. Không tranh giành quyền lợi trần gian, nên Ngài không phải lo sợ mất đi ảnh hưởng, chính vì thế Ngài không cần phải nghe những lời nịnh hót dối trá. Mọi thần dân trong nước Ngài yên tâm với sự công minh chân chính, một tấm lòng nhân hậu bao dung. Ngài là Đường, là Chân Lý và là Sự Sống. Những thần dân của Ngài là những người thuộc về chân lý.
Mỗi người trong chúng ta có một quê hương, một đất nước mà chúng ta được tận hưởng của những bậc cha anh, là di sản quý báu mà mọi người có trách nhiệm gìn giữ và bảo vệ. Nhưng khi chúng ta rời xa cuộc sống trần gian này, chúng ta sẽ còn lại gì, vị vua nào đang ngự trị trong tâm hồn để gìn giữ, để bảo vệ con người yếu hèn của chúng ta.
Cuộc sống của một đời người, chúng ta tôn thờ ai, và ai đã làm vua ngự trị chiếm hữu cuộc đời của chúng ta? Cứ nhìn lại đời sống đã qua, chúng ta sẽ nhận ra được vị vua của cuộc sống mỗi người.
Có người chọn vị vua là danh vọng, tiền tài. Mục đích của họ chỉ là cuộc sống trần gian này, họ cố gắng vun bồi chỗ đứng, địa vị xã hội để làm sao tạo được uy tín hầu kiếm nhiều lợi nhuận, cho đời sống được thoải mái, an nhàn. Đó là mục đích sống của họ, nên họ bất chấp chân lý, bất chấp tất cả, họ dẩm bừa lên tất cả, miển sao đạt được mục đích là họ sẳn sàng hành động không ngần ngại điều gì hết. Nhưng họ đâu biết rằng, đó là một vị vua mù quáng, vì nhiều lúc họ bị đồng tiền phản bội, làm khổ họ đủ cách. Cũng nhiều lúc danh vọng, địa vị mà họ đạt được không luôn luôn mang lại hạnh phúc cho họ. Vì đó chỉ là một vị vua trần thế, giống như vị vua của Dương Gia trong phim Dương Gia Tướng.
Chúng ta có chọn cho mình vị vua của chân lý? Chúng ta có thuộc về chân lý, để nghe tiếng của vị vua công chính không? Ngài không sợ bị chiếm ngôi nên Ngài không cần phải nghe những nịnh thần. Ngài không sợ mất quyền lợi, vì Ngài luôn ban phát, nên Ngài không cần phải tranh giành. Ngài luôn yêu thương, kêu mời mọi người đến với Ngài, để cùng hưởng vinh quang mà Ngài đã chuẩn bị cho những người thuộc về chân lý. Chúng ta là thần dân của Ngài, trong những lúc chúng ta dám can đảm sống ngay chính, không sợ những lời nói bâng quơ chăm chọc. Cũng trong những lúc phải chọn lựa, chúng ta dám chọn lự sự thật, chọn lựa những điều đúng mà không sợ phải mất đi những gì mình đang có. Cũng có những lúc, chúng ta sẵn sàng hy sinh một chút sung sướng riêng tư, một chút thỏa mãn những dục vọng ích kỷ, để lắng nghe tiếng Ngài, hành động theo những gì Ngài chỉ dạy, cho dù phải vất vả khổ cực đôi chút. Đó là những lúc chúng ta sống xứng đáng là thần dân của Ngài. Nhưng xét trong đời sống đã qua, với những chuỗi ngày dài, được bao nhiêu ngày chúng ta là thần dân trung thành của Ngài, được bao nhiêu ngày, chúng ta biết chọn vị Vua của Chân Lý? Còn những ngày kế tiếp đây, chúng ta muốn chọn cho mình vị vua như thế nào?
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa, cho chúng ta biết chọn Chúa làm vua thật trong suốt cả cuộc đời.
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J.)
Bị bắt và bị giết, liệu có thể là người chiến thắng không? Tuần trước mừng lễ các thánh tử đạo Việt Nam, chúng ta đã thấy các ngài là những người không bị khuất phục dù phải chết; tuần này chúng ta lại được chiêm ngưỡng Đức Yêsu như vị vua trổi trang trên tất cả cho dù bị giết.
Vua làm chứng cho sự thật
Đức Yêsu bị bắt vì những người lãnh đạo không chấp nhận Đức Yêsu hơn họ, vì Đức Yêsu đã nói sự thật về họ, vì họ tưởng Đức Yêsu tranh giành ảnh hưởng trên dân chúng, làm họ mất uy quyền. Đức Yêsu bị thù ghét đến chết.
Để giết được Đức Yêsu một cách “hợp pháp”, họ đã giải Đức Yêsu tới quan tổng trấn Roma là Philatô, với tội danh “muốn nổi loạn xưng vua”. Chính Đức Yêsu cũng không ngờ mình “được” mang tội danh này: “quan tự ý nói thế, hay người khác đã nói với ngài về tôi?” Với những người ái quốc, khi nước đang bị ngoại bang đô hộ, mà có ai nổi lên chống lại, thì phải cùng cộng tác với người đó mới phải, đằng này lại đi chống lại, đem bắt người đó để nộp cho ngoại bang. Chính vì lẽ này mà Philatô nhận ra Đức Yêsu bị oan, vì thù oán riêng tư mà những người lãnh đạo tôn giáo Do Thái muốn nộp giết Đức Yêsu: “Ta không tìm thấy lý do nào để kết tội ông ấy”.
“Chính ngài nói rằng tôi làm vua. Tôi sinh ra và đến thế gian để làm chứng cho sự thật, ai theo sự thật thì nghe tiếng tôi”. Thiên Chúa là sự thật. Sự thật là “Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng”, Thiên Chúa sẵn sàng làm tất cả cho con người, vì yêu thương con người, để con người được sống hạnh phúc với Thiên Chúa. Cả đời Đức Yêsu là miệt mài làm chứng cho sự thật, ngay cả phải chết.
Vua yêu thương
Vua là người giỏi nhất, chiến thắng những người khác để làm vua. Chẳng hạn ở Việt Nam, Đinh Bộ Lĩnh, Nguyễn Huệ, đều là những người chiến thắng tất cả rồi xưng vương. Trong các môn thể thao, những nhà vô địch và giỏi thường được gọi là vua, chẳng hạn như Pelé được gọi “vua bóng đá”. Đức Yêsu là vua, vì Ngài đã trổi vượt trong tình yêu, vì không ai yêu bằng Ngài.
Yêu đến độ tự hủy để sống với người mình yêu. Yêu đến độ, bị từ khước vẫn tha thứ vẫn yêu. Yêu đến độ dám chết cho người yêu, sẵn sàng làm tất cả để người yêu được sống và được sống hạnh phúc.
Thiên Chúa là Đấng yêu con người, nên Ngài tin vào con người. Thiên Chúa tin tôi hơn tất cả những ai tin tôi nhất, hơn cả chính tôi tin tôi. Chính vì vậy Ngài vẫn chờ vẫn đợi, vẫn mời gọi tôi trở lại với Ngài, vẫn mong tôi đáp trả tình Ngài dù rằng bây giờ có thể tôi vẫn còn đang từ chối.
Con vua lại được làm vua
“Con vua lại được làm vua, con sãi ở chùa thì quét lá đa”. Chúng ta là con Chúa, chúng ta được mời gọi để sống yêu thương như Chúa “hãy yêu thương nhau như thầy yêu thương anh em” (Ga.13, 34).
“Anh em chớ mắc nợ nhau điều gì, trừ ra tình yêu mến” (Rm.13, 8). Ơn gọi của chúng ta, chính là yêu thương. Yêu như Chúa yêu. Hãy để cho người khác hơn chúng ta về tất cả, nhưng cố gắng để không thua họ trong yêu thương. Ai khiêm tốn hơn, ai sẵn sàng tự hủy để đi bước trước trong việc làm hòa, là những người “yêu” hơn, giống Thiên Chúa hơn.
Xin Chúa giúp chúng ta sống yêu thương theo gương Chúa yêu thương. Tự sức chúng ta, không thể sống yêu thương. Ý thức mình bất lực, xin Chúa giúp. Thiên Chúa có thể làm tất cả cho chúng ta vì Ngài yêu chúng ta vô cùng, Ngài sẽ làm chúng ta yêu Ngài và yêu nhau.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
- Bạn trổi trang nhất về điều gì?
- Có thể bạn không thể hơn người khác về nhiều điều, nhưng còn về yêu thương? Bạn có muốn không thua người khác về yêu thương không?
- Liệu có thể tập yêu được không? Bằng cách nào?
22. Lễ Chúa Yêsu Kitô- Vua Vũ Trụ
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J.)
Khi đứng trước tòa Philatô, Đức Yêsu đã nói: “Tôi sinh ra để làm Vua. Ai nghe sự thật thì nghe tôi” (Ga.18, 37). Đức Yêsu được sinh ra để làm vua, để thống trị trên tất cả. “Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy” (Mt.28, 18).
Mỗi người đều được mời gọi để làm vua, để vượt lên chính con người mình như chính Đức Yêsu. Nơi vườn dầu, Ngài đã chiến đấu đến đổ máu (Dt.12, 4; 5, 7), Ngài đã khóc lóc rơi lệ… nhưng Ngài đã chiến thắng. Ngài đã chiến thắng chính mình, nên đã chiến thắng tất cả. Mỗi người sống trên đời này ai cũng gặp những cám dỗ; mỗi người đều được mời gọi để vươn lên, để sống cho ra người, để sống yêu thương như con cái Thiên Chúa.
Nơi các anh hùng tử đạo, những người đã bị giết vì các ngài đã kiên trung giữ vững đức tin, vì người ta không thể thắng các ngài, không thể dùng vũ lực bắt các ngài theo ý họ, nên họ đã giết các ngài. Các vị anh hùng tử đạo là những người bất bại; các ngài đã là vua theo một nghĩa nào đó. Đức Yêsu là thủ lãnh các anh hùng tử đạo: Ngài cũng đã bị giết vì làm chứng sự thật và vì tình yêu.
Đức Yêsu có nguồn gốc thần linh. Ngài nói với nhiều người: Ngài là Đấng ngự bên hữu Thiên Chúa, Ngài và Cha là một. Ngài nói sự thật, nhưng người ta tưởng Ngài gian dối. Ngài vẫn nói sự thật ngay cả phải chết: “ai theo sự thật thì nghe tôi”. Ngài là Đấng trổi trang nhất trong việc nói lên sự thật. Ngài là chính sự thật.
Đức Yêsu là Vua Tình Yêu. Không ai yêu như Ngài: “Thầy để lại cho anh em một giới răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau” (Ga.13, 34). Đức Yêsu đã yêu thương con người cho đến chết: “không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hiến mạng sống mình vì bạn hữu” (Ga.15, 13). Đức Yêsu yêu thương con người đến độ ban chính máu thịt Ngài làm của ăn của uống cho con người: “anh em hãy cầm lấy mà ăn, này là mình thầy; ăn em hãy cầm lấy mà uống, này là máu thầy” (Mc.14, 22-24). Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của Đức Yêsu đối với con người: “Như Cha đã yêu Thầy, Thầy cũng yêu anh em, hãy ở lại trong tình yêu Thầy” (Ga.15, 9).
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
- Bạn có cảm phục Đức Yêsu về điều nào không? Xin chia sẻ.
- Bạn có thần tượng không? Thần tượng của bạn phải có yếu tố nào? Đức Yêsu có hội đủ yếu tố làm thần tượng của bạn không?
(Suy niệm của Lm. Sean O’Brien)
Khi tôi còn nhỏ, chúng tôi có một dự án ở trường để tranh luận xem ai là nhà lãnh đạo vĩ đại nhất trong một thời kỳ thuộc lịch sử châu Âu – hoàng đế Napoléon, hay Peter Đại đế, v.v. Chúng tôi có cùng một nhận định rằng những người ấy nắm quyền cai trị ở quyền lực cao nhất trong đất nước của họ, nhưng trong khi cầm quyền họ đã làm nhiều điều tàn ác ở mức độ khác nhau. Rồi khi nghĩ về các ông vua, chúng tôi hầu như luôn cho rằng các vị ấy là những kẻ cao ngạo, đồi trụy, chỉ coi quốc gia như là sân chơi của mình.
Nếu Chúa Giêsu là Vua, và chắc chắn Người là Vua như chúng ta được nhắc nhớ trong Chúa Nhật lễ Chúa Giêsu Kitô Vua hôm nay, thì có lẽ chúng ta phải để cho Người đổi mới quan niệm của chúng ta về sự lãnh đạo đích thực và về vương quyền đích thực. Nếu không, có thể chúng ta sẽ coi Người như một ông vua trần thế, đưa ra những quyết định độc đoán, tàn ác và sân chơi của ông bao gồm mọi quốc gia.
Trước tiên, một ông vua đích thực là người có vương quyền, một vương quốc và quyền bính. Ông ta sẽ không phải là một vị vua nếu quyền thế và uy lực của ông vượt quá bản thân ông hay gia đình của ông. Vua là người cai trị và ông có thần dân để cai trị. Chúng ta gặp thấy điều này nơi mọi ông vua.
Thứ đến, một ông vua đích thực là một ông vua công chính. Ông ấy nhận biết phẩm giá con người và giá trị của mỗi công dân. Mỗi người công dân xứng đáng được đối xử tử tế và tôn trọng vì họ thừa hưởng nhân phẩm sẵn có nơi con người, nhưng ông vua ấy cũng biết rằng mọi người xứng đáng nhận lãnh nhiều điều khác nhau tùy theo hoàn cảnh họ sống hoặc hành vi họ làm. Một vị tướng trong thời chiến cần nhiều nguồn lực mà người đầu bếp hoàng gia không cần đến. Một tên tội phạm phải bị trừng phạt, còn một anh hùng nên được khen thưởng.
Sau cùng, một ông vua đích thực là ông vua khả ái. Ông ấy không là vua cho chính mình, mà cho những người khác. Ông không là vua chỉ dành riêng cho những người thân quen, thông minh, dễ coi và giàu có. Nhưng ông là vua của mọi người. Do đó, ông đặc biệt chăm sóc những người có thể rơi vào tình trạng khốn khó. Vua Thánh Louis IX của Pháp đã sống điều này một cách tuyệt vời. Ngài ban phát lương thực cho cả trăm người mỗi ngày, và mời những người ăn mày đến ngồi cùng bàn với mình trong khi ngài ăn thức ăn thừa của họ.
Đây là những đức tính quan trọng đối với bất cứ bậc cha mẹ, người làm chủ, hoặc thị trưởng hoặc hết những ai thuộc bất cứ cơ quan quyền lực nào. Nhưng với Chúa Giêsu Kitô, Vua của chúng ta, những đặc tính ấy như thế nào?
- Thứ nhất, Chúa Giêsu có vương quyền, một vương quốc và quyền bính trên nhân loại. Người đã tạo dựng địa cầu và toàn thể nhân loại, do đó không ai vượt khỏi quyền năng của Người. Sở dĩ cha mẹ hoặc thống đốc hay tổng thống có quyền hành là bởi Vua Kitô đã ban cho họ quyền cai trị đó và họ sẽ phải chịu trách nhiệm trước Vua Kitô. Mọi công dân trong vương quốc ấy có thể tuyên bố rời bỏ vương quốc của Người bằng cách không chấp nhận đức tin, nhưng Chúa Giêsu vẫn là Vua vũ trụ bởi Ngài là Alpha [khởi đầu] và Omega [cùng đích], Đấng Tạo hóa và là Vị Thẩm phán tối cao. “Vương quyền của Người là vương quyền tồn tại muôn đời.”
- Thứ hai, Chúa Giêsu là Vua công chính. Người đã chủ ý tạo dựng chúng ta có một phẩm giá, nghĩa là Người sẽ tôn trọng những gì Người đã tạo nên. Người đã để kế hoạch của Người được tỏ bày để chúng ta biết mình sẽ bị xét xử thế nào, sẽ được đón nhận ra sao, và sẽ bị kết án như thế nào. Người không che giấu điều này. Người ban cho chúng ta những phương thức cần thiết để trở thành công dân tốt và để hoàn thành sứ mệnh cùng vai trò mà Người đã trao cho chúng ta. Người sẽ ra hạn kỳ cho mỗi chúng ta.
- Thứ ba, Chúa Giêsu vô cùng khả ái. Trong bài đọc thứ hai trích sách Khải Huyền, thánh Gio-an tường thuật rằng “… Người đã yêu mến chúng ta và lấy máu mình rửa sạch tội lỗi chúng ta, làm cho chúng ta trở thành vương quốc và hàng tư tế để phụng sự Thiên Chúa là Cha của Người: kính dâng Người vinh quang và uy quyền đến muôn thuở muôn đời.” (Kh. 1:5-6). Còn ai có thể đối xử khả ái với tha nhân đến mức đổ máu của chính mình hơn thế không? Chính là Vua chúng ta! Người thấy chúng ta khi chúng ta phạm tội, khi chúng ta là kẻ thù của Người, khi chúng ta lầm lạc, khi chúng ta không yêu mến Người. Nhưng Người vẫn yêu thương chúng ta nhiều hơn nữa. . . thật là khả ái! Vô cùng khả ái!
Nếu chúng ta là công dân của vương quốc Người, chúng ta hãy yêu mến Người, chúng ta hãy chiến đấu vì Người, chúng ta hãy phục vụ Người. Chúng ta hãy tuân giữ lời Người. Chúng ta nên thực thi các giới răn khôn ngoan của Người. Chúng ta hãy sống cuộc đời tạ ơn Đức Vua vĩ đại của chúng ta! Ngợi khen Đức Giêsu Kitô.
(Suy niệm của Lm Giuse Đỗ Văn Thụy)
Tin mừng Ga 18, 33b-37: Chúa Giêsu là Vua vũ trụ, là Vua mọi dân tộc, là Vua trên muôn vua, thế nhưng Chúa lại là một vị Vua bị đóng đinh, hoàn toàn bị tước lột khỏi những quyền lực trần thế. Chúa Giêsu đã lên ngôi bằng con đường của thập giá, con đường của tình yêu.
Quốc Vương Thái Lan đã đi vào huyền thoại như người dân kể lại: “nhà vua làm kênh rạch, nên có nước về ruộng đồng. Nguồn nước này đến từ đập Pa Sak Jolasid do chính vua Bhumibol trực tiếp thực hiện. Khi mới lên ngôi năm 1950, từ đó năm nào đức vua cũng tự tay lái xe jeep, với hoàng hậu Sikirit bên cạnh, đi tổng cộng 50.000 km, tới những nơi hẻo lánh, xa xôi để quan sát đời sống người dân còn khốn khó. Trong tâm trí của những người dân Thái, nhà vua là một người thân thiện, với cuốn sổ và chiếc bút trên tay, luôn lắng nghe những người nghèo khổ để thay đổi cuộc sống của họ.
Quốc vương lập ra dự án của hoàng gia, xúc tiến các kỹ thuật gieo hạt tân tiến. Năm 1971, nhà vua đưa ra các biện pháp giúp người dân giải hạn, đào kênh rạch để trữ nước và phân phối nước cho ruộng đồng.
- Đức vua đã biến cung điện Chitralada rộng lớn của mình thành tổ hợp trang trại, cánh đồng, nhà máy chế biến – nơi nhà vua có thể tiến hành nhiều thí nghiệm và thực hiện hàng loạt các đề án về nông nghiệp. Từ đây, hơn 2.000 đề án do chính nhà vua khởi xướng đã được triển khai trên toàn quốc, cải thiện điều kiện sống của dân nghèo ở nông thôn.
- Vào năm 1997, chính đức vua đã ký sắc lệnh sửa đổi Hiến Pháp, theo đó đức vua không còn là người bảo hộ đạo Phật là quốc giáo của Thái Lan. Bản thân đức vua là người Phật Tử nhưng lại bảo hộ cho tất cả các tôn giáo khác, kể cả cộng đồng Hồi Giáo là người thiểu số ở miền nam Thái Lan, nơi thường xảy ra các cuộc xung đột. Điều này đã giúp cho ngài không chỉ được tín đồ Phật Giáo ngưỡng mộ mà cả người đạo Hồi cũng phải kính nể và khâm phục.
Anh chị em thân mến,
Quốc vương Thái Lan, đã hy sinh cả cuộc đời để đem lại hạnh phúc ấm no cho người dân Thái, nhưng Chúa Giêsu còn hy sinh cả mạng sống để cứu chuộc chúng ta. Tuy nhiên sứ mạng của Chúa Giêsu không giống như sứ mạng của quận vương Hêrôđê, quyền bính của Chúa không giống như quyền bính của hoàng đế Rôma hay như bất cứ một vị vua chúa nào trên trần gian. Chính vì thế sau khi làm phép lạ bánh hoá nhiều, dân chúng muốn tôn Chúa lên làm vua, nhưng Chúa đã lẩn trốn, nhưng khi Philatô hỏi: Ông có phải là vua dân Do Thái không? Chúa Giêsu không phủ nhận tước hiệu này, nhưng Chúa đã minh xác rằng: vương quốc của tôi không thuộc về thế gian này.
Chúa Giêsu là Vua vũ trụ, là Vua mọi dân tộc, là Vua trên muôn vua, thế nhưng Chúa lại là một vị Vua bị đóng đinh, hoàn toàn bị tước lột khỏi những quyền lực trần thế. Chúa Giêsu đã lên ngôi bằng con đường của thập giá, con đường của tình yêu. Chính vì tình yêu cao cả này, Chúa Giêsu đã hiến thân hy sinh cho thần dân của mình. Như vậy, qua cuộc hiến tế, chúng ta nhận ra, Chúa Giêsu không chỉ là một vị vua hiền lành, nhân từ, nhưng còn là một vị vua hạ mình đến tận cùng, đến nỗi khi nhìn ngắm sự hạ mình của Chúa trong cuộc hiến tế thương đau, chúng ta chỉ còn biết lặng thinh, chiêm ngắm, thờ lạy, cảm tạ, chúc tụng, nguyện một lòng trung thành theo Chúa cho đến trọn đời.
Một sự kiện xảy ra cách đây không lâu: những người thợ lặn đã phát hiện ra một con tầu bị chìm cách đây 400 năm ngoài biển khơi vùng phía bắc Ireland. Một trong những kho tàng họ đã tìm thấy trên tầu là một chiếc nhẫn cưới. Khi đánh bóng, họ thấy trên mặt chiếc nhẫn khắc hình một bàn tay đang nắm giữ một trái tim. Phía dưới có khắc hàng chữ như sau: “anh không còn gì để cho em” (I have nothing more to give you).
Trong tất cả những kho tàng đã tìm thấy trên con tầu, không có sự gì làm cảm động những người thợ lặn cho bằng chiếc nhẫn và những lời cao đẹp đó.
“Ta không còn gì để cho con” – Có thể được đặt trên Thập Giá của Đức Giêsu, vì từ trên Thập Giá đó, Ngài đã cho chúng ta tất cả những gì Ngài có. Ngài cho chúng ta tình yêu và mạng sống. Ngài cho chúng ta tất cả những gì một người có thể trao ban cho người mình yêu: “không có tình thương nào lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình vì bạn hữu” (Ga 15,13).
Lạy Đức Giêsu Kitô, là Vua của vũ trụ, là Vua của nhân loại, và là Vua của tâm hồn con. Con xin phó thác tất cả mọi sự trong tay Chúa: mạng sống, tình yêu, hạnh phúc, ý muốn, khát vọng, những người thân yêu của con, hiện tại cũng như tương lai. Con xin phó thác cho Chúa tất cả để Chúa quyết định mọi sự theo thánh ý Chúa. Xin hãy giúp con ngày càng tin vững vào tình yêu và quyền năng của Chúa vì Chúa là Vua của tâm hồn con. Amen.
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Hữu Thy)
Hôm nay cùng với toàn thể Giáo Hội, chúng ta mừng lễ Đức Kitô-Vua. Người là Đấng thống trị duy nhất toàn thể vũ trụ và thống trị đời chúng ta! Nhưng mừng lễ Đức Kitô làm vua cuộc đời chúng ta có nghĩa là chúng ta tin nhận rằng chúng ta hết lòng khâm phục Người và để Người làm chủ trên chúng ta, trên trọn cuộc sống của chúng ta.
Tuy nhiên, trong thực tế ai làm chủ đời tôi, đời chúng ta? Chỉ một mình Đức Kitô hay còn vua nào khác nữa? Phải chăng ngoài Đức Kitô là Đấng duy nhất làm chủ trên cuộc sống hằng ngày của chúng ta, chứ không còn vua nào khác nữa?
Trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta còn có bao nhiêu vua chúa khác đang chờ đợi tranh dành ngôi vua với Đức Kitô: Nào là “vua thuốc lá”, “vua bia rượu”, “vua cờ bạc”, “vua thể thao”, “vua tivi, vua phim ảnh”, “vua tiền bạc”, v.v… Những ai thiếu khôn ngoan và liều mình để cho các ông vua này cai trị đời họ, thì thật là cả một tai họa khôn lường: Họ hoàn toàn mất hết tự do, trở nên nô lệ cho chúng, để chúng sai khiến, và họ sẽ vâng lời làm bất cứ điều gì chúng muốn, cả đến tư cách, lý trí và tình nghĩa gia đình bạn bè họ cũng sẵn sàng từ bỏ hết, vì để làm thỏa mãn chúng! Đúng vậy, đó là những ông vua độc tài và chỉ muốn nô lệ hóa những kẻ phục tùng chúng. Chúng đòi hỏi các thần dân của chúng những đóng góp rất to lớn về thời giờ và tiền bạc. Chúng hứa mang lại một cuộc sống đầy hoan lạc và vui thú, nhưng rốt cục thường chỉ để lại những cảm giác trống rỗng, chán chường và thất vọng.
Tôi đã từng gặp nhiều người đã dại dột để cho hầu hết những ông vua như thế lừa gạt và rơi vào tròng nô lệ của chúng. Kết cục, những người đó trở nên thân tàn ma dại, và chẳng những hoàn toàn vô dụng cho gia đình và xã hội mà còn là gánh nặng cho mọi người. Họ trở nên những kẻ sống đời tầm gửi trên mồ hôi, nước mắt và công lao của kẻ khác.
Các ông vua trần tục đó thường huyênh hoang và cao ngạo. Chúng chỉ luôn tìm cách nhấn sâu và chôn vùi những kẻ chạy theo chúng xuống tận bùn đen hôi thối của tội ác. Chúng ta thử đưa ra một vài thí dụ: chẳng hạn “vua thể thao”: Thể thao thực ra là một điều lành mạnh, nhưng nếu chúng ta mê man đến nỗi sao nhãng bổn phận đối với gia đình, đối với con cái và đối với Thiên Chúa, thì thể thao không còn là một môn tập luyện lành mạnh nữa, nhưng là một tên độc tài thống trị trên ta và biến ta thành nô lệ cho nó. Hay không ai chống đối việc thưởng thức một chén rượu hoặc một ly bia, nhưng nếu cuộc sống mà hoàn toàn lệ thuộc vào chén rượu hay ly bia, đến nỗi thiếu chúng thì mọi việc đều bị đình trệ, không thể tiến xa hơn được nữa, bấy giờ chén rượu và ly bia không còn là những phương tiện “làm vui lòng người”, mà là những ông vua độc tài biến chúng ta thành nô lệ cho chúng. Những kẻ say mê cờ bạc, rượu chè, v.v… sẽ đốt cháy nhân vị và tư cách của mình.
Làm thế nào để chúng ta có thể bảo vệ được sự tự do và độc lập, nhất là tư cách và nhân phẩm của mình trước những ông vua độc tài đó? Chỉ một cách duy nhất là chúng ta hãy dứt khoát xa tránh chúng. Những ông vua này tuy độc tài và luôn nô lệ hóa con người, nhưng chúng lại không có “khí giới” trong tay để bắt ép được ta làm nô lệ cho chúng. Việc sống cuộc đời tự do và có tư cách, hay làm nô lệ cho chúng là hoàn toàn tùy vào sự quyết định của chúng ta, hoàn toàn tùy vào ý chí của chúng ta.
Khi nói đến đây tôi lại liên tưởng đến một ông vua khác còn khó tính và độc tài hơn cả trong các ông vua vừa kể trên: đó chính là “cái tôi” của chúng ta. Cái khó để tự giải thoát khỏi sự cai trị của ông vua độc tài này là ở chỗ: Nó không điều khiển chúng ta từ bên ngoài vào, nhưng là ngự trị nội tại trong ta, chiếm giữ và lèo lái cả lý trí và ý muốn của ta. Cuối cùng, những lợi lộc mà ông vua “cái tôi” thu vén là cốt cho chúng ta, để phục vụ chính chúng ta. Chính cái khó nhất là ở chỗ đó: Làm thế nào chúng ta có thể khách quan nhận ra cái lệch lạc, cái sai trái của cái tôi – nghĩa là lòng ích kỷ – của chúng ta?
Con đường duy nhất là tìm về phục vụ Đức Giêsu Kitô-Vua, vị vua đích thực của vũ trụ và của đời sống chúng ta. Người đã hy sinh mạng sống vì chúng ta, Người chịu chết để chúng ta được sống. Người là vị vua nhân hậu, chấp nhận thân phận nghèo hèn và vâng lời chịu lụy cho đến chết, chết trên thập giá. Về Đức Kitô-Vua, Tinsley đã viết: “Người đã không bao giờ là Vua và là Đấng Cứu Thế, nếu không chết trên thập giá”. Đức Kitô là vua và nước của Người không thuộc về thế gian này, nhưng lại ở giữa thế gian. Người không hề dùng quyền bính để cai trị, nhưng là để phục vụ. “Phục vụ thay vì cai trị”, bênh vực quyền lợi của kẻ cô thế cô thân, chở che người nghèo đói, trả lại công bằng cho những người đã bị mất quyền sống, v.v… là chương sống và hành động của Kitô-Vua. Người thay thế sự tự hy sinh mình vào chỗ sự tự khẳng định mình. Người không đòi hỏi gì cho mình cả, người chỉ cho đi! Người không tẩy não hay rửa đầu ai hết, Người rửa chân cho mọi người. Những thủ lãnh thế gian bắt thần dân chết thay cho mình, còn Đức Kitô-Vua lại đã chết thay cho thần dân của Người: Đó chính là sự cao cả của Đức Kitô-Vua. Chính những kẻ nhạo báng Người đã nói lên sự thật về Vương Quyền của Người, khi họ mỉa mai: “Nó đã cứu được kẻ khác!” (x. Mt 27,42). Quả vậy, việc cứu giúp kẻ khác: là biểu tượng và là mục đích của Phẩm Hàm Vương Đế và của Vương Quyền Đức Giêsu. Vương Quyền của Đức Giêsu cần đến những con người không chỉ sống và chỉ nghĩ đến chính mình mà thôi, nhưng – cũng như Người – còn biết giúp đỡ và sống cho kẻ khác nữa. Thiên Chúa cần đến tất cả chúng ta!
Ai chấp nhận và tùng phục Vương quyền êm ái dịu hiền của Đức Giêsu, người đó hoàn toàn tự do trước tứ độ tường, trước mọi mê say tội lỗi. Dĩ nhiên, để phục quyền Đức Kitô-Vua, nghĩa là để bước đi trên con đường của Người, con đường của sự từ bỏ bản thân mình và nhờ thế được sống đời tự do, con người cần phải từ bỏ một đôi thứ – không chỉ những thứ xấu và tai hại, nhưng đôi khi cả những thứ tốt nữa – nếu chúng trở nên chướng ngại vật ngăn cản bước đường đó của chúng ta. Chính đó là con đường đưa dẫn chúng ta vào trong Vương Quốc vô biên giới, một con đường không chỉ hứa mang lại một cuộc sống sung mãn, nhưng còn ban tặng cho ta chính cuộc sống đó nữa. Ai phục vụ Đức Kitô-Vua, người đó tìm được ý nghĩa và mục đích chân thật đời mình!
Nước Trời được diễn tả là vương quốc của tình yêu, nơi đó mọi người được vui hưởng tình yêu tràn đầy của Thiên Chúa. Trong vương quốc này, Đức Giêsu là vị Vua của tất cả mọi người như Lời Ngài đã nói: “mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy”.
Khi nghe nói đến tước hiệu vua, mọi người thường nghĩ đến một con người quyền lực, oai vệ trong bộ cẩm bào, nắm trong tay quyền sinh sát tùy ý mình khiến mọi người khiếp sợ… Thế giới đã từng biết đến một Tần Thuỷ Hoàng, một Napoleon, một Hitler…là những vị vua như thế. Nhưng Vua Giêsu thì hoàn toàn ngược lại. Ngài là vị Vua Hiền lành, Vua Hoà bình và Vua Tình yêu. Vua Giêsu có hoàng cung là cuộc sống rong rủi nay đây mai đó “Con Người không có nơi tựa đầu”, có vương miện là vòng gai đội đầu, có vương trượng là cây sậy yếu ớt, có vệ binh là 12 tông đồ không biết đến việc binh đao… Bởi lẽ, Nước của Ngài không thuộc về thế gian này. Hiến Pháp của Nước trời là giới luật Yêu thương: “Đây là giới răn của Thầy là các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con”. Yêu như Thầy là hy sinh mạng sống cho người mình yêu: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hy sinh mạng sống vì bạn hữu” (Ga 15,13).
Thế nhưng, đứng trước một vị vua như thế, thử hỏi có được mấy người yêu mến và qui phục Ngài? Hình như, con người ngày nay quá yêu thích quyền lực, giàu sang, thoải mái… nên họ cũng muốn xây dựng nơi mình hình ảnh của một vì vua theo ý và sở thích của riêng họ. Họ sẵn sàng bỏ ra hàng giờ ngồi phơi nắng dầm mưa để xem vua bóng đá Péle, Ronaldo trình diễn trên sân cỏ và cổ võ hết mình. Họ sẵn sàng thức trắng đêm để nghe vua nhạc Pop Michael Jackson hát… nhưng họ rất ngại đến với Vua Kitô để nghe Ngài chỉ dạy những con đường dẫn tới chân thiện mỹ và sự sống vĩnh cửu. Lý do là vì ta còn biết quá ít về Chúa Giêsu, chưa đi vào sự sống mật thiết với Ngài, chưa để cho tình yêu của Ngài dẫn dắt cuộc đời của ta và trên hết là chúng ta chưa có lòng ao ước sống trong Vương quốc tình yêu của Chúa.
Tin mừng hôm nay thuật lại cuộc gặp gỡ và trao đổi giữa Chúa Giêsu và Philatô xung quanh vấn đề vương quyền của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu khẳng định với Philatô và cũng là với tất cả chúng ta rằng Ngài là Vua, nhưng Nước Ngài không thuộc về thế gian này. Điều đó cũng có nghĩa là Nước của Ngài thuộc về thượng giới hay chính là Nước trời.
Tôi có quen với một chị ở Việt Nam nhưng đã sang định cư ở bên Úc 5 năm rồi, dù chính quyền Úc chấp nhận cho chị nhập cư, nhưng chị chưa thể trở thành công dân của nước Úc được, và dĩ nhiên những quyền lợi của chị bị nhiều hạn chế. Chị nói với tôi là để được chấp nhận là một công dân của nước này thì phải có một số điều kiện như: phải ở lại Úc trong thời gian xuyên suốt ít là năm, rồi phải trải qua kì thi quốc tịch rất khó…
Còn chúng ta, kể từ khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội là chúng ta chính thức trở thành công dân của Nước trời, được đầy đủ quyền lợi của một người con cái Thiên Chúa với quyền thừa kế Nước trời, xem ra quá dễ dàng. Nhưng thử hỏi chúng ta đã lưu tâm đến quyền công dân này như thế nào? Chúng ta có quí trọng, có tha thiết với chuyện này không? Hay vì thấy Chúa ban ơn dễ dàng quá rồi chúng ta xem thường? Thậm chí có người còn chối bỏ quyền công dân này cách dễ dàng khi họ quyết đi theo tiếng gọi của quyền lực trần thế (Chẳng hạn: làm trưởng phòng này thì anh chị không thể là người Công giáo được! Thế là Chúa bị khai trừ. Chức trưởng phòng được đặt lên trên quyền Công dân Nước trời, đôi khi trên cả Chúa nữa! Chuyện này không phải là hiếm xảy ra đâu). Hoặc có người sẵn sàng chấp nhận tuyệt thông với Giáo hội chỉ vì muốn thoả mãn đi theo tiếng gọi của những mối tình vụn trộm nên dẫn đến việc ngoại tình, phá thai, kết hôn không phép đạo… Nhưng cũng có biết bao những tâm hồn thành tâm thiện chí, quyết bảo vệ quyền Công dân Nước trời của mình nên sẵn sàng hy sinh tất cả, vui lòng mất mát tất cả, ngay cả mạng sống của mình miễn sao đừng lạc mất Chúa. Đó là gương của các thánh tử đạo mà chúng ta mới vừa mừng kính hôm Chúa Nhật tuần trước. Khi hết lòng vì niềm tin mình đã lãnh nhận là khi chúng ta tin nhận Chúa Giêsu chính là Vua của chúng ta, Nước trời là gia nghiệp đời đời của chúng ta. Thử hỏi cón có ai khôn ngoan hơn nũa không? Chọn Chúa, chọn Nước Trời làm gia nghiệp là chọn lựa cao nhất và khôn ngoan nhất mà con người có thể làm được ngay tại thế gian này.
Nhưng làm sao chúng ta có thể chọn lựa được như thế nếu chúng ta không hiểu biết và yêu mến Thiên Chúa của mình. Khi Philatô hỏi Chúa Giêsu: “Ông có phải là vua dân Do thái không?” thì Chúa Giêsu hỏi lại: “quan tự ý nói thế hay có người khác nói với quan về tôi”. Chúa muốn kiểm định xem cái biết của Philatô ở mức độ nào: chỉ nghe nói về Chúa hay đã có cảm nhận riêng về Ngài? Rõ ràng Philatô đã biết cách rất mù mờ về Chúa Giêsu với những thông tin đầy thành kiến về Chúa do những kẻ chống đối Chúa cung cấp cho. Cách biết của Philatô về Chúa Giêsu như thế sẽ không thể làm cho ông đi vào sự thân mật với Chúa Giêsu. Và như thế thì Chúa Giêsu sẽ còn tiếp tục im lặng. Ngài sẽ im lặng trước câu hỏi của Philatô: “Sự thật là cái gì?”. Như thế, chắc chắn Philatô sẽ không được: “sự thật giải thoát” mà sự thật đó chính là Đức Giêsu như Ngài đã từng nói: “Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống”.
Sống niềm tin và trở thành môn đệ của Chúa Giêsu là đi vào sự tiếp xúc riêng tư với Ngài, để chi tình yêu của Ngài tác động và lôi kéo ta vào thế giới riêng. Nơi đó, ta sẽ gặp được tình yêu, lòng thương xót và sự thật. Nơi đó, ta sẽ gặp được vị Vua thật của lòng ta và Ngài sẽ Vua cai trị tâm hồn ta. Khi đó, chúng ta sẽ biết cách hành động theo chân lý và sẽ được “Chân lý giải thoát” chúng ta.
(Suy niệm của Lm. Anfonso)
Suy niệm:
Trong cuộc sống, chúng ta đã từng nghe nói nhiều đến những vị vua và các triều đại. Vua là người làm bá chủ một vùng, một lãnh thổ, có quyền lực đứng nhất thiên hạ đến nỗi có một thời người ta quan niệm rằng “quân xử thần tử, thần bất tử bất trung”. Bên cạnh đó, cũng có những người “làm vua” theo kiểu đứng đầu về một ngành nghề, lãnh vực như vua dầu mỏ, vua bất động sản, vua thị trường chứng khoáng, vua bóng đá, vua tennis sân đất nện, ông hoàng nhạc pop…
Hôm nay, Giáo hội dành Chúa nhật cuối cùng của Năm Phụng vụ để mừng lễ Chúa Kitô là Vua Vũ Trụ. Nhiều người đã hiểu lầm và gán ghép cho việc làm vua của Chúa Kitô theo kiểu tranh giành quyền lực trần thế để rồi kết án Người.
Trước tiên, người Do Thái một dân đang bị thống trị muốn có một người thuộc dòng dõi Vua Đavíd chính thức lên ngôi, làm vua để lãnh đạo dân kháng chiến và chiến thắng quân La Mã kẻ thù, đem lại tự do cho dân. Trong khi Chúa Giêsu lại khuyên họ sống khiêm tốn, yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho kẻ ngược đãi mình.
Thứ hai, vì Chúa Giêsu lên án việc sống giả hình của những nhà lãnh đạo dân Do Thái, và họ cũng từ chối, xem Người phạm thượng khi xưng mình là Con Thiên Chúa nên các thân hào và kỳ mục muốn mượn đao giết người một hợp pháp bằng việc gán ghép Chúa Giêsu muốn đảo chính. Họ nhờ chính quyền đô hộ kết án tử Chúa Giêsu.
Thế nhưng, việc làm vua của Chúa Giêsu không nhằm chiêu dụ bằng của cải vật chất. Cả khi người ta được Chúa cho ăn bánh no nê, họ muốn tôn Người lên làm vua nhưng Người lánh họ mà đi. Chúa Giêsu làm vua theo cách của Người: Vua tuyển mộ thần dân rằng “Ai muốn theo Tôi, hãy tự bỏ mình, vác thập giá mình hàng ngày mà theo Tôi”. Vị Vua không vệ binh, không quân đội nhưng thuyết phục bằng việc đánh động cái tâm “Cả anh em cũng muốn bỏ Thầy mà đi hay sao?” Một vị vua không dùng bạo lực, không kháng cự: “Ai dùng gươm sẽ chết vì gươm”. Một vị vua dùng tình thương và nêu gương bước trước: “Thầy rửa chân cho anh em thì anh em cũng hãy rửa chân cho nhau”. Một vị vua không “ăn cổ đi trước, lội nước theo sau” nhưng lại tự nguyện gánh tội lỗi của dân, để mình bị “giao nộp” cho kẻ thù, và Người đã đi bước trước noi gương: “không có tình yêu nào cao quý hơn tình thương của người dám hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình”. Vâng, một vị vua không có biên cương lãnh thổ, cùng một tình thương không biên giới: đó chính là Vua Giêsu, Vua trên các vua, Chúa trên các chúa. Vương quyền của Chúa Giêsu quy tụ cả người cao sang quyền quý lẫn người thấp hèn, bé mọn, yếu đuối, tật nguyền, tội lỗi, … kể cả những kẻ bị xã hội gạt ra bên lề.
Thần dân của Nước Chúa được gọi là các “tín hữu” là những người tin vào Chúa. Đồng thời việc thờ phượng Chúa không phải ở hình thức, tổ chức những buổi lễ rình rang cờ xí trống kèn mà lòng thì trống rỗng. Trở nên thần dân của Người không chỉ là việc lãnh nhận Bí tích Rửa tội là đủ, nhưng cần liên hệ với thực tại nhân sinh, với cuộc sống cá nhân, gia đình, nghề nghiệp và xã hội. Thần dân ấy cần can đảm sống theo sự thật, như Chúa đã cho biết: “Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi”.
Mỗi người Kitô hữu chúng ta là công dân nước Chúa, vậy chúng ta được mời gọi góp phần vào công việc xây dựng vương quốc của Chúa Kitô trên trần gian này trước tiên qua việc thờ phượng Chúa trên hết mọi sự, chính mình biết thánh hóa bản thân mỗi ngày bằng đời sống đạo đức, Thánh lễ, cầu nguyện. Đồng thời chúng ta cũng cần sống giới Răn “Yêu Thương” được thể hiện rõ nơi 8 mối Phúc. Thực thi luật Yêu Thương mới làm cho con người ta sống mãi vì tình yêu mạnh hơn sự chết. Nhờ thế mà con người ta trở nên vĩnh cửu trong Chúa Kitô là Vua vũ trụ.
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng)
ĐỨC GIÊSU KITÔ VUA VŨ TRỤ – VUA SỰ THẬT
Chúa Giêsu có phải là vua thật không? Ngài là vua theo nghĩa nào? bài Tin Mừng trả lời cho chúng ta những câu hỏi đó trong phiên tòa Rô-ma xử án Chúa Giêsu. Người xét xử là tổng trấn Phi-la-tô, là ông quan của đế quốc Rô-ma đặt cai trị ở Do thái, vì lúc ấy dân Do thái đang ở dưới quyền đô hộ của người Rô-ma. Bị cáo là Chúa Giêsu, do người Do thái điệu Chúa đến đây để xin Phi-la-tô xét xử.
Phi-la-tô hỏi Chúa: “Ông có phải là vua dân Do thái không?”. Để trả lời, Chúa hỏi lại: “Ngài tự ý hỏi điều ấy hay những người khác đã nói với ngài về tôi?”. Hỏi như vậy là Chúa muốn vạch trần thâm ý của Phi-la-tô. nếu Phi-la-tô tự ý hỏi như vậy tức là Phi-la-tô muốn hỏi: “Anh có phải là tay lãnh tụ chính trị, dám chống lại chính quyền Rô-ma không?. Đối với Phi-la-tô, là vua Do thái chỉ có nghĩa như vậy. Mà nếu như thế thì câu trả lời của Chúa là “không”. Ngài không phải là vua theo nghĩa đó. Còn nếu câu Phi-la-tô hỏi là do các nhà lãnh đạo Do thái nhắc nhở cho, thì có nghĩa là Chúa Giêsu là vị cứu tinh của Do thái như Thiên Chúa đã hứa với dân tộc họ. Nếu như thế thì câu trả lời của Chúa là “có”. Ngài thực sự là vua. Nhưng không phải chỉ là vua của dân Do thái mà còn là vua của mọi người. Nói rõ hơn, Chúa Giêsu là vua tâm linh, là vua lòng mọi người, chứ không phải là vua theo nghĩa thông thường trần gian. Nước của Chúa bao gồm những tâm hồn tin theo Chúa. Vì thế, vương quyền của Chúa có tính cách thiêng liêng chứ không có tính cách trần thế, không dùng phương tiện, sức mạnh, bạo lực của trần gian. Trái lại, phương tiện thực thi vương quyền của Chúa là nhập thể cứu chuộc và rao giảng sự thật. Chính Chúa đã khẳng định với Phi-la-tô: “Tôi là vua, nước tôi không thuộc về thế gian này. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi”.
Như vậy, chúng ta có thể quả quyết: Chúa Giêsu là vua. Ngài là vua sự thật. Sự thật là gì? Chính Phi-la-tô đã hỏi Chúa điều đó. Chúa không đáp lại bằng lời nói mà bằng chính việc Ngài đang thực hiện trước tổng trấn. Việc đó là thực hiện việc của tình yêu cứu độ. Ngài vô tội, nhưng vì yêu thương nhân loại, đã cam lòng chịu chết để đền tội cho nhân loại. Sự thật là như thế. Đó là tình yêu cứu độ. Đó là sự thật mà Chúa muốn làm chứng và muốn nói tới. Và giờ đây, nhìn chung quanh trong nhà thờ này: các ảnh tượng Chúa, chúng ta cũng thấy sự thật cứu độ là như vậy: Chúa Giêsu trên cây Thánh giá, Chúa Giêsu trong phép Mình Thánh, Chúa Giêsu trong chặng đường thánh giá…Tất cả đều nói lên tình yêu cứu độ.
Tình yêu ấy đã được ban cho con người, chỉ cần con người đón nhận tình yêu ấy bằng một tâm hồn khiêm tốn, khao khát tình yêu cứu độ. Và bằng tâm hồn mở rộng ra, yêu thương bác ái đối với những người chung quanh. Sự thật cứu độ như vậy, nói thì đơn sơ dễ dàng, nhưng thực hiện thật là phức tạp và khó khăn, đòi hỏi nhiều cố gắng của chúng ta. Bởi vì cuộc sống tất bật, chật vật, đầu tắt mặt tối, đầy lo toan khốn khổ, dễ đẩy chúng ta vào thái độ ích kỷ, nhỏ nhen, thấp hèn. Chúng ta không dễ nhường nhịn nhau, hòa thuận với nhau, mà ngược lại, muốn lấn lướt người, muốn được phần hơn, muốn loại trừ nhau, nhiều khi dùng cả những thủ đoạn độc địa, thô bỉ nữa. Như vậy, chúng ta chưa sống sự thật cứu độ, chưa rao giảng sự thật cứu độ, chưa làm chứng cho sự thật cứu độ. Điều đó có đúng không?
Chúng ta tôn xưng Chúa Giêsu là vua, thì chúng ta là dân của Ngài. Chúng ta tôn xưng Chúa là vua sự thật, thì chúng ta là dân sự thật của Ngài, chúng ta phải làm sáng tỏ sự thật ấy. Cuộc sống chúng ta có rất nhiều dịp, nhiều lúc phải quyết định chấp nhận hay từ khước, nói có hay không dứt khoát: có thì nói có, không thì nói không. Một khi chúng ta trả lời “có” cho một người, tức là chúng ta trả lời “không” cho người khác. Khi chúng ta trả lời “có” cho Thiên Chúa, là chúng ta trả lời “không” cho ma quỷ cám dỗ. Không thể có trung lập giữa không và có, giữa Chúa và ma quỷ, giữa ánh sáng và bóng tối. Theo Chúa là phải có một quyết định, một lập trường, một triết lý sống thực hành thánh thiện, ngay thẳng, trung thực, chứ đừng ăn không nói có, lật lọng, dối trá, thay trắng đổi đen.
Nói rõ hơn, chúng ta phải tôn trọng sự thật: phải giữ thành thật trong lời nói, tư tưởng và việc làm. Không được làm chứng dối, thề gian, bỏ vạ, cáo gian, đổ tội cho người khác, vu khống người ta. Không được xét đoán vô căn cứ, kết tội khi chưa đủ bằng chứng, cả khi nói những lời gây thiệt hại danh dự của người khác…cũng đều lỗi phạm sự thật. Can đảm biện hộ cho sự thật khi cần đến và có sự thật buộc chúng ta phải giữ kín.
Chúng ta hãy nhớ: một người sống trung thực, chân thành, bác ái, yêu thương giữa một xã hội đầy dẫy những lừa lọc, gian dối, ích kỷ, ti tiện…có lẽ sẽ bị đánh giá là một người không giống ai, là một người lội ngược dòng nước cuốn, Nhưng chính việc lội ngược dòng, chính việc sống trung thực, yêu thương lại chính là thánh giá mỗi người cần phải vác hằng ngày. Chúng ta phải trở nên muối đất, trở nên ánh sáng thế gian bằng cuộc sống chứng nhân trung thực cho Chúa Giêsu Kitô.
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
MỘT GIẢI PHÁP CHO NỀN HÒA BÌNH THẾ GIỚI
Vương quốc Fanxica là một đất nước thái bình, thịnh vượng. Nhà vua và hoàng hậu lại có diễm phúc sinh được hai hoàng tử khôi ngô tuấn tú, văn võ song toàn và có khí phách dũng cảm của bậc anh hùng. Hai vị hoàng tử nầy lại thương yêu hoà hợp với nhau, đêm ngày gắn bó với nhau như hình với bóng. Trong khi đó, vua nước láng giềng tên là Faroux, là một người cực kỳ nham hiểm và ác độc, nuôi mối căm thù truyền kiếp với vua Fanxica. Lòng căm thù của ông lại càng dâng cao khi thấy vua Fanxica có hai hoàng tử khôi ngô tuấn tú, vũ dũng hơn người, trong khi mình thì không có lấy một mụn con. Vì thế, ông rắp tâm hạ sát hai vị hoàng tử kia cho bằng được.
Vua Faroux biết hai vị hoàng tử thường hay vào rừng săn bắn, nên vua cho người mai phục, giăng bẫy bắt được hoàng tử em là Faram. Sau khi hay tin em mình mất tích trong rừng, hoàng tử anh một mình một ngựa xông xáo vào rừng tìm em. Không ngờ chính anh cũng bị vua Faroux giăng bẫy bắt được. Tên vua độc ác giam hai anh em vào hai ngục tối biệt lập nên hai hoàng tử không hề hay biết gì về số phận của người kia.
***
Theo thông lệ hàng năm, vào dịp sinh nhật của vua, vua cho tổ chức những cuộc quyết đấu giữa những con ác thú, để chúng phanh thây xé xác nhau làm trò vui cho quan quân và dân chúng. Năm nay, thay vì cho ác thú đấu nhau, nhà vua ác độc bắt hai tù nhân vạm vỡ khoẻ mạnh, mỗi người mang một bộ da sư tử trên mình, đeo thêm mặt nạ sư tử, và buộc họ phải quyết đấu cho đến khi một trong hai người phải chết. Ai sống sót sẽ được trả tự do.
Cả đấu trường hò la vang dậy khi quân lính dẫn hai đấu thủ mặc lốt sư tử bước ra. Với thanh mã tấu trên tay, hai con người lốt sư tử xông vào nhau chiến đấu vô cùng ác liệt như hai ác thú say mồi. Đám đông cổ võ hò la vang trời dậy đất. Cuộc chiến kéo dài hơn cả tiếng đồng hồ mà vẫn bất phân thắng bại. Cả hai đấu thủ mệt nhoài, mình mẩy hai người đều đầy thương tích máu me, nhưng không ai chịu nhường ai. Mỗi người đều dốc hết toàn lực để hạ đối thủ, để dành sự sống, để được trả tự do, để khỏi làm nô lệ suốt đời. Chỉ có chiến thắng hay là chết!
Thế rồi đấu thủ cao người hơn lao tới như báo vồ mồi, vung đao chém xoạc mặt đối phương, làm rơi mặt nạ sư tử, để lộ ra một khuôn mặt… rất thân quen! Anh kinh hoàng tột độ! Thanh mã tấu trên tay rơi xuống. Anh giật bỏ mặt nạ của mình ra. Hai người ồ lên kinh ngạc. Họ bàng hoàng nhận ra nhau. Không ai xa lạ, họ chính là hai anh em ruột thịt, hai hoàng tử con vua Fanxica bị vua Faroux bắt cóc. Họ lao vào nhau, ôm chầm lấy nhau khóc nức nở. Họ đâu ngờ rằng đối thủ mà họ quyết tâm tiêu diệt cho bằng được lại là người anh em rất thân yêu. Nước mắt tuôn tràn hoà chung với máu. Hai con người bầm dập, mình mẩy đầy máu me ôm nhau khóc tức tưởi. Khóc vì đã coi nhau như kẻ thù, đã đấu tranh với nhau như ác thú; khóc vì đã gây cho nhau bao vết thương đau. Họ vẫn đứng đó, ôm nhau khóc tức tưởi trước hàng ngàn cặp mắt bàng hoàng kinh ngạc của mọi người.
***
Hình ảnh hai anh em ruột thịt giao đấu với nhau một mất một còn trong câu chuyện trên đây là một minh hoạ cho tấn thảm kịch đau thương vẫn diễn ra hằng ngày giữa cộng đồng nhân loại. Ngay giờ đây, nhiều nơi trên thế giới cũng đang xảy ra những cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn y như thế.
Chính ma quỷ thù nghịch với Thiên Chúa, cũng giống như ông vua Faroux độc ác kia, đã trùm lên con người lốt sư tử, lốt chó sói. “Người là chó sói của người – homo homini lupus”. Vì thế, con người không còn nhận ra nhau là anh em cùng loài; mà xem người khác như là kẻ thù cần tiêu diệt để dành lấy sự sống cho mình.
Đứng trước thảm cảnh đó, mọi cố gắng xây dựng hoà bình của con người, của các tổ chức quốc tế đều không thể dập tắt hận thù và chiến tranh. Khi hai bên đã say máu chiến tranh, nếu có người tước súng đạn của họ đi, thì đôi bên sẽ chiến đấu với nhau bằng dao rựa, mã tấu… Nếu tịch thu dao rựa, mã tấu, thì đôi bên sẽ dùng gậy gộc gạch đá để huỷ diệt nhau; Có tịch thu hết gậy gộc gạch đá thì đôi bên có thể tấn công nhau bằng nắm đấm, dùng răng để cắn xé nhau…
Vậy phải làm thế nào để chấm dứt chiến tranh, tái lập hoà bình cho nhân loại? Muốn làm cho đôi bên tự động ngưng chiến và làm hòa lại với nhau thì giải pháp tốt nhất không phải là tước bỏ khí giới mà là khai hoá cho đôi bên biết rằng: đối thủ của họ không là ai khác mà chính là người anh em ruột thịt con cùng một cha.
Chính Vua Giêsu đến thế gian để thực hiện điều đó. Ngài tuyên bố trước toà Philatô: “Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật”. Sự thật quan trọng nhất của Chúa Giêsu là soi sáng cho mọi người biết Thiên Chúa là Người Cha rất yêu thương và tất cả nhân loại là con cái của Ngài và là anh chị em ruột thịt với nhau. Với sự thật nầy, mặt nạ da thú đã bị tước bỏ đi, để lộ khuôn mặt rất thân thương của người anh em.
Mừng lễ Chúa Giêsu Vua, chúng ta hãy cầu xin cho mọi người trên khắp thế giới được đón nhận sự thật cao đẹp do Chúa Giêsu mang đến. Chỉ có sự thật tuyệt vời nầy mới có thể giải thoát nhân loại khỏi hận thù chiến tranh, khỏi cảnh huynh đệ tương tàn, nồi da xáo thịt. Chỉ có sự thật nầy mới là động cơ xây dựng thế giới trở thành một đại gia đình huynh đệ.
(Suy niệm của Đức Ông Nguyễn Quang Sách)
CHÚA KITÔ VUA “CHÚA GIÊSU TRỌN VẸN,
NHÂN BẢN NHẤT VÀ CÒN SIÊU VIỆT”
ROMA- Bài giải thích của Cha Raniero Cantalamessa, giảng Phủ giáo Hoàng, về những bài đọc phụng vu Chúa nhật Chúa Kitô Vua:.
“Rồi các ông sẽ Con Người ngự bên hửu Đấng toàn năng, và ngự giá mây mà đến…”
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Pilatô hỏi Chúa Giêsu,” Ông có phải là Vua dân Dothái không?” và Chúa Giêsu trả lời,” Chính ngài nói tôi là Vua.” Trươc đó không lâu, Caipha đã hỏi Người cũng một câu hỏi đó trong cách khác: “Ông có phải là Con Thiên Chúa Đáng Chúc tụng không?” và Chúa Giêsu đã thẳng thắng trả lời lần này: “Chính tôi đây!”
Thật vậy, theoTin Mừng Thánh Marcô, Chúa Giêsu tăng cường câu trả lời này, trưng dẫn và áp dụng cho chính mình điều mà tiên tri trong Sách Daniel đã nói vể Con Người ngự giá trên mây trời mà đến và nhận lãnh vương quốc không bao giờ tàn (Bài đọc I). Một thị kiến vinh hiển trong đó Chúa kitô xuất hiện trong câu truyện và trên câu truyện, thế tục và đời đời
Bên hình ảnh vinh hiển này của Chúa Kitô chúng ta gặp, trong các bài đọc lễ trọng này, hình ảnh Chúa Giêsu khiêm tốn và đau khổ, quan tâm về việc làm cho các môn đệ nên vua hơn là cai trị họ. Trong đoạn trích từ sách Khải Huyền, Chúa Giêsu được diễn tả như là “Đấng yêu thương chúng ta và đã cứu chúng ta khởi tội bằng máu Người, Đấng đã đưa chúng ta vào một vương quốc, làm linh mục cho Thiên Chúa và Cha của Người.”
Điều được luôn luôn chứng tỏ khó làm là giữ chung hai đặc quyền này của Chúa Kitô-vẻ uy quyền và lòng khiêm tốn-phát sinh từ hai bản tính của Người, thần tính và nhân tính. Con ngươi thời nay không có vấn đề thấy trong Chúa Giêsu người bạn và người anh của mọi người, nhưng họ gặp là chuyện khó nếu cũng công bố Người là Chúa và công nhận vương quyền của Chúa Giêsu trên họ.
Nếu chúng ta xem cuốn phim chiếu Chúa Giêsu, thì rõ về sự khó nầy. Nói chung phim cinema đã chọn Chúa Giêsu làm người hiền, bị bắt bớ, bị hiểu lầm, rất gần gũi con người hầu chia sẻ thân phận con người, những sự nổi loạn con người, sự ước muốn của con người sống một đời sống bình thường. Trong đường hướng này được kết nối phim”Jesus Christ Superstar-Chúa Giêsu Siêu Sao” và “Sự Cám Dỗ Cuối Cùng của Chúa Kitô” thô lỗ và phạm thượng hơn của Martin Scorcese.
Pier Paolo Pasolini, trong “Vangelo secondo Matteo” (Tin Mừng theo thánh Matthêo), cũng cho chúng ta thấy Chúa Giêsu là Người bạn các tông đồ và các con người, gần gũi với chúng ta, mặc dầu Người không thiếu một chiều kích nào đo của mầu nhiệm, được diễn tả với nhiều thi thơ, hơn hết qua những lúc sầu thảm thinh lặng.
Chỉ có Franco Zeffirelli, trong cốn phim “Chúa Giêsu thành Nadareth” của ông, đã cố gắng giữ cả hai là vẻ uy quyền và tính khiêm nhượng. Chúa Giêsu xuất hiện trong cuốn phim của Zeffirelli’s như là một người giữa muôn người, niềm nở và gần gũi, nhưng, đồng thời, như một Đấng, với những phép lạ và sự phục sinh của Người, đặt chúng ta trước mầu nhiệm của bản thân Người, một con người vượt quá sự nhân bản đơn thuần.
Tôi không muốn ngăn chận những cố gắn tái đề nghị biến cố Giêsu trong những từ có thể hiểu được và bình dân. Trong thời gian của Người Chúa Giêsu không bị xúc phạm nếu “dân chúng” xem người như là một trong các vị tiên tri. Tuy nhiên, ngài hỏi các tông đồ, “Nhưng phần anh em, anh em nói Thầy là ai?” cho thấy rõ những câu trả lời về phía dân chúng thì không đủ.
Chúa Giêsu mà Giáo Hội trình bày cho chúng ta hôm nay trong ngày lễ trọng Kitô Vua, là Chúa Giêsu trọn vẹn, hầu như nhân bản mà còn siêu việt. Tại Paris thanh gỗ đã được sử dụng để thiết lập chiều dài của thước được giữ cẩn thận đến nỗi đơn vị đo lường này, do Cách Mạng Pháp đưa vào, không bị thay đổi với thời gian. Cũng vậy, trong cộng đồng tín hữu tức là Giáo Hội, hình ảnh thật sự của Chúa Giêsu thành Nadareth được bảo tồn. Hình ảnh này phải được sử dụng như là tiêu chuẩn để đo tính hợp pháp của mọi sự trình diễn về Người trong văn chương, cinéma và nghệ thuật.
Đó không phải là một hình ảnh cố định và trơ trơ, được giữ dưới tủ kính như cây thước, nhưng là một hình ảnh Chúa Kitô sống động, Đấng lớn lên trong sự hiểu biết của Giáo Hội, Đấng sẽ tiếp tục làm nẩy sinh những câu hỏi và những thách thức mới của nền văn hóa và phát triển nhân bản.
(Suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long, OFM.)
1.- Ngữ cảnh
Trong đêm, Đức Giêsu đã bị bắt (Ga 18,12) và bị điệu đến ra trước các ông Khanan (18,13) và Caipha (18,24). Đến sáng, người Do Thái lại điệu Đức Giêsu đến dinh tổng trấn Philatô (18,18). Bản văn đọc hôm nay cho thấy Người đang ở tại tòa án Rôma; Người đứng trước quan tổng trấn, là nhân vật có quyền lực tối cao, nắm quyền sinh sát trong tay. Không phải là trong một cuộc đối thoại thong thả, nhưng là trong một phiên tòa có thể định đoạt về mạng sống, mà những gì Đức Giêsu đã làm được công bố. Người đảm nhận trách nhiệm về sứ mạng của Người và tuyên bố cho hiểu “Nước” của Người thuộc về loại nào.
Tùy theo sự di chuyển của Philatô ra với dân chúng hay vào với Đức Giêsu, cuộc xử Đức Giêsu trước tòa Philatô được bố trí thành 7 đoạn theo cấu trúc chuyển hoán và đồng tâm như sau (Các học giả cũng có đề nghị một cấu trúc song song, nhưng không thuyết phục):
– đoạn 1: 18,28-32: bên ngoài;
– đoạn 2: 18,33-38a: bên trong;
– đoạn 3: 18,38b-40: bên ngoài;
– đoạn 4: 19,1-3: bên trong – Đỉnh cao: “Kính chào Vua dân Do Thái” (19,3);
– đoạn 5: 19,4-8: bên ngoài;
– đoạn 6: 19,9-11: bên trong;
– đoạn 7: 19,12-16a: bên ngoài.
\
Trong toàn khối này, bản văn đọc hôm nay thuộc đoạn 2, là đoạn phong phú nhất với những tư tưởng thần học về ý nghĩa đích thực của vương quyền của Đức Giêsu.
2.- Bố cục
Chất liệu của bản văn được bố trí xoay quanh câu hỏi của Philatô: “Ông có phải là vua dân Do Thái không?”. Tuy nhiên, ta có thể chia bản văn ra thành ba đơn vị dựa theo ba lần đối đáp giữa Philatô và Đức Giêsu:
1) Đặt vấn đề về vua (18,33-34);
2) Đặt vấn đề về các việc làm của Đức Giêsu (18,35-36);
3) Đặt vấn đề về vua (18,37).
3.- Vài điểm chú giải
– vua dân Do Thái (33): Đây là những lời đầu tiên của Philatô. Trên môi ông này, từ “Do Thái” không có sắc thái thù nghịch (như ở c. 31), nhưng nhắm đến quốc gia Do Thái.
– Tôi là người Do Thái hay sao? (35): Có tác giả cho rằng Philatô nói như thế là để tỏ ý khinh bỉ người Do Thái. Nhưng đúng hơn, nên cho rằng Philatô chỉ muốn nói rằng ông không biết gì về Đức Giêsu ngoài những gì giới hữu trách Do Thái đã báo cáo với ông về Người.
– chốn này (36): Tác giả dùng từ enteuthen, “chốn này”, cũng có nghĩa là “thế gian này” (ek tou kosmou toutou), vì ngài muốn tránh nhắc lại công thức ấy lần thứ ba. Cụm từ “thuộc về thế gian này” có nghĩa tương tự “thuộc về đất” (ek tês gês, 3,31), có đặc tính của thế gian này. Như vậy, dịch cho rõ nghĩa là “Nước tôi không thuộc về đất”.
– Vậy ông là vua sao? (37): Cách Philatô nhắc lại câu hỏi như thế không phải là lạ thường. Bởi vì theo tập tục Rôma, khi bị cáo không tự biện hộ được cho đến nơi đến chốn, thì quan tòa sẽ hỏi trực tiếp ba lần, trước khi nghị án.
– Chính ngài nói rằng tôi là vua (37): Đức Giêsu không chối Người là vua, nhưng đây không phải là một danh xưng mà Người trực tiếp chọn lấy để mô tả vai trò của Người.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Chúng ta ở bên trong tòa án, Philatô trở vào trong dinh, và cho gọi Đức Giêsu đến. Đây có phải là Đồn Antônia không, chúng ta không rõ. Lúc này là bình minh. Chi tiết này có tính thông tin, nhưng cũng có tầm mức biểu tượng: đây là ngày Đức Giêsu chịu chết, nhưng cũng là ngày bắt đầu vinh quang; đây là ngày “quyết liệt” của Đức Giêsu, ngày sắp diễn tiến, ghi dấu ấn trên toàn thể lịch sử của nhân loại. Điều cần ghi nhận là có hai không gian: người Do Thái không vào dinh Philatô vì sợ bị nhiễm uế, và như thế không được cử hành lễ Vượt Qua; Đức Giêsu đang ở trong dinh Philatô, tức ở trên phần đất bị nhiễm uế: Người đã bị dân Do Thái (dân không nhiễm uế) loại trừ.
Philatô và Đức Giêsu đối diện nhau, ta không thấy có nhân vật nào khác ở đây. Tương ứng với đoạn văn này là đoạn 19,8-12, là nơi Philatô và Đức Giêsu cũng ở một mình với nhau.
* Đặt vấn đề về vua (33-34)
Từ c. 33 trở đi, các chi tiết được cung cấp dồi dào. Tác giả nêu bật chuyển động của Philatô. Ông đi vào và hỏi trực tiếp Đức Giêsu là Người có phải là vua chăng. Ông dùng công thức “vua dân Do Thái” (ho basileus tôn Ioudaiôn). Rất có thể ông dùng lại lời tố cáo của người Do Thái; tuy nhiên, chúng ta không tìm thấy lời tố cáo này minh nhiên ở đâu cả. Nhưng Đức Giêsu hỏi ngược lại, Người hỏi ông về thái độ của ông: Philatô phải ý thức rằng ông nói bằng sự hiểu biết riêng hay ông nhắc lại những gì kẻ khác bảo, vì đây là một lời buộc tội rất nặng. Kẻ bị cáo nại tới lương tâm của quan tòa và nhắc ông nhớ tới bổn phận phải kiểm chứng các hoàn cảnh thực tế cho chính xác và với trách nhiệm. Trước tiên, Philatô giữ khoảng cách bằng cách nêu ra nhận định là chuyện này chẳng dính dáng gì đến ông và ông đảm bảo rằng mọi chuyện này là do người Do Thái.
* Đặt vấn đề về các việc làm của Đức Giêsu (35-36)
Rồi ông hỏi: “Ông đã làm gì?” (c. 35b). Bằng câu hỏi này, ông cho thấy rằng ông ý thức về bổn phận của ông, ông không muốn chịu trách nhiệm về các nhận định của kẻ khác hoặc về các phán đoán tổng quát, nhưng ông muốn xác định thật rõ những gì bị cáo đã làm, trước khi tuyên án.
Đức Giêsu trả lời, nhưng tập trung vào câu hỏi “Ông có phải là vua không?” (c. 33). Tác giả cho thấy Đức Giêsu tỏ ra là Người làm chủ tình hình qua cách Người dẫn dắt cuộc thẩm vấn của Philatô: Philatô hỏi câu thứ nhất, Đức Giêsu hỏi về tư cách của tổng trấn; ông hỏi câu thứ hai, Đức Giêsu trả lời câu thứ nhất… Qua đó, Người không nêu ra các sự kiện riêng lẻ, nhưng Người nhắm đến tính cách toàn thể của công trình Người, bằng cách trước tiên nói cho biết điều gì còn thiếu nơi công trình này. Trong khi vẫn bị trói (18,24), Người tuyên bố ba lần: “Nước tôi không thuộc về thế gian này” (18,36). Đức Giêsu muốn nói rằng Nước của Người không phải là kiểu trần gian, không có dính dáng gì với những chuyện lãnh địa hoặc quyền chúa tể, cũng như không liên hệ gì đến việc sử dụng các dụng cụ quyền lực.
* Đặt vấn đề về vua (37)
Từ đó, Philatô đã để cho mình bị thuyết phục, ông hỏi: “Vậy ông là vua sao?” (c. 37), chứ không còn hỏi: “Vậy ông là vua dân Do Thái sao?”. Quả thật, Đức Giêsu đã nhìn nhận Người là vua, nhưng không theo cách của các vua thế gian này. Người đã nói: “Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu…” (c. 36). Có một chuyện Philatô không biết, nhưng chúng ta đã được thông tin, đó là Phêrô đã dùng gươm để chiến đấu hầu bảo vệ Đức Giêsu, nhưng Người đã từ khước kiểu dùng vũ lực ấy. Chỉ có điều đến bây giờ, khi ở trước mặt Philatô, lý do của sự từ khước này mới được Đức Giêsu công bố: Nước của Người không thuộc về thế gian này. Người cũng cho biết Nước của Người không thuộc về thế gian này qua lời nhắc đến việc bị nộp cho người Do Thái. Nếu Người là vua theo cách các vua trần gian này, các thuộc hạ của Người đã chiến đấu cho Người: “không để tôi bị nộp cho người Do Thái”. Vậy, đứng trước Philatô, khi nghe quan hỏi: “Vậy ông là vua sao?”, Đức Giêsu vẫn đang bị trói, ở trong tư thế yếu đuối cùng cực, đã cho thấy Người là ai: Người là vua. Philatô nhận biết rằng Đức Giêsu không phải là một vị vua theo nghĩa người ta đã tố cáo. Nhưng từ những lời Đức Giêsu nói, ông cũng hiểu ra rằng Người vẫn cho rằng Người là vua: thế thì ông muốn biết Nước của Người là kiểu nào.
Đức Giêsu xác nhận lời khẳng định đã nêu ra và bây giờ Người giải thích bản chất của Nước Người theo chiều hướng tích cực, và như thế là mời Philatô đón nhận khẳng định của Người. Người thật sự là vua. Bằng lời nói sau đây, Người xác định lập trường của Người và nhiệm vụ làm vua của Người: “Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian chính là để làm chứng cho sự thật” (c. 37). Ý nghĩa tổng hợp của việc Người sinh ra và đến thế gian nằm trong việc làm chứng cho sự thật: chỉ vì điều này mà Người đến ở trong thế gian và chỉ điều này mới là cốt lõi của công việc làm vua của Người. Chỉ ai biết rõ sự việc và có kinh nghiệm thì mới làm chứng được. Đức Giêsu không muốn nói đến sự thật về một sự kiện nào, nhưng là sự thật về Thiên Chúa. Người có quan hệ trực tiếp với Thiên Chúa, Người biết Thiên Chúa trong sự hiệp thông hết sức thâm sâu. Người được Thiên Chúa sai phái và từ Thiên Chúa mà đến trong thế gian. Chỉ có Người mới làm chứng được về vị Thiên Chúa mà Người luôn hiệp thông với, vì Người sống trong sự hợp nhất hoàn hảo với Thiên Chúa như là Con với Cha.
Theo truyền thống Kinh Thánh, vua là mục tử của dân. Nhiệm vụ của vua là làm cho dân được sống dồi dào. Đức Giêsu đã mô tả công việc của Người là mục tử tốt: “Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (10,10). Cùng với lời chứng về Thiên Chúa, Đức Giêsu giúp người ta đến được với sự sống toàn vẹn, ngoài mọi khả năng của loài người.
Và như để làm chứng cho tầm mức đích thật của lời khẳng định về tư cách vương giả của Người, và cho thấy rằng quyền lực của Người không phải là như quyền lực chính trị của thế gian này, Đức Giêsu tuyên bố rằng, đứng trước lời chứng của Người, trong liên hệ với sự thật, sẽ phát sinh một đường ranh phân đôi loài người: “Phàm ai phát xuất từ sự thật thì lắng nghe tiếng tôi” (c. 37), và hiểu ngầm là ai không phát xuất từ sự thật, thì không nghe tiếng Người (x. 10,2-4).
Như vậy, Đức Giêsu đã tóm tắt cho Philatô về ý nghĩa của sứ mạng của Người, về lý do khiến Người sinh ra đời và khiến Người đến trong thế gian. Đây là một câu tóm rất ngắn, nhưng khá đầy đủ, đầy gợi ý, đặc biệt với lời nhắc đến cuộc chào đời. Lời nhắc này quan trọng vì cho phép ta hiểu được Đức Giêsu là ai. Quả thế, khi gặp Người, ta không thể không tự hỏi Người từ đâu đến và xuất xứ của Người là thế nào.
Câu trả lời của Đức Giêsu cho Philatô cũng rất rõ. Ta không thể biết Người nếu không thay đổi thái độ và lấy lập trường. Do đó, đến cuối lời tuyên bố, Đức Giêsu tìm cách lôi kéo kẻ đang nghe Người vào: “Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi” (c. 37). Philatô sẽ phản ứng như thế nào?
Philatô lại khởi đi từ phần cuối của lời tuyên bố của Đức Giêsu và nêu một câu hỏi nhằm được giải thích: “Sự thật là gì?” (c. 38). Với câu hỏi này, Philatô tránh trả lời và ông phản ứng như một nhà chính trị. Bằng câu hỏi này, hoặc nhằm diễn tả một hoài nghi (ai có thể biết được sự thật chứ?), hoặc một lời chế nhạo (sự thật thì quan trọng gì?), ông đã cắt đứt cuộc đối thoại.
Dù sao, các trao đổi giữa Philatô và Đức Giêsu cho thấy là sứ điệp của Người lúc đầu đã được ưu tiên gửi đến cho dân Do Thái, nhưng họ đã từ khước, nay vượt biên giới tôn giáo để đến với Dân ngoại, có đại diện là quan Philatô.
+ Kết luận
Mặc dù đây là khoảnh khắc lạ lùng, Philatô cũng nhận được một lời loan báo Đức Giêsu gửi cho ông. Rất có thể cuộc đối thoại sẽ đưa Philatô đến chỗ nhận biết Đức Giêsu, Đấng đã nói: “Tôi là sự thật” (14,6), nhưng Philatô chưa đủ chín để nhận ra điều này. Dù sao, đề tài “sự thật” là một đề tài rất quan trọng trong TM IV. Đây không phải là một khái niệm trừu tượng, một phạm trù, hoặc chỉ là một ý tưởng, nhưng là một con người. Sự thật là con người mà Philatô đang thấy trước mặt. Và sự thật là điều mà Philatô không sao hiểu nổi. Để có thể đón nhận lời chứng của Đức Giêsu và hoạt động của Người trong tư cách là vua, người ta phải mở lòng ra với Thiên Chúa. Philatô đã không thể hiểu được ý nghĩa đầy đủ của lời Đức Giêsu đáp, và ông cũng không muốn hiểu. Đối với ông, làm sáng tỏ các tương quan sức mạnh là đủ khi thi hành nhiệm vụ quan tòa, Philatô đã chấp nhận rằng Đức Giêsu nói với ông về nhiệm vụ của ông. Nhưng ông đã khép mình lại trước lời chứng của Đức Giêsu về Thiên Chúa.
5.- Gợi ý suy niệm
- Có những bức tranh diễn tả Đức Kitô Vua: một người với gương mặt nghiêm khắc, thậm chí giận dữ, ngồi trên một cái ngai, bên cạnh có các thiên thần, cũng có gương mặt lạnh lùng và căng thẳng sẵn sàng đáp ứng mọi ước muốn của Người, y như các vệ sĩ! Các nghệ sĩ đã cho thấy Đức Giêsu giống như một vị vua trần thế, mà mọi người phải kính trọng, sợ hãi, vâng phục, luôn luôn phải cong lưng cúi đầu. Thật đáng tiếc, nếu lầm lẫn vương quyền của Đấng Mêsia với vương quyền của thế gian này. Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy một hình ảnh khác hẳn.
- Vương quyền của Đức Giêsu không thể mô tả được bằng các từ ngữ nói về quyền vương đế nhân loại. Vương quyền của Người được xác định bằng cách đặt liên hệ với thế giới khác, thế giới chúng ta mà Đức Giêsu đến sống để làm chứng, và như thế Người đóng vai trò trung gian và đưa thế giới của Thiên Chúa vào ngay trong lòng một thế giới nổi loạn chống lại Thiên Chúa. Quyền làm vua của Người, Đức Giêsu hành xử khi lôi kéo loài người khỏi sự chết để đưa họ vào trong nhà Cha (x. 12,31-32). Người hành xử vương quyền khi Người hy sinh mạng sống (x. 17,1-2).
- Khi làm chứng về sự thật, Đức Giêsu cũng làm chứng về chính mình, vì Người là sự thật, Người đến mang sự thật cho thế gian (8,14.18; 14,6). Khi đi rao giảng Tin Mừng, Người đã làm chứng về sự thật, và đây chính là nguyên nhân đưa Người tới chỗ chết: như vậy, chính vào thời điểm quyết liệt này mà Người làm chứng rõ nhất về sự thật. Đây là chân lý về lòng trung thành và từ bi thương xót của Thiên Chúa muốn cứu độ nhân loại.
- Chúng ta không thể quên rằng đức vua chúng ta là một vị vua chỉ có vòng gai trên đầu. Chúng ta không thể quên rằng chúng ta là thần dân của một vương quốc “không thuộc về thế gian này”, không mang đặc tính của “đất”. Do đó, làm chứng về Tin Mừng, về Đức Kitô, cũng chính là làm chứng rằng Đức Kitô, Vua chúng ta, là một vị vua đã bị kết án tử hình, bị đánh đòn, phải đội vòng gai, và sẽ bị đâm thủng cạnh sườn, để giới thiệu về tình yêu hết sức lạ lùng của Thiên Chúa. Quả thật, Đức Giêsu đã chỉ cho chúng ta thấy vị Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô bờ bến và muốn đón nhận chúng ta vào trong sự hiệp thông trong đó Ngài đang sống với Con. Đức Giêsu muốn đưa chúng ta đến sống với Chúa Cha bằng sự sống mà chính Người đang sống, để chúng ta có được sự an toàn, niềm vui thâm sâu, trong tương lai vững bền. Đây là nội dung của lời chứng chúng ta phải công bố trong lòng thế giới.
(Suy niệm của Lm. FX. Nguyễn Phạm Hoài Thương)
Trong Tin Mừng Gioan, cảnh Chúa Kitô trình diện trước Philatô diễn tiến theo một lược đồ được bố cục cách khéo léo. Ngay từ đầu trình thuật, thánh sử đã nói rõ: người Do thái không vào phủ Philatô để khỏi mắc uế hầu có thể cùng chiều hôm đó cử hành lễ Vượt qua (Ga 18,28); nhưng việc hỏi cung Chúa Kitô phải xảy ra bên trong phủ Philatô, do đấy có một lối dàn cảnh: Philatô phải đi ra để bàn cãi với người Do thái, rồi trở lại phủ để tra hỏi Chúa Giêsu. Vì vậy, trình thuật (Ga 18,28-19,16) chia ra làm bảy phân đoạn, theo các lần ra-vào của Philatô mà thánh sử đề cập rất tỉ mỉ. Bài Tin Mừng chúng ta nghe hôm nay nằm trong phân đoạn II (Ga 18,33-38), có rất nhiều chỉ dẫn thần học về ý nghĩa đích thực của vương quyền Chúa Kitô. Tuy nhiên để hiểu được nó ta phải đặt nó vào trong văn mạnh của cả trình thuật.
- “Nộp” Chúa Giêsu
Nếu chỉ đọc lướt qua Tin mừng, ta có thể kết luận: chính Philatô đã nộp Chúa Giêsu, vì ông đã kết án tử và đã cho đóng đinh Người trên thập giá.
Tuy nhiên, đọc kỹ bản văn ta sẽ thấy: không phải Philatô, nhưng chính người Do thái, đại diện là các thượng tế và Biệt phái, đã muốn giết Chúa Giêsu. Trong Tin mừng, thánh Gioan không hề nói là Philatô đã kết án tử cho Chúa Giêsu mà còn nhấn mạnh: bởi xác tín Chúa Giêsu vô tội, nên Philatô đã muốn thả Người, và sở dĩ ông phó nộp Người để bị đem đi giết là chỉ vì ông sợ hãi trước áp lực của các thượng tế và Biệt phái mà thôi.
Ba lần Philatô xác quyết là chẳng tìm thấy một lý do nào để lên án tử (Ga 18,38b; 19,4; 19,6c); vì vậy, ông có ý định thả Chúa Giêsu (Ga 18,39; 19, 12). Tuy nhiên lòng yêu chuộng công lý nơi ông không mạnh đủ để đương đầu với các yêu sách của đám đông chuyên môn nổi loạn này. Để thắng những do dự cuối cùng của ông, người Do thái dọa tố cáo ông tại Rôma nếu ông tha bổng một tên đã tự xưng là “vua dân Do thái” (Ga 19,12.15c). Bấy giờ Philatô “phó nộp Người cho họ đóng đinh” (Ga 19,6).
Hơn nữa, một khuôn mặt khác, được chính Chúa Giêsu nhắc đến, nổi lên trên hậu cảnh của bi kịch: “… vì thế, kẻ nộp tôi cho ông đã mắc tội nặng hơn” (Ga 19,11b); Người có ý nói đến Giuđa, kẻ nhân danh Satan mà hành động (Ga 13,2.27). Và đây mới chính là kẻ nộp người: Satan, nhờ trung gian của Giuđa, đã nộp Chúa Giêsu cho Philatô.
Một câu hỏi được đặt ra: suốt thảm kịch này, Thiên Chúa, vị Thẩm phán tối cao đã làm chi? phải chăng Ngài đã không có thể ngăn chặn việc xử tử bất công đó? Chắc chắn là không phải vậy, vì Chúa Giêsu xác quyết trước Philatô: “ông chẳng có quyền gì trên tôi nếu từ trên không ban xuống cho ông” (Ga 19,11). Vậy, nếu Thiên Chúa đã chẳng can thiệp, là vì chính Ngài cũng đã muốn “nộp” Con Một Ngài cho thần chết (Rm 8,6-32).
Nhưng hành vi Chúa Cha “nộp” Con mình mang một nghĩa khác hẳn với hành vi của Satan, Giuđa hay người Do thái. Khi “nộp” Con mình, Chúa Cha tôn trọng tình yêu của Chúa Giêsu: chịu đau khổ vì nhân loại, cũng như tôn trọng sự tự do của con người: Giuđa, Biệt phái và các nhân vật khác trong cuộc Khổ nạn; nghĩa là: Ngài cho phép Chúa Giêsu bị bắt bớ được diễn ra. Như thế, xét trong nghĩa này, Chúa Cha “nộp” Chúa Giêsu, thể hiện một tình yêu vĩ đại. Chúa Giêsu đã tự do và tự nguyện chấp nhận để Chúa Cha và loài người phó nộp: “không ai cất mạng sống Ta được, nhưng chính Ta tự mình thí mạng sống Ta” (Ga 10,18). Về phía Chúa Giêsu, việc phó nộp Người là một việc tự phó nộp hoàn toàn thuận ý. Nhưng về phía con người, việc phó nộp Người là một sự phản bội. Không thể so sánh hai việc phó nộp này, vì chúng phát xuất từ những “căn do” khác nhau. Đối với Chúa Cha và Chúa Kitô, căn do này là tình yêu và vì thế các Ngài vô cùng đáng ca tụng. Đối với Giuđa, căn do này là lòng tham của; đối với người Do thái, là thói ghen tương; đối với Philatô, là nỗi sợ hoàng đế, và vì thế, họ đáng bị luận phạt.
- Vương quyền của Chúa Giêsu Kitô được tỏ lộ
Việc Chúa Giêsu hầu tòa Philatô hoàn toàn bị vấn đề vương quyền của Chúa Giêsu chi phối: câu hỏi đầu tiên Philatô đặt ra cho Chúa Giêsu là: “ông là vua dân Do thái sao?” (Ga 18,33). Chúa Giêsu đáp: “Tự mình ông, ông nói thế hay có ai khác đã nói với ông về tôi?” (Ga 18,34); cách trả lời này cho thấy nguyên cớ của câu Philatô hỏi là những luận điệu tố cáo của người Do thái. Philalô không đời nào có ý tưởng bắt Chúa Giêsu và lên án Người chiếm đoạt vương quyền nếu người Do thái không tố cáo. Sở dĩ Philatô phó nộp Chúa Giêsu cho người Do thái, là vì người đã tự xưng là “Vua dân Do thái”.
Họ chế giễu vương quyền mạo nhận của Chúa Giêsu. Binh lính Rôma là những kẻ đầu tiên. Được Philatô ra lệnh, họ đã đánh đòn Người: “Đoạn lính tráng, lấy gai tết một triều thiên đặt trên đầu Người và khoác cho Người một áo choàng đỏ; rồi chúng tiến lại bên Người mà nói: Kính chào vua Do thái, và chúng tát vả Người” (Ga 19,2-3). Màu đỏ là màu của vua, và triều thiên chỉ đội trên đầu vua chúa. Vì Chúa Giêsu đã tự xưng là vua, nên người ta cải trang Người thành vua và nhạo báng Người.
Philatô cũng nhảy vào trò chơi và bổ túc cảnh chế giễu, nhưng ý ông là để nhạo báng người Do thái trong con người vị vua Giêsu. Ông truyền dẫn Chúa Giêsu “đến nơi gọi là Nền đá, tiếng Hipri là Gabbatha” (Ga 19,13). Philatô đặt Chúa Giêsu, mặc áo choàng đỏ và đội triều thiên gai, lên ngồi trên một chiếc ghế tượng trưng ngai tòa, và bảo người Do thái: “Đây là vua các ngươi” (Ga 19,14). Màn nhạo báng quả lên tới tột điểm.
Cuối cùng, sau khi đóng đinh, Philatô cho đặt một tấm biển trên đầu Chúa Giêsu, mang giòng chữ “Giêsu Nadarét, vua dân Do thái” (Ga 19,19). Vua đáng thương hại chừng nào! Là vật khinh khi và đồ phế bỏ của nhân loại, là con người đớn đau và khổ sở như kẻ mà ai thấy phải giấu mặt chẳng dám nhìn. Người đã bị khinh khi và không được đếm xỉa tới (Is 53,3).
Tuy nhiên, cảnh bên ngoài đó lại cho thấy: Chúa Giêsu vẫn chiếm hữu vương quốc của Người như Người quả quyết: “Vương quốc của Ta không thuộc về thế gian” (Ga 18,36). Thành ngữ này trước tiên có nghĩa là vương quyền của Chúa Kitô không thuộc về hạ giới; nó không đặt cơ sở trên sức mạnh hay bạo lực, không dựa trên một quyền lực trần thế nào, nhưng là “từ trên” xuống (Ga 19,11), từ Thiên Chúa mà thôi.
Thành ngữ này cũng có nghĩa là vương quốc của Chúa Kitô mang tính vĩnh cửu, không tồn tại nơi thế gian chóng qua này (1Ga 2,17). Thành ra để chiếm hữu vương quốc Người, Chúa Kitô cần phải từ giã thế gian hiện tại để đi vào cõi vĩnh hằng, phải “qua khỏi thế gian này để đến cùng Cha” (Ga 13,1), và như thế phải được “giương cao khỏi đất” (Ga 12,32). Chính khi chịu đóng đinh, Chúa Kitô chiếm hữu vương quốc Người.
Thánh Gioan mặc nhiên nhấn mạnh điều đó. Trước hết ông ghi nhận: địa điểm mà Philatô đặt Chúa Giêsu ngồi trên tòa, mặc cẩm bào lố lăng, được gọi là “Gabbatha” (Ga 19,13), tiếng Hipri có nghĩa là “nơi cao”. Dưới con mắt của thánh Gioan, hành động của Philatô không còn là một sự nhạo báng, nhưng đã mặc lấy một giá trị biểu tượng: Chúa Giêsu sẽ là vua nhờ việc “được giương cao”; sự kiện Người ngồi ở một nơi cao trên tòa, ăn vận như vua, tiên trưng việc Người được giương cao và ngồi bên hữu Thiên Chúa (Tv 109,1).
Tiếp đến, tấm biển mà Philatô cho đặt trên đầu Chúa Giêsu chịu đóng đinh: “Giêsu Nadarét, vua dân Do thái” (Ga 19,19) cũng có ý nghĩa tương tự. Chỉ khi được “giương cao” trên thập giá, Chúa Giêsu mới thật sự khai mạc vương quốc của Người; Người kéo lên với Người cả nhân loại, trong lúc Satan bị hạ xuống và sự thống trị của nó trên loài người chấm dứt (Ga 12,31-32).
Đấy là huống cảnh nghịch thường được nhấn mạnh qua các chi tiết mô tả cảnh Chúa Kitô hầu tòa Philatô và chịu đóng đinh thập giá: chính lúc mọi sự đều xem ra không thể cứu vãn theo quan điểm loài người, chính lúc Chúa Giêsu phải hiện ra như một vì vua giả tạo, thì đó là lúc Người bắt đầu thống trị nhờ được “giương cao” trên thập giá.
Chúa Giêsu là vua, đó là điều chắc chắn. Chính để làm vua mà Người đã sinh ra và đã đến trong thế gian. Vương quyền của Người mang lại ý nghĩa cho tất cả cuộc đời Người, cho việc đội mão gai, cho cái chết và cho Giờ mà vì đó Người đã đến (Ga 12,17).
- Những ai thuộc về vương quyền Giêsu Kitô-vua?
Hôm trước ngày chịu nạn, Chúa Giêsu đã tha thiết cầu xin: “Lạy Cha, những kẻ Cha đã ban cho Con, thì Con muốn là Con ở đâu, thì chúng cũng ở đó với Con, để chúng chiêm ngưỡng vinh quang mà Cha đã ban cho Con, vì Cha đã yêu mến Con trước khi tạo thiên lập địa” (Ga 17,24). Khi qua khỏi thế gian này mà về cùng Cha, Chúa Giêsu như một Môisen mới, kéo theo trong một cuộc Xuất hành mới, tất cả những ai muốn tháp tùng Người (Ga 12,25; 13,1). Một khi “được giương cao khỏi đất”, Chúa Giêsu lôi kéo nhân loại lên với Người (Ga 12,32); Người tụ tập tất cả họ trong nhà Cha (Ga 14,2).
Chúa Kitô thực thi vương quyền qua lời ban sự sống: “Lạy Cha, giờ đã đến, xin hãy tôn vinh con Cha, để Con Cha tôn vinh Cha, và để nhờ quyền năng mà Cha đã ban cho Người trên mọi xác phàm, Người ban cho những kẻ Cha đã trao cho Người sự sống vĩnh cửu” (Ga 17,1-2). Qua chữ “xác phàm”, Chúa Giêsu muốn ám chỉ: loài người xét như là “tạo vật” và vì thế phải chịu hư nát trong mộ phần. Thiên Chúa ban họ cho Chúa Kitô, họ thuộc quyền Người, để Người thông ban cho họ sự sống vĩnh cửu, là cuộc chiến thắng trên sự chết, trong vinh quang cánh chung (Ga 17,24).
Thiên Chúa đã đặt mọi sự dưới quyền của Con Ngài để Con ban sự sống cho tất cả. Vương quyền của Chúa Kitô được thể hiện nhờ việc trao ban sự sống cánh chung cho loài người: “Cha yêu mến Con, và đã ban mọi sự trong tay Người. Kẻ nào tin Con sẽ được sự sống vĩnh cửu; còn kẻ từ chối tin Con thì sẽ không thấy sự sống” (Ga 3,35-36).
Phải chăng như vậy con người chỉ trở nên “thần dân” của Chúa Kitô-vua khi họ giã từ cuộc sống hạ giới, đi qua thế gian này để về với Cha? Không, giây phút này chỉ đánh dấu một sự hoàn thành, một sự viên mãn, chứ không phải là một khởi đầu.
Để có sự sống vĩnh cửu, thì ngay từ cuộc sống trần gian này, phải “nghe” tiếng Chúa Kitô, nghĩa là vâng phục Người: “Chiên Ta thì nghe tiếng Ta: Ta biết chúng và chúng theo Ta. Ta ban cho chúng sự sống vĩnh cửu; chúng sẽ chẳng bao giờ bị diệt vong và không ai giữ chúng khỏi tay Ta được” (Ga 10,27-28); chỉ những ai “giữ” lời của Chúa Kitô mới không bao giờ thấy sự chết (Ga 8,51-52). Thành thử Chúa Kitô thi thố vương quyền trên những kẻ sống trong thế gian phù hợp với thánh ý Người, thánh ý được biểu lộ trong giới răn duy nhất: “Các ngươi hãy yêu mến nhau như Ta đã yêu mến các ngươi” (Ga 13,34-35).
Như vậy, chúng ta đã lãnh nhận, ngay từ đời này, một mầm sự sống thần linh: lời Thiên Chúa (Lc 8,11; 1Pr 1,22-23; 1Ga 3,9), nghĩa là chính Chúa Kitô – Ngôi Lời (Ga 1,12-13). Cuộc sống vĩnh cửu đã bắt đầu cho chúng ta trên trái đất, và việc chúng ta vượt qua thế gian mà về cùng Cha chỉ là sự “biểu lộ” những gì đang được dấu ẩn trong bí mật thánh thiêng này (1Ga 3,1-2).
Vâng! Vương quyền của Chúa Kitô được thi thố qua việc ban sự sống cho loài người, Chúa Kitô-vua ngay từ bây giờ ngự trị trên chúng ta, nhờ sự sống Người đã ban cho chúng ta. Vương quốc của Chúa Kitô không “thuộc thế gian này” (Ga 18,36), vì là một vương quốc cánh chung, nhưng mầm sống của nó đã được gieo trong tâm hồn chúng ta, chờ ngày chúng ta vượt qua thế gian này mà về cùng Cha trên trời.
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Khi tổ chức, hay tiến hành một chương trình, một lễ hội, một cuộc thi đấu…thì ai cũng hiểu rằng “vạn sự khởi đầu nan”, nhưng cũng đã thấy cái bầu khí của “buổi ban đầu” thường khá long trọng và hoành tráng. Tuy nhiên, phải nhìn nhận rằng điểm kết thúc mới có tính quyết định. Vào Chúa Nhật cuối cùng của năm Phụng Vụ, khi Giáo Hội suy tôn Chúa Kitô là Vua vũ trụ, thì cũng một cách nào đó muốn nhắn nhủ với con người cách chung và với đoàn con Kitô hữu cách riêng về ý nghĩa đời người. Tính quyết định của hạnh phúc con người có mối liên hệ tất yếu với nội hàm chân lý: Chúa Kitô là Vua vũ trụ.
Khi nghe Chúa Giêsu khẳng định rõ ràng: “Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi”, Philatô đã hỏi lại: “Sự thật là gì?” (x.Ga 18,37-38). Tin mừng không tường thuật câu trả lời của Chúa Giêsu mà ngưng ở đó để rồi kể tiếp chuyện Philatô lại ra gặp người Do Thái.
Sự thật là gì? Mặc dù có nhiều cái nhìn, nhiều quan niệm khác nhau về sự thật nhưng vẫn có nét tương đồng căn bản. Sự thật là sự tương hợp hay sự đồng nhất giữa nội dung với hình thức, giữa cái bên trong và cái bên ngoài, chẳng hạn như chất lượng sản phẩm hàng hóa đúng với những gì ghi ngoài nhãn hiệu, bao bì…Trên bình diện hữu thể thì có người cho rằng sự thật là sự đồng nhất giữa thực tại với cái biểu hiện. Cũng có người quan niệm sự thật là sự duy nhất, bất biến và thường tồn của thực tại.
- Sự thật về Đức Kitô:
Theo viễn kiến này thì duy chỉ có Thiên Chúa là sự thật đúng nghĩa. Người không chỉ là “Đấng có sao, có vậy” (x.Xh 3,14) mà người còn là Đấng là An-Pha và Omêga nghĩa là có từ nguyên thủy và tồn tại đến vạn đại thiên thu (x.Kh 1,8). Chính Chúa Kitô đã từng khẳng định Người là sự thật (x.Ga 14,6). Người là Đấng có sao, có vậy, là nguyên thủy và là cùng đích (x.Ga 8,24; 27; 57). Như thế khi nói với Philatô rằng mình đến thế gian là để làm chứng cho sự thật thì Chúa Kitô muốn minh chứng và khẳng định rằng chính Người là căn nguyên và cùng đích của mọi hiện hữu.
Cũng như vạn vật, con người tôi bởi đâu mà ra và rồi sẽ đi về đâu, một câu hỏi đã trở thành vấn nạn khó giải cho nhiều học giả, nhiều triết gia…mọi thời, nay đã có câu trả lời. Các hiện hữu ở đời này, sự hiện hữu của tôi trong cõi đời này có nguồn gốc và đích đến là chính Chúa Kitô. Trong thân phận một công dân, thì “quê hương mỗi người chỉ một, nếu ai không nhớ, sẽ không lớn nỗi thành người” (Đỗ Trung Quân), thì cũng thế và hơn thế nữa, trong thân phận con người, tôi chỉ thực sự là tôi khi ở trong tương quan với Chúa Kitô. Đúng hơn, sự hiện hữu của tôi, sự sống còn của tôi, ý nghĩa cuộc đời của tôi lệ thuộc vào Đức Kitô. Đây chính là một nội hàm của chân lý Chúa Kitô là Vua vũ trụ mà Giáo Hội long trọng tuyên xưng vào Chúa Nhật cuối cùng của năm Phụng vụ. Tuyên xưng Chúa Kitô là vua có nghĩa là tuyên xưng sự lệ thuộc, sự suy phục của mình vào Chúa Kitô. Vì tất cả mọi loài mọi vật “đều do Thiên Chúa tạo dựng, nhờ Người và cho Người” (Col 1,16).
- Sự thật về con người:
Được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa (x.St 1,27), con người cũng là sự thật khi nên một với Chúa Kitô. Đấng là hình ảnh Thiên Chúa vô hình đã tự xưng là Con Người. Thánh Tông đồ dân ngoại đã mạnh mẽ khằng định chân lý này: “Thánh Tử là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử sinh ra trước mọi loài thọ tạo, vì trong Người, muôn vật được tạo thành trên trời cùng duới đất hữu hình với vô hình” (Col 1,15). Vì là sự thật nên con người phải được yêu quý và tôn trọng cũng như bảo vệ. Dù là một bệnh nhân, dù là một người nghèo khổ, một người thấp cổ, bé phận, dù là một bào thai dị tật… tất thảy đều đáng phải được kính trọng, yêu mến và bảo vệ hơn tất cả những thể chế, luật lệ, nghi thức hay truyền thống… Chúa Kitô đã khẳng định chân lý này khi nhấn mạnh: “Ngày Sabat có ra là vì con người, chứ không phải con người có ra là vì ngày Sabat” (Mc 2,27).
Là loài thọ tạo có vẻ mỏng manh và đầy yếu đuối nhưng con người lại được Thiên Chúa đặt lên làm chủ tể mọi loài trên trời dưới đất (x.St 1,26). Con người là chi mà Chúa nhớ đến, loài người là gì mà Ngài phải bận tâm? (Tv 8,5). Tất cả chỉ vì Thiên Chúa đã đoái nhận loài người làm dưỡng tử trong Con Một dấu yêu của Người là Đức Giêsu Kitô (x.Eph 1,5). Mặc dù có điểm khởi đầu, có kinh qua cánh cửa sự chết, nhưng hiện hữu của con người là bất tận, vì “Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết nhưng là của kẻ sống” (Mt 22,32).
- Sự thật về hạnh phúc:
Con người đã được dựng nên là tồn tại mãi mãi. Thế nhưng số phận đời đời của mỗi người là được hạnh phúc viên mãn hay phải trầm luân vĩnh viễn còn tùy thái độ sống của mỗi người khi còn tại thế. Con người chỉ có hạnh phúc đích thật khi là chính mình như thuở ban đầu cuộc sáng tạo đó là trở nên hình ảnh của Thiên Chúa. Chúng ta là chính mình khi nên một với Đức Kitô, làm môn đệ của Người. Và Chúa Kitô đã khẳng định khi chúng ta yêu mến nhau như Người đã yêu mến chúng ta thì chúng ta sẽ ở trong tình yêu của Người và đích thực là môn đệ của Người (x.Ga 13,35; 14,9-11).
Chính con tim, tấm lòng của chúng ta dành cho tha nhân, nhất là cho nhũng người bé mọn sẽ quyết định về số phận đời đời của chúng ta (x.Mt 25,31-46). Thánh Gioan Tông Đồ đã nói: “Ai yêu thương thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa vì Thiên Chúa là Tình Yêu” (1Ga 4,7-8).
Năm Phụng Vụ sắp kết thúc nhắc nhủ cho chúng ta sự thật này: cái chung cục mới thật quan trọng. Đảm nhận chức vụ này hay ở địa vị kia, sống bậc sống này hay bậc sống nọ, tất thảy đều hướng đến mục đích cuối cùng là được cứu độ, được hạnh phúc viên mãn. Để có hạnh phúc thật, chắc chắn phải đón nhận Sự Thật là Đức Kitô, vì không một ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Người (x.Ga 14,6). Và dưới gầm trời này chỉ có một Danh mang ơn cứu độ là Giêsu Kitô. Khi đã đón nhận sự thật là Chúa Kitô thì chúng ta cũng sẽ biết được sự thật về con người cũng như con đường để đạt được hạnh phúc muôn đời.
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
VUA LÀ AI?
Thời quân chủ, người ta “quy ước” trật tự xã hội là Quân-Sư-Phụ, vua là nhất, sau đó là người dạy, rồi mới tới cha mẹ. Vua hoặc Hoàng đế là người có quyền lực cao nhất, kể cả quyền sinh sát: “Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung”. Vua được mệnh danh là Thiên tử – con của Trời, thần dân phải phụng mệnh tối đa, vâng lệnh “tối mặt”. Vua bảo chết mà chết mới là trung thần (sic!).
Rồng là một trong mười hai con giáp, là con vật quý, thực ra chỉ do tưởng tượng, nhưng mọi thứ của vua đều được trân trọng là “rồng”: Long thể, long bào, long sàng,…
Thời phong kiến theo chế độ “tông pháp” (cha truyền con nối), vua trị vì tới mãn đời. Vua có “quyền” nên thỏa sức “hành” người ta, vì vậy thường thì vua nào cũng có có “máu ác”, thế mà vẫn được xã hội mặc nhiên như vậy, ít có những ông vua nhân đức như vua Nghiêu, vua Thuấn của Trung quốc, làm thiên hạ thái bình, hoặc như vua Trần Nhân Tôn và vua Lê Thánh Tôn của Việt Nam.
Minh quân thì hiếm, hôn quân (vua ác) thì nhiều. Trung quốc có Tần Thủy Hoàng, Vạn Lý Trường Thành của ông vua này đã hao tổn bao sinh mạng của dân lành; Việt Nam có vua Lê Long Đĩnh, có “biệt danh” là Ngọa Triều (“ngọa” là nằm, “triều” là triều chính, ông này ăn chơi sa đọa đến nỗi không ngồi được nên phải nằm mỗi khi ngự triều), ông có thú vui độc ác là “róc mía trên đầu nhà sư” và “mổ bụng các thai phụ để xem thai nhi thế nào”; vua Shah Jahan của Ấn Độ đã xây đền Taj Mahal bằng cẩm thạch (một trong những kỳ quan thế giới) để tưởng nhớ người vợ thứ ba là Mumtaz Mahal, nhưng khi đền này xây xong, ông ra lệnh chặt tay tất cả những người thợ để họ không thể xây ngôi đền khác như vậy.
Đế quốc La Mã xưa cũng đã từng “làm mưa, làm gió” một thời, biết bao tín hữu bị phanh thây, xẻ thịt! Người Công giáo Việt Nam cũng bị hành hạ suốt ba thời vua: Minh Mạng, Thiệu Trị, và Tự Đức. Và còn nhiều ác vương khác trên thế giới. Thế nhưng thần dân vẫn phải tán tụng họ là “hoàng thượng anh minh”. Thậm chí khi muốn tấu trình thì phải “muôn tâu bệ hạ”, tức là tâu với cái bệ rồng của vua ngồi chứ không được tâu thẳng nhà vua, cũng không ai được nhìn mặt vua.
Ngày nay chỉ còn vài nước theo chính thể quân chủ, nhưng không “thuần túy” như xưa. Vua có khi chỉ là một thiếu niên, và sẽ làm vua cho đến chết. Người đứng đầu một quốc gia ngày nay gọi là Tổng thống, chỉ tại chức theo nhiệm kỳ vài năm. Ngày xưa vua tàn ác minh nhiên, dễ thấy; còn ngày nay, người đứng đầu một nước cũng vẫn có người tàn ác, nhưng bằng các động thái khác và khó phát hiện vì “tinh vi” hơn nhiều.
ĐỆ NHẤT THIÊN VƯƠNG
Ngôn sứ Đa-ni-en kể: “Trong những thị kiến ban đêm, tôi mải nhìn thì kìa: có ai như một Con Người đang ngự giá mây trời mà đến. Người tiến lại gần bên Đấng Lão Thành và được dẫn đưa tới trình diện” (Đn 7:13). Đó là hình ảnh liên quan Ngày Cánh Chung, Ngày Tận Thế. Đó là lúc mọi người tỏ tường mọi thứ, là lúc yết kiến Thiên Vương, là lúc phải trình diện Vua Muôn Đời.
Khi đó, “Đấng Lão Thành trao cho Người quyền thống trị, vinh quang và vương vị”, còn “muôn người thuộc mọi dân tộc, quốc gia và ngôn ngữ đều phải phụng sự Người” (Đn 7:14a), thậm chí quỷ vương cũng phải tâm phục khẩu phục mà bái lạy Người là Vua các vua, là Chúa các chúa. Đó là quyền đặc biệt, độc nhất vô nhị: “Quyền thống trị của Người là quyền vĩnh cửu, không bao giờ mai một; vương quốc của Người sẽ chẳng hề suy vong” (Đn 7:14b).
Con Người ngự giá mây trời mà ngôn sứ Đa-ni-en thị kiến là Đức Kitô, chính Ngài là Vua các Vua và Chúa các chúa, hoàn toàn khác thường về mọi thứ: “Chúa là Vua hiển trị, Chúa mặc oai phong tựa cẩm bào, Người lấy dũng lực làm cân đai. Chúa thiết lập địa cầu, địa cầu không lay chuyển. Ngai vàng Chúa kiên cố tự ngàn xưa: Ngài hiện hữu tự muôn ngàn đời” (Tv 93:1-2). Vì thế, Ngài chính là Đệ nhất Thiên Vương mà chúng ta phải tôn thờ và tôn vinh: “Lạy Chúa, thánh chỉ Ngài thật là bền vững, nơi đền vàng rực lên toàn thánh thiện triền miên qua mọi thời” (Tv 93:5).
Đồng thời chúng ta cũng phải cầu nguyện: “Xin Đức Giêsu Kitô là vị Chứng Nhân trung thành, là Trưởng Tử trong số những người từ cõi chết chỗi dậy, là Thủ Lãnh mọi vương đế trần gian, ban cho anh em ân sủng và bình an. Người đã yêu mến chúng ta và lấy máu mình rửa sạch tội lỗi chúng ta, làm cho chúng ta trở thành vương quốc và hàng tư tế để phụng sự Thiên Chúa là Cha của Người: kính dâng Người vinh quang và uy quyền đến muôn thuở muôn đời. A-men!” (Kh 1:5-6). Thánh sử Gioan cũng thị kiến “Người ngự đến giữa đám mây” (Kh 1:7a), điều đó cho thấy diễn tiến Ngày Tận Thế, ngày mà Đức Kitô đến xét xử thế gian. Và “ai nấy sẽ thấy Người, cả những kẻ đã đâm Người. Mọi dân trên mặt đất sẽ đấm ngực than khóc khi thấy Người. Đúng thế! A-men!” (Kh 1:7b). Kẻ lành và kẻ dữ đều diện kiến Ngài, nhưng có cuộc sống vĩnh hằng khác nhau: Người lành được làm công dân Nước Trời vĩnh hằng, còn kẻ ác làm đệ tử Luxiphe đời đời.
Đức Chúa là Thiên Chúa đã xác định: “Ta là An-pha và Ô-mê-ga, là Đấng hiện có, đã có và đang đến, là Đấng Toàn Năng” (Kh 1:8). Và mãi mãi Ngài là thế, là Đấng tự hữu và hằng hữu!
VUA SỰ THẬT, VUA THƯƠNG XÓT
Ông Philatô trở vào dinh, cho gọi Đức Giêsu tới và hỏi: “Ông có phải là vua dân Do-thái không?” (Ga 18:33). Đức Giêsu không trả lời trực tiếp mà đáp lại bằng một câu hỏi: “Ngài tự ý nói điều ấy, hay những người khác đã nói với ngài về tôi?” (Ga 18:34). Ông Philatô nói: “Tôi là người Do-thái sao? Chính dân của ông và các thượng tế đã nộp ông cho tôi. Ông đã làm gì?” (Ga 18:35). Đức Giêsu trả lời: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do-thái. Nhưng thật ra Nước tôi không thuộc chốn này” (Ga 18:36).
Chúa Giêsu hai lần xác định: “Nước tôi không thuộc thế gian này”. Chắc hẳn tổng trấn Philatô không hiểu hết hoặc không thể hiểu ý Chúa, thế nên ông ta liền hỏi: “Vậy ông là vua sao?”. Đức Giêsu không hề tự nhận là vua, và thản nhiên: “Chính ngài nói rằng tôi là vua” (Ga 18:37a). Rồi Ngài nói rõ: “Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi” (Ga 18:37b). Ngài là Người-của-Sự-Thật, là Nhân-Chứng-Chân-Lý, Ngài không đấu tranh cho chính Ngài mà đấu tranh vì công lý và hòa bình của nhân dân, dù người đó sống tốt lành hay tội lỗi.
Nếu nói về Vương Quốc Chân Lý, Ngài là Vua Sự Thật. Tuy là Vua nhưng lại giàu lòng thương xót, như vậy Ngài cũng là Vua Thương Xót. Có lần Chúa Giêsu nói về vua chúa thế gian và quyền hành trần tục: “Thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân” (Mt 20:25). Người có thế quyền và thế lực hành xử như vậy, bắt người khác quy phục, còn Chúa Giêsu không dùng uy quyền và thế lực để đàn áp người khác, không dùng uy tín và chức vụ để thị uy hoặc bóc lột người khác, mà ngược lại, Ngài phục vụ chứ không bắt người khác phục vụ (x. Mt 20:28; Mc 10:45). Như vậy Ngài cũng là Vua Khiêm Nhường.
Chắc hẳn chẳng có ông vua nào dám làm như vậy, thậm chí đối với những kẻ nhẫn tâm giết Ngài mà Ngài vẫn xin với Chúa Cha: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23:34). Ngài thật lòng thương xót và thật lòng tha thứ chứ không miễn cưỡng hoặc vì ở thế việt vị.
Chúa Giêsu là Vị Vua “ngược đời” nhất thế gian, vì Ngài là Vua Trời nhưng đã tự hạ mình xuống thế gian để hòa nhập với thần dân. Chúng ta cũng “ngược đời”, nhưng ngược đời trái chiều với Vua Trời, vì chúng ta chỉ là bụi tro nhơ nhớp và hèn mọn, thế mà chúng ta lại muốn ở “trên mây”, nghĩa là nâng mình lên càng cao càng tốt, là kiêu ngạo. Nếu vậy thì chúng ta hoàn toàn đi ngược chiều với Đấng mà chúng ta tôn vinh là Thiên Vương, là Chúa Tể Càn Khôn, là Vua Trời Đất, là Vua Vũ Trụ. Hai người chuyển động ngược chiều thì làm sao gặp nhau?
Vậy chúng ta học được chút gì ở Vua Giêsu về quyền hành, chức vụ, địa vị, cách phục vụ, sự tha thứ, tình yêu thương, lòng thương xót, cách nói, cách đối nhân xử thế,…? Nhưng nên nhớ rằng học là một chuyện, thuộc bài là một chuyện, còn thực hành bài học đó hay không lại là chuyện khác!
Lạy Thiên Vương Giêsu, Vua Khiêm Nhường, Vua Sự Thật, Vua Thương Xót, chúng con khiêm nhường phủ phục mà xin lỗi Ngài vì chúng con quá tồi tệ. Xin xót thương và tha thứ cho chúng con, và xin Ngài mãi mãi là Vua cai trị cuộc đời chúng con. Xin cậy nhờ công nghiệp của Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Danh nhân Mahatma Gandhi (1869-1948), chính khách chủ trương bất bạo động và nhà lãnh đạo tinh thần của dân Ấn Độ, nhận định: “Đức hạnh là nền tảng của mọi thứ và chân lý là bản chất của mọi đức hạnh”. Một câu nói rất thâm thúy, rất phù hợp với đạo làm người và cũng phù hợp với đạo giáo – đặc biệt là Công giáo. Ông Gandhi còn xác định rạch ròi và chi tiết hơn: “Dù bạn có là thiểu số thì chân lý vẫn là chân lý. Công cuộc theo đuổi chân lý không cho phép bạo lực với đối phương. Sai lầm không trở thành chân lý vì lý lẽ của vô số cách tuyên truyền, chân lý cũng không trở thành sai lầm vì không ai thấy nó. Tôn giáo của tôi dựa trên chân lý và bất bạo động, chân lý là Chúa của tôi, bất bạo động là cách để nhận biết Người”. Cách sống của ông rất gần với giáo huấn yêu thương của Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa của chúng ta.
Thế mà, khi xét xử Chúa Giêsu, ông Philatô đã hỏi Ngài: “Sự thật là gì?” (Ga 18:38). Ông ta thực sự không biết hay là cố ý giả nai? Chúng ta có bao giờ “đặt vấn đề” như ông Philatô? Có đấy, nhưng với kiểu cách “tinh vi” hơn! Người Việt nói là “giả nai” hoặc “ngây thơ cụ”. Theo chế độ quân chủ, vua là người có quyền tối thượng, cho sống thì được sống, bắt chết thì phải chết, thế mới là trung thần: “Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung”. Mọi thần dân đều vui nhận mọi mệnh lệnh của nhà vua, vì được nhận chiếu chỉ của vua là niềm hãnh diện, và người ta còn gọi chiếu chỉ là “thánh chỉ”, tất nhiên không loại trừ mệnh lệnh bắt phải chết.
Chúa Giêsu là Vua các vua, Chúa các chúa, tự hữu và hằng sinh, vua chúa trần gian chỉ là “hạt bụi” dưới chân Ngài mà thôi. Thế nhưng Ngài lại giàu lòng thương xót, thích tha thứ chứ không thích kết án ai. Thật lạ, khi Chúa Giêsu đứng trước Philatô, một người đầy uy lực, còn Chúa Giêsu khi đó chỉ như một tội đồ, thế mà Ngài vẫn thản nhiên nói thẳng với tổng trấn đó: “Ông không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ông” (Ga 19:11).
Trình thuật Đn 7:13-14 cho biết một trong những thị kiến ban đêm của ngôn sứ Đa-ni-en: “Tôi mải nhìn thì kìa: có ai như Con Người đang ngự giá mây trời mà đến. Người tiến lại gần bên Đấng Lão Thành và được dẫn đưa tới trình diện. Đấng Lão Thành trao cho Người quyền thống trị, vinh quang và vương vị; muôn người thuộc mọi dân tộc, quốc gia và ngôn ngữ đều phải phụng sự Người. Quyền thống trị của Người là quyền vĩnh cửu, không bao giờ mai một; vương quốc của Người sẽ chẳng hề suy vong”.
Chỉ có hai câu, ngắn gọn nhưng súc tích nói rõ về Vua Chân Lý, cũng là Hoàng Tử Bình An, Vua Công Lý, Vua Tình Yêu, Chúa Tể Càn Khôn. Nhưng có điều đặc biệt, Vị Vua này là Hoàng-Đế-ba-không: KHÔNG đăng quang, KHÔNG ngai vàng, và KHÔNG được tiền hô hậu ủng. Chắc chắn không một vị vua chúa nào “độc đáo” như Ngài và cũng không có uy quyền như Ngài. Thật hạnh phúc khi chúng ta được nhận biết Ngài và tôn thờ Ngài!
Thật vậy, tác giả Thánh Vịnh xác định: “Chúa là Vua hiển trị, Chúa mặc oai phong tựa cẩm bào, Người lấy dũng lực làm cân đai. Chúa thiết lập địa cầu, địa cầu không lay chuyển. Ngai vàng Chúa kiên cố tự ngàn xưa: Ngài hiện hữu tự muôn ngàn đời” (Tv 93:1-2). Vâng, quả nhiên là chúng ta không thể không chia sẻ với người khác khi chúng ta có một Đức Chúa như vậy, ngay cả những vật vô tri cũng chợt nhận biết và rồi chúng không thể im lặng: “Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, không trung loan báo việc tay Người làm. Ngày qua mách bảo cho ngày tới, đêm này kể lại với đêm kia” (Tv 19:2-3).
Thiên Chúa là Đấng siêu việt nên mọi thứ khác bởi Ngài cũng hoàn toàn siêu việt: “Lạy Chúa, thánh chỉ Ngài thật là bền vững, nơi đền vàng rực lên toàn thánh thiện triền miên qua mọi thời” (Tv 93:5). Đó là một sự thật minh nhiên, vĩnh hằng, không ai có thể chối cãi. Nếu có ai chối bỏ thì chỉ là tự lừa dối chính họ mà thôi. Thiên Chúa quan tâm chăm sóc các thụ tạo của Ngài rất chu đáo, Ngài muốn chúng ta đồng hưởng vinh quang với Ngài đời đời. Tuy nhiên, trước đó thì chúng ta được “thanh luyện” trên thế gian với quyền tự do mà Ngài đã ban cho chúng ta. Vâng, chúng ta được hoàn toàn tự do chứ hề không bị ép buộc.
Thánh Gioan viết thư gửi bảy Hội Thánh Axia và đề cập việc làm chứng nhân của Đức Giêsu Kitô: “Xin Đấng hiện có, đã có và đang đến, xin bảy thần khí hiện diện trước ngai của Người, xin Đức Giêsu Kitô là vị Chứng Nhân trung thành, là Trưởng Tử trong số những người từ cõi chết chỗi dậy, là Thủ Lãnh mọi vương đế trần gian, ban cho anh em ân sủng và bình an. Người đã yêu mến chúng ta và lấy MÁU mình RỬA SẠCH tội lỗi chúng ta, làm cho chúng ta trở thành vương quốc và hàng tư tế để phụng sự Thiên Chúa là Cha của Người: kính dâng Người vinh quang và uy quyền đến muôn thuở muôn đời. Amen!” (Kh 1:5-6). Thiên Vương Giêsu Kitô không “hét ra lửa” như các vua chúa trần gian, nhưng Ngài lại có uy tín hơn bất cứ ai. Ngài trị vì cả vũ trụ hữu hình và vô hình, nhưng Ngài lại làm gương là hy sinh vì tình yêu đến tận cùng, đến chết.
Lần thứ nhất Chúa Giêsu Kitô đến thế gian như “con chiên hiền lành bị đem đi làm thịt” (Gr 11:19) và với tư cách là Vua Thương Xót, nhưng Ngài đến thế gian lần thứ hai như một Thẩm Phán Công Bình và với cương vị là Vua Công Lý. Ngày ấy đang đến rất gần rồi!
Thánh Gioan cho biết cách Thiên Vương Giêsu quang lâm: “Kìa, Người ngự đến giữa đám mây. Ai nấy sẽ thấy Người, cả những kẻ đã đâm Người. Mọi dân trên mặt đất sẽ đấm ngực than khóc khi thấy Người. Đúng thế! Amen!” (Kh 1:7). Đấm ngực là biểu hiện lòng sám hối, nhưng nếu đấm ngực mà không ăn năn thì có đấm mạnh đến nỗi đau tức ngực cũng chỉ là vô ích. Biết chuẩn bị đón Ngài bằng cách “đấm ngực chân thành” ở mọi nơi và mọi lúc thì chúng ta sẽ được Thiên Chúa khoan hồng, thậm chí là tha bổng, cho trắng án. Không ai xa lạ, chính “tướng cướp khét tiếng” Dismas đã nên thánh nhờ được diễm phúc đó (x. Lc 23:43), đúng như lời Chúa Giêsu đã hứa: “Ai đến với tôi, tôi sẽ không loại ra ngoài” (Ga 6:37).
Thiên Chúa là tất cả, mọi điều không thể sẽ hóa thành có thể, chỉ cần chúng ta thành tâm mà khiêm nhường sám hối, chứ Ngài không cần lễ vật chi cả (). Thật vậy, Ngài đã xác định rạch ròi: “Ta là An-pha và Ô-mê-ga, là Đấng hiện có, đã có và đang đến, là Đấng Toàn Năng” (Kh 1:8). Nhưng đừng quên điều này: “Thiên Chúa không thiên vị ai (Gl 2:6; Cv 10:34) và cũng không vị nể ai (1 Pr 1:17a; Mt 22:16), cứ theo công việc mỗi người mà xét xử.
Trình thuật Ga 18:33b-37 cho thấy cảnh người ta phải công nhận Ngài là Vua, một Vị-Vua-ba-không. Sau khi bọn thủ ác bắt Chúa Giêsu và điệu Ngài tới cho tổng trấn Philatô luận tội. Lúc ông ta trở vào dinh, cho gọi Chúa Giêsu và hỏi Ngài: “Ông có phải là vua dân Do-thái không?”. Ngài không trả lời mà thản nhiên hỏi lại: “Ngài tự ý nói điều ấy, hay những người khác đã nói với ngài về tôi?”. Ông Philatô nói rằng ông là người Do-thái, mà chính dân chúng và các thượng tế đã nộp Ngài cho ông ta. Rồi ông ta hỏi Chúa Giêsu: “Ông đã làm gì?”. Chúa Giêsu không trả lời thẳng mà trình bày lý luận: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do-thái. Nhưng thật ra Nước tôi không thuộc chốn này”.
Có lẽ ông Philatô gần giống như “vịt nghe sấm”, chưa hiểu hết ý của Chúa Giêsu nên ông ta phải hỏi lại: “Vậy ông là vua sao?”. Chúa Giêsu vẫn không xác nhận mà lại nói: “Chính ngài nói tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi”. Ai cũng thích sự thật, nhưng không dễ “đứng về phía sự thật”. Tại sao? Vì SỰ THẬT luôn THẲNG THẮN. Thế nên người ta dễ a dua, vì không có lập trường, sợ bị “lẻ loi”, như người ta vẫn nói đùa mà thật: “Ai làm sao, tôi làm vậy; ai làm bậy, tôi làm theo!”. Phải thực sự can đảm mới có thể dám “đứng về phía sự thật”.
Sự thật vốn dĩ dễ khiến người ta mất lòng vì sự thật thường mang tính phũ phàng. Tuy nhiên, sự thật là chân lý, mà chân lý không thể bị bóp méo hoặc bị xuyên tạc, nhưng chân lý đó phải thực sự là sự thật – tức là chân-lý-thật, chứ không thể là sự thật giả tạo, được ngụy biện hoặc được dàn xếp. Chính chân-lý-thật mới có khả năng kỳ diệu, dạng sự thật mà Chúa Giêsu đã đề cập và xác định: “Sự thật sẽ giải phóng quý vị” (Ga 8:32). Ước gì không một ai trong chúng ta “ngây thơ cụ” như ông Philatô đã hỏi Chúa Giêsu: “Sự thật là gì?” (Ga 18:38). Mừng kính lễ Thiên Vương Giêsu Kitô là dịp để chúng ta xét mình một cách nghiêm túc hơn, xem mình đã thực sự là tín dân của Ngài hay chưa. Và xin được kể vài chuyện có thật đã xảy ra với những kẻ vô thần, dám coi thường Thiên Chúa:
- John Lennon, ca sĩ của ban nhạc nổi tiếng The Beatles của Anh quốc. Trong lúc được tạp chí American Magazine phỏng vấn, John Lennon nói: “Thiên Chúa Giáo sẽ không còn, sẽ biến mất. Tôi không có gì phải tranh cãi về điều đó. Tôi chăc chắn như thế. Ông Giêsu thì được, nhưng những kẻ theo Ông thì quá ngây ngô! (Ý muốn nói là bị Ông Giêsu lừa gạt). Ngày nay, chúng tôi, ban nhạc The Beatles nổi tiếng hơn Ông Giêsu” (1966). Sau khi John Lennon tuyên bố lời trên đây, hắn bị bắn sáu lần. Không biết sau đó hắn có ăn năn hay không, nhưng mọi người biết rõ là The Beatles đã “chết”.
- Một nhà báo hỏi người thiết lập chiêc tàu Titanic về sự an toàn của chiếc tàu, hắn nói: “Ngay cả Thượng Đế cũng không thể đánh chìm được nó”. Kết quả ra sao, mọi người đã biết rõ: Vỡ đôi vì tảng băng ngầm vào sáng ngày 15-4-1912 tại Bắc Đại Tây Dương!
- Marilyn Monroe, diễn viên điện ảnh. Trong một xuất trình diễn, cô được Billy Graham đến thăm. Bill Graham nói rằng Chúa Thánh Thần sai ông đến để nói với cô. Nghe xong, Marilyn Monroe nói: “Tôi không cần Giêsu của ông”. Một tuần sau, người ta thấy xác Marilyn chết cô đơn trong một chung cư.
- Năm 1954, sau khi chiếm miền Bắc, một toán công an cộng sản vào nhà dòng kín Bùi Chu lục soát. Khi đến Nhà Nguyện, lúc các nữ tu đang chầu Mình Thánh, một tên cộng sản lớn tiếng la lối: “Chúa của các người ở đâu?”. Nữ tu chỉ Nhà Tạm trên bàn thờ, tên này lấy súng mang trên người nhắm Nhà Tạm. Hắn bắn vỡ chén thánh và Mình Thánh Chúa đổ ra vương vãi. Bắn xong, hắn vẫn đứng yên, chĩa súng vào Nhà Tạm như muốn bắn tiếp. Các nữ tu vô cùng đau lòng vì Mình Thánh Chúa bị xúc phạm, nên quỳ xuống, van xin anh đừng bắn nữa, nhưng khi chạm đến anh, các nữ tu mới biết linh hồn hắn đã lià khỏi xác từ lúc nào rồi: Hắn chết đứng!
- Năm 1963, sau khi Tổng thống Ngô Đình Diệm bị một số tướng tá phản bội lật đổ, một số người bên lương tràn vào Tòa tỉnh trưởng Thừa Thiên (Huế), đập phá “tàn tích gia đình trị”. Khi thấy bức tượng Thánh Gioan Tẩy Giả, quan thầy của Tổng thống Diệm, một thanh niên trèo lên vác búa đập vỡ mặt mũi bức tượng, nhưng hắn bị trật chân ngã xuống và chết ngay lập tức. Sự kiện này xảy ra trước mắt nhiều người chứng kiến.
- Voltaire là kẻ chống Thiên Chúa và đánh phá Hội Thánh Công Giáo rất quyết liệt. Không một lời gian dối và vu oan nào mà ông tởm gớm. Ông chiêu tập một nhóm lấy tên là “Beelzebub” (Bê-en-dê-bun, tên của tướng quỷ). Năm 1753, ông đã lên án Thiên Chúa: “Hai mươi năm nữa Thiên Chúa về hưu, vì không còn ai phục vụ Ngài”. Đúng hai mươi năm sau, năm 1773, Voltaire tắt thở vì chết thê thảm. Ông đã thấy những hình ảnh làm ông run sợ và hét lên: “Một bàn tay đang kéo tôi xa Thiên Chúa… Qủy bắt tôi… Tôi trông thấy hỏa ngục”. Ông tru tréo như thú vật hung dữ. Ông lấy móng tay cấu xé thịt mình ra từng miếng. Một bà già thường giúp người hấp hối, sau khi chứng kiến cái chết của Voltaire, đã nói: “Khi ấy tôi ở gần giường của Voltaire đang hấp hối, tôi không muốn nhìn thấy một người vô đạo chết nữa”. Một người khác chứng kiến cái chết của Voltaire cũng nói: “Nếu quỷ có thể chết được, cũng không chết dữ như Voltaire”.
Lạy Thiên Chúa, xin thêm lòng Tin Cậy Mến cho con, vì con yếu đuối lắm. Xin đừng để sóng đời cuốn trôi con theo hướng vô định. Xin Thần Khí Chúa định hướng tâm linh để con tin nhận Đức Giêsu Kitô là Vua cai trị đời con mà vui nhận mọi mệnh lệnh của Ngài – Đấng cứu độ nhân loại, Đấng hằng sinh và hằng hữu, hiển trị cùng với Chúa Cha, và hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen.
(Suy niệm của Guy Marin)
Vua chúa trần gian có một lãnh thổ mà họ thống trị và họ tìm cách mở rộng: Chúa Giêsu Kitô không có nơi gối đầu. Vua chúa trần gian cho phát hành tem và đồng tiền mang hình ảnh của họ, như thể họ muốn kiểm soát mọi thư từ và mọi việc buôn bán vậy; Chúa Giêsu không có như vậy. Những kẻ quyền thế ở đời có quân đội và cảnh sát, bom và súng đại bác, và sử dụng chúng khi cần, trong vườn Cây Dầu, Chúa Kitô chỉ có hai thanh gươm và cấm Phêrô sử dụng. Vua chúa và những người làm lớn ở đời này cai quản dân tộc của họ bằng sự khéo léo, mưu mô và những thủ đoạn, thậm chí đôi khi bằng dối trá, bất công và tội ác nữa; Chúa Giêsu Kitô không thể dùng phương tiện nào trong những phương tiện cấy, vì Ngài là Đấng Thánh của Thiên Chúa.
Nếu Chúa Giêsu Kitô không có chút gì trong những điều làm nên các vị vua, vậy có thể thực sự xưng Ngài là vua không? Kinh Tin Kính trả lời chúng ta… “vương quốc Ngài sẽ vô cùng tận”. Và tất cả Tin Mừng cũng nói như vậy: Thiên sứ Gabriel loan tin cho Đức Maria rằng con của bà sẽ lên ngôi Đavit; Ba vua thờ lạy Ngài như một vị vua; suốt ba năm Chúa Giêsu không ngớt nói về vương quốc.
Tuy nhiên, các sách Tin Mừng kể lại một sự kiện lạ lùng, đó là thái độ của Chúa Giêsu đối với quyền làm vua. Khi dân chúng hăng say muốn tôn Ngài lên làm Vua, Ngài đã từ chối. Trái lại trước mặt Philatô, trong lúc không ai đặt Ngài làm vua cả, Chúa Giêsu lại khẳng định vương quyền của Ngài. Ngài nhất thiết đòi cho được vương quyền, trong lúc không ai muốn trao cho Ngài cả. Khi người ta hiến dâng nó cho Ngài thì Ngài lại tránh né. Thái độ lạ lùng thật: khi có thể dễ dàng làm Vua, thì Ngài từ chối. Khi điều này không thể xẩy ra thì Ngài lại cố đòi cho được. Chúa Giêsu quả là một vị Vua lạ lùng.
Chứng nhân cho sự thật.
Trước mặt Philatô, Chúa Giêsu khẳng định Ngài là Vua ở điểm nào: “Tôi đến để làm chứng cho sự thật”. Sự thật mà Ngài tuyên bố là độc nhất, đó là ý định cứu rỗi của Thiên Chúa: Thiên Chúa đã sai Con Một Ngài đến để cứu độ thế gian. Mỗi lần bằng lời nói và và việc làm, Chúa Giêsu biểu lộ ý định này, là mỗi lần Ngài thực thi quyền là vua của Ngài. Có thể nói rằng cuộc đời của Ngài là cuộc đời vương giả, vì nó hoàn toàn diễn tả ơn cứu độ của Thiên Chúa.
Khi Chúa Giêsu chữa lành các bệnh nhân, mù, què, bất toại, phong cùi, nhưng hành động này đối với dân chúng là dấu hiệu cho thấy vương quốc đã đến gần, tức là Thiên Chúa đang can thiệp. Cũng vậy khi, bởi quyền năng của Thiên Chúa, Ngài trừ quỷ là Ngài minh chứng về sự hiện diện hữu hiệu của Thiên Chúa nơi dân Ngài. Khi Ngài lui tới với những người thu thuế, khi Ngài cứu người phụ nữ ngoại tình là Ngài biểu lộ lòng thương xót của Thiên Chúa không muốn cho kẻ tội lỗi phải chết. Khi Ngài khóc thương Giêrusalem, Ladarô là Ngài biểu lộ lòng ưu ái của Chúa Cha đối với những nỗi khốn khó của loài người chúng ta.
Một hôm, Chúa Giêsu tuyên bố là có phúc những kẻ bất hạnh đủ loại: nghèo, đói, khát, buồn rầu, bị bách hại. Ngài không khôi hài đâu, nhưng Ngài loan báo cho họ rằng họ sẽ là những người đầu tiên được hưởng Nước Trời sắp đến. Đối với những kẻ bị trói buộc bởi những luật lệ tỉ mỉ, Ngài nói với một lời giải phóng: “Ngày sabat được đặt ra vì con người…”. Trong các dụ ngôn, như dụ ngôn về đứa con hoang đàng, Chúa Giêsu nhắc lại hình ảnh của Thiên Chúa và những mối tương quan của chúng ta với Thiên Chúa.
Làm chứng cho sự thật bằng cuộc sống của mình, Ngài lại càng làm chứng hơn nữa bằng cái chết. Vì những giá trị mà Ngài đề cao chính là nguyên nhân của cái chết này. Vì làm chứng như vậy về Thiên Chúa, nên Chúa Giêsu chống lại những tư tưởng quen thuộc, Ngài thay đổi những cách đối xử với Thiên Chúa và với tha nhân. Ngài làm cho các chức trách tôn giáo căm thù. Tóm lại Ngài trở thành kẻ xách động. Người ta nói với một kinh sư rằng Đấng Mêsia đã đến. Ông chạy ra cửa sổ nhìn và trở về lắc đầu mà nói: “Không tôi không thấy gì thay đổi cả”. Kinh sư này có lý, Chúa Giêsu là Vua khi sự việc thay đổi nhân danh Tin Mừng. Và trước hết là lòng con người. Chúa Giêsu là Vua khi con người hoán cải theo các mối phúc thật và từ bỏ các giá trị theo tinh thần thế gian: Nghèo còn hơn là bóc lột, bị bách hại còn hơn là bách hại, hiền lành còn hơn là hung dữ, thà khóc còn hơn làm cho kẻ khác khóc, tha thứ hơn là được giải oan.
Khi con người biết Tin Mừng họ sẽ không thể dửng dưng đối với những gì thuộc lãnh vực chính trị. Họ không dửng dưng khi chính phủ kỳ thị chủng tộc, tạo nên bất bình đẳng, áp bức kẻ yếu hoặc bóc lột thế giới thứ ba. Nhân danh Tin Mừng người Kitô hữu có một cái nhìn phê phán trên tất cả những điều này. Chúa Giêsu đã từ chối quyền bính chính trị, nhưng Ngài đã để lại những nguyên tắc hướng dẫn lương tâm chính trị. Hôm nay chúng ta hãy nhớ rằng Ngài chỉ làm Vua theo mức độ chúng ta sống theo chân lý của Ngài mà thôi.
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có 4 bà mẹ ngồi tán ngẫu với nhau. Các bà huyên thuyên nói về những đứa con của mình. Một bà khoe:
- Thằng Tí nhà tôi thế nào lớn lên cũng làm kỹ sư. Hễ nhà có món đồ nào mới mua về, thì nó cũng tìm cách tháo tung ra để coi máy móc bên trong chạy ra sao.
Bà thứ nhì nói:
- Thằng Tèo nhà tôi, đoán chắc sau này nó sẽ trở thành luật sư. Ai nói gì nó cũng cãi cho bằng được!
Bà thứ ba than:
- Thằng con tôi có lẽ cũng sẽ trở thành họa sĩ, vì tường nhà không có chỗ nào mà không có nốt vẽ của nó!
Bà cuối cũng góp chuyện, sau khi suy nghĩ:
- Thằng nhỏ nhà tôi số nó sẽ trở thành bác sĩ thôi. Chà! Hễ có việc gì kêu nó thì chả bao giờ nó tới ngay cho người ta nhờ!
Vâng, mong con thành đạt là ước mơ chung của cha mẹ. Người mẹ nào mà không mong cho con mình mau khôn mau lớn. Người cha nào mà không mong cho con mình mai sau công thành danh toại. Nhiều gia đình chấp nhận nghèo đói để có tiền cho con ăn học. Nhiều gia đình sẵn sàng bất chấp mọi phương tiện như: biếu xén, qùa cáp, chạy chọt cho con được một thứ hạng, một bằng cấp cho dù là ảo hay không thực lực với tài trí con mình. Xem ra con người ngày nay nhắm đầu tư vào trí hơn là đức. Câu khẩu hiệu “tiên học lễ, hậu học văn” đã lỗi thời hay chỉ còn là một sáo ngữ không còn phù hợp với văn minh con người hôm nay.
Thiếu đầu tư vào giáo dục đức dục con người như đang vong thân, xa rời với xã hội và tự khép mình trong hoang đảo cô đơn và lạnh lùng. Phát triển trí tuệ nhưng nhân đức không được trau dồi cân xứng, người ta sẽ dễ dàng đối xử với nhau “có lý mà không có tình”. Mọi quan hệ giữa người với người đều phải hạch toán, lời mất, được thua. Con người hôm nay tính toán sòng phẳng với nhau hơn là sống tương thân tương ái, “tối lửa tắt đèn có nhau” mà chỉ là “đèn nhà ai – nhà ấy rạng” hay an phận thủ thường theo chủ nghĩa “mackeno” cho xong.
Một xã hội đang chuyển mình như thế, liệu người kytô hữu chúng ta có dám lội ngược dòng để sống theo đòi hỏi của Tin mừng hay không? Tin mừng đòi hỏi chúng ta hãy yêu tha nhân như chính mình và sẵn lòng phục vụ tha nhân. Chính Đức Giêsu Ngài đã đến không phải để được phục vụ mà là để cúi mình phục vụ tha nhân. Chính Ngài đã chấp nhận tan biến đời mình để nên nguồn sống cho nhân trần.
Hôm nay, lễ suy tôn Chúa làm Vua, Giáo hội nhắc nhở chúng ta, là Kytô hữu tức là công dân của Nước Thiên Chúa chúng ta được mời gọi xây dựng nước Chúa ở trần gian bằng sự hiệp nhất yêu thương nơi những người con của Chúa có chung một Cha trên trời. Sự hiệp nhất đó phải được xây dựng từ nơi gia đình, nơi xứ đạo chúng ta. Phải xóa bỏ những tị hiềm, ghen ghét, những bất công, hận thù trong cuộc sống giữa người với người. Mỗi người kytô hữu khi lãnh nhận bí tích rửa tội còn được mời gọi làm chứng cho sự thật giữa thế gian. Điều đó còn mời gọi chúng ta phải cùng nhau loại trừ điều gian dối, chua ngoa và xây dựng một nền công lý và sự thật giữa thế gian còn quá nhiều bất công và gian dối. Sự hiệp nhất yêu thương còn mời gọi chúng ta sống tương thân, tương ái với nhau, sống nâng đỡ và chia sẻ vui buồn với nhau trong tình nghĩa anh em một nhà.
Vâng, cuộc đời hôm nay có lẽ sẽ vui hơn nếu người ta biết sống chân thành với nhau. Cuộc sống này sẽ bớt ưu sầu nếu người ta thôi nghi ngờ và kết án lẫn nhau. Cho dù cuộc đời có thay trắng đổi đen. Con người có lấy ân báo oán, nhưng người kytô hữu không vì thế mà đánh mất bản tính của mình là sống thánh giữa đời để kiến tạo một nền công lý và hòa bình trên mặt địa cầu này. Vì chúng ta vẫn mong chờ một ngày kia Nước Chúa sẽ trị đến và Ngài sẽ ngự đến trên mây trời để ban thưởng hạnh phúc trường tồn cho những ai thành tâm thiện chí sống và thực thi giáo huấn của Ngài.
Vì thế, dù rằng chúng ta đang sống trong một thế giới thiếu vắng tình người, một thế giới đầy bóng tối của đam mê lầm lạc. Chúng ta phải can đảm thắp lên giữa dòng đời này. Ánh sáng của con người ngay thẳng, không gian tham, xảo quyệt. Ánh sáng của bác ái yêu thương để nhạy cảm trước cảnh khốn cùng của tha nhân. Ánh sáng của bao dung để cảm thông nâng đỡ nhau hầu xoá bỏ hận thù, chiến tranh. Ánh sáng ấy cần tỏ hiện trong từng gia đình. Nơi mà các thành viên cần phải là ánh sáng để dẫn dắt nhau. Nơi gia đình không thể mất ánh sáng niềm tin, tình yêu và tha thứ. Cần có ánh sáng niềm tin để mọi người tin tưởng nhau. Gia đình cũng cần có ánh sáng tình yêu, để mọi người biết phục vụ lẫn nhau và xây dựng hạnh phúc cho nhau. Gia đình cũng cần sự tha thứ để cảm thông và nâng đỡ nhau, hầu giúp nhau sống đúng phẩm giá làm người và làm con Thiên Chúa.
Ước gì mỗi người tín hữu chúng ta biết xây dựng Nước Chúa ở trần gian bằng cuộc sống chứng nhân cho tình yêu, cho chân lý và công bình giữa thế giới hôm nay. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
SỐNG YÊU THƯƠNG TRONG THẾ GIỚI DỐI GIAN
Trong một khảo sát được công bố mới đây của nhóm nghiên cứu do Giáo sư Trần Ngọc Thêm chủ trì cho thấy, bệnh giả dối đứng hàng đầu trong 34 tật xấu của người Việt, chiếm đến 81%. Có thể thấy nói dối có mặt ở khắp nơi. Nói dối chằng chịt từ dưới lên trên, dọc ngang ngang dọc, trong gia đình, trong công sở, nơi kinh doanh, trong thực thipháp luật… Điều lạ là ai cũng nói dối nhưng ai cũng tỏ ra mình thật thà. Ai cũng biết mười mươi đối phương đang nói dối nhưng ai cũng tỏ ra hoàn toàn tin cậy.
Ngay ở cấp độ Giáo hội nhiều giáo xứ, nhiều ban ngành cũng chấp nhận và sẵn sàng lừa dối nhau bằng những bản báo cáo mượt mà thành tích, số liệu… nhưng thực tế có phải vậy? Một xã hội dối trá làm sao chúng ta có thể hy vọng xây dựng được một xã hội lành mạnh văn minh tình thương. Một xã hội dối trá sẽ cài cắm vào lương tâm con người từ thuở bé những hạt giống xấu của gian dối, lừa gạt…và chắc chắn sau này những mần non ấy lớn lên trở thành những lãnh đạo, họ sẽ gian dối bằng cách ăn bớt giờ làm, đục khoét người dân và báo cáo láo về thành tích, rồi nào là học giả bằng thật, học giả bằng giả, mua bằng cấp, và mua quan bán chức… để leo lên những chức vụ cao hơn.
Chẳng cần nói đến thế hệ sau mà chỉ cần nhìn vào hiện tại chúng ta có thể thấy sự dối trá đang hoành hành khắp nơi. – –
- Biết bao kỹ sư đã rút ruột công trình hay thiết kế ẩu, thi công ẩu… miễn là có lợi cho mình gần đây nhất là đường cao tốc 34 ngàn tỉ một cơn mưa đã hư.
- Với nghề lương y như từ mẫu là bác sỹ, có người sẵn sàng trục lợi trên tính mạng con người. Là công nhân, họ cũng sẽ có trăm phương ngàn kế để ăn cắp nguyên vật liệu hay thành phẩm của nhà máy.
- Rồi trong kinh doanh, với kiểu làm ăn chụp giật…và lừa đảo đã khiến bao người tan gia bại sản.
Nếu được nhận định về xã hội hôm nay, chúng ta có thể nói đây làmột xã hội giả dối, con cái lừa dối cha mẹ, người nọ lừa dối người kia, nói một đằng nhưng việc làm lại một nẻo, nói mà không làm.
Hôm nay lễ Chúa Ky-tô Vua, chúng ta được nghe lại lời xác quyết của Chúa Giêsu đến trần gian là để làm chứng cho sự thật. Chính Ngài đã nói: “Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi”. Sự thật mà Chúa Giêsu làm chứng chính là giới thiệu cho nhân loại một vương quốc đầy ánh sáng tình thương và chân thành. Một vương quốc không có bệnh thành tích mà chỉ có tinh thần phục vụ một cách vô vị lợi. Một vương quốc mà con người tìm được tiếng nói chung khi biết tôn trọng sự thật và đề cao chân lý.
Chính Chúa Giêsu đã sống điều đó. Ngài đã sống cuộc đời không tìm hư danh mà chỉ biết sống yêu thương phục vụ mọi phận người lầm than. Ngài cũng không làm để được báo cáo thành tích mà chỉ biết cho đi mà không hề so đo tính toán. Ngài đã sống và bảo vệ chân lý cho dù vì thế mà Ngài bị nhiều thế lực gian tà thù ghét và tìm cách loại trừ. Tuy nhiên, cuối cùng Ngài vẫn toàn thắng. Sự dữ đã bị đẩy lùi. Sự gian dối của ma quỷ đã bị phơi bày. Thiên Chúa đã làm chủ vạn vật và trái đất này.
Hôm nay, lễ suy tôn Chúa làm Vua, Giáo hội nhắc nhở chúng ta, là Kytô hữu tức là công dân của Nước Thiên Chúa chúng ta được mời gọi xây dựng nước Chúa ở trần gian bằng sự hiệp nhất yêu thương nơi những người con của Chúa có chung một Cha trên trời. Sự hiệp nhất đó phải được xây dựng từ nơi gia đình, nơi xứ đạo chúng ta. Phải xóa bỏ những tị hiềm, ghen ghét, những bất công, hận thù trong cuộc sống giữa người với người. Mỗi người kytô hữu khi lãnh nhận bí tích rửa tội còn được mời gọi làm chứng cho sự thật giữa thế gian. Điều đó mời gọi chúng ta phải cùng nhau loại trừ điều gian dối, chua ngoa và xây dựng một nền công lý và sự thật giữa thế gian còn quá nhiều bất công và gian dối.
Vâng, cuộc đời hôm nay có lẽ sẽ vui hơn nếu người ta biết sống chân thành với nhau.Vợ chồng chân thành với nhau trong nghĩa tình thuỷ chung. Người trong một đoàn thể, một xứ đạo sống chân thành với nhau hầu loại trừ bệnh thành tích khoe trương. Nhất là trong cuộc sống hằng ngày cần lấy chữ tín làm đầu, luôn sống chân thành trong lời nói, việc làm luôn theo chân lý và sự thật.
Ước gì mỗi người tín hữu chúng ta biết xây dựng Nước Chúa ở trần gian bằng cuộc sống chứng nhân cho tình yêu, cho chân lý và công bình giữa thế giới hôm nay. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Con người ngày nay thường sai lầm khi “thả mồi bắt bóng”. Họ thiếu trân trọng những gì mình đang có để rồi chạy theo những cái ngoài tầm tay. Có người bỏ vợ con để chay theo những cuộc tình bất chính. Có người ngược đãi cha mẹ vợ con lại mất thì giờ lấy lòng người dưng…
Tôi từng thấy có một người đàn ông thích bồ bịch lăng nhăng. Anh ta cứ sống với hết phụ nữ này đến phụ nữ khác, nay đã xế chiều thì không ai chứa chấp và phải về sống với mẹ đẻ. Đứa con gái đã lớn, cũng sắp lập gia đình. Một lần cháu buột miệng bảo: “Mẹ ơi, bố mình thật khổ, có nhiều vợ mà cuối cùng chẳng có nhà để ở”. Đấy là kết cục của những người nhẫn tâm chối bỏ vợ con mình, chỉ biết nghĩ đến dục vọng bản thân.
Có một người vợ trẻ nói với tôi chị đang quen với một người đàn ông đã có vợ. Anh ta rất tốt với chị đến nỗi chị chỉ muốn bỏ chồng theo anh ta. Tôi nói rằng: nếu chị đang sống yên ổn hạnh phúc với gia đình thì nên chấm dứt quan hệ với người ấy và đừng tự chuốc lấy phiền phức vào mình khi “thả mồi bắt bóng”. Đôi khi trong cuộc đời ai cũng có những lúc “đứng núi này trong núi kia” nhưng chưa chắc “cỏ ở đồi bên ấy xanh hơn”. Quả thực con người ngày nay rất khó tìm giá trị thực của cuộc sống. Cuộc sống luôn thả những con mồi khiến ta cứ lao theo con mồi mà đâu biết rằng đó chỉ là ảo ảnh, là giả dối, là hạnh phúc mau qua. Có biết bao người như say máu chạy theo danh lợi thú trần gian nhưng rồi họ không bao giờ toại nguyện với những cái mình đang có. Có cả những người dùng thủ đoạn bất chính để bắt bóng phù hoa nhưng chỉ thấy những ngổn ngang đau khổ dằn vặt lương tâm.
Cuộc sống là đi tìm hạnh phúc. Hạnh phúc không ở những con mồi danh vọng, quyền lực, tiền tài, dục vọng. Hạnh phúc hệ tại ở chân lý, ở sự thật. Khi ta sống theo lẽ phải, theo sự thật lương tâm thì ta mới có niềm vui nội tại tâm hồn. Hôm nay, Chúa Giêsu bảo con đường tìm hạnh phúc của Ngài là yêu thương phục vụ. Chính cuộc sống Ngài mới là Đường, là Chân Lý để chúng ta noi theo. Cuộc đời Ngài luôn sống vì tha nhân. Ngài luôn tìm kiếm niềm vui trong phục vụ. Ngài sống để trao ban. Trao ban đến giọt máu cuối cùng.
Cuộc sống của Ngài đã cho chúng ta hiểu hơn về giá trị cuộc sống. Con người chỉ có giá trị với xã hội và gia đình khi biết sống yêu thương và phục vụ. Càng phục vụ giá trị người phục vụ không mất đi mà xem ra lại càng tăng thêm. Chính Chúa Giêsu còn quả quyết: Ngài làm vua nhưng không ở trên ngai cho người khác phục vụ mà Ngài sẵn lòng cúi mình phục vụ hết mọi phận người. Cuộc sống đã cho ta rất nhiều cơ hội để phục vụ. Phục vụ để mang lại niềm vui hạnh phúc cho gia đình. Phục vụ mang lại cho xứ đạo ngày một phát triển. Phục vụ cho dân tộc mỗi ngày một thịnh vượng hơn. Phục vụ chứ không đòi người khác phục vụ sẽ giúp ta không nhẫn tâm thiếu trách nhiệm với gia đình để đi tìm niềm vui cho bản thân. Phục vụ vô vị lợi sẽ giúp ta biết từ bỏ hạnh phúc của riêng mình để sống có trách nhiệm với tha nhân.
Xin Chúa giúp chúng ta biết nâng cao giá trị cuộc sống bằng đời sống hy sinh phục vụ. Sống cho tha nhân hơn là đòi hỏi nơi tha nhân. Biết sống như ai đó nói rằng: bạn đừng nghĩ người khác đã làm gì cho bạn, nhưng bạn hãy nghĩ bạn đã làm gì cho tha nhân. Chính lối sống ấy sẽ giúp ta biết dấn thân một cách quảng đại để xây dựng hạnh phúc cho gia đình và xã hội. Ước gì chúng ta cũng trở nên một nhân chứng cho chân lý khi biết sống hết mình vì tha nhân. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Sống giữa cuộc đời là sống giữa biển đời đầy sóng gió nguy nan. Sống giữa thế gian là sống giữa bao hiểm nguy, bất trắc khiến lòng người luôn phải đối phó với biết bao nghịch cảnh đẩy đưa. Giữa người với người vẫn còn những hố sâu ngăn cách bởi ích kỷ, ghen ghét và tham lam. Có thể vì một chút danh lợi thú mà người ta bán rẻ nhau và bán rẻ chính nhân phẩm của mình. Cuộc đời đầy thị phi đến nỗi Nguyễn Du đã từng thốt lên rằng: “Trải qua một cuộc bể dâu – Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”. Ngay những người thân cận nhất vẫn có thể trở thành kẻ thù của nhau. Cha mẹ từ chối con cái. Con cái ngược đãi cha mẹ. Vợ chồng nghi ngờ và kết án lẫn nhau. Bạn bè dễ dàng quay lưng lại với nhau vì tiền tài, vì danh vọng và vì tình yêu. Một cuộc sống đầy vong ân bội nghĩa nên mấy ai còn niềm tin nơi nhau. Có mấy ai dám sống cho chân lý để rồi lại phải chịu thiệt thòi vào thân!
Hôm nay, Lời Chúa tường thuật lại một phiên tòa đầy bất công và thiếu khách quan của sự thật. Gọi là bất công vì sự ghen tỵ mà người ta đã kến án kẻ vô tội. Thiếu chân thực vì toàn bộ câu chuyện đã bị bóp méo hoàn toàn. Theo thánh Gioan kể lại: họ tố cáo Chúa Giêsu về ba điều: gây rối loạn trong dân chúng, cản trở việc nộp thuế cho hoàng đế, và tự xưng mình là vua. Thật ra, vì lòng ghen ghét, họ đã không ngần ngại bóp méo sự thật. Theo sự tra xét của họ thì Chúa Giêsu phạm tội lộng ngôn, nhưng họ biết rất rõ quan toàn quyền sẽ không chịu nghe một lời tố cáo như vậy, mà sẽ bảo đó là chuyện tranh chấp về tôn giáo và bảo họ phải tự dàn xếp. Thế nên, vì muốn loại trừ Chúa, họ đã không ngần ngại vu khống để bỏ vạ cáo gian. Nhưng Philatô lại không dám bảo vệ sự thật. Cho dù Chúa Giêsu đã cho ông hiểu rằng: Ngài là Vua và Nước của Ngài không thuộc về thế gian này, nhưng Philatô đã không quan tâm đến việc bảo vệ công lý cho bằng bảo vệ ngai tòa của mình. Ông rửa tay để làm ngơ trước sự bất công.
Và cũng từ phiên tòa này, Chúa Giêsu đã công khai nói lên sứ mạng của Ngài, Ngài đến trong thế gian này là thiết lập một vương quốc sự thật, một nền công lý và hòa bình từ chính trong tâm hồn con người. Và chính vì thế mà ngài đã sinh ra và đến trong thế gian này, đó là để làm chứng cho sự thật. Vương quốc sự thật chính là nước của Ngài. Ai đi theo đường công chính, biết ăn ở ngay lành, thực hành bác ái yêu thương chính là công dân trong Nước của Thiên Chúa. Nước của Ngài không hạn chế bởi địa dư, bởi mầu da sắc tộc mà mở rộng không gian tới tận cùng trái đất. Nơi nào có những người xây dựng hòa bình, công lý và tình thương, nơi đó Nước Chúa đang ngự trị.
Là Kytô hữu tức là công dân của Nước Thiên Chúa chúng ta được mời gọi xây dựng sự hiệp nhất yêu thương. Sự hiệp nhất đó phải được xây dựng từ nơi gia đình, nơi xứ đạo chúng ta. Phải xóa bỏ những tị hiềm, ghen ghét, những bất công, hận thù trong cuộc sống giữa người với người. Mỗi người kytô hữu khi lãnh nhận bí tích rửa tội đều được mời gọi làm chứng cho sự thật giữa thế gian. Nghĩa là phải cùng nhau loại trừ điều gian dối, chua ngoa và xây dựng tình liên đới giữa con người với nhau trong yêu thương chân thật. Như lời Đức thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nói: “phải làm thế nào để tính thiện nơi con người được chiếu lộ ra, và giải phóng các sức mạnh của sự tiềm ẩn nơi con người, để sự thiện ấy được lớn mạnh hơn sự ác cả trong lĩnh vực luân lý lẫn xã hội”. Vâng, cuộc đời này có lẽ sẽ vui hơn nếu người ta biết sống chân thành với nhau. Cuộc sống này sẽ bớt ưu sầu nếu người ta thôi nghi ngờ và kết án lẫn nhau. Cho dù cuộc đời có thay trắng đổi đen. Con người có lấy ân báo oán, nhưng người kytô hữu không vì thế mà đánh mất bản tính của mình là sống thánh giữa đời để kiến tạo một nền công lý và hòa bình trên mặt địa cầu này. Vì chúng ta vẫn mong chờ một ngày kia Nước Chúa sẽ trị đến và Ngài sẽ ngự đến trên mây trời để ban thưởng hạnh phúc trường tồn cho những ai thành tâm thiện chí sống và thực thi giáo huấn của Ngài.
Cầu nguyện
Lạy Chúa, giữa thế giới đầy sa đọa, con người ngày nay vẫn muốn loại trừ Thiên Chúa. Dường như vì ích kỷ đã làm cho họ mù loà đến nỗi không nhận ra sự bất hạnh của tha nhân để cảm thông, để nâng đỡ. Dường như vì tham lam mà con người muốn loại trừ đồng loại để bảo vệ tiền tài danh vọng cho chính mình. Đồng tiền và danh vọng đã làm mờ con mắt. Tự hủy diệt mình trong đam mê lạc thú và quyền lực thế gian.
Xin Chúa giúp chúng con dám sống cho sự thật và làm chứng cho sự thật. Ngõ hầu danh Chúa được cả sáng. Amen.
(Suy niệm của Lm. Trần Bình Trọng)
NƯỚC CHÚA KHÔNG THUỘC THẾ GIAN NÀY
Khi quan Philatô hỏi Đức Giêsu xem Người có phải là vua dân Do thái không? (Ga 18:33), Chúa liền trả lời đó là ý tưởng của ông quan. Philatô đã phải hiểu câu trả lời của Chúa là lời chối từ. Tuy nhiên Philatô vẫn cố tình không muốn hiểu cho nên cứ cho khắc bảng chữ treo trên thập giá Chúa với lời: Giêsu Nagiarét, vua dân Do thái (Ga 19:19). Thực ra thì bảng chữ trên thập giá là một tính toán sai lầm của Philatô, bởi vì các thày cả thượng phẩm của người Do thái không chịu chấp nhận Đức Giêsu làm vua của họ. Và chính Chúa cũng không muốn tước hiệu là vua của người Do thái. Theo sau phép lạ hoá bánh và cá ra nhiều, dân chúng muốn tôn Người làm vua. Tuy nhiên Chúa không muốn can dự vào việc cai trị nước trần thế.
Rồi quan Philatô lại hỏi Chúa: Vậy ông là vua sao? (Ga 18:37). Chúa Giêsu mặc nhiên xác nhận câu hỏi của Philatô. Chúa chấp nhận tước hiệu là vua mà nhiều lời tiên tri đã ám chỉ. Vậy thì vương quốc của Chúa ở đâu? Đây chính là câu trả lời của Chúa: Nước tôi không thuộc về thế gian này (Ga 18:36). Và đâu là những đặc tính của nước Chúa? Xa xưa trước cả khi Chúa cứu thế giáng sinh, các ngôn sứ như Isaia, Giêrêmia, Đanien, Hôsê, Amốt đã loan báo cho dân chúng là Đấng cứu thế sẽ đến thiết lập một vương quốc như trong kinh tiền tụng Chúa nhật lễ Chúa Kitô vua ghi lại: một vương quốc vĩnh cửu và vô biên, vương quốc tràn đầy sự thật và sự sống, vương quốc đầy tràn ân sủng và thánh thiện, vương quốc đầy tràn tình thương, công lí và bình an.
Trong bài trích sách ngôn sứ Đanien hôm nay, vị tiên tri trong một thị kiến ban đêm đã nhìn thấy Con Người đến thiết lập một vương quốc vĩnh cửu, chẳng hề suy vong (Đn 7:14). Ngôn sứ Đanien tiên báo là Con Người sẽ nhận từ Đấng Lão Thành là Thiên Chúa: quyền thống trị, vinh quang và vương vị; muôn người thuộc mọi dân tộc, quốc gia và ngôn ngữ đều phải phụng sự Người (Đn 7:14). Còn thánh Gioan trong một thị kiến được ghi lại trong sách Khải huyền là Đức Giêsu sẽ đến như vị Thủ lãnh mọi vương quốc trần gian (Kh 1:5). Khi loan báo cho trinh nữ Maria là con bà sẽ ngồi trên ngôi báu Đavít, và sẽ làm vua thống trị nhà Giacóp đến muôn đời, sứ thần Gáp-ri-en cũng ám chỉ một vương quốc thiêng liêng (Lc 1:33).
Vậy nước Chúa được khởi sự như thế nào? Dụ ngôn hạt cải giúp ta hiểu sự lớn lên và bành trướng của nước Chúa, lúc đầu chỉ nhỏ bé như hạt cải, quá nhỏ đến nỗi khó có ai nhận ra. Việc khởi sự khiêm tốn của nước Chúa với việc chọn lựa có mười hai tông đồ là một cớ vấp phạm cho người Do thái. Thật là khó mà tin rằng các tông đồ, đa số làm nghề chài lưới và ít học lại có thể xây dựng được một vương quốc. Và đó là một trong những điểm khác biệt giữa nước Thiên Chúa và nước trần gian. Như vậy người ta thấy sự bành trướng của nước Chúa không tuỳ thuộc vào học vấn, tài năng và địa vị xã hội của loài người, nhưng là tuỳ thuộc vào quyền phép của Thiên Chúa và sự cộng tác của loài người.
Những giá trị của nước Thiên Chúa có thể được tìm thấy trong Thánh kinh và trong Phúc âm. Vậy những người thực thi công chính và yêu thương, những người tỏ lòng xót thương, những người tìm kiếm sự thật, những người kiến tạo hoà bình, những người sống đời thánh thiện là những người có được nước Chúa trong tâm hồn. Sự bành trướng của nước Chúa phải được bắt đầu từ trong tâm hồn và đời sống người tín hữu, rồi được lan rộng ra cho người hàng xóm, cho sở làm, cho xã hội.
Là người Kitô giáo, ta có hai quyền công dân: công dân của nước trần thế và công dân của nước trời. Là công dân của nước trời ta có thêm bổn phận vượt trên bổn phận của người công dân nước trần thế. Là công dân nước trời, ta có bổn phận công bố nước Chúa bằng việc thờ phượng và cầu nguyện, bằng việc rao giảng tin mừng cứu độ, bằng việc thiện hảo, bằng việc cổ võ công bình bác ái. Những bổn phận của người công dân nước trời có thể được tóm tắt trong hai giới răn là mến Chúa và yêu người.
Lời cầu nguyện xin cho được ơn biết tìm kiếm những sự thuộc về nước Chúa:
Lạy Đức Giêsu Kitô vua!
Chúa là vua trên hết các vua, Chúa trên hết các chúa.
Chúa đến thiết lập
một vương quốc thiêng liêng và vĩnh cửu.
Xin dạy con biết tìm kiếm những sự thuộc về nước Chúa.
Nếu có lãnh vực vực nào trong đời sống con,
chưa được Chúa làm chủ: tư tưởng, lời nói, việc làm,
xin Chúa đến làm chủ tâm hồn và đời sống con. Amen.
(Suy niệm của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL)
Chủ đề sự sống của Mùa Phục Sinh đã đạt tới tột đỉnh ở Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay, Chúa Nhật Trọng Kính Chúa Giêsu Kitô Vua, thời điểm kết thúc cho bất cứ phụng niên nào, dù là chu kỳ A, B hay C.
Thật vậy, nếu Chúa Kitô “là sự sống lại và là sự sống” (Gioan 11:25), (lưu ý Chúa Kitô xưng Người là “sự sống lại” trước và là “sự sống” sau) thì quả thực Người “là sự sống lại” khi Người phục sinh vào ngày thứ ba từ trong kẻ chết. Bởi vì Người chính “là sự sống” bất tử không thể nào bị sự chết làm chủ và tiêu diệt.
Thế nhưng, cho dù Cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô 2 ngàn năm trước đã hoàn toàn thắng được sự dữ nơi thân xác bị giết chết nhưng sống lại của Người, trong một thế giới càng ngày càng văn minh về khoa học và càng văn hóa về nhân bản nhân quyền chưa từng thấy, như giai đoạn lịch sử từ giữa thế kỷ 20 sang đầu hơn một thập kỷ của thiên kỷ thứ 3 hiện nay cho thấy, sự dữ lại càng gia tăng hơn bao giờ hết, như thể con rồng sau một ngàn năm bị xiềng lại, bởi sợi giây xích khổng lồ là quyền lực cứu độ của Thánh Giá Chúa Kitô tử nạn, đã được thả ra trong một thời gian ngắn, như Sách Khải Huyền đã tiết lộ (20:1-3).
Trong thời gian ngắn vớt vát còn lại này của mình, con rồng đã vận dụng tất cả quyền lực chết chóc độc hại nhất và dữ dội nhất của hắn và từ hắn, để tàn phá cho bằng được công ơn cứu chuộc vô giá của Chúa Giêsu Kitô nơi từng Kitô hữu cũng như nơi chung Giáo Hội, những đối thủ chính yếu của nó và là mục tiêu tấn công quyết liệt của nó, qua hai đạo quân hùng hậu gog và magog, (như ám chỉ trào lưu ồ ạt chủ nghĩa duy nhân bản và tương đối vô cùng lợi hại đang chi phối tâm thức và đời sống của loài người hiện nay), đông như cát biển “đã xâm chiếm toàn cõi xứ sở (ám chỉ thế giới) và công hãm thành đô yêu dấu là nơi dân Chúa cắm trại (ám chỉ Giáo Hội)”, như Sách Khải Huyền ghi lại (20:8-9).
Phải chăng chiến dịch toàn cầu hóa về kinh tế theo chiều hướng chính trị để làm sao có thể dần dần đế quốc hóa tất cả mọi nền văn hóa của các dân nước, cũng như biến đổi hoàn toàn nền luân lý chân chính của lệ luật Thiên Chúa, thành những gì là tự nhiên lăng loàn của bản tính nhiễm lây nguyên tội trên thế giới hiện nay, hình như đang hiện thực hóa mưu đồ lịch sử (conspiracy of history) của hội kín thợ xây trật tự thế giới mới tam điểm, cho vương quốc của satan trị đến trong lòng người và lịch sử?!
Phải, cho tới khi con rồng đã tung ra tất cả quyền lực độc dữ nhất của nó thì cũng chính là lúc sự dữ hết thời, và hoàn toàn bị tận diệt bởi chính Đấng “được toàn quyền trên trời dưới đất” (Mathêu 28:18), khi Người “là sự sống” vĩnh hằng bất tận tái xuất hiện trong vinh quang với tư cách là Thẩm Phán Chí Tôn “để phán xét kẻ sống và kẻ chết”, Đấng được Tiên Tri Đaniên trong Bài Đọc 1 hôm nay báo trước vương quyền thống trị bất diệt của Người:
“Trong một thị kiến ban đêm (theo người viết thời điểm “ban đêm” ở đây ám chỉ tình hình nhân gian và Giáo Hội trước khi Chúa Kitô tái giáng), tôi đã ngắm nhìn, và đây tôi thấy như Con Người đến trong đám mây trên trời, Ngài tiến đến vị Bô Lão (“Vị Bô Lão” ở đây theo người viết có thể ám chỉ Chúa Cha), và người ta dẫn Ngài đến trước mặt vị Bô Lão. Vị nầy ban cho Ngài quyền năng, vinh dự và vương quốc: tất cả các dân tộc, chi họ, và tiếng nói đều phụng sự Ngài; quyền năng của Ngài là quyền năng vĩnh cửu, không khi nào bị cất mất; vương quốc của Ngài không khi nào bị phá hủy”.
Thị kiến của Tiên Tri Đaniên về Con Người lãnh nhận vương quyền thống trị đến muôn đời tất cả loài người là loài tạo vật được Người cứu chuộc, đã được phụ họa và âm vang trong Bài Đáp Ca hôm nay:
- Chúa làm vua, Ngài đã mặc thiên oai; Chúa đã vận uy quyền, Ngài đã thắt long đai.
- Và Ngài giữ vững địa cầu, nó sẽ không còn lung lay. Ngai báu của Ngài thiết lập từ muôn thuở, tự đời đời vẫn có Chúa.
- Lời chứng bảo của Ngài rất đáng tin, lạy Chúa, sự thánh thiện là của riêng nhà Ngài, cho tới muôn muôn ngàn thuở.
Đúng thế, sự kiện Chúa Kitô “là sự sống” bất diệt và bất tận xuất hiện lần thứ hai không phải chỉ để tận diệt sự dữ, mà trước hết và trên hết là để tỏ hết mình ra trên thế gian này, như thể tạo vật được Thiên Chúa dựng nên đã đến thời viên mãn của mình nơi Người, nhờ Người và với Người. Bấy giờ, khi Người tái xuất hiện, Người tỏ mình ta với tư cách là một Vị Con Thiên Chúa hằng sống bất diệt, qua nhân tính hiển linh cùng với thân xác phục sinh của Người, và như thế, Người như ánh sáng sự sống cuối cùng xua tan bóng tối sự dữ cho đến muôn đời, hoàn toàn không bao giờ còn sự dữ nữa, như Sách Khải Huyền tiên bào về một Tân Thành Thánh Giêrusalem “không còn đêm” (22:5), vì “trời trước và đất trước đã qua đi” (21:1).
Chiều hướng trên đây về lần đến cuối cùng đầy vinh quang rạng ngời vinh thắng của Chúa Kitô “Con Thiên Chúa hằng sống” (Mathêu 16:16; Gioan 11:27), Đấng cuối cùng đã tỏ mình ra hoàn toàn đúng với phẩm chức thần linh và quyền năng tối cao của Người, được Sách Khải Huyền tiên báo nơi Bài Đọc 2 hôm nay như thế này:
“Chúa Giêsu Kitô, là chứng tá trung thành, là trưởng tử kẻ chết, là thủ lãnh các vua trần thế, là Đấng đã yêu thương chúng ta, Người đã dùng máu Người mà rửa chúng ta sạch mọi tội lỗi, và đã làm cho chúng ta trở nên vương quốc và tư tế của Thiên Chúa, Cha của Người. Nguyện chúc Người được vinh quang và quyền lực muôn đời. Amen. Kìa, Người đến trong đám mây, mọi con mắt đã nhìn thấy Người, và cả những kẻ đã đâm Người cũng nhìn thấy Người, các chủng tộc trên địa cầu sẽ than khóc Người. Thật như vậy. Amen. Chúa là Thiên Chúa, Đấng đang có, đã có, và sẽ đến, là Đấng Toàn Năng phán: ‘Ta là Alpha và Ômêga, là nguyên thuỷ và là cứu cánh'”.
Trong cuộc khổ nạn của mình, Chúa Kitô sẽ Tái Giáng vinh quang, vào lúc ấy, trước hết, mới chỉ tỏ mình ra như là một con người bị lép vế trước quyền bính thế gian, bị quyền lực thế gian bắt giữ và bị hành hạ cùng sát hại như một tên đại tử tội hoàn toàn bất lực và vô cùng nhục nhã.
Thế nhưng, sự dữ và quyền lực sự dữ vẫn không làm gì được Người, Đấng “là sự sống”, Đấng “tự ý bỏ mạng sống mình đi rồi có quyền lấy lại mạng sống của mình” (Gioan 10:18). Trái lại, Người đã thắng được sự dữ nơi sự chết bị Người tiêu diệt bởi “sự sống lại” của Người hay bởi Người “là sự sống lại”. Thậm chí nhờ sự dữ Người phải chịu cả trong tâm hồn lẫn thể xác mà Người đã cứu được con người, trước hết và trên hết, khỏi sự dữ về luân lý là tội lỗi của họ, nhờ đó họ khỏi bị chết đời đời là sự dữ trên hết mọi sự dữ.
Người quả thực là vua cai trị mọi sự, dù trải qua cuộc khổ nạn và tử giá. Do đó, không phải tự nhiên mà viên tổng trấn dân ngoại tự nhiên có linh cảm Người là một nhân vật đặc biệt, mang phong cách oai nghi vương giả, chứ không phải là một nhân vật tầm thường mà ông đã từng gặp, qua câu hỏi “ngài từ đâu tới” (Gioan 19:9), dù theo nhân vật cầm quyền sinh tử của Người bấy giờ thì Người chỉ là “Vua Dân Do Thái” (Luca 23:38) chư hầu của đế quốc Rôma.
Tuy nhiên, theo Phúc Âm của Thánh ký Gioan được Giáo Hội chọn đọc thay cho Phúc Âm Thánh ký Marco Chu Kỳ Năm B này, Chúa Kitô đã tự đính chính bằng câu trả lời rất chính xác cho vấn đề được Viên Tổng Trấn Philato ấy đặt ra hỏi Người “Ông có phải là Vua dân Do-thái không?” rằng: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thì những người của tôi đã chiến đấu để tôi không bị nộp cho người Do-thái, nhưng mà nước tôi không thuộc chốn này”. Nghĩa là vương quốc của Chúa Kitô là vương quốc của Thiên Chúa, vương quốc tối cao của lòng người, và bất diệt vượt trên mọi vương quốc hữu hạn trên trần gian này.
Thật ra, tự mình là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa, Chúa Giêsu Kitô đã là vua, nhưng nơi nhân tính của mình, Người cần phải chứng thực hay tỏ mình ra Người thực sự bẩm sinh là vua, (như khi mới sinh ra Người đã được 3 vương chiêm tinh gia đến bái thờ – Mathêu 2:1-12), một đức vua trên hết mọi vua chúa trên trần gian này, một đức vua muôn đời, đúng như Người đã trả lời cho câu chất vấn của Tổng Trấn Philatô: “Vậy ông là Vua ư?”: “Chính quan là người đã nói tôi là vua – It is you who say I am a king. Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là chỉ để làm chứng về Chân lý. Ai thuộc về Chân lý thì nghe tiếng Tôi”.
Trong câu khẳng định có tính cách gián tiếp này của Chúa Kitô Vua, Người không tự mình xưng là vua, và không bao giờ Người tự xưng mình như thế, vì đụng đến chính trị, tức đụng đến chính quyền đế quốc Rôma cũng như đến quận vương Hêrôđê ở Galilêa, cũng như Người đã không bao giờ tự xưng Người là Đấng Thiên Sai – Messiah, vì Người tránh đụng đến giáo quyền Do Thái, mà chỉ công nhận qua việc đáp ứng của Người mà thôi, như Người đã công nhận lời của phụ nữ Samaritanô ở Giếng Giacóp về tư cách của Người (xem Gioan 4:25-26), hay như Người đã công nhận lời truyền lệnh của giáo quyền Do Thái giáo hỏi Người xem Người có phải là Đấng Thiên Sai hay chăng (xem Mathêu 26:63-64): “Chính ngài là người nói thế… It is you who say it”.
Cũng trong câu khẳng định gián tiếp với viên quan tổng trấn Philatô ấy, Chúa Kitô còn liên kết vai trò làm vua của Người với chân lý nữa: “Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là chỉ để làm chứng về Chân lý. Ai thuộc về Chân lý thì nghe tiếng Tôi”. Nếu Chúa Kitô chính “là chân lý” (Gioan 14:6) thì Người “sinh ra và đến trong thế gian này là chỉ để làm chứng về” chính bản thân Người “là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mathêu 16:16), ai tin Người hay “chấp nhận Người thì Người ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa” (Gioan 1:12). Đó là lý do “Nước tôi không thuộc về thế gian này” mà một vương quốc của “sự sống”, sự sống đời đời, vĩnh viễn tồn tại như chính “Chân Lý” bất biến.
Người quả thực là “một người quí tộc kia đi phương xa để được phong vương” như Người đã tiên báo cho các môn đệ và đám đông đi theo Người trong cuộc hành trình Giêrusalem của Người, như bài Phúc Âm của Thánh ký Luca Thứ Tư Tuần XXXIII Thường Niên tuần trước (19:12). Theo bài Phúc Âm này, cho dù dân Do Thái của Người không chấp nhận Người là vua của họ (xem Luca 19:14, Gioan 19:15,20-22), nhưng họ chẳng những vẫn không làm gì được Người mà còn bất ngờ làm cho Người trở thành vua của toàn thể nhân loại nữa: “Người đã được phong vương trở về” (Luca 19:15), theo chiều hướng của Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật cuối cùng của Phụng Niên trọng kính Chúa Kitô Vua.
Là Kitô hữu, chúng ta, qua Phép Rửa, đã được thông phần vào thiên chức vương đế, ngôn sứ và tư tế của Chúa Kitô và với Chúa Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống. Chúng ta đã sống thế nào với thiên chức vương đế bởi chúng là là con Thiên Chúa này của mình: chúng ta có làm chủ mọi sự hay chăng với tư cách là những dưỡng tử của Thiên Chúa, hay vẫn sống đời nô lệ cho tội lỗi, cho thần dữ, cho thế gian, xác thịt?.
(Suy niệm của Lm. Mido Duy, CRM.)
Hôm nay chúng ta tôn vinh Vương Quyền của Chúa Kitô, Đấng đã được Chúa Cha sai đến trần gian để thực hiện chương trình Cứu Chuộc Nhân Loại. Để thực hiện chương trình này, Chúa Cha đã trao toàn quyền trên trời dưới đất cho Chúa Giêsu.
Vương quyền Chúa Kitô
Quyền này được xác định đầu tiên khi Đức Mẹ nhận tin báo của Tổng Thần Gabriel nói: “Thiên Chúa sẽ ban cho Ngài (Con của Mẹ) ngôi báu tổ phụ Ngài và Vương quyền Ngài sẽ vô cùng vô tận” (Lc 1,32-33). Chính Mẹ đã nghi nhớ lời tiên báo đó cách rõ ràng và xác tín. Nhưng khi Chúa bị treo trên thập giá, các quan chức và binh lính đã xỉ vả Ngài: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy tự xuống khỏi thập giá đi, bằng không, ông là kẻ Thiên Chúa chúc dữ” (Lc 23, 36) Trong con cái Eva, lúc này Đức Mẹ thấy nhục nhã nhất, thay vì lời chúc phúc ngày xưa, bây giờ Mẹ toàn nghe thấy đầy những lời chúc dữ và nhiếc mắng. Khi Mẹ hạ sinh Chúa Giêsu, Mẹ nghe thấy thiên thần ca hát vinh danh Thiên Chúa , thì bây giờ Mẹ không thấy bình an ở đâu mà toàn nghe thấy những bất bình, giết chóc mà con người dành cho Đức Kitô.
Chức vị Vua của Chúa Giêsu
Trong Kinh Thánh không nói trực tiếp về chức vị “Vua” của Chúa Giêsu theo nghĩa thế gian thường hiểu. Cựu Ước thì Đavid nói một vài lần hình ảnh vua có ý nói trước về Đấng Cứu Thế.
“Chính Ta đã đặt vị quân vương
Ta tuyển chọn, lên trị vì Xi-on, núi thánh của Ta.”
Tân vương lên tiếng: Tôi xin đọc sắc phong của CHÚA,
Người phán bảo tôi rằng: “Con là con của Cha,
ngày hôm nay Cha đã sinh ra con”. (Tv 2, 6-7)
Tân ước qua những dụ ngôn
cũng chỉ là mức độ “ám chỉ” về Ngài.
“Đức Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu?”
(Ba nhà Phương Đông theo ánh sao) (Mt 2,2)
“Chuyện một ông vua kia muốn đòi
các đầy tớ của mình thanh toán sổ sách”. (Mt 18, 23)
“Lạy Ngài, lạy Con vua Đa-vít,
xin dủ lòng thương chúng tôi!”
(Mt 20, 31) người mù ở Giêricô.
Trước toà án Philatô Chúa Giêsu đã xác nhận “Tôi là Vua, nhưng nước tôi không thuộc về thế gian này” (Ga 18, 36). Binh lính và dân chúng cũng mỉa mai chức vua của ngài “nếu ông là vua thì tự xuống khỏi thập giá đi …”
Đối với người Roma, tước hiệu vua của Ngài càng có lý do để lên án Chúa. Bởi vì sao? Vì Chúa không dùng quyền bính mà cai trị thần dân của Ngài, Ngài không dùng quân đội để củng cố ngai vàng của mình. Vị vua đó khác với quan niệm của nhân loại, cho nên Chúa Giêsu không phải là vị vua họ mong đợi. Ngài không dùng quyền uy để cai trị mà dùng tình thương để chinh phục muôn tâm hồn. Ngài không dùng quân đội để củng cố ngai vàng mà dùng các môn đệ, bằng ơn thánh từ máu đổ ra tắm gội cây thập giá. Cho nên ngai vàng của Ngài chính là cây thánh giá.
Tư tế, Vương đế và Ngôn sứ nơi tín hữu
Chúng ta là thần dân của Ngài, cũng được tham dự vào 3 quyền bính của Ngài: Tư tế, vương đế và ngôn sứ. Đời sống của kitô hữu đích thực là tham dự vào việc tế lễ hằng ngày. Sự cao cả của người Kitô hữu là con Vua trời, cai trị những đam mê và tội lỗi, sẽ chiến thắng trần gian. Và sứ mạng quan trọng của chúng ta là loan báo tin mừng bằng lời nói hay bằng đời sống.
Vậy để kết luận, chúng ta đã sống với 3 sứ mệnh này như thế nào?
- Khi ta chấp nhận đời sống làm của lễ dâng lên Chúa đó là ta tham dự vào quyền tư tế của Chúa.
- Khi ta luôn quan tâm việc linh hồn hơn việc thể xác đó là ta đang tham dự vào quyền vương đế của Chúa.
- Khi ta làm gương sáng cho người xung quanh bằng việc bác ái, dấu chỉ đó nói lên chúng ta đang tham dự vào quyền ngôn sứ của Ngài.
(Suy niệm của Montfort Nguyễn Xuân Pháp. Ocist)
- Tóm Lược Ý Chính
Bài Đọc 1: Đn 7, 13- 14
Trong bài đọc một hôm nay, chúng ta rút ra hai ý chính:
- Thứ nhất: Con Người ngự giá mây trời mà đến và được dẫn tới trình diện Đấng Lão Thành.
- Thứ hai: Đấng Lão Thành trao cho Người quyền thống trị, vinh quang và vương vị. Quyền thống trị của Người là quyền vĩnh cửu và vương quốc của Người sẽ chẳng hề suy vong.
Bài Đọc 2: Kh 1, 5- 8
Có ba điểm trong bài đọc hai này:
- Thứ nhất là các tước hiệu của Đức Kitô: Đức Kitô là vị chứng nhân trung thành, là trưởng tử, là thủ lãnh mọi vương đế trần gian.
- Thứ hai: Đức Kitô yêu mến chúng ta. Ngài đã yêu thương và tẩy rửa chúng ta sạch mọi tội lỗi, làm cho chúng ta trở thành vương quốc và hàng tư tế để phụng sự Thiên Chúa là Cha của Người.
- Thứ ba: Thiên Chúa vĩnh cửu. Ngài là Anpha và Omega, Đấng hiện có, đã có và đang đến, là Đấng toàn năng.
Bài Đọc Tin Mừng (Ga 18, 33b- 37)
Bài Tin Mừng hôm nay đưa ra cho chúng ta hai hình ảnh:
- Hình ảnh thứ nhất là Quan Philatô: Khi dân Do thái và các tư tế nộp Đức Giêsu cho quan, ông ta đã hỏi Đức Giêsu: ông có phải là vua dân Do thái không? Và câu hỏi thứ hai quan Philatô đã đặt ra cho Chúa Giêsu cũng mang cùng ý hướng trên: Vậy ông là vua sao?
- Hình ảnh thứ hai là Đức Giêsu: trước câu hỏi của quan Philatô, Đức Giêsu đã lấy lại chính câu hỏi để trả lời: chính ngài nói rằng tôi là vua, nhưng nước tôi không thuộc về thế gian này. Tôi đã sinh ra và đến thế gian để làm chứng cho sự thật; ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi.
- Suy Niệm
Giáo hội dành tuần cuối cùng của Năm Phụng Vụ để mừng kính Chúa Giêsu Vua. Thánh lễ này được đức giáo hoàng Pio XI thiết lập vào ngày 11/12/1925, sau chiến tranh thế giới thứ nhất. Có lẽ, khi thiết lập thánh lễ này, đức giáo hoàng Pio XI muốn nói lên hai điều:
Thứ nhất: Khi con người tự “xưng hùng xưng bá” thì hệ luận của nó là bạo quyền, bốc lột, đàn áp, trục lợi, xâu xé lẫn nhau. Thứ quyền bính mà người ta khoác lên mình luôn có nguy cơ là bức bình phong che đậy sự tham lam bất chính, và biến người khác thành phương tiện phục vụ cho sự ích kỷ của mình.
Thứ hai: Khi tôn Đức Giêsu là Vua, vị vua của tình yêu, bao dung và tha thứ, con người sống đúng với vai trò của mình, cũng như dễ có thái độ hiền hòa và yêu thương lẫn nhau. Nhờ đó, chiến tranh sẽ được đẩy xa, hận thù được lột bỏ và tình yêu sẽ lên ngôi. Vâỵ thánh lễ Chúa Giêsu Vua hôm nay, chúng ta cùng nhau suy niệm hai điểm sau:
- Vương Quốc Của Đức Giêsu Không Thuộc Về Thế Gian Này.
Khi Philatô hỏi Đức Giêsu: “Ông có phải là vua dân Do thái không?”, thì Đức Giêsu đã trả lời: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thì thuộc hạ của tôi sẽ chiến đấu không để tôi bị bắt như thế này” (Ga 18, 36). Như thế, vương quốc của Đức Giêsu khác hẳn với ý niệm vương quốc của con người thời nay, bởi vì, vương quốc của ngài được xây dựng trên tình thương và sự thật. Ngài nói: “Tôi đã sinh ra và đến thế gian này để làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi” (Ga 18, 37). Vậy sự thật là gì? Nhìn dưới khía cạnh đạo đức thì sự thật là nhận biết Thiên Chúa Cha và nhận biết Người Con mà Cha sai đến là Đức Giêsu Kitô. Đó là nền tảng đức tin kitô giáo. Chúng ta không thể xây dựng một cuộc sống an hòa và hạnh phúc nếu không đặt nền móng nơi Đức Kitô (x. Cl 2, 7). Bởi vì, thiếu vắng chiều kích này, tâm hồn con người sẽ trống rỗng, sẽ là môi trường thuận lợi cho những “ký sinh trùng” của sự ích kỷ phát triển.
Dĩ nhiên, sống trong một xã hội mà nói dối và lộc lừa đã trở nên căn bệnh kinh niên, thì việc sống theo sự thật không đơn giản chút nào. Người thành thật luôn chịu thua thiệt và bị coi là khờ dại vì không “uốn theo chiều gió”; còn những kẻ ranh ma, lộc lừa lại được ca tụng là khôn ngoan và hợp đời. Tuy nhiên, con người không thể bước vào vương quốc của Đức Kitô nếu chưa xây dựng đời mình trên sự thật: sống theo sự thật là tấm hộ chiếu cho những ai muốn bước vào vương quốc tình yêu của Ngài. Đàng khác, sống theo sự thật sẽ giúp mỗi người thoát khỏi những vướng bận thấp hèn, khỏi những lộc lừa gian dối để được hoàn toàn tự do sống theo ân sủng của Chúa. Đức Kitô đã khẳng định: “sự thật sẽ giải thoát anh em” (Ga 8, 32).
- Đức Kitô- Vua Tình Yêu
Thánh Gioan đã nói thật chính xác: “Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4, 8); những gì Chúa Giêsu làm cho con người đều gói gém trong hai chữ: tình yêu. Vì yêu, Ngài đã khước từ ving quang, mặc lấy thân nô lệ, trỡ nên giống phàm nhân, sống như người trần thế, vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá để cứu độ con người (Pl2, 6- 11). Cũng vì yêu, Ngài đã không ngần ngại đồng bàn với người tội lỗi, quân thu thuế và gái điếm để cứu chữa họ. Cho nên, vương quốc mà Ngài thiết lập cũng không đi ra ngoài quỹ đạo này. Đây không phải là một thứ tình yêu “bàn giấy”, nhưng là một tình yêu dẫn đến phục vụ: “Con Người đến không phải để được phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc 10, 45).
Trong chiều hướng đó, Đức Giêsu cũng đang mời gọi chúng ta hãy để cho Ngài thiết lập vương quốc tình yêu nơi tâm hồn mỗi người: hãy để cho Ngài chiếm hữu đời mình và thanh luyện bản thân. Có thế, tâm hồn chúng ta mới có được bình an địch thực và khả năng mở ra với người khác để phục vụ. Thiên Chúa không muốn chúng ta tự đóng kín tâm hồn mình, vì nó có nguy cơ làm chết gộp đời sống tâm linh và khả năng yêu thương. Nói cách khác, Ngài mời gọi chúng ta hãy mở ra cho Thiên Chúa và anh chị em. Bởi vì, vương quốc của Đức Kitô không có biên cương, không có rào chắn, nhưng luôn được mở ra cho tất cả mọi người. Nơi đó, mọi người có thể bước vào và được Thiên Chúa mở rộng vòng tay đón nhận.
(Suy niệm của Lm. Gioan M. Nguyễn Đức Hùng, CRM.)
Thưa bạn rất kính mến!
Thỉnh thoảng chúng ta cũng nên nhắc lại cho nhau về lòng ưu ái đặc biệt của Thiên Chúa dành cho loài người chúng ta, và theo một nghĩa nào đó, Ngài còn yêu chúng ta hơn cả các Thiên thần của Chúa nữa đấy, bạn ạ. Vâng, chỉ nguyên việc chúng ta được rước Thánh Thể hằng ngày thôi, thì đã đủ minh chứng cho ta rõ điều đó. Bởi lẽ, trong thực tế, đâu có một Thiên thần nào, ngay cả trong các Tổng thần ưu việt nhất, cũng chẳng vị nào có lấy được một lần diễm phúc rước Chúa như loài người chúng ta.
Trong công trình sáng tạo nên vũ trụ hữu hình này, Thiên Chúa đã tỏ tình yêu thương, tin tưởng to lớn đối với con người khi trao cho con người làm bá chủ tất cả những vật hữu hình Chúa đã dựng nên. Kinh thánh bảo cho chúng ta biết thế đấy! Thiên Chúa trao công trình tay Ngài sáng tạo đó vào tay con người, không những để con người làm chủ, hưởng dùng, thưởng thức thoải mái, mà còn để con người có nhiệm vụ làm vua, làm quản lý trông coi và phát triển theo ý Thiên Chúa.
Quả thực, chính Chúa đã nói với chúng ta qua Thánh vương Đavít mà Thánh Phaolô còn nhắc lại trong thư gởi cho tín hữu Do thái: “Chúa tạo dựng con người kém Thiên thần một chút, nhưng Chúa trang sức cho con người bằng bảo ngọc với vinh quang, Chúa ban quyền hành trên công cuộc tay Ngài sáng tạo, Chúa đặt muôn vật dưới chân con người”. Chúa muốn con người làm vua điều khiển cai trị cái vũ trụ này, để rồi đến lượt mình, con người lại thay cho vạn vật, thờ lạy, ngợi khen, tôn vinh, yêu mến Thiên Chúa Hằng Sống. Có phải là Thiên Chúa quá ưu ái yêu thương bạn và tôi không?
Bạn mến!
Chúng ta đang hân hoan mừng Chúa Kitô Vua Trời Đất, Vua vũ trụ, Vua lòng người, vị Vua chẳng giống bất cứ vị vua nào trên trần thế. Chúng ta mừng kính trọng thể, vui sướng, tôn vinh Vua vũ trụ với cùng một nguyện ước khát bỏng là mong cho Chúa Giêsu sớm thật là Vua đối với tất cả mọi người, và mọi người đều là thần dân trung thành, ngoan ngùy, thảo mến thật dễ thương đối với Ngài. Thật ra, tự bản tính Chúa vốn là Vua; thế nhưng, điều tôi muốn cùng với bạn lưu tâm và vận động mong cầu đó là: mong cho hết tất cả mọi người đều tự do tình nguyện tôn vinh Chúa làm Vua ngay trong tâm hồn và đời sống mình từ sáng đến tối, từ tối cho đến sáng, và cứ ngày nào cũng thế, cho đến khi cùng nhau về trời để cùng tôn vinh, ngợi khen, yêu mến Vua muôn vua cho đến đời đời chẳng cùng amen.
Chính khi chúng ta chấp nhận để cho Chúa Kitô làm vua lòng ta, thì ta lại thực sự làm vua cùng với Ngài, làm vua cai trị ý riêng và các đam mê dục vọng phóng túng của ta, làm vua trong việc cai trị điều khiển ý riêng của ta cho phù hợp với Thánh ý khôn ngoan siêu vợi vô cùng từ bi nhân hậu khôn dò của Chúa…; nhất là làm vua trong việc yêu Thiên Chúa và yêu thương anh chị em đồng loại như Chúa yêu và đã làm gương rất chói sáng cho ta.
Bạn ơi!
Sách gương Chúa Giêsu đã nói: Làm tôi Thiên Chúa là cai trị! Chúng ta đang đi theo và làm theo gương của một Vị Vua chẳng giống ai, mà đúng là một vị vua chẳng giống ai thật đấy!
- Vua Hòa Bình gì mà khi đến làm vua vũ trụ này, lại phải nằm rét rum như cầy sấy trong hang bò lừa tạm trú, tới nỗi khiến cho Ba Đạo Sĩ vô cùng ngạc nhiên khi thấy Ngài, sau những ngày đêm lần mò đầy nguy hiểm chống gai vất vả đi tìm để bái thờ.
- Vua gì mà không có lấy một thằng lính để bảo vệ hộ tống cho, còn thảm tới nỗi chỉ cần mấy thằng lính quèn của Hêrôđê đuổi thôi, cũng đã phải chạy tóe khói bán sống bán chết sang mãi tận bên Aicập để lánh nạn và tìm miếng ăn kiếm sống qua ngày.
- Vua gì mà bị trói và bị thẩm vấn trước mặt Philatô mà không một lời biện hộ và cũng chẳng cần một ai biện hộ cho. Vua gì mà suốt ba năm trời vất vả đi chiêu mộ được 12 tông đồ gọi là trung thành sống chết với mình, thế mà khi thấy Thầy bị bắt, thì ôi thôi, các môn sinh đã từng gắn bó nằm gai nếm mật, đã cao xa bay chạy mỗi người một phách, để Thầy mình muốn ra làm sao thì kệ mặc Thầy.
- Vua gì mà chẳng giống ai, lại còn tuyên bố: Tôi sinh ra để làm Vua, Tôi đến thế gian này cũng không ngoài mục đích đó.
Vâng, đúng rồi, chính nhờ Vua không giống ai này mà Ngài đã thực sự là Vua từng cõi lòng chúng ta và nhờ Chức Vua của Ngài đó mà chúng ta mới được cứu độ và được lên Thiên Đàng đấy, bạn và tôi ạ!
Ngài đã chẳng úp mở hoặc luồn cúi, nhưng thẳng thắn tuyên bố cho Philatô và thế gian biết, Nước của Ngài không thuộc về thế gian này. Nước Ngài là Nước của Tình Yêu Thương, và Ngài làm Vua cũng là Vua Tình Yêu , Vua dùng tình yêu thương để cai trị các thần dân của mình, và phải chăng, tất cả những ai muốn là thần dân chính cống của Ngài như chúng ta, cũng không có gì được khác hơn việc là, chỉ dùng tình yêu thương mà đối xử tốt, đối xử tử tế với nhau? Thánh Phaolô đã không bảo chúng ta:Yêu Thương là chu toàn lề luật trong Vương Quốc Tình Yêu này đó sao!
Nguyên nhìn vào quang cảnh vị vua ngự giá quang lâm xét xử trong ngày phán xét mà Thánh Matthêu đã miêu tả cho chúng ta trong chương 25 sách Tin Mừng ngài viết, cũng là câu trả lời rất ư tuyệt hảo cho chúng ta biết điều đó. Ngài xét xử tiêu chuẩn để vào Vương Quốc của Ngài cũng chỉ là ta có yêu mến Ngài cụ thể qua mỗi một tha nhân hay không?
Đặc biệt, mừng Lễ Chúa Kitô Vua vũ trụ và Vua lòng mọi người, chúng ta được mời gọi để khước từ những dáng vẻ, những kiểu cách làm vua ăn trên ngồi trốc theo kiểu của thế gian; đồng thời, hăng say tích cực làm vua với Vua Kitô và làm vua giống kiểu Vua của Ngài hơn. Ngài đã nói: Ai muốn làm lớn(làm vua), phải là người làm tôi hầu hạ các con. Chính Ngài đã làm gương cho chúng ta kiểu làm vua của Ngài khi tuyên bố: Thầy ở giữa chúng con như người hầu hạ.
Thưa bạn,
Martin Caphu là người Bangla thuộc Cameroun Phi châu. Cha anh là quốc vương Bangla. Từ thiếu niên, anh đã quen với phong trào Tổ Ấm, một tổ chức Công giáo làm việc xã hội ở Phi châu. Thấy các thành viên Tổ Ấm xả thân giúp đỡ người đồng loại, anh Caphu rất cảm phục, và tới năm 1963, vào lúc mười bảy tuổi, anh xin trở lại Công giáo. Sau khi tốt nghiệp Trung học, anh được gia đình gởi về Rôma học nghành điện tử. Đậu tiến sĩ xong, anh Caphu gia nhập phòng trào Tổ Ấm.
Năm 1980, cha anh qua đời, và theo chúc thư, ông đã chọn Caphu kế vị ngai vàng. Caphu vội vã trở về Bangla, anh họp cả sắc tộc lại và xin mọi người đề cử người khác làm vua. Còn anh, anh muốn dành cả cuộc sống làm việc xã hội theo tinh thần Kitô giáo. Và mọi người đã đồng ý. Có phải đúng là anh Caphu đã rất hiểu và đã cam đảm sống tinh thần làm vua mà Chúa Kitô Vua không, thưa bạn? Và ngày hôm nay, từ giây phút này, Ngài cũng đang lên tiếng kêu mời bạn và tôi tiếp tục công trình làm vua bằng cách phục vụ người khác như một người đầy tớ đối với ông chủ là tha nhân đấy!
Các bạn rất kính mến!
Vậy, chúng ta hãy cùng nhau làm vua khắp thế gian, làm vua thiêng liêng trong tinh thần của con Thiên Chúa. Làm vua lòng mọi người bằng thương yêu tất cả, cầu nguyện cho tất cả, làm ơn cho tất cả, không yên trí, không thành kiến ai, không có ai là kẻ thù, mà giả như có ai là kẻ thù đi nữa, ta cũng sẽ tìm cách biến họ trở nên bạn, nên anh em với ta, vì tất cả đều có một mẫu số chung là con cùng một Cha trên trời với ta, đúng không, thưa bạn? Có như thế, chúng ta mới thực sự đang là những ông vua vượt muôn biên giới mà không gian, thời gian không thể trói buộc và giới hạn trái tim yêu thương của chúng ta.
Cuối cùng, sống cuộc sống ‘Kitô Vua’ là tất cả mọi suy nghĩ, lời nói, việc làm và trong đời sống của chúng ta luôn có “chất Giêsu Vua” nếu chúng ta muốn là những môn sinh, đệ tử trung thành với Thầy Chí Thánh Kitô Vua.
Để kết thúc cho bài chia sẻ này, xin kể một câu chuyện có thật xảy ra tại chính quê hương Việt Nam: Có hai gia đình ở cách nhau mấy căn thôi, dù không phải là họ hàng ruột thịt, nhưng lại hết sức thân thiết gắn bó với nhau, tới nỗi coi vui buồn sướng khổ của nhau như là của mình, của gia đình mình. Một ngày kia, hai đứa con nhỏ của hai gia đình đi học về xảy ra chuyện xích mích với nhau. Vậy mà, không ngờ chuyện nhỏ của hai đứa con hai gia đình thân thiết như ruột thịt, lại là chuyện rất lớn để rồi xa cách nhau tới hơn mười năm, mặc dù gần nhà, nhưng lại tỏ ra như người dưng nước lã với nhau, chẳng còn mặn mà như trước, là vì gia đình nào cũng bênh vực cho con của mình là đúng, và kiên quyết giữ vững lập trường, gia đình kia phải xin lỗi thì mới bỏ qua, mới tha.
Hơn mười năm xa cách, mất bằng an, cả hai gia đình có những lúc trộm tiếc xót xa, vì tình thân nghĩa đã bị mất đi một cách quá rẻ rúng, và đôi lúc trong tận đáy lòng cũng gióng lên một thiện chí muốn làm hòa để lấy lại tình thân nghĩa quí báu trước kia, nhưng không ai, không bên nào có đủ can đảm để hạ mình xuống đi bước thượng phong để xin lỗi bên kia làm cho tình trạng càng trở nên tồi tệ hơn. May mắn thay, đúng là Chúa có mắt thấu suốt mọi tơ lòng của từng người. Vào một đêm kia trong một giấc mơ, ông A đã thấy Chúa Giêsu vác thánh giá tiến đến, thân mình Chúa đầy những vết thương, máu me đầm đìa, trông thảm thương không ai chịu nổi…! Thấy cảnh tượng như thế, ông A bèn hỏi Chúa:
Lạy Chúa, sao Chúa phải đau khổ quá như vậy? Chúa Giêsu với nét mặt đầy âu yếm yêu thương, nhưng cũng nghiêm nghị trịnh trọng trả lời:
- Tại tội của con đó!
- Thưa Chúa, con có tội trọng đâu, con vẫn xưng tội rước lễ mà!
Chúa trả lời:
- Tại con chưa tha thứ cho gia đình gần nhà con. Sau đó Chúa biến đi.
Sau khi Chúa biến đi, ông A chợt thức giấc luôn, không thể ngủ được nữa, vì ấn tượng quá mạnh mẽ của giấc mơ, nhất là lời Chúa nói Ta đau khổ thế này là do con đã không tha thứ cho gia đình ông B kia. Ông vội đánh thức vợ và các con dậy, đồng thời kể đầu đuôi câu chuyện, và cuối cùng tất cả mọi người đều nhất trí là đi xin lỗi gia đình nhà ông B để giải hòa, cho Chúa đỡ khổ và lấy lại sự bình an cho hai gia đình.
Thế là sáng sớm hôm sau, khi thấy bên nhà ông B bắt đầu mở cửa, cả gia đình ông A cất gót đi sang nhà ông B. Gia đình ông B trong nhà ngó ra sân trước, thấy cảnh tượng lạ quá, cứ tưởng là nó kéo đại binh sang hội đồng nhà mình đây. Nhưng khi bình tĩnh để ý kỹ, lại thấy nét mặt của nhà ông A rất dễ thương như có vẻ gì là tha thiết lắm, nên mở cửa cho dzô.
Khi mọi thành viên nhà A bước vào nhà B, thì chẳng ai bảo ai, tất cả đều quỳ xuống và ông chủ nhà A nói lời xin lỗi nhà B; ngay sau đó, quý vị biết không, ông chủ nhà B và mọi người trong nhà B cũng tự động quỳ xuống để xin lỗi gia đình nhà A, và mọi người ôm nhau òa lên khóc vì quá vui sướng. Thời gian sau, một lần kia tôi ra thăm và được họ chia sẻ: Thưa Cha, hơn chục năm nay, chưa bao giờ chúng con sung sướng hạnh phúc như thế.
Có phải là bạn đang làm vua cùng với Đức Kitô đó không, thưa các bạn? Sung sướng vì được làm vua cai trị, chứ không phải là làm nô lệ cho những tự ái, những giận hờn ghen ghét. Vâng, chỉ nhờ một chút cố gắng hãm dẹp cái tôi, bỏ tự ái; đồng thời, hạ mình khiêm tốn đi bước trước tí mà ông A và gia đình đã làm vua thành công(làm vua theo kiểu của Chúa Giêsu Kitô Vua) trong việc đem lại bình an hạnh phúc không những cho chính mình, gia đình mình, mà còn làm cho cả gia đình ông B tràn trề hạnh phúc, niềm bình an hạnh phúc sau suốt hơn mười năm vắng bóng chỉ vì một xích mích cỏn con của hai đứa nhỏ của hai gia đình.
Mừng Lễ Chúa Kitô Vua hôm nay, Mẹ Giáo Hội thiết tha mời gọi mỗi người chúng ta hãy can đảm hãy để cho Chúa Kitô thực sự làm vua nơi tâm hồn và thể xác chúng ta và qua chúng ta, Chúa sẽ làm vua khắp cả thế giới. Chúa muốn dùng chúng ta như khí cụ bình an của Ngài, để đem yêu thương, đem hòa bình đến cho người thế.
Ước chi, lời cầu nguyện sau đây cũng là tâm tình cầu nguyện của mỗi một chúng ta hôm nay, bạn nhé:
Lạy Chúa, Lúc đầu chúng con chỉ muốn cầm tay nhau, để làm thành một vòng tròn khép kín. Sau đó, chúng con hiểu rằng, cần phải buông tay nhau, để nhận những người bạn mới, để vòng tròn được mở rộng đến vô cùng, và trái tim được lớn lên mãi.
Lạy Chúa, chúng con biết rằng, cần phải nối vòng tay lớn xuyên qua các đại dương và lục địa, vòng tay người nối với người, vòng tay con người nối với Tạo Hóa. Chúng con thích Chúa đứng chung một vòng tròn với tất cả loài người chúng con, nắm lấy tay chúng con và đưa chúng con lên cao. Ước gì việc Chúa giang tay trên Thập giá, giúp chúng con biết cầm lấy tay nhau và nhận nhau là anh em.
Lạy Chúa Từ Nhân! Xin Cho Con Biết Mến Yêu và Phụng Sự Chúa Trong Mọi Người. Hoan hô Vua Giêsu chiến thắng bây giờ và mãi mãi. Amen!
(Trích trong ‘Mở ra những kho tàng’ – Charles E. Miller.)
Vào năm 1925 Đức Giáo Hoàng Piô XI thiết lập lễ tôn kính Đức Kitô Vua, lễ này được đặt vào ngày chúa nhật cuối tháng 10. Giáo Hội qua nhiều thế kỷ đã tôn kính Đức Kitô như là Vua trong cuộc rước vào ngày Lễ Lá nhưng Đức Giáo Hoàng thấy có nhu cầu thiết lập một lễ đặc biệt, để chống lại chủ nghĩa thế tục và chủ nghĩa vật chất của kỷ nguyên này. Trong xứ sở Hoa Kỳ, kỷ nguyên được gọi là tiếng gầm thứ hai mươi.
Đức Giáo Hoàng Piô XI đã đặt lễ vào Chúa nhật cuối tháng 10 và tiếp đó là lễ Các Thánh. Sự nhận biết của phụng vụ mừng các môn đệ đã bước vào trong vương quốc trên trời. Công đồng Vatican II đã đổi mới và chuyển lễ Kitô Vua vào chúa nhật cuối năm phụng vụ như đặt một biểu hiệu của vương quốc, mặc dầu đang hiện diện giữa chúng ta và vẫn còn đang đến: “Chúng ta chờ đợi trong niềm hy vọng vui mừng ngày Chúa Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng ta sẽ đến”. Đấng sẽ mang lại vương quốc của Ngài tới sự hoàn hảo khi Ngài trở lại trong vinh quang cho ngày Phục Sinh chung.
Theo sắc lệnh của Đức Giáo Hoàng Piô XI vào năm 1925 liên quan đến Đức Kitô Vua, Ngài muốn làm cho cả thế giới chú ý tới nhu cầu thiết lập những giá trị tinh thần như là những hướng dẫn cho đời sống. Những lời của Đức Giáo Hoàng hầu như không được mấy ai chú ý đến. Nước Mỹ đặc biệt vẫn tiếp tục tinh thần tham lam, nhấn mạnh là mọi người đều có thể trở nên giàu có, có thể có tài sản mà không cần làm việc. Người ta có nhiều cấp độ kinh tế khác nhau, “ngay cả những chàng trai đánh giày” cũng như một sử gia đã nói “cũng lao vào chợ hàng hóa”. Cuộc khủng hoảng vào năm 1929 đã đổ vỡ là một điều không thể tránh được.
Thất là đau buồn khi nhận biết rằng sắc lệnh đã được viết bởi Đức Giáo Hoàng vào năm 1925, có thể là bản chúc thư mà ngài đã sáng tác vào những tuần cuối đời Giáo Hoàng của ngài. Chủ nghĩa thế tục và chủ nghĩa vật chất đi đến sự thất bài trong cuộc khủng hoảng tài chính vào năm 1929, dẫn đến trong thời đại của chúng ta một hậu quả khôn lường, đó là khủng hoảng về tiết kiệm và những món nợ chồng chất trong những năm gần đây. Việc cử hành phụng vụ của chúng ta về Đức Kitô là Vua, thách đố chúng ta bất chấp những thất bại trong lãnh vực tài chính hoặc trong thái độ thiêng liêng của chúng ta, điều quan trọng nhất không phải sự tham lam đã dẫn tới sự sụp đổ tài chính nhưng chính việc loại bỏ những giáo huấn và gương mẫu của Đức Kitô Vua.
Chủ nghĩa thế tục nhấn mạnh rằng, đất nước giàu có thì ở trên mặt đất này. Nó loại bỏ mọi hình thức của đức tin tôn giáo và thờ phượng. Chủ nghĩa vật chất rao giảng giáo lý tìm sự an ủi, vui thú và giàu có như là những mục đích cao nhất của đời sống. Chúa của chủ nghĩa thế tục và chủ nghĩa vật chất thì không đụng móng chân đến thánh giá hy sinh nhưng là chìm vào trong ăn uống xa hoa và những ăn chơi dâm dật.
Trái lại, làm nhân chứng cho sự khôn ngoan của Phúc Âm Kitô giáo; họ là những công dân của Nước Trời. Họ trình bày cho chúng ta về tính vô vị lợi, là con đường hạnh phúc còn con đường tham lam là không, những thực tại thiêng liêng là thật sự và những tạm bợ của những chủ nghĩa thế tục là không, và tôn giáo là phần thưởng tuyệt đối còn chủ nghĩa vật chất là không.
Kinh Tiền Tụng ngày chúa nhật hôm nay tuyên bố rằng Đức Kitô Vua cai trị một vương quốc đời đời, một vương quốc của sự thật và sự sống, một vương quốc của sự thánh thiện và ân sủng, một vương quốc của sự công chính tình yêu và bình an. Đó là vương quốc ngự trị mãi mãi.
Một lời nài xin cho được trung thành với Đức Kitô Vua.
Ngày chúa nhật hôm nay là thời gian thích hợp để nài xin trung thành với Đức Kitô Vua. Theo hình thức đề nghị được rút ra từ kinh Tiền Tụng, kinh nguyện Thánh Thể trong lễ trọng này có thể dùng tại Thánh Lễ hoặc mọi người có thể lập lại những lời nài xin theo sau vị linh mục chủ tế của họ.
Chúng con nài xin sự trung thành với Đức Kitô Vua. Chúng con trân trọng vương quốc đời đời và phổ quát của Người. Chúng con nhận biết vương quốc của Ngài là vương quốc của chân lý và sự sống. Của sự thánh thiện và ân sủng. Chúng con ước mong làm những gì chúng con có thể làm trong cầu nguyện và hành động. Để mang lại cho thế giới này vương quốc của Người. Một vương quốc của sự công chính và tình yêu bình an.
(Suy niệm của Achille Degeest)
DUNG MẠO CỦA VƯƠNG QUYỀN ĐỨC KITÔ.
Đoạn Phúc Âm hôm nay cho chúng ta dự khán một hồi trong cuộc thương khó, Chúa sắp bị Philatô lên án tử hình. Để hiểu rõ bản văn, cần nhớ rằng Chúa và Philatô ở hai mức độ khác biệt. Khi Philatô nói lên tiếng ‘vua’, ông nghĩ đến một vương quyền chính trị. Khi Chúa tự nhận là Vua, Người nói đến vương quyền Cứu Thế của Người. Chúng ta diễn giải rõ hơn. Chúa xưng mình là Vua Cứu Thế với một ý nghĩ vô cùng rộng lớn so với quan niệm của cấp lãnh đạo Do Thái, Chúa đặt câu hỏi: Tự mình ông, ông nói thế, hay có ai khác đã nói với ông về tôi? Để cho Philatô biết rằng Người là Vua, nhưng không theo quan niệm của ông, cũng không theo dự tính của người Do Thái. Vì thế, sau câu đáp của Philatô, Chúa nói: Nước tôi không thuộc về thế gian này. Thật là một xử án lạ đời. Người Do Thái muốn cho Chúa bị kết án vì Người tự nhận từ 1 thế giới khác mà đến, tức là được Thiên Chúa sai đến. Đối với Philatô, đó không phải là cớ để buộc tội Chúa. Vì vậy người Do Thái đưa ra một cớ khác, mà trớ trêu thay, cớ này lại chính là điều Chúa không muốn chút nào, là làm một ông vua đối lập với hoàng đế La mã. Chúa bị kết án theo hai thẩm quyền xét xử. Thẩm quyền pháp lý La-mã dựa theo một đế quyền thế gian, tuy nhiên Philatô nhận thấy Chúa bác khước quyền đó. Thẩm quyền pháp lý Do Thái buộc tội Chúa vì lẽ Người tự nhận là từ Thiên Chúa mà đến, mà chính vấn đề pháp lý này lại chẳng liên quan gì đến Philatô. Minh định xong điểm rắc rối đó, chúng ta tự hỏi: Khi mừng lễ Chúa Kitô Vua, chúng ta tôn vinh điều gì?
1) Vương quyền của Chúa làm chứng về sự thật.
Chúa không phải là Vua của thế gian. Nhưng là vua trong thế gian và trong thế gian Người làm chứng cho một thực tại thần linh. Thật vậy, cần hiểu rõ nghĩa ‘sự thật’ ở đây. Trong Phúc Âm theo thánh Gio-an, sự thật không chỉ là sự hiểu biết của trí tuệ phù hợp với điều có thật. Sự thật là thực tại của Thiên Chúa đến trong con người. Con người do đó được thấm nhuần tất cả bản thể và tất cả đời mình. Tuy nhiên muốn được như vậy, phải nghênh đón thực tại của Thiên Chúa. Nghênh đón không chỉ bằng trí tuệ mà cả bằng tấm lòng, bằng ý chí, bằng tất cả bản thể mình. Chúa làm chứng cho sự thật, bởi vì trong tư thế một con người được thấm nhuần và biến hóa nhờ một cuộc thực nghiệm thần linh, Chúa đề nghị với tất cả mọi người hãy tiến tới một sự hiệp thông có hiệu năng thần hóa, đó là sự hiệp thông với Chúa, vì lẽ Người đích thật là Con Thiên Chúa. Chúa là Vua khi mà trong nhân loại, quá nhiều phen làm phản chống lại Thiên Chúa, cũng vẫn còn những kẻ nghênh đón ‘lời chứng’, nghĩa là dâng hiến Chúa niềm tin và tư hiến mình để được Chúa thần hóa.
2) Phàm ai thuộc về sự thật thì nghe tiếng Tôi
Vậy ‘thuộc về sự thật’ là gì? Là có tâm hồn sẵn sàng đón nhận thực tại thần linh do Chúa đem đến cho loài ngừoi. Về thực tế, đối với chúng ta ngày nay, điều đó là sự ăn ở ngay thẳng đối với Lời Thiên Chúa, là theo chân Chúa Giêsu mà ta gặp trong Phúc Âm, trong Giáo Hội, trong các bí tích, trong anh em đồng loại. Vương quyền Chúa chẳng giống chút nào một sự thống trị của loài người, tuy nhiên Vương quyền đó trở nên hữu hiệu khi nào con người, về mặt bản thân và về mặt xã hội, trong đời sống thật sự, đạt tới chỗ hiểu biết rằng mình từ Thiên Chúa mà đến và về với Thiên Chúa, để rồi trong hướng nghĩ đó biết cư xử và hành động làm cho nhân loại nhận biết sự thật với những nét đẹp nhất, đó là dung mạo tuyệt vời của Tình yêu.
(Suy niệm của PM. Cao Huy Hoàng)
VỊ VUA CHẤP NHẬN CHẾT, ĐỂ CON DÂN ĐƯỢC SỐNG
Nói đến Vua, người ta nghĩ ngay đến quyền lực, đến sự thống trị. Có những người được tôn lên làm vua theo kiểu cha truyền con nối “Con vua lại được làm vua”. Cũng có người do công trạng, được dân tín nhiệm. Lại cũng có người tự xưng mình là vua. Nhưng trong lịch sử, cũng không thiếu những kẻ cướp ngôi vua dành quyền cai trị đất nước bằng cách bất chính hoặc bằng muôn hình vạn trạng quỷ kế trên trường chính trị. Có thể có những điểm khác biệt về cách làm vua, cách cai trị dân nước… nhưng có một điểm chung là không có triều đại nào, chế độ nào “muôn năm” cả.
Thử nhìn lại lịch sử thế giới, có thể thấy, ở nước nào cũng thế, hết triều đại này đến triều đại khác, hết chế độ nầy, đến chế độ khác, không có triều đại nào, không có chế độ nào bền vững- vì triều đại nào, chế độ nào, cũng đầy dẫy những bất toàn ngay ở giai đoạn đầu và có khi thối nát ở giai đoạn cuối. Ai cũng muốn cho triều đại, cho chế độ của mình “muôn năm”, nhưng đó chỉ là một ảo vọng! Hai từ muôn năm bỗng đồng nghĩa với vài chục năm trong khi cơn khát khao, nỗi thèm thuồng quyền lực vẫn còn cháy rực trong lòng. Vì thế, triều đại nào, chế độ nào cũng muốn củng cố quyền lực của mình bằng đủ mọi cách có thể, kể cả những cách vô luân thường, vô đạo lý, vô kỷ luật… không sợ mất lòng dân, chỉ sợ mất quyền cai trị, không sợ dân chết, chỉ sợ mình chết. Và khi đã đến lúc ngọn đèn sắp tắt, thì không ngại gì mà nó không phực lên để chứng tỏ cái sinh khí cuối cùng trong thân thể rệu rã của nó.
Khác với những vị vua ở trần thế, hôm nay, chúng ta Suy Tôn Chúa Giêsu Kitô Vua Vũ Trụ, “Người là vua trên hết các Vua, Người là Chúa trên hết các Chúa”, vì người thống trị cả vũ hoàn không phải chỉ dựa vào quyền lực toàn năng của Thiên Chúa Tạo Thành, nhưng còn nhờ Lòng Thương Xót vô cùng của Thiên Chúa Cứu Chuộc.
Ngài vâng lời Thiên Chúa Cha để đến trần gian cho trần gian được yêu thương, được cứu rỗi, được giải thoát khỏi sự chết muôn đời, được đoàn tụ trong vương quốc của Ngài đến muôn đời. Ngài được suy tôn là Vua, Ngài làm Vua, không giống cách làm vua của những vua chúa, hay những nhà cầm quyền thế gian, nhưng cách làm Vua của Ngài là “vâng lời cho đến chết” như Thánh Phaolô xác quyết: “Chúa Kitô vì chúng ta đã vâng lời cho đến chết, và chết trên Thập Giá. Vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn người, và ban cho Người một danh hiệu vượt trên muôn danh hiệu” (Phil 2, 8-9).
Câu chuyện Tin Mừng thánh Gioan hôm nay kể việc Chúa Giêsu có trát của Philato đòi. Chắc chắn có quân lính áp giải, có dùi cui, có súng ống gậy gộc, nhưng không thấy thánh Gioan nói đến việc Chúa Giêsu bị bịt miệng, nên Ngài đã đứng trước vành móng ngựa và khẳng khái xác nhận: “Vâng, quan nói đúng, Tôi là Vua. Tôi sinh ra và đến trong thế gian nầy là để làm chứng cho sự thật. Ai yêu chuộng sự thật thì nghe Tôi.” (Ga 18,37)
Vâng, đó là thân phận và trách nhiệm của Con Một Thiên Chúa đầy quyền năng và đầy lòng thương xót đến để khởi đầu một Triều Đại của Thiên Chúa giữa dân Ngài, triều đại của Chân Lý: Có Thiên Chúa uy quyền và đầy lòng xót thương. Con Thiên Chúa không đàn áp, bóc lộc dân Ngài, nhưng Ngài để dân đàn áp bóc lộc Ngài như cối chày giã nát những hạt thóc, rồi xay nghiền hạt gạo thành bột thành bánh thơm ngon. Ngài cũng không lừa đảo, cũng không quy hoạch chiếm đoạt đất đai tài sản, nhưng Ngài để dân Ngài chiếm đoạt Ngài làm gia sản muôn đời. Ngài nhường lầu vàng gác tía, biệt thự nguy nga có then cài cổng khóa cho dân Ngài, còn Ngài “không có nơi gối đầu qua đêm” (Lc 9,58). Ngài không bắt bớ bỏ tù dân Ngài, nhưng ngài chịu bắt bớ, chịu bỏ tù cho dân Ngài được tự do! Và cuối cùng, Ngài không muốn cho dân Ngài phải chết để Ngài được sống, nhưng Ngài đã chết cho dân Ngài được sống, và sống muôn đời. Ngài là vị vua yêu thương và phục vụ dân đến cùng. Ngài chết cho con dân của Ngài được sống.
Đã có biết bao thể chế cũng biết tận dụng đường lối yêu thương và phục vụ “chết cho dân được sống” của Chúa Giêsu vào đường lối cai trị của mình, bằng khẩu hiệu “đầy tớ của nhân dân”, nhưng đó là khẩu hiệu mỵ dân, vì họ nói mà không làm. Họ không sống trong tinh thần sự thật. Họ còn giả vờ không biết sự thật, vì sự thật không đem lại lợi ích phàm tục nào cho họ. Câu hỏi “sự thật là chi?” (Ga 18,38) , chẳng khác nghĩa với câu “sự thật có ích gì?”, “Thiên Chúa có ích gì?”.
Thiết tưởng, các Kitô Hữu Công Giáo Việt Nam, đặc biệt là những người đang sống trong GH tại địa phương, họ là những người được Thiên Chúa yêu thương cách riêng, như dân riêng của Chúa giữa lòng Châu Á, được sống trong một đất nước gần như là luôn luôn phải tử đạo, từ khi hạt giống đức tin được gieo trồng cho đến nay. Họ đã đọc những trang sử oai hùng của Giáo Hội thời các vua chúa quan quyền bức bách đạo, và họ cũng đang nghe tận tai những khẩu hiệu gian dối, phĩnh lừa, họ chứng kiến tận mắt thời đại của những người vô thần cai trị đất nước. Họ có đủ chứng từ đối chiếu cách làm vua và cách cai trị của Vua thế gian và Vua Giêsu Kitô để xác nhận được Vua nào là Vua Muôn Đời, chế độ nào là muôn năm. Vì thế, không có một thế lực nào có thể lay chuyển niềm tin của họ, nếu không phải là một thế lực “sống, học tập và làm việc theo gương Đức Giêsu Kitô, Vua vĩ đại”.
“Vâng, quan nói đúng, Tôi là Vua. Tôi sinh ra và đến trong thế gian nầy là để làm chứng cho sự thật. Ai yêu chuộng sự thật thì nghe Tôi.” (Ga 18,37)
Năm Đức Tin sẽ là một cơ hội ngàn vàng để Dân Chúa, một lần nữa, sẽ khẳng định Vua Đích Thực, Vua Muôn Đời của chúng ta là ai. Chắc chắn và mãi mãi là Vua Giêsu Kitô, Người đã đến “là để làm chứng cho sự thật”. “Sự Thật” vô cùng cao quí ấy là sự thật “có Thiên Chúa”.
Các Thánh Tử Đạo Việt Nam là tấm gương anh dũng soi chiếu cho dân Chúa tại Việt Nam về việc làm chứng cho sự thật. Vì nếu không tin nhận Thiên Chúa, không tin nhận Đức Giêsu là Vua Muôn Đời trong Nước Vinh Quang muôn đời của Ngài, thì đã chẳng có ai dám liều mình hy sinh mạng sống cách oan uổng. Hơn nữa, tình yêu Chúa Kitô thúc bách các Ngài cùng Chúa Kitô nói với những người không tin Thiên Chúa rằng “nước tôi không thuộc về thế gian này”.
Mừng lễ Chúa Kitô Vua, noi gương các Thánh Tử Đạo Việt Nam Tôn Vinh Chúa Giêsu là Vua, mọi thành phần trong giáo hội sẽ làm chứng cho sự thật:
- Dứt khoát nói không với cơn cám dỗ đàn áp bóc lộc lẫn nhau, nhưng bảo bọc che chở cho nhau trong tình huynh đệ, trong chân lý;
- Dứt khoát nói không với chia rẽ, tỵ hiềm, bôi nhọ để yêu thương, chân thành, hiệp nhất;
- Dứt khoát nói nói không với đồng lõa, nói không với thỏa hiệp cùng gian tà để quyết tâm sống ngay chính theo đường sự thật của Chúa Giêsu;
- Dứt khoát nói không với tất cả những gì chống lại Thiên Chúa, chống lại công lý, sự thật, để quyết tâm sống đời sống của Thiên Chúa giữa một xã hội “không tin có Thiên Chúa” hay là chưa muốn tin một Đấng Thiêng Liêng hằng có đời đời.
Một vài nơi vẫn có lệ mời các cấp chính quyền tham dự lễ Đặt Viên Đá, lễ Giáng Sinh, lễ mở tay…. Ước gì họ được mời tham dự một thánh lễ Mừng Trọng Thể Chúa Kitô Vua Vũ Trụ, để họ được biết cách làm vua, cách cai trị của một Vị Vua trên hết các Vua, một vị Vua Muôn Đời: “Vị vua chấp nhận chết để con dân được sống”.
Lạy Chúa Giêsu Kitô, Vua Vũ Trụ, Vua của lòng con, Chúa đã chấp nhận cái chết để con dân được sống. Chúng con suy tôn Chúa là Vua Muôn đời. Xin cho chúng con cũng biết chấp nhận hy sinh mỗi ngày để làm chứng cho Nước Thiên Chúa giữa trần gian, và nhất là trên quê hương thân yêu của chúng con. Amen.
(Suy niệm của PM. Cao Huy Hoàng)
Hình như đang có báo động đỏ về một trần gian đang suy thoái vì sự giả trá lan tràn. Sự giả trá từ trong tâm hồn mỗi người, trong gia đình, rồi lan ra đến cộng đồng, kể cả cộng đoàn Công Giáo.
Ảnh hưởng của tội nguyên tổ sao mà dai dẳng thế?!? Có phải vì con người đầu tiên đã chui vào bụi rậm trốn ánh nhìn của Thiên Chúa mà bây giờ tâm hồn con cháu loài người vẫn cứ thích hướng lòng về những ém nhẹm, những giấu kín, những che đậy, ẩn nấp đâu đó từ tư tưởng đến hành động. Cả tôi, cả bạn, nếu lắng lòng sâu thẳm và thành tâm xét mình, có lẽ một ngày đời của chúng mình không biết bao nhiêu lần gian dối, bao nhiêu ý định không ngay thẳng, bao nhiêu lời nói việc làm gian tà… Cứ tưởng như là không ai có thể biết được điều ta đã giấu kín.
Biết đâu là chân lý? Con cái đã không nhìn thấy cách sống chân thành nơi cha mẹ của chúng, lại còn chứng kiến hằng ngày những gian dối trong nhà. Ánh mắt nhìn của cha chưa hẳn là ánh mắt của thủy chung, bao dung, quảng đại. Nụ cười dịu dàng của mẹ ngày nay chưa hẳn là nụ cười của tình yêu trung tín, của hiến dâng trọn vẹn, của hy sinh ví tựa biển thái bình.
Biết đâu là chân lý? Con dân trong một đất nước cũng chẳng biết đâu là chân lý khi cả một khối lãnh đạo đất nước nói một đường làm một nẻo, hoặc mỗi ngày lại có thêm một bại lộ về những gian tà tham nhũng, phanh phui dần những trò nham hiểm thanh trừng lẫn nhau trên sân khấu chính trị…
Biết đâu là chân lý? Ở đâu cũng thấy bóng dáng của sự gian dối. Ở đâu người ta cũng không sống chân thành với nhau. Và khi không sống chân thành với nhau bằng tình thương của con người, thì ở đó, không có bóng dáng của Thiên Chúa. Hay nói cách khác, chính khi sống gian tà là lúc chúng ta loại trừ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống.
Với các Kitô hữu cũng vậy, tuyên xưng “Tôi tin vào Thiên Chúa” mà vẫn cứ ẩn mình trong sự gian dối, thì lời tuyên xưng kia lại chính là sự nói dối lộ liễu của một con người quá thấp hèn trước Thiên Chúa uy quyền, cao cả, mà không hề sợ hãi phép công thẳng của Ngài.
Đức Giêsu Kitô đã đến và mạc khải cho trần gian biết những sự thật quan trọng: Có Thiên Chúa là Cha toàn năng, Thiên Chúa yêu thương con người, Thiên Chúa ban Sự Sống vĩnh cửu cho con người.
Đức Giêsu Kitô đã làm chứng về những điều đã mạc khải bằng chính cuộc sống của Ngài: rao giảng Nước Thiên Chúa, loan truyền sứ điệp tình yêu của Thiên Chúa dành cho nhân loại, và mời gọi mọi người biết yêu nhau như Thiên Chúa đã yêu, như Con Thiên Chúa đã yêu: hiến mạng sống mình vì người mình yêu, để người mình yêu được sống và sống dồi dào ở đời này, phục sinh ở đời sau.
Trong khi nhân loại cứ vật vờ trong cách sống gian dối mà Satan dạy dỗ, hướng dẫn cho cách lẩn tránh Thiên Chúa, thì chính Đức Giêsu Kitô đã khai mở một con đường mới cho nhân loại: sống công chính trước mặt Thiên Chúa. Sự công chính ấy bắt nguồn từ việc: Tin vào Đức Giêsu Kitô và sống theo Lời Ngài. Câu hỏi “Biết đâu là chân lý?” đã được giải đáp thỏa đáng ngay tại tòa tổng trấn Philatô: “Ai thuộc về Chân Lý thì nghe tiếng Tôi”.
“Ai thuộc về Chân lý thì nghe tiếng Tôi” hay nói cách khác, những người chọn Chúa Kitô làm thần tượng cho mình, chọn Lời Chúa Kitô làm kim chỉ nam cho đời mình, những người chấp nhận thuộc về Chúa Kitô, là những người đã biết được đâu là chân lý, sống trong chân lý, và làm chứng cho chân lý.
Trong cùng một Đức Giêsu Kitô, họ trở nên con dân trong Nước Thiên Chúa mà chính Người làm Vua của họ. Một đất nước của Chân Lý, quyền bính là Tình Thương, không thuộc về thế gian này:
“Quan nói đúng. Tôi là Vua!”
“Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thì những người của tôi đã chiến đấu để tôi không bị nộp cho người Do Thái, nhưng mà Nước tôi không thuộc chốn này”.
Sống trong Sự Thật là sống Niềm Tin có Thiên Chúa, và sống chân thành yêu thương trước mặt Thiên Chúa. Chắc chắn chúng ta được “Chúa Giêsu Kitô, là chứng tá trung thành, là trưởng tử kẻ chết, là thủ lãnh các vua trần thế, là Đấng đã yêu thương ban ơn bình an và ân sủng” khi Người đã dùng máu Người mà rửa chúng ta sạch mọi tội lỗi, và đã làm cho chúng ta trở nên vương quốc và tư tế của Thiên Chúa, Cha của Người”.
Giáo Hội kết thúc Năm Phụng Vụ với Lễ suy tôn Chúa Giêsu Kitô là Vua, Vua vũ trụ, Vua muôn loài, và là Vua của những kẻ đã Tin vào Ngài và sống theo Lời Ngài dạy. Giáo Hội cũng muốn nhắc nhở mỗi chúng ta về việc mỗi tín hữu phải kết thúc hành trình đời người và hành trình Đức Tin trong Chúa Giêsu Kitô để xứng đáng hưởng phần gia nghiệp muôn đời mà Thiên Chúa đã sắm sẵn nhờ máu cứu độ của Con Ngài: Nước Thiên Chúa.
Khi kết thúc hành trình đời người, dẫu chỉ còn hai nắm tay không trước mặt Thiên Chúa, con người vẫn là một thụ tạo xinh đẹp, nếu thụ tạo ấy sống và làm chứng cho sự thật là Thiên Chúa và Tình Yêu. Và ngược lại, con người có xiêm y lụa là xinh đẹp trước mặt trần gian mà sống trong sự gian dối, bất tín thì đáng tiếc thay, họ không được niềm vui vĩnh cửu trong Nước Thiên Chúa, trong Chúa Giêsu Kitô Vua.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết nghe lời Chúa Giêsu, biết sống tin yêu chân thành như Chúa Giêsu, để chúng con xứng đáng được kết thúc hành trình đời người trong Nước Thiên Chúa, dưới vương quyền Vua Giêsu Kitô mà suốt đời con đã kính tin, tôn thờ, yêu mến.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
ĐỨC GIÊSU KITÔ VUA: PHỤC VỤ LÀ CAI TRỊ.
Truyện cổ Nga thuật lại rằng: Vào thời Trung cổ, Hoàng tử Alexis cũng như bao vua chúa khác sống trong cung điện nguy nga tráng lệ, trong khi dân chúng chung quanh phải sống trong những khu xóm nghèo nàn tồi tệ. Thế nhưng Alexis rất hiểu nổi cơ cực của thần dân và cảm thương họ. Ông bỏ ra mỗi ngày một tí thời giờ để thăm họ. Nhưng dù cố gắng đến đâu, Alexis vẫn không thu phục được lòng yêu mến của thần dân. Vì thế, sau mỗi lần thăm họ trở về, ông thấy lòng mình buồn rười rượi.
Ngày kia, có một người lạ mặt đi vào khu xóm, ăn mặc đơn sơ, anh tự xưng là bác sĩ, anh săn sóc những người già cả, bệnh tật. Đặc biệt, bác sĩ không lấy tiền thù lao, và còn phát thuốc miễn phí cho bệnh nhân.
Bác sĩ ấy trở thành người của xóm nghèo, được mọi người yêu mến kính phục. Ngày ngày, anh dàn xếp những cuộc cãi vã, tranh giành, hòa giải những thù oán, và giúp đỡ họ sống đúng với phẩm giá con người.
Bác sĩ trẻ ấy chính là Hoàng tử Alexis, người đã bỏ cung điện giàu sang đến sống với thần dân nghèo khổ và trở nên bạn bè của họ, để yêu thương săn sóc và phục vụ họ.
Anh chị em thân mến, Đức Kitô thực sự là một vị Vua đầy uy quyền. Nhưng Ngài đã trở nên giống như chúng ta, để có thể yêu thương và phục vụ chúng ta. Ngài đã tuyên bố: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20,28). Trong Tin Mừng hôm nay, khi bị Philatô tra hỏi: “Ông là Vua ư?” Chúa Giêsu không phủ nhận, Ngài chỉ nói: “Chính quan nói rằng tôi là vua”. Vua vẫn chỉ là một từ ngữ gây hiểu lầm mà Đức Giêsu muốn tránh. Mặc dù nhiều lần Chúa Giêsu đã nói đến Nước của Ngài. Ngài “sẽ đến trong vinh quang của Cha Ngài… trong Nước của Ngài” (Mt 16,27-28). Ngài đã khẳng định trước mặt Philatô: “Nước tôi không thuộc về thế gian này” (Ga 18,36). Khi người trộm lành xin Ngài nhớ đến anh “khi Ngài đến trong Nước của Ngài”, Chúa Giêsu đã không từ chối: “Hôm nay anh sẽ ở trêm Thiên Đàng với tôi” (Lc 23,41-43). Vào ngày tận thế, Ngài sẽ đến phân xử người lành kẻ dữ trong tư cách một vị Vua (Mt 25,34-40).
Chúa Giêsu là Vua vũ trụ. Ngài đã được Chúa Cha ban cho mọi quyền năng trên trời dưới đất (Mt 28,18). Nhưng Ngài đã sống như một người tôi tớ phục vụ. Trong cuộc sống trần thế, Ngài vẫn luôn ý thức về vai trò quan trọng của mình trong việc cứu độ nhân loại. Ngài biết mình là Con Thiên Chúa. Thế nhưng cả cuộc đời Ngài là một sự phục vụ không ngừng. “Vua của các dân thì lấy quyền mà thống trị họ, và những ai cầm quyền thì tự xưng là ân nhân… Bởi lẽ, giữa người ngồi ăn với kẻ hầu bàn, ai lớn hơn ai? Hẳn là người ngồi ăn chứ gì? Thế mà Thầy đây, Thầy sống giữa anh em như một người hầu bàn” (Lc 22,25-27). Chúa Giêsu tự nhận mình là người phục vụ như một kẻ hầu bàn, chỉ mong cho thực khách được ngon miệng. Kiểu làm vua của Chúa Giêsu là phục vụ, chứ không phải là được người ta phục vụ. Ngài làm vua bằng cách cúi xuống để làm cử chỉ hầu hạ của người nô lệ: “Nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau” (Ga 13,14). Với Chúa Giêsu, cử chỉ đó là một việc làm bình thường gắn liền với quyền bính đích thực. Qua cung cách của Ngài, Chúa Giêsu đưa ra định nghĩa đúng đắn về quyền bính. Quyền bính đích thực đồng nghĩa với phục vụ và phục vụ cho đến hy sinh mạng sống.
Cử chỉ phục vụ cao cả nhất và khiêm hạ nhất của Chúa Giêsu là cái chết của Ngài trên thập giá. Cần chiêm ngưỡng vị vua bị đóng đinh thật lâu để hiểu được cách làm vua của Ngài. Trên đầu Ngài có gắn tấm bảng ghi dòng chữ: “Giêsu Nagiaret Vua dân Do Thái”, được viết bằng ba thứ tiếng: Do Thái, La Tinh, Hy Lạp, để ai cũng đọc được. Một vị vua lạ lùng! Không ngai vàng, chỉ có thập giá. Không vương miện, chỉ có vòng gai. Không cẩm bào, chỉ có trần trụi nhơ nhuốc. Không quan quân đứng hầu, chỉ có người qua kẻ lại nhiếc móc, chế nhiễu, lăng mạ. Một vị vua không có chút quyền lực, cũng chẳng áp bức ai. Một vị vua của vâng phục và yêu thương tha thứ tất cả. Thập Giá vừa đưa Chúa Giêsu xuống vực thẳm, vừa nâng Người lên cao. Chúa Giêsu trở thành vua vũ trụ nhờ đi vào con đường thập giá, con đường tử bỏ mình để khiêm tốn phục vụ, con đường hẹp nhưng không phải là con đường cùng, mà là con đường dẫn đến vinh quang. “Khi nào Ta được đưa lên cao khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên với Ta” (Ga 12,3). Vua Giêsu hôm nay vẫn tiếp tục thu hút cả vũ trụ nhân loại với Ngài. Nước của Ngài đã được khai mạc và nước ấy vẫn lan rộng không ngừng nhờ có những người dám “đứng về phía sự thật” và “nghe được tiếng Ngài mời gọi” (Ga 18,37).
Nước của Vua Giêsu không có trên bản đồ, bởi lẽ Nước ấy “ở trong thế gian này” nhưng “không thuộc về thế gian này”. “Ở trong thế gian”, nghĩa là không xa cách, nhưng hòa quyện với thế gian như men trong bột, như muối ướp thức ăn. Nhưng “không thuộc về thế gian này”, nghĩa là không chạy theo những thần tượng của thế gian: quyền lực, tiền của, khoái lạc… Thế gian sa đọa là thế gian chống lại Nước Chúa và cũng chống lại quyền lực của con người. Thế nên, xây dựng Nước Chúa cũng là xây dựng một xã hội công bằng, bác ái, tôn trọng con người. Chúng ta cầu nguyện: “Xin cho Nước Cha trị đến”, được mọi người nhận biết. Nhưng Nước Cha chỉ thành tựu khi Chúa Giêsu Kitô được mọi người tuyên xưng là Chúa, là Đấng Cứu Độ là Vua cả hoàn vũ. Nước Cha và Nước Chúa Kitô là một. “Vào lúc tận thế, Chúa Kitô sẽ trao lại Nước cho Chúa Cha, sau khi Ngài đã hủy diệt và khuất phục quyền lực sự dữ, để cuối cùng, Thiên Chúa làm mọi sự cho mọi người” (x.1Cr 15,24-28).
Anh chị em thân mến,
Chúa Kitô, một vị vua dùng thập giá ngai vàng, mão gai làm triều thiên và muôn thuở cạnh sườn của Ngài bị đâm thủng, để nguồn suối tình yêu luôn tuôn tràn cho nhân loại đang khao khát tình yêu. Yêu là trao ban và trao ban đến cùng. Tình yêu, đó là món quà quí nhất của Thiên Chúa đã trao tặng con người. Từ nay, để sống đích thực là người, con người cần phải dốc cạn con tim mình để yêu thương và trao ban cho đồng loại. Chúa Giêsu đã lấy tình yêu thương và phục vụ làm quyền bính cai trị. Ngài đã trở nên gương mẫu đích thực cho các nhà lãnh đạo, cho các người cầm quyền. Ai biết yêu thương và phục vụ như Ngài thì mới được tham dự vào vương quyền của Ngài trong Nước của Ngài, vì “Phục vụ là cai trị” vậy.
Tôi còn nhớ rất rõ, khi còn bé, cừ đến ngày 13.10 hàng năm tôi lại được mẹ tôi dắt đi hành hương Fatima Đức Mẹ ở Vĩnh Long. Lần nào đi tôi cũng qua khu nhà của cá thầy dòng Kitô Vua cạnh đó để chiêm ngắm Đức Kitô đội mũ triều thiên đứng uy nghi trên đỉnh nhà. Lúc đó tôi vô cùng hãnh diện vì Chúa tôi là Vua. Nhưng tôi cũng lấy làm thắc mắc mọi vua khác tôi đọc trong truyện, có quân lính, có vệ sĩ bảo vệ, sao Vua Kitô lại không thấy. Rồi những hình tượng đó ngày một qua đi, đến hôm nay khi học biết về Kinh Thánh lại làm cho tôi càng vui mừng hơn gấp bội. Vì Chúa của tôi là Vua trên các vua chứ không phải ông vua trần gian với binh quyền thế mạnh, chỉ uy hiếp được người đời, rồi cuối cùng cũng sẽ đi vào diệt vong. Còn Vua Kitô đã xây dựng đất nước trong chân lý và tình yêu, nên đất nước vẫn tồn tại và phát triển. Hơn nữa, trong Bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã tự xưng mình là Vua trước Philatô khiến nhiều người trong chúng ta phải thay đổi hết mọi quan niệm thông thường khi nghĩ đến tước hiệu làm vua của Chúa Giêsu Kitô:
- Vua tình yêu
Đức Giêsu đã trả lời Philatô “Nước Tôi không thuộc thế gian này”. Trong hoàn cảnh như thế nếu xét theo khía cạnh ngoại giao, thì đây là một câu trả lời vụng về thiếu khôn khéo. Nhưng vì Ngài là Vua của chân lý, của sự thật. Ngài phải nói lên sự thật, nhưng có nhiều người không hiểu vì họ bị mê muôi bởi vinh quang trần thế. Công việc của Ngài đến là để làm chứng cho chân lý. Ngài đến để chiến thắng tội lỗi, và Nước Ngài không phải ở trần gian, nếu Ngài muốn dấy loạn dựng cờ khởi nghĩa, kêu gọi người ta đứng lên chiến đấu thì chuyện không có gì là khó. Nhưng nếu vậy thì không phải là Vua của tình yêu nữa mà là một ông vua bạo lực của trần gian. Từ ban đầu, Ngài đã khẳng định mình là Vua, nhưng Nước Ngài không căn cứ trên bạo lực và vũ khí, mà là một vương quốc trong lòng người. Mục tiêu là chinh phục thế gian, nhưng là cuộc chinh phục bằng tình yêu và lòng bao dung.
- Vua của đất nước không biên giới.
Nước của Vua Kitô Giêsu hoàn toàn khác với nước mà người Do Thái trông đợi. Họ chờ một Đức Kitô làm vua thật sự, nâng đỡ dân tộc rồi giải thoát họ khỏi ách thống trị của Rôma. Điều họ trách cứ Đức Kitô ở đây chẳng qua biểu lộ một niềm hy vọng sâu xa, đó là mơ ước sau bao bao năm bị đô hộ. Và khi thấy Đức Giêsu không hành động theo ý muốn, họ thất vọng, lên án tố cáo Ngài. Vì thế, Ngài biết rõ vị thế làm Vua của mình, biết rõ người Do Thái đang nuôi hy vọng hão huyền với những quan niệm lệch lạc. Vương quyền Ngài thật kỳ lạ không giống như họ tưởng. Đó là một vương quyền tuyệt đối, với mục đích quy tụ mọi dân trên toàn cầu, và tất cả mọi người thấp hèn, yếu đuối tật nguyền, cho đến cao sang quyền uy đều có thể trở thành công dân nếu biết tuân phục thánh ý Chúa.
- Vua mọi vua.
Qua câu trả lời mạnh mẽ hiên ngang của Đức Giêsu trước quan Philatô đại diện cho quyền lực trần thế. Đức Giêsu đã thể hiện vượt trội vì Ngài là Vua các vua, vương quyền Ngài vượt hẳn sự trông đợi của người Do Thái, Ngài không để mất sự cao cả khi mang thân phận yếu hèn. Điều này cho họ thấy rằng nếu họ biết được uy quyền của Đức Giêsu nếu họ quan tâm đến chân lý, biết nỗ lực khám phá đường lối Chúa. Vì thế, câu trả lời của Đức Giêsu một đàng cho thấy Ngài như một vị Vua uy quyền, đàng khác lại mang chiều kích lớn lao đặc biệt về mặt tôn giáo. Bởi vì đó là câu trả lời đánh tan mọi ảo vọng của dân Do Thái. Và khẳng định rõ ràng vương quyền chân thật phải do Thiên Chúa thiết lập.
Tóm lại, Đức Giêsu Kitô thật sự là vị Vua đầy uy quyền, đất nước Ngài vô biên, thần dân là tất cả mọi người tín hữu. Còn luật lệ là tình yêu. Nó đã thể hiện qua việc Vị Vua đã trở nên giống phàm nhân, nhằm yêu thương phục vụ con người. Để diễn tả mầu nhiệm tình yêu này, trong thư gởi tín hữu Philipphê thánh Phaolô đã nói: “Ngài đã trở nên chúng ta như một con người… Vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Ngài lên địa vị cao trọng tuyệt vời, và ban cho Ngài một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu” (Pl 2, 5-6). Chúng ta là những thần dân đã được mời gọi gia nhập đật nước của Ngài qua Bí Tích Rửa Tội, thì mỗi người cũng được tham dự vào vương quyền của Đức Kitô thủ lĩnh chúng ta qua chức vụ vương đế. Vì vậy đã là công dân nước Chúa thì mỗi người phải góp phần vào công việc xây dựng vương quốc nước Ngài trên trái đất này, qua việc thánh hóa bản thân mỗi ngày và phục vụ tha nhân bằng cả tình yêu như chính Đức Giêsu đã từng phục vụ và “hiến mạng sống để cứu chuộc cho nhiều người” (Mc 10,45).
(Suy niệm của Gm. Arthur Tonne)
Thánh Gioan Cantio sinh tại Ba lan năm 1390. Khi còn là một cậu bé, ngài tỏ ra thông minh và tử tế. Khi làm linh mục, ngài dạy Kinh Thánh tại đại học Cracow và cũng làm cha sở mấy năm. Người ta nhớ sự thông thái và lòng nhiệt thành của ngài đối với người nghèo khó. Người đã đi bộ hành hương Roma đến bốn lần, đeo hành trang trên lưng. Một lần trong cuộc hành hương, bọn cướp lấy bóp của ngài, hỏi ngài còn tiền không. Vị thánh trả lời ngài chỉ có bấy nhiêu, bọn cướp cho ngài đi. Đi được một quãng xa, ngài nhớ ra mấy miếng vàng giấu trong gấu áo. Ngài vội vàng trở lại, đưa vàng cho bọn cướp, năn nỉ xin họ tha thứ cho ngài vì ngài đã nói dối họ. Bọn cướp ngỡ ngàng, lặng thinh và lấy làm thích thú, bọn chúng trả lại cho ngài tất cả tiền nong đã lấy của ngài.
Hôm nay chúng ta tôn thờ Đức Kitô là Vua của chúng ta. Chúng ta nghe Chúa Kitô nói với Philatô: “Vương quyền của tôi không thuộc về trần gian”. Chúa Giêsu nhận rằng Người là Vua nhưng không phải là Vua của các Vua.
Người không phải là một nhà lãnh đạo chính trị hay quân sự. Người không phải là một ông vua giàu có, danh vọng và quyền thế. Vậy Người là loại vua nào? Vương quốc Người ở đâu? Vương quốc Người là gì? Bài kinh Tiền Tụng trong Thánh Lễ hôm nay trả lời các câu hỏi ấy.
“Người hiến thân trên thập giá… Người đã hoàn thành mầu nhiệm cứu chuộc nhân loại… Người đã quy phục mọi loài dưới quyền bính mình và đặt dưới uy quyền vô hạn của Chúa. Một vương quốc sự thật và sự sống, một vương quốc thánh thiện và ân sủng, một vương quốc công bình, tình thương và hòa bình”.
Mỗi lần chúng ta hành động vì những điều quý giá này: Chân lý, sự sống, sự thánh thiện, ân sủng, sự công bình, tình thương và hòa bình, là chúng ta hành động cho Chúa Kitô, làm cho Chúa Kitô là Vua của chúng ta.
- Sự thật: Như Thánh Gioan Cantio, bạn hãy nói sự thật dù phải trả bằng mọi giá và bạn phục vụ Chúa Kitô –Vua sự thật.
- Sự sống: Chúa Kitô đến để chúng ta được sống, những kẻ theo Chúa phải phát triển sự sống. Thí dụ: Bạn hãy làm mọi cái có thể, để ngăn ngừa sát hại hàng triệu em bé vô tội vì phá thai.
- Thánh thiện và ân sủng: Mọi cái chúng ta làm đều gia tăng sự sống của Chúa trong chúng ta. Thí dụ: Tham dự Thánh Lễ này là một việc phục vụ Chúa Kitô, nguồn mạch sự thánh thiện.
- Công bình: Khi chúng ta cố gắng khiêm nhường đối với Chúa, với người lối xóm và với chúng ta. Chúng ta bỏ phiếu bầu Chúa Kitô là Vua, làm nhà lãnh đạo chúng ta.
- Tình yêu: Mỗi lần chúng ta cố gắng làm đẹp lòng Chúa, giúp đỡ anh em chúng ta minh chứng dấu chỉ đặc biệt việc phục tùng Chúa Kitô là Vua.
- Hòa bình: Bạn hãy cố gắng xây dựng hòa bình mọi nơi và bạn chứng tỏ rằng bạn thuộc về vương quốc hòa bình của Chúa Kitô. “Nước Cha trị đến” chúng ta cầu nguyện trong kinh Lạy Cha. Trong ngày lễ Chúa Kitô là Vua, chúng ta thề hứa phát triển trong đời sống cá nhân và cộng đoàn, đặc tính thâm sâu và thiêng liêng này để thực sự nhận Chúa Kitô là Vua.
Xin Chúa chúc lành bạn.
(Suy niệm của Noel Quesson)
Đức Hồng Y Deschamps, Tổng Giám Mục Malines, khi còn trẻ đã chứng kiến cuộc đăng quang của vua Bỉ. Từ cửa sổ một cao ốc, Deschamps đứng xem, cuộc lễ diễn ra, rồi cuộc diễn hành trang trọng của hoàng gia và đoàn tùy tùng. Sau khi mọi việc đã hoàn tất, các nẻo đường phố trở lại bình thường như mọi ngày, chàng trai mỉm cười nói: Thế là một vị vua đã đi qua. Rồi nhờ ơn Chúa chàng suy nghĩ tiếp: Tôi không muốn phục vụ cho một vị vua sẽ qua đi. Tôi muốn một vị vua ở mãi với tôi. Và chàng nghĩ tới Đức Kitô, chàng từ bỏ địa vị đầy hứa hẹn và trở thành một tu sĩ, một linh mục và một niên trưởng Giáo Hội nước Bỉ.
Chúa Giêsu đã nhận mình là Vua, lời tuyên bố của Chúa được thốt lên ngay trong vụ án người ta đang xét xử Chúa. Chúa bị tố cáo vì xưng mình là Vua. Khi Philatô hỏi Chúa: Ông có phải là Vua không? Thì Chúa lại quả quyết Người thực là Vua. Danh hiệu Vua có thể hiểu theo nhiều nghĩa khác biệt.
Trước hết, một vị Vua theo quan điểm chính trị giống như Hoàng đế La Mã. Ông tìm cách thống trị và đòi người ta làm nô lệ cho mình. Còn một vị Vua theo quan điểm Đấng Thiên Sai mà người Do Thái trông chờ, đó là người kế vị ngai tòa Đavid. Người sẽ chiến thắng quân thù và giải thoát dân tộc khỏi ách thống trị của đế quốc.
Còn khi Chúa Giêsu nói với Philatô: Tôi là Vua, thì chức vị Vua ở đây lại hoàn toàn khác biệt. Chúa là Vua mà không hề bó buộc ai theo mình, một vị Vua để người ta bắt nộp mà không chống cự, không có quân đội, không có vũ khí. Một vương quốc như vậy làm ngạc nhiên các chính trị gia và các người chỉ huy quân sự.
Chúa Giêsu không phải một người yếu đuối, Chúa đã từng xua đuổi ma quỷ, đã triệt hạ khổ đau bệnh tật. Người đã lên tiếng nạt sóng gió và khiến bão tố im lặng. Người đã cải tổ Luật Do Thái với tư thế quyền uy. Tuy Người là Chúa và là Thày chúng ta mà vẫn để chúng ta hoàn toàn tự do.
Chúa Giêsu thực là Thiên Chúa: “Ai thấy Ta là thấy Cha”. Chúa đến để thiết lập một vương quốc nhưng đó là một vương quốc Thiên Chúa. Một vương quốc giấu ẩn như hạt cải nhỏ xíu nhưng rồi sẽ phát dậy men… như hạt lúa mì mục nát trong đất và đem lại mùa màng tốt đẹp. Chúa Giêsu là Vua, nhưng là Vua theo kiểu Thiên Chúa. Dĩ nhiên không phải một Thiên Chúa cai trị như Thánh Vịnh ca tụng (Tv 46,9; 54,20; 58,14; 92,1; 96,1). Chúa dạy ta cầu nguyện hàng ngày cho “Nước Chúa trị đến”. Thiên Chúa không tiêu diệt kẻ thù, không ép buộc con người tin theo. “Người cho mặt trời soi chiếu cho người công chính và kẻ bất lương, cho người vô thần cũng như cho các tín hữu” (Mt 5,43-48). Thiên Chúa yêu những kẻ không yêu mến Người. Và Chúa đòi ta cũng hành động theo lối Người.
Philatô hỏi: “Vậy ông là Vua sao?”. Sau khi đã xác định cung cách làm Vua của Chúa khác với quan niệm người trần, Chúa công bố với Philatô: “Ông nói đúng, tôi sinh ra để làm Vua, để làm chứng cho chân lý”. Chúa làm Vua theo lối khác, Chúa không nói khác biệt thế nào nhưng sự kiện đã chứng tỏ. Người ta giết Chúa, Chúa vẫn cai trị, vẫn chiến thắng. Chúa bị treo trên thập giá là lúc Chúa đăng quang, là lúc Người lên ngự bên hữu Thiên Chúa Cha.
Vậy ai là thần dân của Chúa? Chúa bảo: “Ai thuộc về chân lý thì nghe tiếng Tôi”. Chúa cai trị những người nghe tiếng Chúa, những người tin thác vào Lời Chúa, tin hoặc không tin. Như vậy, cả nhân loại là công dân của Nước Chúa, không một ai có thể thoát khỏi quyền cai trị của Chúa.
Tôn kính Đức Kitô Vua, không phải là dâng hương, là cử hành nghi lễ tung hô… Nhưng trước hết là nghe tiếng Chúa, và điều chỉnh cuộc sống cá nhân, gia đình, nghề nghiệp, xã hội theo Lời Chúa.
Lạy Chúa là Vua Vũ Trụ, xin làm cho mọi người nhận biết quyền năng và tình thương của Chúa, để tất cả được trở nên công dân trong Nước Chúa. Nước yêu thương, an bình bất diệt. Amen.
(Suy niệm của Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn)
“Chính vì lẽ này mà tôi đã đến trong thế gian: ấy là để làm chứng cho chân lý. Phàm ai thuộc về chân lý thì nghe được tiếng tôi” (Ga 18:37).
Không ít người khi mới tìm hiểu về Kitô giáo, hoặc có dịp đọc qua một vài trang sách Phúc Âm, đã vội đưa ra vài nhận xét về Đức Giêsu như sau: Ngài không phải là một chính trị gia xuất chúng và cũng chẳng phải là một thương gia đại tài. Bởi vì những lời Ngài nói, những điều Ngài hứa hẹn không giống với các chính khách hay các nhà buôn thời nay tí nào. Thay vì lôi kéo quần chúng bằng những lời mời gọi hấp dẫn, có tính chất quyến rũ thị hiếu của người ta, để họ sẵn sàng đi theo ủng hộ, thì Đức Giêsu lại nói, “Ai muốn theo Ta, hãy chối bỏ chính mình, hãy vác thập giá mình mà theo” (Mt 16:24). Đã vậy rồi khi có người đi theo, Ngài lại phán thêm những câu mà mới nghe qua đã muốn bất mãn. Chẳng hạn như, “Ai không từ bỏ cha mẹ, anh em, vợ con và ngay cả mạng sống mình thì không xứng đáng làm môn đệ của Ta” (Lc 14:26); hoặc “Ta không đến để đem bình an, nhưng là gươm giáo” (Mt 10:34).
Thật là khác lạ! Thay vì hứa hẹn một cuộc sống sung túc nhẹ nhàng thoải mái, êm ấm bình an, thay vì cứ hoá bánh ra thật nhiều và hoá thường xuyên để nuôi dân chúng, và như thế thì làm gì mà họ chẳng theo, thậm chí còn ủng hộ, bỏ phiếu bầu mình làm thủ lãnh, chứ đàng này Ngài lại dạy phải chịu đau khổ, phải từ bỏ chính mình, phải nhân nhượng kẻ thù, hay nói cách khác là phải chịu mất mát thiệt thòi. Thế thì làm sao mà lôi kéo dân chúng được!
Khi suy luận như thế, tất nhiên sẽ có không ít người tin tưởng mình sẽ nắm chắc phần thắng khi đánh cuộc nếu Đức Giêsu mà ra tranh cử, dù thời xưa hay thời nay, thế nào cũng bị loại ngay từ vòng đầu thôi. Nhất là khi họ thấy thân xác của Ngài bị đóng đinh thê thảm trên thập giá, kết thúc cuộc đời không một chút oai phong vinh quang, thì chẳng mấy ai dám khẳng định Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai, là Vua dân Do thái, hay là Chúa của muôn dân. Có chăng chỉ là một sự nhạo báng!
Ấy thế mà kẻ bị đóng đinh ô nhục trên thập giá giữa những tên trộm cướp, người đã từng bị nhạo báng là vua, là Mêsia, lại thật sự là Đức Kitô, Vua của muôn muôn tỉ tâm hồn.
Sẽ có người ngạc nhiên nêu vấn đề: Tại sao nghịch lý thế? Do đâu mà một tử tội lại được người ta bước theo đông đảo như vậy? Phải chăng vì người đó chính là chân lý-phải chăng vì người đó đã đến để giải thoát nhân loại bằng chân lý, và nay lại dám hiến mình chịu chết cho chân lý?
Nhưng “chân lý là gì”? Câu hỏi không cần câu trả lời của Philatô lại là đề tài suy tư của nhiều thế hệ. Chân lý đó chính là Thiên Chúa yêu thương con người. Bất cứ ai tin nhận chân lý này sẽ tìm thấy cho mình một sức sống phong phú, một niềm vui linh thiêng tràn đầy, nhất là sẽ múc được hồng ân cứu thoát, dù rằng người đó có đang quằn quại trong nỗi đau của thân xác như người trộm lành bị đóng đinh bên cạnh Chúa Giêsu.
Trong nỗi đau đớn tột cùng trước những hình khổ do quân Roma bày ra, anh trộm lành đã nhận chân con người của Đức Giêsu. Anh Đã bênh vực cho Ngài khi lên tiếng: “Ông này đâu có làm điều gì sai trái” (Lc 23:41). Nói cách khác, anh đã thừa nhận Đức Giêsu đã làm điều đúng. Ngài chỉ làm theo sự thật, đã sống cho chân lý yêu thương con người, và nay ngài chết cũng vì chân lý yêu thương đó.
Từ chỗ tin nhận và bênh vực sự vô tội của Đức Kitô, anh trộm lành đã khám phá ra vương quyền và thiên tính của Ngài. Kết quả, anh đã lên tiếng khẩn cầu: “Khi nào về Nước, xin Ngài nhớ đến tôi” (Lc 23:42).
Lạ quá! Làm sao trước một thân xác rã rời với đinh sắt, máu me thế kia mà anh ta có thể cất lên được lời kêu nài như thế là lời thỉnh cầu trước một quốc vương? Làm sao trước hình hài của một kẻ đang chịu đau khổ chẳng thua kém gì anh ta thế kia mà anh lại đem lòng thần phục như đối với một vị vua uy quyền như vậy? Câu trả lời sẽ là: Chân Lý đã gặp gỡ anh và anh đã tin nhận Chân Lý. Đức Kitô gặp anh và anh đã tin phục Ngài. Chính sự tin phục cùng tin nhận này mà ơn cứu độ, phần thưởng của sự sống linh thiêng được trao ban cho anh ngay trong ngày đó.
Đã có rất nhiều người gặp Đức Giêsu, nhưng không phải tất cả đều nhận ra Ngài là Chân Lý, là Vua của tâm hồn, là Chúa của yêu thương. Philatô đã gặp Đức Giêsu đấy chứ, nhưng lòng ham mê quyền hành đã che khuất chân lý; những người luật sĩ biệt phái đã thấy Đức Giêsu đấy chứ, nhưng những ghen tương đố kị, những mưu cầu ảnh hưởng cá nhân đã làm lu mờ khuôn mặt của chân lý; rất nhiều người trong đám đông dân chúng Do thái về dự lễ Vượt qua ngày xưa đã thấy Đức Giêsu đấy chứ, nhưng chỉ vì thích hùa theo tính bạo động của đám đông, bất chấp chuyện đúng sai, bất chấp kẻ vô tội là Giêsu hay là Baraba. Thế nên, cuối cùng Chân Lý đã bị họ đóng đinh.
Trong tuần cuối cùng của năm phụng vụ, Giáo hội muốn đặc biệt nhắc nhở với mọi người tín hữu về gương mặt của Chúa Giêsu Vua, gương mặt của chân lý yêu thương con người-chân lý duy nhất mang lại hạnh phúc và niềm vui tâm hồn. Thử hỏi chân lý yêu thương đó có ngự trị tâm hồn của tôi chưa? Tôi đã dám bước trên những gì là quyền hành, dù đó là quyền hành của một người cha, người chồng, hay người chủ, tôi có dám vượt thoát những gì là ghen tương đố kị, lợi ích riêng tư, tôi có can đảm chế ngự những bạo động của dục tình hay nóng giận để làm cho hình ảnh của chân lý yêu thương là Vua Giêsu được bừng sáng hơn trong gia đình và cộng đoàn tôi không?
Xét lại chính mình nhân ngày cuối năm phụng vụ để xác định thái độ tin phục và suy tôn cần có đối với Vua Giêsu, hầu sự bình an và niềm hạnh phúc thiên đàng mà Ngài đã tặng ban cho người trộm lành xưa, cũng chiếm ngự tâm hồn, gia đình, và cộng đoàn chúng ta.
Trước mặt Philatô, Chúa Giêsu đã xác quyết: Phải, Ta là vua, nhưng Nước Ta không thuộc về thế gian này. Đúng thế, nhìn vào xã hội ngày hôm nay, chúng ta sẽ thấy Nước Chúa không có một thế lực chính trị, không có một sức mạnh quân sự nào cả. Nước Chúa không có xe tăng và đại pháo, mà chỉ có các linh hồn. Nước Ngài là nước thiêng liêng triển nở trong cõi lòng chúng ta. Và như vậy, Ngài là vua của tâm hồn chúng ta. Tuy nhiên một khi đã tuyên xưng Ngài là vua, thì điều quan trọng, đó là chúng ta phải thuộc về Ngài. Thế nhưng, chúng ta phải thuộc về Ngài như thế nào?
Chúng ta không thuộc về Chúa bằng cách chỉ có tên trong sổ Rửa tội, bằng cách chỉ mang danh hiệu là người Kitô hữu, nhưng chúng ta phải thuộc về Ngài bằng chính đời sống kitô hữu của chúng ta. Đây quả thực là một điều cay đắng và chua xót, bởi vì: xét theo tên gọi, thì nhiều người Kitô hữu đã thuộc về Ngài, nhưng xét theo đời sống, thì họ lại chối bỏ Ngài. Họ tới nhà thờ ba lần trong đời. Lần thứ nhất đễ lạnh nhận bí tích Rửa Tội, lần thứ hai để cử hành bí tích Hôn Phối và lần thứ ba để ra đi đến nơi an nghỉ cuối cùng.
Mặc dù tin Chúa, nhưng họ lại chẳng bao giờ sống niềm tin của mình. Họ chấp nhận Đức Kitô là vua, nhưng lại chẳng bao giờ tuân giữ những điều Ngài truyền dạy, khiến anh em lương dân đã phải thốt lên: Đi đạo thì tin đạo, chứ đừng tin kẻ có đạo. Họ chỉ là một thứ Kitô hữu “dổm”, hữu danh vô thực mà thôi. Họ giống như mồ mả bên ngoài thì quét vôi trắng xóa, hay ốp lát cẩm thạch hay đá quí, nhưng bên trong thì lại chất chứa đủ mọi thứ giòi bọ và xú khí. Đức tin của họ chỉ là như một bộ quần áo đẹp, mặc vào để tới nhà thờ, rồi sau đó thì cởi ra và treo và tủ. Họ chỉ giữ đạo ở trong nhà thờ mà chẳng sống đạo giữ lòng cuộc đời. Tại nhà thờ họ là những con chiên ngoan, nhưng bước xuống cuộc đời họ bỗng hóa kiếp thành một loài lang sói, cũng gian tham, cũng độc ác… Với chúng ta thì khác. Giữa một xã hội chối bỏ Thiên Chúa để chạy theo vật chất và hưởng thụ, thì những người Kitô hữu, bằng một cuộc sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương, phải trở nên chứng nhân cho Tin mừng tình yêu của Đức Kitô, phải trở nên nắm men làm cho cả đấu bột xã hội dậy men đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương, phải trở nên muối mặn ướp cho một môi trường khỏi ươn thối, phải trở nên ánh sáng chiếu trong một thế giới bị phủ đầy bóng tối. Tất cả những điều ấy muốn nói lên rằng mỗi người chúng ta cần phải có một đức tin sống động, thì mới có thể cẳm hóa được thế giới ngày nay, một thế giới đang xa lìa khỏi quỹ đạo của Thiên Chúa.
Trong cuộc sống này, không thiếu gì những người vỗ ngực tự xưng là đạo gốc, là đạo dòng, nhưng lại thiếu mất một đức tin sống động. Họ nói: Nếu tôi không có đức tin, thì tôi chẳng cần phải ăn ngay ở lành, chẳng cần phải để ý tới linh hồn làm chi? Với chúng ta thì khác, nếu chúng ta có một đức tin sống động, thì liệu chúng ta có thể bỏ bê linh hồn, trốn tránh việc đi xưng tội và lười biếng việc rước lễ được hay không? Chắc chắn là không.
Nếu kiểm điểm lại đời sống và tự vấn lương tâm, có lẽ chúng ta phải đấm ngực mình mà rằng: lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng… Bởi vì chúng ta mới chỉ là những người Kitô hữu trong sổ sách, những người Kitô hữu trên môi trên miệng, chứ chưa thực sự là những người Kitô hữu trong việc làm, trong cuộc sống với một đức tin mạnh mẽ và nhiệt thành.Với lời nói, chúng ta là những người Kitô hữu, nhưng với việc làm chúng ta lại là những kẻ ngoại đạo. Với miệng lưỡi, chúng ta là những người có đạo, nhưng với đời sống, chúng ta lại là những kẻ vô đạo. Với ngôn ngữ, chúng ta là những người tin Chúa, nhưng với tư cách chứng nhân, chúng ta lại là những kẻ chối bỏ Chúa, đúng như tục ngữ đã diễn tả: Khẩu Phật tâm xà. Miệng Na mô, bụng bồ dao găm. Đức Kitô là vua cõi lòng chúng ta. Vì thế, chúng ta phải nói, phải làm và phải sống thế nào để trói cả cuộc đời chúng ta là một lời tuyên xưng vương quyền của Ngài và bản thân chúng ta xứng đáng mang danh hiệu là công dân Nước Trời.
Trong một ngày lễ Chúa Kitô Vua, chúng tôi đã mời gọi dân chúng ở Tagalog tôn vinh Chúa Giêsu bằng những tiếng chúc tụng và ca khen “Chúa Kitô muôn năm”. Khi tung hô ai như vậy, chúng ta muốn nói rằng tôi ước ao cho ngài được trường thọ. Đó vừa là lời chúc mừng vừa là lời hoan hô đầy phấn khích, là một lời kêu cầu và cũng là một cử hành tôn vinh chính sự sống.
Khi chúng ta nói: “Chúa Kitô muôn năm”, chúng ta dùng câu đó như một lời khẩn cầu, một lời kính tôn đối với Đức Vua nhân từ của chúng ta. Nhưng chúng ta cũng diễn tả trong câu đó một lời tán dương đối với Chúa. Đồng thời, chúng ta cũng diễn tả một nỗi khát vọng, mong ước Chúa đến và sống mãi mãi trong tâm hồn chúng ta cũng như trong tâm hồn mọi người tin vào Chúa.
Thầy Brian Morton có kể lại câu chuyện sau đây: “Một nữ tu trẻ khởi sự ngày đầu tiên làm việc trong một bệnh viện địa phương. Sơ rất lo lắng. Sơ thấy những người hấp hối nằm trên các giường bệnh. Sơ thấy các sơ khác đang đi từ giường này sang giường khác, rót nước ở chỗ này, phát thuốc ở chỗ kia. Bất thình lình Mẹ Têrêxa đến bên sơ, mỉm cười và nói: “Này chị, đến với tôi. Tôi muốn chị gặp một người”. Nữ tu trẻ đi theo Mẹ Têrêxa. Chẳng mấy chốc họ đến bên một cái giường nằm ở góc xa nhất của khu nhà. Nằm trên giường là một ông lão gầy giơ xương. Đôi mắt của ông sâu hoắm. Đầu ông cao trọc. Ông chỉ còn một cái răng duy nhất trong miệng. Mẹ Têrêxa ôm khuôn mặt của ông lão trong đôi bàn tay của mình và quì xuống bên giường. Mẹ gọi người nữ tu trẻ tuổi: “Chị Anna, tôi muốn chị gặp Chúa Giêsu”.
Chúng ta cần mời gọi Chúa Kitô đến cư ngụ trong chúng ta để những qui tắc, lối sống của Người trở thành qui tắc vào lối sống của chúng ta. Chúng ta cần Người đến sống trong và với chúng ta để chúng ta hành động, ứng xử như Người. Chúa Kitô đang sống trong mỗi người chúng ta. Và chúng ta phải để cho Chúa hướng dẫn chúng ta nhìn thấy sự hiện diện của Chúa trong những người chung quanh chúng ta.
Chúa Kitô muôn năm!
Xin Chúa sống mãi mãi trong tâm hồn chúng con.
Cách đây hai ngàn năm, nước Do Thái, một tiểu quốc bên bờ Địa Trung Hải, đã ngậm đắng nuốt cay, sống dưới chế độ hà khắc của đế quốc Rôma. Tại Galilê, miền bắc Do Thái, những người đế quốc đã đặt Hêrôđê, một con người vô lương tâm làm vua, để tận diệt vương tộc Đavid, còn ở Giuđê, miền nam Do Thái, Rôma trực tiếp đô hộ, dưới sự thống trị của tổng trấn Philatô và quân đội của ông. Cũng như trong các nước bị chiếm đóng, đô hộ, người Do Thái thời bấy giờ chia ra nhiều phe đảng chống đối nhau và kình địch nhau, cụ thể là hai đảng Sađốc và Pharisêu. Đảng Sađốc thì cộng tác với quân đội chiếm đóng, ngược lại, đảng Pharisêu tha thiết với nền độc lập quốc gia, họ sẵn sàng hy sinh xương máu để bảo vệ tổ quốc và đẩy lui đế quốc, họ luôn nhắc nhở cho dân chúng niềm hy vọng ngày giải phóng mà Thiên Chúa đã hứa.
Trong khi đất nước đang bị phân hóa như vậy thì Chúa Giêsu xuất hiện với những quyền lực vô song, Ngài đã làm những việc mà không ai có thể làm được. Trước những sự kiện đó, người Do Thái hồ hởi phấn khởi tin chắc Ngài là vị cứu tinh Thiên Chúa gửi đến và ngày giải phóng đã gần. Vì thế, ngày lễ lá, dân chúng rầm rộ đón rước Chúa vào thành đô như một vị đại tướng thắng trận trở về lên ngôi. Họ lũ lượt kéo nhau đi như biểu tình, miệng ca hát: “Vạn tuế con vua Đavid”. Như vậy, dân chúng đã nhận ra Ngài là vị vua Thiên Sai khiêm tốn, ngồi trên lưng lừa, đúng như ngôn sứ Dacaria đã loan báo năm thế kỷ trước. Họ reo vang hô lớn: “Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến, Người chính là vua”. Hôm ấy Chúa Giêsu không cải chính, cứ để họ tiếp tục tung hô như vậy. Nhưng dân Do Thái đã thất vọng, vì Chúa Giêsu từ chối vương quyền họ trao cho Ngài, từ chối việc giải phóng dân Do Thái khỏi ách đô hộ của Rôma. Ngài tuyên bố Ngài là Đấng Thiên Sai của Thiên Chúa, là vị cứu tinh, là Vua Do Thái, nhưng không như người Do Thái quan niệm. Thời giờ đã điểm, Ngài không còn giấu diếm như trước nữa, Ngài công khai chấp nhận và tuyên bố Ngài là Đấng Cứu Thế. Thế là việc gì phải đến đã đến: ngày thứ Năm, cũng trong tuần lễ đó, chính những người đã reo mừng tung hô Ngài trước đây, bây giờ lại xuống đường biểu tình, điệu Ngài đến nhà cầm quyền để tố cáo giết Ngài. Họ điệu Ngài đến tổng trấn Philatô, Philatô ra gặp họ, Chúa Giêsu và Philatô đối diện nhau. Philatô quay về phía đám đông đang gào thét và hỏi họ: “Các ngươi tố cáo người này về tội gì?”. Nếu họ tố cáo Chúa là đã nói xúc phạm vì tự xưng là Thiên Chúa, thì Philatô chỉ mỉm cười bỏ qua, nhưng lời tố cáo của họ là “Chúa đã xúi giục dân nổi loạn, cấm nộp thuế cho Xêda, và tự xưng mình là vua”. Nghe vậy, Philatô hỏi Chúa: “Ông là vua à?”. Chúa trả lời: “Ông nói đúng, tôi là vua”. Nhưng Ngài nói thêm ngay: “Vương quyền của tôi không đến từ thế gian này”, vương quyền ấy chủ yếu hệ tại ở việc “làm chứng cho sự thật”. Đây là điều Philatô không thể nào hiểu được.
Đúng vậy, Chúa Giêsu không phải là vua Do Thái theo nghĩa chính trị để tranh giành quyền thế với hoàng đế Xêda, Ngài là vua theo nghĩa Ngài là Đấng chăn chiên dẫn người ta vào sự thật của Thiên Chúa, Ngài đến làm chứng cho sự thật, ai thuộc về Ngài thì nghe tiếng Ngài, Ngài là vua thật, vì Ngài dẫn người ta đến sự sống thật. Nói khác đi, Chúa Giêsu đến trần gian không phải với sứ mạng giải phóng dân Do Thái và nhân loại khỏi ách nô lệ của đế quốc, Ngài cũng không đến để giải thoát chúng ta khỏi đói khát và chiến tranh. Tất cả sứ mạng của Ngài là giải phóng chúng ta khỏi tội lỗi. Vì thế, Chúa Giêsu đã đi vào tận đáy thân phận con người để bộc lộ vương quyền thật của Ngài, Ngài chỉ muốn cai trị tâm hồn người ta. Do đó, tất cả những ai muốn được giải thoát khỏi tội lỗi, tin theo Ngài và sống theo những lời Ngài dạy, họ sẽ là thần dân của Ngài và được hội nhập vào nước của Ngài.
Trong thời đại này, chúng ta tuyên xưng Chúa Giêsu là vua vẫn là một điều hợp thời, hợp tình, hợp lý. Vấn đề là chúng ta hiểu đúng nội dung và bản chất vương quyền của Chúa. Ngài đến trần gian để làm chứng cho sự thật và đưa chúng ta vào sự thật. Sự thật đây là ơn cứu rỗi và hạnh phúc. Như vậy, tất cả chúng ta hãy cùng nhau vung tay lên hô lớn: “Vạn tuế Chúa Giêsu là vua” như người đàn bà trong câu truyện sau: Đức giám mục thành Pam-lo-ra kể lại rằng: người ta mới mang về đây thi thể của một chiến sĩ đã chết vì Chúa và vì tổ quốc. Một quả lựu đạn nổ tung làm cho xác người chiến sĩ đó nát bấy, các bạn bè nhận ra xác đó nên đem về chôn cất tử tế, trước khi chôn, bà mẹ của người chiến sĩ đó xin mở quan tài ra, bà ta có một người con đầu lòng cũng chết như vậy, khi mở quan tài ra, bà chỉ thấy có một đống thịt nát và một cánh tay còn nguyên, bà cầm cánh tay đó đưa lên cao và nói: “Anh con trước khi chết đã kêu lên: “Vạn tuế Chúa Giêsu là vua”, nếu con chết mà chưa kịp kêu lên như vậy, thì bây giờ con hãy kêu lên với mẹ”. Nói xong, bà giơ cánh tay con mình lên và hô ba lần: “Vạn tuế Chúa Giêsu là vua”.
Xin Chúa cho chúng ta, dù trong hoàn cảnh nào, chúng ta vẫn luôn xác tín Chúa Kitô là vua, Ngài luôn quan tâm đến chúng ta là những thần dân yêu quý của Ngài, Ngài sẽ trợ giúp chúng ta luôn đi trong sự thật và sống trong sự thật của Ngài, với điều kiện chúng ta phải luôn tin Ngài và đặt Ngài làm vua tâm hồn và cuộc đời chúng ta.
Chúng ta tuyên xưng Chúa Giêsu là vua, thì chúng ta là dân của Ngài. Chúng ta tôn xưng Chúa là vua sự thật, thì chúng ta là dân sự thật của Ngài, chúng ta phải làm sáng tỏ sự thật ấy. Có lẽ chúng ta phải thú nhận: chúng ta chưa sống, chưa rao giảng, chưa làm chứng cho sự thật cứu độ. Bởi vì cuộc sống đầu tắt mặt tối, đầy lo toan, vất vả, bon chen dễ đẩy chúng ta vào thái độ ích kỷ, nhỏ nhen, thấp hèn. Chúng ta không dễ nhường nhịn nhau, hòa thuận với nhau, mà ngược lại, muốn lấn lướt người, muốn được phần hơn, muốn loại trừ nhau, nhiều khi dùng cả những thủ đoạn độc địa, thô bỉ nữa… Chúng ta hãy nhớ: một người sống trung thực, chân thành, bác ái, yêu thương giữa một xã hội đầy dẫy những lừa lọc, gian dối, ích kỷ, ti tiện… có lẽ sẽ bị đánh giá là không giống ai, là người lội ngược dòng nước, nhưng chính việc lội ngược dòng, chính việc sống trung thực, yêu thương lại là cách làm chứng cho Chúa, làm chứng cho sự thật có ý nghĩa và giá trị nhất.
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê)
ĐỨC GIÊSU PHỤC SINH
ĐƯỢC ĐẶT LÀM CHÚA NGƯỜI SỐNG VÀ KẺ CHẾT
Kính thưa quý anh chị em,
Khi nhắc đến vua chúa trần gian, người ta liên tưởng tới những con người có quyền lực, địa vị cao nhất trong một vương quốc, vùng miền. Thần dân thuộc quyền là những bầy tôi phải cung phụng theo đạo thần tử. Dầu vậy, vua cũng chỉ có ảnh hưởng trên dân trong cuộc sống hiện tại, chết rồi, không còn phân biệt giai cấp, giầu nghèo, mọi người đều bình đẳng.
Mừng lễ Chúa Kitô, Vua vũ trụ, phụng vụ mượn hình ảnh vua chúa trần gian, soi sáng một ý tưởng căn bản: Giê-su phục sinh tháp nhập thế gian vào thân mình mầu nhiệm, trao ban tình yêu và sự sống thần linh cách vô lường, để thế gian được sống dồi dào, sống muôn đời.
Để kín múc lương thực sự sống trong cử hành lời Chúa, cộng đoàn phụng vụ cần phải được gột rửa những yếu tố gây tranh cãi vốn gắn liền với tước vị vua trong quá khứ, để chỉ áp dụng những gì tích cực, hoàn hảo cho vua Giê-su, đến để chiên được sống và sống dồi dào, đến để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá cứu chuộc muôn người.
Các bài sách thánh vừa tuyên đọc làm chứng Giê-su, Vua uy quyền phổ quát, vĩnh hằng, tiêu diệt những thế lực gây ra đau khổ sự chết, thiết lập vương quốc sự thật và sự sống tồn tại đến muôn đời.
Bài đọc I, trích sách ngôn sứ Daniel, loan báo đức vua trong dáng vẻ con người đến trên mây trời, được trao ban vương quốc và quyền thống trị vĩnh hằng, để người phục vụ sự sống trần gian. Ngôn sứ dùng lối văn khải huyền mô tả sự xuất hiện của đức vua trong dáng dấp của một con người đã được biến đổi. Xuất hiện trên mây trời ngụ ý người đã đi vào thế giới thần linh.
Lời sách khải huyền minh chứng rằng vương quyền của đức vua là tuyệt đối, vĩnh hằng, vì người đã bị sát tế và nay được tôn vinh trên trời bên hữu Thiên Chúa, để chuyển cầu mọi phúc lành thiêng liêng cho tất cả những ai hy vọng ngày người trở lại trong vinh quang. Lời khải huyền của Daniel đã được ứng nghiệm nơi Đức Kitô. Quang cảnh uy nghiêm của sách khải huyền được cụ thể hóa bằng một biến cố lịch sử: Giê-su bị xét xử, bị kết án tử hình thập giá bởi một tòa án dân sự của đế quốc Rô-ma.
Cái nghịch lý trong vụ án ở chỗ: loài thụ tạo, kết án đấng tạo hóa, kẻ tội lỗi, kết án người vô tội, kẻ phải chết, kết án đấng trường sinh bất tử… Họ hành động vì lầm lạc, vì không biết việc mình làm. Tuy nhiên, Thiên Chúa lại can thiệp vào cái nghịch lý, để biến nó thành nguồn ơn cứu rỗi thế gian. Đức Kitô đã lên ngôi hiển trị, được đặt làm Chúa người sống và kẻ chết.
Cuộc đối thoại giữa Chúa Giê-su và quan tổng trấn Phi-la-tô xóa tan mối nghi ngờ của nhà cầm quyền Rô-ma về một vị vua trần thế với mưu đồ chính trị. Giê-su không là vua theo kiểu thế gian, nhưng là vua sự thật và chân lý, để những ai hâm mộ sự thật thì dấn thân làm môn đệ của Người. Theo ý nghĩa cao cả này, Giê-su tuyên bố Ngài là “Vua” và thời khắc lên ngôi hiển trị vua Giê-su là thập giá.
Là vua chân lý và sự thật, Giê-su rao truyền, như đấng có thẩm quyền, lòng thương xót Chúa Cha, nhất tâm giải phóng con người khỏi gánh nặng vụ luật, giả hình, kiện toàn lề luật và các tiên tri, chủ trương bình đẳng giữa con người với nhau… Ngần ấy công việc Giê-su thực hiện đã hòa giải nhân loại với Thiên Chúa, nhưng cũng nên cớ chống đối, ganh tỵ, oán thù cho những kẻ yêu sự tối tăm hơn ánh sáng chân thật. Đó là lý do khiến Giê-su phải chết!
Còn một lý do quan trọng hơn cả: Giê-su tuyệt đối vâng phục thánh ý Cha, nên thập giá là tất yếu, là cung cách Giê-su làm vinh danh Cha và cứu rỗi các linh hồn. Sau khi truyền đóng đinh Người vào thập giá, Phi-la-tô lấy một bảng viết: “Giê-su Nazareth, Vua Do Thái”, bằng các thứ tiếng: Hipri, La-tinh và Hy-lạp” (Jn 19, 19 – 20).
Chúa Cha đã chấp nhận lễ hy sinh trên thập giá, bằng cách phục sinh Người từ trong cõi chết, đặt là Chúa kẻ sống và kẻ chết. Đức Giê-su, Vua vũ trụ, Ngôi Lời nhập thể, nhờ sự chết và phục sinh đã tháp nhập thế gian vào thân mình mầu nhiệm Người, để thế gian được nuôi dưỡng bằng chính “Lời” và “Bánh sự sống”.
Mừng lễ Chúa Kitô, Vua vũ trụ, mỗi người chúng ta thấy có mình ở trong vương quốc, đồng thời cũng phải nhận ra trách nhiệm đối với Chúa và tha nhân.
Bài đọc II, trích sách Khải Huyền, tuyên xưng Giê-su là Đấng trung tín. Nhờ sự chết và phục sinh, Người cho chúng ta được tham dự vào sự sống đời đời đã nhận từ nơi Cha như ơn đầu mùa các tạo vật. Vì loài người chúng ta và để cứu rỗi chúng ta, Giê-su đã lấy máu mình mà rửa sạch tội lỗi, cho phép tham dự vào các chức năng: tư tế, ngôn sứ và vương đế của Người, để làm thành một dân riêng “dân tư tế”, một dân nhiệt tâm làm việc thiện. Đó là cách thờ phượng theo phong cách Giê-su, có sức làm vinh danh Chúa và cứu rỗi các linh hồn.
Thưa anh chị em,
Giáo huấn Lời Chúa hôm nay dạy chúng ta:
- Một là: Thiên Chúa giầu lòng xót thương luôn muốn mọi loài được quy tụ trong Chúa Kitô vua vũ trụ, để được hòa giải và được thần hóa, hầu đáng hưởng sự sống thần linh, sự sống muôn đời. Quy tụ trong Chúa Kitô là được nên đồng hình, đồng dạng, nên giống Chúa trong mọi sự, sống xứng phẩm giá con Thiên Chúa, góp phần làm vinh danh Chúa và cứu rỗi các linh hồn.
- Hai là: Luôn ý thức mình là người được chọn của Thiên Chúa, thánh thiện và được yêu thương, hãy mặc lấy tâm tình từ bi, nhân hậu, khiêm nhường, rộng lượng và biết tha thứ cho nhau. Lấy tình liên đới hiệp thông, yêu thương bác ái, sẻ chia làm dây ràng buộc mọi điều toàn thiện. Nguyện Thiên Chúa, nguồn mạch tình yêu ở cùng chúng ta luôn mãi.
Xin Đức Kitô vua vũ trụ đón nhận chúng ta và mọi người vào vương quốc tình yêu, sự sống của Chúa, để chúng ta được hưởng niềm vui, hạnh phúc và sự sống muôn đời. Amen.
(Suy niệm của Lm. Hồng Phúc)
“Ta là Vua…”
Lịch sử nước Anh có kể rằng hồi ấy, nước Anh có một ông vua đạo đức tên là Canut III. Ông là vua của một cường quốc, nên xung quanh ông hay có những quan nịnh thần ton hót. Một hôm trong một buổi triều yết, các nịnh thần tâu: “Thánh Thượng” là vua trên hết các vua, là chúa trên các chúa, có quyền trên mặt đất và trên biển cả. Nghe vậy nhà vua muốn cho họ một bài học, liền mời tất cả đi ra ngoài biển. Đứng trước đại dương, ông tuyên bố: Ta là vua trên hết các vua, có quyền trên đất liền và trên biển cả. Vậy ta truyền cho sóng biển không được trờ tới. Nhưng nước vẫn dâng lên, sóng vẫn trờ tới làm ướt áo cẩm bào của vua cũng như triều thần. Nhà vua đi vào trong một thánh đường đến trước tượng chuộc tội, lấy chiếc vương miện đội lên đầu Chúa và nói: “Lạy Chúa, chỉ có Chúa là Vua trên hết các Vua, là Chúa trên hết các Chúa”.
Hôm nay, Giáo hội kêu mời chúng ta tôn vinh và nhìn nhận Chúa là Vua, Vua cá nhân, gia đình và xã hội. Giáo hội chọn ngày Chúa nhật sau hết của năm Phụng vụ, để tôn vinh Chúa, như chóp đỉnh của vũ trụ. Trong cả năm, chúng ta mừng các mầu nhiệm về Chúa, mừng sự toàn thắng của các thánh. Nhưng khi chúng ta ca ngợi sự toàn thắng của các Thánh là chúng ta ca ngợi sự toàn thắng của Chúa nơi các Thánh. Nên để kết thúc năm Phụng vụ, Giáo hội mời chúng ta hướng về Chúa Giêsu là trung tâm của vũ trụ, là Đấng Thánh, Đấng qui tụ vạn vật để trao lại cho Đức Chúa Cha: “Mọi sự đã nhờ Ngài mà có và không Ngài thì không gì đã thành sự” (Ga 1,3). Ngài là Vua vũ trụ.
Trước mặt Philatô, Chúa Giêsu đã xác định: “Ta là Vua”. Ngài là Vua vì Ngài là Con Thiên Chúa, Đấng tạo thành vạn vật. Ngài là Vua vì đã chiến thắng tội lỗi và ma quỉ, nhờ sự chết và sự sống lại vinh quang. Nhưng Ngài tuyên bố rõ ràng: Nước Ngài không phải ở trần gian này. Vương quyền của Ngài không dựa trên vũ khí thế lực. Vương quyền của Ngài dựa trên tình yêu. Bao nhiêu vua chúa, bao nhiêu triều đại vang bóng một thời, rồi đi vào quên lãng và điêu tàn sụp đổ. Còn Ngài, Ngài vẫn chiến thắng, vẫn hiển trị trên các tâm hồn. Không ai đòi hỏi như Ngài dám đòi hỏi, nhưng cũng không ai được yêu mến như Ngài được yêu mến. Chúa là Vua các Thánh Đồng Trinh, là Vua các Thánh Tử Đạo, là Vua mọi tâm hồn.
Đấng là Vua vinh hiển ấy, tiên tri Danien đã nhìn thấy “như Con Người đến trong đám mây trời… quyền năng vĩnh cửu” (Dan 7,13), và Gioan, cụ già trên đảo Patmos đã được thị kiến: “Đấng là Alpha và Ômêga là nguyên thủy, là cùng tận, Đấng đang có, đã có và sẽ đến. Đấng là Thiên Chúa” (Kh 1,8). “Ngài làm cho chúng ta thành một vương quốc tư tế, để phụng sự Đức Chúa Cha, là Thiên Chúa và Cha của Ngài”.
Christus Vincit: Chúa Kitô toàn thắng.
Christus Regnat: Chúa Kitô cai quản.
Christus Imperat: Chúa Kitô thống trị muôn đời. Amen.
Mark Twain viết trong cuốn “The Prince and the pauper, Hoàng tử và người nghèo” về hai người con trai sinh ra tại Anh quốc. Người con trai thứ nhất thì được sinh ra trong hoàng gia và trở nên Hoàng Tử Wales. Sự chào đời của Hoàng Tử được diễn tả: “Anh quốc đã chờ đợi, hy vọng, và cầu nguyện cho ông ấy, và bây giờ thì ông ấy đã chào đời. Tất cả mọi người đều vui mừng… Mọi người giàu cũng như nghèo đều nghỉ lễ ca hát tưng bừng.”
Cùng ngày đó, một cậu bé trai khác tên là Tom Canty đã chào đời trong một gia đình nghèo túng và lụp xụp tại London: “Nó là một đứa bé mà không ai muốn.” Không một ai trông đợi sự ra đời của nó. Không một ai hy vọng hoặc cầu nguyện cho nó. Khi nó chào đời thì không ai ca hát hoặc mừng rỡ cho nó. Cả hai đều lớn lên trong hai hoàn cảnh khác nhau. Cả hai đều lớn lên với cái nhìn khác nhau về thế giới. Tuy nhiên, điều giống nhau giữa hai đứa bé đó là chúng đều lớn lên trong vui tươi, rạng rỡ, và hăng hái mà chúng ta có thể nhìn thấy ở nơi những đứa con trai khác.
Một ngày nọ, Tom Canty đứng ngoài cửa cung điện. Nó rất ngạc nhiên do sự huy hoàng của cung điện. Khi nó tiến đến gần cánh cửa để có thể nhìn cho rõ hơn thì bất chợt nó bị hai tên lính bắt nó và quăng xuống đất. Cùng một lúc đó, vị hoàng tử trong cung nhìn thấy thảm cảnh của Tom liền chạy đến bênh đỡ. Sau đó, các tên lính canh rất ngạc nhiên khi họ nhìn thấy hoàng tử đã mời Tom vào trong cung điện để thăm quan. Sau đó, hoàng tử nảy ra một ý kiến là tráo đổi cuộc sống của nhau. Hoàng tử thì mặc quần áo rách rưới của Tom, và đi thang lang qua các ngõ hẻm nghèo nàn với những người nghèo khổ. Còn Tom thì mang bộ đồ hoàng gia và vàng ròng. Sau một thời gian, khi hoàng tử trở về hoàng cung thì bị lính chận lại. Khi hoàng tử cố gắng kể về thân phận thật sự của mình họ không tin và đã tóm cổ hoàng tử giam trong nhà tù. Để rút ngắn câu truyện, khúc kết của câu truyện đó là mọi sự đều được sáng tỏ. Tuy nhiên, trong tiến trình đó, một điều quan trọng đã xảy ra. Sau cái lần đi vào những nơi nghèo khổ, hoàng tử đã học được bài học đầu tiên thế nào là sống nghèo khổ, thế nào là bị chà đạp, thế nào là bị đối xử bất công. Sau đó, hoàng tử đã được trở thành một ông vua. Một ông vua nhân từ và được nhiều người mến chuộng nhất trong suốt thời kỳ hoàng tộc nước Anh.
Câu truyện Hoàng Tử và Người Nghèo thì cũng giống như câu truyện về Chúa Giêsu và mỗi người chúng ta. Chúng ta những đứa trẻ nghèo khổ, còn Chúa Giêsu là hoàng tử, được tiền định là Vua của tất cả tạo vật. Chúa Giêsu đã thay đổi chỗ của mình với chúng ta. Ngài thay đổi quần áo hoàng tộc thiên tính của mình để đổi lấy những áo quần rách rưới của thân phận con người chúng ta. Giống như hoàng tử trong câu truyện của Mark Twain, Chúa Giêsu đã học được bài học thế nào là kiếp sống con người nghèo nàn và bị chà đạp.
Tuy nhiên, Chúa Giêsu khác với hoàng tử là Ngài đã chịu chết trong tay loài người, sống lại từ cõi chết, và trở nên Vua các vua trên khắp vũ trụ. Đây là một mầu nhiệm cao cả mà chúng ta mừng kính Lễ Chúa Kitô Vua hôm nay. Chúng ta mừng kính Chúa Giêsu, Vua của toàn thể vũ trụ, thông hiểu được hoàn cảnh của chúng ta bởi vì Ngài đã trở thành một người trong chúng ta và cảm nghiệm được những gì mà chúng ta cảm nghiệm.
Lạy Chúa, chúng con suy tôn Chúa là Vua Vũ Trụ, Vua gia đình chúng con, Vua lòng chúng con.
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
MỘT GIẢI PHÁP CHO NỀN HÒA BÌNH THẾ GIỚI
Vương quốc Fanxica là một đất nước thái bình, thịnh vượng. Nhà vua và hoàng hậu lại có diễm phúc sinh được hai hoàng tử khôi ngô tuấn tú, văn võ song toàn và có khí phách dũng cảm của bậc anh hùng. Hai vị hoàng tử nầy lại thương yêu hoà hợp với nhau, đêm ngày gắn bó với nhau như hình với bóng.
Trong khi đó, vua nước láng giềng tên là Faroux, là một người cực kỳ nham hiểm và ác độc, nuôi mối căm thù truyền kiếp với vua Fanxica. Lòng căm thù của ông lại càng dâng cao khi thấy vua Fanxica có hai hoàng tử khôi ngô tuấn tú, vũ dũng hơn người, trong khi mình thì không có lấy một mụn con. Vì thế, ông rắp tâm hạ sát hai vị hoàng tử kia cho bằng được.
Vua Faroux biết hai vị hoàng tử thường hay vào rừng săn bắn, nên vua cho người mai phục, giăng bẫy bắt được hoàng tử em là Faram. Sau khi hay tin em mình mất tích trong rừng, hoàng tử anh một mình một ngựa xông xáo vào rừng tìm em. Không ngờ chính anh cũng bị vua Faroux giăng bẫy bắt được. Tên vua độc ác giam hai anh em vào hai ngục tối biệt lập nên hai hoàng tử không hề hay biết gì về số phận của người kia.
***
Theo thông lệ hàng năm, vào dịp sinh nhật của vua, vua cho tổ chức những cuộc quyết đấu giữa những con ác thú, để chúng phanh thây xé xác nhau làm trò vui cho quan quân và dân chúng.
Năm nay, thay vì cho ác thú đấu nhau, nhà vua ác độc bắt hai tù nhân vạm vỡ khoẻ mạnh, mỗi người mang một bộ da sư tử trên mình, đeo thêm mặt nạ sư tử, và buộc họ phải quyết đấu cho đến khi một trong hai người phải chết. Ai sống sót sẽ được trả tự do. Cả đấu trường hò la vang dậy khi quân lính dẫn hai đấu thủ mặc lốt sư tử bước ra. Với thanh mã tấu trên tay, hai con người lốt sư tử xông vào nhau chiến đấu vô cùng ác liệt như hai ác thú say mồi. Đám đông cổ võ hò la vang trời dậy đất.
Cuộc chiến kéo dài hơn cả tiếng đồng hồ mà vẫn bất phân thắng bại. Cả hai đấu thủ mệt nhoài, mình mẩy hai người đều đầy thương tích máu me, nhưng không ai chịu nhường ai. Mỗi người đều dốc hết toàn lực để hạ đối thủ, để dành sự sống, để được trả tự do, để khỏi làm nô lệ suốt đời. Chỉ có chiến thắng hay là chết! Thế rồi đấu thủ cao người hơn lao tới như báo vồ mồi, vung đao chém xoạc mặt đối phương, làm rơi mặt nạ sư tử, để lộ ra một khuôn mặt… rất thân quen!
Anh kinh hoàng tột độ! Thanh mã tấu trên tay rơi xuống. Anh giật bỏ mặt nạ của mình ra. Hai người ồ lên kinh ngạc. Họ bàng hoàng nhận ra nhau. Không ai xa lạ, họ chính là hai anh em ruột thịt, hai hoàng tử con vua Fanxica bị vua Faroux bắt cóc. Họ lao vào nhau, ôm chầm lấy nhau khóc nức nở. Họ đâu ngờ rằng đối thủ mà họ quyết tâm tiêu diệt cho bằng được lại là người anh em rất thân yêu. Nước mắt tuôn tràn hoà chung với máu. Hai con người bầm dập, mình mẩy đầy máu me ôm nhau khóc tức tưởi. Khóc vì đã coi nhau như kẻ thù, đã đấu tranh với nhau như ác thú; khóc vì đã gây cho nhau bao vết thương đau. Họ vẫn đứng đó, ôm nhau khóc tức tưởi trước hàng ngàn cặp mắt bàng hoàng kinh ngạc của mọi người.
***
Hình ảnh hai anh em ruột thịt giao đấu với nhau một mất một còn trong câu chuyện trên đây là một minh hoạ cho tấn thảm kịch đau thương vẫn diễn ra hằng ngày giữa cộng đồng nhân loại. Ngay giờ đây, nhiều nơi trên thế giới cũng đang xảy ra những cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn y như thế. Chính ma quỷ thù nghịch với Thiên Chúa, cũng giống như ông vua Faroux độc ác kia, đã trùm lên con người lốt sư tử, lốt chó sói. “Người là chó sói của người – homo homini lupus”. Vì thế, con người không còn nhận ra nhau là anh em cùng loài; mà xem người khác như là kẻ thù cần tiêu diệt để dành lấy sự sống cho mình.
Đứng trước thảm cảnh đó, mọi cố gắng xây dựng hoà bình của con người, của các tổ chức quốc tế đều không thể dập tắt hận thù và chiến tranh. Khi hai bên đã say máu chiến tranh, nếu có người tước súng đạn của họ đi, thì đôi bên sẽ chiến đấu với nhau bằng dao rựa, mã tấu… Nếu tịch thu dao rựa, mã tấu, thì đôi bên sẽ dùng gậy gộc gạch đá để huỷ diệt nhau; Có tịch thu hết gậy gộc gạch đá thì đôi bên có thể tấn công nhau bằng nắm đấm, dùng răng để cắn xé nhau…
Vậy phải làm thế nào để chấm dứt chiến tranh, tái lập hoà bình cho nhân loại? Muốn làm cho đôi bên tự động ngưng chiến và làm hòa lại với nhau thì giải pháp tốt nhất không phải là tước bỏ khí giới mà là khai hoá cho đôi bên biết rằng: đối thủ của họ không là ai khác mà chính là người anh em ruột thịt con cùng một cha.
Chính Vua Giêsu đến thế gian để thực hiện điều đó. Ngài tuyên bố trước toà Philatô: “Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật”. Sự thật quan trọng nhất của Chúa Giêsu là soi sáng cho mọi người biết Thiên Chúa là Người Cha rất yêu thương và tất cả nhân loại là con cái của Ngài và là anh chị em ruột thịt với nhau. Với sự thật nầy, mặt nạ da thú đã bị tước bỏ đi, để lộ khuôn mặt rất thân thương của người anh em.
Mừng lễ Chúa Giêsu Vua, chúng ta hãy cầu xin cho mọi người trên khắp thế giới được đón nhận sự thật cao đẹp do Chúa Giêsu mang đến. Chỉ có sự thật tuyệt vời nầy mới có thể giải thoát nhân loại khỏi hận thù chiến tranh, khỏi cảnh huynh đệ tương tàn, nồi da xáo thịt. Chỉ có sự thật nầy mới là động cơ xây dựng thế giới trở thành một đại gia đình huynh đệ.
(Suy niệm của Lm. Đam. Nguyễn Ngọc Long)
Khi nói đến một vị vua chúa nào dù đã chết hay còn đang tại vị, chúng ta nghĩ ngay đến quyền lực, đến giầu sang, đền đài, nghi lễ sang trọng, đền đời sống vương giả… Chúng ta thường chỉ nghĩ đến như thế thôi. Vì đã được nghe qua, hoặc đọc trong sách báo hay xem truyền hình về đời sống của họ. Nào mấy người có được cơ hội trải qua cuộc sống thực sự trong cung điện vua chúa. Và đời sống của vua chúa thường đồng nghĩa với đời sống xa dân. Thần dân có bổn phận kính trọng và nghe lời họ. Họ có quyền hành gần như tuyệt đối cai trị người dân.
Hình ảnh này về vua chúa không những chỉ đúng cho ngày xưa – cách đây chừng trên dưới nữa thế kỷ thôi như Nhật Hoàng, Nga Hoàng, vua xứ Brunei, vua xứ Thái Lan, vua xứ Chùa Tháp Campuchia… – nhưng phần nào cũng còn đúng cho các vị vua chúa trong xã hội cộng hòa dân chủ ngày hôm nay.
Người công giáo tuyên xưng: Chúng tôi cũng có một Vua, nhưng Vua của chúng tôi là Vua-lòng-tin! Vậy Vua-lòng-tin của chúng ta thì thế nào? Chúng ta có thể biết được chút nào về đời sống Vua-lòng-tin không? Vua-lòng-tin của chúng ta sống gần con người hay cũng xa dân như các bậc vua chúa khác? Chúng ta hát ca ngợi Vua-lòng-tin như thế này: “Ôi Giêsu, Chúa Giêsu là Vua. Chúa muôn thuở là Chúa. Nhưng lòng Chúa không bến bờ, tự hiến thân nơi bàn thờ!”
Như thế danh xưng Vua-lòng-tin của chúng ta là Giêsu. Vương quốc lâu đài của Vua-lòng-tin là tâm hồn con người. Vương quốc này không có biên giới bờ cõi và cũng không bị giới hạn vào một thời điểm nào. Nó trải rộng khắp nơi vào mọi thời gian. Nơi nào có người tuyên xưng niềm tin vào ngài là Con Thiên Chúa, Đấng cứu độ trần gian khỏi vòng tội lỗi, nơi đó là vương quốc của ngài.
Còn cách thế cai trị của Vua-lòng-tin không dựa trên sức mạnh quyền lực, nhưng lấy tình yêu làm nền tảng. Chính vị vua này từng khẳng định: Thầy truyền cho chúng con giới luật mới, là các con thương yêu nhau (Gioan 13,34). Và ngày sau cùng khi mọi người ra trước Vua để trả lời về đời sống việc làm của mình, ông không căn cứ vào thành tích đã đạt được, nhưng căn cứ vào tình yêu mà phân xử: Khi các con cứu giúp một người bé nhỏ lâm cảnh khốn cùng, đói rách, chính là các con làm cho ta. (Mátthêu 25,31-46)
Vị Vua này tự nhận: “Ta là người mục đồng tốt lành” (Gioan 10,11). Lời xác quyết này muốn nói lên: “Tôi quan tâm đến đời sống tâm hồn con người. Nỗi băn khoăn lo âu đè nặng tâm hồn họ, là băn khoăn của tôi. Tôi muốn giúp họ thoát khỏi gánh nặng này.” Hình ảnh vị Vua mục đồng này nói lên lối sống của ông với thần dân: sống gần dân, cho dân và vì dân, như người mục đồng luôn đi sát đoàn vật chăm sóc chúng. Ngai vàng của Ông là thánh giá gỗ, nơi ngài bị đóng đinh xử tử. Vương miện của ngài là vòng gai người ta chụp lên đầu khi bị điệu ra pháp trường.
Vua-lòng-tin của người công giáo đã bị xử tử đóng đinh trên thập giá, bị chôn vùi sâu dưới lòng đất, nhưng ông đã được Thiên Chúa cho sống lại. Ông sống trong trong tâm hồn những người tin theo ông. Ông hiện diện nơi bàn thờ, khi những người tin theo Ông cử hành thánh lễ, cử hành các bí tích, khi họ họp nhau đọc kinh ca hát cầu nguyện nhân danh Ông. Vua-lòng-tin của người tín hữu công giáo là Vua tình yêu.
Thế nào là một ông vua?
Dưới chế độ quân chủ thì nhà vua là người nắm giữ mọi quyền hành trong một nước. Với quyền hành lớn lao như thế, nhà vua dễ trở thành độc tài, bắt thần dân phải cung phụng cho mình với nếp sống xa xỉ và phóng túng.
Ngày nay, mặc dù chế độ quân chủ đã cáo chung tại hầu hết các nước, thế nhưng người ta vẫn tiếp tục dùng danh từ vua để chỉ một người thành công vượt bực trong một phạm vi nào đó, chẳng hạn như vua bóng đá, vua dầu lửa, vua xe hơi, vua leo núi…
Những ông vua thần tượng này thường được quần chúng ngưỡng mộ vì tài năng, vì giàu có, nhưng lắm khi đời sống luân lý của họ lại khiến chúng ta phải vỡ mộng. Đành rằng trong lịch sử có những bậc minh quân, thương dân như thương con. Thế nhưng, có nên gọi Đức Kitô là vua khi nhân loại đã bước qua thiên niên kỷ thứ ba hay không? Lần kia, sau phép lạ bánh hóa nhiều, dân chúng định tôn Ngài lên làm vua, để Ngài phất cờ giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của đế quốc La mã, nhưng Ngài đã trốn lên núi một mình.
Còn đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, khi bị Philatô tra hỏi: – Vậy ông là vua ư? Đức Kitô đã không từ chối và cũng chẳng xác nhận. Ngài chỉ bảo: – Chính quan nói rằng tôi là vua. Thế nhưng rất nhiều lần Ngài đã đề cập đến nước Ngài. Nếu như chúng ta có gọi Ngài là vua, thì chắc chắn Ngài sẽ là một vị vua rất đặc biệt, không giống với bất kỳ vua chúa trần gian nào.
Thực vậy, sinh ra nơi máng cỏ Bêlem, hoạt động thì nay đây mai đó, không có lấy được một hòn đá tựa đầu và sau cùng chết đi trên thập giá. Và như thế Ngài là một vị vua không ngai vàng, không cung điện, không binh đội, không vương trượng. Quả thực Ngài là một vị vua không giống ai.
Nét đặc sắc của vương quyền nơi Ngài chính là tinh thần phục vụ: “Con Người đến để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người”. Nơi khác Ngài cũng xác quyết: “Thày sống giữa anh em như kẻ hầu bàn”. Ngài làm vua bằng cách cúi xuống để rửa chân cho các môn đệ. Và hành động phục vụ cao cả nhất chính là cái chết trên thập giá. Nhưng cũng chính nhờ cái chết này mà Ngài được tôn vinh: ”Ngày nào Thày bị treo lên khỏi đất, Thày sẽ kéo mọi sự lên cùng Thày”. Và thánh Phaolô đã xác quyết: “Ngài đã vâng phục cho đến chết và chết trên thập giá, nên Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài lên, tặng ban một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu”.
Với chúng ta thì sao? Một khi tuyên xưng Đức Kitô là vua, chúng ta cũng phải thực thi tinh thần phục vụ của Ngài. Đây cũng chính là điều Ngài mong muốn: “Nếu các con gọi Ta là Thày và là Chúa mà Ta còn rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau”. Nơi khác Ngài cũng xác quyết: “Vua chúa trần gian thì lấy quyền hành mà thống trị họ. Còn các con thì không như thế, ai trong các con muốn làm lớn, thì hãy trở nên rốt hết và làm tôi tớ cho mọi người”. Chính nhờ tinh thần phục vụ này mà chúng ta trở nên ánh sáng, trở nên muối mặn, trở nên men bột, hầu góp phần làm cho nước Chúa được trị đến.
(Suy niệm của Lm. Giuse Trần Việt Hùng)
Tiên tri Đaniel đã ngắm nhìn thị kiến về vương quốc vĩnh cửu. Vị Bô Lão ban cho Con Người quyền năng, vinh dự và vương quốc. Mọi dân tộc sẽ qui tụ về để phụng sự Ngài. Đây là thị kiến về ngày cánh chung. Không ai biết được ngày giờ kết cùng của thế giới. Khi chúng ta có mặt ở đời, mọi sự đã có đó và luôn chuyển động. Con người được thông dự sự sống với muôn loài và muôn vật. Con người là loài cao quí được Thiên Chúa ban cho có hồn có xác. Xác hồn kết hợp để hoàn thành sứ mệnh được trao ban.Chúng ta hiện hữu trên trần gian một khoảnh khắc thời gian rồi lại trở về cát bụi. Tuy cuộc đời của chúng ta ngắn ngủi phù du, thân xác sẽ tan biến nhưng linh hồn sẽ hiện hữu đến muôn đời. Mọi sinh hoạt trong cuộc lữ hành trần thế sẽ dẫn bước chúng ta về chung hưởng hạnh phúc bên Đấng quyền năng trong vương quốc của Ngài.
Sách Khải Huyền của thánh Gioan cũng diễn tả về hình ảnh của ngày cánh chung. Chúa Giêsu Kitô là thủ lãnh của các vua, Vua các vua và là Đấng yêu thương đã hiến mình rửa sạch tội lỗi của chúng ta. Ngài là trưởng tử những kẻ đã an giấc, đã sống lại và đang ngự bên hữu Thiên Chúa Cha: Ngài là Thiên Chúa, Đấng đang có, đã có và sẽ đến. Chúng ta đặt niềm tin vào những lời mạc khải của Con Thiên Chúa. Con người chúng ta bị giới hạn mọi mặt và tâm trí không hiểu thấu những sự cao siêu. Ngay trong vũ trụ vật chất hiện hữu chung quanh, con người cũng chỉ mới khám phá một chút ven bìa giới hạn của một số nhỏ hành tinh. Tâm trí và giác quan của con người đắm chìm thưởng ngắm vũ trụ bao la để nhận ra sự cao siêu vô lường của Tạo Hóa. Chúng ta chẳng biết đâu là bến bờ. Thánh Gioan đã diễn tả về sự vô thủy vô chung của vũ trụ qua Đấng Toàn Năng phán: Ta là Alpha và Ômêga, là nguyên thủy và cứu cánh (Kh 1, 8).
Kinh Thánh mạc khải giúp chúng ta hiểu được nguồn gốc của vũ trụ và sự sống. Với những suy tư tìm tòi của con người qua mọi thời đại, nhân loại vẫn còn lần mò trong đêm tối của vô minh. Những suy tư triết học, thần học và khoa học chỉ trả lời một cách rất khiêm tốn về sự hiện hữu của vũ trụ và muôn loài. Có nhiều giả thuyết tìm cách giải thích sự có mặt của vũ trụ theo thuyết Tiến hóa, Ngẫu nhiên hoặc Tự nhiên hình thành. Các khoa học không thể giải đáp một cách thỏa đáng cho những khao khát của tri thức con người muốn tìm hiểu về cội nguồn. Trí khôn của con người không vượt qua được biên giới của sự hiện hữu và chung cục. Kinh Thánh mạc khải cho chúng ta về nguồn gốc và cứu cánh của vũ trụ và con người. Đây là một chân lý cao siêu mà Chúa Giêsu đã làm chứng.
Đứng trước tòa án của Philatô, Chúa Giêsu đã phát biểu một cách công khai: Tôi sinh ra và đến trong thế gian nầy là chỉ để làm chứng cho Chân lý. Ai thuộc về Chân lý thì nghe tôi (Ga 18, 37). Lời của Chúa Giêsu là thần trí và là sự sống. Ngài đến thế gian để làm chứng cho chân lý. Chân lý là sự thật. Chúa Giêsu là đường, là sự thật và là sự sống. Sự thật nằm trong tâm thiện. Lời sự thật là không quanh co, giả dối, lừa lọc, dối trá hay gian manh. Đôi khi nói sự thật thì mất lòng nhưng chỉ có sự thật mới giải thoát chúng ta khỏi những ràng buộc bất công. Chúa Giêsu nói rằng ai thuộc về chân lý thì nghe lời Ngài dạy. Chúng ta đã nhận lãnh Bí tích Rửa Tội để trở nên chi thể của Nhiệm Thể Chúa Kitô. Chúng ta thuộc về Chúa, như thế chúng ta cũng thuộc về chân lý. Thuộc về chân lý thì phải suy nghĩ sự thật, phát biểu sự thật và hành động trong sự thật.
Chúa Giêsu nhìn sự thật trong tận đáy tâm hồn mỗi người. Con người thì thích phô trương và xuất hiện bên ngoài để kéo chú ý của người khác. Giống như các mặt hàng cần quảng cáo ra thị trường, các tiếp viên đã tô điểm bên ngoài, làm đẹp, chào hàng hấp dẫn để kéo lôi khách hàng. Cũng giống như các chính trị gia đã không ngại dùng mọi thủ đọan để hứa hẹn, tô bóng và khuyến dụ các cử tri dồn phiếu. Giữa sự xuất hiện bên ngoài và sự thật có một khoảng cách xa. Có những người rất khôn khéo trong lời nói và thuyết phục đã kéo lôi được nhiều thành viên. Sự dối trá ẩn nấp trong tất cả mọi khía cạnh của cuộc sống. Chúng ta cần sống trung thực qua ý tưởng, lời nói và việc làm: Nhưng hễ “có” thì phải nói “có”, “không” thì phải nói “không”. Thêm thắt điều gì là do ác quỷ (Mt 5, 37). Nhớ điều răn thứ 8 là chớ làm chứng dối.
Có một số cụm từ tiếng Anh mà người nói dối hay dùng: Never, khi bị ai bắt gặp đang nhìn một cái gì không tốt và bị chất vấn, người đó liền chối ngay là không bao giờ. That man/woman’, dùng chữ đó để diễn tả một sự xa cách với người đó. ‘I would never do something like that’ tôi không bao giờ làm những việc như thế. Yes, ma’ma, nếu một người nào không có lý do, tự dưng nói mama với bạn, hãy cẩn thận. By the way, người nói dối dùng chữ này để người khác chú ý hơn tới điều họ sẽ nói sau. ‘I know you think I’m lying, but…Tôi biết bạn nghĩ rằng tôi đang nói dối, nhưng…Why would I do that?’What kind of person do you think I am? Tự bào chữa bằng cách hỏi tại sao tôi làm thế? Bạn nghĩ tôi là loại người nào? Người nói dối quanh qua, quẩn lại cũng chỉ là tránh né vấn đề nói sự thật.
Mỗi người chúng ta đều có kinh nghiệm về cách đối xử trong thế thái nhân tình. Người đời nói: Một sự bất tín vạn sự không tin. Trong dụ ngôn những yến bạc rút ra cho chúng ta một bài học về sự tín trung và chân thật: Ông chủ nói với người ấy: “Khá lắm! hỡi đầy tớ tài giỏi và trung thành! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh (Mt 25, 23). Sự chân thành là một đức tính tốt cần tu luyện mỗi ngày. Người ta nói rằng khôn ba năm dại một giờ, đôi khi vì sự sa ngã bất trung dại dột trong chốc lát mà mất cả chì lẫn chài. Đặc biệt trong đời sống gia đình, vợ chồng cần trung tín và thành thật với nhau trong mối tương giao. Chúng ta biết rằng mọi việc làm dối trá trong bóng tối rồi cũng sẽ có ngày được phơi bày ra ánh sáng.
Mang danh là Kitô hữu, chúng ta là nhân chứng cho sự thật. Sự thật bắt nguồn từ Thiên Chúa. Ngôi Ba Thiên Chúa là Thần Chân Lý. Chúa Giêsu đã hứa cùng các môn đệ: Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em (Ga 14, 26). Sự thật thì rất đơn sơ, rõ ràng, trong sáng và có tính thuyết phục. Sự thật không cần đối chất. Ai ở trong Chúa thì yêu mến sự thật. Sự thật sẽ giải thoát chúng ta khỏi những phiền muộn và lo lắng. Sống sự thật là sống trong an lạc và hạnh phúc. Chúng ta có thể tìm kiếm chân lý qua cuộc đời và lời giảng dạy của Chúa Giêsu Kitô: Ai thuộc về Chân lý thì nghe tôi. Đáp lời hỏi của Philatô: Ông Philatô liền hỏi: “Vậy ông là vua sao? “ Đức Giêsu đáp: “Quan nói đúng: Tôi là Vua (Ga 18, 37). Chúa Giêsu chính là Vua vũ trụ, Vua muôn vua.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài ngự đến để khai mở tâm trí chúng con, để chúng con biết suy tưởng sự thật, loan truyền sự thật và sống sự thật. Xin cho chúng con tìm đến sự thật tuyệt đối nơi thập giá Chúa Kitô. Từ thánh giá Chúa, chúng con sẽ được múc tận nguồn ơn tha thứ và lòng thương xót.
Chúa Giêsu có phải là vua thật không? Ngài là vua theo nghĩa nào? Bài Tin Mừng trả lời cho chúng ta những câu hỏi đó trong phiên tòa Rôma xử án Chúa Giêsu. Người xét xử là tổng trấn Philatô, là ông quan của đế quốc Rôma đặt cai trị ở Do thái, vì lúc ấy dân Do thái đang ở dưới quyền đô hộ của người Rôma. Bị cáo là Chúa Giêsu, do người Do thái điệu Chúa đến đây để xin Philatô xét xử.
Philatô hỏi Chúa: “Ông có phải là vua dân Do thái không?”. Để trả lời, Chúa hỏi lại: “Ngài tự ý nói điều ấy hay những người khác đã nói với ngài về tôi?” Hỏi như vậy là Chúa muốn vạch trần thâm ý của Philatô. Nếu Philatô tự ý hỏi như vậy tức là Philatô muốn hỏi: “Anh có phải là tay lãnh tụ chính trị, dám chống lại chính quyền Rôma không?”. Đối với Philatô, là vua Do thái chỉ có nghĩa như vậy. Mà nếu như thế thì câu trả lời của Chúa là “không”. Ngài không phải là vua theo nghĩa đó. Còn nếu câu Philato hỏi là do các nhà lãnh đạo Do thái nhắc nhở cho, thì có nghĩa là Chúa Giêsu là vị cứu tinh của Do thái như Thiên Chúa đã hứa với dân tộc họ. Nếu như thế thì câu trả lời của Chúa là “có”. Ngài thực sự là vua. Nhưng không phải chỉ là vua của dân Do thái mà còn là vua của mọi người. Nói rõ hơn, Chúa Giêsu là vua tâm linh, là vua lòng mọi người, chứ không phải là vua theo nghĩa thông thường trần gian. Vì thế, vương quyền của Chúa có tính cách thiêng liêng chứ không có tính cách trần thế, không dùng phương tiện, sức mạnh, bạo lực của trần gian. Trái lại, phương tiện thực thi vương quyền của Chúa là nhập thể cứu chuộc và rao giảng sự thật. Chính chúa đã khẳng định với Philatô: “Tôi là vua, nước tôi không thuộc về thế gian này. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi”.
Như vậy, chúng ta có thể quả quyết: Chúa Giêsu là vua. Ngài là vua sự thật. Sự thật là gì? Chính Philatô đã hỏi Chúa Giêsu điều đó. Chúa không đáp lại bằng lời nói mà bằng chính việc Ngài đang thực hiện trước tổng trấn. Việc đó là thực hiện việc của tình yêu cứu độ. Ngài vô tội, nhưng vì yêu thương nhân loại, đã cam lòng chịu chết để đền tội cho nhân loại. Sự thật là như thế. Đó là tình yêu cứu độ. Đó là sự thật mà Chúa muốn làm chứng và muốn nói tới. Và giờ đây, nhìn chung quanh trong nhà thờ này: các ảnh tượng Chúa, chúng ta cũng thấy sự thật cứu độ là như vậy: Chúa Giêsu trên cây thánh giá, Chúa Giêsu trong phép Mình Thánh, Chúa Giêsu trong chặng đường thánh giá… Tất cả đều nói lên tình yêu cứu độ.
Tình yêu ấy đã được ban cho con người, chỉ cần con người đón nhận tình yêu ấy bằng một tâm hồn khiêm tốn, khao khát tình yêu cứu độ. Và bằng tâm hồn mở rộng ra, yêu thương bác ái đối với những người chung quanh. Sự thật cứu độ như vậy, nói thì đơn sơ dễ dàng, nhưng thực hiện thật là phức tạp và khó khăn, đòi hỏi nhiều cố gắng của chúng ta. Bởi vì cuộc sống tất bật, chật vật, đầu tắt mặt tối, đầy lo toan khốn khổ, dễ đẩy chúng ta vào thái độ ích kỷ, nhỏ nhen, thấp hèn. Chúng ta không dễ nhường nhịn nhau, hòa thuận với nhau, mà ngược lại, muốn lấn lướt người, muốn được phần hơn, muốn loại trừ nhau, nhiều khi dùng cả những thủ đoạn độc địa, thô bỉ nữa. Như vậy, chúng ta chưa sống sự thật cứu độ, chưa rao giảng sự thật cứu độ, chưa làm chứng cho sự thật cứu độ. Điều đó có đúng không?
Chúng ta tôn xưng Chúa Giêsu là vua, thì chúng ta là dân của Ngài. Chúng ta tôn xưng Chúa là vua sự thật, thì chúng ta là dân sự thật của Ngài, chúng ta phải làm sáng tỏ sự thật ấy. Cuộc sống chúng ta có rất nhiều dịp, nhiều lúc phải quyết định chấp nhận hay từ khước, nói có hay không dứt khoát: có thì nói có, không thì nói không. Một khi chúng ta trả lời “có” cho một người, tức là chúng ta trả lời “không” cho người khác. Khi chúng ta trả lời “có” cho Thiên Chúa, là chúng ta trả lời “không” cho ma quỉ cám dỗ. Không thể có trung lập giữa không và có, giữa Chúa và ma quỉ, giữa ánh sáng và bóng tối. Theo Chúa là phải có một quyết định, một lập trường, một triết lý sống thực hành thánh thiện, ngay thẳng, trung thực, chứ đừng ăn không nói có, lật lọng, dối trá, thay trắng đổi đen.
Nói rõ hơn, chúng ta phải tôn trọng sự thật: phải giữ thành thật trong lời nói, tư tưởng và việc làm. Không được làm chứng dối, thề gian, bỏ vạ, cáo gian, đổ tội cho người khác, vu khống người ta. Không được xét đoán vô căn cứ, kết tội khi chưa đủ bằng chứng, cả khi nói những lời gây thiệt hại danh dự của người khác… cũng đều lỗi phạm sự thật. Can đảm biện hộ cho sự thật khi cần đến và có sự thật buộc chúng ta phải giữ kín.
Chúng ta hãy nhớ: một người sống trung thực, chân thành, bác ái, yêu thương giữa một xã hội đầy dẫy những lừa lọc, gian dối, ích kỷ, ti tiện… có lẽ sẽ bị đánh giá là một người không giống ai, là một người lội ngược dòng nước cuốn. Nhưng chính việc lội ngược dòng, chính việc sống trung thực, yêu thương lại chính là thánh giá mà mỗi người cần phải vác hàng ngày. Chúng ta phải trở nên muối đất, trở nên ánh sáng thế gian bằng cuộc sống chứng nhân trung thực cho Chúa Giêsu Kitô.
(Suy niệm của Nguyễn Minh Triệu SJ.)
Hôm nay Giáo hội mừng kính Đức Giêsu là Vua vũ trụ. Đức Kitô quả thật là Vua Vũ Trụ vì Ngài chính là Thiên Chúa, Đấng đã sáng tạo nên vũ trụ xinh đẹp này. Tuy nhiên, không giống các vị vua ở trần gian, dùng sức mạnh và vũ lực để cai trị, trong vương quốc của Đức Giêsu không còn chỗ cho bạo lực, chiến tranh,… mà chỉ có chỗ cho tình yêu. Vì yêu thương nên Thiên Chúa mời gọi tất cả mọi người trở nên công dân của vương quốc này, và tình yêu cũng chính là căn tính của mọi công dân.
Trên thế giới của chúng ta đang sống, mọi người thường hay nói về giấc mơ Mỹ. Có rất nhiều người muốn trở thành công dân của đất nước nước giàu có này. Vì thế, chính phủ Mỹ rất hạn chế trong việc chấp nhận cho công dân một nước khác trở thành công dân Mỹ. Vương quốc của Giêsu thì khác, tất cả mọi người đều được mời gọi gia nhập vương quốc của Ngài. Lời mời gọi yêu thương được Thiên Chúa dành cho mỗi người và từng người, không phân biệt tuổi tác, địa vị, sang giàu. Mọi người được mời gọi để tự do gia nhập vương quốc này. Ai cũng được mời gọi gia nhập, nhưng ai cũng có quyền khước từ. Tự do của con người lớn đến nỗi thánh Âutinh đã nói: Khi Thiên Chúa tạo dựng nên con Ngài không cần hỏi ý kiến con, nhưng khi cứu chuộc con, Ngài cần sự hợp tác của con.
Vì là một vương quốc của tình yêu, nên Ngài không cần phải có một bộ luật cứng rắn hay một quân đội hùng mạnh để điều hành. Tất cả chỉ dựa trên tình yêu. Chính Đức Giêsu xuống trần gian để làm chứng cho tình yêu. Ngài rao giảng, thi ân và trao ban sự tha thứ. Ngài chạnh lòng thương trước những mãnh đời bất hạnh. Trái tim Ngài thổn thức trước những nghịch cảnh của con người. Đi đến đâu ngài thi ân giáng phúc tới đó.
Tình yêu của Ngài lên cực điểm trong những giây phút cuối đời, khi Ngài quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ, khi Ngài tha thứ cho kẻ phản bội mình, khi Ngài an ủi người môn đệ thân tín chối bỏ mình. Hơn hết, tình yêu đó vượt qua mọi giới hạn, vượt qua hận thù và sự dữ khi Ngài đã tha thứ cho kẻ giết mình. Thánh giá diễn tả tình yêu của Chúa Giêsu dành cho Chúa Cha và cho con người.
Vì Thiên Chúa là Tình Yêu và vương quốc Ngài là vương quốc tình yêu, nên Ngài cũng muốn tình yêu chính là căn tính của mọi công dân trong vương quốc của Ngài. Chúa Giêsu đã trở thành một mẫu gương sống động cho tất cả con dân của mình. Chính Ngài đã nhắn nhủ các môn đệ rằng “Anh em hãy yêu tha nhân như chính Thầy đã yêu anh em” (Ga 15,12). Mỗi người con dân của vương quốc Chúa Giêsu sẽ nhận được một thẻ căn cước khi sống điều răn duy nhất này. Vì “ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35). Vâng, tình yêu chính là căn tính của người môn đệ, của những ai xưng mình là Kitô hữu.
Mừng lễ Chúa Ki-tô là vua vũ trụ hôm nay, chúng ta nhận ra rằng trong thế giới ngày hôm nay vẫn còn rất nhiều người khước từ lời mời gọi yêu thương của Thiên Chúa, từ chối gia nhập vương quốc tình yêu của Ngài. Dưới sự ảnh hưởng và sự lan tràn của chủ nghĩa tục hoá và chủ nghĩa vô thần, con người ngày nay vẫn đang tự giam mình trong bóng tối sự chết và bịt tai trước lời mời gọi yêu thương của Chúa. Tuy nhiên, những nỗ lực của Giáo hội trong công cuộc Tân Phúc Âm Hoá cho ta thấy được phần nào sự kiên nhẫn và lòng thương xót Chúa vẫn luôn lớn hơn sự bất trung và dửng dưng của con người. Dù con người có bưng tai bịt mắt, nhưng Thiên Chúa vẫn luôn trung tín với lời mời gọi của mình. Lời Ngài vẫn luôn cất lên. Ngài vẫn luôn kiên nhẫn chờ đợi.
Mừng lễ Chúa Kitô là Vua hôm nay, chúng ta cũng được mời gọi để xét lại đời sống của mỗi người chúng ta. Chúng ta đã thực sự đặt Chúa là tâm điểm của cuộc đời mình chưa? Chúa có thực sự là vua của chúng ta trong mỗi lựa chọn của chúng ta trong đời sống thương ngày chưa? Chúng ta đã sống chiều kích tình yêu của vương quốc Đức Giêsu chưa? Chắc chắn rằng, chúng ta chưa sống trọn hảo chiều kích này, vì vẫn còn đó rất nhiều người không nhận ra lời chứng của chúng ta trong đời sống thường ngày của mình.
Lạy Chúa Giêsu
Tạ ơn Chúa vì đã đón nhận chúng con vào vương quốc của Ngài
Xin cho chúng con sống xứng đáng với tình yêu của Chúa ngang qua việc làm chứng cho Tình Yêu. Trong một thế giới đang bị tàn phá bởi chiến tranh và hận thù,
Xin cho chúng con biết quảng đại đại và tha thứ, trong một thế giới đầy chia rẽ,
Xin cho chúng con trở thành dấu chỉ của sự hiệp nhất trong một thế giới chạy theo tiền bạc
Xin cho chúng con dám làm chứng cho Tình Yêu.
Chúng ta hẳn đã nghĩ rằng chỉ có các dân tộc sơ khai và trong quá khứ xa xôi mới tôn thờ ngẫu tượng. Sự thật không phải như thế. Con người hiện đại cũng có các ngẫu tượng của họ. Và họ tôn thờ các ngẫu tượng ấy như thế nào. Tiền bạc là ngẫu tượng phổ biến nhất hôm nay. Nhưng cũng có những ngẫu tượng khác: tài sản, lạc thú, thành công, danh vọng, quyền lực… Sự tôn thờ thần tượng khá nhất là dẫn người ta đến một đời sống phù phiếm, còn tệ nhất là một đời sống mất phẩm cách, đê tiện. Nhưng tai hại to lớn nhất mà sự tôn thờ ngẫu tượng gây ra là nó làm cho người ta quên đi Thiên Chúa chân thật.
Người ta có thể lấy mình làm ngẫu tượng. Các lãnh tụ Cộng sản lấy chính mình làm ngẫu tượng. Một trong những đặc trưng của chủ nghĩa cộng sản là “tôn thờ lãnh tụ”. Các lãnh tụ đặt chính mình lên bệ thờ. Bạn quay về hướng nào, cũng thấy những hình ảnh, tranh tượng của họ (Chúng ta thấy điều này ở I-rắc với Sadam Hussein). Khi chủ nghĩa cộng sản sụp đổ nhiều bức tượng như thế đã bị giật sập và đập vỡ. Những quái vật ấy, những thần tượng ấy đồng nghĩa với sự đàn áp và khủng bố.
Trong lúc mà những bức tượng bị đổ nhào, tạp chí Time phát hành một bức ảnh nhỏ làm xúc động. Bức ảnh được chụp ở Ukraina, cho thấy một nhóm dân thường tụ họp cầu nguyện xung quanh một bàn thờ đơn sơ ở một nơi công cộng. Trên bàn thờ, người ta đặt một tượng bán thân của Đức Kitô. Bức ảnh này nói lên tất cả. Sau khi các thần tượng bị lật nhào, Đức Kitô được đặt vào đúng vị trí của Người. Thật tương phản biết bao giữa qui luật của Người và qui luật của những thần tượng. Các thần tượng chỉ huy; Đức Kitô mời gọi. Các thần tượng chỉ huy thông qua sợ hãi, Đức Kitô chỉ huy thông qua tình yêu. Các thần tượng đem đến áp bức và chết chóc; Đức Kitô đem đến tự do và sự sống. Không có gì đáng kinh ngạc khi chúng ta giữ lòng trung tín, trung kiên với Người, điều mà chúng ta không làm đối với một người khác hoặc một cơ chế trên trần gian.
Tin Mừng cho chúng ta thấy Đức Giêsu đứng đơn độc và không vũ khí trước Philatô. Làm tổng trấn một tỉnh thuộc Lamã, Philatô là một con người đầy quyền lực. Ông có hàng ngàn binh lính dưới quyền ông. Và kia là Đức Giêsu – không có lấy một người lính để bảo vệ. Tuy nhiên, Đức Giêsu là người cao cả hơn không ai sánh bằng. Và mặc dù Người có thể bị tổn thương. Người là Đấng duy nhất chỉ huy làm chủ.
Quyền lực chính trị là khả năng ép buộc những người khác làm theo ý muốn của người ta. Khả năng này chủ yếu là do một địa vị như vua hoặc tổng thống. Nó không ở người chiếm giữ địa vị ấy. Quyền lực chính trị không liên quan đến lòng tốt hoặc sự khôn ngoan. Nhiều người ngu ngốc và xấu xa đã thực hành quyền lực ấy.
Mặt khác, quyền bính tinh thần hoàn toàn thuộc về cá nhân và không liên quan đến khả năng ép buộc những người khác. Người có sức mạnh tinh thần cao cả có thể giàu sang và đôi khi chiếm những vị trí lãnh đạo, nhưng thông thường họ nghèo khó và không có quyền lực chính trị.
Chúng ta phải phân biệt giữa quyền bính và ảnh hưởng, và đàng khác là quyền lực và sự chỉ huy người khác. Một số người với quyền bính tinh thần cao cả nhưng hoàn toàn không có quyền lực và phần lớn người có ảnh hưởng không cần kiểm tra những người mà họ có ảnh hưởng. Đức Giêsu làm cho người ta cảm nhận sự hiện diện của Người một cách đơn giản bởi tính cách của Người. Có một quyền bính thầm lặng trong mọi việc Người nói và làm.
Đức Kitô là niềm tin hy vọng của loài người. Người cho chúng ta thấy Thiên Chúa là ai và làm cách nào để giữ Thiên Chúa ở trung tâm đời sống chúng ta. Thiên Chúa không phải là một khuôn mặt xa lạ và thờ ơ. Thiên Chúa là Cha của chúng ta ở trên trời, Đấng gần gũi với chúng ta, và chúng ta quan trọng và quí giá đối với Người.
Đức Kitô không đến để thiết lập một quyền tối thượng chính trị nhưng để làm chứng cho chân lý về quyền tối thượng của Thiên Chúa vĩnh cửu và trên toàn thể vũ trụ.
(Suy niệm của Lm. Vinc. Đỗ Minh Thăng)
Lịch sử nước Anh có kể rằng hồi ấy, nước Anh có một ông vua rất đạo đức tên là Canut III. Vì là vua của một cường quốc nên xung quanh vua thương có những quan nịnh thần xu nịnh, ton hót. Một hôm trong một buổi triều yết, các quan nịnh thần tâu rằng: “Thánh Thượng” là vua trên hết các vua, là chúa trên các chúa, có quyền trên mặt đất và trên biển cả.
Nghe vậy nhà vua muốn cho họ một bài học, nên vua liền mời tất cả đi ra ngoài biển. Đứng trước đại dương, vua tuyên bố: Ta là vua trên hết các vua, có quyền trên đất liền và trên biển cả. Vậy ta truyền cho sóng biển không được tới đây. Nhưng nhà vua nói xong, nước vẫn dâng lên, sóng vẫn ập tới làm ướt áo cẩm bào của vua cũng như triều thần. Sau đó, nhà vua đi vào trong một nhà thờ đến trước tượng Chúa Giêsu chịu nạn, nhà vua lấy chiếc vương miện của mình đội lên đầu Chúa Giêsu và nói: “Lạy Chúa, chỉ có Chúa là Vua trên hết các Vua, là Chúa trên hết các Chúa”.
Anh chị em thân mến,
Nhà vua trong câu chuyện trên đã khiêm tốn nhìn nhận thân phận hèn kém của mình và tôn vinh chỉ có Chúa mới là Vua trên hết các Vua, là Chúa trên hết các Chúa.
Hôm nay là Chúa nhật cuối cùng của năm phụng vụ, Giáo Hội mời gọi chúng ta tôn vinh Chúa là vua vũ trụ. Ngài là Đấng thống trị duy nhất toàn thể vũ trụ và thống trị đời chúng ta! Tôn vinh Chúa Kitô làm vua vũ trụ, có nghĩa là chúng ta tôn kính, tin nhận và để cho Chúa làm chủ trên cuộc đời chúng ta, trên trọn cả cuộc sống của chúng ta và trên cả vũ trụ này, đồng thời quyết tâm sống xứng đáng là công dân trong Nước của Ngài.
Tuy nhiên, trong thực tế chúng ta có để cho Chúa làm chủ cuộc đời chúng ta hay không? Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta thường tôn phong nhiều vị vua: Nào là “vua thuốc lá”, “vua bia rượu”, “vua cờ bạc”, “vua tiền bạc”, “vua lạc thú” v.v… nhiều khi chúng ta đặt các vua này trên cả vua Giêsu. Chúng ta thường dễ dàng quỳ gối, cúi đầu trước sức mạnh của các thứ vua vật chất này mà bỏ qua giới răn lề luật của Vua Giêsu.
Năm phụng vụ chấm dứt với Chúa nhật hôm nay. Đây là dịp để chúng ta suy nghĩ về ý nghĩa cuộc đời mình. Chúng ta là con dân Nước Chúa, vậy thì chúng ta có tin nhận và để cho Chúa làm vua và làm chủ cuộc đời của chúng ta không?
Chúng ta có nỗ lực sống theo luật yêu thương của Vương Quốc Tình yêu bằng cách bác ái, sống chan hòa tình Chúa và chan chứa tình người không?
Lạy Chúa Giêsu là Vua vũ trụ và là vua cõi lòng chúng con, xin Chúa mãi ngự trị trong vũ trụ này, thế giới này và trong cõi lòng mỗi người chúng con để thống trị, hướng dẫn và làm chủ chúng con. Xin giúp chúng con sống xứng đáng là con dân nước Chúa. Amen.
Trong mọi danh hiệu mà chúng ta tuyên xưng Đức Giêsu thì danh hiệu “Vua” xem ra không thích hợp nhất. Nó có vẻ như một loại danh hiệu mà Người bác bỏ. Khi chúng ta nghĩ đến một ông vua, chúng ta nghĩ ngay đến một ngai vàng, một vương miện, một cung điện, sự giàu sang, quyền lực, vinh dự, một đoàn tùy tùng các tôi tớ, và dĩ nhiên một quân đội.
Khi chúng ta nhìn vào Đức Giêsu, chúng ta thấy gì? Không có ngai vàng, vương miện, cung điện, quân đội. Chúng ta thấy Người đi bộ trên những con đường bụi bặm xứ Palestien với một nhóm môn đệ. Chen chúc xung quanh Người là những người nghèo và người bệnh, những người tội lỗi và những người bị gạt ra bên lề. Tóm lại, đó là những loại người mà ở trong vương quốc trần gian phải đứng ngoài hoàng cung để ngó vào, còn hoàng cung thì khép lại trước mắt họ.
Tuy vậy, danh hiệu “Vua” vẫn thích hợp và có một ý nghĩa đúng đắn và chân thật với Đức Giêsu. Trên hết, nó có nghĩa là thần tính của Người. Thiên Chúa là Chúa của mọi loài, Vua của vũ trụ, Đấng mà mọi loài phải giữ lòng trung tín, Đấng cai quản và phán xét mọi sự.
Nhưng ngay cả trên bình diện con người, danh hiệu ấy cũng có ý nghĩa. Người là suối nguồn cao cả nhất của điều thiện hảo, là ánh sáng và hy vọng trong một thế giới tối tăm. Đức Giêsu có một quyền bính đạo đức và tinh thần vô tận bởi bản chất cao cả của Người. Sự hiện diện của Người có thể thay đổi những người ở xung quanh Người vượt qua sự nhận biết của họ. Thái độ của Người đối với những tội nhân là lòng nhân hậu và sự thuyết phục hơn là lên án. Có những vĩ nhân làm mọi người cảm thấy họ nhỏ bé. Nhưng một vĩ nhân thật sự làm cho mọi người cảm thấy họ cao cả. Trong ý nghĩa đó, Đức Giêsu quả thật là Vua.
Một mặt chúng ta phải phân biệt giữa quyền bính và ảnh hưởng, với quyền lực và sự chỉ huy ở mặt kia. Có người có quyền bính tinh thần lớn nhất lại hoàn toàn không có quyền lực, và người có ảnh hưởng lớn nhất thì không cần phải chỉ huy những người chịu ảnh hưởng của họ. Điều này đúng với Đức Giêsu. Philatô có quyền lực trên dân; Đức Giêsu có ảnh hưởng trên dân. Đức Giêsu làm cho người ta cảm thấy sự hiện diện của Người một cách đơn sơ bởi tính cách của Người. Người có một quyền bính thầm lặng trong mọi việc Người nói và làm.
Và Người đã nói về một Nước Trời – một Vương quốc trên thiên đàng. Vương quốc của Người thể hiện mọi điều mà thế gian này không thay thế được nhưng ngày một mờ nhạt. Đó là tất cả những gì đúng và chân thật, đẹp đẽ, công bằng và thiện hảo. Vương quốc Người sẽ đến khi ý định của Thiên Chúa đối với chúng ta và mọi tạo vật được thành tựu.
Mặc dù Vua Kitô không cần hoặc không muốn có binh lính và xe tăng, Người lại cần có những chiến sĩ – những người sẵn sàng “chiến đấu” cho công lý, sự thật, hòa bình. Có một cuộc chiến đã tiến hành giữa vua bóng tối với vua ánh sáng, vua dối trá với vua chân thật, vua xấu xa với vua nhân lành. Chúng ta ở về phía nào?
Chính trong Chúa nhật sau cùng của năm phụng vụ, chúng ta tự nhiên nghĩ về sự phán xét – Sự phán xét sau cùng và sự phán xét mỗi người chúng ta sau cái chết. Tin Mừng hôm nay làm chúng ta hết sức ngạc nhiên, bởi vì ở đây người bị xét xử là chính Đức Giêsu, Đấng mà chúng ta gọi là Vua của chúng ta.
Đôi khi trong một phiên tòa, xảy ra trường hợp bị cáo là chính quan tòa. Quả thật, đôi khi chính khái niệm công lý bị xét xử.
Hãy lấy trường hợp của Louise Woodward, một người Anh 19 tuổi mà ban bồi thẩm ở Massachusetts tin rằng năm 1998 cô đã giết chết một em bé tám tháng tuổi, Matthen Eappen được giao cho cô chăm sóc. Nhưng nhiều người theo dõi vụ án đã tin rằng công lý đã mắc sai lầm. Người ta cho rằng cô đã giết em bé vì lầm thuốc. Nhưng đây chỉ là sự nghi ngờ hợp lý và ban bồi thẩm khó có thể tìm ra bằng chứng giết người – Đoàn luật sư được kêu gọi chống lại bản án cho cô.
Lúc đầu vụ án, Louise là một bị cáo. Nhưng giờ đây mọi tập trung đều hướng về quan tòa Hiller Zobel, ông đã xem lại bản án. Trong lúc chờ đợi quyết định của ông, nhiều câu hỏi được đặt ra về tính cách của ông. Người ta nói rằng ông là người có tư tưởng độc lập. Một người không bị dư luận làm dao động hoặc nhượng bộ một áp lực. Bản án ông đang đi đến sẽ cho biết những nhận xét ấy về ông có đúng hay không. Giờ đây, chính quan tòa Zobel đang được xét xử.
Sau khi cân nhắc cẩn thận Zobel thay đổi bản án của ban bồi thẩm là giết người mức độ hai thành tội ngộ sát. Vâng một em bé đã chết và Louise đã bị khiển trách về cái chết ấy. Nhưng cô không phải là kẻ sát nhân. Và khi cô đã phục vụ mười bảy tháng trong nhà tù. Cô được trả tự do. Trong con mắt của những quan sát viên trung lập, bản án của ông là đúng đắn. Từ vụ đó, danh tiếng của quan tòa Zobel được nâng cao. Ông đã chứng tỏ là một người quan tâm đến công lý với tất cả sự nhiệt thành.
Hình ảnh của cảnh tượng trong Tin Mừng hôm nay. Đơn độc và không vũ khí, Đức Giêsu đứng trước Philatô trong vụ xử liên quan đến mạng sống của Người. Người đã bị những người Do thái kết án gây ra xáo trộn trong dân, và nói với họ đóng thuế cho xê-da là sai lầm.
Tuy nhiên, Philatô đã sớm thấy rằng Đức Giêsu vô tội. Ông còn tuyên bố. Người vô tội trước nhà lãnh đạo tôn giáo. Nhưng các nhà lãnh đạo tôn giáo bắt đầu gây áp lực chính trị trên ông. Họ đe dọa sẽ báo cáo lên Rôma việc ông trả tự do cho một người mà họ xác nhận là kẻ thù của xa-dê.
Giờ đây sự chú ý chuyển từ Đức Giêsu qua Philatô. Giờ đây Philatô là người bị xét xử. Ông có thấy rằng công lý phải được thực hiện không? Đức Giêsu làm cho điều đó trở nên dễ dàng đối với ông bằng cách bảo đảm rằng Vương quốc của Người không đe dọa Xê-da. Philatô đã đấu tranh với điều đó. Nhưng rồi ông bắt đầu thỏa hiệp. Ông cố làm nguôi những kẻ kết án Đức Giêsu. Trước hết bằng cách cho đánh Đức Giêsu bằng roi và rồi cho thả Baraba. Khi điều này không làm họ thỏa mãn, ông nhượng bộ áp lực và trao Đức Giêsu cho họ.
Philatô biết điều ông đã làm. Ông sai đem nước để rửa tay với hy vọng vô ích được tẩy sạch khỏi những vết nhơ vì máu vô tội. Sau cùng ông là người bị lên án. Chỉ cần một cái búng tay, ông có thể trả tự do cho Đức Giêsu. Tuy nhiên vì sợ cho địa vị của mình, ông đã để cho một người vô tội nhất bước đi trên mặt đất này để đến cái chết. Sự hèn nhát của Philatô tương phản với sự can đảm thinh lặng của Đức Giêsu.
Ngày nay các nhà lãnh đạo chính trị thường bị những áp lực tương tự. Các nhóm áp lực chi phối họ, đe dọa sẽ bãi nhiệm họ nếu họ không theo đường lối của các nhóm đó. Cũng có lúc, tất cả chúng ta sẽ bị áp lực. Tất cả chúng ta thấy mình bị xét xử. Bởi cách chúng ta sống, đặc biệt bởi thái độ của chúng ta đối với sự thật và công lý, chúng ta tuyên bố mình đứng về phía Đức Kitô và vương quốc của Người, hoặc chúng ta giống như Philatô, đi theo con đường trốn tránh và hèn nhát. Không thể có thái độ trung lập.
Ai xét xử Philatô? Ông là người xét xử chính mình. Chúng ta cũng xét xử chính mình. Đừng chờ đến ngày phán xét cuối cùng. Phán xét xảy ra ngay bây giờ. Nó diễn ra mỗi ngày, trong những điều nhỏ. Trước khi kết thúc, người ta đã phán xét mình. Bằng trăm, ngàn cách họ đã chọn theo hoặc chống chính mình hay anh chị em của mình, theo hoặc chống sự thật. Sự phán xét của Thiên Chúa sẽ không hoàn thành một điều gì mới. Nó sẽ đưa ra hầu như những việc đã làm.
Tuy nhiên chúng ta đừng bao giờ quên rằng tình yêu và lòng thương xót của Chúa Cha ở trung tâm Vương quốc. Đức Giêsu không nói để chúng ta sợ hãi ngày cuối cùng đó, mà chỉ để chúng ta sẵn sàng cho ngày đó. Vui biết bao khi thuộc về Đức Kitô và vương quốc của Người. Hãy để đời sống chúng ta được thần khí Người cai trị và bằng những phương thế nhỏ bé hãy làm việc để mở rộng nước của Người – một vương quốc của chân lý và sự sống, sự thánh thiện và ân sủng, công lý, tình yêu và hòa bình.
(Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường)
Danh thánh Kitô Vua mang nhiều ý nghĩa quan trọng cho người tín hữu. Đức Kitô là Thiên Chúa, là Đấng Tạo dựng vũ trụ và có quyền trên hết mọi loài thụ tạo. Tất cả được Ngài tạo dựng và do Ngài mà thành như lời xưng thú trong phần mở đầu của phúc âm Thánh Gioan. Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa và Ngôi Lời là Thiên Chúa… nhờ Ngôi Lời mà vạn vật được tạo thành… Điều đã được tạo thành ở nơi Người là sự sống và sự sống là ánh sáng cho nhân loại.
Ý nghĩa thứ hai danh Thánh Kitô vua nói về ơn cứu độ Ngài ban cho nhân loại. Ngài cứu chuộc nhân loại bằng chính máu mình đổ ra trên thập giá và những ai tin vào Ngài sẽ trở thành kẻ thừa tự trong nước Ngài. Chính Thầy là sự sống và là sự sống. Ai tin vào Thầy thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết. Jn 11, 25-26. Danh thánh cũng nói lên vương quyền lãnh đạo trong nước Chúa. Ngài là đầu Giáo Hội và mỗi chúng ta là phần tử trong thân thể Vua Kitô.
Đức Kitô là đầu của Hội Thánh, chính Người là Đấng cứu chuộc Hội Thánh, thân thể của Người Eph 5,23… Người thánh hoá và thanh tẩy Hội Thánh bằng nước và lời hằng sống. Người ta có thể bắt chước cách tổ chức, phương pháp điều hành của một quốc gia nhưng dường như người ta không thể bắt chước tình thương, phong cách và ơn khôn ngoan của người lãnh đạo. Con dân trong nước hưởng thái bình, thịnh trị hay suy thoái vất vả lầm than đều do tình thương vua nước đó ban cho. Chính tình thương và ơn khôn ngoan, chứ không phải cách tổ chức, làm cho quốc gia hưng thịnh, thái bình. Vua Kitô cai trị vương quốc Ngài bằng giầu tình thương và hay tha thứ. Tình thương Ngài không phải chỉ dành riêng cho con dân trong nước mà lan toả cho các vua chúa trần gian khác. Vua Kitô ban tình thương của Ngài cho tất cả những ai thành tâm đón nhận. Vương quốc Ngài không có ranh giới trên mặt địa cầu, không bị giới hạn về thời gian và không chịu ảnh hưởng hay lệ thuộc về tình trạng khủng hoảng kinh tế thế giới vì vương quốc Ngài không đặt căn bản trên vật chất trần thế. vương quốc Ngài đặt căn bản trên tình thương và lòng mến. Chính Vua Kitô xác định điều này khi quan tổng trấn Philatô chất vấn Ngài trong phiên xử:
Nước Tôi không thuộc thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do Thái. Nhưng thật ra nước tôi không thuộc chốn này. Gn 18,36
Vương quốc Kitô không ảnh hưởng hay lệ thuộc vào xã hội vật chất nên vương quốc đó tồn tại vĩnh cửu, muôn đời tồn tại. Điều này không phải ngày nay người ta mới nhận biết là tự ngàn xưa các tổ phụ đã nhận biết điều này khi các ngài ghi lại trong thánh vịnh là những lời ca chúc tụng Thiên Chúa. Các ngài nhận ra vì những gì không thể hư tất thì tất nhiên tồn tại. Căn bản vương quốc Kitô là tình thương, lòng mến mà tình thương lòng mến không bao giờ hư nát nên vương quốc đó tất nhiên là vĩnh cửu.
Hàng năm Giáo Hội mừng kính lễ Kitô vua Ngài đáng lãnh nhận mọi chúc tụng, vinh quanh, danh dự dành cho Vua vũ trụ. Dù Ngài là vua vũ trụ nhưng Ngài không hề bỏ sót, quên sót ai bao giờ vì Ngài quan tâm đến từng người trong chúng ta, chăm sóc lo lắng cho từng người trong chúng ta và tên ta được khắc trong lòng bàn tay Người. Tình thương Người dành cho vô bờ bến, vượt khỏi trí tưởng của ta. Tình thương đó trải dài trên thập tự.
(Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường)
Philatô ngồi toà xử và các câu hỏi của ông xoay quanh vấn đề Đức Kitô tự nhận mình là vua hay do đám đông ca tụng Ngài là vua. Sau khi biết rõ Đức Kitô không có í định làm hại đến ngai vàng của ông cũng không chủ trương lật đổ chính phủ bảo hộ Roma do Caesar lãnh đạo, Philatô tuyên bố Đức Kitô vô tội và tha Ngài. Thầy cả thượng phẩm Do Thái không hài lòng về quyết định của Philatô nên họ gây áp lực buộc Philatô kết án người vô tội và bản án đó phải là bản án tử hình. Philatô miễn cưỡng trước áp lực đó nên ông rửa tay tuyên bố vô tội trong việc đổ máu người vô tội.
Vua quan trần thế coi vương quyền là quyền ăn trên, ngồi cao. Hoàng tộc được ăn, được nói, đứng trên luật lệ vì luật lệ phải phục vụ họ. Hoàng gia ưu tiên hưởng mọi quyền lợi và thần dân có nhiệm vụ hầu hạ, phục tùng hoàng gia. Mọi con dân đều có trách nhiệm tôi tớ cho hoàng gia và coi đó là đặc ân riêng cho hoàng gia. Vua quan trần thế đều mong được như thế. Đức Kitô đưa ra cách nhìn mới về vương quyền. Cách nhìn mới của Ngài, mọi vua quan trần thế lớn nhỏ đều cố tránh. Theo Đức Kitô vương quyền chính đáng là đến để phục vụ. Quan trọng hơn vương quyền không phải chỉ phục vụ mà còn đi chung với hiến dâng mạng sống mình vì mọi người. Đây chính là điều thánh Gioan Tẩy Giả tiên tri khi thánh nhân nói về Đức Kitô:
Đây Chiên Thiên Chúa, Đấng đến xoá tội trần gian Jn 1,28.
Chính Đức Kitô sau này khi nói về vương quyền của Ngài cũng nói thập giá là dấu chỉ của đoàn kết:
Khi Ta bị treo lên, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta 12:32.
Không phải sức mạnh của gươm giáo hay vũ khí tân kì mà chính là sức mạnh tình yêu thập giá nối kết con người. Đức Kitô coi sóc nhân loại bằng tình yêu, ban cho họ an bình nội tâm và hướng dẫn họ sống trong sự thật. Điều Đức Kitô trao ban thế gian không thể có để ban tặng
Thầy để lại bình anh cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy Jn 14,27
Khi trả lời Philatô:
Vậy Ông là vua sao c.37? Đức Kitô đáp: Chính Ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đến thế gian với mục đích này: Làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi c.38
Xác nhận trước mặt Philatô, Đức Kitô tuyên bố Ngài là vua sự thật. Những kẻ tin theo Ngài phải sống trong sự thật, làm chứng cho sự thật. Sự thật là Đức Kitô, Con Một Thiên Chúa, xuống thế gian công bố tình yêu Chúa Cha ban cho nhân loại và ai tin vào Ngài sẽ nhận được ơn cứu rỗi. Trong vương quốc của Ngài con người đối xử với nhau bằng tình yêu, chân lí và sự thật. Công lí được coi trọng bởi công lí đó nhằm mục đích bảo vệ mạng sống con người từ lúc thụ thai cho đến khi sống lại về cùng Thiên Chúa. Mọi người đều mang hình ảnh Chúa và là anh chị em với nhau. Để có thể sống trong tình yêu, chân lí và sự thật người đó phải được tái sinh trong nước Thanh Tẩy và chịu sự hướng dẫn của Thánh Thần Jn 3,3-7.
Nước Thiên Chúa bắt đầu khi Đức Kitô đội triều thiên mạo gai và treo trên thập tự phía trên đầu cho viết chữ ‘Vua Dân Do Thái’. Các Thầy Cả Thượng Phẩm Do Thái cực lực phản đối nhưng Philatô cương quyết giữ điều ông phán quyết.
Đức Kitô là Vua vũ trụ bởi một mình Ngài đã chiến thắng tội lỗi, ma quỷ và thần chết, chính chúng đại diện cho nước của bóng tối.
(Suy niệm của Lm. Eugene Hensell, OSB.)
Hiểu ý nghĩa vương quyền qua bài Tin mừng Gioan của Lễ Chúa Kitô Vua.
Giáo hội đánh dấu việc kết thúc năm phụng vụ bằng việc cử hành lễ trọng Chúa Kitô Vua. Lễ này tương đối mới so với những ngày lễ khác trong năm phụng vụ. Đức Giáo hoàng Piô XI thiết lập vào năm 1925 bằng Thông điệp Quas Primas.
Thông điệp này là lời đáp trả cho chủ nghĩa dân tộc và thế tục đang phát triển khắp châu Âu và những nơi khác trên thế giới. Người ta lo sợ và tuyệt vọng. Họ bám lấy bất cứ ai cho họ hy vọng hay bất kỳ hướng đi nào thoát khỏi cảnh hỗn loạn này. Họ hướng về những nhà độc tài đang lên, là những người sau cùng được biết đến như Mussolini, Hitler và Stalin.
Giáo hội và giáo huấn luân lý đã bị xem là lỗi thời và không còn phù hợp với thế giới hiện đại. Vì vậy, việc thiết lập lễ Chúa Kitô Vua nhằm tuyên bố rằng Đức Giêsu Kitô chính là vị vua tối cao duy nhất. Chúa Kitô là vua và là thủ lãnh tinh thần của chúng ta, Đấng thống trị bằng sự thật và tình yêu.
Trong chính thời đại chúng ta, chủ nghĩa dân tộc và thế tục dường như đang gia tăng nhiều nơi khắp thế giới. Những mâu thuẫn nội bộ khiến Giáo hội rất khó hướng dẫn và tạo niềm hy vọng. Bằng nhiều cách, Giáo hội dường như dùng những phương pháp giống như những người xem tôn giáo đã lỗi thời và tôn giáo cũng chỉ là một công cụ chính trị khác để thực thi quyền bính và sự thống trị trên kẻ khác.
Trong hoàn cảnh như vậy, có lẽ điều cuối cùng chúng ta cần làm là qui chiếu về Đức Giêsu Kitô là vua. Chẳng phải điều đó sẽ không chỉ xác nhận Giáo hội xa cách thế nào với thế giới hiện đại hay sao? Có lẽ chúng ta cần tìm hiểu vấn đề này cẩn thận hơn trước khi đưa ra đánh giá tiêu cực về sự kiện Đức Giêsu Kitô là Vua.
Tất cả chúng ta đều có cách hiểu riêng về ý nghĩa đại diện cho hai hạn từ vương quyền và hoàng gia. Hai khái niệm này tương hợp với các chế độ quân chủ thời Trung cổ và còn tồn tại cho đến ngày nay như những hình thức lãnh đạo không có thực quyền ở một vài quốc gia. Đó không phải là hình thức điều hành đất nước mà hầu hết các quốc gia ngày nay mong muốn quay lại. Điều thú vị là chính Đức Giêsu cũng không say mê các vua chúa và hoàng tộc trong suốt cuộc đời và sứ vụ của mình.
Hãy nhớ lại Tin mừng Gioan, ngay sau khi Đức Giêsu cho hơn năm ngàn người ăn từ năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá: “Đức Giêsu biết họ sắp đến bắt mình mà tôn làm vua, nên Ngài lại lánh mặt, đi lên núi một mình” (Ga 6,15). Đức Giêsu và những người khiến Ngài phải lánh đi có cách hiểu khác nhau về việc làm vua.
Bài Tin mừng Gioan lễ Chúa Kiô Vua
Bài Tin mừng cho lễ trọng Chúa Kitô Vua năm nay là Ga 18,33–37. Tập chú kĩ vào bối cảnh đoạn văn này, chúng ta sẽ thấy Đức Giêsu vừa bị một toán lính cùng thuộc hạ của các thượng tế và nhóm Pharisêu bắt giữ. Ngài sắp trải qua một cuộc tra hỏi của quan Phongxiô Philatô. Vì thế, sau khi bị điệu đến trước thượng tế Caipha, Đức Giêsu bị dẫn tới dinh tổng trấn. Dinh này là nơi ở của quan Philatô nên các nhà lãnh đạo Do Thái sẽ không vào vì sợ bị nhiễm uế và không thể ăn Lễ Vượt Qua.
Sự thanh sạch theo nghi thức quan trọng hơn mạng sống của một con người vô tội. Lý do Đức Giêu được dẫn đến quan Philatô vì người Do Thái không có quyền kết án tử hình. Vì vậy, giới chức Do Thái muốn Philatô làm việc này cho họ. Tuy nhiên, Philatô chẳng hứng thú gì khi dây vào cuộc tranh cãi mà ông xem là thuộc nội bộ tôn giáo. Do đó, ông muốn biết Đức Giêsu bị kết tội gì và tại sao các nhà lãnh đạo Do Thái không tự mình xử lý. Philatô muốn tránh xa toàn bộ vụ này.
Philatô không có thành tích tốt về việc xử lý hiệu quả những xung đột như thế. Ông biết Rôma đang để mắt kỹ đến ông. Do đó, ông hỏi trực tiếp Đức Giêsu: “Ông có phải là Vua dân Do Thái không?” Đức Giêsu từ chối trả lời trực tiếp Philatô, thay vào đó, Ngài hướng câu hỏi về phía Philatô: “Ngài tự ý nói điều này hay những người khác đã nói với ngài về tôi?”
Những diễn biến vừa xảy ra thật quan trọng cần lưu ý. Đức Giêsu đã rất khôn ngoan khi lật ngược tình thế và bây giờ Ngài đang hỏi lại Philatô. Sự đảo ngược này sẽ tiếp tục suốt toàn bộ trình thuật. Bây giờ, Philatô và giới chức Do Thái bị xét xử, còn Đức Giêsu lại là người chất vấn. Đây là nét độc đáo trong trình thuật cuộc Khổ nạn theo thánh Gioan.
Vương quốc Nước Trời
Cuối cùng Đức Giêsu cũng trả lời Philatô, thay vì nói mình là vua, Ngài nói về vương quốc Nước Trời, vốn không thuộc về thế gian này. Nước ấy không nhận quyền bính từ thế gian hay những giá trị mà Philatô và các nhà lãnh đạo Do Thái trình bày.
Nước Trời là nơi Thiên Chúa ngự trị. Đó là cộng đoàn những người thuộc về Thiên Chúa và sự thật, họ đáp trả tiếng Đức Giêsu, nhờ đó sẵn sàng nhìn thấy và tiến vào Vương quốc đó. Tuy nhiên, cả Philatô và các nhà lãnh đạo Do Thái đều không công nhận địa vị vua dân Do Thái của Đức Giêsu.
Chắc chắn, Philatô và giới chức Do Thái lo sợ rằng Đức Giêsu thực sự đang tranh giành vương quyền thế gian. Tuy nhiên, trong suốt sứ vụ công khai của mình, Đức Giêsu không bao giờ hăng hái với quan niệm đấng Mêsia có xen lẫn với những hy vọng của con người và những khát vọng trần thế. Bất cứ ai nhận mình là một vị vua như vậy sẽ tự đặt mình vào thế đối nghịch với chính quyền Rôma. Đức Giêsu luôn cho thấy Ngài không chút quan tâm về điều này.
Philatô làm mọi cách để Đức Giêsu nhận mình là vua. Vì Đức Giêsu đã nói một cách công khai về vương quốc, nên Philatô hỏi thêm: “Vậy ông là vua sao?” Đức Giêsu nhanh chóng bác bỏ kết luận này của Philatô và chuyển cuộc đối thoại sang vấn đề quan trọng là sứ mạng của Ngài. Đức Giêsu không đến thế gian để nắm quyền chính trị dưới hình thức vương quyền, nhưng đến để làm chứng cho sự thật và những ai thuộc về sự thật đều nghe tiếng Ngài (x. Ga 18,37).
Rõ ràng, Đức Giêsu thích tự nhận mình là chứng nhân cho sự thật hơn là một vị vua. Vì vậy, Philatô đáp lại Đức Giêsu bằng câu hỏi nổi tiếng: “Sự thật là gì?” Với lời đáp này, Philatô tỏ ra ông chẳng nghe hay hiểu chút nào về Đức Giêsu. Ông không nhận ra Sự Thật đang hiện diện ngay trước mặt mình.
Làm chứng cho sự thật
Một số người gặp Đức Giêsu khi Ngài thi hành sứ vụ sẽ công nhận Ngài là vua. Họ đang tìm kiếm người kế vị vua Đavít vĩ đại, sẽ lãnh đạo dân chiến thắng đế quốc Rôma.
Đức Giêsu luôn tránh những đề nghị như vậy, và Ngài không bao giờ tự nhận tước hiệu vua. Tuy nhiên, chúng ta có thể nhận Ngài là vua, nhưng chỉ theo một cách thức độc đáo. Nếu Đức Giêsu được xem là vua thì cũng rõ ràng rằng Ngài không có được ngai vàng bằng cách tiếm ngôi hay để người khác chiếm ngai vàng cho mình.
Ngài thi hành ơn gọi làm vua là để làm chứng cho sự thật. Tin mừng Gioan nói rõ rằng con đường dẫn đến việc tung hô vương quyền và được suy tôn phải đi qua cái chết trên thập giá của Đức Giêsu. Ngài sẽ bị đóng đinh không phải vì đã làm điều dữ, mà vì đã công khai và cởi mở làm chứng cho sự thật. Đức Giêsu thực thi vương quyền qua việc làm cho thế giới nhận biết Thiên Chúa, làm chứng cho sự thật và lôi kéo tất cả những ai thuộc về sự thật vào Vương quốc độc nhất của Ngài.
Cơ hội giảng dạy và rao giảng
Vậy nhân ngày lễ trọng Chúa Giêsu Kitô – Vua vũ trụ, chúng ta có được cơ hội gì để giảng dạy và rao giảng? Cách thực hành tốt nhất là theo sự hướng dẫn của Đức Giêsu, đặc biệt như được trình bày nơi Tin mừng Gioan. Ở đây, chúng ta nhận thấy Đức Giêsu và Philatô đều sử dụng hạn từ “vua”, nhưng không có nghĩa là họ cùng hiểu như nhau. Philatô luôn tập trung vào vị vua và vương quyền theo khía cạnh chính tri. Cốt lõi của tất cả đều là tìm kiếm quyền lực và sự thống trị. Phần lớn của vấn đề này nằm nơi hạn từ “vương quyền”.
Đức Giêsu dùng những hạn từ giống như Philatô nhưng lại có cách hiểu khác. Ngài xác định lại ý nghĩa việc làm vua cùng với một vương quốc. Chỉ có thể nhìn thấy vương quyền mà Ngài đại diện từ viễn tượng thập giá. Tuy nhiên, để thấy được điều đó đòi hỏi phải có đức tin. Đức Giêsu tuyên bố rằng vương quyền và vương quốc của Ngài không thuộc về thế gian này. Điều đó nghĩa là chúng không thể được đồng hóa với bất kỳ vương quốc trần gian nào – dù ở quá khứ, hiện tại hay tương lai. Vương quốc mà Đức Giêsu sẽ mang lại phải đi qua cái chết và sự phục sinh của vua Giêsu. Động lực ở đây là sự quy phục hoàn toàn chứ không phải là sự thống trị. Đó là từ bỏ mạng sống chứ không phải là tước đoạt mạng sống của người khác. Vương quốc của Đức Giêsu không giống với bất kỳ vương quốc nào mà thế gian công nhận hay ngưỡng mộ.
Mặc khải sự thật
Sứ mạng làm vua của Đức Giêsu là mặc khải sự thật của Thiên Chúa cho thế giới. Ngài thi hành sứ mạng này bằng việc làm chứng cho sự thật. Ngài được tán dương là vua và suy tôn là Thiên Chúa qua cái chết trên thập giá. Thập giá là ngai vàng của Đức Giêsu. Ngài sẽ bị đóng đinh không phải vì làm điều dữ nhưng vì làm chứng cho sự thật một cách công khai và cởi mở. Đức Giêsu sinh ra là để làm chứng cho sự thật. Và đây cũng phải là sứ mạng của tất cả những ai muốn trở thành môn đệ của Đức Giêsu.
Ngày nay, sự thật liên tục bị tấn công. Nhà văn George Orwell được gán cho câu nói này: “Một xã hội càng đi trệch khỏi sự thật thì càng ghét những người nói lên sự thật”. Đây chắc chắn là kinh nghiệm của Đức Giêsu cũng như của những môn đệ trung thành với Ngài ngày hôm nay. Đức Giêsu xác định lại vương quyền và vương quốc bằng kiểu nói làm chứng cho sự thật. Sách Giáo lý của Hội thánh Công giáo ghi rõ: “Làm chứng là lưu truyền đức tin bằng lời nói và việc làm. Làm chứng là một hành vi của đức công bằng nhằm thiết lập chân lý hoặc làm cho chân lý được nhận biết” (số 2472).
Làm chứng cho sự thật chính là trọng tâm của vương quyền Đức Giêsu – điều này được gặp thấy rất rõ nơi lời của Đức giáo hoàng Phanxicô: “Các vương quốc trên trần gian này đôi khi được giữ vững nhờ sự kiêu ngạo, cạnh tranh và áp bức; trong khi đó, Vương quốc của Đức Kitô là ‘vương quốc của công lý, tình yêu và hòa bình’. . . . Đối với người Kitô hữu, nói đến quyền lực và sức mạnh có nghĩa là ám chỉ đến quyền năng của Thập giá và sức mạnh của tình yêu Đức Giêsu: một tình yêu luôn bền vững, trọn vẹn, ngay cả khi vấp phải sự chối bỏ, và nó được thể hiện như sự thành toàn của một cuộc sống hướng đến sự suy phục trọn vẹn của bản thân vì lợi ích nhân loại” (Huấn dụ của Đức Phanxicô trong buổi đọc kinh Truyền tin, Lễ Chúa Kitô Vua, ngày 22/11/2015).
Đức Giêsu, Vua vũ trụ, cũng là vua mọi tâm hồn.
Ngài thống trị bằng tình yêu
Câu hỏi gợi ý:
- Tại sao Giáo Hội lại tuyên xưng rằng Đức Giêsu là Vua của vũ trụ? Ngài có quyền hành gì trên vũ trụ vạn vật?
- Ngài là vua, nhưng có gì khác biệt với những vị vua bình thường? Ngài cai trị bằng gì?
- Ngài là vua của vũ trụ, nhưng điều ấy ích lợi gì cho tôi, nếu Ngài không phải là vua tâm hồn tôi? Vậy tôi phải làm gì để Ngài trở nên vua của tâm hồn tôi?
Suy tư gợi ý:
- Chú giải đoạn Tin Mừng
Philatô hỏi Đức Giêsu: “Ông có phải là vua dân Do Thái không?”. Nếu người Do Thái hỏi Ngài câu ấy, thì câu ấy nghĩa là: ông có phải là Đấng Mêsia không? Nhưng khi Philatô hỏi, thì câu ấy có nghĩa là: ông có phải là kẻ cầm đầu xui giục dân Do Thái phản loạn không? Theo não trạng của dân Do Thái, thì đấng Mêsia tức vị Cứu Tinh của dân tộc ắt phải là một thủ lãnh của đoàn quân nổi loạn chống lại Rôma để giải phóng dân Do Thái khỏi ách thống trị của đế quốc. Nếu Ngài là người nổi loạn chống lại Rôma, thì dân Do Thái sẽ theo Ngài. Nhưng họ thấy Ngài không phải là người nổi loạn như ý muốn của họ, mà lại có những ý tưởng lạ đời đi ngược lại tư tưởng truyền thống của chính tôn giáo của họ, nên họ muốn tiêu diệt Ngài. Nhưng họ không dám ra tay giết Ngài, mà muốn dùng bàn tay của người Rôma để giết Ngài. Để làm điều ấy, họ chụp mũ Ngài là người phản loạn, chống lại Rôma.
Nhưng Philatô nhận ra ngay là: nếu Đức Giêsu là kẻ đứng về phía người Do Thái để chống lại Rôma, thì họ đã chẳng nộp Ngài cho ông. Vì thế, câu ông hỏi Chúa Giêsu chỉ hỏi cho có lệ, chứ ông ta đã biết Ngài vô tội, và chỉ vì ghen ghét mà dân chúng nộp Ngài cho ông. Nhưng cũng chính nhờ ông ta hỏi điều ấy mà chúng ta được mạc khải một chân lý quan trọng: Đức Giêsu chính là vua. Nhưng Ngài không phải là vua của một nước trần gian. Chính Ngài xác nhận: “Tôi được sinh ra để làm vua”. Thật vậy, có những dấu hiệu báo trước điều ấy: chẳng hạn, khi Đức Giêsu vừa sinh ra, đã có ngôi sao lạ ở phương Đông báo tin cho các vị đạo sĩ đến chiêm bái Ngài như một vị vua mới sinh (x. Mt 2,2). Ngài đã được tung hô như một vị vua khi vào thành Giêrusalem (x. Mt 21,4.9).
- Đức Giêsu là vua
Nếu Đức Giêsu không phải là vua của một nước trần gian, thì nước của Ngài ở đâu? Ngài là vua của ai?
Làm vua có thể có nhiều cách, không nhất thiết cứ phải có đất đai, lãnh thổ, có quân đội, triều đình… mới là vua. Người ta vẫn nói: “vua dầu lửa”, “vua xe hơi”, “vua bóng đá”, v. v… mặc dù những ông vua này không có quân đội, không cai trị ai. Đức Giêsu không những làm vua hiểu theo nghĩa bóng, mà đích thực Ngài là vua hiểu theo nghĩa đen, nghĩa chính thức của từ “vua”.
Trước hết, Ngài là vua, vua của cả vũ trụ, của cả trần gian, của cả nhân loại, vì Ngài chính là Ngôi Lời, một trong Ba Ngôi Thiên Chúa đã tạo dựng nên muôn loài vạn vật trong vũ trụ. Thánh Kinh viết: “Nhờ Ngài, vạn vật được tạo thành, và không có Ngài thì chẳng có gì được tạo thành” (Ga 1,3; xem 1,10). Ngài là vua của thế giới, nên đến ngày chung cuộc, chính Ngài sẽ là người đến phán xét trần gian với tư cách một vị vua (Mt 25,34).
Thế gian này có nhiều nước, mỗi nước có một ông vua. Nhưng Ngài là vua cả thế gian, cả vũ trụ, nên Ngài là Vua trên hết các vua, là Vua của muôn vua.
- Ngài thống trị bằng tình yêu
Đức Kitô là vua. Nhưng Ngài khác với các vua khác ở chỗ: để cai trị, các vua khác dùng quyền lực, còn Ngài dùng tình thương. Thật vậy, Ngài yêu thương mọi người, mọi con dân của Ngài như người mục tử tốt lành yêu thương chăn dắt đoàn chiên, biết rõ từng con chiên một, và sẵn sàng hy sinh mạng sống mình vì lợi ích của chiên (xem Ga 10,11-16). Ngài hành xử như thế vì Ngài là Thiên Chúa, mà “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4,8). Trong thực tế, Ngài đã hy sinh chết trên thập giá một cách khổ nhục để cứu nhân loại, là con dân được Thiên Chúa trao cho Ngài quyền cai trị.
- Đức Giêsu là vua các tâm hồn
Đức Giêsu không chỉ là vua vũ trụ, vua của cả trần gian, mà Ngài còn là vua của tâm hồn mỗi người. Vì yêu thương, vị vua ấy ngự ngay trong thâm cung tâm hồn của mỗi người để sẵn sàng thi ân giáng phúc, ban sức mạnh, thánh hóa, làm cho họ ngày càng tốt đẹp, mạnh mẽ và hạnh phúc hơn. Tuy nhiên, Ngài có làm được điều đó hay không còn tùy thuộc vào sự tự do chấp nhận và sự tự nguyện cộng tác của chúng ta. Ngài sẽ không làm được gì cho chúng ta nếu chúng ta không muốn Ngài làm, hoặc nếu chúng ta hoàn toàn thụ động không cộng tác gì vào công việc mà Ngài muốn làm cho ta.
Để Ngài có thể hành động biến đổi con ta nên tốt đẹp, mạnh mẽ, thánh thiện hơn, ta cần tôn Ngài làm vua tâm hồn mình, bằng cách:
- Trước tiên, phải thường xuyên ý thức về sự hiện diện của Ngài ở trong ta.
- Kế đến là ý thức rằng Ngài là tình thương, Ngài yêu thương ta hơn tất cả mọi người, và sẵn sàng làm tất cả những gì ta cần cho sự phát triển và hạnh phúc của ta.
- Đồng thời ý thức Ngài là sức mạnh toàn năng, có thể thực hiện tất cả những gì Ngài muốn nơi ta.
- Vì thế, ta nhường quyền làm chủ bản thân ta cho Ngài, để Ngài hoàn toàn làm chủ bản thân ta. Ta không còn hành động theo ý riêng ta nữa, mà hoàn toàn hành xử theo ý của Ngài.
- Vì Ngài yêu thương ta, sáng suốt và khôn ngoan hơn ta rất nhiều, lại có khả năng làm tất cả những gì Ngài muốn, nên ta hãy hoàn toàn phó thác vận mệnh của ta cho Ngài.
- Và cuối cùng là luôn luôn sống trong bình an, hạnh phúc của một người được Đức Kitô yêu thương và phù trợ. Hãy hưởng niềm hạnh phúc của một người được Vua của cả trần gian này yêu thương và quan tâm săn sóc. Hãy tin tưởng và luôn luôn an tâm rằng nhờ quyền năng của Ngài, tất cả những gì xảy đến cho ta đều hết sức có lợi, đều trở nên vô cùng tốt đẹp cho ta, cho dù hiện nay ta chưa hiểu rõ: “Thiên Chúa làm cho mọi sự phối hợp lại thành ích lợi cho những ai yêu mến Người” (Rm 8,28).
Nắm vững điều đó, ta sẽ thấy có Đức Kitô ngự trong tâm hồn mình là như có được một “cây đèn thần” trong tay, một “bùa hộ mạng” an toàn, một “vị thần bảo trợ” hữu hiệu, một “người tình chung thủy” luôn luôn ở với ta suốt cuộc đời. Lúc đó ta sẽ sung sướng cảm nghiệm được như thánh Phaolô: “Tôi làm được tất cả mọi sự nhờ Đấng ban sức mạnh cho tôi” (Pl 4,13).
CẦU NGUYỆN
Lạy Đức Kitô, Chúa là Vua của vũ trụ, của nhân loại, và nhất là của tâm hồn con. Con xin phó thác tất cả mọi sự của con trong tay Chúa: mạng sống, tình yêu, hạnh phúc, ý muốn, khát vọng, những người thân yêu của con, hiện tại cũng như tương lai của con, v. v… Con xin phó thác cho Chúa tất cả, và hoàn toàn để Chúa quyết định mọi sự theo ý muốn của Chúa. Xin hãy giúp con ngày càng tin vững vào tình yêu và quyền năng của Chúa hơn. Amen.
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Hữu An)
Nói đến sức mạnh, chúng ta tự nhiên sẽ nghĩ đến những chàng trai võ sĩ thân hình lực lưỡng, cân đối rắn chắc, với những bắp thịt vạm vỡ, với những quả đấm thôi sơn ngàn cân.
- Nói đến sức mạnh, chúng ta cũng nghĩ đến những trận bão táp, những cơn lũ lụt phá đổ cây cối nhà cửa làng mạc, đê điều, đường sá, cầu cống.
- Nói đến sức mạnh, chúng ta cũng thường nghĩ tới những đám cháy lớn thiêu rụi cả một khu rừng, thiêu huỷ các tầng lầu, hoặc động đất san bằng nhiều thành phố, giết hại hàng triệu người trong vài giây đồng hồ.
- Nói đến sức mạnh, chúng ta cũng liên tưởng đến những cuộc chiến tranh hoặc chiến tranh thế giới giết hại bao sinh mạng, tàn phá bình địa nhiều thành phố làng mạc nhà cửa dinh thự đền đài.
Nhưng có lẽ nhiều người trong chúng ta quên rằng, còn có một sức mạnh vạn năng khác, mãnh liệt hơn cả, quyết thắng tất cả nhưng lại luôn luôn ở trong tầm tay của mình. Đó chính là sức mạnh niềm tin tôn giáo. Niềm tin tôn giáo không thể nào bị bóp nghẹt do bất cứ quyền lực nào. Không có quyền lực nào, không có luật pháp nào có thể xoá được những gì đã ăn rễ sâu trong lòng người, là niềm tin tôn giáo. (Lm Trần quý Thiện). Trước toà án Philatô, Đức Giêsu đã biểu lộ sức mạnh niềm tin ấy “Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho Ngài” (Ga 18, 11). Niềm tin vào Sự Thật, mà “Sự thật sẽ giải thoát các con” cho nên Đức Giêsu đã khẳng định: “Tôi sinh ra và đã đến thế gian vì điều này: đó là để làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi”(Ga 18, 37). Bởi vì “Ta là đường, là sự thật và là sự sống”.
Kết thúc năm phụng vụ, tận cùng của thời gian, Giáo hội cho chúng ta suy tôn Đức Giêsu – vua vũ trụ – vua niềm tin. Đức Giêsu là vua không phải theo kiểu trần thế, cũng không theo nghĩa chính trị. Đức Giêsu là vua niềm tin, vua tình yêu. Vương quốc của vua Giêsu là vương quốc của sự thật “Ai đứng về phái sự thật thì nghe tiếng tôi”. Nhiều lần Đức Giêsu đã khước từ làm vua theo kiểu trần thế. Sau phép lạ hoá bánh ra nhiều, dân Do thái muốn tôn Đức Giêsu làm vua, nhưng Ngài trốn lên núi. Khi trả lời cho những kẻ gài bẫy: chúng tôi có phải nộp thuế cho Xêza không? Đức Giêsu đáp: của Xêza hãy trả cho Xêza, của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa. Đặc biệt trong phiên toà xét xứ, Philatô hỏi Đức Giêsu: Ông có phải là vua dân Do thái không? Đức Giêsu minh xác: Nước tôi không thuộc về thế gian này (Ga 18, 36). Vậy thì vương quốc Đức Giêsu là vương quốc sự thật thuộc thế giới niềm tin, thế giới tâm linh trong tâm hồn con người. Vương quốc đó hoàn toàn khác biệt với đế quốc của Xêza hay bất cứ đế quốc nào, chủ nghĩa nào. Nuớc của Xêza chỉ cai trị thể xác loài người, còn vương quốc Đức Giêsu chiếm trọn tấm lòng người. Thê lực của Xêza là quân đội, khí giới, khí giới, nhà tù. Sức mạnh vương quốc Đức Giêsu là niềm tin, là yêu thương, tha thứ. Dù rộng lớn, đế quốc Xêza cũng bị giới hạn, còn vương quốc Đức Giêsu vô biên, được thiết lập mọi nơi. Các triều đại phong kiến, các thể chế chính trị cũng chấm dứt trong dòng thời gian như đế quốc của Xêza, chỉ còn vương quốc sự thật, niềm tin tồn tại muôn đời.
Chính niềm tin tôn giáo dạy chúng ta rằng: mục đích tối thượng của các tôn giáo là hướng con người đến chân thiện mỹ. Qua không gian thời gian, trải qua bể dâu của lịch sử với những thao thức băn khoăn của kiếp người, con người luôn luôn tìm đến niềm tin tôn giáo. Con người tiếp nhận sự sống từ chính nguốn sống là Thiên Chúa như trái đất nhận lãnh ánh sáng từ mặt trời. Thiếu ánh sáng mặt trời thì không có sự sống trên trái đất. Cúng thế, không có Thiên Chúa thì không thể có sự sống. Thiên Chúa thông ban sự sống cho con người vì Thiên Chúa yêu thương con người. Thiên Chúa yêu thương mọi người ngay cả những ai chối bỏ và thủ ghét Ngài. Con người là hình ảnh cao quý của Thiên Chúa. Thánh thiện hay tội lỗi, giàu sang hay nghèo hèn, bạn hữu hay thù địch, mỗi người đều là hình ảnh Thiên Chúa. Chỉ xuyên qua niềm tin và tình thương con người mới đến được vớiThiên Chúa. Với sức mạnh niềm tin chúng ta khẳng định rằng: trên vạn nẻo đường của cuộc đời mỗi người, bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu Thiên Chúa luôn có mặt để hướng dẫn nâng đỡ chúng ta. Khủng hoảng trầm trọng nhất của xã hội hôm nay phải chăng là khủng hoảng về niềm tin và ý nghĩa của cuộc sống?. Con người sinh ra trên cõi đời này để làm gì và để đi về đâu?. Đó là câu hỏi lớn mà ngàn đời con người không ngừng đặt ra cho mình khi đứng trước những mâu thuẫn bất trắc của cuộc sống. Nghĩ cho cùng, mỗi người chỉ tìm thấy giải đáp cho câu hỏi ấy nhờ ánh sáng sức mạnh niềm tin tôn giáo. Aùnh sáng niềm tin ấy hướng dẫn chúng ta đến yêu thương và phục vụ tha nhân. Khi con người biết sống cho người khác thì con người sẽ tìm thấy chính mình, thấy lý tưởng, thấy ý nghĩa cuộc sống. Sống cho hạnh phúc của tha nhân, đó là sự thật mà mỗi thần dân sống trong vương quốc Vua Giêsu được mời gọi thể hiện mỗi ngày.
Mừng lễ Chúa Giêsu vua vũ trụ, vua niềm tin, chúng ta hãy để cho Chúa chiếm trọn tất cả con người mình, tư tưởng, lời nói, việc làm. Chúng ta không còn thuộc về thế giới của bóng tối, của tội lỗi, nhưng thuộc về vương quyền của Chúa Giêsu là vương quyền của sự sống, của sự thật, vương quyền của niềm tin, của ân sủng, vương quyền của sự thánh thiện, của công lý, tình yêu hoà bình.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Tôn vinh Chúa Giêsu là Vua, Giáo hội công bố bài Tin Mừng Gioan: Vua Giêsu đang bị trói, bị điệu đến trước mặt quan Philatô và bị đối xử như một tội phạm. Philatô hỏi: Ông là vua sao? Sao lạ vậy? Vua Hêrôđê còn sống sờ sờ đó mà. Vua gì mà chẳng có quân có tướng hộ vệ? Vua gì mà chẳng có vương miện cẩm bào? Trước mặt Philatô, Chúa Giêsu mang chiếc áo loang lỗ máu đào, tả tơi. Phải chăng Philatô nhận ra Chúa có một tác phong uy quyền cao cả một một vị đế vương. Và trong chiều sâu tâm hồn, Philatô thán phục đánh giá cao vị vua này!
Chúa Giêsu đáp: Chính ngài nói rằng tôi là vua. Rồi Chúa giải thích thêm: Tôi sinh ra và đến thế gian để làm chứng cho sự thật, ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi. “Nước tôi không thuộc về thế gian này”. Như vậy, Chúa xác nhận Ngài là Vua, vì có một nước để Ngài thống trị. Đó là nước của sự thật: Ai thuộc về sự thật thì nghe tiếng Chúa; đó là nước của tình yêu: “Người ta sẽ căn cứ vào dấu hiệu này để nhận ra anh em là môn đệ của Thầy, là anh em thương mến nhau.” (Ga 13,35); đó là nước của sự sống: “Ai nghe lời tôi và tin vào Đấng đã sai tôi thì có sự sống đời đời” (Ga 5,24).
- Nước của Sự Thật.
Nước của Vua Giêsu là nước của sự thật và “ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi”. Nhiều lần Đức Giêsu đã khước từ làm vua theo kiểu trần thế. Nước trần gian do con người thiết lập bằng sức mạnh, thường đem lại sự giàu sang và vinh quang. Đức Giêsu từ chối loại nước huy hoàng do Satan đề nghị: Nếu ông quỳ gối thờ lạy tôi, tôi sẽ cho ông mọi nước làm sản nghiệp. Sau phép lạ hoá bánh ra nhiều, dân Do thái muốn tôn Đức Giêsu làm vua, nhưng Ngài trốn lên núi. Khi trả lời cho những kẻ gài bẫy: chúng tôi có phải nộp thuế cho Xêza không? Đức Giêsu đáp: của Xêza hãy trả cho Xêza, của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa.
Nước của Vua Giêsu là nước của sự thật thuộc thế giới niềm tin, thế giới tâm linh trong tâm hồn con người. Nước đó hoàn toàn khác biệt với đế quốc của Xêza hay bất cứ đế quốc nào, chủ nghĩa nào. Nuớc của Xêza chỉ cai trị thể xác loài người, còn nước của Đức Giêsu chiếm trọn lòng người.Thế lực của Xêza là quân đội khí giới nhà tù. Sức mạnh nước của Đức Giêsu là niềm tin yêu thương tha thứ. Dù rộng lớn, đế quốc Xêza cũng bị giới hạn, còn nước của Đức Giêsu vô biên, được thiết lập mọi nơi. Các triều đại phong kiến, các thể chế chính trị cũng đã và đang chấm dứt trong dòng thời gian như đế quốc của Xêza, chỉ còn nước sự thật và niềm tin là tồn tại muôn đời.
Chúa Giêsu là vị vua của Sự Thật và sứ mạng của Ngài là làm chứng cho sự thật. Là vua sự thật, Chúa đến thế gian để chỉ cho con người về sự thật và dạy cho con người sống sự thật. Vua Giêsu đã chỉ cho con người thấy Thiên Chúa là chân lý và là sự thật. Vua Giêsu còn chỉ cho con người thấy bộ mặt thật gian dối của thế gian, sự xảo trá của ma quỷ và thế lực của bóng tối. Nó đang tìm cách tách con người ra khỏi sự thật và gieo sự gian dối vào trong tâm hồn con người. Kitô hữu là thần dân của nước sự thật nên dám nói lên sự thật, dám can đảm sống theo sự thật, dám chết cho sự thật.
- Nước của Tình Yêu
Chúa Giêsu là Vua Tình Yêu. Chính tình yêu là sức mạnh của nước Ngài thiết lập. Đức Kitô là vua, nhưng lại rất khác với các vua trần thế ở chỗ: để cai trị, các vua thế gian dùng quyền lực, còn Ngài dùng tình thương. Ngài yêu thương mọi người, mọi con dân của Ngài như người mục tử tốt lành yêu thương chăn dắt đoàn chiên, biết rõ từng con chiên một, và sẵn sàng hy sinh mạng sống mình vì lợi ích của chiên (Ga 10,11-16). Luật pháp trong nước của Ngài là sống trong Tình Yêu. Một Tình Yêu trọn vẹn trong chiều dọc, đối với Đấng dựng nên mình là Thiên Chúa. Một Tình Yêu chan hòa trong chiều ngang đối với đồng loại của mình.
“Khi một mình đối diện với những ghen ghét thù hận của đám đông, Đức Giêsu muốn dạy ta biết Thiên Chúa là tình yêu. Đức Giêsu là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa trên trần gian. Vì yêu thương mà Ngài đã xuống trần gian. Ngài đã yêu thương cho đến chết vì yêu. Đó là tình yêu lớn lao nhất như lời Ngài nói: “Không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của người dám hy sinh tính mạng vì bạn hữu”. Dù những thù hận vây bọc, nhưng Đức Giêsu vẫn yêu thương. Hôm nay đơn thân độc mã trong vòng vây của hận thù, Đức Giêsu vẫn xưng vương để cho ta thấy: tình yêu thương đã chiến thắng. Hận thù đem lại chết chóc, chỉ có tình yêu thương mới cứu được thế giới. Đức Giêsu đã chiến thắng. Ngài là Đấng đầu tiên từ trong kẻ chết sống lại. Với chiến thắng, Đức Giêsu mở cửa nước của Ngài. Đó là nước của Sự Thật. Chỉ những ai thuộc về sự thật mới được vào. Và những ai thuộc về sự thật phải biết chiến thắng sự giả trá. Sự giả trá đó là sự chết, đó là những vinh hoa phú quý trần gian và đó là lòng thù hận ghen ghét. Hiểu biết sự thật, đập tan sự dối trá, ta mới tiến vào Nước Sự Sống theo bước Đức Giêsu Kitô. Với chiến thắng Ngài thật sự là Đường dẫn đến Sự Thật và Sự Sống muôn đời”. (ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt).
“Nước Thiên Chúa là sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần” (Rm 14,17). Vua Giêsu đã thi hành vương quyền bằng cách yêu thương loài người đến nỗi sẵn sàng chết cho loài người ngay chính lúc loài người từ chối Ngài, chế giễu Ngài, thậm chí thách thức Ngài. Tình yêu chi phối mọi sinh hoạt cuộc đời. Con người đau khổ vì không có tình yêu. Chúa là tình yêu. Chỉ những ai biết tìm đến với Ngài, được Ngài thông truyền cho tình yêu, họ mới biết mở mắt để nhận ra được mọi người anh em, như thế mới có thể yêu thương. Bản tính của tình yêu là cho đi điều tốt lành. Ai sống yêu thương thì thuộc về Chúa, là thần dân của Ngài. Nước của Chúa Kitô Vua là nước của tình yêu. Muốn vào nước ấy, phải là người có lòng yêu mến Chúa và yêu thương anh em thật sự.
- Nước của Sự Sống
“Ta là sự sống và là sự sống, ai tin Ta, dầu có chết cũng sẽ được sống. Và kẻ nào sống mà tin Ta, sẽ không chết bao giờ” (Ga 11, 25-26). Thật là đại tin mừng: “Nơi Ngài là sự Sống, và sự Sống là sự Sáng cho nhân loại. Và sự sáng rạng trong tối tăm, và tối tăm đã không tiêu diệt được sự sáng” (Ga 1,4-5).
Chúa Giêsu là sự sống lại và là sự sống nên nước của Ngài không còn bóng dáng cái chết. Khi còn ngày rộng tháng dài, Đức Giêsu không xưng vương. Nay cận kề cái chết Ngài mới xưng vương để dạy cho ta biết nước của Ngài “không thuộc thế gian này”. Sự sống trần gian này chẳng đáng giá gì so với sự sống trong Nước Chúa. Vì thế muốn vào được vương quốc của Chúa, phải biết từ bỏ tất cả, kể cả mạng sống nữa.
Chúng ta lãnh nhận sự sống từ Thiên Chúa, chỉ mình Thiên Chúa mới có thể trao ban sự sống ấy. Chúa Cha đã trao cho Chúa Con quyền này, và đặt vào tay Chúa Con, nên Chúa Con là Vua Sự Sống.
Con người tiếp nhận sự sống từ chính nguồn sống là Thiên Chúa như trái đất nhận lãnh ánh sáng từ mặt trời.Thiếu ánh sáng mặt trời thì không có sự sống trên trái đất. Cũng thế, không có Thiên Chúa thì không thể có sự sống.Thiên Chúa thông ban sự sống cho con người vì Thiên Chúa yêu thương con người.Thiên Chúa yêu thương mọi người ngay cả những ai chối bỏ và thù ghét Ngài.Con người là hình ảnh cao quý của Thiên Chúa.Thánh thiện hay tội lỗi, giàu sang hay nghèo hèn, bạn hữu hay thù địch, mỗi con người đều là hình ảnh Thiên Chúa. Chỉ xuyên qua niềm tin và tình thương con người mới đến được với Thiên Chúa. Sống cho hạnh phúc của tha nhân, đó là sự thật mà mỗi thần dân sống trong nước Vua Giêsu được mời gọi thể hiện mỗi ngày.
Nhưng ai thuộc về sự thật thì nghe Đức Kitô và ai thuộc về Đức Kitô thì hãy để Người sống và lớn lên trong cuộc đời mình và chấp nhận để Người biến đổi toàn diện. Đồng thời, chính mình cũng cần nổ lực “làm chứng” sao cho niềm tin luôn luôn vươn lên, mà cũng không quên nhiệt tình tông đồ là làm cho những người lân cận nhận biết và tin yêu Chúa Kitô nữa.
Ở Bãi Sau Vũng Tàu, có một tượng Chúa Kitô Vua thật lớn dựng trên triền núi quay mặt ra biển, đôi tay giang rộng như ôm lấy cả trùng dương. Ngư dân quanh đó kể lại rằng những khi ra khơi, họ vẫn căn cứ vào đó để mà định hướng đi về, và nhiều lần sóng gió họ cũng hướng về đó để mà cầu nguyện xin ơn bình an.
Giữa trùng dương cuộc sống, Kitô hữu biết rằng Chúa Kitô vẫn luôn hiện diện như một chuẩn đích để định hướng tin yêu hy vọng. Xin Người cũng làm Vua quy tụ mọi sự trong Nước vĩnh cửu của Người.
Mừng lễ Chúa Giêsu – Vua Vũ Trụ – Vua Sự Thật -Vua Tình Yêu – Vua Sự Sống, chúng ta hãy để cho Vua Giêsu chiếm trọn tất cả con người mình, từ tư tưởng lời nói cho đến việc làm. Chúng ta không còn thuộc về thế giới của bóng tối và tội lỗi. Chúng ta thuộc về vương quyền của Vua Giêsu là vương quyền của sự sống và sự thật, vương quyền của niềm tin và ân sủng, vương quyền của sự thánh thiện công lý và tình yêu hoà bình (Kinh Tiền Tụng).
Giêsu, lạy Chúa từ nhân,
Tâu Vua vinh hiển, thần dân kính mừng!
Duy Ngài là lẽ cậy trông,
Là trung tâm điểm của dòng thời gian.
Quyền uy thống trị vũ hoàn,
Chúng con tình nguyện làm dân con Ngài.
(Thánh Thi Kinh sáng Lễ Chúa Kitô Vua).
(Suy niệm của Lm. GB. Phạm Hồng Thái)
Chúa nhật cuối năm Phụng vụ hôm nay, Giáo hội kính trọng thể lễ Chúa Giêsu Kitô Vua vũ trụ. Vậy tại sao chúng ta lại xưng Chúa Giêsu là Vua vũ trụ?
Chúng ta biết rằng trong cuộc sống tại thế Chúa Giêsu không thích người ta xưng Người là Vua. Khi Chúa chịu cám dỗ trên núi: Satan yêu cầu Chúa chỉ cần bái lạy nó thì nó sẽ tặng cho sự giàu sang các vương quốc trần gian. Nhưng Chúa Giêsu đã phản ứng quyết liệt và dạy nó phải thờ lạy Thiên Chúa rồi xua đuổi nó đi. Sau phép lạ hóa bánh ra nhiều cho dân chúng ăn no, dân tìm Chúa và muốn tôn Chúa làm Vua, nhưng Chúa khước từ và phải trốn lên núi một mình.
Dân Do thái mong chờ Đấng Thiên sai trần thế mang màu sắc chính trị, để giải phóng dân tộc họ khỏi sự thống trị của đế quốc Roma khi đó, nhưng Chúa Giêsu nhất quyết không đi theo hướng thiên sai đó mà lại chọn con đường cứu chuộc bằng đau khổ và bằng tình thương khiến không những dân chúng mà ngay cả các môn đệ đều ngỡ ngàng và thất vọng. Chúa nhắm tới vinh quang nhưng không phải vinh quang trong cuộc sống tại thế mà là vinh quang sau cái chết và sau sự Phục sinh của Chúa.
Nay Chúa Giêsu bị nộp cho quan Philatô và sau khi Philatô đã cho binh lính đánh đòn, nhạo cười chế diễu Chúa, rồi chúng cho Chúa mặc áo choàng đỏ vẫn còn vấy máu và dẫn đến Philatô. Quan hỏi Chúa: “Ông có phải là Vua Dân Do thái không?” Chúa đáp: “Quan tự ý nói như thế hay có người khác nói với quan về tôi?” Chúng ta thấy Philatô chất vấn Chúa nhưng thay vì trả lời, Chúa Giêsu lại chất vấn lại ông để rồi sau đó thay vì nhận là Vua Do thái thì Chúa Giêsu cho Philatô biết: Nước Chúa không thuộc về thế gian này, Nước Chúa cũng không có quân đội, không có binh lính vũ khí vì thế Nước Chúa Giêsu không có đe dọa đế quốc Roma mà tổng trấn Philatô là đại diện; Chúa Giêsu xác định là Nước Chúa không thuộc chốn này. Thánh Phaolô thì cho biết: “Nước Thiên Chúa là công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh thần (Rm 14,17)”
Chúa Giêsu cho Philatô biết Chúa là Vua, nhưng vị Vua này có sứ mạng làm chứng về chân lý, về sự thật. Cho nên bất cứ ai thuộc về Chân lý thì nghe tiếng Chúa và trở nên công dân trong Nước Chúa Qua mẫu đối thoại giữa Chúa Giêsu và Philatô, chúng ta có thể nhận ra Chúa Giêsu là Vua như thế nào và Nước Chúa khác Vương quốc trần gian ra sao.
Chúa Giêsu là Vua nhưng không có ngai vàng, không có quân đội vũ khí, cũng không có lãnh thổ, biên giới. Còn công dân Nước Chúa là tất cả những ai thuộc về chân lí và biết nghe lời Chúa trên khắp địa cầu. Chúa Giêsu quan niệm quyền bính là từ trên, từ Thiên Chúa ban cho, nên khi Philatô nói với Chúa: “Ông không biết rằng tôi có quyền tha và cũng có quyền đóng đinh ông trên Thập giá sao?”, thì Chúa trả lời: “Ông không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ông (Ga 19, 11)” Trước khi lên trời, Chúa nói với các tông đồ: “Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy”(Mt 28,18). Chính vì thế mà nay chúng ta xưng ra Chúa Giêsu là Vua trên hết các vua và là Vua vũ trụ.
Ngày nay chúng ta là những người tin kính Chúa Giêsu và để xứng đáng là công dân trong Nước Chúa, thì chúng ta phải có đức tính Chúa Giêsu đòi hỏi là thuộc về Chân lý và nghe tiếng Chúa. Nếu Satan được gọi là cha của sự dối trá thì con cái Chúa phải là người yêu sự thật như Chúa dạy: “Có thì nói có không thì nói không. Thêm điều đặt chuyện là bởi ma quỉ mà ra (Mt 5, 37)”thì mới xứng đáng là con cái Chúa. Xã hội ngày nay có khuynh hướng tấn công sự thật và ghét những người nói sự thật. Vì thế để có thể thuộc về sự thật như Chúa dạy thì mỗi người chúng ta phải yêu mến sự thật và can đảm trung thành với sự thật vì như Chúa Giêsu đã quả quyết: “Sự thật sẽ giải thoát anh em (Ga 6, 32)”
Tượng Chúa Giêsu Vua ở núi Tao Phùng Vũng Tàu: Tượng Chúa giang tay hướng ra biển như ôm lấy trùng dương: có chiều cao 32 m, chiều dài hai cánh tay là 18,4 m. Bên trong tượng là cầu thang xoắn ốc gồm 133 bậc, chạy từ bệ đặt tượng lên tới cổ tượng. Đường từ dưới đất lên núi nơi đặt tượng cao 500m có 1000 bậc thang . Trong lòng tượng có thể chứa được 100 khách tham quan một lúc. Điều ấn tượng là ngư dân căn cứ vào Tượng Chúa để định hướng khi đi hoặc khi về và những người tin Chúa còn ngước lên để cầu nguyện xin cho được bình yên may mắn khi ra khơi đánh bắt cá. Người trộm cùng bị đóng đinh bên tay hữu Chúa đã xưng ra Chúa Giêsu là người công chính và anh thưa với Chúa: “Lạy Ngài khi nào về Nước Ngài xin nhớ đến tôi (Lc 23, 42)”
Mỗi người chúng ta cũng hãy có tâm tình để thưa với Chúa Giêsu như vậy: “Lạy Chúa Giêsu là vua Vũ trụ, xin nhớ đến con!”, và chắc chắn Chúa sẽ nhớ đến ta như Chúa đã nhớ đến và ban Nước Thiên đàng cho Người trộm lành khi xưa. Amen.
(Suy niệm của Jaime L. Waters)
HÌNH ẢNH “VƯƠNG QUYỀN”
TRONG KINH THÁNH CÓ Ý NGHĨA GÌ VỚI CHÚNG TA?
Thánh vịnh 93 là đáp ca Lễ Chúa Kitô Vua, gợi lên một hình ảnh rõ ràng về vương quyền của Thiên Chúa: “Chúa là vua hiển trị, Chúa mặc oai phong tựa cẩm bào.” Những hình ảnh ngai vàng, thánh chỉ và vương quốc giúp ta hình dung một Thiên Chúa vương giả, Đấng trị vì vạn vật. Dựa trên nội dung này, Thánh vịnh 93 thường được phân tích như một thánh vịnh về vương quyền hoặc ngày đăng quang.
Bài đọc thứ nhất trích sách ngôn sứ Đanien mô tả Con Người ngự giá mây trời mà đến. Hình ảnh này được ám chỉ trong Tin mừng Máccô công bố vào Chúa nhật tuần trước. Bài đọc thứ hai trích sách Khải huyền cũng nhắc đến một đấng thần linh trên đám mây. Sách ngôn sứ Đanien nhấn mạnh quyền thống trị đời đời của Con Người, và sách Khải huyền nêu bật quyền năng vĩnh cửu của Thiên Chúa. Những bản văn này cho thấy cách thức con người đã cố gắng hiểu và diễn tả sức mạnh cũng như uy quyền vô biên của Thiên Chúa. Mô hình vương quyền dễ hiểu và có liên quan đến các cộng đồng cổ xưa. Bằng cách nhấn mạnh vương quốc vĩnh cửu của Thiên Chúa, các bản văn đã sắp xếp con người như là thành phần của vương quốc này, nỗ lực tuân theo luật pháp của Thiên Chúa và cổ võ sự hiển trị vương quốc cho những người khác.
Mặc dù hình ảnh vương đế nổi bật trong Kinh thánh, nhưng nó vẫn có vấn đề. Tin mừng Gioan cho thấy thời điểm mà ngôn ngữ vương quyền bị hiểu lầm và nhạo báng. Khi thẩm vấn Đức Giêsu trước khi đóng đinh, Philatô đã hỏi Ngài có phải là vua dân Do Thái không, và khi không thỏa mãn với câu trả lời của Đức Giêsu, ông hỏi tiếp: “Vậy ông là vua sao?”. Đức Giêsu nhắc lại rằng vương quốc mà Ngài rao giảng là Nước Trời, nhưng dù vô tình hay hữu ý, Philatô đã không hiểu sứ điệp của Đức Giêsu. Hơn nữa, mối đe dọa tiềm tàng của một vị vua hoặc một vương quốc khác có thể góp phần vào việc bắt bớ và đóng đinh Đức Giêsu.
So sánh tương quan con người – Thiên Chúa với tương quan thần dân – quân vương có thể tạo nên vấn đề. Vương quyền có thể gợi lên sức mạnh, sự trường tồn và uy quyền, nhưng nó cũng có thể gợi lên những lạm dụng về quyền lực và tình trạng nô lệ. Lễ Chúa Kitô Vua rõ ràng là lời nhắc nhở về sự vinh hiển của Thiên Chúa và tương quan của Ngài với muôn loài muôn vật, nhưng chúng ta cũng nên thừa nhận rằng một số hình ảnh như thế có thể bị lạm dụng cũng như chúng không phải là sự diễn tả trung thực nhất về Thiên Chúa. Những hình ảnh đó phản ánh sự sáng tạo, tưởng tượng của các cộng đồng cổ xưa mà chúng ta thừa hưởng đến hôm nay. Tuy nhiên, dù biết những hình ảnh này có nguy cơ tiềm ẩn chúng ta vẫn có thể thận trọng sử dụng chúng, tương tác với chúng như là thành phần của sự phong phú đa dạng các hình ảnh trùng lặp trong Kinh thánh về Thiên Chúa.
Khi kết thúc năm phụng vụ, lễ Chúa Kitô Vua là dịp để chúng ta suy nghĩ về cách thức cổ võ Nước Thiên Chúa trên thế giới. Khi chuẩn bị khởi đầu mùa Vọng và mừng sinh nhật Đức Kitô, chúng ta nên suy ngẫm về những gì mình đã làm để sống lệnh truyền mến Chúa và yêu người của Đức Kitô.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Năm phụng vụ mở đầu bằng mầu nhiệm Nhập thể, tiếp nối qua hành trình rao giảng Tin mừng rồi cuộc Tử nạn, Phục sinh và kết thúc bằng vương quyền viên mãn của Đức Kitô. Như vậy, năm phụng vụ tượng trưng cho chu kỳ thời gian bắt đầu từ Đức Kitô và cuối cùng trở về với Ngài. Đức Kitô chính là khởi đầu và là cùng đích của vũ trụ và lịch sử nhân loại.
Đặt lễ Chúa Kitô Vua trong Chúa nhật cuối cùng năm phụng vụ, Giáo Hội nhắc nhở rằng, Đức Kitô chính là Vua của vũ trụ, Ngài là Chủ của thời gian, Chủ của lịch sử nhân loại và là Chủ của lịch sử mỗi người chúng ta. Chúa Kitô vượt trên thời gian để mãi mãi là vị Vua vĩnh cửu. Phải hiểu tước hiệu Vua Kitô như thế nào? Việc tuyên xưng Đức Kitô là vua mang lại ý nghĩa gì cho cuộc sống người Kitô hữu?
- Vua Trong Lịch Sử
Sau thế giới đại chiến lần thứ I, chế độ Quân chủ (Vua cai trị) không còn nữa. Chỉ còn mấy ông vua bà hoàng “làm kiểng” như ở Thái Lan, Anh Quốc, Nhật Bản… không có thực quyền.
Trong lịch sử loài người, có một số vị vua có tài, giỏi đánh giặc và trị nước, nhưng hầu hết các vị vua đều độc tài độc đoán (vì cha truyền con nối), không có khả năng trị quốc an dân, chỉ biết hưởng thụ ích kỷ, chẳng quan tâm đến bá tánh. Các vị vua bên Tàu còn tự xưng mình là Thiên tử (con Trời) nên làm trời con, bắt ai chết thì người đó phải chết, cho ai sống thì người đó được sống (Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung). Các vua La mã tự xưng mình là Thần, ngang với Thượng đế.
Nhìn chung, các vua trần gian thì tham lam, ích kỷ, dâm ô. Khi đã chiếm được ngai vàng, họ coi thần dân như bầy tôi, giang sơn đất nước là tài sản riêng của họ: “Thần dân của trẫm. Giang sơn của trẫm”. Nghi ngờ kẻ nào có ý phản loạn thì giết ngay tức khắc và còn tru di cả tam tộc cửu tộc nữa.
Nếu muốn đổi triều đại, phải chiến tranh giành giật đẫm máu. Đọc lịch sử Việt Nam, mỗi thay đổi triều vua từ Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê… toàn là máu và nước mắt. Đến đời Nguyễn Ánh tự xưng là Gia Long hoàng đế, làm vua từ năm 1802, cha truyền con nối kéo dài hơn 100 năm. Năm 1945, vị vua cuối cùng của nhà Nguyễn là Bảo Đại thoái vị.
- Vua Trong Kinh Thánh
Vào khoảng thế kỷ thứ 11 trước công nguyên, dân Israel có vua cai trị giống như các dân khác. Ba vị vua đầu tiên của Israel là Saul, Đavit và Salômôn. Giavê Thiên Chúa, qua ngôn sứ Samuel đã cảnh cáo dân rằng:
- “Ta hối tiếc vì đã đặt Saul làm vua, nó đã quay lưng lại Ta.” (1S 15, 10).
- “Chính Ta đã xức dầu tấn phong ngươi làm vua Israel… Tại sao ngươi dám khinh màng lời Đức Giavê… ngươi đã lấy gươm đâm Uria, người xứ Hitit và đoạt lấy vợ nó làm vợ ngươi.” (2S 12, 9).
- Còn Salômôn, vị vua có 700 vợ và 300 hầu thiếp (1V 11, 3). Ông đã bỏ Đức Chúa Giavê để thờ tà thần của các bà vợ. Giavê phán với Salômôn: “Bởi ngươi đã nên thể ấy nơi ngươi… Ta sẽ giựt lấy vương quyền của ngươi.” (1V 11, 11).
Trong Tân Ước cũng nhắc đến một ông vua rất tàn ác, đó là Hêrôđê: “Bấy giờ Hêrôđê tức cuồng lên, sai quân giết hết cả trẻ em ở vùng Belem, từ hai tuổi trở xuống. (Mt 12, 6).
- Đức Giêsu Kitô, Vua Niềm Tin
Giáo Hội suy tôn Đức Giêsu là Vua vũ trụ. Ngài không làm vua theo kiểu vua chúa trần gian. Ngài cũng không làm vua một lãnh vực kinh tế nào. Đức Giêsu là Vua Niềm Tin. Vương quốc của Vua Giêsu là vương quốc của sự thật. “Tôi đến để làm chứng cho sự thật”. Sự thật mà Ngài tuyên bố, đó là ý định cứu rỗi của Chúa Cha: Thiên Chúa đã sai Con Một của Ngài đến để cứu độ thế gian. Đức Giêsu thiết lập một Vương quốc phổ quát và vĩnh cửu bằng niềm tin và tình yêu trong sự thật.
Nhiều lần Đức Giêsu đã khước từ làm vua theo kiểu trần thế. Sau phép lạ hoá bánh ra nhiều, dân Do thái muốn tôn Đức Giêsu làm vua, nhưng Ngài trốn lên núi. Khi trả lời cho những kẻ gài bẫy: “Chúng tôi có phải nộp thuế cho Xêza không?” Đức Giêsu đáp: “Của Xêza hãy trả cho Xêza, của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa”.
Đặc biệt trong phiên toà xét xứ, Philatô hỏi Đức Giêsu: “Ông có phải là vua dân Do thái không?”. Người đã trả lời: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi”. Nước Chúa không thuộc về thế gian. Nước Chúa ở trong các tâm hồn khao khát sự thật, tôn trọng sự thật, đón nhận sự thật. Sự thật đó là tình yêu cứu độ Đức Giêsu đem đến cho nhân loại.
Vương quốc Đức Giêsu là vương quốc sự thật thuộc thế giới niềm tin, thế giới tâm linh trong tâm hồn con người. Vương quốc đó hoàn toàn khác biệt với đế quốc của Xêza hay bất cứ đế quốc nào, chủ nghĩa nào. Nuớc của Xêza chỉ cai trị thể xác loài người, còn vương quốc Đức Giêsu chiếm trọn tấm lòng người. Thế lực của Xêza là quân đội, khí giới, nhà tù. Sức mạnh vương quốc Đức Giêsu là niềm tin, là yêu thương, tha thứ. Dù rộng lớn, đế quốc Xêza cũng bị giới hạn. Vương quốc của Vua Giêsu vô biên, được thiết lập mọi nơi. Các triều đại phong kiến, các thể chế chính trị cũng chấm dứt trong dòng thời gian như đế quốc của Xêza. Vương quốc sự thật, niềm tin tồn tại muôn đời.
Trong vương quốc niềm tin, con người tiếp nhận sự sống từ chính nguốn sống là Thiên Chúa như trái đất nhận lãnh ánh sáng từ mặt trời. Thiếu ánh sáng mặt trời thì không có sự sống trên trái đất.Thiên Chúa thông ban sự sống cho con người vì Ngài yêu thương con người. Thiên Chúa yêu thương mọi người ngay cả những ai chối bỏ và thù ghét Ngài. Con người là hình ảnh cao quý của Thiên Chúa. Thánh thiện hay tội lỗi, giàu sang hay nghèo hèn, bạn hữu hay thù địch, mỗi người đều là hình ảnh Thiên Chúa.
Khủng hoảng trầm trọng nhất của xã hội hôm nay phải chăng là khủng hoảng về niềm tin và ý nghĩa của cuộc sống? Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI nhận định: “Chúng ta đang phải đối diện với một cuộc khủng hoảng đức tin sâu xa, một sự mất ý thức tôn giáo là điều tiêu biểu cho một trong những thách thức lớn nhất đối với Giáo Hội ngày nay” (Phát biểu tại Assisi nhân ngày cầu nguyện cho hòa bình 27-10-2011). Theo Đức Thánh Cha, nguyên nhân sâu xa của những thách thức đối với Giáo Hội ngày nay là khủng hoảng Đức Tin. Hơn bao giờ hết, con người cần có Thiên Chúa; nếu không có Thiên Chúa, trần gian sẽ biến thành hỏa ngục. Có lẽ đây là một trong những lý do chính mà Ngài quyết định mở Năm Đức Tin cho toàn thể Giáo Hội hoàn vũ.
Trong buổi tiếp kiến chung ngày 14-11-2012, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI tiếp tục loạt bài giáo lý về Năm Đức Tin. Thế kỷ trước, chúng ta đã chứng kiến sự lớn mạnh và phát triển của chủ nghĩa tục hóa, nhân danh con người có quyền tự chủ tuyệt đối, coi tục hóa là một giải pháp và sự sáng tạo đối với hiện thực. Ngày nay, đức tin đang phải đối diện với những khó khăn, đó là “ít hiểu biết về đức tin, đức tin bị thử thách và chối từ đức tin”. Chủ nghĩa vô thần ‘thực dụng’ là một hiện tượng nguy hại cho đức tin.
Đức Thánh Cha mô tả về ba con đường nhận biết Thiên Chúa: thế giới, con người và đức tin.
- ‘thế giới’: liên quan đến việc “giúp con người ngày nay phục hồi khả năng chiêm ngưỡng vẻ đẹp và cấu trúc của công trình sáng thế. Thế giới này không phải là một khối hỗn mang không có hình dạng, nhưng càng tìm hiểu, càng khám phá cơ chế lý thú của nó, càng ngắm kỹ một mẫu hình, chúng ta càng thấy đó là cả một trí tuệ sáng tạo”.
- ‘con người’. Thánh Augustinô từng nói: “Chân lý cư ngụ trong trái tim con người”. Theo ĐTC, “đây là một khía cạnh khác, ngày nay trong một thế giới ồn ào, làm chúng ta bị phân tâm, chúng ta có nguy cơ đánh mất khả năng dừng lại và nhìn sâu vào nội tâm mình”.
- ‘đức tin’: đây không chỉ đơn giản là một “hệ thống những giá trị, những lựa chọn và hành động”, nhưng “là sự gặp gỡ Thiên Chúa, Đấng đang nói và hành động trong lịch sử, Đấng biến đổi cuộc sống hằng ngày của chúng ta, biến đổi suy nghĩ, các giá trị, những lựa chọn và hành động của chúng ta”. Ngài kết luận: “Đức tin không phải ảo tưởng, là trốn chạy cuộc sống, là nơi tạm trú đủ tiện nghi, là cảm xúc; nhưng là sự dấn thân vào mọi khía cạnh của cuộc sống và loan báo Tin Mừng, Tin Vui đem lại giải thoát mọi điều thuộc về con người”.(Theo Alessandro Speciale, Vatican Insider, 14-11-2012; WHĐ).
Con người sinh ra trên cõi đời này để làm gì và để đi về đâu?. Đó là câu hỏi lớn mà ngàn đời con người không ngừng đặt ra cho mình khi đứng trước những mâu thuẫn bất trắc của cuộc sống. Nghĩ cho cùng, mỗi người chỉ tìm thấy giải đáp cho câu hỏi ấy nhờ ánh sáng đức tin.
Đức tin là một sự sống. Khi thể hiện niềm tin bằng cuộc sống, tín hữu mới có thể an lòng là thần dân trong Vương quốc của Đức Kitô.Ánh sáng đức tin hướng dẫn nhân loại đến yêu thương và phục vụ. Khi con người biết sống cho người khác họ sẽ tìm thấy chính mình, thấy lý tưởng, thấy ý nghĩa cuộc sống. Sống cho hạnh phúc của tha nhân, đó là sự thật mà mỗi thần dân sống trong vương quốc Vua Giêsu được mời gọi thể hiện mỗi ngày.
Ở Vũng Tàu, có tượng Chúa Kitô Vua thật lớn đứng trên núi cao nhìn về biển đông, đôi tay giang rộng như ôm lấy cả trùng dương. Ngư dân ra khơi, nhìn lên tượng Chúa để xác định phương hướng. Khi gặp sóng gió, họ cũng hướng về tượng Chúa để cầu nguyện xin ơn.
Mừng lễ Chúa Kitô Vua vũ trụ, Vua niềm tin, chúng ta trọn một niềm xác tín, Chúa Kitô là trung tâm lịch sử cứu độ là chuẩn đích cho chúng ta định hướng với tin yêu và hy vọng. Hãy để cho Chúa chiếm trọn tất cả con người mình, tư tưởng, lời nói, việc làm. Chúng ta không còn thuộc về thế giới của bóng tối và tội lỗi. Chúng ta thuộc về vương quyền của Vua Giêsu là vương quyền của sự sống và sự thật, vương quyền của niềm tin và ân sủng, vương quyền của sự thánh thiện, công lý, tình yêu và hoà bình (Kinh Tiền Tụng).
(Suy niệm của Lm. Ga. Phan Tiến Dũng)
Thưa ACE, khi nghe nói hay được nhắc tới “CHÚA KITÔ VUA” thì mỗi người chúng ta có ấn tượng hay phản ứng gì hay không? Hình ảnh hay khái niệm nào của vị vua nào đó đã và đang gợi lên trong tâm trí chúng ta hay không? Nếu xét theo những tiêu chuẩn đánh giá của con người chúng ta về những vị vua ở trần gian này, thì chắc chắn họ là những người giàu có, địa vị, quyền cao chức trọng, cũng như nhiều quyền lực để sai khiến và cai trị. Thế thì, chúng ta biết hay hiểu như thế nào về Vua Giêsu Kitô, có điều gì khiến chúng ta phải tin kính và tôn thờ Ngài, hay phải nghe và noi theo những giáo huấn cũng như những gương mẫu của Ngài? Các bài đọc Lời Chúa hôm nay như soi sáng, hướng dẫn cho chúng ta trong việc chúng ta suy tôn Chúa Giêsu là Vua của mình và phải tôn thờ kính mến Ngài ra sao?
Bài đọc một (Đn 7, 13-14), từ thị kiến của Đaniel, “Con Người hay Vị Vua” xuất hiện với sức mạnh của chính Thiên Chúa, thế nên, mọi uy quyền và sức mạnh được trao ban cho Ngài. Vì Ngài đến từ Thiên Chúa, do đó, vương quyền của Ngài tồn tại và bền vững muôn đời, chứ không như những vị vua ở trần gian, họ phải bị suy vong và được thay thế bởi những người khác. Thế nên, thật hạnh phúc cho ai khi biết đặt trọn niềm tín thác vào Chúa, biết bám víu, nương tựa nơi Chúa và chọn Chúa là vị Vua của mình để tôn kính phụng thờ.
Trong bài đọc hai (Kh 1, 5-8) Thánh Gioan cũng được ơn soi sáng qua một thị kiến, thế nên, Ngài đã chỉ dạy và giải thích cho chúng ta biết về vị Vua mà chúng ta gọi là Chúa Giêsu Kitô. Ngài thật là Con Thiên Chúa, Đấng đến từ Thiên Chúa để trao ban và minh chứng cho chúng ta tình yêu thương và ơn cứu độ mà Thiên Chúa dành cho nhân loại. Thế nên, những ai tin và chọn Chúa, để sống theo Chúa thì sẽ được Ngài nâng chúng ta lên địa vị làm con cái và cho chúng ta được hưởng những vinh phúc cùng với Ngài. Thế nhưng, khi tin cũng như khi lựa chọn để theo con đường và cách sống của vị Vua Kitô, chúng ta không thể có con đường hay cách sống nào khác hơn, mà phải là chính con đường yêu thương, hy sinh, tự hiến như Chúa. Con đường hay triều thiên mà vị Vua Giêsu đã đi và sống chứng tá là thập giá, là vòng gai, là sự chết để yêu thương, tha thứ và cứu sống chúng ta. Thật vậy, con đường cũng như sứ vụ mà Vua Kitô đã chọn và sống, phải là sự lựa chọn và cách sống của mỗi người chúng ta.
Do đó, trong bài Tin mừng hôm nay (Ga 18, 33b-37) khi quan Philatô đối diện với Chúa Giêsu, ông rất phân vân, ngạc nhiên và không thể hiểu tại sao, một con người được gọi là Vua của cả dân tộc Do Thái mà lại chọn con đường và cách sống khác thường như vậy? “Philatô hỏi Chúa Giêsu rằng: Ông có phải là Vua dân Do-thái không?” Thật đúng như vậy, làm sao một vị Vua như Chúa Giêsu lại để cho người ta bắt bớ, đánh đập, lăng mạ, sỉ nhục, rồi đem đi kết án một cách tàn nhẫn bất công như vậy được, trong lúc, Ngài đã không có lầm lỗi hay làm điều sai trái gì.
“Quan nói đúng: Tôi là Vua…nhưng Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thì những người của tôi đã chiến đấu để tôi không bị nộp cho người Do-thái, nhưng mà nước tôi không thuộc chốn này”. Như thế, mới cho chúng ta thấy rằng, hình ảnh, con người và sứ vụ của Vị Vua Giêsu Kitô thật là hình ảnh của một Vị Mục Tử khiêm hạ, một Vị Thiên Chúa nhân lành, Người đã sẵn sàng để yêu thương, để hiến thân và để chết cho đoàn chiên của mình. Thật vậy, chỉ có qua cách thế duy nhất là khiêm hạ và tự hiến trên thập giá, Thiên Chúa mới có thể minh chứng biểu lộ và trao ban chính tình yêu thương đích thực và ơn cứu rỗi cho nhân loại.
Thế nên, điều còn lại là tùy thuộc nơi sự lựa chọn và cung cách sống của mỗi người chúng ta. Vậy thưa ACE, ai thực sự là vị vua trong cuộc đời của mỗi người chúng ta? Khi mừng lễ Chúa Kitô Vua, chuẩn bị kết thúc một hành trình của năm phụng vụ 2021, chúng ta như được mời gọi để nhìn lại trong suốt một năm phụng vụ vừa qua, chúng ta có thực sự hạnh phúc và vui sướng vì chúng ta có Chúa Giêsu là vị Vua của lòng trí và cuộc đời của mình hay không? Hôm nay, chính Chúa Giêsu qua lời của Ngài, cũng đang mời gọi chúng ta hãy tự vấn chính mình và trả lời cho Chúa: “Chúng ta nghe nói về Chúa là Vua, hay tự chúng ta tự cảm nhận, tự phán đoán và tin nhận về Chúa là Vua của mình?”
Như lời khẳng định của Chúa Giêsu: “Quan nói đúng: Tôi là Vua” xin cho mỗi người chúng ta biết vững tin vào Chúa, biết chọn Chúa, chọn con đường và cách sống của Chúa để chúng ta dấn thân sống trọn vẹn cho Ngài. Khi sống theo mẫu gương của Chúa Giêsu với lòng tín thác như vậy, chắc chắn, với ơn và sức mạnh của Chúa, Ngài sẽ giúp chúng ta có thể dấn thân để sống trao ban và làm lan tỏa tình yêu thương, sự tha thứ và ơn cứu độ của Chúa cho anh chị em mình.
Lạy Chúa Giêsu Kitô, Vị Vua của đời sống chúng con, xin Ngài hãy thực sự là Vị Vua của tình thương và sự tha thứ. Xin Chúa hãy đến, chiếm trọn tâm hồn và lòng trí chúng con, để chúng con từ nay xin quyết tâm chọn Chúa, tin vào Chúa, để sống trọn vẹn cho Chúa qua đời sống bác ái yêu thương. Amen.
(Suy niệm của Lm. John Nguyễn)
Các bạn thân mến!
Các bạn đang nghĩ gì các thần tượng của các bạn.! Một diễn viên xinh đẹp, một ca sĩ tài năng, một minh tinh màn bạc giàu có, hay một cầu thủ bóng đá đa tình.v.v. Họ là ai? Họ sống như thế nào? Họ là người tốt hay xấu, đôi khi chúng ta cũng không biết. Ấy thế, chúng ta lại tôn sùng họ, coi họ như là ánh sao dẫn đường cho cuộc đời của mình. Vậy ai cho bạn sự sống trên cõi đời cha mẹ các bạn đúng không? Nếu bạn dành một chút thời gian lắng động để suy niệm và lắng nghe được tiếng Chúa trong lòng các bạn, thì bạn sẽ có câu trả lời đúng, và bạn sẽ có sự chọn lựa và hướng đi tốt cho cuộc đời bạn. Vậy, có bao giờ các bạn chọn Giêsu là thần tượng, là Đấng bạn tôn thờ và yêu mến hết lòng không.?
Hôm nay, chúng ta mừng lễ Chúa Kitô là Vua. Một cái tên rất cao sang, uy quyền, vinh quang và thống trị theo cách nhìn của người đời. Điều này có thể làm cho chúng ta nghĩ đến các vua, các quan tham đầy quyền lực, thống trị, và bóc lột dân chúng. Trái lại, Đức Giêsu là vị Vua của Tình Yêu, Vua trên các vua. Vị Vua bị người đời chà đạp, bắt bớ, đánh đạp và sỉ nhục, đóng đinh và giết chết, mà chúng ta được nghe trong Tin Mừng hôm nay được diễn ra trong một quan tòa xét xử. Quan tòa Phi-la-tô hỏi Chúa Giêsu: “Ông có phải là vua dân Do-thái không?” Đức Giêsu trả lời: “Ngài tự ý nói điều ấy, hay những người khác đã nói với ngài về tôi?”. Ngài không phủ nhận điều Phi-la-tô gọi Ngài là Vua. Nhưng Chúa Giêsu đáp lại rằng: “Nước tôi không thuộc về thế gian này… Tôi sinh ra và đến trong thế gian là làm chứng cho sự thật. Ai đứng về sự thật thì nghe tiếng tôi”. Quan lại hỏi, sự thật đó là gì?.
Thưa các bạn! Để trả lời cho câu hỏi này, mỗi người chúng ta cần có câu trả lời cho chính mình. Tôi đang sống theo sự thật hay gian dối! Tôi đang sống trong tình thương hay hận thù! Nơi Chúa Giêsu, Ngài chứng minh cho sự thật, chính là chết trên cây thập giá, được người ta khắc cho với dòng chữ: “Giêsu Nagiarét Vua dân Do Thái”. Đây là lời nhạo báng và khinh bỉ của những kẻ bất lương dành cho Ngài. Sự thật, Ngài là Vua. Vị Vua không có vương miện trên đầu, nhưng thay vào đó là đội mão gai. Vị Vua không sống trong tòa lâu đài nghi nga tráng lệ mà là sinh ra nơi chuồng bò hôi tanh, lạnh lẽo, và sống ẩn dật nơi một làng quê nghèo hèn. Vị Vua không có thẩm phục, tước vị uy quyền mà là Người quỳ xuống để rửa chân cho các môn đệ. Vị Vua đi với người tội lỗi và sống với người nghèo khổ, chăm sóc người già nua, bệnh tật và ốm đau. Tất cả những điều đó không chứng minh đủ cho chúng ta rằng, Ngài là Vua Tình Yêu sao! Có vị vua nào ở trần gian này chết thay cho chúng ta không? Có thần tượng nào dám hy sinh và cho chúng ta sự sống không.? Chỉ có tình yêu Giêsu. Ngài đã làm chứng cho sự thật về tình yêu của Thiên Chúa ban tặng cho nhân loại. Sự thật đó không dừng lại qua cuộc khổ nạn và cái chết trên thập giá mà là dẫn đến vinh quang Phục Sinh của Đức Kitô. Trong ngày quang lâm chúng ta sẽ được chứng kiến vinh quang Nước Trời. Vì Ngài đã nói: “Nước Tôi không thuộc về thế gian này.” Trong sách Khải huyền viết: “Đức Giêsu là vị Chứng Nhân trung thành, là Trưởng Tử trong số người từ cõi chết trỗi dậy… Ngài yêu mến chúng ta và lấy máu mình rửa sạch tội lỗi chúng ta” (Kh 1,5-8). Ai tin sẽ được cứu rỗi. Vậy chúng ta còn nghi ngờ gì nữa mà không dám sống cho sự thật, Chúa Giêsu đã nói và chứng minh cho chúng ta bằng cái chết và phục sinh của Ngài.
Các bạn thân mến! Các bạn cùng tôi hãy sống cho chân lý và sự thật nơi thế gian, hãy bỏ đi những thứ vô thần đang lôi kéo chúng ta ra khỏi Thiên Chúa và Giáo Hội. Hãy thức tỉnh và lắng nghe Lời Chúa mời gọi, các bạn sẽ bước đi trong niềm vui, hân hoan, vui sướng và hạnh phúc, vì có Chúa ở cùng các bạn, Ngài sẽ cho chúng ta niềm hạnh phúc và sự sống bất diệt hôm nay và mai sau. Tin vào tình yêu Giêsu, chúng ta sẽ không bị thất vọng.
Lạy Vua Giêsu, Ngài là Vua của Tình Yêu, là Đấng con tôn thờ, là Đấng yêu thương hết mọi người, và ban bình an cho chúng con, vì không có vị vua nào trên trần gian có thể chết cho con, mang lại sự sống cho chúng con, nhưng chỉ có nơi Ngài, con có nguồn vui, sự sống và hạnh phúc đich thực. Amen.
Đây là Chúa nhật cuối cùng của năm Phụng vụ. Sau diễn từ cuối cùng quan trọng trước công chúng trong đó Đức Giêsu loan báo rằng, giữa “thời tai họa”, Người sẽ đến quy tụ toàn thể loài người để hưởng “một mùa hè tươi đẹp” Đức Giêsu đề cập đến cái chết của người và Người bước vào cuộc thương khó: Đó là phần kết và là đỉnh cao của “Tin Mừng” theo Thánh Máccô, mà chúng ta đã đọc suốt năm nay.
Chúa nhật cuối cùng này, chúng ta thay đổi thánh sử. Đây là một trang Tin Mừng của Thánh Gioan, nhưng đúng ra chúng ta vẫn ở trong cùng một mạch văn cũ, là trong cùng một kết luận. Thánh Gioan chỉ đưa ra tước hiệu là Vua trong cuộc thương khó, vừa đau khổ vừa vinh quang. Bỗng nhiên, liên tiếp ông nói về “Vua”, “Vương quyền” (Ga 18,33.36.37.39; 19,3.12.14.15.19.21) nhưng đó là một ông Vua bị đóng đinh mà vương miện của Người là những gai nhọn. Vậy thì rõ ràng là “Vương quyền” của Đức Giêsu ở trên một bình diện hoàn toàn khác với bình diện chính trị.
Ông Philatô trở vào dinh, cho gọi Đức Giêsu và nói với Người: “Ông có phải là vua dân Do thái không?
Đức Giêsu bị buộc tội. Người bị ra tòa. Phiên xử này là phiên xử danh tiếng nhất trong mọi thời đại!
Thẩm phán là ông Philatô, lãnh tụ của đạo quân La Mã đang chiếm đóng. Ông là viên toàn quyền của một đế quốc đã từng đô hộ và để dấu ấn trên thế giới. La Mã lúc bấy giờ ngự trị nước Ý, Pháp, Tây Ban ba, Anh và một phần nước Đức, Ao, Nam Tư, Rumani, Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ, Xyri, Libăng, Palextin, Ai Cập, Li bi, Tuynidi, Angiêri, Ma -Rốc. Hoàng đế lúc bấy giờ là Tibêriô, thừa kế của Augustô. Philatô là quan toàn quyền có nhiệm vụ chận đứng những vụ nổi loạn thướng chớm nở trong dân Do Thái. Người ta treo lên thập giá người Dêlôtê ngoài cổng thành. Hàng ngàn người đã bị treo lên thập giá, để áp đặt quyền lực của La Mã.
Bị cáo hôm đó; đối với Philatô là một “ông Giêsu nào đó” Mà cách đây ba năm chỉ là một anh thợ mộc giản dị và âm thầm tại Nagiarét, một thôn làng nhỏ, chính quyền cũng không biết tới họa chăng mới có một đội tuần tiễu đi qua. Tôi nhìn ngắm hai người đối diện; Philatô và Chúa Giêsu, quan tòa và bị cáo.
Đức Giêsu hỏi lại ông ấy.
Thật là một điều quá đáng? Bị cáo bây giờ lại “hạch hỏi quan tòa”. Có phải vai trò bị đảo ngược không? Táo bạo thật, người bị cáo đáng thương! Người ấy là ai vậy? Đức Giêsu đáp: “Ngài tự ý nói điều ấy, hay những người khác đã nói với ngài về tôi? Đức Giêsu thật tuyệt vời. Người biết rằng quan tòa này là toàn quyền. Tuy nhiên, Chúa muốn ông có một tương quan cá nhân, cố dẫn ông ra khỏi một cuộc tranh luận pháp lý, để bày tỏ một lập trường của riêng ông, “này, ông Philatô, có phải chính ông nói rằng tôi là Vua không?”. Phần lớn các vấn đề của thế giới kỹ thuật, hệ thống hóa, hành chánh hóa của chúng ta có lẽ đang nằm ở trong thái độ trên đây của Đức Giêsu, một con người đang- cố thoát khỏi mối liên hệ “quan tòa – bị cáo” để bước sang tương quan “người và người”. Chúng ta không ngừng đóng những vai trò” và ưa đeo mặt nạ: Chủ – thợ, y sĩ – bệnh nhân, thông gia – khách hàng, trợ lý xã hội với người được trợ giúp linh mục – con chiên, cha mẹ – con cái, thầy dạy – học trò, Giáo Hội giáo huấn và Giáo Hội thụ huấn. Này Philatô, hãy bỏ mặt nạ ra! Hãy nhìn thẳng vào mặt Ta. Ông hãy nói, ông nghĩ gì về Ta? ông đừng trả lời những bài đã học ở kẻ khác. Chính ông phải có lập trường. Chính ông phải “tuyên xưng Đức tin”.
Ông Philatô trả lời: “Tôi là người Do thái sao? Chính dân của ông và các thượng tế đã nộp ông cho tôi. Ông đã làm gì?
Ta cảm thấy quan tòa hơi bực mình. Ông ta có ý tiến công. Ông ta khước từ không muốn bị kêu gọi bước vào lương tâm mình. ông quyết định trở lại với vai trò, với “mặt nạ” của mình. Tôi không phải ngồi đây để nói tôi nghĩ gì mà là để xử vụ án. “Ông đã làm gì?” Đức Giêsu đã cố gặp “một người”. Nhưng Philatô đóng vai trò “một nhân vật” Dù sao thì Philatô cũng đang “thống trị “, chính ông mới có uy quyền. Người thợ ở làng Nagiarét không thể có lý trước mặt César. Ai có thể nói hôm đó rằng, không phải là César, với gót giày của đạo quân bách chiến bách thắng, sẽ trở nên khuôn mẫu cho thế giới mai sau… nhưng lại là anh thợ mộc thấp bé, bị khinh khi. Từ người thợ mộc này sẽ phát sinh một nhân loại mới cho nhiều ngàn năm.
Đức Giêsu trả lời: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do thái. Nhưng thật ra Nước tôi không thuộc chốn này
Đức Giêsu không trả lời câu hỏi của quan tòa “ông đã làm gì?”. Chính Đức Giêsu không có ý thắng người đối thoại nhưng chỉ hướng cuộc đối thoại theo đề tài mà Người muốn bàn cãi.
Đức Giêsu giải tỏa mọi sự hiểu lầm về tước hiệu “Vua” mà Philatô đang tìm cách điều tra ít nhất có ba cách làm “Vua”.
- Vua theo nghĩa chính trị, theo kiểu La Mã: Người ta thống trị kẻ khác bằng cách nô lệ hóa họ.
- Vua theo nghĩa Thiên sai, theo kiểu mong đợi của dân Do Thái: Một người thuộc dòng dõi Vua Đa-vít chính thức lên ngôi, và chiến thắng kẻ thù của Israel, của Chúa bằng cách đè bẹp chúng.
- Sau hết, Vua theo cách của Đức Giêsu: Một vương quyền huyền bí, không ép buộc ai, không đè bẹp ai “bạn có muốn theo tôi không?” “Các bạn cũng muốn bỏ đi hay sao?”. Một vương quyền mà lại để “Vua” bị “Giao nộp” cho kẻ thù mà không kháng cự một tổng thống mà không có “vê binh” để bảo vệ mình, không có cận vệ để bao bọc trước đám đông. Một vương quốc không quân đội, không thiết giáp không hỏa tiễn. (Một lãnh tụ Xô Viết trước kia đã hỏi một cách ngây ngô xem Đức Giáo Hoàng có được bao nhiêu sư đoàn thiết giáp!)
Đức Giêsu luôn hành động như Đấng có “Toàn quyền”: Người đã đuổi quỷ ra khỏi con người, đã đánh bại sự dữ, đã chế ngự biển khơii đang xung động, đã đổi mới cách giảng dạy Luật Do Thái với một uy quyền không ai sánh được. Nhưng trong khi làm như vậy, Người đã không bao giờ cưỡng bức ai.
Chúa là vị Thầy đã để cho chúng ta được hoàn toàn tự do, mà còn tự “Giao nộp” để cho chúng ta tấn công Người. (Tôi suy niệm về từ “Giao nộp” mà chính Chúa đã dùng ở đây). Đức Giêsu là chính dung mạo của Thiên Chúa, là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình (2 Cr 4,4). “Kẻ nào thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14,8-11; Cl 1,15). Không ai đã thấy được Thiên Chúa, nhưng Con Một đã mạc khải Người cho chúng ta” (Ga 1,18). Trong nội dung rao giảng của Người được ghi lại trong ba Tin Mừng. Nhất lãm, Đức Giêsu đã không ngừng nói về “Nước Trời”, “Nước của Thiên Chúa”, nhưng đó không phải là một vương quốc như những vương quốc trần thế.
Đó là một vương quốc ẩn dật như một hạt cải nhỏ bé sẽ trở nên một cây lớn, như một nhúm men, người đàn bà trộn vào bột, như hạt lúa mì chết đi trong lòng đất để mang lại bông hạt. Đức Giêsu là “Vua”, vâng, nhưng theo cách của Thiên Chúa. Và rõ ràng Thiên Chúa không phải như chúng ta tưởng tượng Thiên Chúa “trị vì”, Thánh Vịnh đã hát lên như thế (Tv 46,9; 54,20; 58,14; 92,1; 96,1; 98,14; 145,10) và Đức Giêsu dạy chúng ta cầu nguyện với Chúa Cha “Xin cho Nước Cha trị đến”. Thiên Chúa không đè bẹp kẻ thù của Người. Thiên Chúa không bắt buộc con Người phải tin nơi Người. Người cho mặt trời mọc lên trên cả người công chính lẫn người bất lương, trên kẻ ác cũng như người lành, trên người vô thần cũng như trên các tín hữu (Mt 5,43-48). Thiên Chúa yêu thương những người không yêu thương mình mà Người yêu cầu chúng ta cũng làm như vậy. Người không phải là “Vua”! Không, tuyệt đối không phải là “Vua”! Người không giống bất cứ một ông Vua nào của trần gian.
Nhưng không! Nước Tôi không thuộc về thế gian này.
Sau khi đã phân biệt rõ ràng vương quyền của Người với tất cả vương quyền khác, bây giờ Đức Giêsu có thể tuyên bố Người là Vua…, bởi vì từ bây giờ trở đi không ai có thể hiểu lầm về ý nghĩa của vương quyền nữa. Vương quyền này không dính líu gì với những quyền lực dưới thế gian này.
Người quả quyết, Vương quyền này từ “nơi khác” đến. Người cảm thấy không cần nói rõ “nơi khác” mà từ đó Người đến. Người ta có thể giết Chúa, nhưng Chúa vẫn thắng, vẫn hiển trị. Cái nghịch lý của “nơi khác” thần thiêng này là Vinh quang của Người không thể bị suy giảm bởi những thử thách hay thất bại trên thế gian. Vương quyền (thần thiêng!) của Người không tránh cho Người phải chết về mặt thể xác. Vinh quang của Người là vinh quang được “nâng lên khỏi mặt đất” trên thập giá, và lên ngự bên phải của Chúa Cha.
Ông Philatô liền hỏi: “Vậy ông là vua sao?
Trên môi miệng của Philatô, đại danh từ “ông” được đặt sau động từ, trong bản văn Hy Lạp rất có ý nghĩa: “Vua ông”. Sao? ông, người mạo danh, ông, mà người ta sắp xóa bỏ bằng một nét bút. Ông là người; mà tôi, sắp cho tiêu diệt ông, là người tù đáng thương không thể tự vệ được:
\Đức Giêsu đáp: “Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật.
“Đã đến”. Người đã nói “Tôi đã đến”, từ một ‘nơi khác’, đã đến thế gian. Trong bài đọc 2 được đọc trong Chúa nhật này, chúng ta đã nghe Gioan định nghĩa Đức Giêsu như là “nhân chứng trung thực”. Chữ “Chứng nhân” này dịch từ chữ Hy Lạp “Martyr” do đó có chữ Pháp là “Martyr” có nghĩa tử đạo. Người đã trả giá cho vương quyền của Người! cho việc làm chứng của Người!
Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi
Vậy thì vương quyền của Chúa Kitô Vua hệ tại điều gì? Đó là quy tụ lại để cùng lắng nghe “một giọng nói” tất cả những ai thuộc về sự thật”. Người “trị vì” nhờ Đức tin mà chúng ta dâng cho Người, nhờ thái độ tín thác mà chúng ta đặt vào Lời của Người, nhờ nếp sống hằng ngày của chúng ta luôn phù hợp với “Tiếng nói của Người. Không ai có thể thoát khỏi “Vương quyền” này.
Là con người, chúng phải chọn lựa thái độ theo hay chống lại “Sự thật”. Làm vinh danh Chúa Kitô Vua, không phải là đốt hương trầm cho Người, không phải là tổ chức những lễ long trọng mừng Người, giống như những danh vọng hư ảo của các Vua Chúa trần gian. Nhưng chính là lắng nghe tiếng nói của Người, và làm sao cho cuộc sống cá nhân, gia đình, nghề nghiệp và xã hội hoàn toàn phù hợp với “Tiếng nói đó”
(Suy niệm, Chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông)
Mục đích của Chúa Giê-su khi thành lập Giáo Hội là thiết lập một vương quốc của tình yêu, công lý và hòa bình trên mặt đất. Nhiệm vụ của mỗi Ki-tô hữu phải là nắm men làm dậy lên tình yêu, công lý và hòa bình trong đống bột trần thế. Triều đại Thiên Chúa chỉ có thể trị đến bằng hành động tích cực của mỗi thành viên.
Đn 7: 13-14
Trong Bài Đọc I được trích từ sách Đa-ni-en, nhà thị kiến được tham dự vào lễ phong vương của một nhân vật mầu nhiệm, được gọi “Con Người”, lãnh nhận từ Thiên Chúa vương quyền hoàn vũ.
Kh 1: 5-8
Bài Đọc II là phần mở đầu sách Khải Huyền của thánh Gioan. Đây là một bài thánh thi chúc tụng Đức Ki-tô, “Người là Đấng vinh hiển và toàn năng đến muôn thuở muôn đời”.
Ga 18: 33-37
Tin Mừng được trích dẫn từ bài Thương Khó theo Tin Mừng Gioan: Đức Giê-su bị điệu ra trước tổng trấn Phi-la-tô. Ngài khẳng định mình là Vua, nhưng Nước Ngài không thuộc thế gian này.
BÀI ĐỌC I (Đn 7: 13-14)
Sách Đa-ni-en cốt yếu là một sứ điệp tràn đầy hy vọng. Mục đích của tác giả là an ủi các tín hữu Do thái đang sống trong cảnh bị bách hại dưới thời vua An-ti-ô-khô Ê-phi-pha-nê (175-164 trước Công Nguyên). Tác giả tiên báo kẻ thù của họ sắp bị tiêu diệt và cuối cùng Thiên Chúa sẽ toàn thắng.
- Bố cục
Ngoài phần phụ chương (ch. 13-14), sách Đa-ni-en gồm có hai phần chính:
- “Phần trình thuật” (ch. 1-6) kể lại tấm gương của thiếu niên Đa-ni-en bị lưu đày ở Ba-by-lon, qua đó, tác giả cho thấy Thiên Chúa phù trợ các tín hữu trung thành với Ngài ngay cả trong những cơn gian nan khốn khó nhất như thế nào.
- “Phần thị kiến” (ch. 7-12), theo thể loại văn chương khải huyền, trình bày những thị kiến liên quan đến lịch sử dân Ít-ra-en. Chính ở phần thứ hai này mà chúng ta gặp thấy bản văn nổi tiếng mô tả lễ phong vương của “Con Người”. Đức Giê-su đã đồng hóa mình với nhân vật mầu nhiệm này.
- Sứ điệp
Vị ngôn sứ vừa mới trình bày một trong những thị kiến ban đêm, trong đó ông đã thấy xuất hiện từ biển bốn con quái vật, biểu tượng bốn đế quốc thống trị. Những đế quốc này không được nêu tên, xem ra cốt là bốn đế quốc tiếp nối nhau thống trị Ít-ra-en: Ba-by-lon, Ba tư, A-lê-xan-đê đại đế, triều đại của hai dòng họ La-gít và Sê-lơ-sít. Con thú thứ tư gây kinh khiếp nhất, chính là triều đại của dòng họ Sê-lơ-sít là vua An-ti-ô-khô Ê-pi-pha-nê quỷ quyệt, được mô tả bằng những hình tượng huyền hoặc. Bốn đế quốc này đều sụp đổ để nhường chỗ cho Nước Thiên Chúa, được trao ban cho một nhân vật được gọi “Con Người”.
Trong ngôn ngữ Do thái, danh xưng “con người” viết thường là một thành ngữ Do thái được viết tắt từ cụm từ “con cái của loài người” (“son of Man”) để chỉ “một phàm nhân mỏng dòn yếu đuối” (x. Tv 80: 17; Gr 50: 40; 51: 43). Trong sách Ê-dê-ki-en, danh xưng này xuất hiện đến 93 lần mà tiêu biểu nhất là lệnh truyền của Thiên Chúa được ngỏ với ngôn sứ Ê-dê-ki-en: “Còn ngươi, hỡi con người, hãy nói…” (Ed 7: 2). Qua danh xưng này, ngôn sứ Ê-dê-ki-en muốn nói rằng ông chỉ là một phàm nhân như bao nhiêu con người khác, nhưng Thiên Chúa toàn năng, Đấng cho ông thoáng thấy vinh quang của Ngài, đã trao ban cho ông lời hằng sống của Ngài để ông chuyển giao cho dân Ngài. Vì thế, có một khoảng cách khôn sánh giữa sứ điệp mà ông truyền đạt và con người của ông.
Tuy nhiên, trong sách Đa-ni-en, thành ngữ “Con Người” được viết hoa là một danh hiệu để chỉ một nhân vật có nguồn gốc thiên giới: “Có ai như một Con Người đang ngự giá mây trời mà đến” (7: 13). Theo biểu tượng Kinh Thánh, “mây trời” luôn luôn là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa. Con Người lãnh nhận “quyền thống trị, vinh quang và vương vị”, được Đấng Lão Thành, tức là Thiên Chúa hằng sống, trao ban. Trong khi những vương quyền trần thế lần lượt bị tiêu vong, thì vương quyền của Con Người “chẳng hề suy vong” và bao trùm mọi dân mọi nước cũng như toàn thể vũ trụ.
- Vương quyền của Con Người
Toàn bộ chương 7 này cho thấy dung mạo “Con Người” vừa là một cá nhân vừa một tập thể, tương tự như dung mạo “Người Tôi Trung” của I-sai-a đệ nhị. Vả lại, Đức Giê-su đã đồng hóa dung mạo “Người Tôi Trung” và dung mạo “Con Người” vào Ngài. Viễn cảnh vừa cá nhân vừa tập thể này hoàn toàn phù hợp với não trạng Do thái: Con Người là một lãnh tụ điển hình của dân Thiên Chúa, đồng thời cũng là dân Thiên Chúa. Những câu theo sau giải thích rõ điều này: khi con thú thứ tư dứt khoát bị tiêu diệt, Thiên Chúa ban cho dân thánh của Đấng Tối Cao vương quốc với quyền thống trị cũng như địa vị cao cả trên mọi dân mọi nước (7: 18, 27).
Trong tất cả sấm ngôn, phải phân biệt “nghĩa hiện thời” và “nghĩa tương lai”. Nghĩa hiện thời mà tác giả sách Đa-ni-en nhắm đến là loan báo cho đồng bào của ông cuộc giải thoát chắc chắn sắp đến được ban cho họ qua các vị tử đạo vinh hiển của họ. Như vậy, về phương diện tập thể, Con Người là dân Chúa chọn được giải thoát và được tôn vinh. Tuy nhiên, những viễn cảnh cánh chung (nghĩa tương lai) không bao giờ vắng bóng trong các sách khải huyền. Đó là quy luật của thể loại văn chương này. Những biến cố được loan báo hiện thời bao gồm rồi bức tranh vĩ đại của thế giới sắp đến. Sách Khải Huyền của thánh Gioan cũng trình bày nghĩa kép như thế: tôn vinh các thánh tử đạo của thời kỳ bách hại cũng là tôn vinh toàn thể dân Chúa chọn, họ sẽ cử hành cuộc chiến thắng sau cùng của Con Chiên vào ngày tận thế.
Tiếp sau sách Đa-ni-en, các sách khải huyền Do thái lấy lại danh hiệu “Con Người” và ban danh hiệu này cho một cá nhân rất rõ nét, khi trao ban tước hiệu này cho một Đấng Thiên Sai thuộc dòng dõi Đa-vít, nhưng các sách này nhấn mạnh tính cách siêu việt và mầu nhiệm của nhân vật này, và tính cách này chỉ được bày tỏ vào thời tận thế.
Khi nhận tước hiệu Con Người về mình, Đức Giê-su đã cá nhân hóa tước hiệu tập thể này vào Ngài. Theo cách thức này, Ngài khẳng định vừa nhân tính vừa thiên tính của Ngài, Ngài thật sự là một con người có nguồn gốc thần linh: “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống” (Ga 3: 13). Khi Đức Giê-su tuyên bố trước Thượng Hội Đồng Do thái: “Từ nay, các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng và ngự giá mây trời mà đến” (Mt 26: 64), rõ ràng Ngài ám chỉ đến nhân vật “Con Người” trong sách Đa-ni-en.
BÀI ĐỌC II (Kh 1: 5-8)
Sách Khải Huyền thánh Gioan được định vị vào trào lưu văn chương khải huyền Do thái, đặc biệt sách Đa-ni-en. Tác giả sử dụng những từ ngữ và hình ảnh tương tự, nhưng chủ đề thì biến đổi. Những sấm ngôn đã được ứng nghiệm. Đấng Thiên Sai đã đến giữa nhân loại, đã chết và sống lại; Ngài đã vào trong vinh quang của Ngài. Ngay từ đầu đoạn trích này, Đức Giê-su được xưng tụng là “Thủ Lãnh mọi vương đế trần gian”.
Ở những chương đầu tiên, sách Khải Huyền được trình bày như một bức thư được gửi đến cho bảy Hội Thánh miền Tiểu Á. Theo thể loại thư tín của thời đại này, thư thông thường bắt đầu với lời chào được gửi đến người nhận, và cũng như trong các thư của thánh Phao-lô, lời chào này được Ki-tô hóa: “Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, và xin Chúa Giê-su Ki tô ban cho anh em ân sủng và bình an” (Kh 1: 2). Lời cầu chúc này tập hợp lời chào Hy lạp: “ân sủng”, và lời chào Do thái: “bình an”.
- Các danh hiệu của Đức Giê-su Ki-tô
Danh hiệu đầu tiên của Đức Giê-su Ki-tô được kể ra là “Chứng Nhân trung thành”. Trong thư thứ nhất cũng như trong sách Tin Mừng của mình, thánh ký Gioan nhấn rất mạnh tầm quan trọng của chứng nhân. Thánh Gioan Tẩy Giả là chứng nhân của Đức Ki-tô; thánh Gioan Tông Đồ cũng là chứng nhân về điều mình đã thấy và đã nghe (x. 1Ga 1: 1-4; Ga 19: 35). Ở đây, danh hiệu “Chứng Nhân trung thành” được áp dụng cho Đức Giê-su Ki-tô. Chính Đức Giê-su Ki-tô làm chứng về những gì Ngài đã thấy và đã nghe ở trong cung lòng của Chúa Cha.
Những danh hiệu: “Chứng Nhân trung thành”, “Trưởng Tử” và “Thủ Lãnh mọi vương đế trần gian”, không phải là ngẫu nhiên nhưng rất tương xứng với những danh hiệu của Đấng Mê-si-a (“Đức Ki-tô”) thuộc dòng dõi Đa-vít được mô tả trong Tv 89: 27-28, 38. Với danh hiệu “Trưởng Tử”, thánh Gioan thêm: “trong số những người từ cõi chết chỗi dậy” như thánh Phao-lô trong thư gửi tín hữu Cô-lô-sê (Cl 1: 15). Sách Khải Huyền rõ ràng là một bức tranh mô tả vô số những người được tuyển chọn vây quanh Đấng Phục Sinh.
- Bài thánh thi
Đoạn trích này là một “bài thánh thi” mà các nhà chuyên môn gọi “Vinh Tụng Ca” ca ngợi những ân phúc của Đức Giê-su Ki-tô. Bài thánh thi ca ngợi những phẩm chất cao vời của vương quyền Đức Ki-tô: triều đại tình yêu, thời kỳ Đức Vua dâng hiến cho các thần dân của Ngài những thành quả cuộc Tử Nạn và Hy Tế của Ngài và cho họ dự phần vào vương quốc của Ngài. Sau khi đã thánh hiến họ và thanh tẩy họ khỏi vết nhơ tội lỗi, Ngài cho họ trở thành tư tế để tôn vinh Thiên Chúa là Cha của Ngài.
Vị vua này sẽ tỏ mình ra vào ngày tận thế: “Kìa Người ngự đến giữa đám mây” như Con Người trong thị kiến của ngôn sứ Đa-ni-en. “Ai nấy sẽ thấy Người, cả những kẻ đã đâm Người”, ám chỉ đến sấm ngôn của Dcr 12: 10: “Chúng sẽ ngước nhìn lên Ta. Chúng sẽ khóc than Đấng chúng đã đâm thâu”, nghĩa là Đấng mà người ta long trọng loan báo cuộc Quang Lâm của Ngài là Đấng chịu đóng đinh trên thập giá.
“Mọi dân trên mặt đất sẽ đấm ngực than khóc khi thấy Người”, vì đây là giờ xử án, giờ ăn năn sám hối. Như sách Khải Huyền, Tin Mừng Mát-thêu cũng đặt bên cạnh nhau sự ăn năn sám hối và thị kiến vinh quang: “Bấy giờ mọi chi tộc trên mặt đất sẽ đấm ngực và sẽ thấy Con Người rất uy nghi vinh hiển ngự giá mây trời mà đến” (Mt 24: 30).
Như sách Đa-ni-en, sách Khải Huyền là một bài thánh ca chứa chan niềm hy vọng vào sự chiến thắng của Thiên Chúa trên các quyền lực của sự ác. Lời tung hô “A-men!…A-men!…” đem lại cho bài thánh thi tạ ơn này sắc thái phụng vụ.
Bài thánh thi kết thúc với lời công bố của Thiên Chúa. Lời công bố này gồm hai phần: phần thứ nhất: “Ta là An-pha và Ô-mê-ga”, và phần thứ hai: “Đấng hiện có, đã có và đang đến, là Đấng Toàn Năng”. Phần thứ nhất là một biểu thức lập đi lập lại nhiều lần trong sách Khải Huyền: “Ta là An-pha và Ô-mê-ga” (chữ đầu và chữ cuối trong mẫu tự Hy ngữ) và âm vang lời Thiên Chúa công bố trong Is 44: 6: “Ta là khởi nguyên, Ta là cùng tận; chẳng có thần nào hết, ngoại trừ Ta”. Phần thứ hai được gợi hứng từ lời Đức Chúa công bố cho ông Mô-sê trong sách Xuất Hành: “Ta là Đấng Hiện Hữu” (Xh 3: 14), nhưng được thích ứng vào viễn cảnh ngày tận thế nên được thêm vào ở đây: “Đấng hiện có, đã có và đang đến, là Đấng Toàn Năng”. Ở Kh 22: 13, lời công bố này được quy cho chính Đức Ki tô: “Ta là An-pha và Ô-mê-ga, là Đầu và Cuối, là Khởi Nguyên và Cùng Tận” .
TIN MỪNG (Ga 18: 33-37)
Sau khi sống lại, Đức Giê-su sẽ công bố quyền chủ tể hoàn vũ của Ngài; nhưng trong khi thi hành sứ vụ công khai, Ngài đã không ngừng tránh né danh hiệu này vì sợ dân chúng hiểu lầm danh hiệu này theo sắc thái chủ nghĩa dân tộc và chính trị. Còn đối với các môn đệ của Ngài, Ngài chỉ dạy cho họ một mẫu gương phải noi theo, mẫu gương phục vụ như Ngài: “Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20: 28). Chỉ khi Ngài bị bắt, bị nộp vào tay người đời và bất lực, Ngài mới công bố mình là Vua.
Trong bài Thương Khó, thánh Gioan dành cho hoạt cảnh Chúa Giê-su bị điệu ra trước quan tổng trấn Phi-la-tô một chỗ quan trọng hơn ba sách Tin Mừng Nhất Lãm. Thánh Gioan đặt ở nơi hoạt cảnh này dấu ấn của riêng mình, ý nghĩa sâu xa, pha lẫn với lời châm biếm nhẹ nhàng, sứ điệp ngẫu nhiên được dùng để nâng đỡ sứ điệp vĩnh hằng. Thánh Gioan là nhà thần học về cuộc Thương Khó.
- Đức Giê-su bị điệu ra trước tổng trấn Phi-la-tô
Bản văn thuật lại cuộc đối thoại giữa Đức Giê-su và tổng trấn Phi-la-tô đưa chúng ta vào trọng tâm của cuộc tranh luận. Các thượng tế tố cáo Đức Giê-su hai tội: “Ông này tự xưng mình là Con Thiên Chúa” và “Ông này tự xưng mình là vua”. Lời tố cáo thứ nhất mới thực sự là lời buộc tội, lời tố cáo thứ hai chỉ là cái cớ ngụy tạo cốt đặt vị tổng trấn Rô-ma và kẻ phá rối trị an đối diện với nhau. Vị tổng trấn không dễ bị mắc lừa; ông hiểu quá rõ mánh lới của các thượng tế, vì thế ông cần phải tra hỏi phạm nhân cho ra lẽ: “Ông có phải là vua dân Do thái không?”.
- “Vua dân Do thái”
Đối với tổng trấn Rô-ma, đây là một câu hỏi then chốt, vả lại đây là câu hỏi duy nhất thuộc thẩm quyền của ông: tội chính trị. Theo phương sách Chúa Giê-su thường dùng, phương sách này cho phép Ngài giữ thế phản công, thay vì trả lời câu hỏi mà quan tổng trấn đặt ra cho Ngài, Chúa Giê-su hỏi ngược lại ông Phi-la-tô: “Ngài tự ý nói điều ấy, hay những người khác đã nói với ngài về tôi?”, nghĩa là, “với tư cách quan tổng trấn, ông có những thông tin chính xác về những tham vọng chính trị của tôi, hay lời buộc tội đến từ các thượng tế mà ông chỉ nghe tin đồn?”. Như vậy, Đức Giê-su đặt tổng trấn Phi-la-tô trước trách nhiệm của ông.
Quan tổng trấn hiểu rõ điều này và ông trả lời với thái độ miệt thị các lãnh đạo Do thái: “Tôi là người Do thái sao? Chính dân của ông và các thượng tế đã nộp ông cho tôi. Ông đã làm gì?”. Qua câu trả lời này, ông Phi-la-tô muốn nói rằng chính ông, với tư cách quan tổng trấn, tiến hành cuộc điều tra, chứ không dựa trên những lời đồn đại. Như chúng ta thấy, cuộc tranh luận được tiến hành không phải bởi quan tòa nhưng bởi kẻ bị cáo. Điều này cho thấy Đức Giê-su vẫn làm chủ tình thế, dù người chất vấn Ngài nắm trong tay quyền sinh sát đối với Ngài.
Câu hỏi “Ông đã làm gì?” là lời đáp trả cho câu hỏi vặn lại của Đức Giê-su. Đức Giê-su không trả lời thẳng câu hỏi sau cùng này: “Ông đã làm gì?”, nhưng câu hỏi đầu tiên: “Ông có phải là vua dân Do thái không?”; Ngài gợi lên bản chất vương quyền của Ngài: Nước Ngài không thuộc về thế gian này, vì thế, quyền lực Rô-ma chẳng có gì phải bận tâm; và quân đội của Ngài không chiến đấu để bảo vệ Ngài, vì thế, quan tổng trấn chẳng có gì phải lo sợ.
Quan tổng trấn Phi-la-tô lại hỏi: “Vậy ông là vua sao?”, Đức Giê-su trả lời: “Chính ngài nói rằng tôi là vua”. Câu trả lời của Đức Giê-su vừa khẳng định nhưng vừa bỏ lửng, nghĩa là: “Đúng như ông nói, nhưng không theo cách ông nghĩ”.
- Sự thật
Đức Giê-su tiếp tục tranh luận khi mô tả bản chất vương quyền của Ngài: “Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về sự thật thì nghe tiếng tôi”. Một lần nữa, Đức Giê-su đặt tổng trấn Phi-la-tô trước trách nhiệm của ông: ông đứng về sự thật hay đồng lõa với sự dối trá. Bấy giờ, quan tổng trấn biết rõ các vị thượng tế bịa đặt lời tố cáo; vì thế ông đứng về phía sự thật. Quả thật, tổng trấn Phi-la-tô sắp công bố đến ba lần Đức Giê-su vô tội trước đám đông (Ga 18: 38; 19: 4, 6). Thánh Lu-ca còn xác định thêm nữa: “Bây giờ ông Phi-la-tô triệu tập các thượng tế, thủ lãnh và dân chúng lại mà nói: ‘Các ngươi nộp người này cho ta, vì cho là tay khích động dân, nhưng ta đã hỏi cung ngay trước mặt các ngươi, mà không thấy người này có tội gì, như các ngươi tố cáo” (Lc 23: 13-14). Vì thế ông tìm mọi cách để tha bổng Chúa Giê-su, nhưng ông đành bất lực trước những áp lực từ phía giai cấp lãnh đạo Do thái.
“Chúng tôi có Lề Luật; và chiếu theo Lề Luật, thì nó phải chết, vì nó đã xưng mình là Con Thiên Chúa” (Ga 19: 7). Đây mới thật là tội danh dẫn Ngài đến cái chết. Ông Phi-la-tô không đủ can đảm đi cho đến cùng lời chứng của mình, nói lên tiếng lương tâm ngay thẳng của mình. Vấn đề trung thành với sự thật được đặt ra và được đặt ra rất kịch tính.
- Sứ điệp vĩnh hằng
Bên kia sứ điệp bất ngờ của Đức Giê-su với tổng trấn Phi-la-tô: “Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về sự thật thì nghe tiếng tôi”, thánh ký nghĩ đến tất cả các Ki-tô hữu mà giáo huấn này được gửi đến họ. Đức Giê-su đã đến mặc khải cho con người sự thật đến từ Thiên Chúa; Ngài đã làm chứng sự thật này cho đến cả mạng sống mình, Ngài đã đồng hóa mình với sự thật. Tất cả những ai đón nhận, sống và chết cho sự thật này được liên kết với Ngài. Đức Giê-su không nói “Ai sở hữu sự thật”, nhưng “ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi”. Đức Giê-su đã công bố Xa-tan là cha của sự dối trá, trong khi sự thật là một phần liên kết với Thiên Chúa và mở rộng cánh cửa Nước Thiên Chúa.
(Chú giải của Fiches Dominicales)
VƯƠNG QUYỀN CỦA ĐỨC KITÔ
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
- Đức Giêsu Vua, nhưng khác với vua trần thế.
Ta đang tham dự vụ án xử Đức Giêsu trước toàn án Rôma, Giêrusalem trong dinh tổng trấn Philatô ông làm tổng trấn xứ Giuđê từ năm 26 đến 36.
Ngay lúc đầu cuộc thẩm vấn do Philatô đứng xét hỏi, phía nghịch đã nêu lên cáo trạng chống lại Đức Giêsu, tìm cách chuyển vụ án sang lãnh vực chính trị để đạt được mục đích của là lên án tử hình cho Đức Giêsu. Vậy quan tổng trấn hỏi: “Ông có phải là vua dân Do Thái không?”.
- Léon-Dufour giải thích: “Cần lưu ý rằng, dưới thời đế quốc Roma cai trị, dân Do Thái thường xen lẫn ý nghĩ chờ đợi Đấng Mêsia với lòng mong mỏi độc lập cho quốc gia, do Đấng Mêsia thiết lập (Cv 1,6) và khởi đầu một thời đại mới. Trong Tin Mừng thứ bốn, ta thấy hai giai thoại phản ánh bầu khí này. Đó là sau phép lạ hóa bánh ra nhiều, đám đông dân chúng Galilê đã muốn lấy “vị Ngôn sứ” để tôn lên làm vua; bấy giờ Đức Giêsu phải lên núi mới thoát khỏi (Ga 6,14-15). Rồi sau khi Chúa cải tử hoàn sinh cho Ladarô, niềm phấn khởi của quần chúng đối với Giêsu biểu lộ bằng việc từng đoàn lũ cầm cành vạn tuế, biểu hiệu của thắng trận, đi đón rước Chúa vào thành Giêrusalem, tung hô Ngài là “Vua Israel”, vì họ coi Ngài như vị cứu tinh giải phóng quốc gia. Bấy giờ Chúa đã tỏ rõ sự bất đồng tình của Người và tố giác sự ngộ nhận của cuộc đón rước bằng cách chọn một con lừa nhỏ để cỡi.” (“Lecture de l’evangile selon Jean”, tập IV, Seuil. 1996, tr. 82). Một lần nữa Đức Giêsu gạt phăng mọi hiểu lầm.
Trước hết, Chúa dùng một câu hỏi, truy tìm nguồn gốc của lời tố cáo này: “Ngài tự ý nói điều đó, hay những người khác đã nói với Ngài về tôi?”. Philatô nhìn nhận đó là cuộc tranh luận nội bộ của người Do Thái, nên trả lời: “Tôi là người Do Thái sao? Chính dân của ông và các thượng tế đã nộp ông cho tôi. Ông đã làm gì?”.
Sau đó, Chúa đã dùng câu trả lời phủ quyết. Nếu Ngài là vua, thì không theo kiểu cách của trần gian này, không theo kiểu cách các vua Amônê, là những người trị vì Israel trước khi đế quốc Rôma xâm chiếm. Nếu Ngài là vua, thì Ngài không phải là địch thủ của Xêda, và vương quyền của Ngài không có màu sắc chính trị; nó không thuộc thế trần: “Nước tôi không thuộc về thế gian này”.
- Marchadour quảng giải: “Nước Chúa vừa không phải như dân Do Thái trông đợi, cũng không như Philatô hình dung, cũng không như nước của loại người thống trị nhờ sức mạnh quân đội và nhờ cuộc chinh chiến mở rộng biên cương. Nước của Người đến từ nơi khác, đến từ “xứ sở” nơi Đức Giêsu “sinh ra”, và từ đó Người “đã đến thế gian”, vì Người đã hiện hữu từ muôn thuở. Nước ấy được thiết lập không nhờ sức mạnh, nhưng nhờ trình bày lời mặc khải. Những ai đến nhận Lời thì trở nên công dân của Vương quốc, không chỉ ở cuối đời, mà ngay lúc này” (“L’evangile de Jean”, Centurion, trang 227).
- Đức Giêsu là vua, nhưng để làm chứng cho chân lý.
Bởi vì Philatô gạn hỏi: “Vậy ông là vua ư?”, Đức Giêsu phá tan mọi hiểu lầm bằng một câu xác quyết long trọng. Sứ mạng của Người nơi trần gian là “làm chứng cho chân lý” (từ “làrn chứng” trong tiếng Hy lạp là “martyr”: tử đạo). Chân lý này chính điều đã được nói đến trong chương Nhập đề của Tin Mừng thứ bốn (“Người Con duy nhất đầy ân sủng và chân lý”): Chân lý về Thiên Chúa, Chân lý cho biết Thiên Chúa là ai: Thiên Chúa là tình thương, Thiên Chúa cứu độ, mà Đức Giêsu là Người mạc khải, Người đã đến trần gian để đề nghị cho con người ơn thông hiệp vào đời sống thần linh. Người làm chứng bằng hành động, đến mức đổ máu để đóng ấn cho việc làm chứng. Đức Giêsu không chỉ đến cứu dân tuyển chọn mà thôi, nhưng để cứu “bất cứ ai thuộc về chân lý”.
Sứ mạng của Người, và có thể nói vương quốc của Người, đang thuộc về thế gian này, nhưng nó hoạt động ở thế gian này, trên thế giới này: nó mặc khải cho bất cứ người nào Chân lý về Thiên Chúa. Người làm việc đó ở đâu, bao giờ? Khi mà Người được nâng lên khỏi đất, được ngự trên tòa thập giá. Mọi người rồi phải tỏ rõ lập trường: “ Hễ ai thuộc về chân lý thì nghe tiếng tôi” Nếu Đức Giêsu thi hành quyền bính, thì chỉ bằng cách từ trên trời cao,thập giá Người lôi kéo người ta đến bằng đức tin và lòng yêu mến. Người không cai trị, nhưng chỉ mời gọi người ta tự nguyện đi theo người. Ta không thể lẩn trốn như Philatô, bằng cách đặt câu hỏi: Chân lý là gì?” (“Célébrer” tạp chí của Trung tâm phụng vụ toàn quốc, số 243, trang 42).
BÀI ĐỌC THÊM.
- Đức Giêsu, một vị vua đảo ngược mọi điều người ta suy diễn. (x. Léon-Dufour, trong “Lecture de l’evangile selon St Jean”, cuốn 4, Seuil, trang 21).
Phụng vụ tung hô Đức Kitô là “Vua Vũ Trụ”, một danh xưng xứng hợp, đoạn văn của Gioan là “một cuộc hiển linh của vi vua” Nhưng Đức Giêsu là vua theo nghĩa nào, đó là điều mà Gioan đã minh định bằng nhiều cách. Vị vua của dân Do Thái đến theo truyền thống của vua Mêsia mà Giao ước thứ nhất đã trông đợi, nhưng đã chu toàn việc chờ đợi này trên một bình diện khác. Suốt cuộc đời công khai của Người, vương quốc mà Đức Giêsu loan báo, thì thuộc về một trật tự khác. Lúc này, đối diện với quan tổng trấn Rôma, Đức Giêsu cả quyết rằng vương quốc của Người không đến từ thế gian, và nó chủ yếu là để làm chứng cho chân lý. Vị vua là “người”vừa bị đánh đòn, bị khoác áo đỏ và đội vòng gai làm triều thiên. Vị vua bị trưng bày như vua hề này ngày nay có còn cho phép người ta khoác lên vai tấm vải lừa dối, ảo tưởng nữa không? Vị vua này bị treo lên thập giá, bị mọi người ruồng rẫy. Vương quốc của Người được tước bỏ mọi giới hạn địa lý hoặc dân tộc: bởi vì “chân lý” mà Người công bố, liên quan đến mọi người. Gioan đồng quan điểm với Matthêu, tác giả trong dụ ngôn về cuộc phán xét cuối cùng chỉ rõ, người ta có thể gặp vị vua “ ấy ở đâu: Vua vinh quang phán: “Điều gì anh em làm cho một người nhỏ nhất trong các người thân của Ta đây, là anh em đã làm cho chính Ta” (Mt 25,40): để có thể tìm thấy “vua”, tôi cần phải tìm nơi người nghèo mà tôi gặp. Giêsu, người Nagiarét, vua dân Do Thái: bản án treo trên đầu thập giá mang tầm vóc toàn cầu. Trong câu 4,22 Đức Giêsu đã cả quyết với người phụ nữ Samari rằng, ơn cứu độ đến từ dân Do Thái. Trưng bày danh hiệu “vua dân Do Thái” phản ánh theo cách thế của Chúa sự tin tưởng của Người. Như vậy là đã công bố cho toàn cầu rằng lời hứa về “vị vua” đã được thực hiện: nó thành hiện thực nơi Đức Giêsu, người Nagiarét: ở nơi Người, giao ước vĩnh viễn của Thiên Chúa với loài người đã được đóng ấn.
- Đức Giêsu, phản vua (L’antiroi)
“Nước tôi không thuộc về thế gian này”, Đức Giêsu còn nhắc lại cho những người lính binh thánh giá và những. kẻ ham hố của mọi thời đại. Nước tôi không thiết lập do việc trưng cầu dân ý, cũng không do đi chinh phục. Nó không theo lề thói trần thế cũng không tuân theo luật lệ thế gian. Nó không tuân theo bắt cứ tiêu chuẩn tự phụ nào. Nó chỉ tuân theo chân lý, nó luôn là nó.
Philatô đã không hiểu gì. Những thượng tế cũng vậy, còn các môn đệ, những người đã tranh cãi để chiếm địa vị cao vì mơ tưởng ngày vinh quang, thì cũng không hiểu bao nhiêu. Ngày nay cũng vậy, chúng ta còn cảm thấy khó hiểu được thái độ của Đức Giêsu, và còn thấy khó hơn để chấp nhận. Đức Kitô một phản vua, giống như người ta nói về phản-anh-hùng (antithéros) hoặc phản-siêu-sao (antivedettes). Người rất gần gũi, đơn giản và thân thiện.
Lòng tôn kính đối với Người không phải là tôn kính bằng sự vật và lời nói, cũng không chỉ là những định ước lễ nghi. Nó phải là tự trái tim. Quyền lực của Người là quyền lực của tình thương là sức mạnh là sức mạnh của tha thứ. Chinh phục của Người là mời gọi, và các môn đệ trung thành nhất của Người là những ai làm chứng cho chân lý… giống như Người.
Thành công của Người, cũng như những thành công của các bạn hữu Người, thường mang bộ mặt thất bại thảm thương. thập giá và máu, bạo hành và gông cùm. Tin Mừng bị nghi ngờ, phúc thật bị từ khước, canh tân và sám hối bị chê bỏ. Đức Kitô, là đầu của thân thể, không phải là cái đầu đột mão triều thiên, và Hội Thánh là thân thể của Người cũng không thoát khỏi bị bầm dập và chê cười. Cái thân thể này, nếu muốn là thân thể, chỉ cần làm một dấu lạ, như một mặt nạ gây phá sản che giấu sự trống rỗng và mời gọi người ta tôn thờ vẻ bề ngoài – chân lý bị lừa gạt. Vương quyền của Đức Kitô nẩy mầm ở trong tâm trí và trong tâm hồn. Những cột cái nâng đỡ vương quốc là những người lính vô danh, những người trộm cướp bị treo thập giá, và những đại đội trưởng ngoại giáo. Cuộc sắc phong diễn ra tại Golgotha.
(Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt)
CÂU HỎI GỢI Ý
- Tiết nói về phiên tòa Rôma này (18,29-19, 11) có một cơ cấu gì đặc biệt?
- Bên kia những dáng vẻ bề ngoài, ai là kẻ mang trách nhiệm về cái chết của Chúa Giêsu?
- Đâu là trạng huống nghịch lý của Chúa Giêsu-Vua, trạng huống mà các chi tiết của cảnh trình diện trước Philatô và cảnh đóng đinh thập giá đều nhấn mạnh?
- Phải giải thích thế nào câu hỏi bí nhiệm của Chúa Giê-su ở c 34 và lời cắt nghĩa Người thêm ở c.36?
- Chúa Giêsu muốn nói gì khi quả quyết mình đã đến trong thế gian để “làm chứng cho sự thật” (c.37)?
- Chúa Ki-tô thực thi vương quyền Người thế nào?
***
- Trong Tin Mừng Gioan, cảnh Chúa Ki-tô trình diện trước Philatô diễn tiến theo một lược đồ được bố cục cách khéo léo. Ngay từ dầu trình thuật, thánh sử đã nói rõ: người Do thái không vào phủ đường để khỏi mắc uế hầu có thể cùng chiều hôm đó cử hành lễ Vượt qua (18,28); vì việc hỏi cung Chúa Ki-tô phải xảy ra bên trong Phủ đường, do đấy có một lối dàn cảnh: Philatô phải đi ra để bàn cãi với người Do thái, rồi trở lại phủ đường để tra hỏi Chúa Giêsu.
Thành thử tất cả trình thuật – chia ra làm bảy tiết, theo các lần ra vào của Philatô mà thánh sử đề cập rất tỉ mỉ. Các tiết I (18,29-32), III (18,38b-40), V (19,4-7) và VII (19,12-16) xảy ra bên ngoài phủ đường: Philatô bàn cãi với người Do thái ở đó, đầu tiên với sự vắng mặt Chúa Giêsu (tiết I và III) đoạn với sự có mặt của Người, sau khi ông đã cho dẫn Người ra tiết. V và VII) Các tiết II (18,33-38a), IV (19, 1-3) và VI (19,8-11) xảy ra bên trong phủ đường: Philatô đối thoại ở đó với Chúa Giêsu nơi tiết II và VI, trong lúc tiết IV, trung tâm của trình thuật, được tạo tiên do màn lăng mạ Chúa Kitô-vua.
Trong toàn bộ đó, bài Tin Mừng lễ Chúa Kitô vua hôm nay tương ứng với tiết II, tiết mà cùng với tiết VI, có rất nhiều chỉ dẫn thần học về ý nghĩa đích thực của vương quyền Chúa Kitô. Tuy nhiên không thể hiểu tiết này nếu không đặt nó lại vào trung văn mạch của nó.
Từ đầu đến cuối trình thuật, thánh Gioan hình như đã muốn nhấn mạnh tính cách nghịch lý của việc Chúa Ki-tô hầu toà Philatô: mỗi một giây phút, các vẻ bên ngoài đi ngược lại thực tại sâu xa của các sự kiện, thực tại xét dưới ánh sáng của Thiên Chúa và chương trình cứu rỗi của Ngài trên thế gian. Làm sao hiểu các trạng huống nghịch lý này?
- Theo các vẻ bên ngoài, chính Philatô lãnh trách nhiệm về cái chết của Chúa Kitô, vì ông đã kết án tử và đã cho đóng đinh Người trên thập giá. Trong Tin Mừng thứ tư, các biểu hiện này xem ra còn rõ ràng hơn trong Tin Mừng Nhất lãm; thật thế, thánh Gioan không kể lại phiên họp của công nghị trong đó Chúa Giê-su bị người Do thái kết án tử trước khi được dẫn tới Philatô.
Tuy nhiên, chớ nên để vẻ bên ngoài lừa gạt. Không phải Philatô, nhưng chính người Do thái, nghĩa là các thượng tế và Biệt phái, đã muốn giết Chúa Giê-su. Vì chẳng những thánh sử không hề nói là Philatô đã kết án tử cho Chúa Giê-su mà còn nhấn mạnh rằng: bởi xác tín Chúa Giê-su vô tội, nên Philatô đã muốn thả Người, và sở dĩ ông phó nộp người để bị đem đi giết là chỉ vì sợ hãi, vì áp lực của các thượng tế và Biệt phái mà thôi. Bốn cuộc đối thoại giữa Philatô với người Do thái đều có mục đích minh chứng chuyện này.
Ba lần Philatô xác quyết là chẳng tìm thấy một lý do nào để lên án tử (18,38b; 19,4; 19,6c); vì vây, ông có ý định thả Chúa Giê-su (18,39; 19, 12). Tuy nhiên lòng yêu chuộng công lý nơi ông không mạnh đủ để có thể bắt ông đương đầu với các yêu sách của đám đông chuyên môn nổi loạn này; Philatô tỏ cho thấy như vậy khi hai lần ông đề nghị với người Do thái: “các ngươi hãy đem ông ấy đi mà xét xử theo luật pháp của các ngươi” (18,31) – “Thì các ngươi hãy đem ông ấy đi mà đóng đinh thập giá” (19,6b).
Philatô chẳng muốn kết án Chúa Kitô mà ông tin rằng vô tội; nhưng ông tỏ ra là sẽ không chống đối việc xử tử hình nếu người Do thái chịu cáng đáng việc đó. Để thắng những do dự cuối cùng của ông, người Do thái dọa tố cáo ông tại Rôma nếu ông tha bổng một tên đã tự xưng là “vua dân Do thái” (19,12. 15c). Bấy giờ Philatô “phó nộp Người cho họ đóng đinh” (19,6).
Động từ “phó nộp” này, đóng khung cho đoạn từ 18,30 đến 19,16, diễn tả đúng trạng huống nghịch lý của việc Chúa Kitô xuất hiện trước tòa Philatô. Theo các biểu diện thì người Do thái “nộp” Chúa Giêsu cho Philatô để ông kết án tử người (18,30); trong thực tế, chính Philatô đã “nộp” Chúa Giêsu cho người Do thái (19, 16) và họ bắt lấy Người để đưa đi xử tử (19, 17). Trước tiên người Do thái (18,30) rồi tiếp đến Philatô (18,35) nói theo các biểu diện: “Nếu tên này không làm gì ác thì chúng tôi đã chẳng đem nộp cho ngài” (18,30). “Dân tộc ông và các thượng tế đã nộp ông cho tôi” (18,35); nhưng thánh sử (19, 16) và trước đó là Chúa Giêsu (18,36b) đã tái lập chân lý của các sự kiện: “… thì bộ hạ của tôi đã cố chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do thái đâu”.
Hơn nữa, một khuôn mặt khác, được chính Chúa Giêsu nhắc đến, nổi lên trên hậu cảnh của bi kịch: “… vì thế, kẻ nộp tôi cho ông đã mắc tội nặng hơn” (19, 11b); Người có ý nói đến Giuđa, kẻ nhân danh Satan mà hành động (13,2.27). Bên kia các vẻ bề ngoài, chính đây là thực tại: Satan, nhờ trung gian của Giuđa, đã nộp Chúa Giêsu cho Philatô; Philatô không muốn lãnh trách nhiệm về cuộc kết án bất công này, nhưng vì yếu đuối và sợ hãi, ông đã nộp Chúa Giêsu trong tay người Do thái, cho phép họ xử lý ra sao tùy ý họ.
Một câu hỏi được đặt ra tức khắc: suốt thảm kịch này Thiên Chúa, vị Thẩm phán tối cao đã làm chi? phải chăng Ngài đã không có thể ngăn chặn việc xử tử bất công đó? Có thể lắm chứ, vì Chúa Giêsu xác quyết trước Philatô: “ông chẳng có quyền gì trên tôi nếu từ trên không ban xuống cho ông” (19,11). Vậy, nếu Thiên Chúa đã chẳng can thiệp, là vì chính Ngài cũng đã muốn “nộp” Con Một Ngài cho thần chết (Rm 8,6-32).
Nhưng hành vi của Chúa Cha “nộp” Con mình mặc một nghĩa khác hẳn với hành vi của Satan Giuđa hay người Do thái. Khi “nộp” Con mình, Chúa Cha hành động, như câu nói xâu xa của thánh Tôma, “bằng cách gợi cho Chúa Giê-su có ý muốn chịu đau khổ vì chúng ta, truyền cho Chúa Giê-su lòng yêu mến” (ST III, q.47, a.3) và bằng cách tôn trọng các quyết định của tự do con người, tự do của Giuđa, của Biệt phái và của bao diễn viên khác trong cuộc Khổ nạn, nghĩa là “không phải bằng cách che chở Chúa Giêsu khỏi chịu khổ nạn, nhưng bỏ mặc Người cho những kẻ bắt bớ” (ST, loco citato). Như thế, tiếng “nộp” ở đây chỉ có nghĩa thụ động là “để cho làrn, nhựong bộ, cho phép” mà thôi. Chỉ trong nghĩa cuối cùng này, xét từ quan điểm các mãnh lực ngoài Chúa Giêsu, mà Chúa Cha đã có thể “nộp” Chúa Giêsu. Mang một tình yêu vĩ đại đối với Cha và loài người, Chúa Giêsu đã tự do và tự nguyện chấp nhận để Chúa Cha và loài người phó nộp: “không ai cất mạng sống Ta được, nhưng chính Ta tự mình thí mạng sống Ta” (Ga 10, 18). Về phía Chúa Giêsu, việc phó nộp Người là một việc tự phó nộp hoàn toàn thuận ý. Nhưng về phía con người, việc phó nộp Người là một sự phản bội. Không thể so sánh hai việc phó nộp này, vì chúng phát xuất từ những “căn do” khác nhau (ST III, q.47, a.3). Đối với Chúa Cha và Chúa Kitô, căn do này là tình yêu và vì thế các Ngài vô cùng đáng ca tụng. Đối với Giuđa, căn do này là lòng tham của; đối với người Do thái, là thói ghen tương; đối với Philatô, là nỗi sợ Hoàng đế, và vì thế, họ đáng luận phạt.
- Việc Chúa Kitô hầu tòa Philatô hoàn toàn bị vấn đề vương quyền của Chúa Kitô chi phối: câu hỏi đầu tiên viên tổng trấn đặt cho Chúa Giêsu là: “ông là vua dân Do thái sao?” (18,33). Chúa Giêsu đáp: “Tự mình ông, ông nói thế hay có ai khác đã nói với ông về tôi?” (18,34); cách trả lời này cho thấy nguyên cớ của câu Philatô hỏi là những luận điệu tố cáo của người Do thái. Philalô không đời nào có ý tưởng bắt Chúa Giê-su và lên án Người chiếm đoạt vương quyền nếu chính người Do thái đã chẳng tố cáo như vậy.
Sau cùng, sở dĩ Philatô đầu hàng trước ý muốn của các thượng tế và Biệt phái, chính là vì ông sợ bị tố giác tại Rôma: và hoàng đế thì không đùa giỡn lúc quyền hành của mình bị xâm phạm. . . Thấy Philatô tìm cách tha Chúa Giê-su, người Do thái la lên: “nếu ông tha cho tên này, thì ông thất nghĩa với Hoàng đế vì ai tự xưng là vua, tức là thoán nghịch cùng Hoàng đế” (19, 12). Đó và điều làm cho Philatô sợ hãi. Và sau cùng, trước tiếng kêu lì lợm của người Do thái; (chúng tôi không có vua nào cả ngoài đức Hoàng đế” (19,15), Philatô bỏ cuộc bây giờ ông phó nộp Người cho họ đóng đinh” (19, 16).
Thành ra không còn hồ nghi gì nữa: sỡ dĩ Philatô phó nộp Chúa Giêsu cho người Do thái, là vì người đã tự xưng là “Vua dân Do thái”. người Do thái phủ nhận vương quyền này chối bỏ tất cả quá khứ của họ, họ thích nhận vương quyền của hoàng đế hơn. Philatô cũng không tin như vậy, hẳn ông coi Chúa Giê-su như một người bị ảo tưởng hơn là một tay xưng lùng xưng bá. Nhưng ông vẫn giả vờ nhận Chúa Giê-su là vua dân Do thái, để chế giễu Người, và như thế cười chê bọn Do thái mà ông không thích.
Binh lính Rôma là những kẻ đầu tiên có ý định chế giễu vương quyền mạo nhận của Chúa Giêsu. Được Philatô ra lệnh, họ đã đánh đòn người. “Đoạn lính tráng, thánh sử thêm, lấy gai tết một triều thiên đặt trên đầu Người và khoác cho Người một áo choàng đỏ; rồi chúng tiến lại bên Người mà nói: Kính chào vua Do thái, và chúng tát vả Người” (19,2-3). Màu đỏ là màu của vua, và triều thiên chỉ đội trên đầu vua chúa. Vì Chúa Giêsu đã tự xưng là vua, nên người ta cải trang Người thành vua và nhạo báng Người vậy.
Đến lượt Philatô nhảy vào trò chơi và bổ túc cảnh chế giễu, nhưng lần này có sự hiện diện của người Do thái, để nhạo báng họ trong còn người vị vua của họ. Ông quyền dẫn Chúa Giêsu ra khỏi phủ đường, vẫn trong cẩm bào lố lăng, “và ông ngồi trên tòa, nơi gọi là Nền đá, tiếng Hy bá là Gabbatha” (19, 13).
Đó là nghĩa người ta vẫn gán cho câu này, nhưng bản vău Hy lạp rất có thể dịch: “… ông đặt Người ngồi trên tòa”. Nghĩa này xem ra đúng hơn với hoàn cảnh. Vì một đàng, chẳng có vấn đề “kết án” Chúa Kitô, và người ta không thấy tại sao Philatô đã cảm thấy phải mang tòa của ông ra khỏi Phủ đường vì ông không đưa ra một phán định nào cả. Đàng khác, cảnh chế giễu lúc đó mới mặc đầy đủ ý nghĩa của nó: Philatô đặt Chúa Giêsu, mặc áo choàng đỏ và đội triều thiên gai, lên ngồi trên một chiếc ghế tượng trưng ngai tòa, và bảo người Do thái: “Đây là vua các ngươi” (19,14). Màn nhạo báng quả lên tới tột điểm.
Cuối cùng, sau khi đóng đinh, Philatô cho đặt một tấn biển trên đầu Chúa Giêsu, mang dòng chữ “Giêsu Nadarét. vua dân Do thái” (19, 19). Vua đáng thương hại chừng nào! Là vật khinh khi và đồ phế bỏ của nhân loại, là con người đớn đau và khổ sở như kẻ mà ai thấy phải giấu mặt chẳng dám nhìn, Người đã bị khinh khi và không được đếm xỉa tới” (Is 53,3).
Tuy nhiên, dù bên ngoài như vậy, Chúa Giêsu vẫn chiếm hữu vương quốc của Người ngay lúc chết trên thập giá vương quyền Chúa Kitô cũng phát sinh trong một tình cảnh nghịch thường. Lý do là vì, như Chúa Giêsu “Quả quyết, Vương quốc của Ta không thuộc về thế gian” (18,36). Thành ngữ này trước tiên có nghĩa là vương quyền của Chúa Kitô không thuộc về thế gian hạ giới; nó không đặt cơ sở trên sức mạnh hay bạo lực, không dựa trên một quyền lực trần thế nào, nhưng là “từ trên” xuống (19, 11), từ Thiên Chúa mà thôi.
Thành ngữ này cũng có nghĩa là vương quốc của Chúa Kitô vốn tính vĩnh cửu, không tồn tại trong thế gian chóng qua này (1Ga 2,17) nhưng trong thế giới cánh chung, bên Thiên Chúa. Thành ra để chiếm hữu vương quốc người, Chúa Ki-tô cần phải từ giã thế gian hiện tại để đi vào thế giới cánh chung, phải “qua khỏi thế gian này” để đến cùng Cha” (13, 1), và như thế phải được “giương cao khỏi đất” (12,32). Chính nhờ việc chịu đóng đinh mà Chúa Ki-tô chiếm hữu được vương quốc Người.
Thánh sử mặc nhiên nhấn mạnh hai điều đó. Trước hết ông ghi nhận: địa điểm mà Philatô đặt Chúa Giêsu ngồi trên tòa, mặc cẩm bào lố lăng, được gọi là “Gabbatha” (19, 13) trong tiếng Hy bá. Tên này có nghĩa là “nơi cao”. Dưới con mắt của thánh Gioan, hành động của Philatô không còn là một sự nhạo báng, nhưng đã mặc lấy một giá trị biểu tượng: Chúa Giêsu sẽ là vua nhờ việc “được giương cao”; sự kiện Người ngồi ở một nơi cao trên tòa, ăn vận như vua, tiên trưng việc Người được giương cao và ngồi bên hữu Thiên Chúa (Tv109, 1).
Tấm biển mà Philatô cho đặt tên đầu Chúa Giêsu chịu đóng đinh: “Giêsu Nadarét, vua dân Do thái” (19,19) cũng có ý nghĩa tương tự. Chỉ khi được “giương cao” trên thập giá, Chúa Giêsu mới thật sự khai mạc vương quốc của Người; Người kéo lên với Người cả nhân loại, trong lúc Satan bị hạ xuống và sự thống trị của nó trên loài người chấm dứt (12,31-32).
Đấy là trạng huống nghịch thường được nhấn mạnh qua các chi tiết mô tả cảnh Chúa Kitô hầu tòa Philatô và chịu đóng đinh thập giá: chính lúc mọi sự đều xem ra không thể cứu vãn theo quan điểm loài người, chính lúc Chúa Giêsu phải hiện ra như một vì vua giả tạo, thì đó chính là lúc Người bắt đầu thống trị nhờ được “giường cao” trên thập giá. Bước đầu tiên dẫn Người đến bên hữu Chúa Cha trên trời.
- Bắt đầu cuộc hỏi cung, Philatô đi thẳng vào sự kiện: “Ông là vua Do thái?”. Đối với ông, bị cáo không xa lạ gì. Các biến cố trong mấy ngày gần đây như việc nhập thành Giêrusalem ngày lễ lá, các tranh luận với biệt phái trong Đền thờ, cuộc vây bắt tổ chức đêm trước nhờ sự yểm trợ của một phân đội trong đại bộ binh Rôma: tất cả các chuyện đó ông đều biết hết. Tuy nhiên không có gì cho phép ông nghĩ Chúa Giê-su là một tên phiến loạn chính trị. Ông cảm thấy lời tố cáo có dạng quá khích. Vì thế, câu hỏi của ông đượm vẻ nghi ngờ: “Nào, có thật ông tự xưng là vua dân Do thái không ?”.
Chúa Giêsu chẳng trả lời có hay không, nhưng yêu cầu một vài minh giải: “Tự mình ông, ông nói thế hay có ai khác đã nói với ông về tôi?”. Cần phải có sự phân biệt này. Vì nếu Philatô đã tự mình nói thì ông dã chỉ có thể thấy trước mắt một vấn đề vương quyền chính trị. Không gì khác đáng kể đối với ông ta. Câu hỏi có một nghĩa thế tục, phàm trần, và trong nghĩa này, Chúa Giêsu chẳng phải là vua. Nhưng nếu có ai khác (người Do thái) đã nói với ông về Người, thì vương quyền mà thiên hạ cho rằng Người đã đòi hỏi không có nghĩa và vương quyền thiên sai sao? Và theo nghĩa này, phải ! Người là Vua-thiên sai.
Philatô không tỏ ra vừa ý trước sự yêu cầu giải thích đó bị can chỉ nên trả lời những câu hỏi được đặt. Vì thế ông bắt đầu bực tức. Phân biệt mà làm gì! “Tôi là Do thái hay sao dân tộc ông và các thượng tế đã nộp ông cho tôi đấy”. Thành thử lời tố cáo là do họ. Rõ chưa? Vả lại, “ông đã làm gì”. Vì Philatô chỉ lặp lại những gì người Do thái đã nói, nên câu hỏi trở nên rõ rệt hơn. Chúa Giê-su có thể trở lại với nó. Người không từ khước các cao vọng mà thiên hạ tố cáo Người, nhưng Người vẫn tỏ ra dè dặt để đánh tan những mối lo ngại mà các cao vọng đó tự bản chất gây ra: “Vương quốc tôi không thuộc thế gian này”. Và bằng chứng: “Nếu Vương Quốc tôi đã thuộc thế gian này, toàn bộ hạ của tôi đã cố chiến đấu để tôi khỏi bị nộp cho người Do thái”. Người không nói đến binh lính mà Người có thể có ngay bây giờ. Nhưng nếu đã là một ông vua chính trị, thì Người đã có binh lính, và chắc chắn những kẻ này sẽ không để Người rơi vào tay địch quân. Tại sao lo sợ một cuộc xung đột không thể xảy tới? Các quyền lực đối diện thuộc hai trật tự khác nhau. Nên nói cho đúng, không thể có trấn đề tranh chấp được.
- Chúa Giêsu là vua, đó là điều chắc chắn. Chính để làm vua mà Người đã sinh ra và đã đến trong thế gian. Vương quyền của Người mang lại ý nghĩa cho tất cả cuộc đời Người, cho việc đội mão gai, cho cái chết và cho Giờ mà vì đó Người đã đến (12,17). Vương quyền của Người là một việc làm chứng cho sự thật. Sự thật này không phải là sự thật theo phái Khắc kỷ, những kẻ quả quyết rằng: các bậc hiền triết tìm kiếm sự thật đều là vua. Chúa Giêsu chẳng phải là vua bởi vì Người tìm kiếm sự thật hay đang chiếm hữu nó tất cả hoặc một phần. Người mang sự thật đến. Ngoài ra, sự thật theo nghĩa Gioan không giản lược vào một khôn ngoan của hiền triết (1,9. 14). Nó là sự xâm nhập, và trong thế giới nhân loại này, của một mặc khải thần linh mà không ai có thể nghĩ tưởng hay lãnh hội, một mặc khải mà ngoài ra chẳng mang lại cái nhân lý thuyết, nhưng tác động cách quyết liệt trên toàn thể thái độ sống, vì rốt cuộc nó là thực tại thần linh. Sự thật theo thánh Gioan là thực tại thần linh như đã được mặc khải và hiến cho thế gian dưới hình thức sau cùng qua khuôn mặt Chúa Giêsu, Ngôi lời sự sống.
Chúa Giêsu đến làm chứng cho thực tại thần linh này. Và rốt cuộc, Người là chứng nhân duy nhất xứng đáng (x. XIII, 5; 5, 14), có tất cả mọi bảo đảm của một kinh nghiệm trực tiếp về thần linh (3, 11.32; 8, 14). Ngoài ra, chứng từ của Người có mọi đặc tính của một lời cung khai trước công lý, vì mặc khải của Người ngỏ cho một thế gian chống nghịch Thiên Chúa và Anh Sáng chung quyết của Ngài (1,7). Bởi thế, việc làm chứng của Người trở thành sự phán xét (3.19. 12,48), trở nên nguyên lý chia rẽ trong thế gian (9,39), luận tội qua “sự thế sứ nhiên” thế gian bất tín (7,7).
Vì vậy vương quyền của Chúa Giêsu không thể diễn tả với ngôn ngữ của vương quyền nhân loại. Nó phải được định nghĩa trong tương quan với thế giới khác, thế giới mà Chúa Giêsu là chứng nhân giữa chúng ta, khi đảm nhận vai trò trung gian và hiện thân cho thế giới Thiên Chúa trong một thế giới chống lại thiên Chúa. Làm chứng cho sự thật là Người làm chứng cho chính mình Người, vì Người chính là sự thật mà Người mang đến cho thế gian (8, 14.18; 14, 6). Suốt đời Người, Người đã làm chứng cho một sự thật và đấy đã là cớ khiến Người phải chết: vì thế trong giây phút sau cùng này, Người làm chứng cho Sự thật một cách tuyệt hảo nhất. Thật vậy, qua cái chết của Người, việc mặc khải đạt đến cao điểm, được thực hiện cách trọn vẹn. Khi dẫn chứng việc “Chúa Giêsu Kitô, trước tòa Philatô, đã làm chứng tốt” (1Tm 6, 13), thư Timôthêô nhấn mạnh đến cuộc chiến của đức tin và lòng can đảm của người Kitô hữu. Nhưng đối với Gioan, cái chết của Chúa Giê-su là chứng từ tuyệt hảo nhất, không những vì Chúa Giêsu đưa ra trong đó bằng chứng rạng rỡ về sức mạnh tâm linh và lòng trung thành của Người đối với thánh ý Chúa Cha, nhưng còn vì sự thật của Người, vốn là mặc khải thần linh, đã được hoàn toàn tiết lộ trong việc Người chết. Trong cái chết này thực tại thần linh hoàn toàn xâm nhập thế gian, đồng thời vương quyền của Chúa Giêsu được thể hiện. Gioan không cho rằng Chúa Giêsu vẫn duy trì được vương quyền Người dù phải chết nhưng là chính nhờ cái chết mà Người chiếm hữu được vương quyền Người. Theo quan niệm Đông phương và Thánh Kinh, vua là vị cứu tinh của dân, vì ông có quyền năng chữa lành mọi khốn khổ. Khi đưa vào thế gian thực tại của Thiên Chúa nhờ cái chết của Người, Chúa Giêsu đem đến ơn cứu rỗi, cứu rỗi khỏi mọi khốn khổ của thế gian; vương quyền của Người đầy nhân hậu và liên đới, không có vẻ gì là chuyên chế ích kỷ.
Do đấy “Ai thuộc về sự thật ” thì nghe tiếng Chúa Giê-su cùng sung sướng được nghe tiếng Người (3, 19). Nhưng ai “thuộc về sự thật hết thảy những kẻ bước đi trong chân thực, ngay chính đối với Thiên Chúa và mặc khải của Ngài (8,47), những kẻ “hành động trong sự thật bằng cách làm chứng mọi công việc mình phù hợp với mặc khải của Thiên Chúa (3,21), cuối cùng là những kẻ đã “nghe” (6,45) và nhờ thái độ đó đã được Chúa Cha giao phó cho Chúa Giêsu để được ban mặc khải cánh chung cuối cùng (6,37-40.44.65; 10,29; 17,2.6); tắt một lời là tất cả những “người Israel chân chính” ( 1 ,47) đến cùng Chúa Giêsu, nghe tiếng Người và qua đó nhận ra mặc khải tột đỉnh của Thiên Chúa (8,42-43; 10,3.14.26-27; x. 5, 25).
- Với Maria Mađalêna, Chúa Giêsu không chỉ nói Người sắp lên cùng Cha và Thiên Chúa của Người, nhưng còn xác định: “… lên cùng Cha Ta và Cha các ngươi, Thiên Chúa Ta và Thiên Chúa các ngươi” (20, 17). Thiên Chúa là Cha là là Thiên Chúa, không những của Chúa Kitô mà còn của các Kitô hữu, anh em Người; thành ra Ngài cũng là Đấng bảo họ, Ngài sẽ cứu họ khỏi sự chết, như đã cứu Chúa Kitô.
Nhờ quyền năng Thiên Chúa, các tín hữu sẽ không thấy sự chết (8,51-52) – sự chết hiểu theo nghĩa sêmita – nhưng sẽ xum họp với Chúa Kitô bên Cha Người. Hôm trước ngày chịu nạn, Chúa Giêsu đã tha thiết cầu xin điều đó: “Lạy Cha, những kẻ Cha đã ban cho Con, thì Con muốn là Con ở đâu, thì chúng cũng ở đó với Con, để chúng chiêm ngưỡng vinh quang mà Cha đã ban cho Con, vì Cha đã yêu mến Con trước khi tạo thiên lập địa” (17,24). Sở dĩ Chúa Ki-tô ra đi, là để chuẩn bị cho các môn đồ một chỗ trong nhà Cha: “Và khi Ta đi dọn chỗ cho các ngươi, thì Ta sẽ trở lại đem các ngươi theo Ta, để Ta ở đâu các ngươi cũng ở đó” (14, 3).
Khi qua khỏi thế gian này mà về cùng Cha, Chúa Giêsu như một Môisen mới, kéo theo trong một cuộc Xuất hành mới, tất cả những ai muốn tháp tùng Người (12,25; 13, 1). Một khi “được giương cao khỏi đất”, Chúa Giêsu lôi kéo nhân loại lên với Người (12,32); Người tụ tập tất cả họ trong nhà Cha (14,2).
Vương quyền Người, Chúa Kitô thi thố bằng cách giữ nhân loại khỏi sự chết để đưa họ vào nhà Cha: “Chính bây giờ là cuộc phán xét thế gian này; bây giờ đầu mục thế gian bị đánh quỵ; và Ta, một khi được giương cao khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lại với Ta” (12,31-32). Satan đã thống trị thế gian bằng cách trói buộc thế gian vào sự dữ và sự chết. Bị đánh ngã, quyền thống trị của nó chấm dứt, trong khi Chúa Kitô, nhờ được giương cao, trở nên thủ lãnh của thế giới mới, thế giới cánh chung (Kh 12,9-10) và kéo nhân loại vô vương quốc Người.
Thành thử Chúa Kitô thực thi vương quyền qua lời ban sự sống: “Lạy Cha, giờ đã đến, xin hãy tôn vinh con Cha, để Con Cha tôn vinh Cha, và để nhờ quyền năng mà Cha đã ban cho Người trên mọi xác phàm, Người ban cho những kẻ Cha đã trao cho Người sự sống vĩnh cửu”. (17,1 -2). Qua chữ “xác phàm”, Chúa Giêsu muốn ám chỉ ở đây, theo công thức Kinh Thánh xứa nay, loài người xét như là “tạo vật” và vì thế phải chịu hư nát trong mộ phần. Thiên Chúa ban họ cho Chúa Ki-tô, họ thuộc quyền Người, nhưng để người thông ban cho họ sự sống vĩnh cửu, là cuộc chiến thắng trên sự chết, trong vinh quang cánh chung (17,24).
Chỗ khác, Chúa Kitô còn nói? “Cha yêu mến Con, và đã ban mọi sự trong tay Người. Kẻ nào tin Con. sẽ được sự sống vĩnh cửu; còn kẻ từ chối tin Con thì sẽ không thấy sự sống: cơn thịnh nộ của Thiên Chúa cứ lưu lại trên nó mãi” (3,35-36). Thiên Chúa đã đặt mọi sư dưới quyền của Con Ngài để Con ban sự sống cho tất cả. Vương quyền của Chúa Ki-tô được thể hiện nhờ việc trao ban sự sống cánh chung cho loài người.
Phải chăng như vậy là bảo rằng con người chỉ trở nên “thần dân” của Chúa Kitô-vua khi họ giã từ cuộc sống hạ giới, đi qua thế gian này để về với Cha? Không, giây phút đó đánh dấu một sự hoàn thành, một triển nở trong viên mãn, chứ không phải là một khởi đầu tuyệt đối.
“Chiên Ta thì nghe tiếng Ta: Ta biết chúng và chúng theo Ta. Ta ban cho chúng sự sống vĩnh cửu; chúng sẽ chẳng bao giờ bị diệt vong và không ai giữ chúng khỏi tay Ta được”(10,27-28). Để có sự sống vĩnh cửu, thì ngay từ cuộc sống trần gian này, phải “nghe” tiếng Chúa Kitô, nghĩa là vâng phục Người; chỉ những ai “giữ” lời của Chúa Kitô mới không bao giờ thấy sự chết (8,51-52). Thành thử Chúa Kitô thi thố vương quyền trên những kẻ sống trong thế gian, theo nghĩa Người đòi hỏi họ sống phù hợp với thánh ý Người, thánh ý được biểu lộ trong giới răn duy nhất: “Các ngươi hãy yêu mến nhau như Ta đã yêu mến các ngươi” (13,34-35).
Nhưng, một cách còn sâu xa hơn nữa, Chúa Kitô thông ban cho chúng ta, ngay từ bây giờ sự sống vĩnh cửu vốn sẽ triển nở sau khi chúng ta chết: “Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: Kẻ nghe lời Ta và tin vào Đấng đã sai Ta, thì có sự sống đời đời và khỏi đến tòa phán xét, nhưng ngang qua sự chết mà vào sự sống” (5,24). Chúng ta đã lãnh nhận, ngay từ đời này, một mầm sự sống thần linh: lời Thiên Chúa (Lc . 8, 11; 1 Pr 1 , 22-23; 1 Ga 3,9), nghĩa là chính Chúa Kitô, Lời Thiên Chúa (Ga 1,12-13). Cuộc sống cánh chung đã bắt đầu cho chúng ta trên trái đất, và việc chúng ta vượt qua thế gian mà về cùng Cha chỉ là sự “biểu lộ” những gì đang được dấu ẩn trong bí mật của tâm hồn ta (1Ga 3, 1-2).
Vì vương quyền của Chúa Kitô được thi thố qua việc ban sự sống cho loài người, nên Chúa Kitô-vua ngay từ bây giờ ngự trị trên chúng ta, nhờ sự sống Người đã ban cho chúng ta. Chắc chắn, vương quốc của Chúa Ki-tô không “thuộc thế gian này” (18,36), vì là một vương quốc cánh chung, nhưng mầm sống của nó đã được gieo trong tâm hồn chúng ta, chờ ngày chúng ta vượt qua thế gian này mà về cùng Cha để triển nở.
***
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Nước tôi không thuộc chốn này”: Chữ “chốn này” (enteuthen) tương đương với thế gian này tiếng mà Gioan tránh lặp lại lần thứ ba. Nhóm chữ “thế gian này” gần giống nhóm chữ “bởi đất” (3,31), “có tính cách trần thế” và tương đương với “phàm tục”, “có đặc tính của thế gian”; nên người ta cũng dịch được: “Vương quốc tôi không có tính cách trần thế”. Xin nhớ tiếng Aram rất ít tĩnh từ.
“Để làm chứng cho sự thật”: Tư tưởng Thánh Kinh đã nhận ra mối tương quan giữa khôn ngoan và vương quyền (x. 2 Sm 14,17-20). Vương quyền cánh chung mà Chúa Giêsu khai mạc trong thế gian, ngay lúc này, sẽ không dùng đến bạo lực; theo thánh ý của Cha, Đấng đã giao phó sứ mệnh cho Người. Vương quyền đó sẽ được thể hiện nhờ việc tiếp đón sự thật của Thiên Chúa biểu lộ trong Người, lời nhập thể (x. 14, 6; 3, 11.32; 8, 13-14.46).
“Ai thuộc về sự thật”: So sánh với 7, 17; 1 0, 26 và nhất là với 8, 47 (“Ai bởi Thiên Chúa thì nghe lời Thiên Chúa”), câu mà chữ bởi Thiên Chúa” đối ứng với chữ “thuộc về sự thật” của chung ta: ai thuộc về sự thật là bạn hữu của sự thật.
KẾT LUẬN
Vương quyền mà Chúa Kitô gián tiếp đòi hỏi khác biệt cách sâu xa với vương quyền mà các mục tiêu và phương tiện đều thuộc phạm vi thế gian; vương quyền Người không cần đến sức mạnh và phương pháp thông thường của hoạt động chính trị. Vương quyền Người, Người nhận từ Thiên Chúa.
***
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
- Trong bản văn này, chúng ta chứng kiến giai thoại sẽ đưa đến việc Philatô kết án tử hình cho Chúa Giêsu. Để quán triệt bản văn, cần nhắc lại rằng Philatô và Chúa Giêsu không đứng trên cùng một bình diện. Khi thốt lên tiếng “vua”, Philatô nghĩ đến một vương quyền chính trị trần thế. Còn lúc tự xưng là vua, Chúa Giêsu nói đến vương quyền thiên sai của Người. Phải xác định rằng Người tự xưng là Vua Messia theo một nghĩa vô cùng rộng lớn hơn ý nghĩa được quan niệm bởi các thủ lãnh dân Do thái, những kẻ chỉ thấy trong Đấng Messia tương lai một vì vua trần tục. Qua câu hỏi “Tự mình ông, ông nói thế hay có ai khác đã nói với ông về tôi?” Chúa Giêsu muốn cho Philatô biết Người chẳng phải là vua theo cách ông ta tưởng nghĩ, và càng không phải là vua theo cách người Do thái quan niệm. Vì thế, sau câu đáp của Philatô. Chúa Giêsu nói: “Vương quyền không thuộc thế gian này”. Thế rồi ta đi đến diễn tiến kỳ lạ sau đây: người Do thái muốn làm cho Philatô kết án Chúa Giêsu, bởi vì Người tự xưng là đến từ một thế giới khác, nghĩa là từ Thiên Chúa. Vì đó không phải là nguyên do kết án đối với Philatô, nên họ đưa ra một cớ khác, là Người đã tự xưng là một vua trần thế chống lại hoàng đế Rôma, điều mà Chúa Giêsu tuyên bố là không phải. Chúa Giêsu bị kết án do quyền tài phán Rôma dưới danh nghĩa một vương quốc trần thế, trong lúc Philalô biết Người từ chối vương quyền này.
- Vương quyền của Chúa Giêsu là một việc làm chứng cho sự thật. Chúa Giêsu không phải là vua thuộc thế gian này nhưng là vua trong thế gian này, và trong thế gian này người làm chứng cho một thực tại thần linh. Quả thế, ở đây cần phải nắm vững ý nghĩa chữ “sự thật”. Sự thật, theo Tin mừng Gioan, không phải là một tri thức thuần lý phù hợp với thực tại đâu. Nó là thực tại của Thiên Chúa đến trong con người. Con người cảm thấy nó xâm nhập vào trong tất cả hữu thể mình và trong toàn cuộc sống. Nhưng con người cũng còn phải tiếp nhận. Việc tiếp nhận này không chỉ bằng lý trí: nhưng còn bằng tâm hồn, ý chí, toàn thể con người ta. Chúa Giêsu làm chứng cho sự thật vì, xét như là kẻ được xâm nhập và biến đổi bởi kinh nghiệm về thần linh, người đề nghị tất cả hãy đi vào sự thông hiệp có sức thần hóa với Người, Con Thiên Chúa. Chúa Giêsu là vua khi, trong một nhân loại rất thường chống nghịch Thiên Chúa, con người đón tiếp “chứng” của Người, nghĩa là tin Người và hết lòng để cho Người thần hóa.
- “Ai thuộc về sự thật thì nghe tiếng Ta…”. Thuộc sự thật là gì? Đó là sẵn sàng đón tiếp thực tại thần linh mà Chúa Giêsu đem đến cho con người. Trong thực tế chúng ta hôm nay, điều này hệ tại thành thật đối với Thiên Chúa Đấng phán bảo qua Thánh Kinh và Giáo Hội, sống phù hợp với những gì Thiên Chúa mặc khải cho và theo Chúa Giêsu mà ta gặp thấy trong Tin Mừng, trong Giáo Hội, trong các nhiệm tích, trong anh chị em.Vương quyền của Chúa Giêsu không giống chút nào với cách thống trị của nhân thế, nhưng nó trở nên hữu hiệu khi con người cá nhân và tập thể, trong cuộc sống thực sự hiểu rằng mình đến từ Thiên Chúa và đi về cùng Thiên Chúa, cho nên hết. sức ra công để nhân loại nhận biết sự thật nhờ những nét đẹp nhất của khuôn mặt nó, là những nét của Tình Yêu.
- Chúa Giêsu là hiện thân của sự thật vốn tự mặc khải, sự thật của lòng trung thành và thương xót của Thiên Chúa; Chúa Giêsu bị vu cáo, đánh đòn, đội mão gai và bị lưỡi đòng của thế gian này đâm thủng là hiện thân của sự thật, của thực tại Thiên Chúa, của sự thật chấp nhận số phận đớn đau, của sư thật tự mặc khải cách vinh thắng oai hùng khi cam lòng chịu sự chế diễu của thế gian dối trá. Chúng ta chớ bao giờ quên rằng Vua của chúng ta là một vị vua chỉ có vòng gai làm vương miện, chớ bao giờ quên rằng chúng ta là thần dân của một vương quốc không thuộc về thế gian. Nếu chúng ta có can đảm làm chứng nhân cho một vị vua và một vương quốc như thế trong trần gian này, thì những kẻ “thuộc sự thật” sẽ nghe lời chứng của chúng ta, và Chúa Kitô, Đấng đã bị treo lên trên thập giá, sẽ kéo họ đến cùng Người, và triều đại thanh bình vui tươi của Người sẽ được thiết lập trong tâm hồn chúng ta và trong tâm hồn anh em mãi mãi.
(Suy niệm của Huệ Minh)
Ta không sống ở chế độ phong kiến để ta được nhìn thấy vua! Thật sự ra dù ta có sống trong chế độ phong kiến đi chăng nữa ta cũng chẳng thể nào gặp được vua. Đơn giản là chỉ có những vị trong triều đình cao cấp may ra mới có thể nhìn thấy mặt vua mà thôi.
Xem trong phim ảnh, ta thấy kiệu vua khi vua vi hành nhưng cũng không thể nào nhìn thấy mặt vua. Trong khi vua vi hành, ai nào đó dại dột ngước mắt nhìn vua sẽ bị tru di tam tộc. Và, đâu đó dù không thấy, không biết, không gặp nhưng ta vẫn nghe nói về quyền lực của nhà vua. Nói hơi quá, vua muốn cho ai sống thì người đó sống, còn nếu như vua muốn ai chết thì người đó phải chết. Và như thế, ta thấy được vua không công bằng và có khi sống sai với sự thật và không dám đối diện với sự thật.
Chúa Giêsu đến trong trần gian với tư cách là vua nhưng không phải là vua của trần gian mà là vua vĩnh cửu, vua vĩnh hằng. Thật sự như thế, ta thấy trải qua bao thế hệ và bao nhiêu đời, vương quyền của con người dù mạnh thế đến đâu đi chăng nữa nhưng rồi cũng sẽ mất theo thời gian. Đơn giản và dễ hiểu đó là cuộc đời của những vị vua trần gian, vương quyền của họ chỉ có ngần có hạn mà thôi. Vua muôn vua, chúa các chúa mới chính là vua thật bởi lẽ Ngài có quyền trên muôn loài muôn vật và muôn người.
Nhìn vào cuộc đời của vị vua vĩnh cửu này, nét mà ta thấy rõ nhất đó chính là tình yêu. Chính vì tình yêu, bởi tình yêu và do tình yêu mà vua Giêsu đã đến trong trần gian này. Không chỉ nói nhưng vua Giêsu đã minh chứng cuộc đời, tình yêu của mình bằng chính việc hiến thân mình, hiến thân tình yêu cho nhân loại trong yêu thương và phục vụ. Không có tình yêu nào cao cả cho bằng chết cho người mình yêu! Thật thế, ai đã yêu thương như Chúa.
Cũng vì yêu thương, Ngài đã chịu chết ngay cả khi chúng ta ngay khi chúng ta là tội nhân như tâm tình của thánh Phaolô tông đồ. Bằng cái chết, Chúa đã chứng minh một cách hùng hồn, là một đỉnh cao tuyệt vời của tình yêu như lời Ngài nói: Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu. Vì yêu thương, Ngài đã tự khiêm tự hạ và tự bỏ mình đi, hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân phận nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Ngài lại còn vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá. Ngài đã hiến thân như người mục tử hy sinh tính mạng để bảo vệ cho đoàn chiên.
Ngài cảm thông thân phận yếu đuối của chúng ta nên không nghiêm khắc kết án. Ngay cả người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Ngài nhân từ dạy chúng ta: Hãy nghiêm khắc với bản thân và rộng rãi với người khác. Không bới lông tìm vết, không nguyền rủa chửi bới. Hãy yêu thương kẻ thù và tha thứ cho nhau mãi mãi. Ngài đề cao phục vụ và kêu gọi chúng ta phục vụ, vì thế Ngài nói: Ta không đến để được phục vụ, nhưng đến để phụv vụ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người. Ngài muốn chúng ta noi gương bắt chước Ngài, cũng sống tình bác ái yêu thương và phục vụ. Và để cho việc yêu thương không chỉ là một lời khuyên tuỳ ý, nhưng là một mệnh lệnh có tính cách bắt buộc, Ngài đã ban bố giới luật yêu thương: Thầy ban cho các con một điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau. Và tình yêu thương đã trở thành một giới răn quan trọng nhất như là lòng kính mến Thiên Chúa.
Hơn thế nữa, Ngài đòi buộc: “Cứ dấu này người ta nhận ra anh em là môn đệ của Thầy là anh em hãy yêu thương nhau”. Tình yêu thương của Chúa Giêsu đã trở nên nguồn cảm hứng vô tận cho biết bao nhiêu sáng kiến, bao nhiêu tổ chức, bao nhiêu phong trào, bao nhiêu dòng tu chuyên lo việc yêu thương phục vụ. Chúng ta thử thưởng tượng xem: Thế giới này sẽ ra sao, nếu đã không có những người, những phong trào, những tổ chức, những dòng tu như thế. Nhân vật hiện nay đang được cả thế giới ngưỡng mộ, tôn vinh đó là Mẹ Têrêsa Calcutta. Vì sao? Vì Mẹ đã noi gương Đức Kitô và thực hành lời Ngài dạy, đó là đem tình thương đến cho những người nghèo khổ và bất hạnh.
Quả thực, trong lịch sử nhân loại, không có một nhân vật nào giàu lòng nhân từ thương xót như Đức Kitô. Thật lạ lùng vì mặc dù là Đấng Tối Cao, Ngài vẫn tự nguyện làm người tôi tớ, phục vụ chúng ta. Và còn lạ lùng hơn nữa vì mặc dù Ngài không cần ai, song Ngài lại muốn cần đến chúng ta và tình yêu của chúng ta. Và sau hết, điều lạ lùng hơn cả vì mặc dù là Thiên Chúa, Ngài lại khao khát trở nên bạn hữu của chúng ta và chờ mong chúng ta tiếp nhận Ngài qua những kẻ khổ đau và bất hạnh.
Yêu là trao ban và trao ban đến cùng. Tình yêu, đó là món quà quí nhất của Thiên Chúa đã trao tặng con người. Từ nay, để sống đích thực là người, con người cần phải dốc cạn con tim mình để yêu thương và trao ban cho đồng loại. Chúa Giêsu đã lấy tình yêu thương và phục vụ làm quyền bính cai trị. Ngài đã trở nên gương mẫu đích thực cho các nhà lãnh đạo, cho các người cầm quyền. Ai biết yêu thương và phục vụ như Ngài thì mới được tham dự vào vương quyền của Ngài trong Nước của Ngài, vì “Phục vụ là cai trị” vậy.
Ngày hôm nay, cơ hội để ta làm sổ tổng kết cuộc đời của ta trong suốt năm qua. Tổng kết sổ ở cuối năm Phụng Vụ không phải là tổng kết năm nay ta có bao nhiều tiền, ta thu nhập được bao nhiêu và ta tích lũy được bao nhiêu? Cuối năm Phụng Vụ, ta cộng sổ một năm qua xem ta yêu thương như thế nào trong tư cách là người môn đệ của Chúa.
Vẫn là lời mời gọi tự do mà Thiên Chúa mời ta đáp trả nhất là về tình yêu. Khi và chỉ khi ta sống yêu thương đích thực thì khi ấy vua Giêsu mới là vua của đời ta và vương quốc của tình yêu mới là vương quốc của đời ta.
(Suy niệm của Huệ Minh)
Hôm nay cùng với Giáo Hội mừng Đại Lễ Chúa Kitô Vua, Vua Các Vua, Chúa Các Chúa. Chúa Giêsu là trung gian giao hòa giữa trời với đất. Ngài đã nhập thể để rao truyền tin mừng cứu độ. Chính Ngài là trung tâm và là cốt lõi của tất cả mọi sự hiện hữu. Ngài mở lối dẫn chúng ta vào hưởng niềm vui hạnh phúc Nước Trời.
Con đường Chúa đi là con đường yêu thương trong khổ giá. Muốn lãnh nhận ơn cứu độ, chúng ta phải dõi theo lối bước của Ngài. Hai giới răn nồng cốt tóm kết tất cả lề luật là yêu mến Thiên Chúa hết lòng và yêu thương anh chị em như chính mình. Đức yêu thương được thể hiện qua sự giúp đỡ, chia sẻ, thăm viếng và sống tình bác ái với nhau. Con đường đức ái là con đường tuyệt hảo dẫn vào quê trời.
Chúa Giêsu là Vua vũ trụ, là Vua mọi dân tộc, là Vua trên muôn vua, thế nhưng Ngài lại là một vị Vua bị đóng đinh, hoàn toàn bị tước lột khỏi những quyền lực trần thế. Đức Kitô đã lên ngôi bằng con đường của thập giá, của tình yêu. Kẻ thù duy nhất của Ngài là vương quốc của Satan, của thù hận, của chia rẽ và của tội lỗi.
Các vua trần thế chỉ như một ngọn đèn cháy một lúc rồi lụi tắt. Chúa Giêsu mới là Vua, vì vương quyền của Ngài không bắt đầu trong thời gian, Ngài là Vua tự muôn thuở: “Ngay trước lúc hừng đông xuất hiện, tự lòng Cha, Cha đã sinh ra Con”. “Bên hữu Cha đây, Con lên ngự trị, để rồi bao địch thù, Cha sẽ đặt làm bệ dưới chân Con”. (Tv 110).
Vua chúa trần gian chỉ có quyền trên một số người và trong một thời gian hạn định. Vua Giêsu nắm quyền trên toàn thể muôn dân, từ người thứ nhất là A-đam đến người cuối cùng trong thế giới. Chúng ta không thể hình dung được quyền uy cao cả của Ngài, vì chúng ta quá bé nhỏ, một hạt cát…. Chúng ta sẽ đến trước mặt Ngài và Ngài sẽ xét xử mọi người, không trừ ai. Vương quyền của Ngài là tuyệt đối. Lúc bấy giờ chúng ta mới biết, chúng ta sẽ như thế nào.
Chúa Kitô lên Ngôi Vua vũ trụ trên Thập giá để thiết lập vương quyền Nước Thiên Chúa. Ngài là vua sự thật, vua tình yêu, vua niềm tin.Vương quyền Chúa Giêsu là vương quyền yêu thương, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần. Trong bài đọc 2, thánh Phaolô đã gọi Ngài là khởi nguyên, là trưởng tử, là người tiền phong của nhân loại đã mở một lối đi cho chúng ta. Nhờ máu Ngài đổ ra trên thập giá, Ngài đã qui tụ muôn người thành một vương quốc, thành một dân riêng. Vương quốc này, dân riêng này sẽ tồn tại cho đến muôn ngàn đời.
Tin Mừng hôm nay, Thánh Matthêu tường thuật lại quang cảnh ngày cánh chung, khi Chúa Giêsu tái giáng và Ngài phân xử mọi người tốt hay xấu, lành hay dữ, thiện hảo hay ác độc, đều có mặt và phân xử rõ ràng. Tiêu chuẩn để mà phân tách là tất cả những gì chúng ta thực hiện cho anh em. Chúa Giêsu đồng hóa với tất cả những ai đang sống xung quanh và giữa chúng ta khi chúng ta chia sẻ cơm áo cho người đói khổ trần truồng, khi thăm viếng người bị bệnh nạn hoặc tù đày, tức là chúng ta đến với Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, Đấng sinh ra trong hang súc vật, trốn chạy sự tàn ác và tham vọng của con người, bị đeo đuổi chỉ trích, hành hạ và bị treo trên Thập giá. Khi chúng ta từ chối lẫn nhau và quay lưng trước những bất hạnh tinh thần và thể xác của anh em đồng loại thì cũng là lúc chúng ta rời xa Chúa Giêsu, rời xa Thiên Chúa.
Chúa Kitô là Vua. Vương quốc của Ngài là vương quốc của tình yêu. Ai sống trong tình yêu thì thuộc về Chúa Kitô và là công dân của Nước Thiên Chúa. Tình yêu, nói được là như “chứng minh nhân dân”, như “thẻ căn cước”của Nước Thiên Chúa. Tình yêu không đòi hỏi nhiều lời nói cho bằng nhiều hành động thiết thực, sống động.
Cụ thể là chia sẻ chính những lo lắng, khó khăn, khốn khổ, cùng cực của đồng bào trong hoàn cảnh xã hội chúng ta đang sống. chúa Giêsu đã khẳng định: chúng ta sẽ bị phán xét trong ngày sau hết về cách chúng ta đã phục vụ Đức Kitô Vua như thế nào trong những người anh em đói, khát, rách rưới, bệnh tật, tù tội… Hãy phục vụ những Đức Kitô Vua ấy thế nào để vào ngày cuối cùng, Chúa Kitô Vua sẽ mời gọi chúng ta: “Hãy đến, hỡi những người Cha Ta chúc phúc. Hãy đến thừa hưởng vương quốc đã dành sẵn cho anh em từ thuở đời đời”.
Ta được phán xét dựa trên và chỉ dựa trên tình yêu. Và dựa trên một tình yêu rất đơn giản: cho ăn, cho uống, tiếp đón, cho mặc, thăm viếng, săn sóc. Như thế, những cử chỉ yêu thương khiêm hạ và chân thật có một giá trị vô cùng, một giá trị vĩnh cửu. Vả lại danh sách những hành động yêu thương mà Đức Giêsu kể ra không hạn chế. Đó chỉ là những gương mà chúng ta có thể kéo dài ra tùy theo cuộc sống của mỗi người.
Để vào Vương Quốc Tình Yêu, con người phải có Tình Yêu – Tình yêu Thiên Chúa và Tình Yêu tha nhân – Chúa Giêsu luôn luôn nhắc nhở về Giới Luật Yêu Thương trong xuyên suốt cuộc hành trình loan báo Tin Mừng của Ngài. Đường về Vương Quốc Tình Yêu không có con đường nào khác ngoài “Con đường Tình Yêu Giêsu”.
“Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn. Đó là điều răn trọng nhất và điều răn đứng đầu. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả Luật Môsê và các sách ngôn sứ đều thuộc vào hai điều răn ấy
Lễ Chúa Kitô Vua, Giáo hội nhắc nhở chúng ta còn có một giá trị quý hơn tiền, hơn danh lợi thú là có được Đức Kitô ngự trị. Đồng tiền sẽ không mua được Nước Trời. Đức Kitô thì hứa ban cho chúng ta sự sống đời đời. Đồng tiền không mang lại bình an cho con người, nhưng Đức Kitô là niềm hoan lạc nếu chúng ta để cho Ngài chỗ nhất trong cuộc đời. Đồng tiền khiến chúng ta sống ích kỷ, hưởng thụ. Đức Kitô biến chúng ta thành những con người có ích cho tha nhân với thái độ phục vụ quảng đại và vô vị lợi.
Đồng tiền là nguyên nhân gây nên những chia rẽ, tranh chấp, hận thù. Đức Kitô là nguyên lý cho sự hiệp nhất bình an. Chiếm được đồng tiền thì con người bo bo giữ lấy trong ích kỷ, xa lánh mọi người. Chiếm được Đức Kitô thì con người sẽ chia sẻ đến cho muôn người. Thế nê, có Đức Kitô trong cuộc đời là có bình an, có hạnh phúc, có niềm vui. Vắng Đức Kitô sẽ chỉ còn những tranh chấp, xa lánh và đố kỵ lẫn nhau.
Khi ngày phán xét cùng tận đến, mỗi người sẽ được phán xét theo việc họ đã làm mà trong tương quan với Chúa Giêsu. Khi đã ra trước mặt vị Vua thẩm phán số phận mỗi người, hoặc được chúc phúc hoặc bị chúc dữ, sẽ không bao giờ có thể thay đổi nữa.
(Suy niệm của Lm. Đan Vinh)
ĐỂ NÊN THÀNH VIÊN TRONG VƯƠNG QUỐC VUA GIÊSU
- HỌC LỜI CHÚA
Ý CHÍNH: Trước tòa án của quan Tổng Trấn Phi-la-tô, Đức Giêsu đã cho ông biết về Vương Quốc của Người. Vương Quốc ấy thiêng liêng và không thuộc về thế gian, không có quân đội và không biên giới. Đức Giêsu cũng khẳng định Người là Vua, nhưng là vị Vua Thiên Sai, đến để làm chứng cho sự thật. Thần dân của Người là những ai sẵn sàng tin theo sự thật của Người.
CHÚ THÍCH:
– C 33-34: + Ông Phi-la-tô trở vào dinh, cho gọi Đức Giêsu: Đức Giêsu đã bị dân quân Đền thờ bắt tại vườn Cây Dầu vào đêm thứ Năm sau bữa tiệc ly Vượt Qua mừng trước. Sau khi bị bắt Đức Giêsu đã bị tòa án tôn giáo xét xử và bị thượng tế Cai-pha kết án tử hình(x Ga 18,19-24). Tuy nhiên vì các đầu mục Do thái đã bị người Rô-ma truất quyền kết án tử hình (x. Ga 18,31), nên sáng hôm sau, họ đã giải Đức Giêsu đến dinh quan Phi-la-tô để yêu cầu ông này kết án tử hình Đức Giêsu. Họ đứng ngòai sân chứ không vào trong nhà để tránh bị ô uế theo Luật Mô-sê, mà ai vi phạm sẽ không được ăn mừng lễ Vượt Qua (x Ga 18,28b). Quan Phi-la-tô đã phải ra ngòai hành lang để gặp họ. Sau khi biết rõ ý họ muốn, Phi-la-tô đã vào trong phòng và thẩm vấn Đức Giêsu + “Ông có phải là Vua dân Do thái không?”: Người Do thái đã tố cáo Đức Giêsu tội phạm về chính trị là xưng mình là Vua dân Do thái, để yêu cầu quan Phi-la-tô qui tội phản loạn và kết án tử hình cho Người. Do đó Phi-la-tô đã tra vấn Người về việc này. + “Ngài tự ý nói điều ấy, hay những người khác đã nói với ngài về tôi?”: Đức Giêsu không trực tiếp trả lời câu hỏi của Phi-la-tô, nhưng Người gợi ý để ông tự xét lời tố cáo đó có cơ sở không hay chỉ là sự vu cáo bịa đặt?
– C 35: + Tôi là người Do thái sao?: Phi-la-tô cho biết ông không quan tâm đến những vấn đề tôn giáo, vì ông không phải là người Do thái! + Chính dân của ông và các thượng tế đã nộp ông cho tôi. ông đã làm gì?: Phi-la-tô cho biết dân chúng và các đầu mục Do thái đã tố cáo như thế để đòi ông xét xử. Ông hỏi Đức Giêsu đã làm gì đến nỗi bị họ tố cáo như vậy?
– C 36: + “Nước tôi không thuộc về thế gian này”: Đức Giêsu không chối điều họ tố cáo, nhưng Người xác định mình không phải một ông vua trần tục. Vì Nước của Người không thuộc về thế gian này. + “Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho dân Do thái”: Lời này cho thấy sự khác biệt giữa vương quốc thế gian và Vương Quốc của Thiên Chúa. Khác về tinh thần cai trị (x. Mt 20,24-28), về hiến pháp (x. Mt 5,1-12), về điều kiện gia nhập (x. Mt 7,21), về sự vững bền (x. Mt 25,46), về tương quan giữa vua với dân (x Ga 13,12-15).
– C 37: + “Vậy ông là vua ư?”: Đặt câu hỏi này, Phi-la-tô chỉ tò mò muốn biết thêm về chức vị vua thiêng liêng trong Nước Trời của Đức Giêsu, chứ ông không nghĩ Người là một ông vua thế tục. Phi-la-tô biết rõ Đức Giêsu không làm loạn, vì Người không có quân đội để tự vệ khi bị người Do thái vây bắt. + “Chính ngài nói: tôi là vua”: Đức Giêsu xác nhận Người là Vua. nhưng là Vua Tình Yêu, Vua Mục Tử: Người hiểu biết từng con chiên (x. Ga 10,14), nuôi dưỡng đàn chiên (x. Ga 10,3), đi tìm chiên lạc (x. Ga 10,16), bảo vệ đàn chiên và sẵn sàng hy sinh tính mạng cho đàn chiên (x. Ga 10,11.15). Tóm lại, Người đến “để cho chiên được sống và sống dồi dào” (x. Ga 10,10). + “Tôi đã đến thế gian là để làm chứng cho sự thật”: Sứ mệnh của Đức Giêsu là đến để làm chứng cho sự thật. ** làm chứng theo tiếng Hy Lạp nghĩa là tử đạo. Đức Giêsu làm chứng cho sự thật bằng việc đổ máu ra vì yêu nhân loại đến cùng ** Sự thật không có nghĩa là không gian dối, nhưng chính là Tin Mừng Nước Trời mà Người loan báo. Sự Thật ấy cũng là mầu nhiệm tình yêu của Thiên Chúa, đã được biểu lộ qua cuộc đời, lời rao giảng và nhất là qua biến cố Tử nạn và Phục sinh của Người. + Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi”: Đức Giêsu đến không những để cứu độ dân Do thái được Thiên Chúa ưu tuyển, mà Người còn đến cứu mọi dân nước tin vào Tin Mừng của Người và gia nhập vào Nước Trời là Hội Thánh hôm nay và cũng là Thiên Đàng mai sau.
CÂU HỎI:
- Tại sao các đầu mục Do Thái lại giải Đức Giêsu đến tòa án của quan Phi-la-tô?
- Tại sao người Do thái không vào trong nhà, khiến quan Phi-la-tô phải ra ngòai hành lang để tiếp họ đang đứng dưới sân?
- Đức Giêsu cho Phi-la-tô biết Nước Trời do Người thiết lập có những đặc tính nào khác với nước thế gian?
- Khi hỏi Đức Giêsu: “Ông là Vua ư?”, Phi-la-tô có tin những lời các đầu mục Do thái tố cáo Đức Giêsu không?
- Đức Giêsu nhận mình là Vua nhưng chức vị này có những phẩm chất nào?
- Đức Giêsu đến để “Làm chứng cho Sự Thật” là sự thật nào và làm chứng bằng cách nào?
- Ngòai dân Do thái ra, Đức Giêsu còn đến cứu độ những ai?
- SỐNG LỜI CHÚA
- LỜI CHÚA: “Tôi là Vua” (Ga 18,37):
- CÂU CHUYỆN:
1) Thẻ căn cước trong Vương Quốc Tình Yêu của Vua Giêsu:
Ngày 11/11/1951 trong một bài diễn từ, Đức Thánh Cha Pi-ô 12 đã kể lại một giai thoại. Có một phụ nữ kia rất đạo đức, nhưng sức khỏe quá yếu ớt. Cô ta bị chứng sưng màng phổi và rất khó thở. Lâu lâu căn bệnh tái phát làm cô rất đau đớn. Nhưng cuối cùng cô cũng lập gia đình, mang thai và chờ ngày sinh nở. Bất hạnh bất ngờ ập đến. Căn bệnh năm xưa tái phát trầm trọng. Các bác sĩ đề nghị phải hủy bỏ bào thai để cứu tính mạng cho bà mẹ. Người chồng cũng đồng ý như thế. Nhưng mẹ bào thai sau khi cầu nguyện nhiều ngày đã kiên quyết từ chối đề nghị của bác sĩ. Cô nói trong nước mắt: “Tôi không thể giết con tôi. Con tôi phải sống, cho dù tính mạng tôi có ra sao đi nữa”. Cô ta chấp nhận tình huống xấu nhất có thể xảy ra và phó thác hoàn toàn cho Chúa quan phòng. Cuối cùng cô đã sinh được một bé gái kháu khỉnh, nhưng sau đó sức khỏe của cô ngày càng suy kiệt. Hai tháng sau, người phụ nữ đã tắt thở, trên tay vẫn ôm chặt đứa con mới sinh mà cô rất thương mến.
Hơn hai mươi năm trôi qua, người ta thấy một nữ tu trẻ rất xinh đẹp đang ân cần chăm sóc cho các cháu bé mô côi trong một trại tế bần. Vòng tay thân thương và cặp mắt long lanh của vị nữ tu sáng rực lên nét yêu thương mà chị đã được di truyền từ chính người mẹ thân thương của mình. Đó là người mẹ trẻ năm xưa đã chấp nhận hy sinh tính mạng để cho con được sống. Người mẹ can đảm này đã được Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II tôn phong lên bậc Chân Phước, bởi vì bà đã thực sự đi vào Vương quốc tình yêu tiếp bước theo chân Đức Giêsu. Chính Thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô 2 đã nói: “Một đất nước nào, một chế độ nào cho phép con người sát hại lẫn nhau, thì đất nước đó, chế độ đó đang đi tới chỗ bị hủy diệt”. Đó là một đất nước đi ngược lại hiến pháp của Vương quốc Giêsu. Sống trong Vương quốc này, Đức Thánh Cha mời gọi chúng ta phải sống với một nền văn minh mới, đó là ‘nền văn minh của tình thương’. Mẹ Tê-rê-sa Can-quýt-ta cũng đã từng nói: “Một người mẹ nhẫn tâm giết chết con của mình, thì không còn một thứ tội ác nào mà họ không dám làm”. Biết bao tội ác nhan nhản đang xảy ra trong xã hội hôm nay vì người ta đang dần đánh mất đi thẻ ID (identity card) Nước Trời chứng minh mình là công dân Nước Trời.
2) Gương bác ái của Máctinô thành Tours công dân nước trời:
MÁC-TI-NÔ là một quân nhân Rô-mavà một Kitô hữu. Một ngày mùa đông lạnh lẽo, khi ông đi vào một thành phố, có người hành khất chặn ông lại xin bố thí, Mác-ti-nô không có tiền, nhưng khi thấy người hành khất xanh xao và đang run rẩy vì lạnh, ông cởi chiếc áo khoác đã sờn rách và dùng gươm xén một nửa chiếc áo khoác trao cho người hành khất. Tối hôm ấy ông nằm mơ thấy thiên đàng có các thiên sứ bao quanh Vua Giêsu và trên mình Người mặc phân nửa chiếc áo khoác của ông. Một thiên sứ hỏi Chúa Giêsu: “Tại sao Ngài mặc nửa chiếc áo bị sờn rách đó? Ai đã cho Ngài?” Chúa Giêsu trả lời: “Chính Mác-ti-nô, tôi tớ của Ta đã tặng cho Ta đó”.
Quả thật như bài Tin Mừng hôm nay Chúa đã xác quyết: Ta bảo các ngươi: “những gì các ngươi đã làm cho một trong những anh em bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta” (Mt 25,40). Và Chúa nói tiếp: “Hãy đến, hỡi những kẻ cha Ta chúc phúc, hãy lãnh lấy phần gia nghiệp là Nước Trời đã chuẩn bị cho các ngươi từ khi tạo thành vũ trụ. Vì khi ta đói, các ngươi đã cho ăn, Ta khát, các ngươi đã cho uống, Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước, Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc. Ta đau yếu các ngươi đã viếng thăm, Ta bị tù đầy, các ngươi đã đến với ta”(Mt 25, 34-36).
Thật là hạnh phúc cho chúng ta, nếu được Chúa nói với chúng ta như vậy trong ngày tận thế với tư cách là vị Vua Thẩm Phán để xét xử kẻ sống và kẻ chết. Amen.
3) Đức Giêsu là vua trên hết các vua, là Chúa trên hết các chúa:
Lịch sử nước Anh có câu chuyện về một ông vua có lòng khiêm nhường và đạo đức tên là KÊ-NẮT Đệ Tam (CANUT III). Là vua của một cường quốc, nên chung quanh ông ta lúc nào cũng có những nịnh thần tâng bốc. Một hôm, trong một buổi triều yết, các nịnh thần đã nịnh nhà vua như sau: “Muôn tâu thánh thượng! Thánh thượng là vua trên hết các vua, là chúa trên hết các chúa. Thánh thượng có toàn quyền cả trên đất liền cũng như ngòai biển cả bao la!”
Nghe vậy, nhà vua muốn dạy cho quần thần một bài học, nên đã mời tất cả quan chức triều đình cùng đi du lịch đến một bãi biển dành riêng cho hoàng gia. Khi mọi người đều theo sau nhà vua xuống bãi tắm sóng vỗ rì rào, nhà vua đứng trước biển liền tuyên bố: “Hỡi biển cả kia. Nhiều người nói ta là vua trên hết các vua, là chúa trên hết các chúa, có quyền trên đất liền và biển khơi. Vậy hỡi biển cả hãy nghe đây: Ta truyền cho sóng biển không được tràn tới nữa!”. Nhưng dù nhà vua đã ra lệnh, mà nước biển vẫn cứ từng đợt thi nhau đổ tới tấp lên bãi cát làm ướt cả áo cẩm bào của nhà vua cùng quần áo các quan chức triều đình! Sau đó nhà vua dẫn quần thần đến một nhà nguyện gần đó. Vua quì gối trước tượng Thánh giá Chúa Giêsu, lấy ra chiếc vương miện bằng vàng đội lên đầu Chúa và cầu nguyện như sau: “Lạy Chúa Giêsu. Chỉ có Chúa mới là “Vua trên hết các vua”, là “Chúa trên hết các chúa”. Chỉ có Chúa mới “có quyền trên cả đất liền cùng biển khơi” Con chúc tụng ngợi khen Chúa. AL-LÊ-LU-IA!”.
- THẢO LUẬN:
- Mỗi tín hữu chúng ta cần làm gì để Chúa Giêsu trở thành Vua của gia đình mình?
- Chúng ta cần làm gì để có thẻ căn cước trong Vương Quốc Vua Giêsu?
- SUY NIỆM:
Ngày nay quân chủ hầu như đã trở nên xa lạ đối với nhân loại. Trên thế giới hiện nay chỉ còn một ít nước Âu Á như: Anh quốc, Tây Ban Nha, Bỉ, Hòa Lan, Thụy Điển, Nhật Bản, Thái Lan, Cam-pu-chia… vẫn duy trì chiếc ghế của vua chúa hay nữ hoàng, nhưng chỉ mang tính tượng trưng theo truyền thống chứ không còn thực quyền. Thay vào đó, chế độ dân chủ đã được hầu hết các quốc gia áp dụng. Con người càng văn minh lại càng muốn được bình đẳng và không muốn kẻ khác đè đầu đè cổ mình. Như vậy Hội Thánh mừng lễ Chúa Ki-tô làm Vua liệu có gây ra dị ứng nơi tâm thức của con người ngày nay, đặc biệt nơi giới trẻ hay không? Đức Giêsu có thực sự là Vua của chúng ta không và phải làm gì để trở thành công dân Nước Trời của Vua Giêsu sau này?
1) Đức Giêsu thực sự là Vua Mục Tử:
Qua bài Tin mừng hôm nay, Phi-la-tô đã đặt ra nhiều câu hỏi về điều mà các đầu mục Do thái mới tố cáo, Phi-la-tô hỏi: “Ông có phải là Vua dân Do thái không?”. Người trả lời rằng: “Chính ông nói tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đến thế gian nhằm mục đích này là: làm chứng cho Sự Thật. Ai đứng về Sự Thật thì nghe tiếng tôi”. Qua đó, Đức Giêsu đã khẳng định Người chính là Vua, và Người được Chúa Cha sai đến thế gian nhằm thiết lập một Vương quốc Sự Thật. Phi-la-tô không hiểu lời Người nói nên hỏi lại: “Sự Thật là gì?”. Sở dĩ ông không hiểu sự thật vì ông không phải thần dân của vương quốc Sự Thật do Người thiết lập (x. Ga 18, 33-38).
2) Vương quốc của Vua Giêsu là “Vương Quốc Sự Thật”:
Tin mừng Gio-an, Chúa Giêsu đã nói khá nhiều về Vương quốc Sự Thật mà chính Người sẽ khai mở. Khi nói chuyện với người phụ nữ Sa-ma-ri bên bờ giếng Gia-cóp, Đức Giêsu đã vén mở một phần về Vương quốc sự thật ấy: “Thiên Chúa là Thần khí và những kẻ thờ phượng Ngài phải thờ phượng trong Thần khí và sự thật” (Ga 4, 24). Cũng vậy trong bữa tiệc ly để giã từ các môn đệ, Đức Giêsu đã khẳng định: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14, 6). Người đến để chúng ta là thần dân của Người “được sống và sống dồi dào” (Ga 10, 10). Người cũng cho Phi-la-tô biết về nước Trời của Người: “Nước tôi không thuộc thế gian này”(c 36). Tuy nhiên, chính Phi-la-tô sau đó đã cho treo một tấm bảng gắn trên đầu cây Thập giá với hàng chữ: “Giêsu Na-gia-rét, vua dân Do thái”. Qua đó ông đã chính thức công bố sự thật này là: Đức Giêsu là Vua của dân Do Thái.
3) Điều kiện để được vào Nước Trời là sống giới răn yêu thương cụ thể:
- Vua Giêsu đã đảo lộn mọi bậc thang giá trị của con người khi cho biết trong Nước Trời: “Ai muốn làm lớn nhất thì phải trở nên người bé nhất” noi gương Người, Đấng “đến không phải để được phục vụ nhưng để phục vụ và hiến ban sự sống cho nhiều người” (Mc 10,45).
- Vương quốc mà Chúa Giêsu thiết lập là Vương quốc của Tình Yêu, và chỉ những ai thực thi yêu thương mới đủ điều kiện gia nhập vào Nước ấy. Trong ngày phán xét Người sẽ nói với những kẻ sống bác ái chia sẻ: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom; Ta ngồi tù, các ngươi đã đến thăm” (Mt 25,34-36). “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40).
- Trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu đã cho biết tình yêu đích thực là sẵn sàng hy sinh mạng sống của mình: “Không có tình yêu nào cao quý cho bằng mối tình của người hiến ban mạng sống cho bạn hữu” (Ga 15, 13). Tình yêu còn là thái độ khiêm hạ phục vụ tha nhân, noi gương Đức Giêsu sẵn sàng quì xuống rửa chân cho môn đồ và dạy họ rằng: “ Nếu Thầy là Chúa, là Thầy mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau” (Ga 13, 14). Đức Giêsu cũng đề ra Hiến Pháp của Nước Trời là Bản Hiến chương Nước Trời hay Tám Mối Phúc Thật, trong đó, Người nêu ra điều kiện để gia nhập Nước Trời là: Phải sống khiêm hạ siêu thoát, ứng xử hiền hòa, chấp nhận đau khổ bệnh tật, ước ao nên trọn lành, có lòng thương xót, có tâm hồn thanh sạch, biết ăn ở thuận hòa, sẵn sàng chịu bách hại vì đức tin…
4) Sứ vụ của các tín hữu là làm chứng cho Sự Thật và sống yêu thương:
Ki-tô hữu là những người chọn bước theo chân Đức Giêsu trên con đường của Ngài, là làm chứng cho sự thật. Vậy chúng ta phải làm chứng cho sự thật, nhất là trong bối cảnh hôm nay, khi sự giả dối ngày càng chiếm ưu thế trong xã hội bằng những cách như sau:
- Trước hết, phải sống đúng sự thật, theo sự mách bảo của Chúa Thánh Thần qua tiếng lương tâm. Vì có lẽ chưa bao giờ sự tha hóa trong cung cách làm ăn buôn bán của người Việt nam chúng ta lại bị xuống cấp như hôm nay. Chưa bao giờ vì mưu sinh, muốn làm giàu mau mà người ta đã dùng mọi thủ đoạn, bỏ qua tiếng lương tâm cáo trách, để buôn bán hàng gian hàng giả gây nguy hại cho sức khỏe của đồng bào mình: Ra đường thì dễ bị cán phải đinh do “đinh tặc” rải có thể bị té đến tử vong, đi vá xe lại bị “chặt chém”. Khi đổ xăng thì không chỉ bị gian lận về số lượng mà còn có thể mua phải xăng “dổm” gây cháy xe. Ra chợ thì dễ mua phải thực phẩm chứa thuốc độc hại: Nhiều người đã chết vì uống nhầm rượu “dỏm” hay mặc áo ngực phụ nữ có chứa chất độc hại gây ung thư da…
- Ngoài ra chúng ta phải biết dùng lời nói chân thật, khiêm tốn và khoan dung nhân hậu để đem lại sự an vui thuận hòa, để yêu thương và tha thứ, để bênh vực và che chở, để quan tâm nâng đỡ và khích lệ, đồng thời sẵn sàng chấp nhận cho người khác trổi vượt hơn mình, thì tâm hồn chúng ta mới thực sự an bình. Hãy năng hát bài Kinh Hòa Bình của thánh Phan-xi-cô, rồi quyết tâm thực hành theo để nên chứng nhân Tình Thương của Chúa hôm nay.
- NGUYỆN CẦU
Lạy Chúa Giêsu: Xin giúp chúng con biết noi gương Chúa là Vua của Sự Thật. Xin cho chúng con biết yêu Sự Thật và luôn nói thật, nhưng biết khôn ngoan để không nói những sự thật gây thiệt hại cho người vô tội. Xin cho chúng con tránh những lời dối trá lừa đảo.
Trong giao tiếp xã hội, xin cho chúng con tránh thái độ đạo đức giả của các người Pha-ri-sêu và kinh sư đã bị Chúa nặng lời quở trách (x. Mt 23,13-36).
Trong quan hệ làm ăn buôn bán, xin giúp chúng con biết buôn ngay bán thật, không nói rước nói thách, không làm hàng gian hàng giả, không cư xử bất công lường gạt người nhẹ dạ dễ tin.
Xin Chúa giúp chúng con luôn trung thực trong lời nói việc làm, để xứng đáng là công dân Nước Trời của Vua Giêsu, Đấng “là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống” (Ga 14,6). Xin cho chúng con trở thành khí cụ bình an của Chúa để đưa nhiều người về làm con Chúa trong đại gia đình Hội Thánh.
- X) Hiệp cùng Mẹ Maria. – Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.