Các bài suy niệm Chúa Nhật 3 Mùa Vọng – Năm C

12/12/2024

Các bài suy niệm CHÚA NHẬT 3 MÙA VỌNG C

Lời Chúa: Xp 3,14-18; Pl 4,4-7; Lc 3,10-18 

MỤC LỤC

  1. Sám hối
  2. Chúng tôi phải làm gì đây?.
  3. Chúng tôi phải làm gì?.
  4. Vui Vì Cứu Ðộ.
  5. Niềm vui của chờ đợi
  6. Niềm vui trong Chúa.
  7. Chúa Nhật 3 Mùa Vọng.
  8. Chúa Nhật 3 Mùa Vọng.
  9. Niềm vui
  10. Tôi phải làm gì
  11. Cho Chúa một cơ hội
  12. Phải làm gì?.
  13. Cuộc chạy đường trường.
  14. Chuẩn bị
  15. Chúa Nhật 3 Mùa Vọng.
  16. Vui lên anh em!
  17. Kẻ tội lỗi
  18. Nhà giảng thuyết đường phố.
  19. Chúa Nhật 3 Mùa Vọng.
  20. Hãy vui lên.
  21. Reo vui lên.
  22. Chúng tôi phải làm gì?.
  23. Tôi phải làm gì?.
  24. Chúng tôi phải làm gì?.
  25. Thay đổi
  26. Công chính.
  27. Chúa Nhật 3 Mùa Vọng.
  28. Niềm vui trong Chúa.
  29. Hãy vui lên.
  30. Chúa Nhật 3 Mùa Vọng.
  31. Thay đổi trong vui mừng.
  32. Phần thưởng.
  33. Bông lúa cờ.
  34. Tôi phải làm gì?.
  35. Chúa Nhật 3 Mùa Vọng.
  36. Nhập thể bóng dáng.
  37. Chúng tôi phải làm gì?.
  38. Chúa Nhật 3 Mùa Vọng.
  39. Vui trong Chúa.
  40. Hoa quả của lòng thống hối
  41. An và Vui
  42. Hãy vui mừng trong Chúa!
  43. Niềm vui đích thực.
  44. Bác ái và bổn phận.
  45. Vui sống trong Chúa.
  46. Hãy vui lên.
  47. “Hãy vui lên”
  48. Chúng tôi phải làm gì?.
  49. Chúng tôi phải làm gì?.
  50. Chúa Nhật 3 Mùa Vọng.
  51. Chúa Nhật 3 Mùa Vọng.
  52. Chúa Nhật 3 Mùa Vọng.
  53. Đau khổ.
  54. Chúng tôi phải làm gì đây?.
  55. Đấng Thánh Israel thật cao cả.
  56. Hé mầm hy vọng.
  57. Thiên đàng là thế đó.
  58. Sám hối, một niềm vui
  59. Chúa Nhật 3 Mùa Vọng.
  60. Sứ điệp tình thương.
  61. Hoa thơm lấn dần cỏ dại
  62. Chúng tôi phải làm gì?.
  63. Chúa Nhật 3 Mùa Vọng.
  64. Sự sám hối chân thành.
  65. Loan báo Lòng Thương Xót
  66. Thắp sáng đức tin.
  67. Chúa Nhật 3 Mùa Vọng.
  68. “Làm”
  69. Vui lên anh em.
  70. Vui luôn trong Chúa!
  71. Mừng vui lên.
  72. Chúa Nhật 3 Mùa Vọng.
  73. Chúng tôi sẽ phải làm gì?.
  74. Những hành vi thống hối
  75. Hãy sống trong niềm vui!
  76. Chúa Nhật 3 Mùa Vọng.
  77. Chúa Nhật 3 Mùa Vọng.
  78. Chúa Nhật 3 Mùa Vọng.
  79. Nào ta vui lên.
  80. Là “lúa” hay là “rơm”?.
  81. Chúa Nhật 3 Mùa Vọng.
  82. Thánh Thần và Lửa.
  83. Chúa Nhật 3 Mùa Vọng.
  84. Chúng tôi phải làm gì?.
  85. Giàu và nghèo.
  86. Hãy vui lên.
  87. Vui mừng.
  88. “Chúng tôi phải làm gì?”
  89. Chúa Nhật 3 Mùa Vọng.
  90. Hy vọng.
  91. Hoa quả của lòng thống hối
  92. Chúa Nhật 3 Mùa Vọng.
  93. Chúa nhật 3 Mùa Vọng.
  94. Chúa Nhật 3 Mùa Vọng.
  95. Chúa nhật 3 Mùa Vọng.
  96. Chúa Nhật 3 Mùa Vọng.
  97. Chúa Nhật 3 Mùa Vọng.
  98. Chúa Nhật 3 Mùa Vọng.
  99. Chúa Nhật 3 Mùa Vọng.
  100. Chúa Nhật 3 Mùa Vọng.

 

********************************

1. Sám hối

(Trích trong ‘Manna’ – Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.) 

Suy Niệm

Màu tím bao trùm mùa Vọng. Các Kitô hữu lo sám hối để lãnh nhận bí tích Hòa giải. Nhiều người ngại xưng tội, ngại đào bới lại quá khứ. Xưng tội mang dáng dấp của một cái gì buồn thảm!

Thật ra bí tích Hòa giải là một điều tươi tắn hơn nhiều. Sám hối không phải chỉ là quay về quá khứ, mà còn là hướng đến tương lai với rất nhiều hy vọng. Sám hối còn có màu hồng như màu áo lễ hôm nay. Khi dân chúng đến với Gioan, nhận phép rửa sám hối, họ đã hỏi ông: Chúng tôi phải làm gì đây? Cả những người thu thuế và binh lính cũng hỏi những câu tương tự. 

Chúng tôi: sám hối mang tính tập thể, tính liên đới. Hội Thánh chúng tôi cùng chịu trách nhiệm về sự dữ.

Phải: một thúc bách của trái tim hoán cải thực sự. 

Làm gì đây: sám hối không phải chỉ là một cảm xúc, tuy thánh thiện, nhưng lại mông lung, xa rời thực tế.

– Sám hối đích thực đưa đến một hành động cụ thể. Gioan đã cho ta những câu trả lời còn nguyên giá trị.

– Sám hối là sống bác ái, có hai chia một. Nhường cơm sẻ áo là ra khỏi nỗi bận tâm về mình.

– Sám hối là sống công bằng, không tham lam vơ vét, không dùng quyền lực để cưỡng đoạt, áp bức ai.

– Sám hối là hết nô lệ cho của cải, tiền bạc, quyền lực. Như thế dọn đường cho Chúa đến bằng sám hối đòi ta chỉnh đốn lại con đường đến với tha nhân.

Trở về với Chúa diễn tả qua việc trở về với anh em. Gioan không bắt những người thu thuế bỏ cái nghề ô nhục, cũng không đòi những người lính Do thái bỏ phục vụ Hêrôđê. Ông cũng không bảo họ lên Đền Thờ dâng lễ đền tội, hay vào hoang địa sống nhiệm nhặt như mình. Họ cứ làm nghề của họ, nhưng với một tinh thần mới. Sám hối thực sự thì đụng đến bàn tay, một bàn tay chứa đựng cả con tim và khối óc.

Trong mùa Vọng này, chúng ta phải hỏi nhau: mình phải làm gì? Giới trẻ hôm nay muốn cảm thấy mình có ích, và muốn dùng thời giờ của mình sao cho có ý nghĩa.

– Hãy gặp nhau, chấp nhận nhau và làm việc với nhau. Hãy cùng nhau làm một điều tốt nào đó cho đồng bào. Hãy cho thấy mình là người có đức tin. Đức tin được diễn tả qua hành động yêu thương cụ thể, và yêu thương lại làm cho đức tin lớn lên.

– Xưng tội cần dốc lòng chừa. Dốc lòng chừa đòi đổi lối nghĩ và lối sống.

– Đứa con thứ cần sống khác, sau khi trở về nhà Cha.

Chúng ta đã được chịu phép rửa trong Thánh Thần, nhưng chúng ta vẫn cần được Thánh Thần thanh tẩy mỗi ngày. Chúng ta không thể tự sức mình canh tân cuộc sống. Trở lại với tình yêu là hồng ân của Thánh Thần. Ước gì chúng ta mềm mại để cho Ngài uốn nắn và dạy ta biết làm gì để bày tỏ lòng hoán cải. 

Gợi Ý Chia Sẻ

– Có những tội cá nhân và những tội tập thể. Bạn thấy nhóm của bạn, giáo xứ của bạn, Hội Thánh của bạn thường vấp vào những khuyết điểm hay thiếu sót nào, thậm chí tội nào, đối với Chúa và tha nhân?

– Tội tâp thể cần có một cuộc sám hối tập thể. Nhóm của bạn định làm một việc cụ thể nào để bày tỏ lòng sám hối tích cực trong mùa Vọng này? 

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu, con đường dài nhất là con đường từ tai đến tay. Chúng con thường xây nhà trên cát, vì chỉ biết thích thú nghe Lời Chúa dạy, nhưng lại không dám đem ra thực hành. Chính vì thế Lời Chúa chẳng kết trái nơi chúng con. Xin cho chúng con đừng hời hợt khi nghe Lời Chúa, đừng để nỗi đam mê làm Lời Chúa trở nên xa lạ. 

Xin giúp chúng con dọn dẹp mảnh đất đời mình, để hạt giống Lời Chúa được tự do tăng trưởng. Ước gì ngôi nhà đời chúng con được xây trên nền tảng vững chắc, đó là Lời Chúa, Lời chi phối toàn bộ cuộc sống chúng con.

 

2. Chúng tôi phải làm gì đây?

(Trích trong ‘Manna’ – Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.) 

Suy Niệm

Lắm khi lối sống đạo hình thức và cằn cỗi của ta làm nhiều người coi Kitô giáo là một thứ duy tâm tự ru ngủ với những ý tưởng tuy đẹp nhưng chẳng bao giờ trở thành hiện thực trong cuộc sống. Thực ra Kitô giáo là tôn giáo của hành động. Niềm tin đích thực đòi nhập cuộc và dấn thân. Tình yêu đích thực đòi thực hiện cuộc cách mạng nơi lòng cá nhân cũng như ngoài xã hội.

Trong Tin Mừng theo thánh Luca, động từ LÀM được nhắc lại nhiều lần: “Tại sao anh em gọi Thầy: Lạy Chúa, lạy Chúa! mà anh em không làm điều Thầy dạy?” (Lc 6,46). “Người nghe mà không làm thì giống như người xây nhà không nền móng” (Lc 6,49). Trong cuộc đối thoại với một luật sĩ, Đức Giêsu đã bảo ông: “Hãy làm như vậy và ông sẽ được sống” (Lc 10,28). Sau dụ ngôn người Samaria nhân hậu, Ngài còn dặn ông: “Hãy đi và làm như vậy” (Lc 10,37). Con đường dài nhất là con đường từ tai đến tay. Đức Giêsu muốn chúng ta đi hết con đường đó. 

Chúng tôi phải làm gì đây? Câu hỏi này được nhắc lại ba lần trong đoạn Tin Mừng. Những người đến với Gioan để chịu phép rửa đã không chỉ sám hối về quá khứ tội lỗi mà còn muốn tìm một hướng sống trong tương lai.

– Hoán cải đích thực đòi thay đổi cách sống. Ông Dakêu đã chia phân nửa tài sản cho người nghèo. Gioan mời gọi người có hai áo chia cho kẻ không có.

– Hoán cải thực sự đòi phải trả giá vì nó đụng đến bản thân tôi ở chỗ sâu nhất. Chính vì thế, hoán cải là một ơn mà ta phải xin và can đảm đón nhận.

Mùa Vọng là thời gian hoán cải để chờ Chúa đến. Nhiều bạn trẻ lo xét mình xưng tội, xưng tội để rồi bắt đầu một đời sống mới, vui tươi và quên mình, công bình và bác ái. Như Phao-lô sau khi bị quật ngã trên đường về Đa-mát, chúng ta cũng muốn đặt câu hỏi: “Lạy Chúa, tôi phải làm gì?” (Cv 22,10). 

Gợi Ý Chia Sẻ

– Có người nhận xét rằng người Công Giáo Việt Nam giữ đạo trong nhà thờ, nhưng chưa sống đạo ở ngoài nhà thờ. Bạn nghĩ gì về nhận xét đó?

– Bạn hãy chia sẻ một quyết tâm riêng của bạn trong những ngày cuối của mùa Vọng. Nhóm của bạn có thể có một quyết tâm chung không? 

Cầu Nguyện

Lạy Chúa, con được no nê mà vẫn thiếu ăn, vì bên con còn có người đói lả.

– Con uống nước mát mà họng vẫn khô ran, vì bên con còn có người đang khát.

– Con vui cười mà nước mắt tuôn rơi, vì bên con còn có người phiền muộn.

– Con sáng mắt mà vẫn ở trong bóng đêm, vì bên con còn có người mù tối.

– Con mặc áo đẹp mà vẫn rách tả tơi, vì bên con còn có người trần trụi.

– Con nằm trong nệm êm mà vẫn thao thức, vì bên con còn có bao người thiếu thốn.

 

3. Chúng tôi phải làm gì?

(Suy niệm của ĐTGM. Ngô Quang Kiệt)

Khi nghe thánh Gioan Tẩy Giả rao giảng, hàng đoàn người lũ lượt kéo đến xin chịu phép rửa ăn năn sám hối. Hơn thế nữa, họ còn muốn thay đổi cuộc đời nên ai cũng hỏi thánh nhân: “Chúng tôi phải làm gì?”. Thái độ của họ thành khẩn, đơn sơ, hiểu biết và đầy quyết tâm. Để trả lời, thánh nhân đưa ra những hướng dẫn thật cụ thể. Đó là:

Phải làm những việc cụ thể. Hai thái độ cơ bản phải có là công bình bác ái. Bác ái là chia sẻ: “Ai có hai áo, thì chia cho người không có, ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy”. Như thế, bác ái không phải là bố thí những gì dư thừa, nhưng phải là chia sẻ trong tinh thần “nhường cơm sẻ áo” “hạt gạo cắn đôi”. Chia cả những gì mình đang cần thiết. Trong tinh thần huynh đệ. Trong tinh thần yêu người khác như chính mình. Cơm ăn áo mắc là những gì rất cụ thể thiết thực và vừa tầm tay mọi người. Ai cũng có thể chia sẻ được. Chỉ cần muốn là có thể làm được. Công bình cũng không phải là điều gì quá phức tạp. Chỉ đơn sơ giữ đúng luật pháp: nhân viên thu thuế “Đừng đòi hỏi quá mức ấn định”. Và khi thi hành luật pháp binh lính phải có lòng nhân ái chứ đừng cậy quyền thế áp bức và nhất là bóc lột người khác: “Chớ dùng vũ lực, cũng đừng vu khống mà tống tiền người ta”. Tuy đơn sơ, thiết thực nhưng lại rất quan trọng để được ơn cứu độ.

Phải làm trong đời sống cụ thể. Những việc cụ thể đó không phải tìm những nơi xa xôi mới thực hiện được. Mỗi người hãy thực hiện công bình bác ái trong đời sống thường ngày của mình, với những người sống chung quanh mình. Thánh nhân không kêu gọi người ta phải ra khỏi môi trường cũ. Ngài chỉ kêu gọi người ta từ bỏ nếp sống cũ. Người thu thuế cứ thu thuế. Binh lính cứ làm nhiệm vụ của binh lính. Nhưng làm với tinh thần mới. Điều quan trọng không phải là đổi mới nơi ở, nhưng là đổi mới chính mình, đổi mới ý nghĩ, đổi mới lời ăn tiếng nói, đổi mới việc làm. Tục ngữ có nói: “Dù có đi xa vạn dặm mà không chịu thay đổi thì bạn vẫn chỉ là con người cũ”. Cứ ở nhà mà dám đổi mới là ta đã đi những bước rất xa, sẵn sàng gặp được Chúa và lãnh nhận được ơn cứu độ.

Những người Do Thái thời Thánh Gioan Tẩy Gỉa thực lòng mong chờ Chúa đến. Nên đã hỏi ngay những việc cụ thể để làm. Và khi nhận được lời khuyên của thánh nhân, họ đã thực hành ngay tức khắc. Vì thế họ đã gặp được Chúa. Hôm nay ta cũng tích cực sửa chữa đời sống theo tinh thần công bình và nhất là theo tinh thần bác ái. Biết sống tinh thần chia sẻ. Dám cho đi cả những gì cần thiết. Mẹ Têrêsa Calcutta dạy ta: hãy cho đi cho đến khi cảm thấy đau đớn xót xa, thì sự cho đi mới thực sự có ý nghĩa. Biết cho đi như thế, chắc chắn ta sẽ gặp được Chúa.

Ta luôn bất bình với thế giới chung quanh. Ta mong ước đổi mới thế giới. Hãy nghe lời Thánh Gioan Tẩy Giả, đừng đòi hỏi người khác đổi mới nếu chính mình không đổi mới. Hãy đổi mới chính mình trước, rồi mọi người sẽ đổi mới. Khi mọi người đổi mới, thế giới sẽ đổi mới. Hãy bắt đầu sống tốt. Rồi mọi sự và mọi người quanh ta sẽ trở nên tốt. Sống tốt chính là bắt đầu thay đổi thế giới. Sống tốt chính là góp phần vào công cuộc cứu chuộc của Chúa. 

Lạy Chúa, xin cho con bắt đầu cuộc đời mới ngay từ ngày hôm nay, để con được gặp Chúa. Amen. 

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1. Chia sẻ khác với bố thí thế nào? Thánh Gioan Tẩy Giả đòi ta chia sẽ hay bố thí?

2. Bạn có ước mong thế giới đổi mới nên tốt hơn không? Muốn thế bạn phải làm gì?

3. Bạn có mong ước Chúa đến với mọi người không? Muốn thế bạn phải dọn đường cho Chúa như thế nào?

 

4. Vui Vì Cứu Ðộ

(Suy niệm của Gm. Barthôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)

Các bài Kinh Thánh đọc hôm nay chan chứa vui mừng và hy vọng. Phụng vụ nhờ những bài đọc ấy khuyến khích chúng ta hân hoan sung sướng, làm cho ngày Chúa nhật hôm nay trở thành Chúa nhật màu hồng trong mùa Vọng. Phụng vụ cũng muốn, nếu có thể được hôm nay hãy dùng lễ phục màu hồng thay màu tím. Vì lẽ ngày Chúa đến đã gần. Chúng ta phải vui mừng để phấn khởi lấy đà đi mau hết giai đoạn chót. Do đó hôm nay là dịp thuận lợi để chúng ta suy nghĩ về niềm vui của người Kitô hữu. Chúng ta sẽ nhờ các bài đọc Thánh Kinh để khám phá ra lý do cũng như cách thức vui mừng trong đời sống đạo. Chắc chắn với ba bài đọc ngắn ngủi trong toàn bộ Kinh Thánh rất dày, công việc tìm hiểu niềm vui của Kitô giáo sẽ bị giới hạn. Nhưng chúng ta sẽ có nhiều dịp lễ vui mừng khác, để nhờ những bài đọc Thánh Kinh khác, bổ sung cho những điều chúng ta gặp thấy hôm nay trong sách Sôphônia, trong bài thư gởi giáo đoàn Philip và nhất là trong bài Tin Mừng Luca. 

  1. Vui Nhờ Niềm Tin

Có thể nói, ít thời buổi nào lung tung, phập phồng và nhiều sợ hãi như thời của Sôphônia. Ông hoạt động vào khoảng giữa thế kỷ thứ 7 trước Chúa Giêsu Giáng Sinh. Mảnh đất Do Thái nhỏ bé, quê hương của ông, nay sợ quân phía Bắc xâm chiếm; mai hãi sức ép của quân lực phía Tây Nam. Người ta chưa hết sợ đoàn quân viễn chinh Assyri, đã phải trốn tránh sự trả thù của Haòng đế Ai Cập. Tội nghiệp cho triều đình Giêrusalem nhỏ bé. Người chủ trương liên kết với phía này; kẻ lại tranh đấu để được lòng phía kia. Bất ổn, lung tung, cướp bóc, trả thù, chinh chiến gieo sợ hãi, kinh hoàng, hao mòn và kiệt quệ… cho đến khi Giêrusalem bị dày xéo và dân cư bị đưa đi lưu đày.

Chính trong cảnh tang tóc tuyệt vọng ấy, Sôphônia đã tìm được niềm tin, một niềm tin vững vàng đến nỗi đã thoát thành lời hô vui sướng mà chúng ta đọc hôm nay, Sôphônia làm gương cho tất cả chúng ta. Không bao giờ được nản chí, bỏ mất niềm tin. Không được để cho khó khăn đau thương đè ép được niềm tin cứu độ. Chúa đang đến cứu độ chúng ta, lẽ nào chúng ta không phấn khởi đi trong tinh thần mùa Vọng? Chúng ta hãy để cho lời của Sôphônia luôn vọng đến tai:

Reo vui lên hỡi sư tử Sion; hãy hò la hỡi Israen. Hãy vui mừng, hãy hoan hỉ hết lòng, nữ tử Giêrusalem.

Người nói lên được những lời ấy đã quan niệm sự vui mừng vừa phải thật lòng, vừa phải hân hoan bộc phát ra bên ngoài. Nói cách khác, lòng vui chưa đủ mặt cũng phải vui nữa. Niềm vui khi ấy mới chân thật và hồn nhiên. Cả con người đều vui.

Là vì đây là niềm vui cứu độ. Thiên Chúa xóa mất án phạt trên con người và đuổi xa địch thù hãm hại. Người không đánh phạt tội lỗi chúng ta nữa nhưng đã tha thứ rồi. Người không cho kẻ thù đến rình rập gài bẫy chúng ta nữa. Ngược lại chính Người đến ở giữa chúng ta để chúng ta không còn phải sợ tai họa và tay chân chúng ta hết bủn rủn. Hơn nữa Người còn làm mới tình yêu của Người đối với chúng ta, tỏ sung sướng reo vui vì chúng ta và quây quần chúng ta lại để mừng lễ.

Thật ra, Sôphônia không rõ ràng bao nhiêu. Ông lúng túng dùng nhiều hình ảnh. Chúng ta có thể phân tách và thấy ông có hai cảm tưởng này: khi Thiên Chúa ban ơn cứu độ khiến dân Người được vui mừng, thì một đàng Người đưa dân ra khỏi đau thương thử thách và khỏi tay địch thù; và đàng khác Người đến ở với dân để quây quần họ như ăn mừng lễ; một đàng Người củng cố dân khỏi sợ hãi và đàng khác Người làm mới tình yêu khiến họ được sướng vui.

Hai công việc này Thiên Chúa đã làm khi đưa dân ra khỏi lưu đày và về xây lại Ðền thờ… Nhưng lần cứu độ ấy mới tạm thời và bề ngoài. Chính khi Ðức Giêsu Kitô Giáng sinh vừa để cứu vớt thế gian khỏi tội lỗi, vừa để sung sướng ở giữa con cái loài người, lời sách Sôphônia mới được thực hiện. Tuy nhiên việc Chúa Giáng sinh cứu đời cũng chỉ mới khởi sự công cuộc cứu độ thực sự, sẽ được hoàn tất trong ngày Chúa trở lại trong vinh quang. Vì thế lời Sôphônia đối với chúng ta vẫn còn là lời tiên tri. Chúng ta vẫn phải nghe để không những chẳng bao giờ mất niềm tin, mà còn để trông đợi ơn tha thứ tội lỗi và được kết hợp với Thiên Chúa tình yêu. Chúng ta có lý để tin lời tiên tri ấy, vì một phần nào đó đã được thi hành khi Ðức Giêsu Giáng Sinh làm người. Càng suy nghĩ về cuộc đời của Ðức Giêsu, chúng ta càng tin tưởng tiếp tục mùa Vọng muôn thuở. Do đó việc tìm hiểu bài Tin Mừng hôm nay cũng sẽ làm sáng tỏ thêm lời sách Sôphônia. 

  1. Vui Vì Cứu Ðộ

Tác giả Luca đã cho chúng ta thấy dân chúng tuôn đến với Gioan để được ông thanh tẩy. Họ muốn chuẩn bị đón Ðấng Cứu Thế. Họ thành thật muốn biết phải làm gì?

Tác giả Luca để cho dân chúng lên tiếng hỏi trước. Ông vẫn có thiện cảm với quần chúng. Và khi viết tác phẩm Tin Mừng ông vẫn quan tâm nhấn mạnh tính cách phổ cập của ơn cứu độ. Ông nói đến hạng người thu thuế. Những người này cũng được ông thương mặc dù bị người Do Thái liệt vào hạng tội lỗi vì họ lấy thuế cho ngoại bang và nhiều khi hà lạm. Nhưng Chúa đã chẳng đến để cứu chuộc kẻ tội lỗi ư? Chính họ cần lòng thương cứu độ của Người. Sau đó tác giả Luca nói đến lính tráng. Ở đây có lẽ là hạng lính đánh thuê, hay phiền nhiễu đồng bào. Ai yếu thì sợ họ, nhưng người hiểu biết chỉ nhìn họ bằng ánh mắt thương hại. Luca là tác giả tình thương. Ông muốn cho họ được ơn cứu độ. Và vì thế, ông đã để cho tất cả những hạng người trên phát biểu thiện chí muốn làm gì để được lòng thương của Chúa.

Ðối với dân chúng, Gioan bảo họ hãy chia cơm sẻ áo cho nhau, vì dưới mắt ông dân chúng như đoàn chiên đói rách. Ơn cứu độ đối với họ là được yêu thương chia sẻ. Người ta làm cho họ thấy ơn cứu độ đã gần khi tổ chức lại đời sống xã hội cho công bình và thương yêu nhiều hơn. Và chính họ có biến đổi lòng ấm ức xã hội nên những tâm tình chia sẻ nhiều hơn, thì mới trở nên những con người mới. Ðang khi ấy những người thu thuế và lính tráng, muốn được cứu độ, phải liêm chính và đừng sách nhiễu đồng bào. Gioan không bảo họ phải bỏ nghề bất chính họ đang làm; vì ông không phải là đấng đổi mới thế gian”. Ông chỉ là tiền hô và rao giảng việc dọn đường, chuẩn bị. Ông sung sướng được thấy người ta muốn biết ai là Ðấng Kitô?

Ông trả lời, ông không phải là Người. Ông chỉ rửa trong nước; Người sẽ rửa trong Thánh Thần và lửa, Người quyền thế hơn ông và ông không đáng cởi quai dép cho Người.

Chúng ta hãy cảm mến lòng thành thực của Gioan. Ông không lạm dụng lòng tín nhiệm của người ta, vì họ sẵn sàng nhận ông là Ðấng Kitô. Chúng ta cũng cảm phục lòng khiêm nhượng của ông khi ông tự ví mình không xứng đáng là tôi tớ của Ðấng ông rao giảng, ví ngay kẻ tôi tớ Do Thái cũng không buộc phải cởi quai dép cho chủ. Nhưng điều Gioan muốn cho chúng ta để ý hơn cả, là biết Ðức Kitô là Ðấng quyền phép sẽ đến rửa trong Thánh Thần và lửa. Ông rửa người ta với nước, mà không có sự hiện diện của Thánh Thần, tức là không có lời hứa sẽ được ban trong thời kỳ cứu độ và nghĩa là không có ơn thánh hóa kèm theo.

Còn Ðức Kitô, Người sẽ rửa trong Thánh Thần, tức là sẽ ban Thánh Thần cho kẻ nhận phép rửa nhân danh Người. Chắc chắn khi viết tư tưởng này, tác giả Luca nhớ đến những lúc Thánh Thần hiện xuống trên những người tin đạo (thí dụ trong trường hợp tại nhà ông Corneliô, kể trong sách Công vụ). Và ông hẳn cũng liên tưởng đến hôm Chúa Thánh Thần hiện xuống dưới hình lưỡi lửa, ở đây ông nói đến cả Thánh Thần và lửa, là muốn nhấn mạnh đến một tác động đặc biệt của Thánh Thần là phán xét và phân biệt kẻ lành người dữ. Ðức Kitô sẽ đến đầy Thánh Thần. Người sẽ ban Thánh Thần cho chúng ta.

Nhưng đồng thời Người cũng thanh tẩy phân biệt chúng ta như người nông dân cầm rê xảy lúa. Thóc thì Người cho vào lẫm, còn trấu thì cho vào lửa đời đời. Công việc của Người, như vậy, sẽ hoàn tất việc làm của Gioan. Ông này rao giảng việc thống hối ăn năn; nhưng chính xác Ðức Kitô mới là Ðấng sẽ đến thánh hóa kẻ thống hối và trừng phạt kẻ không hối cải. Gioan chỉ là người chuẩn bị Ðức Kitô là Ðấng thực hiện việc cứu thế. Chúng ta phải chờ đợi Người.

Như vậy, Gioan cũng như Sôphônia chỉ là tiên tri. Các ông đóng vai trò loan báo và dọn đường. Tiếng của các ông reo vui hơn tiếng các tiên tri khác, vì Ðấng Cứu Thế đã gần đến và công việc của Người là cứu độ. Lời rao giảng của các ông thật là Tin Mừng, nhưng vẫn còn là sự vui mừng trong tin yêu và chờ đợi ơn cứu thoát. Nó không như lời khuyên bảo vui mừng trong thư Phaolô mà chúng ta sắp đọc. 

  1. Vui Trong Thiên Chúa

Phaolô đã thấy được ơn cứu độ mà Sôphônia loan báo. Hơn nữa chính Người đã thấy phép rửa trong Thánh Thần và lửa như Gioan đã báo trước. Người bảo chúng ta trong bài thư hôm nay: hãy vui mừng trong Chúa luôn luôn.

Theo Người, mặc dù ta đang sống trong chờ đợi ngày Chúa đến, luôn luôn chúng ta phải vui mừng. Người lặp lại một lần nữa và bảo chúng ta hãy vui mừng. Vui mừng là đặc tính của đạo Tin Mừng.

Ðây không phải là sự vui mừng trong lý lẽ thế gian, mà là trong Thiên Chúa. Người đã cứu độ chúng ta trong Ðức Giêsu Kitô sống lại từ cõi chết. Chúng ta đang ở trong nhiệm thể của Ðấng đã sống lại trong sự vui mừng. Làm sao chúng ta có thể còn buồn được nữa?

Và vì vui trong Thiên Chúa, sự vui mừng của chúng ta phải luôn mãi, không thay đổi, không nao núng, vì thánh giá Ðức Kitô đã toàn thắng cả sự chết. Chúng ta không được dấu sự vui mừng ấy, mà phải làm sao cho mọi người nhận biết, vì như Sôphônia đã nói sự vui mừng cứu độ phát xuất từ bên trong nhưng tràn ngập ra bên ngoài. Và cũng chính nhà tiên tri ấy đã báo: không gì có thể dồn ép được niềm vui cứu độ vì lẽ Chúa ở gần bên chúng ta. Người đuổi xa sự sợ hãi và địch thù; nên chúng ta đừng lo. Có gì chúng ta cứ thành khẩn thưa Người. Người sẽ ban bình an và canh giữ lòng dạ chúng ta trong Ðức Giêsu Kitô.

Thiết tưởng không ai hơn được thánh Phaolô trong phân tách sự vui mừng của người Kitô hữu. Nếu chúng ta đã nhận được niềm tin vào lời hứa của Chúa như tiên tri Sôphônia; và nếu chúng ta đã chắc được cứu độ nhờ phép rửa trong Thánh Thần và lửa, như lời Gioan đã báo trước, thì chúng ta phải chấp nhận lời khuyên của Phaolô mà vui mừng luôn mãi trong Chúa. Ðiều duy nhất là liệu có thể ở mãi trong Chúa. Và điều ấy có thể được, đặc biệt nhờ vào việc tham dự thánh lễ.

Ðây là lúc chúng ta không những được nghe loan báo về Chúa như thời Sôphônia, và được đón Chúa đến như dưới thời Gioan Tẩy Giả; chúng ta còn được kết hợp với Người, để Người ở trong chúng ta và chúng ta ở trong Người. Rồi ở trong bất cứ hoàn cảnh nào Người cũng ở với chúng ta, để cứu độ và canh giữ cả ý nghĩ lẫn việc làm, cả tâm hồn và đời sống.

Thế nên chúng ta hãy bình an và vui mừng, hãy chứng tỏ chúng ta có tin mừng cứu độ; chúng ta có các lời tiên tri hứa hẹn và những lời ấy đã thực sự khởi sự thực hiện nơi chúng ta. Do đó chúng ta vui mừng và vui mừng luôn mãi trong Thiên Chúa.

 

5. Niềm vui của chờ đợi

(Suy niệm của Dã Quỳ)

Thời gian Mùa Vọng là thời gian của sự chuẩn bị, thời gian của những sự biến đổi. Chúng ta luôn sống trong chờ đợi một cuộc thực hiện trọn vẹn của ơn cứu độ, của hạnh phúc và của Nước Trời. Phụng vụ Chúa nhật hôm nay diễn tả niềm vui đặc biệt ngày Chúa Cứu Thế đến với nhân loại. Lý do mà chúng ta vui mừng được tuôn tràn từ tin vui này “Chúa đã đến gần” (Pl 4, 5b). Thế nhưng, làm thế nào để ta có thể chờ đợi Ngày Chúa Đến trong niềm vui thật, niềm vui của Chúa? Thánh Gioan Tiền Hô đã chỉ cho ta những phương cách cụ thể cho việc chuẩn bị trong đời sống thực tế của ta: 

– Chia sẻ tận tình những gì ta có với tha nhân cách cụ thể là cơm ăn, áo mặc.

Đó là những nhu cầu mà chính ta cũng cần để sống. Thánh Gioan khuyên những người đến hỏi ngài: “Ai có hai áo thì chia cho người không có, ai có gì ăn thì cũng làm như vậy.” (Lc 3,11) Mặc dù chúng ta đang sống trong thời đại mà người ta cho là văn minh và phát triển vượt bậc, nhưng ta lại thấy người nghèo ngày càng nghèo hơn và càng nhiều người rơi vào cảnh lầm than hơn nên chắc chắn lúc nào cũng có người nghèo ở chung quanh chúng ta và cần lắm tấm lòng chia sẻ tận tình. Chia cơm sẻ áo cho người túng thiếu cũng là một trong những khía cạnh của lòng thương xót mà chúng ta được mời gọi sống trong Năm Thánh Lòng Thương Xót “Cho kẻ đói ăn, cho kẻ rách rưới mặc”. Chia sẻ là trao tặng những gì mà ta có, ta cần và trong niềm vui chứ không phải chỉ cho những gì ta dư thừa. Cho đi trong niềm vui, ta cũng sẽ nhận được niềm vui tràn đầy như Mẹ Têrêsa nói “Ai cho với niềm vui là cho nhiều hơn và Thiên Chúa yêu kẻ cho đi với tấm lòng hoan hỉ.” Chia sẻ tận tình cũng còn là sẻ chia tình yêu thương. Có những cái nghèo về vật chất nhưng cái nghèo ray rứt nhất là không được ai yêu thương nâng đỡ. Nghèo vì bị khinh miệt, ruồng bỏ, bị ném ra lề xã hội, bị áp bức… Lời Chúa luôn thôi thúc ta thi hành sứ mạng chữa lành những tâm lòng thương tích vì cô độc, vì sự thờ ơ lãnh đạm và vì bất công. 

– Sống công bằng và nhân hậu là lời mời gọi ta thay đổi lối sống cũ bình thường hay tầm thường con người mọi thời vẫn sống đó là gian tham, ức hiếp người yếu kém…

Thời thánh Gioan Tiền Hô, người ta cũng đã từng sống như vậy. Vì thế, lời thánh Gioan kêu gọi người xưa cũng thiết thực cho ta hôm nay: “Đừng đòi hỏi quá mức đã ấn định cho mình. Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta…” (Lc 3, 13-14) Sống công bằng trong chính công việc, trong trách nhiệm hay bậc sống của mình cách cụ thể. Hãy đối xử công bằng với những người thân ngay trong gia đình của ta. Hãy sống công bằng với những người đồng nghiệp hay với mọi người ta có trách nhiệm. Hãy thực hiện công bằng với những khách hàng của ta. Hãy thực thi công bằng theo đúng luật pháp và luật của Chúa, Giáo Hội đề ra. Và hơn thế nữa, đừng hà hiếp ai, nhất là những người bé nhỏ yếu kém, nhưng hãy có lòng nhân hậu xót thương, như lời của Mẹ Têrêsa khuyên ta “Hãy trở nên nét nhân hậu của Thiên Chúa, nhân hậu trên nét mặt, nhân hậu trong khóe mắt, nhân hậu nơi nụ cười. Hãy luôn cho đi nụ cười hạnh phúc, cho lũ trẻ, cho đám dân nghèo, cho những ai đang đau khổ, đang đơn độc… Hãy cho họ cả trái tim.” Thực thi công bằng và sống nhân hậu, ta sẽ có một niềm vui trào tràn vì được thanh thản trong tâm hồn và dạt dào tình yêu nơi trái tim ta. Gieo yêu thương và bình an, ta sẽ gặt được niềm vui và hạnh phúc.

Trong Chúa Giêsu-Đấng Emmanuel, Thiên Chúa đã hạnh phúc làm một con người giữa chúng ta để ở với chúng ta. Thiên Chúa yêu thương chúng ta và vui mừng vì ta như lời Ngôn sứ Xôphônia mời gọi dân Xion vui lên “Thiên Chúa sẽ vui mừng và hoan hỉ vì ngươi, sẽ lấy tình thương của Người mà đổi mới ngươi. Vì ngươi, Chúa sẽ nhảy múa tưng bừng như trong ngày lễ hội.”(Xp 3,17-18a) Sứ điệp vui mừng này sẽ đem lại cho chúng ta một niềm tin vững vàng vào Thiên Chúa, Đấng đã tin tưởng trao cho ta sứ mạng vun đắp niềm vui này ở giữa chúng ta. Người chờ đợi sự cộng tác của ta. Người cần những bàn tay của chúng ta, khuôn mặt của chúng ta và những lời nói của chúng ta biểu lộ hạnh phúc của Người đang ở lại giữa chúng ta. Từ đó, chúng ta cần thực hiện và sống những “niềm vui nho nhỏ” nhưng thật quan trọng hằng ngày. Hãy làm cho gia đình, cộng đoàn của ta trở nên những nơi của sự lạc quan và hy vọng, nơi chia sẻ và nâng đỡ, nơi đầy công bằng và nhân hậu. Niềm vui sẽ rất dễ lây lan hơn cả những vi rút mà chúng ta sợ hãi. Vậy hãy làm cho tình bác ái và niềm vui trở thành nạn dịch lan tràn xung quanh đời sống của ta để rồi niềm vui trong yêu thương cũng sẽ là vui trong niềm vui của Chúa. Ước gì khi chờ đợi Chúa đến với chúng ta trong vinh quang, chúng ta sống tràn đầy niềm vui và biết công bố niềm vui ơn cứu độ cho thế giới qua chính đời sống của chúng ta. 

Lạy Thiên Chúa là Cha chúng con, Chúa đã biết niềm vui thật cần thiết biết bao cho con người của thời đại chúng con. Xin ban cho chúng con niềm vui của chính Chúa, niềm vui không ai lấy lấy mất được, để chúng con hoan hỉ chờ đợi ngày Con Chúa ngự đến. Amen.

 

6. Niềm vui trong Chúa

(Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành)

Chúa nhật III Mùa Vọng còn được gọi là chúa nhật màu hồng, là chúa nhật vui. Vui vì “Chúa sắp đến”. Vui vì ngày lễ Giáng Sinh gần kề. Thánh Phaolô mời gọi chúng ta: “Anh em hãy vui luôn trong Chúa!” (Pl 4,4). Niềm vui mà Thánh Phaolô nhắc tới là niềm vui trong Chúa. Niềm vui có Chúa. Niềm vui được gặp gỡ Chúa. Niềm vui “đặc thù” của người Kitô hữu. Hay nói theo ngôn ngữ của Đức Thánh Cha Phanxicô, đây là “Niềm vui của Tin Mừng”. Ngài nói: “Niềm vui của Tin Mừng đổ tràn đầy trái tim và cuộc sống của tất cả những ai gặp Chúa Giêsu” (x. Tông thư Niềm Vui Tin Mừng, số 1). Và để chứng minh điều đó, trong số 5 của Tông thư vừa nêu, Đức Thánh Cha đưa ra nhiều dẫn chứng cụ thể của người có niềm vui Tin Mừng: Đó là niềm vui mà thiên thần mời gọi Đức Maria trong biến cố truyền tin “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng Bà” (Lc 1,28). Đó là niềm vui của Gioan Tẩy Giả nhảy mừng trong lòng bà thánh Êlizabét khi Đức Mẹ đến thăm (x. Lc 1,41). Đó là “Niềm vui trọn vẹn” của Gioan Tẩy Giả khi Đức Giêsu bắt đầu thi hành sứ vụ (x. Ga 3,29). Đó là niềm vui mà Đức Giêsu hứa với các môn đệ: “Anh em sẽ lo buồn, nhưng nỗi buồn của anh em sẽ trở thành niềm vui” (Ga 16,20). Đó là niềm vui của các môn đệ khi nhìn thấy Chúa Kitô phục sinh(x.Ga 20,20). Đó là niềm vui gặp gỡ của các kitô hữu đầu tiên, họ “Dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ”(Cv 2,46). Đặc biệt, các môn đệ đi đến đâu họ đem niềm vui tới đó(x. Cv 8,8); ngay cả giữa cơn bách hại, họ vẫn “Ngập tràn niềm vui” (13,52)…

Trong tập sách “Bước qua ngưỡng cửa hy vọng”, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II cũng đã khẳng định Tin Mừng là tin vui, Ngài nói: “Tin Mừng có nghĩa là tin mang đến niềm vui mừng và Tin Mừng luôn là một lời mời gọi con người sống vui tươi”. Thật vậy, Tin Mừng là tin mang đến niềm vui mừng. Nhờ Tin Mừng chúng ta mới biết Chúa. Nhờ Tin Mừng chúng ta mới trở thành người Kitô hữu. Nhờ Tin Mừng chúng ta gặp được Chúa qua các bí tích: Bí tích Rửa tội, bí tích Giao Hoà, Bí tích Thánh Thể…Nhờ Tin Mừng chúng ta gặp được Chúa qua cầu nguyện, qua việc đọc và suy niệm Lời Chúa, qua đời sống bác ái yêu thương. Nhờ gặp Chúa qua Tin Mừng cuộc đời của chúng ta được biến đổi và từ đó chúng ta gặp gỡ mọi người trong tình yêu thương như lời bài hát: “Gặp gỡ Đức Kitô biến đổi cuộc đời mình. Gặp gỡ Đức Kitô đón nhận ơn tái sinh. Gặp gỡ Đức Kitô chân thành mình gặp mình. Gặp gỡ Đức Kitô nảy sinh tình đệ huynh”.

Để có được niềm vui trong Chúa, niềm vui Tin Mừng, tâm hồn chúng ta cần phải trong sạch, không vướng mắc tội lỗi. Lời Chúa hôm nay phần nào giúp chúng ta có được điều đó: Hãy giữ đức công bằng và hãy thực thi bác ái. 

  1. Hãy giữ đức công bằng:

Khi những người thu thuế và các binh lính hỏi Thánh Gioan phải làm gì để đón chờ Chúa đến. Thánh Gioan mời gọi họ hãy giữ đức công bằng, Ngài nói: “Đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định cho các anh” (Lc 3,13); “Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta, hãy an phận với số lương của mình” (Lc 3, 14). Tuy lời mời gọi này dành riêng cho những người thu thuế và binh lính nhưng rất thích hợp với tất cả mọi người qua mọi thời đại. Bởi vì, ai cũng có thể lỗi đức công bằng. Điều răn thứ bảy trong mười điều răn của Chúa đã liệt kê những tội lỗi đức công bằng như sau: 

Thứ nhất, tội lấy của người khác cách bất công:

Trộm cướp, gian lận, cho vay ăn lời quá đáng, nhận của hối lộ hoặc tham lam của công và đầu cơ tích trữ hoặc bắt chẹt người tiêu dùng. 

Thứ hai, tội giữ của người khác cách bất công:

Không trả nợ, không hoàn lại của đã mượn hay lượm được, không trả tiền công xứng đáng, trốn thuế, oa trử của gian. 

Thứ ba, tội làm hư hại của người khác:

Trực tiếp hay gián tiếp làm hư hại tài sản người khác, vu cáo hay là nói xấu khiến người ta làm ăn thất bại, lỗi các hợp đồng đã được thoả thuận cách công bằng.

Xã hội chúng ta đang sống có rất nhiều người tham ô tham nhũng, trộm cắp gian tham, ức hiếp của người, bỏ vạ cáo gian. Họ phải hoàn trả lại những tài sản đã chiềm đoạt và bồi thường cân xứng những thiệt hại đã gây ra. Về vấn đề này, Tin Mừng cho chúng ta thấy gương của ông Giakêu. Ông là một người thu thuế, đã từng tham ô tham nhũng, nhưng khi gặp được Chúa Giêsu, ông đã quyết định phân chia phần nữa của cải của mình cho người nghèo và nếu ông chiếm đoạt của ai cái gì thì ông xin đền trả gấp bốn (x. Lc 19,8). 

  1. Hãy thực thi bác ái:

Bác ái là bản chất của Đạo Công Giáo. Thực thi bác ái là bổn phận của mỗi người kitô hữu. Có nhiều cách để thực thi bác ái. Trong bài Tin mừng hôm nay, Thánh Gioan Tẩy Giả mời gọi chúng ta thực thi bác ái bằng cách cho đi: “Ai có hai áo hãy cho người không có” (Lc 3,11). Cho đi không phải nơi môi miệng mà phải bằng những việc làm cụ thể. Thánh Giacôbê nói: “Nếu có anh em hoặc chị em bị ở trần, hoặc nếu họ không có của ăn hằng ngày và nếu có ai trong anh em bảo họ: ‘Hãy đi bằng an, hãy mặc ấm và hãy ăn no’ mà không cho họ những gì cần thiết cho thân xác họ, thì có ích lợi gì đâu?” (Gc 2,15-16).

Khi biết thực thi bác ái là chúng ta gặp gỡ Chúa. Chính Chúa Giêsu đã đồng hoá Ngài nơi những người nghèo, những người bệnh tật, những người tù tội (x. Mt 25,40). Chính vì vậy, khi mẹ của Thánh Rosa thành Lima trách Ngài vì đã đưa những người nghèo và những người tàn tật về trong gia đình để săn sóc, Ngài thưa với mẹ Ngài rằng: “Khi chúng ta phục vụ những người nghèo và những bệnh nhân, đó là chúng ta phục vụ Chúa Giêsu. Chúng ta phải không ngừng giúp đỡ người đồng loại, bởi vì chúng ta phục vụ Chúa Giêsu ở nơi họ”.

Khi biết thực thi bác ái chúng ta sẽ gặp được niềm vui. Kinh nghiệm cuộc sống cho chúng ta thấy điều đó: Khi cho ai cái gì với lòng bác ái chân thật chúng ta sẽ cảm thấy an vui.

Tại văn phòng của một cố vấn tâm lý, một thiếu phụ vừa trẻ đẹp vừa giàu sang bước vào giải bày tâm sự: “Bất cứ thứ gì tôi muốn thì chồng tôi đều cho tất cả. Tôi có đủ mọi “sự” nhưng lòng của tôi lúc nào cũng trống vắng vô cùng. Xin bà hãy cho tôi một lời khuyên”. 

Nhà cố vấn tâm lý không trả lời, nhưng bảo cô thư ký của bà kể lại chuyện đời cô cho người phụ nữ này nghe. Cô thư ký kể: “Chồng tôi đã chết cách nay 3 tháng; con tôi cũng chết vì xe đụng. Tôi cảm thấy mất tất cả. Tôi không ngủ được. Tôi không muốn ăn uống. Tôi không bao giờ cười. Rồi một hôm, tôi đi làm về hơi khuya. Một chú mèo con cứ lẽo đẽo đi theo tôi. Trời lạnh. Tôi thấy tội nghiệp nó quá, nên tôi mở cửa cho nó vào nhà. Tôi pha cho nó một ly sữa. Nó kêu meo meo và cọ mình vào chân tôi. Lần đầu tiên từ sau những thảm kịch bi đát của gia đình… tôi cười. Rồi tôi nghĩ: nếu việc giúp cho một chú mèo con có thể làm tôi cười, thì việc giúp cho người nào đó chắc có thể làm tôi hạnh phúc. Thế là ngay ngày hôm sau, tôi nướng vài ổ bánh đem sang cho bà cụ hàng xóm đang nằm bệnh. Mỗi ngày tôi cố làm vài việc gì đó cho những người tôi gặp, được vui vẻ. Và quả thực, tôi đã tìm thấy hạnh phúc. Tôi nghiệm ra được điều này là ta sẽ không có hạnh phúc khi ta chỉ chờ người khác đem lại hạnh phúc cho mình. Ngược lại, ta sẽ hạnh phúc thật, khi ta làm cho người khác hạnh phúc”. 

Nghe đến đó, người thiếu phụ trẻ bật khóc. Cô đã có bất cứ thứ gì mà đồng tiền có thể mua được nhưng cô đã đánh mất những thứ mà đồng tiền không mua nổi. Và cô quyết định noi gương cô thư ký nọ (Câu chuyện trích từ bài chia sẻ của Lm. Giuse Đinh Tất Quý).

Nhìn vào xã hội hôm nay, chúng ta thấy có rất ít người tìm kiếm niềm vui trong Chúa. Trái lại, có rất nhiều người tìm kiếm những thú vui trần gian nơi chức quyền danh vọng, nơi tiền bạc của cải, nơi tình cảm ngang trái. Vui nơi cờ bạc rượu chè. Đó là niềm vui tạm bợ, niềm vui chóng qua mau hết. Chỉ có niềm vui trong Chúa mới là niềm vui đích thực. Niềm vui trọn vẹn. Niềm vui “Không ai lấy mất được” (Ga 16,20). Mỗi người chúng ta hãy tự xét mình xem: Tôi đang có niềm vui nào? Niềm vui trong Chúa hay niềm vui của thế gian? 

Lạy Chúa, trong khi chờ đợi Chúa đến, xin cho chúng con biết siêng năng cầu nguyện, lãnh nhận các Bí tích, suy gẫm Lời Chúa. Đặc biệt, xin Chúa cho chúng con biết sống công bằng, biết thực thi bác ái, biết cho đi hơn là lãnh nhận, để chúng con có được niềm vui trong Chúa, niềm vui của Tin Mừng. Amen.

 

7. Chúa Nhật 3 Mùa Vọng

(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn) 

SÁM HỐI LÀ THAY ĐỔI THANG GIÁ TRỊ CUỘC SỐNG

Nhạc sĩ Trần Tiến với bài hát “Lời nói cuối” đã đoạt giải nhất trong cuộc thi phong trào phòng chống Siđa. Nội dung bài hát ông lấy cảm hứng từ một lá thư của một cậu bé bán bánh mì mắc bệnh Siđa. Cậu ta tâm sự rằng cậu chỉ bán bánh mì vào ban đêm vì khuôn mặt của cậu đã lỡ nhiều quá. Cậu bơ vơ và khát khao một cuộc sống. Cậu nhờ nhạc sĩ viết cho bài hát “lời nói cuối” như một lời trần tình cho mọi người về khát vọng sống. Nội dung bài hát: “Một buổi sớm, nhìn gương lại thấy buồn vết bầm tím lang rộng trên môi, mỗi một sớm thời gian, dục vó ngựa mang đời tôi đi vào đem đen. Mỗi ngày trôi, đời tôi một ngắn lại. Vó ngựa phi vội tới vực sâu, vó ngựa ơi chậm thêm một chút một chút thời gian, thời gian nhỏ nhoi. Cho tôi nhìn bầu trời của tôi, cho tôi nhìn người tình của tôi, cho tôi nói lời nói lần cuối: đừng ai, đừng ai chết trẻ như tôi. Tôi là đứa trẻ con còn non dại. Sao tuổi xuân sớm bỏ tôi đi. Tôi là đứa trẻ con còn mơ mộng. Sao tình yêu sớm bỏ tôi đi… Mỗi ngày trôi đời tôi một ngắn lại. Vó ngựa phi vội tới vực sâu. Vó ngựa ơi chậm thêm một chút. Một chút thời gian, thời gian nhỏ nhoi. Cho tôi chào mẹ già của tôi. Cho tôi chào bạn bè của tôi. Cho tôi nói lời nói lần cuối. Đừng ai đừng ai chết thảm như tôi”. Vâng, có lẽ giây phút gần cái chết, niềm khát vọng sống trở thành mãnh liệt hơn bao giờ hết vì thế nó thúc đẩy em bé thốt lên một lời nài van: “Hãy cho tôi thêm một chút một chút thời gian, thời gian nhỏ nhoi. Cho tôi nhìn bầu trời của tôi, cho tôi nhìn người tình của tôi. Cho tôi chào mẹ già của tôi. Cho tôi chào bạn bè của tôi. Cho tôi nói lời nói lần cuối đừng ai, đừng ai chết trẻ và chết thảm như tôi”. Vâng, cũng vậy, niềm khát vọng sống, không để chết thảm là sa hỏa ngục đời đời nhưng được sống vĩnh hằng trở thành hiện thực nơi mỗi người chúng ta qua việc Ngôi Hai Thiên Chúa sắp Giáng sinh làm người để cứu độ chúng ta: cho chúng ta làm con cái Chúa, cho chúng ta giao hòa với Chúa và với nhau, đặc biệt cho chúng ta sống lại trong ngày sau hết, để được như vậy thì ngay từ bây giờ chúng ta hãy thay đổi thang giá trị cuộc sống này. Và đó cũng chính là tâm tình Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta.

Trong Tin Mừng, Thánh Gioan tẩy giả loan báo niềm hy vọng cho Dân Israel, đó không phải là niềm hy vọng trừu tượng mà là niềm hy vọng được tập trung vào Đấng mà người Do thái mong đợi Đấng Mesia, Ngôi Hai Thiên Chúa làm ngươi. Vì thế, mở đầu Tông Sắc “Dung Nhan Lòng Thương Xót”, Đức Thánh Cha Phanxicô khẳng định rằng Chúa Giê-su Ki-tô là Dung Nhan Lòng Thương Xót của Thiên Chúa Cha vì chưng, trong Chúa Giê-su Kitô, Lòng Thương Xót của Thiên Chúa Cha trở nên sống động, rõ ràng và thấy tột đỉnh điểm của nó. Vì vậy ai thấy Ngài là thấy Cha (x. Ga 14,9) mà Chúa Cha là “Thiên Chúa nhân hậu và từ bi, hay nén giận, giàu nhân nghĩa, thành tín” (Xh 34,6) và “giàu lòng thương xót” (Ep 2,4) (số 1). Vâng, Lòng Thương Xót Chúa mạnh hơn tội lỗi, Ngài không bao giờ mõi mệt để tha thứ cho con người, làm cho con người được sống dồi dào và không bao giờ phải chết. Để được như thế, Thánh Gioan Tẩy giả, vị ngôn sứ kêu gọi chúng ta hãy sám hối mà sám hối không phải thứ sám hối chung chung mà phải sám hối cụ thể hoá trong cuộc sống bằng hành động.

Chúng ta thường đặt thang giá trị vào vô vàn khía cạnh của cuộc sống: đối với người làm lớn coi thang giá trị đó là quyền lực. Người kinh doanh đặt thang giá trị nơi tiền, lợi nhuận. Giới trẻ đặt thang giá trị cuộc sống nơi hưởng thụ, “văn hóa vứt bỏ” nói như Đức Thánh Cha Phanxicô. Giới thiếu nhi đặt thang giá trị nơi trò chơi điện tử, ăn chơi leo lỏng… Vì thế, Lời Chúa hôm nay khuyên chúng ta hãy thay đổi những thang giá trị đó: Nếu người làm lớn, hãy sống công bằng, không được ức hiếp người yếu thế. Nếu là công nhân đừng đòi hỏi quá mức lương ấn định. Nếu là chồng, hãy sống chung thuỷ với vợ và hy sinh lo cho con cái. Nếu là vợ, hãy là người vợ đạo đức và người mẹ hiền gương mẫu. Nếu là con cái, hãy chịu khó học hành và vâng lời Cha mẹ. Nếu là giới trẻ, hãy sống có đạo đức và tác phong là người trẻ. Chớ ăn chơi leo lỏng, chớ dùng bạo lực mà đối xử nhau. Nếu là sinh viên, hãy sống trung thực và hòa thuận với nhau, chớ gian dối, bạo lực hay nghiện ngập! Còn các gia đình thân mến, chúng ta hãy năng đọc kinh chung trong gia đình, năng tham dự Thánh Lễ và lãnh nhận các bí tích để Chúa và hãy để Lời của Ngài luôn cư ngụ trong tâm hồn anh chị em, làm cho mỗi người trong gia đình gạt đi những ảo tưởng để đón nhận nhau, cùng nhau nên hoàn thiện hơn mỗi ngày; biết kiên nhẫn, hy sinh và quảng đại với nhau hơn”. Thánh Gioan tẩy giả nói: “Ai có hai áo thì chia cho người không có, ai có gì ăn cũng làm như vậy”, có nghĩa rằng Các thành viên trong gia đình hãy chia sẻ một chút vật chất, một chút thì giờ, một chút quan tâm cho nhau và cho những người khác. Các bậc làm cha làm mẹ đừng có lạm dụng quyền hành mà lỗi đức công bình, bác ái với nhau và với con cái”. Thánh Gioan tẩy giả nói tiếp: “Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền ai, có nghĩa rằng các con cái phải cư xử thảo hiếu và vâng lời cha mẹ, anh chị em và hàng xóm láng giềng với nhau. Và cứ như thế, tất cả mọi người sẽ nhìn thấy Ơn Cứu Độ.

Chính vì thế mà Lời Chúa trong bài đọc 2, Thánh Phaolô nói rằng: Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: vui lên anh em! Sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hoà rộng rãi, Chúa đã gần đến”. Vì vậy, Chúa Nhật III mùa vọng hay còn gọi Chúa Nhật Gaudete: “Mừng Vui lên”, vui mừng vì Chúa giải thoát đã đến và đang ở với chúng ta. Ngài đang thực hiện một cuộc đổi mới toàn diện, đang quy tụ muôn nước thành một dân một nước: Dân Chúa, Nước Trời, không phải bằng vũ lực khống chế, nhưng bằng sự giải thoát loài người khỏi những ràng buộc của tội lỗi, ích kỷ, nhỏ nhen, bất chính… Ngài cũng kêu gọi chúng ta hãy sống liên đới yêu thương, chia cơm sẻ áo cho người đói khổ, sống công bình, chính trực và chan hoà với mọi người đồng thời khơi lên niềm vui cho những ai đang chán nản, thất vọng chán chường vì không có niềm tin, vì đã mất niềm tin nơi con người, nơi xã hội và cả nơi Thiên Chúa nữa. 

Xin cho Lời Chúa hôm nay thúc bách chúng ta lấy tình thương, công bằng, bác ái và thứ tha làm thang giá trị trong cuộc sống hầu làm Danh Chúa cả sáng và Nước Chúa đến với mọi người trong ngày Giáng sinh sắp đến cũng như mọi ngày. Amen.

 

8. Chúa Nhật 3 Mùa Vọng

(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn) 

SỐNG VÀ LOAN BÁO LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA

Nhạc sĩ Trần Tiến với bài hát “Lời nói cuối” đã đoạt giải nhất trong cuộc thi phong trào phòng chống Siđa. Nội dung bài hát ông lấy cảm hứng từ một lá thư của một cậu bé bán bánh mì mắc bệnh Siđa. Cậu ta tâm sự rằng cậu chỉ bán bánh mì vào ban đêm vì khuôn mặt của cậu đã lỡ nhiều quá. Cậu bơ vơ và khát khao một cuộc sống. Cậu nhờ nhạc sĩ viết cho bài hát “lời nói cuối” như một lời trần tình. Nội dung bài hát: “Một buổi sớm, nhìn gương lại thấy buồn vết bầm tím lang rộng trên môi, mỗi một sớm thời gian, dục vó ngựa mang đời tôi đi vào đem đen. Mỗi ngày trôi, đời tôi một ngắn lại. Vó ngựa phi vội tới vực sâu, vó ngựa ơi chậm thêm một chút một chút thời gian, thời gian nhỏ nhoi. Cho tôi nhìn bầu trời của tôi, cho tôi nhìn người tình của tôi, cho tôi nói lời nói lần cuối: đừng ai chết thảm như tôi”. Có lẽ giây phút gần cái chết, niềm khát vọng sống trở thành mãnh liệt hơn bao giờ hết vì thế nó thúc đẩy để người ta thốt lên như một lời nài van: “Tôi là đứa trẻ con còn non dại, sao tuổi xuân sớm bỏ tôi đi. Tôi là đứa trẻ con còn mơ mộng, sao tình yêu sớm bỏ tôi đi. Đừng ai chết trẻ như tôi”. Vâng, cũng vậy, niềm khát vọng sống và sống vĩnh hằng trở thành hiện thực nơi mỗi người nhờ vào Lòng Thương Xót qua Chúa Giêsu sắp Giáng sinh làm người, chúng ta hãy thay lối, đổi đường ngay từ bây giờ. Và đó cũng chính là tâm tình Lời Chúa hôm nay muốn loan báo cho chúng ta.

Cho nên, Thánh Gioan Tẩy Giả loan báo niềm hy vọng cho Dân Israel, đó không phải là niềm hy vọng trừu tượng mà là niềm hy vọng được tập trung vào Đấng mà người Do thái mong đợi Đấng Mesia, Ngôi Hai Thiên Chúa làm ngươi. Vì thế, mở đầu Tông Sắc “Dung Nhan Lòng Thương Xót”, Đức Thánh Cha Phanxicô khẳng định rằng Chúa Giê-su Ki-tô là Dung Nhan Lòng Thương Xót của Thiên Chúa Cha vì chưng, trong Chúa Giê-su Kitô, Lòng Thương Xót của Thiên Chúa Cha trở nên sống động và rõ ràng và thấy tột đỉnh điểm của nó. Vì vậy ai thấy Ngài là thấy Cha (x. Ga 14,9) mà Chúa Cha là “Thiên Chúa nhân hậu và từ bi, hay nén giận, giàu nhân nghĩa và thành tín” (Xh 34,6) và “giàu lòng thương xót” (Ep 2,4) (số 1).

Vâng, Lòng Thương Xót Chúa mạnh hơn tội lỗi, Ngài không bao giờ mõi mệt để tha thứ cho con người, làm cho con người được sống dồi dào và không bao giờ phải chết. Để được như thế, Thánh Gioam Tẩy giả, vị ngôn sứ loan báo cho Lòng Thương Xót Chúa kêu gọi chúng ta hãy sám hối mà sám hối không phải thứ sám hối chung chung mà thứ sám hối được cụ thể hoá trong cuộc sống tức bằng hành động.

Chúng ta thường đặt thang giá trị cuộc sống vào vô vàn khía cạnh của cuộc sống: đối với người làm lớn coi thang giá trị đó là quyền lực. Người kinh doanh đặt thang giá trị nơi tiền, lợi nhuận. Giới trẻ đặt thang giá trị cuộc sống nơi hưởng thụ, “văn hóa vứt bỏ” nói như Đức Thánh Cha Phaxicô. Giới thiếu nhi đặt thang giá trị nơi trò chơi điện tử, ăn chơi leo lỏng… Lời Chúa hôm nay khuyên chúng ta hãy thay đổi những thang giá trị đó: Nếu người làm lớn, hãy sống bằng, không được ức hiếp người yếu thế. Nếu là công nhân đừng đòi hỏi quá mức lương ấn định. Nếu là chồng, hãy sống chung thuỷ với vợ và hy sinh lo cho con cái. Nếu là vợ, hãy là người vợ đạo đức và người mẹ gương mẫu. Nếu là con, hãy chịu khó học hành và vâng lời Cha mẹ. Nếu là giới trẻ, hãy sống có đạo đức và tác phong là người trẻ. Chớ ăn chơi leo lỏng, chớ dùng bạo lực mà đối xử nhau. Nếu là sinh viên, hãy sống trung thực và hòa thuận với nhau, chớ gian dối, bạo lực hay nghiện ngập! Bên cạnh đó, hãy để Lòng Thương Xót Chúa đến ngự trị trong cuộc sống ta, Ngài sẽ lấy tình thương của Ngài mà đổi mới chúng ta đồng thời làm cho chúng ta hạnh phúc và bình an. Và bình an của Thiên Chúa, bình an vượt lên trên mọi hiểu biết, sẽ giữ cho lòng trí chúng ta được kết hợp với Đức Ki-tô Giê-su.

Pascal nói: “Tôi chỉ tin một điều gì khi người ta rao giảng nó và dám sống và chết cho nó”. Gioan Tẩy giả không chỉ loan báo mà còn dám sống chết cho lời mình loan báo: Thiên Chúa, Đấng nhân hậu và từ bi, hay nén giận, giàu nhân nghĩa và thành tín sẽ đến ở giữa chúng ta. Còn chúng ta thì sao, có dám sống và loan báo cho Lòng Thương Xót của Chúa không?

Chúng ta đã bước vào Năm Thánh Lòng Thương Xót. Giáo Hội mở Năm Thánh này nhằm mục đích gì? Nhằm kêu gọi mọi người chúng ta phải sống và làm chứng cho lòng thương xót. Có nghĩa rằng toàn bộ lời nói, hành động và cung cách sống của chúng ta phải chuyển tải lòng thương xót để chạm vào con tim của tất cả mọi người và truyền cảm hứng cho họ một lần nữa tìm ra con đường dẫn đến Chúa Cha. Mỗi thành phần dân Chúa trong Giáo Hội phải biến mình thành một người đầy tớ của tình yêu này và làm trung gian của tình yêu ấy cho tất cả mọi người: một tình yêu tha thứ và trao ban chính mình vì Chúa và tha nhân. Do đó, trong các giáo xứ, các cộng đồng, các hiệp hội và các phong trào hay bất cứ nơi nào có những Kitô hữu hiện diện thì tất cả mọi người phải là một ốc đảo của lòng thương xót (Tông Chiếu về Năm Thánh Lòng Thương Xót, số 12). Năm Thánh Lòng Thương Xót trùng với Năm Tân Phúc Âm Hóa đời sống xã hội. Vì vậy, trong Thư Mục Vụ gửi cộng đoàn dân Chúa năm nay, các Đức Giám mục mời gọi mọi thành phần dân Chúa hãy “sống, chia sẻ, loan báo và làm chứng cho Lòng Thương Xót ngay trong đời sống xã hội”. 

Ước gì, trong những ngày Mùa Vọng này, xin cho Lời Chúa thúc bách chúng ta lấy tình thương, công bằng, bác ái và thứ tha làm thang giá trị trong cuộc sống hầu làm cho Lòng Thương Xót đến với mọi người trong ngày Giáng sinh sắp đến. Amen.

 

9. Niềm vui

Phụng vụ của Chúa nhật 3 Mùa vọng mang một bầu khí vui mừng. Thực vậy, ngay từ ca nhập lễ, thánh Phaolô đã kêu gọi: Anh em hãy vui lên trong Chúa. Tiếp đến, trong bài đọc thứ nhất, tiên tri Sophônia cũng đã nhắn nhủ: Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy hân hoan nhảy mừng. Sở dĩ như vậy là vì Chúa đã gần đến.

Kinh nghiệm cho thấy niềm vui là một điều rất cần cho đời sống con người. Vào dịp tết chúng ta thường cầu chúc cho nhau được vui vui tươi và hạnh phúc. Khoa tâm lý còn chứng minh niềm vui làm cho con người trẻ hơn và sống lâu hơn. Trong thực tế, con người cố tạo cho mình nhiều niềm vui, nhưng đâu mới chính là niềm vui đích thực? Bởi vì có những niềm vui, mà sau đó con người cảm thấy trống rỗng và chán nản. Có những niềm vui, mà sau đó con người cảm thấy mệt mỏi và thất vọng. Có những niềm vui, mà sau đó con người cảm thấy lo âu và hối hận.

Với lễ Giáng Sinh cũng thế. Chúng ta cảm thấy vui khi ngắm nhìn những ngôi sao, những hang đá rực rỡ ánh điện màu. Chúng ta cảm thấy hân hoan khi nghe những bản thánh ca tuyệt vời, hay khi nhận được những tấm thiệp chúc mừng. Tất cả đều là những niềm vui chính đáng, nhưng chưa phải là niềm vui đích thực. Bởi vì lễ Giáng Sinh sẽ qua đi, mọi trang trí sẽ bị dẹp bỏ, mọi người trở về với cuộc sống thường ngày. Vì thế, niềm vui đích thực phải là niềm vui xuất phát từ bên trong, từ tâm hồn của con người. Đi tìm niềm vui ở bên ngoài chỉ là một chạy trốn thực tại và không bao giờ đạt tới kết quả, vì người buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Vậy phải làm gì để có được niềm vui đích thực?

Thánh Gioan tiền hô qua đoạn Tin Mừng hôm nay đã trả lời: Hãy sống công bình và bác ái, biết nghĩ đến người khác, biết chia sẻ với những người kém may mắn, đừng lợi dụng địa vị và quyền hành để chèn ép và bóc lột người khác. Tóm lại, hãy quên mình để phục vụ an em và chu toàn những bổn phận hằng ngày, đó là con đường dẫn tới niềm vui đích thực. Mảnh đất tối cho niềm vui phát triển là tình bác ái yêu thương. Sống trong một thế giới đầy hận thù và chiến tranh, sống trong một xã hội cá lớn nuốt cá bé. Sống trong một môi trường đảo điên và lừa gạt, chúng ta dễ bi quan và cho rằng: Con người khó mà yêu thương nhau chân thành. Dầu vậy, chúng ta đừng vội tuyệt vọng, nhưng hãy nhớ đến mối phúc thật thứ bảy: Ai làm cho người hòa thuận ấy là phúc thật, vì chưng họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.

Hãy thực thi công bằng và bác ái, nhờ đó chúng ta sẽ được hưởng niềm vui mừng và bình an mà Chúa sẽ đem đến qua tiếng hát của các thiên thần trên cánh đồng Belem năm xưa: Bình an dưới thế cho người thiện tâm.

 

10. Tôi phải làm gì

(Suy niệm của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)

Trước những biến cố quan trọng, trước những nguy khốn cấp bách, người ta thốt lên: Tôi phải làm gì? Gioan tiền hô xuất hiện, kêu gọi mọi người dọn đường đón Đấng Cứu thế. Dân Do thái hàng ngàn năm đã được nghe về Đấng Cứu thế. Bao nhiêu thế hệ đã khao khát mong chờ Đấng Cứu thế. 

I/ Dân chúng mong đợi Đấng Cứu thế vì nhiều lý do:

1/ Kẻ buồn vì đất nước bị gót giày ngoại bang chà đạp, mất tự do tín ngưỡng, mất tự do nhân phẩm, khổ vì bị bóc lột, đau vì bị áp bức. Người có chức quyền địa vị chỉ lo vơ vét ăn chơi tửu sắc, còn dân chúng sống chết mặc bay.

2/ Kẻ học biết Kinh thánh và nhữnh kinh sĩ chỉ lo nghiền ngẫm những lời tiên tri loan báo: Đấng Cứu thế sắp đến là “Vua được xức dầu, Ngài đến trong dòng dõi Giuda, Ngài chiến thắng quân thù, giết những vua quan ngoại bang… Đấng xức dầu sẽ tụ họp dân Ngài trong đường công chính, cai trị các quốc gia, loại trừ mọi bất công và gian ác. Phúc cho ai được sống trong thời đại ấy”. Họ nghiền ngẫm những lời ấy và suy đoán sắp đến ngày Đấng Cứu thế xuất hiện và ai ai cũng đều cầu xin Ngài đến. Giờ đây họ được nghe loan báo Ngài đang đến. Thế là như cá gặp nước, như người chết đuối vớ được phao cứu, dân chúng đổ xô đến hỏi Gioan: “Chúng tôi phải làm gì để đón rước Đấng Cứu thế?”. Gioan không bắt họ phải bỏ nghề nghiệp, địa vị, việc làm, không bắt họ lên rừng ẩn tu khắc khổ, cũng không phải ăn chay, khóc lóc, mặc áo nhặm, rắc tro lên đầu như tiên tri Giona đã bảo dân Ninivê. Gioan chỉ kêu gọi họ phải hối cải, phải kiểm tra lối sống của mình, từ bỏ bất chính, cải thiện đời sống, quyết tâm thực thi công bằng, bác ái trong chính nhiệm vụ, nghề nghiệp, chức năng riêng của mình. 

II/ Vậy công bằng, bác ái là gì?

1/ Công bằng là gì? Qua hai lời chỉ dẫn của Gioan cho hai hạng người lính và thu thuế. Đối với lính thì Ngài khuyên: “Chớ dùng vũ lực, cũng đừng vu khống mà tống tiền người ta, hãy an phận với số lương của mình”. Lính tiêu biểu cho hạng người có sức mạnh, có quyền lực vũ khí trong tay, muốn hoành hành thế nào tùy thích, dễ ỷ mạnh hiếp yếu, đe dọa, áp bức bóc lột bất công, khó có thể sống ngay chính, vì thế Thánh Gioan đã khuyên họ: Hãy bằng lòng với số lương của mình hay số tiền do công lao chính đáng của mình làm ra, chứ đừng bóc lột, vơ vét, trộm cắp của người khác, sống công bằng như thế họ sẽ xứng đáng đón rước Đấng Cứu thế.

Lỗi đức công bằng này thì dễ biết vì nó trực tiếp làm hại người ta. Nhưng công bằng trong nhiệm vụ thì khó biết. Công bằng trong nhiệm vụ được thực hiện trong việc thâu thuế, nên đối với người thâu thuế Gioan khuyên: “Đừng đòi gì quá mức ấn định”

Thứ nhất, mức ấn định là mức do luật pháp đã ban hành cách hợp lý, thuế quá mức là bất công.

Thứ hai, dân có mức nào thì xác định mức đó, không vì lập công mà khai thêm đánh quá.

Thứ ba, đồ tốt xấu thế nào, đánh giá đúng như thế, đừng gian dối tráo trở, tăng giảm sai sự thật là bất công.

Thứ bốn, giữ nhiệm vụ nào phải lo chu toàn nhiệm vụ ấy, lười biếng bê trễ, phung phí là bất công; làm Linh mục bê trễ là bất công; làm cha mẹ, thầy cô không lo dạy dỗ con trẻ là bất công; làm cán bộ, công chức không lo giúp đỡ dân là bất công; con cái không giúp đỡ, nghe lời cha mẹ, thầy cô là bất công. Sống công bằng thôi chưa đủ vì chỉ là mức đạo đức tối thiểu theo luật: “mắt đền mắt, răng đền răng, ác giả ác báo”. Nếu cứ ăn miếng trả miếng như thế, thì đời sống sẽ chất đầy hận thù. Sống bác ái mới đạt giá trị đạo đức đích thực. Để đáng được vui luôn trong niềm vui đón mừng Đấng Cứu thế đến, Gioan khuyên mọi người phải thực thi bác ái: “Ai có hai áo thì chia cho người không áo, ai có gì ăn thì cũng làm như vậy”. Thánh Luca đã diễn tả đúng đời sống bác ái của cộng đoàn tín hữu thời các tông đồ.

2/ Bác ái là gì? Theo Thánh Phaolô: “Lòng bác ái không được giả hình, giả bộ, anh em hãy gớm ghét điều dữ, tha thiết với điều lành” (Rm. 12, 9). Gớm ghét điều dữ là cố gắng thanh tẩy những tâm tình bất chính, hung dữ, độc ác. Đó là vấn đề tu thân. Tha thiết với điều lành là thực hiện những điều thiện hảo, chân chính, tốt lành ơn ích cho người. Đó là vấn đề dấn thân, có tu thân mới dấn thân được, đây là hai chặng đường trên cùng một đường đức ái.

Tu thân: Đức ái đòi buộc phải tu sửa, thanh tẩy mình khỏi mắc vào thói ghen tuông, tự đắc, khoe khoang, làm điều bất chính, bất nhân, nóng giận hận thù, tư lợi, không mừng khi thấy sự ác. Đức ái cũng đòi buộc phải tu luyện, học tập những đức tính nhẫn nhục, khiêm tốn, hiền hậu, tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, chịu đựng tất cả, vui khi thấy điều chân thật (1Cp. 13, 4-7). Đạo Nho cũng chủ trương muốn thực hiện đức nhân thì tiên vàn phải tu thân. Thân gồm tâm, ý, trí nên tu thân là chính tâm, thánh ý, trí tri. Rồi mới có thể thực hiện nhân, nghĩa, lễ, trí, tín trong tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Đạo Phật cũng chủ trương muốn có tâm từ ái, từ bi, hỉ xả, cứu độ chúng sinh, tiên vàn phải diệt tham, sân, si, rồi tu tập bát chánh đạo.

Dấn thân: Sau khi đã tu thân luyên tập tâm trí nên trong sạch thì mới thấy được mặt Thiên Chúa, mới dấn thân, xả thân, hiến thân phụng sự Người. Mặt Thiên Chúa đây là tất cả những gì thuộc về Thiên Chúa, những người Thiên Chúa yêu thương chúc phúc. Lúc đó ta mới có thể chia áo cho người không áo, sẻ cơm cho người đói ăn… và còn sẵn sàng hiến mạng sống cho người Chúa thương. Chỉ khi đó ta mới vui với người vui, khóc với người khóc,và mùa vọng mới là mùa reo vui, mới vui luôn trong niềm vui của Chúa, vì chính Chúa đang ngự giữa ta và bình an của Thiên Chúa mới giữ lòng trí ta được kết hợp với Đức Kitô Giêsu. Amen (Bài I, II).

 

11. Cho Chúa một cơ hội

(Suy niệm của Thiên Phúc) 

Cuộc đối thoại độc đáo giữa một người tân tòng và một người chưa có niềm tin như sau:

– Anh đã theo đạo Công giáo rồi sao?

– Vâng, nói đúng hơn là tôi theo Ðức Kitô.

– Vậy xin hỏi anh, ông ta sinh ra trong quốc gia nào?

– Rất tiếc là tôi đã quên mất chi tiết này.

– Thế khi chết, ông ta được bao nhiêu tuổi?

– Tôi cũng không nhớ rõ nên chẳng dám nói.

– Vậy ông ta đã thuyết giảng bao nhiêu bài?

– Tôi không biết!

– Quả thật, anh biết quá ít, quá mơ hồ để có thể quả quyết là anh đã thật sự đi theo ông Kitô!

– Anh nói đúng một phần. Tôi rất hỗ thẹn vì mình đã biết quá ít về Ðức Kitô. Thế nhưng, điều mà tôi biết rất rõ là thế này: Ba năm trước, tôi là người nghiện rượu, sáng say chiều xỉn, nợ lút đầu lút cổ. Gia đình tôi xuống dốc một cách kinh khủng. Mỗi tối, khi trở về nhà, vợ con tôi đều tức giận và buồn tủi.

Thế mà, bây giờ tôi đã dứt khoát bỏ rượu và đã cố gắng trả được hết nợ, gia đình tôi đã tìm lại hạnh phúc, các con tôi trông ngóng, chờ tôi về sau giờ tan sở.

Những điều này không ai khác hơn, chính là đức Kitô đã làm cho tôi. Và đó là tất. cả những gì tôi biết về Người.

***

Khi lãnh phép rửa sám hối của Gioan, dân chúng hỏi ông: “Chúng tôi phải làm gì?” (Lc 3,10). Qua câu hỏi ấy, chúng ta thấy sám hối mang chiều kích cộng đoàn, sẵn sàng đổi mới bằng hành động cụ thể. Các Thánh thường nói: “Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì?” Ðó là một thái độ sẵn sàng làm theo ý Chúa. Có được tâm tình ấy quả không dễ dàng. Nhưng nói được như Ðức Maria mới thực là cao quí: “Xin Chúa cứ làm cho tôi như lời Ngài nói” (Lc 1,38).

Người tân tòng trong câu chuyện trên đây, sau khi được đổi mới hoàn toàn, ông đã nói: “Những điều này không ai khác hơn, chính là Ðức Kitô đã làm cho tôi”.

Như vậy:

– Sám hối không chỉ là quay trở về với quá khứ, mà còn hướng đến một tương lai tốt đẹp hơn.

– Sám hối không chỉ có tính cách cá nhân, mà còn mang tính liên đới trong cộng đoàn.

– Sám hối không chỉ là một cảm xúc mông lung, nhưng chính là một quyết tâm hành động.

– Sám hối không chỉ là hướng tới đời sống thánh thiện, mà là trở về với một đấng thánh: Chúa Giêsu Kitô.

Vì thế, sám hối chính là dành cho Chúa Kitô cơ hội để Người thanh tẩy tâm can, thay đổi con người, nhất là để Người biến những tâm tình và ước muốn của chúng ta nên giống những tâm tình và ước muốn của Người.

– Thay vì sám hối bên ngoài, Chúa Kitô muốn chúng ta thật sự hướng lòng về Người.

– Thay vì kiêu căng tự mãn, Chúa Kitô muốn chúng ta thực sự khiêm tốn để nên giống Người.

– Thay vì nô lệ cho của cải, tiền bạc, Chúa Kitô muốn chúng ta hãy ra khỏi nỗi bận tâm về mình mà nhường cơm sẻ áo cho anh em.

Mùa Vọng là mùa của hy vọng. Thiên Chúa không bao giờ thất vọng về con người. Cho dù con người có sa ngã, phản bội, Thiên Chúa vẫn theo đuổi chương trình cứu độ của Người. Cho dù thấp hèn tội lỗi, con người vẫn mang hình ảnh cao đẹp của Thiên Chúa, nên mỗi người đều được Thiên Chúa tin tưởng, yêu thương. Mùa Vọng mời gọi chúng ta sám hối, đồng thời cũng kêu gọi chúng ta hãy hoàn toàn phó thác và hy vọng nơi Người.

***

Lạy Chúa Giêsu, sám hối là dọn đường cho Chúa đến, sám hối cũng là dọn lối để đến với tha nhân. 

Xin dạy chúng con biết bày tỏ lòng sám hối bằng cách mềm mại để Chúa uốn nắn, và quyết tâm sống công bình bác ái với anh em. Amen.

 

12.  Phải làm gì?

 

Vậy chúng tôi phải làm gì?

Trước câu hỏi này, Gioan Tiền Hô đã trả lời cho ba nhóm người. Trước hết cho những người thiện chí đang mong chờ ngày Chúa đến, Gioan dạy họ cũng như dạy cho chúng ta biết chia sẻ cơm áo với những người túng thiếu. Đó là điều tối thiểu. Nếu ngày nay tiếng nhà tiền hô còn vang vọng khắp núi đồi, ông sẽ kêu gọi cải thiện hoàn cảnh kinh tế, xã hội, lo cho có công ăn việc làm, nhà ở, tiền lương tương xứng, bảo vệ sức khoẻ.

 

Tiếp đến với những người thu thuế, đại diện cho lớp quan chức hay tham nhũng bóc lột người khác, Gioan kêu gọi sự liêm khiết.

 

Sau cùng với những người có phận sự giữ gìn trật tự công cộng, Gioan bảo họ phải công minh, biết tôn trọng kẻ khác. Mỗi người trong địa vị, chức vụ và công việc của mình, cố gắng chu toàn một cách tốt đẹp. Thế nhưng Gioan, vị tiền hô ấy là ai?

 

Ông không phải chỉ được sai đến giảng dạy một vài bài học luân lý thường thức. Trái lại, tiếng ông vang dội trên núi đồi, lôi kéo đông đảo mọi người, thuộc đủ mọi thành phần. Người ta coi ông là đấng cứu thế, nhưng ông xác định mình chỉ là một tiếng kêu, một người làm phép rửa dọn đường. Ông là nhà tiên tri đầu tiên nói đến một phép rửa trong Chúa Thánh Thần và lửa. Ông cũng làm phép rửa theo tục lệ Do Thái để thúc đẩy mọi người sám hối ăn năn, thế nhưng đây mới chỉ là một nghi thức tiên báo bí tích Rửa tội của Đức Kitô, Đấng sẽ rửa trong nước và Thánh Thần.

 

Như thế, bí tích Rửa tội của Đức Kitô bao gồm hai mầu nhiệm, đó là phục sinh và hiện xuống, nhờ đó chúng ta được rửa sạch tội lỗi, liên kết với Đức Kitô phục sinh, nhưng đồng thời cũng được sức mạnh Chúa Thánh Thần nâng đỡ, để làm chứng cho Đức Kitô phục sinh.

 

Với chúng ta ngày hôm nay, là Kitô hữu, chúng ta đã lãnh nhận bí tích Rửa tội, thế nhưng điều quan trọng đó là chúng ta có thực sự sống ơn rửa tội hay không? Chúng ta có làm cho xã hội thấm nhuần tinh thần Phúc Âm hay không?

 

Trong Thông điệp Centesimus Annus, Năm thứ một trăm, được công bố vào năm 1991, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, khi phân tích về sự sụp đổ của cộng sản Đông âu và sự tái thiết một xã hội mới, ngài đã lên án điều mà gọi là “xã hội tiêu dùng” muốn giảm hạ con người vào lãnh vực kinh tế và làm thoả mãn các nhu cầu vật chất mà thôi, nghĩa là thay thế thần tượng đã sụp đổ bằng một thần tượng khác không mấy tốt đẹp hơn. Cho đến ngày hôm nay, chúng ta đã làm được những gì để đón mừng ngày Chúa đến.

 

13.        Cuộc chạy đường trường

(Suy niệm của AM. Trần Bình An)

 

Cuốn nhật ký Pole to Pole – One Man, 20 Million Steps (Từ cực Bắc tới cực Nam – Một người, 20 triệu bước chân), của tác giả Pat Farmer chỉ vừa xuất bản vài tháng, đã in tới lần thứ 10, vì sự chân thật và sức hấp dẫn của nó. Ông Pat Farmer đã từ bỏ con đường chính trị đang thênh thang, bán ngôi nhà cùng chiếc xe duy nhất để lấy vốn làm lộ phí. Bởi lúc đó, chẳng ai tin ông có thể chạy bộ từ Bắc cực đến Nam cực, với 21 ngàn cây số, trong vòng 10 tháng, 13 ngày, cùng vô số gian lao do thời tiết, con người và dã thú.

 

Ông đã chạy một cự ly bình quân không thể tin nổi: 65 km mỗi ngày, có một số ngày chạy tới 100 km hoặc hơn. “Vì sao tôi chạy? Tôi chạy vì tôi cần cống hiến cho nhân loại.Tôi chạy từ cực này tới cực kia của tôi không phải vì mục đích trở thành một kẻ tử vì đạo hay một anh hùng. Cha mẹ tôi và người vợ quá cố của tôi là một tấm gương sáng cho tôi; họ luôn giúp đỡ người khác. Có lẽ tôi làm điều này xuất phát từ cảm giác tội lỗi, vì đang sống một cuộc sống nhiều đặc quyền đặc lợi, trong một đất nước nhiều đặc quyền đặc lợi, hay vì những tội lỗi mà tôi đã phạm” Pat Farmer viết.

 

Rất nhiều lần trong hành trình, Pat Farmer đã muốn ngã quỵ, muốn dừng lại, nhưng rồi ông đã tự chiến thắng bản thân để vượt qua mọi hoàn cảnh. Ông đã giúp các Hội Chữ Thập Đỏ Úc quyên góp là rất đáng kể. Sau cuộc chạy, đã có vô số cư dân nghèo, đặc biệt trẻ em được cứu sống hoặc giúp thoát khỏi bệnh dịch nhờ hệ thống nước sạch. Từ ngày 9-12/2012 đến 20/1/2013, với cùng mục đích cao quý như trên, ông Pat Farmer và chàng thanh niên Việt Nam 25 tuổi, Mai Nguyễn Đình Huy, cùng đồng hành, thực hiện hành trình siêu ma-ra-tông từ Móng Cái đến mũi Cà Mau, hơn 3 200 Km trong 40 ngày liên tục, mỗi ngày chạy khoảng 80 km. (theo Hiền Hòa, Tiền Phong)

 

Như thế, ông Pat Farmer và Mai Nguyễn Đình Huy đang chạy để phục vụ tha nhân, dường như cũng đang hưởng ứng lời kêu gọi trong hoang địa.

 

Bài trích Tin Mừng hôm nay, ngôn sứ Gioan Tiền Hô ân cần hướng dẫn, chỉ vẽ những đường chạy vô cùng lý thú và hữu ích, khi thiên hạ đổ xô đến nhờ tư vấn, thắc mắc phải chạy đường trường như thế nào.

 

Chạy theo Bác Ái

Thay vì chạy ghế, chạy chức, chạy theo thói tham lam, vơ vét, vỗ béo bản thân, ích kỷ, bất nhân, hận thù, mù quáng, thì ngôn sứ Gioan Tiền Hô khuyên nhủ, lấy đức bác ái làm kim chỉ nam cho cưộc chạy: “Ai có hai áo, thì chia cho người không có. Ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy.” (Lc 3, 11)

 

Sự chia sẻ, như xẻ cơm nhường áo, lá lành đùm lá rách, là biểu hiệu đầu tiên của tính nhân bản, khiến cho con người thoát ra khỏi kiếp sống theo bản năng, giúp cho loài người đứng trên các loài động vật, các loài thọ tạo khác.

 

Chạy theo Công Bằng

Thay vì chạy theo thói bất công, tham ô, nhũng lạm, xách nhiễu, lợi dụng làm giầu bất chính trên mồ hôi, xương máu và nước mắt của dân đen, thì ngôn sứ Gioan khuyên nhủ mọi người, các nhân viên công chức, những người có chức, có quyền, như thuế má, hải quan, hãy chạy theo đức công bằng, ngay thẳng: “Đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định cho các anh.” (Lc 3, 13)

 

Không chỉ nói riêng với công viên chức, Gioan Tiền Hô còn nhắm đến quần chúng rộng rãi, những kẻ kinh doanh, những giao dịch mua bán, sang nhượng, những quan hệ trao đổi, phải sòng phẳng, không dối gian, lừa gạt, không lời lãi quá mức bình thường, không ép giá thu lợi bất chính.

 

Chạy theo Chính Trực

Thay vì dùng võ lực có sẵn trong tay, để uy hiếp, bóc lột, chiếm đoạt, ức hiếp, tịch thu tài sản, sở hữu của người dân, thì ngôn sứ Gioan khuyên nhủ, chạy theo đức chính trực, tôn trọng người khác, không tơ hào, lợi dụng quyền thế để quấy nhiễu hành dân: “Chớ hà hiếp ai, cũng đừng chiếm đoạt của người, hãy bằng lòng với đồng lương của mình.” (Lc 3, 14)

 

Ngôn sứ Gioan Tiên Hô đồng thời cũng muốn nhắm đến những người có lợi thế, những người giàu có, quyền cao chức trọng, đừng lợi dụng thế mạnh tài chánh, hay quyền hành để chèn ép, bắt nạt, hoặc cướp trắng của cải người yếu thế, cô thế.

 

Chủ Nhân đường đua

Nhân tiện, ngôn sứ Gion Tiền Hô đính chính điều dân Do Thái đang ngộ nhận. Rằng ông chỉ là người tiền hô, đi trước dọn đường cho Chủ Nhân của cuộc đua đường trường. Người cao trọng vô cùng, mà chính ông cũng tự nhủ, không đáng cởi quai dép cho Người! Trước Đấng Quyền Thế hơn đang đến, ngôn sứ Gioan tỏ ra kính cẩn và khiêm tốn, cùng tỏ thái độ vâng lời và phục vụ. Ngài cũng nhận mình chỉ là tôi tớ hèn mọn, như phận nữ tỳ hèn mọn của Mẹ Maria trong kinh Magnificat.

 

Chủ Nhân kiêm luôn trọng tài, sẽ phán quyết, thưởng phạt công minh, dựa theo cung cách chạy của những tay đua đến đích: “Tay Người cầm nia, rê sạch lúa trong sân: Thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không bao giờ tắt, mà đốt đi.” (Lc 3, 17)

 

Thánh Phaolô cũng đã nỗ lực và nhiệt thành chạy đường trường, chia sẻ với tín hữu thành Philípphê: “Thưa anh em, tôi không nghĩ mình đã chiếm được rồi. Tôi chỉ chú ý đến một điều, là quên đi chặng đường đã qua, để lao mình về phía trước. Tôi chạy thẳng tới đích, để chiếm được phần thưởng từ trời cao Thiên Chúa dành cho kẻ được Người kêu gọi trong Đức Kitô Giêsu.” (Pl 3, 13-14)

 

Dù mọi người bỏ dở hành trình, con cứ tiến, quần chúng dễ bị lôi cuốn thì đông đảo, lãnh đạo sáng suốt lại hiếm hoi. Con phải có bản lãnh, đừng theo quần chúng mù quáng. (Đường Hy Vọng, 50)

 

Lạy Chúa Giêsu, Chủ Nhân của cuộc đua đường trường, xin luôn nhắc nhủ con bỏ lại sau lưng mọi thứ nặng nề, làm cản trở bước đường, mà bền chí vững vàng chạy đến Chúa.

 

Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ đồng hành cùng con, để con noi gương Mẹ nhân ái, đôn hậu, biết quên mình, yêu thương, phục vụ mọi người. Amen.

 

14.        Chuẩn bị

 

Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe chúng ta cùng nhau tìm hiểu về sứ điệp của Gioan bên bờ sông Giođan để rồi từ đó áp dụng vào Mùa Vọng, mùa chuẩn bị đón mừng Chúa đến.

 

Gioan xuất hiện rất khác biệt, không những khác biệt trong cách sống mà cả trong tư tưởng nữa. Đang khi tất cả những phe nhóm tôn giáo ở thời đại ông như nhóm Pharisêu, nhóm Saducêo, nhóm Etxenien, tất cả đều trông chờ một sự chiến thắng của Do Thái giáo trên mọi kẻ thù của họ thì Gioan đến như một dấu chứng đối kháng, một sự kết án và huỷ diệt cả Israel.

 

Gioan là một tiên tri loan báo sự đau khổ và tàn phá. Sứ điệp của Gioan rất đơn sơ: Thiên Chúa đã nổi cơn thịnh nộ với dân Ngài, Ngài đã hoạch định chương trình để phạt họ. Ngài sắp can thiệp vào lịch sử để lên án và thiêu huỷ họ. Gioan diễn tả cuộc tàn phá đó như một cuộc cháy rừng, đốt tất cả rơm rạ và cây cối, tiêu huỷ mọi dân tộc trong biển lửa. Gioan tiên tri rằng cuộc xử phạt nghiêm khắc của Thiên Chúa đối với Israel sẽ được một con người đến thực hiện.

 

Gioan nói về con người đó như Đấng phải đến. Ngài đã sẵn sàng, đang đứng, tay cầm rìu cầm sàng. Để có thể tránh cái án phạt mà Thiên Chúa sắp đổ xuống, Gioan kêu gọi sự sám hối. Nghi thức thanh tẩy là một dấu chỉ về sự sám hối ấy: họ đã xưng các tội của họ ra và nhận lấy nghi thức thanh tẩy của Gioan. Nếu tất cả cộng đoàn Do Thái hay có thể nói một số đông con cái Abraham thành tâm hối cải, có thể Thiên Chúa sẽ nguôi cơn giận và bỏ qua cuộc sử phạt này. Còn nếu Israel không hối cải, Thiên Chúa sẽ huỷ diệt và thiết lập một dân tộc mới. Chính vì thế mà Gioan đã kêu gọi hết mọi người, nào tội lỗi đĩ điếm, nào thu thuế lính tráng, nào luật sĩ và Pharisêu. Ở đây tất cả đều được mời gọi hãy hoán cải, hãy biến đổi cả cuộc đời.

 

Điều Gioan nhấn mạnh là một nếp sống luân lý mới đầy tính chất xã hội, lấy anh em làm gốc chứ không phải là lề luật, để sống vì con người: Kẻ nào có hai áo hãy chia cho người không có và kẻ có ăn cũng hãy làm như thế. Với người thu thuế ông nói: Chớ đòi điều gì quá mực đã định cho các ông. Với lính tráng, ông bảo: Đừng sách nhiễu, đừng vu khống, hãy bằng lòng với lương bổng của mình.

 

Từ xưa đến nay, khi nói đến việc chuẩn bị đón mừng Chúa, chúng ta nghĩ ngay tới việc đi xưng tội, lo dọn mình sạch mọi tội lỗi, trong khi đó Thánh Kinh lại nhắm vào việc cải đổi đời sống, một cuộc sống đầy tình người. Chỉ có cuộc sống chân chính không gian dối, không bóc lột, không lừa đảo, không gian tham; chỉ có cuộc sống liêm chính, công bình, yêu thương, chia sẻ và phục vụ mới dần dần tạo cho tâm hồn mình tinh sạch, mới giúp chúng ta chuẩn bị đón Chúa đến một cách đầy đủ và có ý nghĩa nhất.

 

15.        Chúa Nhật 3 Mùa Vọng

(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)

 

HÃY VUI MỪNG VÌ CHÚA SẮP ĐẾN

 

  1. Dẫn vào Thánh lễ

Anh chị em thân mến

Chúa nhật thứ III Mùa vọng này thường được gọi là Chúa nhật của niềm vui. Lời kêu gọi “hãy vui lên” được lặp đi lặp lại trong các bài đọc. Chúng ta vui vì Chúa đã đến gần. Nhất là khi chúng ta họp nhau trong Thánh lễ thì Chúa rất gần. Ngài đang hiện diện giữa cộng đoàn chúng ta.

 

  1. Gợi ý sám hối
  • Mặc dù Chúa đã bảo chúng ta đừng lo, nhưng vì thiếu lòng trông cậy và phó thác nên chúng ta cứ băn khoăn lo lắng về cuộc sống vật chất ở trần gian này.
  • Chúng ta chưa thực sự thấm nhuần tinh thần lạc quan của Tin Mừng nên chúng ta chưa tỏa chiếu niềm vui ra môi trường chung quanh.
  • Khi cầu nguyện, thường chúng ta hay trình bày với Chúa những băn khoăn lo lắng phàm tục, rất ít khi chúng ta vui mừng tạ ơn Chúa vì tình thương bao la của Ngài dành cho chúng ta.

 

III. Lời Chúa

  1. Bài đọc I (Xp 3,14-18)

Ngôn sứ Xôphônia rao giảng trong thế kỷ VII trước công nguyên, vào những năm trước khi vua Giosias thực hiện cuộc cải cách tôn giáo. Khi đó nước Do thái đang ở trong một tình trạng tồi tệ: bên trong thì đạo đức suy dồi, bên ngoài thì họa xâm lăng đang rình sẵn. Mặc dù vậy, Xôphônia vẫn kêu gọi dân chúng hãy vui lên, lý do là “Án lệnh phạt ngươi Thiên Chúa đã rút lại, và thù địch của ngươi Ngài đã đẩy lùi xa”.

 

  1. Ðáp ca (Tv Is 12)

Thánh vịnh này triển khai tâm tình lạc quan của bài đọc I: Lý do khiến dân Sion lạc quan là vì Thiên Chúa chính là sức mạnh và là Ðấng cứu độ họ.

 

  1. Tin Mừng (Lc 3,10-18)

Khi “dọn đường” tâm hồn cho các thính giả nghe Gioan giảng, ông đã nói “Hãy sám hối”. Người ta hỏi lại “Vậy chúng tôi phải làm gì?”. Và Gioan đã chỉ cho họ những việc cụ thể phù hợp với tình trạng cuộc sống của họ:

  • Người có thì hãy chia sớt cho kẻ không có.
  • Người đang sống bằng những thu nhập bất công thì hãy cố gắng sống công bình.
  • Kẻ đang áp bức người khác thì chấm dứt những việc làm hà hiếp của mình.

Gioan còn khiêm tốn phủ nhận những dư luận coi ông là chính Ðấng Messia, và giới thiệu Ðấng Messia thật cho họ biết.

 

  1. Bài đọc II (Pl 4,4-7)

Thánh Phaolô kêu gọi tín hữu Philipphê hãy vui và vui luôn mãi trong niềm vui của Chúa. Niềm vui này không chỉ là một tình cảm, nhưng phát sinh những hoa trái cụ thể trong cuộc sống: (1) sống hiền hòa rộng rãi với mọi người; (2) Không phải lo lắng gì cả, vì có gì thì cứ trình bày với Chúa; (3) Lòng trí luôn được bình an.

 

  1. Gợi ý giảng

* 1. Bí quyết hạnh phúc

Lời Chúa hôm nay kêu gọi chúng ta hãy vui luôn. Nhưng làm thế nào để có thể vui luôn? Câu chuyện sau đây có thể cho ta câu trả lời.

 

Một người chăn cừu sai đứa con trai của mình đến hỏi một nhà hiền triết về bí quyết của hạnh phúc. Nhà hiền triết đưa cho chàng trai một chiếc muỗng đựng đầy dầu và bảo: “Hãy cầm chiếc muỗng đi vòng quanh tòa lâu đài này và cố làm sao đừng cho một giọt dầu nào bị đổ”. Chàng trai nghe lời, đi vòng quanh tòa lâu đài, đôi mắt chẳng dám nhìn bất cứ thứ gì khác mà chỉ dán chặt vào chiếc muỗng. Khi chàng trở lại, nhà hiền triết hỏi “Có thấy gì không?”. Chàng trai đáp “Dạ chẳng thấy gì cả”. Nhà hiền triết lại bảo “Bây giờ hãy đi một vòng nữa và hãy mở mắt quan sát tòa lâu đài”. Chàng trai lại cầm chiếc muỗng đi một vòng. Lần này chàng chăm chú ngắm nhìn từng chi tiết của tòa lâu đài: những gian phòng rất đẹp, những món trang trí rất mỹ thuật, khu vườn đầy hoa thơm cỏ lạ, những vòi nước rất ngoạn mục… Khi trở lại, chàng kể hết cho nhà hiền triết nghe. Ông hỏi: “Thế những giọt dầu ta giao cho ngươi thì sao?” Chàng nhìn xuống chiếc muỗng. Ôi thôi, dầu đã đổ hết chẳng còn giọt nào.

 

Bấy giờ nhà hiền triết nói: “Ta chỉ có một lời khuyên nhỏ cho ngươi: bí quyết của hạnh phúc là khả năng vừa ngắm được mọi vẻ đẹp của tòa lâu đài, vừa không làm đổ mất một giọt dầu nào trong muỗng”. Chàng trai trẻ chợt hiểu: người chăn cừu có thể du ngoạn để ngắm nhìn những vẻ đẹp khắp nơi, nhưng không bao giờ được quên đàn cừu của mình. Bí quyết hạnh phúc là vừa chu toàn nhiệm vụ được giao cho mình, vừa vui hưởng cuộc sống.

 

Thật dễ có hạnh phúc khi ta làm điều ta muốn làm. Nhưng để tìm được hạnh phúc không phải trong điều ta muốn làm mà trong điều ta phải làm thì phải có ơn Chúa. Hạnh phúc thật không do thỏa mãn được những ước muốn ích kỷ của mình. Hạnh phúc thật không thể có khi những điều ta làm lại khác với những điều ta tin. Hạnh phúc thật không thể có khi không có tình yêu. Bởi vậy nỗi buồn sẽ ập xuống trên ta mỗi khi ta trả lời “không” với tình yêu.

 

Chúng ta cũng không nên đồng hóa vui và sướng. Sướng thuộc về thể xác, còn vui thuộc về tinh thần. Sướng chẳng bao lâu rồi cũng sẽ chán, còn vui thì không bao giờ chán. Ðiểm cuối cùng: chỉ có Chúa mới đong đầy mọi mơ ước của chúng ta, do đó nguồn phát sinh hạnh phúc chính là sự hiện diện của Chúa. Có Chúa trong đời ta thì đời ta sẽ vui. Ngôn sứ Isaia kêu gọi “Hãy vui lên”. Nhưng tại sao vui? Thưa vì “Có Chúa ở giữa chúng ta”. và Thánh Phaolô viết cho tín hữu Philipphê “Tôi muốn anh em hãy vui luôn”. Tại sao? Thưa “Vì Chúa đã đến gần”. Niềm vui mà thế gian này không thể ban cho chúng ta là niềm vui xuất phát từ ý thức về Chúa và về tình yêu của Ngài đối với chúng ta. (FM)

 

* 2. Sự vĩ đại của Gioan Tẩy Giả

Ngày xưa có một người thắp đèn thường được người ta gọi là Ông T. Ông làm nhiệm vụ thắp đèn hết sức chu đáo và đúng giờ. Mỗi tối khi màn đêm vừa buông xuống thì lập tức ngọn đèn của ông cũng sáng lên. Không ai biết ông làm thế nào để canh đúng giờ mà thắp đèn, bởi vì ông không có đồng hồ. Cuộc sống của ông cũng chẳng khá giả gì, nhưng ông yêu nghề của mình. Mọi người đều thương mến ông, nhất là trẻ con: khi trời tối khiến chúng không chơi đùa được nữa, thì ông đến, mang lại ánh sáng và chúng có thể tiếp tục chơi.

 

Công việc của Ông T. thật có ý nghĩa. Nhưng điều khiến ông vĩ đại là ông bị mù! Ông mang ánh sáng cho mọi người trong khi bản thân ông thì không nhìn thấy ánh sáng! Cuối cùng thì điện đã đến với thị trấn này. Dân chúng trước đây quý mến ông thì bây giờ không còn nhớ gì đến ông nữa. Ánh điện sáng hơn ánh đèn nên chẳng ai màng tiếc nuối quá khứ làm chi nữa.

 

Ông T. nhắc chúng ta nhớ tới thánh Gioan Tẩy giả. Cũng như Ông T. thánh Gioan đã cần mẫn mang ánh sáng đến cho mọi người. Trong một thời gian, Ngài là sự ngưỡng mộ và quý mến của mọi người. Nhưng Ngài luôn ý thức mình chỉ là kẻ dọn đường, một ánh sáng lớn hơn sẽ đến, và Ngài sẽ không được đi trong ánh sáng tuyệt vời ấy. Và khi ánh sáng tuyệt với ấy là Chúa Giêsu đến, Ngài lùi lại phía sau để nhường bước cho Chúa Giêsu. Thật là vĩ đại.

 

Không ai thành đạt chỉ nhờ vào bản thân mình, mà luôn có ai đó ở phía sau giúp đỡ mình, hướng dẫn mình, khuyến khích mình, nói tóm lại là chuẩn bị cho mình. Rồi khi mình thành đạt thì người ấy lặng lẽ biến đi vào quên lãng. Ðể làm một kẻ dọn đường cho người khác thì cần phải có tinh thần khiêm tốn và quảng đại cao cả lớn lao. Thật vậy, vì đó là một hình thức chết đi chính mình. Rút lui khỏi một chức vụ lớn để rồi chết dần mòn trong một cuộc sống âm thầm là điều mà chỉ những người vĩ đại mới làm được. Có nhiều người làm hỏng mọi việc chỉ vì bám giữ quá lâu địa vị và quyền lực của mình.

 

Những bậc làm cha mẹ đã không ngại bỏ ra quãng thời gian tốt đẹp nhất của đời mình để chuẩn bị tương lai cho con cái. Khi con cái đã lớn, cha mẹ phải rút lui để chúng có thể sống cuộc đời của chúng. Ðó là sự vĩ đại của những người làm cha làm mẹ. Nhiều người cứ muốn bám vào ánh đèn sân khấu rực rỡ chói chang, cứ muốn cho mình mãi sáng và đẩy người khác lùi vào bóng tối. Chúng ta không được làm thế. Chúng ta phải vận dụng hết mọi khả năng của mình để chiếu sáng tối đa, nhưng đồng thời cũng phải quan tâm đừng cản đường tiến của người khác. Vả lại, chúng ta còn phải nhớ rằng mình còn mang nợ của những kẻ đã dọn đường cho mình. (FM)

* 3. Ðạo thực hành

Kitô giáo là một đạo thực hành và có tính xã hội, nghĩa là không chỉ là tương quan giữa Chúa với tôi, mà là Chúa – tôi – và những người khác. Có một câu chuyện về một người thợ giày tên là Martin. Ông sống và làm việc ở tầng hầm. Tầng hầm này chỉ có mỗi một cửa sổ, cho nên ông chỉ nhìn thấy những bàn chân của những người qua lại. Chỉ cần thấy đôi giầy của người đi qua là ông biết người ấy là ai. Ðời ông rất vất vả. Vợ ông đã chết, để lại một đứa con trai. Tuy nhiên khi thằng con vừa đủ lớn để có thể giúp ông thì nó cũng lâm bệnh và chết. Ông Martin rơi vào tuyệt vọng. Chôn cất thằng con xong, ông bỏ đạo và rơi vào thói rượu chè.

 

Một ngày kia, một người bạn già đến thăm ông. Ông trút hết bầu tâm sự. Người bạn khuyên ông nên đọc Tin Mừng, mỗi ngày một đoạn. Và bảo đảm rằng nhờ đó ông sẽ tìm lại được ánh sáng và niềm vui cho cuộc sống. Ông Martin làm theo lời bạn. Mỗi ngày làm việc xong tới chiều là ông cầm sách Tin Mừng đọc một đoạn. Ban đầu ông chỉ đọc những đoạn Tin Mừng Chúa nhật. Nhưng sau đó thấy hấp dẫn nên ông đọc luôn những ngày trong tuần. Dần dà đời ông thay đổi, niềm vui đã trở lại với đời ông.

 

Một đêm, khi ông đang đọc Tin Mừng thì ông nghe có tiếng nói với mình “Martin, ngày mai hãy nhìn qua cửa sổ, tôi sẽ đến thăm ông”. Vì khi đó chẳng có ai cả nên ông Martin tin rằng đó là tiếng Chúa nói với ông. Bởi đó sáng hôm sau, lòng ông rất phấn khởi. Ông vừa làm vừa nhìn qua cửa sổ. Ông chăm chú để ý mọi đôi giày đi qua đi lại để chờ xem Chúa có đến thăm ông không. Nhưng chẳng có một đôi giày nào lạ cả. Ðến xế chiều thì ông thấy một đôi giày rất quen, đó là giày của một người lính già tên là Stephen. Mở cửa ra, Ông Martin thấy Stephen đang đứng chắn ngay cửa, hai tay khoanh chặt trước ngực vì trời đang rất lạnh. Ông Martin rất muốn hắn ta đi chỗ khác cho rồi kẻo cứ chắn cửa sổ khiến ông không thấy được Chúa nếu Ngài đi ngang qua. Tuy nhiên Stephen cứ đứng đấy mà run. Cuối cùng Ông Martin nghĩ rằng chắc là hắn đói nên mời hắn vào ngồi cạnh lò sưởi, đưa cho hắn một ly trà và một mẫu bánh mì. Một lát sau Stephan cáo từ. Ông Martin còn đưa thêm cho hắn một chiếc áo khoác để đỡ lạnh. Suốt khoảng thời gian tiếp Stephen, Ông Martin không quên để ý nhìn về cửa sổ. Mỗi lần có một bóng người đi qua là ông chăm chú nhìn. Nhưng chẳng có gì đặc biệt.

 

Ðêm xuống. Ông Martin thu dọn đồ nghề và miễn cưỡng đóng cánh cửa sổ. Ăn buổi tối xong, ông cầm quyển Tin Mừng và tình cở mở ngay đoạn này: “Bấy giờ dân chúng đến hỏi Gioan ‘Chúng tôi phải làm gì?’ Gioan đáp ‘Ai có hai áo hãy chia cho người không có. Ai có gì ăn cũng hãy làm như vậy”. Ông Martin bỏ sách xuống và suy nghĩ, rồi ông chợt hiểu rằng quả thực hôm nay Chúa đã đến thăm ông qua anh chàng Stephen ấy. May mà ông đã đón tiếp tử tế. Thế là Ông Martin cảm thấy lòng tràn ngập vui mừng, một niềm vui mà từ trước tới nay ông chưa từng cảm nghiệm.

 

Ông Martin đã đón rước Chúa vào đời mình bằng việc đọc Tin Mừng. Và bước thứ hai đến một cách tự nhiên: ông đã đón rước Chúa qua việc đón rước người anh em đói khổ. Chúng ta đang dọn đường cho Chúa đến, và chúng ta tin chắc rằng Ngài sẽ mang quà đến cho chúng ta. Nhung hãy nhớ rằng Chúa không chỉ đến trong lễ Giáng sinh. Ngài luôn đến, mọi lúc, mọi nơi, dưới mọi hình dáng, nhất là dưới hình dáng những người đang cần giúp đỡ. (FM)

 

* 4. Cho Chúa Một Cơ Hội (Lc 3,10-18)

Cuộc đối thoại độc đáo giữa một người tân tòng và một người chưa có niềm tin như sau:

  • Anh đã theo đạo Công giáo rồi sao?
  • Vâng, nói đúng hơn là tôi theo Ðức Ki tô.
  • Vậy xin hỏi anh, ông ta sinh ra trong quốc gia nào?
  • Rất tiếc là tôi đã quên mất chi tiết này.
  • Thế khi chết, ông ta được bao nhiêu tuổi?
  • Tôi cũng không nhớ rõ nên chẳng dám nói.
  • Vậy ông ta đã thuyết giảng bao nhiêu bài?
  • Tôi không biết!
  • Quả thật, anh biết quá ít, quá mơ hồ để có thể quả quyết là anh đã thật sự đi theo ông Kitô! Anh nói đúng một phần.

 

Tôi rất hỗ thẹn vì mình đã biết quá ít về Ðức Kitô. Thế nhưng, điều mà tôi biết rất rõ là thế này: Ba năm trước, tôi là người nghiện rượu, sáng say chiều xỉn, nợ lút đầu lút cổ. Gia đình tôi xuống dốc một cách kinh khủng. Mỗi tối, khi trở về nhà, vợ con tôi đều tức giận và buồn tủi. Thế mà, bây giờ tôi đã dứt khoát bỏ rượu và đã cố gắng trả được hết nợ, gia đình tôi đã tìm lại hạnh phúc, các con tôi trông ngóng, chờ tôi về sau giờ tan sở. Những điều này không ai khác hơn, chính là đức Ki tô đã làm cho tôi. Và đó là tất. cả những gì tôi biết về Người.

***

Khi lãnh phép rửa sám hối của Gioan, dân chúng hỏi ông: “Chúng tôi phải làm gì?” (Lc3,10). Qua câu hỏi ấy, chúng ta thấy sám hối mang chiều kích cộng đoàn, sẵn sàng đổi mới bằng hành động cụ thể. Các Thánh thường nói: “Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì?” Ðó là một thái độ sẵn sàng làm theo ý Chúa. Có được tâm tình ấy quả không dễ dàng. Nhưng nói được như Ðức Maria mới thực là cao quí: “Xin Chúa cứ làm cho tôi như lời Ngài nói” (Lc 1,38).

 

Người tân tòng trong câu chuyện trên đây, sau khi được đổi mới hoàn toàn, ông đã nói: “Những điều này không ai khác hơn, chính là Ðức Kitô đã làm cho tôi”.

Như vậy:

  • Sám hối không chỉ là quay trở về với quá khứ, mà còn hướng đến một tương lai tốt đẹp hơn.
  • Sám hối không chỉ có tính cách cá nhân, mà còn mang tính liên đới trong cộng đoàn.
  • Sám hối không chỉ là một cảm xúc mông lung, nhưng chính là một quyết tâm hành động.
  • Sám hối không chỉ là hướng tới đời sống thánh thiện, mà là trở về với một đấng thánh: Chúa Giêsu Ki tô.

 

Vì thế, sám hối chính là dành cho Chúa Ki tô cơ hội để Người thanh tẩy tâm can, thay đổi con người, nhất là để Người biến những tâm tình và ước muốn của chúng ta nên giống những tâm tình và ước muốn của Người.

  • Thay vì sám hối bên ngoài, Chúa Ki tô muốn chúng ta thật sự hướng lòng về Người.
  • Thay vì kiêu căng tự mãn, Chúa Ki tô muốn chúng ta thực sự khiêm tốn để nên giống Người.
  • Thay vì nô lệ cho của cải, tiền bạc, Chúa Kitô muốn chúng ta hãy ra khỏi nỗi bận tâm về mình mà nhường cơm sẻ áo cho anh em.

 

Mùa Vọng là mùa của hy vọng. Thiên Chúa không bao giờ thất vọng về con người. Cho dù con người có sa ngã, phản bội, Thiên Chúa vẫn theo đuổi chương trình cứu độ của Người. Cho dù thấp hèn tội lỗi, con người vẫn mang hình ảnh cao đẹp của Thiên Chúa, nên mỗi người đều được Thiên Chúa tin tưởng, yêu thương. Mùa Vọng mời gọi chúng ta sám hối, đồng thời cũng kêu gọi chúng ta hãy hoàn toàn phó thác và hy vọng nơi Người.

***

Lạy Chúa Giêsu, sám hối là dọn đường cho Chúa đến, sám hối cũng là dọn lối để đến với tha nhân. Xin dạy chúng con biết bày tỏ lòng sám hối bằng cách mềm mại để Chúa uốn nắn, và quyết tâm sống công bình bác ái với anh em. Amen (Thiên Phúc, Như thầy đã yêu, năm C)

 

* 5. “Chúa đã đến gần”

“Chúa đã đến gần”. Câu này nghĩa là gì?

  • Phải chăng là đã gần đến lễ Giáng sinh? Hôm nay vào tuần thứ ba Mùa Vọng rồi. Chỉ còn hơn một tuần nữa thôi. Hiểu như vậy là hời hợt quá.
  • Phải chăng là Chúa đã ở ngay cửa lòng chúng ta. Chỉ cần chúng ta mở cửa thì Ngài bước vào? Ðúng vậy. Việc quan trọng nhất phải làm không phải là dọn dẹp bên ngoài mà là mở rộng cửa lòng để đón Chúa.
  • Và còn một nghĩa rất đặc biệt nữa: “Chúa đã đến gần” nghĩa là Chúa ở ngay trong những người gần cạnh chúng ta, ở ngay trong công việc chúng ta đang làm, ở ngay trong hoàn cảnh chúng ta đang sống. Ăn thua là chúng ta có nhận ra Chúa đang ở rất gần chúng ta hay không?

 

* 6. Chuyện minh họa

a/ Ông nhà giàu và người thợ giày

Có một người thợ giày suốt ngày vui vẻ ca hát. Lúc nào trẻ con trong xóm cũng xúm quanh nghe ông hát.

Ðối diện nhà anh là một ông nhà giàu suốt đêm lo đếm tiền, đến sáng mới đi ngủ nhưng cũng không ngủ được vì tiếng hát của anh thợ giày. Một hôm ông nghĩ ra một cách buộc người thợ giày im tiếng hát.

Ông mời người thợ giày sang nhà ông và tặng anh một túi đầy những đồng tiền vàng. Anh thợ giày trở về nhà ngồi đếm tiền cả ngày. Ðám trẻ con nhìn anh, anh sợ chúng biết anh có nhiều tiền nên đuổi chúng đi và đóng cửa lại. Ban đêm anh cứ nhớ tới túi tiền nên không ngủ được, anh ngồi dậy đem túi tiền giấu ở một nơi kín đáo. Sau đó anh nghĩ rằng nơi đó cũng chưa đủ an toàn nên lại ngồi dậy đem giấu nơi khác. Ban ngày lòng anh cũng canh cánh lo sợ. Thế là anh không còn hát ca gì nữa, cũng không đóng được đôi giày nào nữa. Tệ hại nhất là trẻ con không còn tới chơi với anh. Một thời gian sau anh chịu không nỗi nửa, đem túi vàng trả lại ông nhà giàu. Thế là từ đó trở đi anh lại vui vẻ, hát ca và trẻ con trở lại chơi với anh. (Willi Hoffsemmer).

 

b/ Tiếng cười – tặng phẩm

Sau mấy ngày hội thảo đầy căng thẳng, hai nhà truyền giáo Theodore Cuyler và Charles Spurgeon đi ra ngoài xả hơi. Họ chạy nhảy giữa cánh đồng như thể các học sinh được nghỉ học, vui chơi thỏa chí. Cuyler kể một câu chuyện vui làm Spurgeon bật cười sảng khoái. Rồi thình lình ngài nói:

– Này bạn Theodore, chúng ta hãy quì gối cám ơn Chúa đã ban cho chúng ta tiếng cười vui vẻ vừa rồi.

 

Và rồi cả hai nhà truyền giáo vĩ đại đó thản nhiên quì trên bãi cỏ xanh tươi cám ơn Chúa trước quà tặng là tiếng cười đó. Ðâu có gì mâu thuẫn giữa cầu nguyện và cười vui? Vì một đàng là biểu hiện của sức khỏe tâm linh, một đàng là của sức khỏe thể xác.

 

  1. Bài giải thích của Origène (+ 253)

Phép rửa của Chúa Giêsu là rửa “bằng Thánh Thần và lửa” (Lc 3,17). Nếu bạn thánh thiện, bạn sẽ được rửa bằng Thánh Thần; nếu bạn tội lỗi, bạn sẽ bị rửa bằng lửa. Cùng một phép rửa sẽ thành án phạt và lửa cho những người tội lỗi bất xứng; nhưng các thánh, tức những người trở lại cùng Chúa với một niềm tin tưởng trọn vẹn, thì họ sẽ nhận được ơn sủng của Chúa Thánh Thần và ơn cứu độ. Vậy, Ðấng được nói là “rửa bằng Thánh Thần và lửa” ấy, “tay Ngài cầm nia rê sạch lúa trong sân: thóc mẫy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi” (Lc 3,17-18). Tôi muốn tìm hiểu xem vì sao Chúa cầm nia trong tay, và bởi luồng gió nào mà thóc lép bị thổi bay đi trong khi lúa mẫy, nặng hơn, thì gom lại một chỗ. Vì, nếu gió không thổi thì người ta không thể tách thóc mẫy ra khỏi thóc lép được.

 

Tôi tin rằng phải hiểu gió là những cơn cám dỗ khiến cho trong đám đông các tín hữu lẫn lộn lộ ra những người thuộc hạng thóc mẫy và những người thuộc hạng thóc lép. Vì chưng, khi tâm hồn bạn bị cám dỗ khống chế thì không phải cơn cám dỗ ấy biến bạn thành thóc lép, mà vì chính bạn thuộc về hạng thóc lép, tức là hạng người nhẹ dạ và không có đức tin. Cám dỗ chỉ vạch trần bản chất ẩn dấu của bạn mà thôi. Ngược lại, khi bạn can đảm chống lại cám dỗ thì cũng không phải cám dỗ làm cho bạn trở nên trung thành và kiên trì. Cám dỗ chỉ giúp làm hiện rõ những nhân đức kiên trì và can đảm có sẵn trong bản chất bạn trước đây còn ẩn kín mà thôi. Chúa đã nói: “Ngươi tưởng rằng Ta còn có mục đích nào khác hơn là làm tỏ lộ sự công chính của ngươi chăng?” (G 40,3 theo bản LXX). Chỗ khác Ngài còn nói: “Ta đã hạ ngươi xuống và cho ngươi chịu đói hầu bày tỏ ra điều gì đang có trong lòng ngươi” (Ðnl 8,3-5)

 

Cũng một cách ấy, bão táp không làm vững chắc cho “ngôi nhà xây trên cát” (Mt 7,24-25). Nhưng nếu bạn muốn xây nhà thì hãy “xây trên đá”. Khi ấy dù bão tố có nổi lên cũng không đánh đổ được ngôi nhà được xây trên đá, mà chỉ làm sập ngôi nhà xây trên cát thôi. Cũng vậy, trước khi nổi lên bão tố, gió thổi, sóng ùa, khi mọi sự còn yên tĩnh, chúng ta phải chú ý đến cái nền nhà, chúng ta phải xây ngôi nhà chúng ta bằng những viên đá vững chắc là các giới răn của Chúa; khi cơn bắt bớ bùng nổ làm cho các kitô hữu phải hoang mang lo lắng thì chúng ta chứng tỏ rằng ngôi nhà chúng ta đã được xây trên đá tảng là Chúa Giêsu Kitô.

 

Nhưng nếu ai đó chối bỏ Ngài – nguyện cho chúng ta thoát khỏi điều khốn nạn này – thì người ấy phải biết rằng không phải lúc việc nó chối Chúa được tỏ lộ rõ ràng thì nó mới chối Ngài đâu; nó đã mang sẵn trong mình nó những gốc rễ xa xưa của việc chối Chúa rồi; chỉ sau này khi người ta khám phá điều nó mang sẵn trong lòng thì điều ấy mới được công khai ra. Vậy chúng ta hãy cầu xin Chúa cho chúng ta là ngôi nhà vững chắc không cơn bão nào đánh đổ được vì đã được xây trên nền đá, trên Chúa Giêsu Kitô Chúa chúng ta. Kính dâng Ngài vinh quang và quyền lực đến muôn thuở muôn đời, Amen.

 

  1. Lời nguyện cho mọi người

Chủ tế: Anh chị em thân mến, thánh Phaolô mời gọi chúng ta: Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa, và giãi bày trước mặt Chúa những điều anh em thỉnh nguyện. Trong niềm hân hoan trông chờ Con Chúa ngự đến, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:

  1. Hội thánh luôn khuyên nhủ con cái mình / cố gắng sống bác ái yêu thương với tất cả mọi người / tôn trọng công bằng trong đời sống xã hội / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu / biết quan tâm đến lời khuyên tha thiết của Hội thánh / và cố gắng thực hiện trong đời sống đức tin thường ngày.
  2. Trên thế giới ngày nay / vẫn còn biết bao người đang đói khổ vì thiên tai / vì thiếu lương thực thực phẩm trầm trọng / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những ai đang lâm cảnh gian truân khốn khó / được cứu trợ đầy đủ và kịp thời.
  3. Trong cuộc sống thường ngày / có một số người chỉ lo cho bản thân mình / mà ít khi quan tâm đến người khác / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các Kitô hữu hiểu rằng / họ cần phải sống theo lời thánh Phaolô dạy: / là vui với người vui và khóc cùng người khóc.
  4. Chia sẻ cơm áo cho những ai đói rách bần cùng / cũng như tôn trọng tài sản và danh dự của mọi người / là bổn phận của những ai tin Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết cố gắng chu toàn các bổn phận quan trọng này.

Chủ tế: Lạy Chúa, chúng con đang hết lòng trông đợi Chúa Giêsu Kitô, Con Một Chúa giáng trần để cứu độ chúng con. Xin Chúa ban ơn thanh tẩy tâm hồn chúng con sạch mọi vết nhơ tội lỗi, để xứng đáng đón mừng mầu nhiệm Giáng sinh cao cả. Chúng con cầu xin.

 

  1. Trong Thánh Lễ

Chúc bình an: Có lẽ từ trước tới nay chúng ta chúc bình an cho nhau chỉ bằng một cử chỉ cúi chào, hờ hững, theo thói quen. Hôm nay, ý thức lời Chúa kêu gọi “Hãy vui lên”, chúng ta hãy chúc bình an cho nhau với một tâm hồn vui vẻ và một ước muốn làm một điều gì đó cho mọi người được vui.

 

VII. Giải tán

Lời tung hô trước Tin Mừng trong Thánh lễ hôm nay là “Allêluia. Thần Khí Chúa ngự trên tôi, sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn”. Anh chị em ra về và hãy luôn nhớ thực hành lời đó.

 

16.        Vui lên anh em!

(Suy niệm của Lm. Phanxicô Xavie Lê Văn Nhạc)

 

Tin mừng Lc 3: 10-18: Vui lên anh em! Hãy vui lên trong niềm vui của Chúa!

Gần đến lễ Giáng Sinh, người ta thấy hình ảnh Ông già Noel đủ cỡ xuất hiện khắp nơi. Các em thắc mắc không biết Ông già Noel là ai? Và có thật không?

Tháng 9 năm 1987, một bé gái 8 tuổi tên là Virginia đã viết cho một tờ báo công giáo Hoa Kỳ để hỏi về Ông già Noel. Câu hỏi của cô bé là: Ông già Noel có thật không?

Vài ngày sau, trên mục quan điểm của tờ báo, người ta đọc được câu trả lời của ông chủ nhiệm kiêm chủ bút như sau: “Virginia yêu dấu của bác. Điều trước tiên bác muốn nói với cháu là: các bạn của cháu thật là sai lầm khi bảo rằng không có ông già Noel. Các bạn của cháu đã bị tiêm nhiễm bởi trào lưu hoài nghi. Họ nghĩ rằng chỉ có thể tin được những gì họ thấy tận mắt. Họ nghĩ rằng không gì có thể có được nếu trí khôn nhỏ bé của họ không hiểu được.

Virginia ạ! Ông già Noel có thực. Ông có thực cũng như tình yêu và lòng quảng đại, nhờ đó cuộc sống của cháu trở thành vui tươi và xinh đẹp. Bé ơi, nếu không có Ông già Noel thì thế giới của chúng ta sẽ như thế nào?…”

Được biết Ông già Noel là một nhân vật lịch sử có thật. Người Pháp gọi là Cha Noel (Le père Noel). Người Anh gọi trực tiếp là Thánh Nicola (Santa Claus). Thánh Giám mục Nicola nầy được mừng lễ ngày 6/12 mỗi năm, trước lễ Giáng Sinh gần 20 ngày. Người Pháp thân mật gọi Ngài là Cha Noel, vì Ngài liên hệ nhiều với lễ Noel, nhất là với trẻ em. Các em mộ mến Ngài như một Ông già Noel. Các em được kể rằng nếu chúng ngoan, Ông già Noel sẽ chui vào lò sưởi, vào phòng của chúng, bỏ bánh kẹo vào những chiếc giày các em để ở bên lò sưởi hay bỏ vào những chiếc vớ các em treo ở chân giường…

Ông già Noel sẽ tiếp tục làm cho tâm hồn trẻ thơ được tràn đầy hoan lạc. Lời Chúa của Chúa Nhật thứ III Mùa Vọng hôm nay cũng mời gọi chúng ta hãy vui lên. Không phải vui vì có Ông già Noel, vì quà tặng, vì những thiệp chúc mừng, vì đèn sao, máng cỏ v.v…Đó là niềm vui hời hợt ở bên ngoài sẽ qua mau. Niềm vui đích thực sẽ còn mãi, cả trong lúc lo âu, thất bại. Niềm vui đó bén rễ sâu trong lời cầu nguyện và đó là dấu chỉ của người kitô hữu.

 

“Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa!”

Qua bài đọc thứ nhất, Tiên tri Sôphônia cất lên những tiếng kêu đầy lạc quan: “Hỡi Israel, hãy hân hoan. Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy nhảy mừng. Chúa đã rút lại lời kết án. Vua Israel là Chúa ở giữa ngươi, ngươi sẽ không còn sợ tai họa nữa”. Thưa anh chị em, lời đó có an ủi được chúng ta không, khi mỗi ngày tai chúng ta nghe rang rảng từ trong đài phát thanh những tin tức bi đát của một thế giới đang còn nhiều điểm nóng chiến tranh, còn những cuộc tranh chấp vì bất công, vì đói khổ; khi mắt chúng ta còn thấy nhan nhãn những chiếc khăn sô chít trên đầu, những đàn con mất cha mất mẹ; còn thấy bao nhiêu bệnh nhân trong các bệnh viện rên la đau đớn…

Khi nghe, khi nhìn các điều đó, có phải chúng ta là người ngoài cuộc không? Chúng ta thấy hòa bình và hạnh phúc trộn lẫn những mối nguy đang đe dọa chúng ta. Trong thực tế, chúng ta vẫn lo lắng và đau khổ. Và chẳng những tai ương khốn khó bên ngoài làm chúng ta đau khổ, mà chính những cơn bảo táp trong lòng, những cái mâu thuẫn giữa con tim, giữa lý trí, làm chúng ta xao xuyến băn khoăn. Thánh Phaolô đã cảm nghiệm điều đó trong bản thân Ngài và đã thốt ra những lời chân thành của một con người chân đạp đất: “Sự lành tôi muốn thì tôi không làm; còn sự dữ không muốn thì tôi lại làm”.

Tuy nhiên chúng ta vẫn có thể mĩm cười trong đau khổ và vui tươi trong thử thách, khi chúng ta xác tín rằng Thiên Chúa vẫn hiện diện trong đau khổ của chúng ta. Niềm xác tín này làm nảy sinh và gia tăng niềm hy vọng hân hoan. Nhưng làm sao để nhận thấy “Đấng đang đến” gần? Làm thế nào để nhận ra “Đấng đang ở giữa ngươi”? Gioan Tẩy Giả đã đưa ra những chỉ dẫn cụ thể cho những người hỏi ông: “Chúng ta phải làm gì?” – “Ai có hai áo thì hãy chia cho người không có. Ai có cái ăn thì cũng làm như vậy” – “Đừng đòi hỏi quá mức ấn định” – “Chớ dùng vũ lực, cũng đừng vu khống mà tống tiền người ta. Hãy an phận với số lương của mình”. Nói chung, Gioan đã đưa ra những hướng đi cụ thể: bác ái, chia sẻ, chấp nhận thực tại, sống hiền hòa, công bình, chính trực trong các mối tương quan xã hội. Sống như vậy là chuẩn bị đón nhận Đấng Cứu Thế, là đặt mình vào trong hàng ngũ những kẻ bé mọn của Thiên Chúa. Chính những người bé mọn này mới cảm thấy vui mừng và hy vọng, vì nhận ra Chúa sắp đến, đang đến… Ngài sẽ thay đổi tất cả, đổi mới toàn thế giới và xã hội.

Chính vì thế mà trong Mùa Vọng, Chúa Nhật III bao giờ cũng nổi bật nét hân hoan: “Anh em hãy vui lên!” Hãy hoan hỉ vui mừng vì Chúa giải thoát đã đến và đang ở với chúng ta. Ngài đang thực hiện một cuộc đổi mới toàn diện, đang qui tụ muôn nước thành một dân một nước: Dân Chúa, Nước Trời. Không phải bằng vũ lực khống chế, nhưng bằng sự giải thoát loài người khỏi những ràng buộc của tội lỗi, ích kỷ nhỏ nhen, bất chính. Bằng cách sống chia cơm sẻ áo, liên đới yêu thương; bằng cách sống công bình, chính trực và an hòa với mọi người.

 

Anh chị em thân mến,

Có phải là điều viễn vong không, khi chúng ta nhắc lại lời mời gọi của Phụng vụ: “Anh em hãy vui lên!” Vui làm sao được khi đông đảo dân chúng đang nghèo đói, đau khổ? Phải chăng là để nhạo cười những người này mà Giáo Hội cứ lập lại những lời cũ rích, không gắn liền với cuộc sống thực tế lúc này? Bởi vì, hơn bao giờ hết, vấn đề cơm áo, phát triển, quyền con người đang là những vấn đề nóng bỏng trên hành tinh này cũng như trong xã hội hiện tại của chúng ta.

Lời Chúa trong Cựu Ước cũng như trong Tân Ước đều cho chúng ta thấy rõ đâu là niềm hy vọng của những kẻ tin, đâu là lý do hân hoan của những người bé nhỏ của Thiên Chúa: Thiên Chúa Cứu Độ, đó là tất cả động lực của cuộc sống và cuộc đấu tranh của người tin theo Chúa Kitô. Thiên Chúa nhập thể và cứu độ là căn bản để giải quyết mọi vấn đề: Thiên Chúa nhập thể để chúng ta được sống như con cái, nghĩa là, như những con người tự do và trách nhiệm, những con người tự nguyện cống hiến cho anh em, cho xã hội. Vì vậy, trong bất cứ một hoàn cảnh bế tắc khó khăn nào, người có lòng tin vào Thiên Chúa vẫn không thất vọng, chán nản, vì họ biết rằng mọi phấn đấu của mình và của loài người đều mang một ý nghĩa cứu độ: ý nghĩa dọn đường cho Nước Trời, cho Đức Giêsu của Thiên Chúa ngự đến.

Muốn hòa mình vào niềm vui của Phụng vụ, người kitô hữu và Giáo Hội không thể không liên đới với những người đang khao khát đổi mới, đang khát vọng phẩm giá con người. Hơn thế nữa, Giáo Hội Chúa Kitô không thể đứng ngoài những cuộc đấu tranh cho hòa bình, bình đẳng, tôn trọng con người, phát triển xã hội mà loài người đang theo đuổi. Sống Mùa Vọng là sống liên đới với người nghèo, là sống công bình với tha nhân, là sống hòa giải với hết mọi người, là sống yêu thương, an bình trong mọi hoàn cảnh, là đấu tranh cho tình huynh đệ và khơi lên niềm vui cho những ai đang chán nản, thất vọng chán chường vì không có niềm tin, vì đã mất niềm tin nơi con người, nơi xã hội và cả nơi Thiên Chúa nữa.

 

Vui lên anh em! Hãy vui lên trong niềm vui của Chúa!

 

17.        Kẻ tội lỗi

 

Vào một ngày Chúa nhật tháng chín năm 1972, tại góc phố đông người qua lại, người ta thấy xuất hiện một nhà giảng thuyết. Ông đưa cánh tay phải lên và chỉ vào một người nào đó và nói: Anh là kẻ có tội. Hành động này đã gây nên một hậu quả kỳ lạ. Mọi người lấm lét nhìn ông rồi cúi mặt xuống trong thinh lặng.

 

Từ mẩu chuyện trên chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng sáng hôm nay. Chắc hẳn lời giảng của Gioan Tiền hô bên bờ sông Giócđan cũng đã tạo ra một hậu quả như thế. Trong đám đông, có những người đã cười nhạo ông. Có những người đã tức giận ông, nhưng cũng có những người đã nhận biết sự sai trái của mình.

 

Chẳng hạn những người thu thuế nhận ra có lúc mình đã đòi hỏi quá mức ấn định. Những người lính có lúc đã đối xử tàn bạo với dân chúng. Còn tất cả thì có lúc đã khước từ sự giúp đỡ cần thiết cho những người chung quanh. Ông đã đụng vào vùng thâm sâu và dễ thương tổn nhất của họ, ông đòi buộc họ phải nhìn lại tâm hồn mình, khám phá ra những khuyết điểm, để rồi dứt khoát từ bỏ tội lỗi mà quay trở về cùng Chúa.

 

Còn chúng ta thì sao? Chắc hẳn ai trong chúng ta cũng đã ý thức được những hậu quả mà tội lỗi gây ra cho bản thân, cho gia đình cũng như cho xã hội, thế nhưng chúng ta lại không có đủ can đảm dứt bỏ tội lỗi, trái lại nhiều lúc chúng ta còn chạy theo những mời mọc, những quyến dũ, những lôi kéo của tội lỗi, để rồi như lời thánh Phaolô đã diễn tả: Sự thiện tôi muốn thì tôi lại không làm, còn điều ác tôi ghét thì tôi lại làm.

 

Chúng ta giống như một người muốn nhảy xuống sông để tắm cho được sạch, nhưng lại ngại trời rét. Vì thế, cứ ngồi trên cầu ao, thò một chân xuống rồi lại co lên. Cứ thế, cứ thế, nửa muốn tắm nửa lại sợ rét.

 

Hay như một con bò, nửa muốn uống nước, nửa muốn ăn cỏ, thành thử hết nhìn qua bên này lại nhìn qua bên kia, mà bụng thì vẫn đói và khát.

 

Vậy cho đến lúc này, chúng ta đã có thái độ dứt khoát hay chưa? Chúng ta hãy nhớ lại lời thánh Gioan Tông đồ: Nếu chúng ta nói rằng mình vô tội, thì chúng ta chỉ là kẻ nói dối.

 

Mặc dù tâm hồn chúng ta rất xinh đẹp vì được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa, nhưng đồng thời nó lại rất yếu đuối và có thể vấp ngã bất cứ lúc nào. Chúng ta giống như một chiếc bình sành dễ vỡ. Có nhiều khía cạnh trong cuộc sống chúng ta cần được Chúa tha thứ và chữa lành qua Bí tích Giải tội.

 

Mùa vọng chính là thời gian giúp chúng ta nhìn nhận mình là kẻ tội lỗi, rồi sám hối ăn năn để được ơn tha thứ, cũng như được hưởng sự bình an mà Chúa sẽ đem đến trong đêm Giáng sinh.

 

18.        Nhà giảng thuyết đường phố

(Suy niệm của Lm. Mark Link, SJ.)

 

Cách đây ít năm, bác sĩ Karl Menninger, trưởng khoa tâm bệnh học của Mỹ đã làm nhiều người kinh ngạc với quyển sách của ông nhan đề: “Whatever Became of Sin?” (Bất cứ gì cũng là tội?). Ông bắt đầu quyển sách bằng một câu chuyện trào lộng khiến chúng ta phải suy nghĩ. Vào một ngày chúa nhật tháng chín năm 1972, trên góc phố đông người qua lại thuộc khu trung tâm Chicago, xuất hiện một nhà chuyên giảng thuyết ở đường phố. Đang lúc các nhân viên văn phòng vội vã lo đi ăn trưa, nhà giảng thuyết này thình lình giương cánh tay phải lên, dùng ngón tay xương xẩu chỉ vào một nhân viên nào đó rồi la lên: “Anh là kẻ có tội!” đoạn ông đứng im, nghỉ vài giây rồi lại bắt đầu chỉ vào một nhân viên khác và la lên: “Anh là kẻ có tội!”

Bác sĩ Menniger nói: “Tác động mà nhà giảng thuyết gây ra nơi những người bộ hành đi ngang qua đó thật là kỳ lạ”. Họ lấm lét nhìn ông, rồi lại quay mặt đi chỗ khác, rồi lại lén nhìn nữa, và cuối cùng vội vàng đi tiếp.

Chắc chắn Gioan Tẩy giả cũng gây được tác động tương tự trên đám dân khi ngài xuất hiện ở bờ sông Giođan. Hẳn nhiên trong đám dân, một số chế nhạo ngài, số khác tức giận ngài, còn số khác nữa nhận biết từ thâm sâu cõi lòng mình sự sai quấy của họ. Chẳng hạn chúng ta đọc thấy trong bài Phúc Âm hôm nay: Các người thu thuế nhận ra mình đã có lỗi trong việc thu thuế quá mức, đám lính tráng nhận thấy mình thường hay bắt nạt dân chúng, còn tất cả dân chúng đều nhận ra tội không biết chia sẻ phần của cải dư thừa cho người túng thiếu. Trong quyển sách nói trên, bác sĩ Menninger cho thấy rằng nhiều người thời nay cũng đã phạm những điều sai quấy. Nhưng điều đó không làm cho bác sĩ Menninger phải ưu tư hay lưu tâm. Điều khiến cho ông phải ưu tư hay lưu ý là có rất nhiều người thời nay không chấp nhận rằng mình đã làm những điều sái quấy. Chính vì thế mà nhà giảng thuyết trên chỉ nói “Anh (hay chị) là kẻ có tội” đã tạo ra một tác động thật kỳ lạ nơi những nhân viên làm việc ở Chicago.

Thánh Gioan Tẩy Giả cũng như nhà giảng thuyết nọ đã chạm vào vơi vùng thâm sâu dễ thương tổn nhất của dân chúng. Ngài đòi buộc dân chúng xét lại tâm hồn mình và nhận biết lỗi lầm của mình. Ngài còn đòi họ phải từ bỏ tội lỗi để quay về cùng Thiên Chúa.

Trong cuốn sách tựa đề Something More (Một cái gì hơn thế nữa) của bà Catherine Marshall, người ta tìm thấy một minh hoạ sống động về những khuyến dụ của Gioan Tẩy giả. Một hôm, cô Linda, con gái bà chuẩn bị đi tắm. Ngay khi vừa đặt một chân xuống bồn ngay dưới vòi tắm, còn chân kia vẫn còn trên chiếc thảm ngoài bồn tắm, cô bỗng liên tưởng đến hình ảnh cuộc đời mình. Cô thường muốn hiến dâng đời mình cho Chúa, nhưng chẳng bao giờ hoàn tất được ước nguyện đó, vì cô luôn sống tình trạng chân trong chân ngoài như thế này. Giờ đây có lẽ đã đến lúc cô phải quyết định dứt khoát hoặc theo Chúa hoặc không theo Ngài, cô nghĩ đến cái giá phải trả khi chọn con đường theo Chúa. Giá ấy chẳng phải rẻ, nhưng cô đã quá mệt mỏi vì tình trạng lập lờ hai phía, để rồi chả phía nào đem lại cho bình an thoải mái. Thế rồi cô đứng im suy nghĩ một hồi lâu, đoạn hít một hơi sâu vào lồng ngực, và nói to lên: “Lạy Chúa, con xin chọn Ngài”. Nói xong, cô bước hẳn hai chân vào bồn tắm. Hành vi này đối với cô giống như một phép rửa đích thực. Đây chính là sự biến đổi tâm hồn mà Gioan tẩy giả đề nghị dân Do Thái thực hiện.

Vậy làm thế nào áp dụng thực tế những điều trên đây vào cuộc sống chúng ta? Muốn trả lời câu hỏi quan trọng này, chúng ta hãy trở lại câu chuyện của bác sĩ Menninger về nhà giảng thuyết trên đường phố nọ. Tất cả chúng ta đều đã từng làm đìều sai quấy. Nếu còn chút nghi ngờ gì về điều này chúng ta chỉ cần đọc lại lá thư thứ nhất của thánh Gioan trong đó ngài dùng những câu nói hết sức thẳng thừng: “Nếu chúng ta nói rằng: chúng ta không có tội là chúng ta tự lừa dối mình… nếu chúng ta cho rằng mình không hề phạm tội tức chúng ta xem Thiên Chúa là kẻ nói dối và không có lời Ngài trong bản thân chúng ta” (1 Ga 1: 8,10)

Tôi rất vui mừng khi nghe thánh Gioan công bố ra tội lỗi của chúng ta một cách thẳng thừng như thế, vì điều đó giúp chúng ta dễ dàng đồng ý với bác sĩ Menninger hơn, khi ông cho rằng việc nhìn nhận tội lỗi đem lại cho chúng ta sức khoẻ tâm lý lẫn tinh thần. Quả thế, chúng ta phải nhìn nhận mình là kẻ có tội. Nói rõ hơn là chúng ta rất xinh, rất đẹp, nhưng đồng thời cũng rất yếu hèn. Có nhiều khía cạnh trong cuộc sống chúng ta cần được Chúa tha thứ và chữa lành nhờ bí tích Giải tội.

Vì thế, Mùa Vọng chính là thời gian giúp chúng ta nhìn nhận mình là kẻ có tội để rồi chúng ta ăn năn thống hối xưng tội ra ngõ hầu mở rộng tâm hồn trước Chúa Giêsu Đấng cứu độ chúng ta. Đây là thời gian để chúng ta làm điều Linda Marshall đã làm, nghĩa là không thể kéo dài tình trạng sống hai mặt mà chả cái nào ra hồn cả. Đây là thời gian để chúng ta hít sâu hơi thở vào lồng ngực rồi thốt lên với Chúa: “Lạy Chúa, con xin chọn Ngài”.

Để kết thúc, chúng ta hãy lập lại lời cầu nguyện được một Kitô hữu tên là Origen viết ra cách đây 1600 năm; “Lạy Chúa Giêsu, đôi chân con dơ bẩn…. xin hãy đổ nước vào thau và rửa cho con, con biết rằng con quá bạo gan khi cầu xin Chúa điều này, nhưng vì con sợ bị Chúa quở trách: Nếu Ta không rửa chân con thì con chẳng phải là bằng hữu cuả Ta. Vậy xin Chúa hãy rửa chân con vì con ao ước được làm bằng hữu của Ngài”.

 

19.        Chúa Nhật 3 Mùa Vọng

 

“Chúng tôi phải làm gì” (Lc 3,10)

 

Phúc âm hôm nay mô tả lại khung cảnh dân chúng tìm đến Gioan để được hướng dẫn sống như thế nào cho phù hợp và xứng đáng để đón chờ Đấng Cứu Thế. Thánh Gioan xuất hiện với cách sống và tinh thần khiêm, lời mời gọi của ông đã đánh động rất nhiều con người, khơi lên trong lòng họ những tâm tình sám hối và muốn quay về với Thiên Chúa, dù họ còn rất mơ hồ về Đấng Cứu Thế khi họ tự hỏi có phải Gioan là Đấng Cứu Thế. Họ vẫn đến với Gioan để nghe giảng dạy và lời mời gọi của Gioan đơn giản, cụ thể bằng việc chia sẻ cơm ăn áo mặc, sống công bằng, nhường nhịn…

 

Lời mời gọi của Gioan đối với những người đồng thời với ông cũng là lời mời gọi mọi người chúng ta, nó là những gì rất gần gũi, là cuộc sống xảy ra xung quanh ngày hôm nay chúng ta cần làm. Chúa đến với chúng ta qua rất nhiều người, nhiều cách và nhiều biến cố. Tất cả là cơ hội để chúng ta đón nhận Chúa. Có những biến cố và những người Chúa gởi đến để thức tỉnh và mời gọi chúng ta trong cuộc sống thường. Mùa vọng là thời gian thuận tiện để thực hành sâu sắc hơn đời sống người kitô hữu, gắn bó với Chúa bằng đời sống cầu nguyện, thực hành tình yêu thương với mọi người bằng cách sống chia sẻ, công bằng và khiêm tốn. Đối với chúng ta Chúa đã đến và đang đến mỗi giây phút trong cuộc sống hằng ngày, điều cần thiết là chúng ta mở rộng tâm hồn đón Chúa, chuẩn bị đời sống nội tâm để đón Chúa trong ngày Chúa quang lâm, sống hài hoà các mối tương với tha nhân, mở rộng tấm lòng để san sẻ.

 

Cuộc sống xao động, nhiều cách sống để chọn lựa, có nhiều lúc chúng ta không nhận ra rõ điều nào là ý Chúa, tinh thần của Chúa để thi hành. Vì vậy chúng ta cần sự hướng dẫn của Lời Chúa và Giáo Hội. Cậy dựa vào Chúa, luôn bám víu vào Chúa trong suy nghĩ, lời nói và hành động của mình. Dù cuộc sống có nhiều thay đổi, biến chuyển và nhiều lý thuyết mơ hồ nhưng trong tay Chúa chúng ta vững vàng chu toàn bổn phận của người kitô hữu và hoàn thành trọn vẹn cuộc sống ở trần gian này.

 

20.        Hãy vui lên

(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)

 

Phaolô mời gọi các tín hữu của Ngài: “hãy vui lên”. Tiên tri Sophônia nói: “hãy ca lên”. Tôi phải làm gì để chuẩn bị tâm hồn đón Thiên Chúa đến? Tôi phải làm gì để có thể sống vui?

 

  1. Vì Thiên Chúa ở giữa ngươi

Tiên tri Sôphônia cho rằng phải ca hát vì Thiên Chúa đang ở giữa dân Người, vì Thiên Chúa đã đẩy lui quân thù cho dân, vì Thiên Chúa sẽ thêm sức mạnh cho dân Người, vì Thiên Chúa yêu thương dân Người, Ngài quy tụ cả những kẻ đã bỏ lề luật của Ngài.

Thiên Chúa ở với ai, thì người đó sẽ được Thiên Chúa bảo vệ. Thiên Chúa đã ở với Abraham khi ông đi vào Aicập, Ngài đã bảo vệ ông khỏi bao tai họa và bênh vực quyền lợi của ông. Khi Sara, vợ của Abraham, được thương yêu và bị bắt làm vợ vua Pharaô, thì Thiên Chúa đã đổ tai họa xuống người Aicập và buộc Pharaô phải trả Sara về cho Abraham. Thiên Chúa đã ở với Yacóp, đã đi với Yacóp và dẫn ông trở về quê cha đất tổ khi ông chạy trốn Esau. Thiên Chúa đã ở với Môsê, để ông có thể đứng vững trước vua Pharaô, để ông có thể đem dân Do Thái ra khỏi Aicập. Thiên Chúa đã ở với các tiên tri, để làm cho các tiên tri dám nói những điều mà những người có quyền thế và dân chúng không muốn nghe.

Hôm nay người ta biết rằng Thiên Chúa ở khắp mọi nơi, Ngài luôn luôn hiện diện với tất cả mọi người và với dân Người. Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi người, Ngài luôn trợ giúp con người vì tất cả đều là con dân của Ngài. Không nhờ Ngài, không gì có thể hiện hữu và thành sự. Thiên Chúa hạnh phúc khi ở với con người. Con người cần Thiên Chúa để sống hạnh phúc, và Thiên Chúa cũng cần con người vì Thiên Chúa yêu thương con người. Thiên Chúa đang ở với con người, đó là lý do mọi người cần biết để có thể vui lên.

  1. Vì Chúa đã gần đến

Thánh Phaolô kêu gọi dân thành Philip hãy vui lên, vì “Chúa đã gần đến”. Với thánh Phaolô, Đức Giêsu là Đấng có thân phận Thiên Chúa, Ngài đã tự hủy khi mang thân phận con người, Thiên Chúa đã đến và ở giữa con người, hiện Ngài đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Thiên Chúa đã đến hiện diện giữa trần gian trong thân phận con người, và Ngài sẽ lại đến. Ngài đang đến, nên các Kitô hữu hãy vui mừng.

Tại sao vui khi Chúa đến gần? Trong quan niệm của thánh Phaolô, Đức Giêsu là niềm vui, là bảo chứng cho thấy Thiên Chúa yêu thương con người đến độ nào! Chúa tới, là để cứu độ con người, để giải phóng toàn diện con người, đưa con người vào hạnh phúc đích thực và vĩnh cửu. Vì vậy, Kitô hữu vui biết bao khi biết Chúa đang tới gần. “Thầy đi để dọn chỗ cho anh em, nếu không Thầy đã nói với anh em rồi… Thầy đi, rồi Thầy sẽ trở lại đón anh em đi với Thầy, để Thầy ở đâu anh em cũng được ở đó với Thầy”.

Trong khi chờ đợi Chúa, Kitô hữu hãy sống ôn hòa. Niềm vui phải tỏa rạng trên gương mặt của các Kitô hữu, vì đây là niềm vui lớn vô cùng. Trên đời này, không có niềm vui nào lớn hơn niềm vui này: Chúa đến để cứu độ con người, để đưa con người tới hạnh phúc viên mãn. Dân ngoại không biết, nên không có niềm vui này được; còn Kitô hữu biết điều này, nên họ vui. Nếu Kitô hữu không biết điều này, thì thánh Phaolô đã nhắc nhở các con cái của Ngài: “hãy vui lên, tôi nhắc lại lần nữa: anh em hãy vui lên trong Chúa”.

 

III. Đức Giêsu- niềm vui của con người

Đức Giêsu quả thực là niềm vui của con người! Khi được sinh ra tại chuồng chiên cừu nơi làng Bêlem, không ai biết Ngài là nhân vật đặc biệt. Khi sống thời thơ ấu tại Nazarét, cũng chẳng ai biết nguồn gốc thần linh của Ngài ngoại trừ Đức Mẹ và thánh Yuse. Khi Ngài đi rao giảng, Ngài được coi là một tiên tri, là người qua đó Thiên Chúa hiện diện và yêu thương dân Người. Với tư cách là một tiên tri, người của Thiên Chúa, Ngài cũng đã làm cho dân chúng thêm tin tưởng vào Thiên Chúa, làm cho dân chúng vui vì họ cảm nhận Thiên Chúa quan tâm và an ủi dân Người.

Sau biến cố Phục Sinh, các tông đồ nhận biết Đức Giêsu hoàn toàn lấy ý Thiên Chúa làm ý mình, Ngài chấp nhận vâng phục cho đến chết, Ngài hoàn toàn phó thác tất cả trong tay Thiên Chúa, Ngài thuộc hoàn toàn về Thiên Chúa đến độ có thể nói Ngài là Thiên Chúa, Ngài là Thiên Chúa nhập thể. Đức Giêsu có nguồn gốc thần linh; điều này là nguyên nhân khách quan làm Kitô hữu vui mừng.

Một khi nhận ra Đức Giêsu là Đấng đồng bản tính với Thiên Chúa, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật, được sinh ra mà không phải tạo thành, thì Kitô hữu nhận biết Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng! Thiên Chúa đã yêu thương con người đến cùng cực nên mới cho Con của Ngài nhập thể làm người! Con người thật hạnh phúc dường bao khi nghe Tin Mừng này. Niềm tin này ảnh hưởng trên con người toàn diện, làm con người vui mừng hân hoan. Đâu còn niềm vui nào lớn hơn niềm vui này! Niềm vui này phải lan tỏa và chi phối toàn diện con người, cả về thể lý lẫn tinh thần. Ước gì mỗi Kitô hữu tin tuyệt đối vào Đức Giêsu Kitô, để cuộc đời của mỗi người là dấu chỉ Thiên Chúa yêu thương con người được biểu lộ qua Đức Giêsu Kitô.

 

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

  1. Xin chia sẻ niềm vui lớn nhất trong đời bạn.
  2. Bạn có kinh nghiệm về nỗi buồn không? Nó là gì? Nó có đáng cho bạn buồn không?
  3. Đức Giêsu có ảnh hưởng nhiều trên đời bạn không? Xin chia sẻ!

 

21.        Reo vui lên

(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)

 

Lời Chúa mời gọi chúng ta hãy vui lên. Vui lên vì Chúa đang tới để cứu độ chúng ta. Hôm nay trong thánh lễ ở một số nơi, linh mục mặc áo hồng, diễn tả niềm vui và hy vọng.

 

Đức Chúa đang ở giữa chúng ta

Tiên tri Xôphônia sống trong thời đại nhiễu nhương: vua dân đều phản loạn với Chúa, quân thù phương bắc đang hăm he chiếm đoạt đất nước. Xôphônia cảnh cáo và tiên báo án phạt trên đất nước, và rồi Xôphônia cũng loan báo niềm vui cho dân. “Hãy nhẩy mừng lên, hỡi thiếu nữ Sion”, vì vào ngày Thiên Chúa đoái thương dân, “án phạt, kẻ thù, tai ương” sẽ được Thiên Chúa đẩy ra khỏi đất nước. Vậy còn gì phải sợ, tại sao lại lo âu?

Con người ngày nay, có cơm dư gạo thừa, hiện tại sống trong một đất nước không chiến tranh, và được bảo đảm về nhiều điều, vậy còn cần gì Thiên Chúa nữa? Thực tế cho thấy có những người giầu, cơm dư gạo thừa, nhưng vẫn không hạnh phúc. Điều làm con người khốn khổ và mất bình an, là tội lỗi của mình. Những xúc phạm đến Chúa và làm hại anh em mình, làm sao để được tha thứ? Ai có thể tha thứ tội xúc phạm đến Thiên Chúa, nếu không phải là chính Thiên Chúa? Ai có thể tha thứ điều tôi đã làm tổn hại cho anh em tôi, những tổn thất mà không gì có thể đền bù được? Tôi đã thấy một người tù chung thân, đau đớn như thế nào khi nhắc đến hành vi giết người của anh ta, một khi nhận ra hậu quả của hành vi đó trên những người thân, và đặc biệt trên con cái của người bị anh ta giết. Anh ta không thể làm cho người anh ta giết sống lại được.

Mừng vui lên, hỡi thiếu nữ Sion. Mừng vui lên hỡi tất cả con người trên hoàn vũ, vì Thiên Chúa đã thương tha thứ tội lỗi chúng ta. Ngôi Lời Thiên Chúa đã nhập thể làm người, Ngài là bảo chứng cho thấy Thiên Chúa yêu thương con người đến độ như thế nào. Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể là dấu chỉ, là bằng chứng tình yêu của Thiên Chúa đối với con người. Nếu Thiên Chúa sẵn sàng ban Con Một yêu dấu của Ngài cho chúng ta, thì Ngài còn tiếc gì với chúng ta nữa? Nếu Thiên Chúa đã sẵn sàng ban Con Một của Ngài cho chúng ta, thì Ngài sẵn sàng ban tất cả cho chúng ta trong Con Chí Ái của Ngài.

 

Đừng lo lắng hãy phó thác tất cả cho Thiên Chúa

Trong thư gởi tín hữu Philip, thánh Phaolô nói: “anh em hãy vui luôn trong Chúa. Tôi nói lại một lần nữa: hãy vui lên” (Pl.4, 4). Tại sao thánh Phaolô phải lập đi lập lại điều đó? Phải chăng các tín hữu ở Philip có qúa nhiều bận tâm, có qúa nhiều nỗi lo?

Có thể trong cuộc sống, chúng ta có nhiều điều phải lo, và những mối lo của chúng ta cũng chính đáng như lo cho con cái, chồng con, cha mẹ, v.v… Nhiều điều chúng ta lo nhưng vượt sức chúng ta. Làm sao có thể vui được đây?! Thánh Phaolô nói: “Đừng lo lắng gì, nhưng hãy nói tất cả với Thiên Chúa trong kinh nguyện với lời tạ ơn”. Như thánh Gióp, “mình đón nhận điều tốt lành từ tay Thiên Chúa, mà mình không sẵn sàng đón nhận điều có vẻ không tốt lành sao?” Thiên Chúa yêu thương tôi, Ngài sẽ ban những điều tốt lành cho tôi, ngay cả bây giờ tôi không thấy điều đó là tốt lành.

Chỉ khi mình tin vào Thiên Chúa như Đấng yêu thương mình, thì mình mới có thể phó thác tất cả cho Ngài, và mới có sự bình an thực sự mà thôi.

 

Tôi phải làm gì?

Để chuẩn bị tâm hồn đón Đấng Thiên Sai, người Do Thái đã đến với Yoan Tẩy giả để sám hối tội lỗi. Họ đặt câu hỏi với Yoan: “Tôi phải làm gì?”

Không phải chỉ có “thường dân” tới với Yoan, nhưng có đủ mọi hạng người: dân chúng, lính tráng, người thu thuế. Và Yoan đã chỉ họ cách thức sám hối rất cụ thể:

ai có hai áo hãy chia cho người không có áo;

ai có của ăn, hãy chia cho những người không có;

đừng tham tiền của, chỉ thu thuế đúng như phải thu;

đừng hà hiếp người, hãy bằng lòng với tiền lương của mình.

Hôm nay, tôi phải làm gì để đón Chúa tới trong lòng tôi? để sẵn sàng đón nhận Chúa tới vào giờ chết? để sẵn sàng đón Chúa vào ngày Chúa quang lâm? Tôi có sẵn sàng tìm tới với Yoan Tẩy Giả cho dù ngày nay chúng ta rất bận và không có nhiều thời gian không?

Mến Chúa yêu người là hai giới răn căn bản. Không ai có thể yêu Chúa mà không yêu người. Ngày nay, có bao người đang cần chúng ta giúp đỡ. Có thể họ cần chúng ta giúp đỡ về vật chất, nhưng cũng có thể họ không cần chúng ta giúp đỡ về vật chất mà họ cần chúng ta giúp đỡ về tinh thần. Chúng ta có sẵn sàng bỏ tiền của, sức lực, thời gian để giúp đỡ họ không?

Xin Chúa giúp mỗi người chúng ta yêu Chúa yêu người, phó thác tất cả nỗi lo cho Thiên Chúa qua kinh nguyện, để chúng ta cảm nghiệm được bình an, và có thể vui sống trong đời sống thường ngày.

 

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

  1. Theo bạn, điều gì làm con người mất bình an và niềm vui nhất?
  2. Bạn cần làm gì để chuẩn bị đón Chúa đến? Bạn đã làm được tới đâu rồi?
  3. Những người không là kitô-hữu có thể có được niềm vui và bình an không? Với những người không có, làm sao để giúp họ an bình và có niềm vui như chúng ta?

 

22.        Chúng tôi phải làm gì?

(Suy niệm của Nguyễn Hiếu)

 

MINH HỌA LỜI CHÚA

 

  1. Vẫn luôn hy vọng chờ đợi

Victor Frankl là một bác sĩ tâm thần người Do thái. Ông đã bị Đức Quốc Xã bắt nhốt trong trại tập trụng. Ông có viết cuốn “Tìm ý nghĩa đời người”. Trong đó ông mô tả những đau khổ đồng bào ông phải chịu trong trại tập trụng. Trong những đau khổ đó, nỗi đau khổ chờ đợi là chua xót nhất: chờ để biết số phận của người thân và của chính mình, chờ để được giải thoát!…

Vào thời Chúa Giêsu, người Do thái cũng đau khổ chờ đợi Đấng Mesia đến giải thoát khỏi nô lệ đế quốc Lamã. Nỗi đau khổ chờ đợi này tác động mạnh trên tâm hồn họ theo nhiều cách khác nhau: một số thất vọng buồn rầu chán nản, số khác mất niềm tin, còn lại nhóm người vẫn hy vọng chờ đợi với lời cầu khẩn, van xin, thỉnh nguyên…

***

Thực sự Chúa đã đến ở giữa họ, mà họ không nhìn nhận, không tiếp rước, vì Người không làm theo ý ho. Họ chỉ nghĩ đến lợi vật chât. Chúa đến đem niềm vui hạnh phúc cho tâm hồn Chúa đến đem tình thuơng cứu rỗi đến cho loài người, dạy con người sống bác ái, công bình với nhau để được “thu vào kho lẫm” là được sống hạnh phúc muôn đời. (Theo “Vision 2000”)

 

  1. Anh là kẻ có tội

Bác sĩ Karl Menninger, trưởng khoa tâm bệnh học của Mỹ đã làm nhiều người kinh ngạc với quyển sách của ông tựa đề: “Điều gì đang xảy đến cho tôi?”. Ông bắt đầu bằng câu truyện trào lộng khiến mọi người suy nghĩ Năm 1972, vào một chúa nhật tháng 9, ở một gốc phố đông người qua lại tại Chicago, xuất hiện một nhà giảng thuyết đang khi các nhân viên vội vã đi ăn trựa. Ông chỉ vào người này nói: “Anh là kẻ có tội”. Đoạn ông im lặng một lúc rồi chỉ người kia nói: “Anh là kẻ có tội!…”

Khách qua đường thấy thế thì lấy làm lạ, kinh sợ. Họ lấm lét nhìn ông rồi quay đi vội vã, rồi lại lén nhìn nữa.

***

Chắc chắn Gioan Tẩy Giả ngày xưa cũng gây tác động như thế trên dân chúng khi ông xuất hiện ở sông Giođan, khiến mọi người nhận biết tội lỗi mình mà ăn năn thống hối, từ người thu thuế, đến binh lính, và dân thuờng, để đón nhận ơn cứu rỗi của Chúa Cứu Thế. Họ xúm lại nhờ ông chỉ dạy điều gì phải làm, việc chi phải lánh để được Chúa tha tội, để được huởng nhờ ơn cứu độ.

Tôi có tội không? Tôi cần ăn năn sám hối để chờ mong Chúa đến với tôi không?!

Thánh Gioan Tông đồ nói với chúng ta: “Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta… Tôi viết cho anh em những điều này, để anh em đừng phạm tội. Nhưng nếu ai phạm tội, thì chúng ta có một Đấng Bảo Trợ trước mặt Chúa Cha: Đó là Đức Giêsu(1Ga.1,8-2,1) Đấng đang đến cứu độ chúng ta. (Theo Cha M. Link).

 

  1. Được áp dụng vào cuộc sống

Trong sách của Do thái giáo có kể câu chuyện của một nhà chế biến xà bông với một giáo sĩ. Một hôm nhà chế biến xà bông đến gặp giáo sĩ và nói: “Tôi đã hiểu đạo Do thái Ngài đã nói với chúng tôi: mục đích của tôn giáo là đem lại hòa bình, công bằng, bác ái cho thế giới. Nhưng tôi thấy những người theo tôn giáo có thực hiện điều nào đâu!…

Vị giáo sĩ bình thản mời anh đi dạo trong công viên Họ đi ngang một đám trẻ đang chơi lấm lem. Giáo sĩ nói: Quan sát các trẻ này, anh kết luận xà bông không có hiệu quả gì. Anh phản đối: xà bông bao giờ cũng hiệu quả khi nó được sử dụng. Vị giáo sĩ đáp lại: Tôn giáo cũng thế Nó cũng chỉ có giá trị khi những lời giáo huấn và những điều luật được áp dụng vào cuộc sống. (Theo “Minh họa Lời Chúa).

***

Thánh Gioan Tẩy Giả kêu gọi các thành phần dân chúng sống bác ái, thực hiện công bằng để đón rước Chúa Cứu Thế…

Tôi có muốn đón rước Chúa Cứu Thế không? Tôi có sống bác ái công bình không?

 

  1. Nhìn thấy Chúa…

Ở quần đảo nọ, có hai nông phu luôn kình địch cải vã nhau, cương quyết không đội trời chung. Đời sống hai người ngày càng bất hạnh, kéo theo cả hai gia đình thù hằn xô xát nhau, làm cho bầu khí trong vùng ngày càng thêm nặng nề khó sống…

Các trưởng lão trong vùng thấy vậy, cố sức giải hòa hai người. Các ông đề nghị một anh nên đi gặp Chúa. Anh sẵn sàng, nhưng hỏi lại:

– Gặp Chúa ở đâu?

Các trưởng lão dẫn anh đến nhà người anh thù ghét, giải thích cho anh hiểu kẻ mà anh thù hận là Chúa đó, vì mỗi người là hình ảnh Thiên Chúa, là anh em với nhau vì là con một Cha trên trời.

Nghe các trưởng lão giải bày chí tình chí lý, hai người ôm nhau hòa lên khóc nức nở, vì nhớ lại từ trước đến giờ mưu mô hại nhau và thù ghét đến Chúa nữa!…

***

Gioan Tẩy Giả kêu gọi mọi người sám hối, đón rước Chúa Cứu Thế. Ai nấy xúm lại hỏi ông: “Chúng tôi phải làm gì?…”

Hai người nông dân trên đây cũng sẵn sàng nghe các trưởng lão, ăn năn sám hối lỗi lầm của mình, tha thứ cho nhau, trở lại thương yêu đùm bọc nhau, vì họ thấy Chúa trong anh em mình: “Chúa đã đến ở trong mọi người. Muốn đón rước Chúa, phải tiếp nhận anh chị em mình…”

 

  1. Sống bác ái công bình

Dưới thời vua Cảnh Công nước Tề, có lần bão tuyết 3 ngày liên tiếp. Vua Cảnh Công ngồi trong cung điện, mặc áo lông áo kép. Ánh Tử vào hầu, Cảnh Công bảo:

– Lạ thay, mưu tuyết 3 ngày rồi mà trời không rét nhỉ.

Ảnh Tử hỏi lại:

– Ngài không rét ư?

Cảnh Công cười. Ánh Tử nói tiếp:

– Ánh Tử này vẫn thuờng nghe nói các bậc vua hiền:

Lúc no biết người khác đói.

Lúc ấm biết người khác rét.

Lúc nhàn hạ biết người khác vất vả.

Nay vua lại không biết thế.

Cảnh Công đáp:

– Ánh Tử nói có lý. Cảnh Công này có lỗi. Xin nghe lời.

Rồi vua cho điều tra ai đói rét để phân phát cơm gạo quần áo. (Theo “Phút Cầu nguyện”, tập III)

***

Nghe lời cảnh cáo, vua Cảnh Công biết sửa mình, từ bỏ thói ích kỷ bất công, trở lại sống công bình bác ái.

Mùa Vọng, Thánh Gioan Tiền hô cũng mời gọi mọi người sống bác ái công bình để đón nhận Chúa Cứu Thế.

Ước gì mỗi người chúng ta biết vâng nghe thực hành theo lời Thánh nhân, để được Chúa đến cứu thoát chúng ta khỏi lầm than khốn khổ hồn xác.

 

23.        Tôi phải làm gì?

(Suy niệm của Lm. Alfonso)

 

Tin mừng Lc 3: 10-18 Sám hối không phải chỉ là một sự ngẫu hứng, thực hiện ngày một, ngày hai nhưng cần thực hiện thường xuyên và liên lỉ để có thể thay đổi được tính cố hủ cùng những tật xất, gian dối và tham lam trong con người.

 

Suy niệm:

Chúng ta đã đi được nửa chặng đường Mùa Vọng. Hôm nay, Chúa nhật thứ III Mùa Vọng được gọi là Chúa Nhật của niềm vui với phẩm phục phụng vụ từ màu Tím chuyển sang Hồng, và chủ đề tuần này là lời mời gọi “Vui lên” vì Chúa sắp đến. Lời nguyện nhập lễ hôm nay đầy tín hoan lạc: “Lạy Chúa, xin đoái xem, này dân Chúa đem tất cả niềm tin đợi chờ ngày lễ Sinh Nhật Đấng Cứu Thế. Xin hướng niềm vui chúng con về chính nguồn hoan lạc của mầu nhiệm Giáng Sinh cao cả để tâm hồn chúng con hoàn toàn đổi mới mà họp mừng ngày cứu độ đã gần kề.”

Trong bài đọc thứ I, tiên tri Xôphônia đem đến cho dân niềm hy vọng đầy lạc quan để vượt qua những thất vọng, nản chí và đau buồn: “Chúa là Thiên Chúa ngươi, là Đấng mạnh mẽ ở giữa ngươi, chính Người cứu thoát ngươi. Người hân hoan vui mừng vì ngươi. Người cảm động yêu thương ngươi, và vì ngươi, Người sung sướng reo mừng” (Xp 3,16-18).

Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu thành Philiphê cũng mời gọi các tín hữu vui lên trong niềm vui của Chúa. Đức ôn hoà của anh em phải sáng tỏ trước mặt mọi người, vì Chúa đã gần đến.

Và lời rao giảng của Gioan Tiền hô là cao điểm khi kêu gọi sám hối, dọn đường cho Chúa vì Chúa sắp ngự đến. Lời này đã đánh động con tim dân chúng, và họ đáp lại cách nhiệt tình: “Vậy chúng tôi phải làm gì đây?” Vâng, cám ơn những người người đã đến hỏi tiên tri Gioan về cách thức chuẩn bị đón Chúa đến. Nhờ họ mà chúng ta cũng sẽ có câu trả lời cho chính mình. Thiên Chúa không đòi điều gì ngoại thường vượt khả năng và địa vị mỗi người. Điều Chúa muốn là mỗi người sống công bằng và bác ái. Với những đức tính này, chúng ta mới có thể chuẩn bị tốt đẹp để ra đón Chúa.

Ba nhóm người được thánh Gioan giải đáp:

Trước hết, cách chung cho những người đầy thiện chí đang mong chờ Chúa đến, Gioan mời gọi “Ai có hai áo, hãy cho người không có; ai có của ăn, cũng hãy làm như vậy”. Điều tối thiểu mình có thể làm được là hãy quan tâm đến những người đang sống quanh ta, chia cơm sẻ áo cho người túng thiếu. Đây là điều tối thiểu có thể làm được.

Đối với người làm nghề thu thuế là những người đại diện cho lớp công chức được trả lương bằng đồng tiền thuế của dân, Gioan không bảo họ phải đổi nghề, nhưng kêu gọi sự liêm khiết trong công việc, đừng tham nhũng bóc lột người khác hay đòi thêm điều gì khác ngoài mức đã được ấn định. Họ được mời gọi chu toàn nghĩa vụ một cách lương thiện.

Với các quân nhân tượng trưng cho hạng người quyền lực, giữ gìn trật tự cho công chúng, họ dễ bị cám dỗ lạm quyền. Gioan mời gọi: “Đừng ức hiếp hay cáo gian ai; hãy bằng lòng với số lương của mình”. Những người này cần sự công minh và biết tôn trọng người khác.

Còn với mỗi người chúng ta hôm nay, cùng giành ít phút hồi tâm, hãy tự trả lời cho chính mình về câu hỏi: “Còn chúng tôi phải làm gì?”

Cha Anthony de Mello dòng Tên đã kể lại câu chuyện sau đây về một nhà tu Ấn Độ nổi tiếng. Vị tu sĩ đáng kính này đã nhận định về cuộc đời của mình như sau: “Khi 20 tuổi, tôi là một con người hăng say cách mạng và lời cầu nguyện của tôi lúc đó dâng lên Thiên Chúa là: ‘Lạy Chúa, xin ban cho con sức mạnh để thay đổi trọn cả thế giới này’. Nhưng rồi khi 40 tuổi, sống đến nửa đời người, tôi ý thức là mình chưa thay đổi được ai cả, tôi ít tự phụ hơn và cầu nguyện cùng Chúa như sau: ‘Lạy Chúa, xin ban cho con một ơn này mà thôi, là có thể thay đổi được những ai mà con gặp hằng ngày, những người thân trong gia đình cũng như bạn bè. Chỉ được như thế thôi thì con cũng mãn nguyện lắm rồi’. Nhưng giờ đây khi 60 tuổi, đến lúc tóc bạc da mồi, tháng ngày đời tôi sắp tàn, tôi ý thức mình đã tự phụ và điên rồ, tôi khiêm tốn hơn và chỉ cầu nguyện như sau: ‘Lạy Chúa, xin ban cho con ơn thay đổi chính bản thân con”. Nếu tôi đã sống và cầu nguyện như thế ngay từ đầu cuộc đời của tôi, thì tôi đã không uổng phí cuộc sống của mình’.

Sám hối không phải chỉ là một sự ngẫu hứng, thực hiện ngày một, ngày hai nhưng cần thực hiện thường xuyên và liên lỉ để có thể thay đổi được tính cố hủ cùng những tật xất, gian dối và tham lam trong con người. Tuy nhiên, nếu như chúng ta không có một bắt đầu hoán cải thì sẽ không thể có những bậc thang nên thánh được. Một người thánh thiện không phải là một người không mắc tội mà là một tội nhân biết sám hối và vươn lên từng ngày với những hành động thực tế. Như thế, khi nói đến việc chuẩn bị đón mừng Chúa, chúng ta không chỉ là lãnh nhận bí tích Hòa Giải và lo dọn mình sạch mọi tội lỗi mà thôi, nhưng trên hết, chúng ta được mời gọi biến cải đời sống. Một cuộc sống công bằng, yêu thương, chia sẻ và phục vụ giúp cho cuộc sống của người xung quanh ta bớt khổ đau. Được vậy, chúng ta đang chuẩn bị đón Chúa đến một cách đầy đủ và có ý nghĩa nhất, như lời từ Thông điệp Deus caritas est, Đức Thánh cha Bênêđict XVI đã viết: “Tình thương luôn là điều cần thiết, cả trong một xã hội công bằng nhất” (số 28).

 

Xin Chúa cho con biết sống một cuộc sống công bằng và luôn thể hiện nghĩa cử tốt với những người con gặp gỡ, tập bớt đi tính tham – sân – si bằng việc sám hối với những điều thiện ích để sống đẹp lòng Chúa hơn. Amen.

 

24.        Chúng tôi phải làm gì?

(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)

 

Khung cảnh phụng vụ hôm nay có một màu sắc khác những Chúa nhật trước. Chủ tế có thể mặc áo hồng, là màu diễn tả niềm vui. Tất cả những lời kinh và những đoạn Kinh Thánh đọc trong thánh lễ mang một màu sắc vui mừng hân hoan đặc biệt. Tại sao thế?

Vì Giáo hội đang vui mừng rạo rực đón chờ Chúa đến. Và Chúa đang đến gần, không còn bao lâu nữa. Chúng ta được mời gọi tham dự vào niềm vui trông đợi này, vì Chúa đến là cho mỗi người chúng ta.

Giáo hội mượn lời của tiên tri Xôphônia để mời gọi con cái mình đi vào niềm vui của Chúa: “Reo vui lên, hỡi thiếu nữ Xion, hò vang dậy đi nào, nhà Israel hỡi!… Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi đang ngự giữa ngươi, Người là Vị Cứu Tinh, là Đấng anh hùng. Vì ngươi, Chúa sẽ vui mừng hoan hỉ, sẽ lấy tình thương của Người mà đổi mới ngươi. Vì ngươi, Chúa sẽ nhảy múa tưng bừng như trong ngày lễ hội.”

Lời của tiên tri có cho chúng ta thấy rằng chúng ta là niềm vui của Chúa không? “Vì ngươi, Chúa sẽ nhảy múa tưng bừng như trong ngày lễ hội”.

Vì thế, hôm nay, Giáo hội mời chúng ta vào niềm vui trong sáng của Chúa. Vui lên đi vì Chúa thương chúng ta, vì Chúa sẽ đến cứu độ chúng ta.

Thánh Phaolô, trong thư gởi cho giáo đoàn Philipphê là giáo đoàn ngài thương nhất cũng bảo họ: “Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: vui lên anh em!…Chúa gần đến”.

Chúng ta chưa thấy vui, vì chỉ thấy cuộc sống hôm nay vẫn nặng nề, đầy lo toan, đầy khổ nhọc. Vì chúng ta chưa bao giờ cảm thấy Chúa là ai và tình thương của Chúa như thế nào. Chúng ta không chú ý mấy đến tình yêu của Ngài.

Hơn nữa, chúng ta chưa bao giờ nghĩ một cách chính xác chúng ta là gì, thân phận chúng ta ra sao: chúng ta là những con người đầy tội lỗi, nặng nề trong ách nô lệ tội lỗi và tính hư tật xấu. Thế nhưng Chúa không bỏ rơi chúng ta bao giờ, chỉ có chúng ta bỏ Chúa. Chúng ta hãy vui lên vì Chúa đã thương tha thứ tội lỗi chúng ta. Ngài muốn chúng ta hạnh phúc với Ngài, và trong Ngài. Chúng ta chỉ hạnh phúc khi chúng ta thoát ra khỏi ách nô lệ tội lỗi. Ngài đến trong trần gian này, đâu phải để tìm một cái gì cho Ngài, nhưng Ngài đến vì chúng ta, Ngài đến để giải thoát chúng ta. Muốn thế, chúng ta hãy đến với Ngài, thành thật và tha thiết.

Hãy vui lên! Chúa chúng ta sắp đến với tất cả tình yêu của Ngài. Một tù nhân sẽ nghĩ gì khi biết rằng một vài ngày nữa sẽ được tự do? Một thanh nữ nghĩ gì khi người yêu hứa vài ngày nữa cha mẹ anh sẽ đem trầu cau đến hỏi em? Không vui sao được khi Chúa đến đem lại cho chúng ta nguồn vui bình an của Ngài? Nhưng chúng ta chỉ vui thực sự khi chúng ta nhìn thấy tình trạng tù đày của mình, khi chúng ta đang mong chờ ngày người yêu đến với chúng ta.

Chúa biết rằng chúng ta không thể tự mình cứu lấy mình, Ngài sai người đến nhắc nhở, thúc giục chúng ta. Gioan Tẩy Giả được sai đến, ông xuất hiện bên bờ sông Giođan, kêu gọi dân chúng ăn năn thống hối, trở về với Thiên Chúa.

Dân chúng, từ lâu đã được nung nấu trong niềm hy vọng được cứu thoát, đến gặp Gioan và hỏi: “Vậy, chúng tôi phải làm gì?”

Đó là câu hỏi mà hôm nay mỗi người chúng ta phải đặt lại cho chính mình. Tôi phải làm gì để đón chờ Chúa đang đến với tôi đây?

Gioan khuyên bảo dân chúng: “Hãy chia sẻ với người túng thiếu, hãy sống công bằng, đừng gian dối…”

Giáo hội hôm nay nhắc lại những lời của Gioan, khuyến khích chúng ta đi vào cuộc sống tốt hơn. Đó là cách chờ đón Chúa tuyệt vời.

Trong hạnh thánh Vinh Sơn đệ Phaolô, trong một cuộc đàm đạo với nữ hoàng Anna nước Áo, hoàng hậu quay lại phía Cha Vinh Sơn và nói: “Cha làm nhiều việc quá!” Cha Vinh Sơn trả lời: “Tôi làm quá ít, thưa nữ hoàng”.

Hoàng hậu: “Cha biết, cha đã làm rất nhiều, và chắc cũng không mấy người, khi đến tòa Chúa có thể được ghi công đầy đặn như cha”.

Cha Vinh Sơn làm một cử chỉ như chán nản: “Thưa nữ hoàng, tôi đã ngủ nhiều, ngủ nhiều quá và nhiều lúc tôi lại hèn nhát”.

Hoàng hậu: “Cha Vinh Sơn này, chúng tôi là những người chỉ biết lo hưởng thụ, và nếu không có cha nhắc nhở, chắc chúng tôi không bao giờ mở mắt để nhìn thấy cái gì tốt, xin cha hãy trả lời tôi, cha luôn sống cho đi, cha từ bỏ tất cả mọi sự kể cả hạnh phúc, quyền lực. Cha đã xây đắp không phải những lâu đài phù phiếm… Vậy đứng trước cái chết, cái lỗ to tướng đó đàng sau cha, cha có thấy như vậy không? Cha Vinh Sơn: “Có, thưa bà”. Hoàng hậu: “Vậy phải làm gì trong một cuộc sống để có thể gọi là làm được cái gì”? Cha Vinh Sơn chỉ nói: “Hơn nữa”.

“Hơn nữa”, đó là định luật của tình yêu. Thiên Chúa là Tình Yêu, Ngài đã yêu thương chúng ta đến nỗi ban Con Một Ngài cho chúng ta, tại sao chúng ta không tin? Vì chúng ta không tin, nên chúng ta không cảm thấy vui. Chúng ta không biết Chúa thương chúng ta như thế nào, chúng ta cứ dửng dưng. Ngày lễ Chúa Giáng Sinh, chúng ta trang hoàng nhà thờ, nhà cửa lộng lẫy hoa đèn nhưng lòng chúng ta không có ở đó. Chúng ta vắng mặt trong lễ hội tình yêu.

Chúa sắp đến rồi! Chúng ta sẽ đón tiếp Ngài như thế nào? Với tất cả tâm hồn, với tất cả tình yêu?

Giữ đạo là đó, là sống yêu thương, là đáp lại tình yêu của Chúa. Nhưng chúng ta có biết Chúa thương chúng ta không? Chúng ta có biết chúng ta được yêu như thế nào không? Chúng ta biết chứ, nhưng chỉ biết sơ sài, không mấy chú ý. Đó chính là điều đáng tiếc!

Chúa sắp đến rồi, chúng ta chuẩn bị bên ngoài, nhưng tâm hồn như thế nào?

Gioan Tẩy Giả nói: “Sẽ có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người”. Đấng đó là ai mà Gioan cảm thấy không xứng cởi quai dép cho Ngài, vậy chúng ta có xứng đáng hơn Gioan không? Chúng ta được vinh dự hơn Gioan, ông chỉ là người dọn đường, chúng ta được vinh dự đón rước Ngài, chúng ta không thấy rộn vui sao? Ngài sẽ đến “rửa chúng ta trong Thánh Thần và trong lửa”, và chúng ta sẽ được Ngài cho làm bạn thân tình vì Ngài đến để tìm gặp chúng ta.

Hãy vui mừng hân hoan vì tình thương của Chúa không bao giờ hao hụt, và chúng ta được mời gọi vào tình thương đó. Đó là niềm hạnh phúc mà chúng ta đang nắm trong tay.

Hãy cùng với Mẹ Maria chờ đón Chúa như Mẹ. Những ngày này, xưa kia, Mẹ đang nặng nề với đứa trẻ thần linh Mẹ cưu mang và Mẹ nóng lòng biết bao được nhìn thấy con mình, chúng ta hãy hòa nhập tâm tình yêu thương và chờ mong, mời gọi Chúa đến.

Và nơi đây, trong cộng đoàn phụng vụ, chúng ta cũng đang chờ Chúa đến trong mầu nhiệm Thánh Thể, thì hãy vui lên vì Ngài đã thực sự gần gũi với chúng ta, Ngài đến hôm nay để còn đến trong ngày mai. Hôm nay, Ngài đến trong chúng ta, mai sau, Ngài sẽ đến trong uy quyền, nhưng để bộc lộ nguyên vẹn tình yêu của Ngài trong vinh quang và trong đó chúng ta sẽ có mặt, nếu hôm nay, chúng ta thành tâm đón tiếp Ngài.

 

25.        Thay đổi

 

“Chúng tôi phải làm gì?”

Hôm nay là Chúa Nhật 3 Mùa Vọng, chủ tế mặc phẩm phục màu hồng, sắc màu của niềm vui.

 

Hoà cùng niềm vui của phụng vu, mỗi người chúng ta hãy ý thức thay đổi trạng thái tâm hồn mình cho phù hợp với ý nghĩa phụng vụ mà Giáo Hội mời gọi. Gác lại chuyện cơm áo gạo tiền, tạm hoãn những ưu tư nghề nghiệp, vơi đi những lo âu bệnh hoạn, lau khô những giọt nước mắt tang chế u sầu của đời tạm. Và bây giờ, hỡi những ai có niềm tin vào Chúa Kitô, hãy vui lên, hãy thay đổi đời mình.

 

Hãy thay đổi đời mình! Đây là điều mà Gioan Tẩy giả kêu gọi mọi người thực hiện qua đoạn Phúc Âm hôm nay. Đó cũng là thái độ sống mà phụng vụ mùa vọng mời gọi từng người. Nhưng gần gũi hơn, thiết thực hơn, thay đổi đời mình, sống bác ái là tiếng gọi tha thiết của những người bên cạnh chúng ta: vợ chồng, con cái, hàng xóm, bè bạn, thầy cô, bạn bè…

 

Sự thay đổi hôm nay của bạn có ý nghĩa quan trọng cho cuộc đời bạn. Bạn thay đổi cho sự thăng tiến của bản thân. Bạn thay đổi vì hạnh phúc của người bên cạnh. Bạn thay đổi để chứng tỏ bạn gắn bó và lắng nghe lời Giáo Hội mời gọi. Bạn thay đổi để nói lên rằng bạn tin vào Tin Mừng Đức Kitô. Và hơn thế, giờ đây bạn thay đổi vì bạn yêu mến Đức Kitô và không muốn làm phiền lòng Người.

 

Hài Nhi Giêsu rất cần sự anh tân của từng người trong nhân loại. Ai cũng biết Chúa Giêsu sinh ra trong thời tiết khắc nghiệt của đêm đông lạnh giá. Nhưng cái lạnh Ngài sợ hơn cả là cái lạnh của lòng người. Bạn đang lạnh nhạt, hờ hững với những người thân trong gia đình, sống vô trách nhiệm, chỉ lo cho riêng mình. Bạn sống vô tình với tha nhân, dù họ đang cần sự giúp đỡ. Chúa sợ cái lạnh đó nhiều lắm. Không phải Chúa sợ cho Chúa mà Chúa đang lo sợ cho bạn. Chúa lo cái lạnh ấy diễn tiến lâu ngày sẽ đóng băng con tim bạn, sẽ làm mất dòng chảy yêu thương nơi tâm hồn bạn. Giáng sinh năm nay Chúa không đến được vì máng cỏ lòng bạn không còn hơi ấm.

 

Bạn ơi! Hãy ý thức rằng đối xử tệ bạc với mọi người trong đức ái là giết chết trái, là ngăn chặn hành trình giáng lâm của Đức Kitô nơi tâm hồn, là huỷ hoại công cuộc cứu chuột của Thiên Chúa.

 

Bạn là người Kitô hữu: Hãy vui lên, hãy thay đổi để chuẩn bị cho Chúa một máng cỏ lòng; lòng tin, lòng cậy, lòng mến.

 

26.        Công chính

(Suy niệm của Lm. Giuse Trần Việt Hùng)

 

Chương trình cứu độ của Thiên Chúa ban cho loài người được hình thành qua rất nhiều thời kỳ. Thiên Chúa đã mặc khải ý định qua từng biến cố vui buồn của một dân tộc. Người đi vào thời gian để thực hiện ý định của Người. Đọc lịch sử dân Do-thái, chúng ta nhận ra bàn tay quan phòng của Người qua từng giai đọan. Thiên Chúa không rút bớt thời gian và không dùng sự lạ để đạt tới mục đích ngay, nhưng chờ đợi chuẩn bị của từng thế hệ con người. Mỗi thế hệ, Chúa lại chọn gọi một số những ngôn sứ và chứng nhân. Người mong muốn cải đổi từng tâm hồn để đón chờ Đấng Cứu Thế. Thiên Chúa sai các tiên tri để loan báo tin vui ngày xum họp trở về. Mỗi biến cố xảy đến cho dân là một dấu chỉ lòng thương xót. Tiên tri Sophonia đã cất tiếng: Reo vui lên, hỡi thiếu nữ Xi-on, hò vang dậy đi nào, nhà Ít-ra-en hỡi! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy nức lòng phấn khởi (Soph 3, 14).

 

Dân Chúa đã trải qua nhiều gian nan thử thách. Chúa ban cho Dân thật nhiều hồng phúc, nhưng họ cũng phải đối diện với nhiều thách đố thường ngày. Chúa để mắt đoái nhìn và dẫn dắt Dân trong nẻo chính đường ngay, nhưng rất nhiều lần họ đã đi lạc xa và rời bỏ Chúa. Chúa phạt họ lưu đầy, nhưng rồi Chúa lại qui tụ họ về. Tiên tri Sophonia diễn tả: Như trong ngày lễ hội. Những kẻ tản lạc được hồi hương Ta đã cất khỏi ngươi tai hoạ khiến ngươi không còn phải ô nhục nữa (Soph 3, 18). Ơn cứu độ được cưu mang qua nhiều dòng dõi nối tiếp sứ mệnh chuẩn bị. Chúng ta không thể tách rời các biến cố nhỏ to trong chương trình cứu độ. Thời gian là trường huấn luyện và là thuốc chữa lành tâm linh. Biết bao nhiêu kinh nghiệm xương máu để gìn giữ kho tàng châu báu niềm tin của cha ông. Đó là tôn thờ một Thiên Chúa duy nhất.

 

Bài phúc âm của Chúa Nhật thứ 3 Mùa Vọng, Gioan Tẩy Giả xuất hiện giữa đám đông mở đường hoán cải. Gioan bắt đầu sứ mệnh rao giảng sám hối ngay giữa nơi quần chúng. Mọi cấp bậc và mọi giới đã chạy đến ngài và xin ý kiến làm sao có thể đổi đời. Cả các binh lính cũng đến hỏi: “Còn anh em chúng tôi thì phải làm gì?” Ông bảo họ: “Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta, hãy an phận với số lương của mình.” (Lc 3, 14). Lời kêu gọi của ông Gioan vẫn vang vọng qua mọi thời. Hôm nay đây mỗi người chúng ta cũng hỏi: Tôi phải làm gì để nên trọn lành? Cũng chính những việc cần thi hành mà Gioan đã nói về lòng bác ái, sự công bằng, sống ngay chính và thái độ chấp nhận. Niềm vui trong tâm hồn sẽ dâng trào khi sự ích kỷ, gian tham và kiêu căng bị xóa nhòa.

 

Cuộc sống xã hội tạo nên hình dạng nếp sống con người. Người ta nói gần mực thì đen, gần đền thì rạng. Cách sống và suy tư hành xử của chúng ta cũng bị ảnh hưởng khi sống trong xã hội một xô bồ, gian dối và lừa đảo. Những sai lạc và lầm lỗi nho nhỏ trở thành thói quen hằng ngày, chúng ta không còn nhận diện sự chính thật. Thánh Gioan Tẩy Giả đã khơi dậy và nhắc nhở mọi người sống tinh thần mới lấy đức ái làm cột trụ dẫn đường. Việc làm cấp bách là hãy chia sẻ áo quần, cơm bánh cho những người nghèo khó đói ăn, thiếu mặc. Niềm an vui của ơn cứu độ không cao siêu xa vời, nhưng hòa nhập ngay trong cuộc sống đời thường. Chúng ta sẽ nhận được niềm vui hoan lạc khi biết chia sẻ, cho đi và hiến thân.

 

Mùa Vọng mang ý nghĩa gì cho mỗi người chúng ta trong giai đoạn này. Chúng ta có thực sự cảm nhận được niềm vui trào dâng khi đón nhận lời mời gọi của thánh Gioan không? Chúng ta có thật sự muốn canh tân đời sống và dọn đường đón nhận Chúa vào tâm hồn không? Chúng ta cần tu thân, phải tích đức và đổi mới cách suy tư sống đạo. Biết bao nhiêu cơ hội đã đi qua trong cuộc đời bị bỏ lỡ. Những ràng buộc của bản ngã và của tham sân si cuốn quyện trong cách sống. Chúng ta khó vượt ra khỏi vòng bao quanh ứng xử thường tình của người đời. Đôi khi chúng ta cũng đua đòi và hãnh diện về những thói hư tật xấu của mình. Nghĩ rằng mình hiểu đời, điệu đời, chịu chơi và thích ứng được với những đua chen xã hội. Chúng ta cảm thấy thỏa mãn cuộc sống và dần rời xa những ràng buộc luân lý đạo đức.

 

Không phải ngày một, ngày hai là chúng ta thoát được khỏi vòng cuốn hút đam mê cuộc đời. Người ta thường nói rằng con người thì chứng nào tật ấy. Đúng thật, một tật xấu đã nhiễm, không dễ gì thay đổi. Việc xấu đã thành thói, khó bề sửa chữa. Có người khoe rằng tính tôi là vậy đó. Ai chịu thì chịu, không chịu thì thôi. Đây chỉ là cách cãi chầy và nói cối. Cần khiêm hạ trong ý thức với cả ý chí quyết tâm để có thể tránh xa và loại trừ những thói xấu. Thuốc nhẫn nhục chữa bệnh tham sân si. Ai cũng cần phải tu thân và tu tâm để nên người hoàn thiện. Nếu chúng ta tu được trong nghịch cảnh mới gọi là chân tu. Khi gặp những sự trái tai, gai mắt và thị phi, mà chúng ta cầm lòng được mới gọi là tu. Nếu không đối diện với nghịch cảnh thì khó biết sức tu của mình. Khi đụng truyện, chúng ta mới biết kẻ dữ, người hiền. Nếu chúng ta không tu tập sửa đổi thì ngày qua tháng lại, tuổi đời chồng chất và tóc bạc răng long, các thói hư tật xấu vẫn còn đó.

 

Hãy vui lên vì ơn cứu độ đã gần kề. Hãy vui với những giây phút hiện tại, chúng ta không phải đợi đến ngày mai. Chúng ta hãy bắt đầu ngay ngày hôm nay những gì có thể làm. Chân thành nhận diện những gốc rễ của sự sai xót, yếu đuối và lầm lạc để hồi đầu. Chúng ta chấp nhận sự thật về mình và đứng trên đôi chân của mình. Bỏ đi được một thói hư hay một tật xấu là chúng ta đã bước lên một nấc thang của sự hoàn thiện. Như ông Gioan, tuy dù mọi người kính phục Gioan, nhưng không màng dư luận thị phi. Ông trả lời thẳng thắn: “Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa (Lc 3, 16). Gioan khiêm hạ trong lòng để chu toàn sứ vụ được trao. Nhận mình là tiếng kêu trong hoang địa để dọn đường cho Chúa. Là những thừa tác viên của lời Chúa, chúng ta hoàn tất mọi công việc như người đầy tớ phục vụ.

 

Niềm vui của ngày trở về quê hương xứ sở là biến cố hân hoan. Thánh Phaolô viết thơ cho tín hữu thành Philipphê cũng loan báo tin vui: Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: vui lên anh em!(Phil 4, 7). Phaolô đã đón nhận niềm vui ngập tràn bởi chính nguồn ơn cứu độ là Chúa Kitô phục sinh. Ngài không quản ngại gian khó trên bước đường truyền giáo. Phaolô đã chịu trăm ngàn đắng cay để làm nhân chứng cho Chúa Kitô. Ngài khuyên lơn các tín hữu khởi đầu là hãy đặt niềm tin vào Thiên Chúa: Anh em đừng lo lắng gì cả. Nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện (Phil 4, 7). Tin vui cần được loan truyền. Phaolô đã lãnh nhận nhưng không, nên ngài cũng đem tin mừng biếu không bằng mọi giá.

 

Lạy Chúa, nếu không có ơn Chúa, chúng con chẳng làm được gì. Hãy luôn gắn bó với Chúa Giêsu là nguồn cội để lãnh nhận sự sống. Chúa phán: Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được (Ga 15, 5). Xin cho chúng con biết tận dụng mọi thời gian để tu tâm và luyện tính để nên hoàn thiện hơn. Không tu luyện, kiềm chế và tiết độ thì không thể thay đổi tính tình. Cuối cuộc đời nhìn lại đời mình, có khác gì như con dã tràng xe cát biển đông.

 

27.        Chúa Nhật 3 Mùa Vọng

(Suy niệm của Lm. Giuse Maria Lê Quốc Thăng)

 

Tin mừng Lc 3: 10-18:Chúa Nhật III Mùa Vọng được gọi là “Chúa Nhật vui mừng” vì chủ đề chính yếu của Chúa nhật này là “Niềm Vui”.

 

Chúa Nhật III Mùa Vọng được gọi là “Chúa Nhật vui mừng” vì chủ đề chính yếu của Chúa nhật này là “Niềm Vui”. Tại sao phụng vụ lại chọn chủ đề của Chúa nhật này là niềm vui. Lý do vì Chúa nhật này chia mùa vọng ra làm hai, và Giáo Hội thấy thời điểm này là lúc thuận tiện để nhắc nhở Tin hữu biết rằng: Mùa Vọng không phải mang màu sắc ảm đạm, bi thương, nặng nề. Chúng ta đang chờ đợi Chúa, nhưng chờ đợi trong niềm hy vọng, trong lạc quan. Chờ đợi Chúa đến nhưng trong trí lòng đã cảm nhận đựơc sự hiện diện của Thiên Chúa. Chính vì thế mà trong tâm hồn đã trào dâng lên niềm vui.

 

  1. Tìm Hiểu Lời Chúa: Lc 3, 10-18

Đám đông dân chúng qui tụ chung quanh Gioan Tẩy Giả tại sông Gioađan tham vấn với ông phải làm gì để được cứu độ. Ông giảng dạy mọi người tuỳ theo giai cấp, tầng lớp và công việc mà thực sự hoán cải, nhờ đó, chuẩn bị chờ đón Đấng Cứu Độ đến. Sự hoán cải đích thực đưa đến đời sống công chính và bác ái mạnh mẽ.

 

  1. Tôi phải làm gì? Khi được Gioan kêu gọi hãy sám hối, hãy dọn đường cho Chúa đến, dân chúng liền hỏi ông, họ phải làm gì để sám hối, để dọn đường. Câu trả lời của Gioan khá cụ thể cho từng đối tượng hỏi ông. Gioan kêu mời mọi người sống công chính tuỳ theo hoàn cảnh của mình, thực hiện một lối sống thích hợp với địa vị, vai trò của mỗi người trong xã hội. Vời ấtt cả mọi người ông nhắc phải thực thi bác ái. Với người thu thuế và người lính ông nhắc nhở sống công bình trong khi thi hành nhiệm vụ, chống lại thói cường quyền, ức hiếp và ước muốn tham lam. Như vậy, Gioan không đòi buộc người ta phải tách mình ra khỏi cuộc sống hiện tại, khỏi những thực tại trần thế và khỏi nghề nghiệp của mình, nhưng sống và làm việc trong tinh thần bác ái, công bình, đó chính là thái độ sám hối hữu hiệu, đúng đắn. Thành ngữ “Chúng tôi phải làm gì?” được nhắc đến ba lần trong bản văn này. Trong Luca, thành ngữ này là cách hỏi đặc biệt của người muốn hối cải (x. CVTĐ 2, 37; 16,30; 22,10).

 

  1. Sự hoán cải đích thực giả thiết một sự quay trở về với tất cả con người, không chỉ trong lý trí nhưng trong toàn bộ cách sống. Những ước mơ tốt sẽ chỉ là ảo tưởng nếu không có hành động theo sau.

 

  1. Với mỗi người, Gioan chỉ dẫn những lời khuyên thích hợp nhất với tình trạng của họ. Lời khuyên của Gioan đưa ra sáng suất, thực tế và đòi hỏi phải được thực hiện nghiêm túc, được áp dụng không chậm trễ.

 

  1. Những lời khuyên của Gioan liên quan đến cá nhân mỗi người và chỉ dẫn chúng ta phải làm gì để sống đúng tinh thần mùa vọng. Chúng ta sẽ từ chối lắng nghe lời khuyên bảo tốt lành này khi mặc kệ tất cả vì quyền lợi, vì tính ích kỷ và vì những ý muốn xấu sa.

 

  1. Trong thâm tâm ai cũng tự hỏi: biết đâu Gioan lại chẳng là Đấng Messia?: Dân chúng đến với Gioan đông đảo bởi vì xem ra lời giảng của ông, cách sống của ông đáp ứng lòng trông chờ Đấng Messia của họ lúc bấy giờ. Chính vì thế, họ dể dàng thắc mắc ông là ai? Có phải là Đấng Messia không? Để giúp dân chúng không hiểu làm và nhận ra Đấng Messia khi Ngài đến ông so sánh về phẩm giá, về phép rửa và về vai trò của ông và Đấng Messia

 

  1. Về Phẩm Giá: Gioan tự nhận địa vị hèn kém của mình so với Đấng Cứu Thế. Ông chỉ là người không xứng đáng cởi dây giầy cho Đấng Messia, nghĩa là còn không xứng đáng như một đầy tớ của Ngài. Đấng Cứu Thế là Ông Chủ đích thực của tất cả mọi người.

 

  1. Về Phép Rửa: Gioan rửa bằng nước còn Đấng Messia sẽ rửa bằng Thánh Thần và Lửa. Phép rửa mà Đấng Cứu Thế tiết lập sẽ là một phép rửa reong Chúa Thánh thần và trong Lửa. Lửa là biểu tượng của sự biến đổi sâu thẳm trong tâm hồn. Trong khi nước chỉ đụng chạm tới bên ngoài, rửa sạch bên ngoài thì lửa xuyên thấu bên trong, đốt nóng lên, soi sáng và biến đổi bản chất. Lữa chính là lửa của Chúa Thánh Thần. Ngọn lửa mà Cháu Giêsu đã đem đến thế gian và ước mong nó bùng cháy lên (Lc 12,49). Thánh Thần và Lửa là hai yếu tố của một nguyên lý duy nhất là Chúa Thánh Thần, nguồn ơn thánh hoá của Thiên Chúa. Như thế, phép rửa của Đấng Cứu Thế là phép rửa thanh tẩy, thánh hoá có hiệu năng tha tội, ban ơn cứu độ và biến đổi con người thành con Chúa. Còn phép rửa của Gioan chỉ kêu gọi lòng sám hối và mang nghĩa tượng trưng, nghi thức bên ngoài.

 

  1. Về Vai Trò của Đấng Messia: Để xác định vai trò của Đấng Cứu Thế Gioan đã trình bày Ngài không những là Đấng sẽ rửa trong Thánh Thần và Lửa mà còn là vị Thẩm Phán. Ngài đến để xét xử, tách biệt kẻ lành người dữ. Ngài đem người lành vào Nước Chúa và phó măc kẻ dữ cho hoả hình không ai dập tắt được. Chúa Giêsu, Đấng Thiên Sai là Thẩm Phám thời tận thế.

 

 

  1. Gợi Ý Sống Lời Chúa
  2. Tìm kiếm niềm vui, niềm vui trong Chúa:

Chủ đề của Chúa nhật hôm nay được Hội Thánh chọn là ‘niềm vui’. Bài đọc I cũng như bài đọc II mời gọi dân Chúa hãy vui lên. Vui vì Thiên Chúa sắp đến thực hiện ơn cứu độ cho Dân Người. Người đến để tha thứ, để hòa giải, để cứu thoát dân khỏi nô lệ cho tội lỗi, cho ma quỉ là những kẻ thù ( Bài đọc I).Thánh Phaolô khẳng định niềm vui đó là niềm vui trong Chúa: Anh em hãy vui luôn trong Chúa. Niềm vui trong Chúa là niềm vui có được từ nơi Thiên Chúa. Chính sự hiện diện của Người mang lại niềm vui. Niềm vui là nét tiêu biểu của người Kitô hữu, là mong ước của mọi người. Sống ở đời ai cũng mong mình có được niềm vui sống và nỗ lực đi tìm kiếm niềm vui. Người Kitô hữu cũng vậy, cũng đi tìm kiếm niềm vui và xác tín rằng niềm vui đích thực chỉ có nơi Thiên Chúa. Một khi biết mình đã có Chúa thì mọi âu lo buồn phiền sẽ mất đi. Càng khám phá ra sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời, càng gia tăng niềm vui sống. Càng gặp gỡ Chúa trong cuộc sống, niềm vui sống càng sâu sắc bền vững. Niềm vui trong Chúa luôn là mọt niềm vui gia tăng sức mạnh cho tâm hồn trước những nghịch cảnh, đau khổ của kiếp người. Niềm vui trong Chúa cũng là niềm vui biến đổi đau thương nước mắt thành hạnh phúc, nghĩa là giúp cho mỗi người có nghị lực vươn lên vượt qua nghịch cảnh.

 

Là người, ai cũng mơ ước và đi tìm niềm vui sống. Trong khi ngày nay, có nhiều người đang mải miết tìm kiếm những thú vui xác thịt, thú vui thụ hưởng vật chất, những thú vui chóng qua, không có ý nghĩa thận chí còn là những thú vui độc hại thì người Kitô hữu được mời gọi tìm kiếm niềm vui thú trong Chúa. Mùa vọng đã bước vào giai đoạn cuối, mọi tâm tình, thái độ sống đức tin đều hướng về ngày Chúa Giêsu ngự đến. Ngài đã đến, đang ở giữa nhân loại, Ngài đến mang niền vui cứu độ, niền vui đích thực và viên mãn. Vậy mỗi người Kitô hữu chúng ta hôm nay đang chạy đi tìm kiếm niềm vui nào, có tìm kiếm niềm vui trong Chúa không?

  1. Niềm vui trong Chúa, niềm vui hoán cải:

Trong Tin mừng, nhiều hạng người chạy đến hỏi ý kiến Gioan: Phải làm gì để được ơn cứu độ có nghĩa là phải làm gì để có được niềm vui đích thực trong Chúa. Tất cả những người đến hỏi Gioan cách này cách khác đều có khao khát được giải thoát khỏi đau khổ trong cuộc đời để thực sự có được hạnh phúc, có được Chúa tức là có được niềm vui sống. Câu trả lời của Gioan dù cho mỗi hạng người có một hành động khác nhau, nhưng tựu trung đều nhắm tới việc hoán cải. Hơn nữa, theo Luca câu hỏi được đặt ra bày tỏ lòng thống hối của những người hỏi. Để tìm được niềm vui trong Chúa thì điều căn bản là phải tin tưởng gắn bó cuộc đời với Chúa, phải thực lòng yêu mến Ngài. Chính niềm tin và tình yêu dành cho Thiên Chúa thúc đẩy người ta hoán cải quay trở về với Ngài. Theo Gioan Tẩy Giả hoán cải không làm gì khác ngoài những việc mỗi người vẫn đang phải làm, trách nhiệm mỗi người vẫn đang phải gánh vác. Ông nói mọi người hãy quay trở lại với công việc của mình, với nhiệm vụ của mình. Vấn đề không phải là thống hối thì phải làm những việc gì mà chính là cách thế thực thi công việc và bổn phận của mình. Thiên Chúa không đòi hỏi mọi người phải từ bỏ nghề nghiệp, từ bỏ thế gian nhưng đòi hỏi phải thi hành đúng theo tinh thần Phúc âm nghĩa là thực thi trong công bình và bác ái; chú ý đến người khác và quên mình. Tin tưởng và sống đúng những giá trị của Tin mừng giúp cho mỗi người tìm được ý nghĩa đích thực của cuộc sống, của nghề nghiệp, của trách nhiệm được trao ban. Cũng nhờ đó làm mọi sự với niềm vui sâu sa nơi Thiên Chúa, cuộc sống trở nên nhẹ nhàng, thanh thoát không còn là nặng nề và khổ nhọc nữa.

 

Đã đi qua hơn nữa chặng đường của mùa vọng, ngày vui Giáng sinh đã gần kề, tâm tình chờ đón ngày vui đã dâng lên trong tâm hồn chúng ta, nhưng con người chúng ta có thực sự được hoán cải hay không hay vẫn còn mải mê quay cuồng với thế sự phù vân? Tâm tình vui mừng của ngày đại lễ có thực sự biến đổi chúng ta nên người công chính chờ đón Chúa đến hay không?

 

  1. Niềm vui trong Chúa, niềm vui trao ban:

Tiên tri Sophônia cũng như Thánh Phaolô kêu gọi mọi người hãy vui mừng lên trong Chúa. Thiên Chúa sẽ cứu độ dân Người, sẽ giải án tuyên công cho dân người. Chính Thiên Chúa sẽ mang lại cho dân Người niềm vui sống, tình yêu và hạnh phúc đích thực. Trong Tin mừng các lời khuyên dạy của Gioan Tẩy giả cũng nhắm đến mục tiêu là sống bác ái, công bằng với người khác nghĩa là sống cho tha nhân, vì tha nhân. Thiên Chúa luôn sống và hết lòng yêu thương dân Người. Người mang lại niềm vui cứu độ cho nhân loại. Nhân loại được mời gọi sống cho nhau và vì nhau, như thế, một khi người Kitô hữu tìm được niềm vui trong Chúa thì niềm vui đó cũng phải được trao ban cho anh chị em chung quanh. Niềm vui nối tiếp niềm vui, chúng ta nhận được từ Thiên Chúa rồi chúng ta lại ban tặng cho anh chị em mình, như thế, niềm vui không đơn giản là một thái độ tình cảm nhưng là cả một cuộc sống, cả một con người, và là cả một mạch chảy của tình yêu được khơi nguồn từ Thiên Chúa và trào tuôn đến muôn người. Niềm vui chia sẻ niềm vui tăng, nỗi đau chia sẻ nỗi đau vơi. Nếu ai cũng biết trao tặng cho nhau nụ cười thì chắc chắn thế giới không có chỗ cho chiến tranh và lòng thù hận; xã hội không có chỗ cho cái xấu, cái ác ngự trị; và nhiều anh chị em không phải quằn quại trong kiếp nghèo khổ, bất hạnh.

 

Mùa vọng là mùa hân hoan chờ đón Chúa đến mang niềm vui cứu độ chứ không phải là mùa chờ đợi trong lo âu thấp thỏm sẽ bị Chúa đến trừng trị, tiêu diệt. Tâm tình hướng đến Giáng sinh, đến ngày Quang lâm là tâm tình hân hoan. Tâm tình đó sẽ chỉ có được và đạt được qua việc sống bác ái với anh chị em. Nhiều anh chị em chung quanh giờ đây đang sống trong tủi nhục của kiếp nghèo, trong đớn đau của bệnh tật, trong nước mắt của đau khổ hô rất cần đến niềm vui chúng ta trao ban. Thật ý nghĩa biết bao, nếu chúng ta chuẩn bị mừng lễ bằng chính việc chia sẻ cuộc sống mang lại một chút niềm vui và hy vọng cho anh chị em ấy.

 

  1. Sám Hối là thay đổi lối sống mở ra trong tình yêu đến với tha nhân:

khi dân chúng hỏi Gioan phải làm gì để tỏ lòng sám hối xứng đáng đón nhận Chúa Cứu Thế, Gioan nhấn mạnh đến việc làm cụ thể: Sống chia sẻ bác ái và công bình. Sám hối đích thực không dừng lại ở tình cảm bên trong, tư tưởng tốt đẹp, tâm tư ăn năn, áy náy về tội lỗi của mình nhưng phải đi tới hành động phù hợp với giáo huấn của Tin Mừng. Tin Mừng mời gọi thực thi ý Chúa, nghĩa là thực thi công bình xã hội, chia sẻ cuộc sống với người khó khăn nghèo đói, liêm chính trong nghề nghiệp. Sám hối là một thái độ đi từ nội tâm ước muốn phải làm gì để đón Chúa đến hành động tích cực thay đổi cuộc sống biết yêu người và đối xử công bình. Không phải là sự thay đổi nghề nghiệp, thay đổi môi trường sống mà chính là thay đổi cách nghĩ, cách thế làm việc. Không phải việc làm khiến chúng ta trở nên môn đệ Đức Kitô mà chính là cách thế chúng ta làm. Chúa Giêsu không đòi mọi người từ bỏ thế gian, từ bỏ công việc mà đi tu (ngoại trừ một số người được gọi trong bậc sống dâng hiến)nhưng đòi thi hành nghề nghiệp theo Tin Mừng là phục vụ anh chị em trong yêu thương và công bằng, chú ý đến người khác và quên mình, chuyên cần làm viêc và vui tính.

 

III. Lời Cầu Chung

* Lời Mở: Anh chị em thân mến, trong tâm tình hân hoan chuẩn bị đại lễ Giang sinh. Chúng ta cùng dâng lên Thiên Chúa những ý nguyện chân thành của chúng ta.

 

  1. Chúng ta cùng cầu nguyện cho Hội Thánh, cách riêng Hội Thánh Việt Nam luôn chu toàn sứ mạng loan báo Tin mừng của mình bằng nỗ lực xây dựng hòa bình và công lý trong xã hội; bằng tất cả tấm lòng trong các công trình bác ái từ thiện và bằng niềm lạc quan vui sống của mọi thành phần trong Hội Thánh.

 

  1. Chúng ta cùng cầu nguyện cho các nhà Lãnh đạo Quốc gia được tràn đầy sự khôn ngoan minh mẫn và lòng nhiệt thành vì quê hương, vì đồng bào để mang lại một đời sống an bình thịnh vượng cho dân nước.

 

  1. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mỗi người trong cộng đoàn chúng ta biết tìm kiếm niềm vui trong Chúa thay cho những niềm vui độc hại, phù phiếm, giả tạo của lối sống thụ hưởng xác thịt và luôn biết cộng tác với nhau, với Hội Thánh mang niềm vui của Chúa đến cho môi trường và mọi người chung quanh.

 

* Kết Nguyện: Lạy Thiên Chúa, Đấng giàu lòng thương xót, chúng con cảm tạ Chúa đã yêu thương giải thoát chúng con khỏi nô lệ cho tội lỗi, ma quỉ và sự chết là nguồn gốc của mọi đau khổ. Xin ban thêm đức tin và ơn Chúa Thánh Thần để chúng con chỉ yêu mến tìm kiếm và đạt được niềm vui trong Chúa. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.

 

28.        Niềm vui trong Chúa

 

Chúa nhật thứ 3 Mùa vọng được gọi là Chúa nhật của niềm vui. Nếu con người luôn sống trong niềm vui, họ sẽ cảm thấy mọi người và mọi vật thật đáng yêu! Bởi đó, thánh Phaolô tông đồ khuyên bảo mọi người hãy vui lên: “Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: vui lên anh em! sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hoà rộng rãi. Chúa đã gần đến!”. Quả thực, người Kitô hữu đích thực phải là người sống trong niềm vui, vì chúng ta đang mang trong mình niềm hy vọng về một tương lai huy hoàng và chắc chắn. Đó chính là hạnh phúc Nước Trời mai sau. Đó là niềm vui được sống kết hiệp với Chúa trong tình yêu vĩnh cửu. Như vậy, ai sống trong chán chường, thất vọng và buông trôi thì người ấy chưa phải là người Kitô hữu đích thực. Vì đó là lối sống của những người không có niềm tin và niềm hy vọng.

 

Lời Chúa trong những Chúa Nhật Mùa vọng phát hoạ cho chúng ta thấy rất rõ nét hình ảnh của một người sống niềm niềm vui và niềm hy vọng đích thực.

– Đó là người luôn biết hoán cải tâm hồn bằng đời sống tỉnh thức và cầu nguyện: ý thức mình là người tội lỗi nên luôn nép mình bên Chúa, chiến đấu trong sức mạnh của Chúa. Không liều lĩnh làm quen và tiếp cận với những dịp tội vì biết thân phận mình yếu đuối, dễ sa ngã phạm tội. Có nhiều người lý luận nghe ngon lành lắm: con đi uống bia ôm cho vui vậy thôi chứ có ôm ai đâu! Con chơi đánh bài để giải trí vậy thôi chứ có sát phạt gì đâu! Con coi phim sex cho biết vậy thôi chứ có bao giờ làm chuyện ấy đâu! Có chắc vậy không? Đừng tưởng mình là mình đồng da sắt nên miễm nhiễm với mọi thú vui bất chính trong cuộc đời này! Thái độ khôn ngoan vẫn là biết giữ mình tránh xa các dịp tội. Khôn ngoan là biết mình, là không liều lĩnh hoặc nghĩ rằng: “có vào hang mới bắt được cọp”. Ma quỷ luôn giăng mắc mưu kế đầy tràn xung quanh chúng ta.

 

– Người sống niềm hy vọng đích thực là người cảnh tỉnh mình luôn luôn để khỏi chè chén say sưa và ham hố sự đời. Con người hôm nay sống trong một thế giới văn minh và đề cao vật chất, nên chúng ta dễ dàng bị cuốn hút vào vòng xoáy ham thích hưởng thụ. Hưởng thụ càng nhiều càng tốt. Vì thế, họ lao mình vào những cuộc vui không bờ bến như những con thiêu thân tội nghiệp!

 

– Người sống niềm hy vọng sống động nhất là người biết sống chia sẻ: Thánh Gioan Tẩy giả khuyên người ta rằng: ” Ai có hai áo thì chia cho người không có, có gì ăn cũng hãy làm như vậy”. Đây là việc làm cụ thể, việc làm của tình yêu. Nó thể hiện tinh thần: “lá lành đùm lá rách”, hoặc “Một miếng khi đói bằng một gói khi no”. Nó rất thực tế và thắm tình thương của con người từ ngàn xưa đến nay. Nói đến đây, tôi không thể nào quên câu chuyện mà Mẹ Têrêsa Calculta đã kể lại như sau: Khi Mẹ đến cứu trợ cho một ngôi làng nghèo lắm ở Ấn độ. Mẹ Têrêsa gặp một bà mẹ có 5 đứa con mà đứa nào cũng gầy còm, đen đúa, xấu xí vì thiếu ăn. Mẹ cho ta bà ta một bao gạo 50 kilô. Điều lạ lùng là liền sau khi nhận bao gạo từ tay Mẹ Têrêsa, thì người phụ nữ này vội vàng sớt bao gạo ra làm hai, rồi nhanh chóng ôm nửa bao gạo ấy đi nhanh đến cái chòi gần đó để chia cho một người chị em của mình. Khi trở lại, Mẹ Têrêsa hỏi bà: “Sao chị không để dành gạo ăn mà đem đi đâu vậy?” Chị liền nói: “Thưa Mẹ, người đàn bà ấy cũng có 5 người con như con vậy mà mấy ngày nay họ không có gì để ăn cả”. Mẹ Têrêsa nghe những lời nói ấy thì quá xúc động. Mẹ liền cho bà ấy một bao gạo khác. Mẹ Têrêsa nhớ mãi hình ảnh đẹp ấy trong cuộc đời của Mẹ và thường kể lại câu chuyện cảm động ấy cho những người khác nghe. Đó là thái độ anh hùng vì người ta dám chia sẻ ngay trong sự thiếu thốn của mình. Phải chăng, đó là hình ảnh của những con người đang sống niềm hy vọng mà Thánh Gioan Tẩy Giả hôm nay kêu mời mọi người đi vào lối sống ấy.

 

– Sống niềm vui và niềm hy vọng đích thực còn là sống tử tế với mọi người cùng với việc sống đức công bằng với mọi người trong tình huynh đệ anh em. Thánh Gioan tẩy giả đã chỉ thị cho những người thu thuế và binh lính rằng: “đừng đòi hỏi quá mức ấn định, đừng ức hiếp ai”. Bởi lẽ, khi mình có quyền cao chức trọng, con người rất dễ dùng uy thế của mình để hà hiếp kẻ dưới tay mình. Đó là tinh thần của thế gian. Còn những người con cái Chúa luôn được dạy bảo rằng: “Hãy dùng quyền bính của mình để phục vụ người khác.” Chúa Giêsu đã nêu gương sáng tuyệt vời cho chúng ta về đời sống yêu thương và phục vụ ấy.

 

Như vậy, khi con người biết sống theo những giá trị của Tin mừng thì họ trở thành những con người sống trong niềm vui của Chúa. Và bất cứ ai đã mang trong mình niềm vui của Chúa rồi thì họ sẽ sống hiền hoà và bình an vô cùng dẫu cho cuộc đời có phủ phàng đối với họ, có gán ghép cho họ những điều xấu xa tồi tệ cách nào đi chăng nữa.

 

Có một câu chuyện kể như sau: Hakuin nổi tiếng là một vị thiền sư trong sạch, thánh thiện. Gần chùa Hakuin trụ trì có một cô gái rất xinh đẹp. Thế rồi bất ngờ, cha mẹ phát hiện ra cô có thai. Tra hỏi mãi, sau bao nhiêu dằn vặt, đau đớn, cô gái thú nhận đang mang trong mình giọt máu của Hakuin. Ngay lập tức, cha mẹ cô đến gặp nhà sư và trút lên người vị thiền sư mọi nỗi phẫn uất, tức giận của họ. Hakuin điềm đạm, bình tĩnh chỉ thốt lên hai tiếng “Thế à!?” và với gương mặt bừng sáng, vị thiền sư dang hai tay đón sinh linh bé nhỏ. Đứa bé lớn lên mạnh khoẻ trong vòng tay ấm áp của Hakuin. Một năm trời trôi qua, cô gái không chịu đựng được sự cắn rứt lương tâm của mình, đành nói ra sự thật về quan hệ của mình với anh chàng bán cá ngoài chợ. Cha mẹ cô vội vàng đến chùa xin lỗi vị thiền sư và xin phép được nhận lại đứa bé về cho bố mẹ nó nuôi. Vẫn gương mặt bình thản, điềm tĩnh, Hakuin thốt lên vẻn vẹn hai tiếng: “Thế à!?

 

Câu chuyện cho chúng ta thấy rằng: trong hoàn cảnh bị tước đoạt hết danh dự, phẩm giá, Hakuin không hề buồn, không giải thích, phân trần, chỉ có im lặng, sự im lặng đáng giá ngàn vàng và tình yêu thương con người vô bờ bến đã minh chứng cho tất cả. Cách ứng xử của Hakuin biểu lộ thái độ của một con người sống có niềm hy vọng và có niềm tin vào một hạnh phúc lớn hơn và trỗi vượt hơn.

 

Chúng ta cũng hãy chứng tỏ niềm vui trong Chúa, niềm tin và hy vọng của mình qua cuộc sống hiền hoà và nhân ái trong cách đối xử với mọi người để xứng đáng trở thành những người môn đệ của Chúa Kitô nơi trần thế này. Amen.

 

29.        Hãy vui lên

(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)

 

Tin mừng Lc 3: 10-18 Chúa Nhật hôm nay được gọi là Chúa Nhật Mầu Hồng vì ca nhập lễ bắt đầu bằng lời kêu gọi “hãy vui lên”. Lời kêu gọi “hãy vui lên” được lặp đi lặp lại trong các bài đọc.

 

Chúa Nhật hôm nay được gọi là Chúa Nhật Mầu Hồng vì ca nhập lễ bắt đầu bằng lời kêu gọi “hãy vui lên”. Lời kêu gọi “hãy vui lên” được lặp đi lặp lại trong các bài đọc. Đây là cơ hội thuận tiện để chúng ta suy nghĩ về niềm vui của đời Kitô hữu, những người được Thiên Chúa cứu độ.

 

Vậy thế nào là niềm vui và niềm vui đó đang ở đâu?

Có câu truyện kể rằng: một vị vua luôn buồn bã, âu sầu, bèn đi ra ngoài thành tìm người có niềm vui. Vua nhìn thấy một người nông dân rất nghèo đang ca hát bèn hỏi: “ngươi có vui không?” Bác nông dân đáp: “đương nhiên là vui rồi”. Nhà vua có chút khó hiểu: “ngươi nghèo như thế mà cũng có niềm vui sao?” Bác nông dân nói tiếp: “tôi cũng từng vì không có giày mang mà buồn khổ, nhưng sau khi gặp được một người không có chân, tôi mới nhận ra mình còn may mắn, hạnh phúc hơn người ấy nhiều”.

 

Câu chuyện ngắn gọn nhưng đã cho chúng ta một bài học vô cùng quan trọng, đó chính là: cuộc sống vui hay buồn là do cách cảm nhận của mỗi người. Niềm vui không thần bí, niềm vui không xa xôi, nó ở ngay bên cạnh chúng ta. Đó là niềm vui trong đời thường, còn niềm vui của người Kitô hữu thì thế nào? Chúng ta chỉ có được một niềm vui thực sự khi tâm hồn chúng ta được chuẩn bị sẵn sàng cho Chúa ngự đến. Vậy chúng ta phải làm gì? Thánh Gioan đã trả lời cho chúng ta trong bài Tin Mừng hôm nay.

– Đối với quần chúng: hãy biết chia sẻ cho người khác.

– Đối với người thu thuế: hãy thực thi đức công bằng.

– Đối với quân nhân: đừng hà hiếp dân chúng.

 

Gioan Tẩy Giả đề nghị mỗi người hãy trở về với nghề nghiệp hiện tại, với nhiệm vụ của mình, không cần thay đổi nghề nghiệp mà chỉ cần thay đổi lối sống cho lương thiện. Không phải việc ta làm khiến ta trở thành môn đệ hoặc không phải là môn đệ của Chúa Giêsu, nhưng là cách thế chúng ta làm. Chúa Giêsu không đòi chúng ta bỏ nghề nghiệp, bỏ thế gian để đi tu. Người đòi chúng ta phải thi hành nghề nghiệp theo tinh thần Phúc Âm: nghĩa là phục vụ anh em trong yêu thương, công bằng, quên mình, biết quan tâm đến kẻ khác.

 

  • “Chúng tôi phải làm gì?” “đám đông” hỏi Gioan, đám đông vô danh ấy chẳng bao lâu nữa sẽ nô nức đến với Đức Giêsu để nghe lời Người (Lc 5, 1; 5, 15; 6,19). Gioan kêu mời họ hãy sống yêu thương giữa đời thường, coi nhau như anh em và chia cơm sẻ áo cho nhau: “ai có hai áo thì chia cho người không có; ai có gì ăn thì cũng làm như vậy”.
  • “Thưa Thầy, chúng tôi phải làm gì?” Với những người Pharisêu, là những người thu thuế cho đế quốc Rôma; họ bị mang tiếng là bất lương, bị người Do Thái khinh bỉ, và bị liệt hạng người tội lỗi công khai, Gioan cũng không yêu cầu họ phải bỏ nghề nghiệp, nhưng hãy hành nghề một cách lương thiện: “đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định cho mình”.
  • “Còn anh em chúng tôi thì phải làm gì?” đó là câu hỏi của “những quân nhân”, những người lính đánh thuê cho Hêrôđê, hoặc là thành viên của đội quân chiếm đóng Rôma, họ cũng là hạng người bị dân chúng khinh miệt. Gioan cũng không yêu cầu họ phải rời bỏ hàng ngũ, phải thay đổi nghề nghiệp, nhưng hãy thay đổi cách hành nghề. Ông bảo họ: “chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta, hãy an phận với số lương của mình”.
  • Còn chúng ta thì sao? Chúng ta phải làm gì? Gioan Tẩy Giả đã đưa ra những chỉ dẫn cụ thể cho những người hỏi ông: chúng tôi phải làm gì?” – “Ai có hai áo thì hãy chia cho người không có. Ai có cái ăn thì cũng làm như vậy” – “Đừng đòi hỏi quá mức ấn định” – “Chớ dùng vũ lực, cũng đừng vu khống mà tống tiền người ta. Hãy an phận với số lương của mình”. Nói chung, Gioan cũng đưa ra những hướng đi cụ thể cho mỗi người chúng ta: bác ái, chia sẻ, chấp nhận thực tại, sống hiền hoà, công bình, chính trực trong các mối tương quan xã hội. Sống như vậy là chuẩn bị đón nhận Đấng Cứu Thế, là đặt mình vào trong hàng ngũ những kẻ bé mọn của Thiên Chúa. Chính những người bé mọn này mới cảm thấy vui mừng và hy vọng, vì nhận ra Chúa sắp đến, đang đến… Người sẽ thay đổi tất cả, đổi mới toàn thế giới và xã hội.

 

Chính vì thế mà trong Mùa Vọng, Chúa Nhật Thứ Ba bao giờ cũng gợi lên niềm vui, niềm hân hoan: “anh em hãy vui lên!” Hãy hoan hỉ vui mừng vì Chúa đến giải thoát chúng ta, Chúa đến ở với chúng ta. Người đang thực hiện một cuộc đổi mới toàn diện, đang quy tụ muôn nước thành một Dân của Chúa, những công dân của Nước Trời. Không phải bằng vũ lực, nhưng bằng sự giải thoát con người khỏi tội lỗi, ích kỷ và bất công; bằng cách sống liên đới yêu thương, chia cơm sẻ áo; bằng cách sống công bình, chính trực và chan hoà với mọi người. Sự hiện diện của Thiên Chúa chính là nguyên nhân đưa đến niềm vui cho chúng ta như ngôn sứ Isaia đã nói:“anh em hãy vui lên”, vì “Thiên Chúa đang ở giữa anh em”. Amen.

 

30.        Chúa Nhật 3 Mùa Vọng

(Trích trong ‘Suy Niệm Lời Chúa’ – Radio Veritas Asia)

 

HÃY CANH TÂN CUỘC SỐNG CỦA MÌNH

ĐỂ ĐƯỢC NIỀM VUI VÀ VUI THẬT.

 

Linh mục Antony de Mello Dòng Tên đã kể lại câu chuyện sau đây về một nhà tu Ấn Độ nổi tiếng. Vị tu sĩ đáng kính này đã nhận định về cuộc đời của mình như sau: “Khi còn trẻ, tôi là một con người hăng say cách mạng và lời cầu nguyện của tôi lúc đó dâng lên Thiên Chúa là: “Lạy Chúa, xin ban cho con sức mạnh để thay đổi trọn cả thế giới này”. Nhưng rồi khi tôi sống đến nửa đời người, tôi ý thức là mình chưa thay đổi được ai cả, tôi ít tự phụ hơn và cầu nguyện cùng Chúa như sau: “Lạy Chúa, xin ban cho con một ơn này mà thôi, là có thể thay đổi được những ai mà con gặp hằng ngày, những người thân trong gia đình, những bạn bè. Chỉ được như thế thôi thì con cũng mãn nguyện lắm rồi”. Nhưng giờ đây đến lúc già, tháng ngày đời tôi sắp tàn, tôi ý thức mình đã tự phụ và điên rồ, tôi chỉ còn cầu nguyện như sau: “Lạy Chúa, xin ban cho con ơn thay đổi chính bản thân con”. Nếu tôi đã sống và cầu nguyện như thế ngay từ đầu cuộc đời của tôi, thì tôi đã không uổng phí cuộc sống của mình”.

 

Lời tự thú trên đây của nhà tu hành người Ấn Độ nhắc chúng ta một điều căn bản là, hãy thay đổi chính bản thân của mình trước để có thể giúp anh chị em mình, xã hội mình thay đổi sau đó. Truyền thống đạo đức từ ngàn xưa còn nhắc mỗi người chúng ta hãy “tu thân, tề gia” rồi mới mong “trị quốc, bình thiên hạ”. Tất cả đều bắt đầu với cuộc nhỏ. Đó là tu thân, là thay đổi chính cuộc sống của mình theo tinh thần Tin Mừng của Chúa. Đây là một điều rất khó.

 

Các bài đọc hôm nay dường như muốn nhắc chúng ta điều này. Bài Phúc Âm theo thánh Luca ghi lại lời mời gọi ăn năn hối cải mà Gioan Tẩy Giả công bố cho tất cả mọi người. Nhưng trước khi công bố lời mời gọi ăn năn hối cải đó, Gioan đã sống thật trong cuộc đời của mình, điều mà ngài truyền dạy cho kẻ khác, đến xin ngài hướng dẫn: “Thưa Ngài chúng tôi phải làm gì?” Gioan đã lên tiếng kêu gọi: thực thi tình liên đới bác ái, thực thi công bằng, từ bỏ bạo lực, sống tôn trọng trật tự, sống hòa bình. Chỉ khi nào con ngươì và nhất là đồ đệ của Chúa Kitô thực hiện thật sự một cuộc trở lại của chính con người của mình, thì lúc đó, con người mới hưởng được niềm vui của Chúa, mới có thể sống an vui theo như lời mời gọi của tiên tri Sôphônia mà chúng ta đọc qua trong bài đọc thứ nhất của thánh lễ hôm nay, và lời mời gọi của thánh Phaolô tông đồ nơi bài đọc thứ hai: “Anh em thân mến! Hãy vui luôn trong Chúa”. Làm sao chúng ta có thể sống an vui được khi tâm hồn chúng ta chưa thật lòng trở lại cùng Chúa, chưa dứt khoát chừa được những tội lỗi, chưa bỏ đi được những tâm tình tiêu cực, ghen tương, hận thù đố với anh em xung quanh.

 

Trong tập sách “Bước qua ngưỡng cửa hy vọng”, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã có những suy tư sau đây về niềm vui của đức tin Kitô. Chúng ta có thể chia sẻ lại những suy tư của Đức Thánh Cha như sau: “Tin Mừng có nghĩa là tin mang đến niềm vui mừng và Tin Mừng luôn là một lời mời gọi con người sống vui tươi. Tin Mừng là một lời xác nhận cao cả cho giá trị của thế giới và giá trị của con người. Bởi vì Tin Mừng là chính sự mạc khải sự thật về Thiên Chúa. Thiên Chúa là nguồn mạch nguyên thủy của niềm vui và hy vọng cho con người. Tin Mừng trước hết là niềm vui của công cuộc sáng tạo. Thiên Chúa khi tạo dựng đã nhìn thấy tạo vật Ngài đều tốt đẹp. Ngài là nguồn mạch của niềm vui cho mọi tạo vật và trước hết cho toàn thể nhân loại. Ngài nói với mọi tạo vật như sau: Sự hiện hữu của con là điều tốt đẹp. Và niềm vui của Thiên Chúa được phổ biến ra nhất là qua Tin Mừng. Theo đó, điều tốt lành luôn luôn cao cả hơn mọi điều xấu trong thế giới này. Thật vậy, sự xấu không phải là điều căn bản và không có tính cách quyết định vĩnh viễn. Đây là điểm phân biệt rõ ràng đạo Kitô ra khỏi mọi hình thức của thuyết bi quan hiện sinh, ra khỏi mọi hình thức nhận định bi quan về cuộc sống con người. Thiên Chúa là nguồn mạch của niềm vui và hy vọng cho con người”.

 

Chúng ta hãy đến với Thiên Chúa, hãy đến gần Thiên Chúa hơn, hãy canh tân cuộc sống của mình để được niềm vui và vui thật.

 

Lạy Chúa, nếu chúng con không đủ can đảm để đến với Chúa, thì xin Chúa thương hãy đến với chúng con. Hãy đến chứng tỏ tình yêu thương của Chúa và tha thứ mọi tội lỗi chúng con đã phạm. Xin hãy tẩy sách tâm hồn chúng con khỏi những tâm tình oán hờn, ghen tương, hận thù, để chúng con thật sự sống trong ân sủng của Chúa, thật sự sống trong niềm vui và hưởng được niềm vui vì được Chúa thương ngự đến.

 

31.        Thay đổi trong vui mừng

 

Theo cái nhìn bình thường khi có được niềm vui và phấn khởi trong lòng người ta dễ thay đổi. Phần nhiều người ta thay đổi từ những điều xấu sang những điều tốt hơn. Có khi người ta thay đổi hoàn toàn. Chúng ta nhớ trường hợp ông Dakêu đã thay đổi như thế nào. Từ một con người keo kiệt chỉ biết thu gom cho chính mình ông đã thay đổi trở thành một con người quảng đại biết mở ra cho hết mọi người: “Thưa Ngài, đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn.” (Lc 19, 8b). Sở dĩ ông thay đổi như thế vì ông đã được một niềm vui hết sức to lớn. Ông chỉ dám trông mong được thấy mặt Chúa Giêsu nhưng Người đã ban cho ông quá niềm mong ước. Người đã đến cư ngụ và dùng bữa nơi căn nhà của ông.

Hôm nay, cùng với Giáo hội chúng ta bước vào Chúa nhật thứ ba Mùa vọng. Ðây là ngày Chúa nhật của sự vui mừng. Vui mừng vì Ðấng Cứu Thế Giêsu đã đến và đang ngự giữa chúng ta. Ðoạn Tin Mừng hôm nay cho thấy một số người Do thái chỉ vì Ðấng Cứu Thế sắp đến theo lời rao giảng Thánh Gioan Tẩy Giả thôi mà họ đã hồ hởi xin được thay đổi: “Chúng tôi phải làm gì?” (Lc 3, 10). Ông đã chỉ cho họ cách thay đổi rất cụ thể tùy theo từng hạng người và tùy theo từng nghề nghiệp. Chắc chắn họ sẽ làm theo sự chỉ dẫn của Thánh Gioan để đón nhận Ðấng Cứu Thế đến với mình.

Liên tiếp hai Chúa nhật vừa qua Lời Chúa nhắc nhở chúng ta hãy tỉnh thức và dọn đường để đón Chúa đến. Hôm nay, Lời Chúa một lần nữa tiếp tục mời gọi chúng ta đón Chúa cách khẩn thiết hơn. Thật ra Ðấng Cứu Thế Giêsu đã đến rồi. Hơn nữa, trong từng giây phút Chúa Giêsu đang đến với từng người và từng gia đình chúng ta. Không lẽ bấy nhiêu không đủ để chúng ta vui mừng sao. Nếu thật sự vui mừng chúng ta hãy nhanh chóng đừng chậm mà thay đổi tùy theo hoàn cảnh sống của mình cho thật tốt hơn.

 

32.        Phần thưởng

(Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường)

 

Vua Aman coi tướng Naaman, tổng tư lệnh quân đội, của ông là một nhân tài tuyệt luân. Đánh đâu thắng đó. Dư tài điều binh, khiển tướng có đến ngàn, vạn quân sĩ nhưng ông thất bại trong việc kiểm soát chính con người mình, nhất là chứng bệnh cùi. Ông nghe đồn tiên tri Elisha bên Samaria chữa được bệnh cùi. Naaman và đoàn tuỳ tùng kéo đến xin ra mắt nhà tiên tri. Elisha đã không tiếp chỉ nhắn bảo đến sông Giođan tắm bảy lần sẽ khỏi. Nghe tới đó Naaman nổi giận như sóng cồn. Tự ái bị tổn thương. Tiên tri có thá gì, sao coi thường tể tướng quá thế. Quốc thể ta bị nhục mạ quá lắm. Không lẽ nước sông xứ Israel tốt hơn nước sông xứ chúng ta sao. Đoàn tuỳ tùng tức tối trên đường về. Rất có thể ông tâu vua cho quân dậy cho một bài học. Thiên Chúa không mở mắt ông bằng các nhà luật sĩ nhưng bằng đứa đầy tớ gái. Nó nói với ông. Ngài hẳn vui mừng nếu tiên trì bắt Ngài vượt rừng sâu, trèo núi cao, lặn đáy biển để lành bệnh. Thưa không, tiên tri mong ngài làm điều bình thường, điều nhỏ để hái kết quả vĩ đại, mong Ngài đừng từ chối. Lời con bé khiến ông tướng suy nghĩ. Ông đến tắm nơi tiên tri chỉ bảo. Lần tắm thứ bảy vừa xong, ra khỏi nước da ông mịn màng, mặt ông tươi sáng, miệng ông cười rộ, lòng ông thanh thản, chân ông nhảy, tay ông múa, cổ ngẩng cao ca tụng Thiên Chúa. Đoàn tuỳ tùng trở lại xin lỗi nhà tiên tri và trao quà đáp lễ. Elisha không nhận quà nhưng vui vì tể tướng vui mừng ca tụngThiên Chúa. 2Vua 5,11tt.

 

Chúng ta cũng muốn làm việc vĩ đại để chúc tụng Thiên Chúa. Đây là lối suy nghĩ của vị tể tướng muốn làm việc lớn, trọng đại hơn là làm những việc bé nhỏ tầm thường hàng ngày. Lối suy nghĩ đó không phải là lề lối của Thiên Chúa. Ngài muốn chúng ta trung thành trong công việc nhỏ, việc bình thường. Qua Ngài việc nhỏ đó mang lại thành quả trọng đại. Việc trọng đại là việc của Chúa, không phải của ta. Những ai mong muốn, ước ao làm việc trọng đại thường gây tai hoạ cho mình và cho người khác. Chính những công việc nhỏ mọn có sức mạnh làm thanh thản tâm hồn, làm vơi đi gánh nặng cuộc đời. Những câu đáp ca trong thánh vịnh hôm nay và tiên tri Zapharia đều kêu gọi con gái Sion và con cái thành Jerusalem thực hiện những việc đơn sơ, bé mọn.

 

Mừng vui lên, hãy nhảy mừng ca tụng, tán dương….. hãy ca múa trong niềm hân hoan như ngày hội. Thánh vịnh kêu gọi ca tụng Thiên Chúa và dâng lời ca ngợi. Hãy hát lên bài ca ngợi khen, hãy reo vui.

 

Thánh Phaolô trong thư gởi cho tín hữu thành Philipi 4,4tt nói rõ hơn khi ngài viết: “Tôi kêu gọi anh em hãy vui lên, hãy vui lên trong Chúa”. Vui lên trong Chúa, không phải vui vì niềm vui khác nhưng niềm vui đến từ Chúa. Muốn có niềm vui trong Chúa cần cầu nguyện. Cầu và tạ ơn cho niềm vui được trọn vẹn. Khi làm điều đó tâm hồn thanh thản, tâm trí an bình. Làm sao lời cầu có sức mạnh ban bình an cho tâm hồn? Thánh Phaolô cho biết việc này cao sâu ngoài trí tưởng của loài người.

 

Thánh Gioan Tẩy Giả cũng kêu gọi con người sống đời đơn sơ, chân thành khi họ đến hỏi ngài họ cần làm gì để có bình an tâm hồn. Thánh nhân bảo đừng lạm quyền, sống ngay thẳng và bằng lòng, vui với những gì đang có. Thánh nhân cho biết không thể tìm thấy Tin Mừng trong một tâm hồn buồn đau, thảm sầu. Tin Mừng nếu không đem lại niềm vui thì sao gọi là tin vui, Tin Mừng.

 

Cầu nguyện trở thành gánh nặng, chán nản khi giờ cầu thiếu sức mạnh của niềm vui. Niềm vui biến mất khi tâm hồn mất đơn sơ, khi tâm hồn đi tìm lí luận giải thích thoả đáng mầu nhiệm trong đạo. Thánh Phaolô cho biết mầu nhiệm trong đạo vượt quá trí hiểu loài người. Hãy cẩn thận, một tâm hồn tìm lí luận giải thích mầu nhiệm sẽ rơi vào trường hợp hoặc là chấp nhận giới hạn của con người để tin vào Thiên Chúa hai là chối bỏ một thực thể rõ ràng là sự thật về đức tin. Thiên Chúa chúng ta tin thờ là một Thiên Chúa huyền bí, mầu nhiệm cao cả, vượt quá trí hiểu. Tình yêu Ngài dành cho nhân loại cũng cao siêu mầu nhiệm. Niềm tin mà không có mầu nhiệm kèm theo thì niềm tin đó quá đơn giản, không đáng tin. Tể tướng Naaman từ bỏ tính kiêu căng để chấp nhận mầu nhiệm Thiên Chúa. Nhờ khiêm nhường ông tìm gặp Thiên Chúa nhiệm mầu và ông vui mừng dâng lời ca tụng.

 

33.        Bông lúa cờ

(Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường)

 

Nhà nông chuyên nghiệp liếc qua biết ngay là bông lúa cờ, không ích lợi gì cho mùa gặt. Gọi là bông lúa cờ vì là bông lúa cao hơn những bông khác và phất phới trước gió khi có làn gió nhẹ phớt qua. Câu văn trên có nhiều chữ bông nói lên cái ruột nhẹ, trống lép của hạt lúa.

 

Khi còn là bụi lúa non cây nó cao lớn hơn những bụi lúa khác, mạnh khoẻ, xanh tươi khác thường. Chủ lúa ít kinh nghiệm vui mừng hy vọng nó cho những bông lúa vàng trĩu hạt. Đến mùa gặt niềm hy vọng tan biến vì bông lúa to lớn khác thường, là bông lúa cờ, phất phới trước gió, sau lớp vỏ kia trống rỗng, không ruột, toàn trấu tốt cho phân gio. Đời nó sẽ là: Thóc mẩy thu vào kho lẫm, thóc lép bỏ vào lửa đốt đi (Lc 3,17).

 

BÔNG LÚA NGẨNG ĐẦU

Bông lúa cờ trọn đời may mắn, hạt rơi vào vùng đất tốt, nhiều nước lắm phân nên đời nó dư ăn, thừa uống trở thành bụi lúa lốp. Hạt lúa to, ruột trống rỗng, không hạt gạo bên trong. Ngoài lớp vỏ trấu chỉ có lớp màng mỏng che cái hạt gạo xẹp lép vừa đủ để thải ra ngoài thành đồ bỏ. Ruột rỗng nên nhẹ nhàng, ngẩng đầu bay trong gió.

 

BÔNG LÚC GỤC ĐẦU

Những bông lúa mẩy nặng hạt nên đầu bông lúa cúi gục xuống nằm sáp rạp lấy nhau tạo nên tấm thảm lúa vàng ươm, niềm vui của nhà nông, thành quả của lao tác, hoa trái màu mỡ của đất trời nuôi sống con người. Bông lúa gục đầu vì các hạt lúa mẩy căng tròn, hạt gạo bên trong trắng mượt và chất cám thơm ngạt ngào. Khi nấu chín cho thơm mùi cơm mới.

SỐNG THỜI ANH CHỊ

Bông lúa cờ cho hạt lép vì dành hết chất bổ nuôi lá óng ả, mượt dài, thiếu dinh dưỡng nuôi hạt. Người chú trọng vẻ đẹp bên ngoài sẽ bê bối bên trong- chè chén cho ngon, diện cho đẹp, bất kể cách kiếm tiền. Tiền chém giết dính máu, tiền gian lận, tiền lời bán xìke- Người trang điểm bằng tiền định giá trị người khác trên căn bản hối xuất đồng tiền. Tiền khơi dậy đam mê trụy lạc.

 

Muốn ăn ngon bắt người nhịn đói. Muốn mặc đẹp ép người khoác giẻ rách. Sao giật của người khoác cho mình, giành của người nuôi thân mình. Nói xấu người nói tốt cho mình. Tật xấu làm chủ con người, mùa thu hoạch sẽ gặt bông lúa cờ.

 

Bông lúa cờ lép vì nó cao hơn các lúa bạn, phấn hoa bay không tới. Sống trên cao ngó xuống, hưởng trăng thanh, gió mát, mưa sa. Sống đè đầu cỡi cổ kẻ khác, thích đời sống trăng hoa cuối đời kết quả xẹp lép, bông trái phúc đức bên trong không nhân, nhân lép bao bọc bởi lớp vỏ cám. Đời không nhân đức là đời bất hạnh vì nhân đức làm nên con người thiện tâm. Bình an dưới thế cho người thiện tâm. Không nhân đức sống bất an.

 

Bông lúa cờ lép vì đời nó đưa đẩy theo cánh gió. Lép nên đứng thẳng đầu. Sống đón gió ăn tàn là sống không lí tưởng, không chủ đích rõ ràng. Gió chiều nào ngả chiều đó. Đức tin lay theo chiều gió là đức tin non dại, thiếu trưởng thành, không rễ sâu nên dễ bị chao đảo theo xu thế xã hội. Ngả theo xu hướng nghe bùi tan, ngon ngọt, nịnh hót là chết êm dịu.

 

SÁM HỐI

Điều Gioan đòi hỏi rất thực tiễn, nếu quyết tâm sẽ thực hiện được. Đòi hỏi hợp khả năng, trong quyền hạn mỗi hối nhân. Không cần thay đổi thế giới. Hãy sống như đang sống, làm việc như đang làm chỉ cần làm với lòng mến. Gioan không kêu gọi đổi núi, dời non, hoán chuyển vũ trụ. Gioan mời gọi nhìn vào hiện tại. Đừng nhìn lại quá khứ để hối tiếc; tránh nhìn vào tương lai để lo sợ; hãy nhìn vào hiện tại, công việc đang làm. Đừng nhìn thiên hạ để mơ màng, hãy nhìn vào thực tế đời mình. Với thợ thuyền gioan khuyên: chia cơm ăn, áo mặc cho người không có.

  • Nhóm cầm bút, sổ sách tránh lạm dụng quyền hành trong tay.
  • Nhóm cầm gươm giáo chớ hà hiếp, chiếm đoạt của người và bằng lòng với đồng lương.

 

Theo Gioan sám hối bắt đầu bằng chính mình trong khả năng, quyền hạn. Đừng bắt ai thay đổi nhưng thay đổi chình mình. Đừng sống mơ màng chức tước đám đông gán cho. Nhìn vào chính mình để biết khả năng, chức vụ và giới hạn của mình. Đừng sống điều anh em ban tặng nhưng sống chân thật với chính mình, đó là con đường hoàn thiện và là đường chân lí. Nếu không thành thật với chính mình thì không thể thành thật với người.

 

34.        Tôi phải làm gì?

(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng OP)

 

Sau khi giới thiệu và giải thích sứ mạng của thánh Gio-an Tẩy Giả, thánh Lu-ca, qua bài Tin Mừng hôm nay, cho chúng ta biết một vài nét về nội dung rao giảng của thánh Gio-an. Chủ điểm lời rao giảng của ngài là loan báo một cuộc can thiệp của Thiên Chúa để phán xét dân Ngài. Muốn khỏi bị trừng phạt trong ngày phán xét ấy, phải sám hối, phải thay đổi cuộc sống. Dân chúng nghe ngài giảng liền hỏi ngài cho biết họ phải làm gì để cụ thể hóa lòng sám hối? Thánh Gio-an đã chỉ dẫn cụ thể việc phải làm và cách phải sống cho từng giới, từng loại người. Thán phục lời ngài giảng, dân chúng thắc mắc về ngài: phải chăng ông chính là Đấng Mê-si-a? Thánh Gio-an trả lời bằng cách so sánh sứ mạng của ngài với sứ mạng của Đấng Mê-si-a.

 

Trước hết, chúng ta thấy mọi người đều đến gặp thánh Gio-an và hỏi ngài: “Thưa ngài, chúng tôi phải làm gì?”. Đây là một câu hỏi khởi đầu mỗi khi gặp một câu chuyện quan trọng hay một biến cố đặc biệt nào. Kinh Thánh cho biết: người thanh niên giàu có và người thông luật cũng đến hỏi Chúa Giêsu: “Tôi phải làm gì để được sống đời đời?”. Ông Ni-cô-đê-mô, sau khi nghe Chúa Giêsu nói về sự “tái sinh” bởi nước và Thánh Thần, ông thấy khó hiểu và tự hỏi: “Tôi phải làm gì, không lẽ già cả như tôi lại chui vào lòng mẹ mà sinh lại?”. Khi bị quật ngã trên đường đi Đa-mát, thánh Phao-lô cũng đã hỏi Chúa một câu tương tự: “Thưa Ngài, tôi phải làm gì?”. Thánh Phê-rô, theo truyền khẩu qua phim “Cua va-đít” (Quo Vadis) vào lúc cuối đời, ra khỏi thành Giê-ru-sa-lem, được Chúa hiện ra hỏi: “Con đi đâu vậy?”. Ngài cũng hỏi lại Chúa: “Tôi phải làm gì bây giờ?”.

 

Vì thế, chúng ta không lạ gì khi dân chúng đến với thánh Gio-an và hỏi ngài: “Chúng tôi phải làm gì?”. Ngài đã trả lời cho mỗi loại người tùy theo hoàn cảnh và đời sống hiện tại của họ. Với đa số dân chúng, ngài khuyên họ chia cơm xẻ áo cho nhau. Với giới thu thuế, là giới thường lợi dụng nghề nghiệp để bóc lột đồng bào, ngài khuyên họ bỏ thái độ bóc lột ấy và làm đúng nhiệm vụ. Với giới binh lính, ngài khuyên họ đừng tàn bạo, đừng ức hiếp người khác, nhưng sống bằng đồng lương của mình.

 

Chúng ta thấy thánh Gio-an không bảo họ phải lên rừng, vào hoang địa đi tu như ngài. Không bảo người ta phải sống khắc khổ, ăn châu chấu, mật ông rừng, mặc áo nhặm da thú như ngài. Nhưng với đại đa số dân chúng, ngài chỉ bảo họ sống yêu thương, hãy thực thi bác ái. Bác ái là bằng chứng của giới luật yêu thương. Tình yêu thương được nhận diện qua hành động, tức là yêu thương bằng việc làm, cũng như đức tin không việc làm là đức tin chết hay không có đức tin. Yêu thương không có việc làm là tình yêu chết hay không có tình yêu thương.

 

Còn đối với những người đang làm công việc bổn phận, thánh Gio-an không đòi họ phải bỏ nghề nghiệp, cứ hành nghề như thường, nhưng phải sống đúng tinh thần nghề nghiệp, lương tâm chức nghiệp, tránh tham lam vô lối, hãy sống công bằng với nhau và với mọi người.

 

Nhìn chung những lời khuyên này chúng ta thấy xoay quanh vấn đề công bằng xã hội và thực thi bác ái chi sẻ cho nhau. Thái độ khư khư giữ của gây nên chênh lệch trầm trọng giữa người với người, phải được thay thế bằng thái độ chia sẻ để mọi người được sống xứng phẩm giá con người, không còn cảnh người đói khổ sống bên cạnh người thừa thải xa hoa. Tóm lại, thánh Gio-an kêu gọi mọi người sống với nhau thành một cộng đồng công bình và bác ái huynh đệ, không còn ai bị bóc lột nhưng mỗi người đều sống cho mọi người, và mọi người sống cho mỗi người: “Mình vì mọi người, mọi người vì mình”.

 

Vấn đề thứ hai, thánh Gio-an Tiền Hô và Đấng Mê-si-a. Dân Do Thái đang trông mong chờ đợi Đấng Mê-si-a, nên khi nghe những lời giảng dạy quá hay của thánh Gio-an, họ tự đặt câu hỏi: phải chăng ông này là Đấng Mê-si-a? Ngài đã giải tỏa nỗi thắc mắc ấy bằng cách đối chiếu sứ mạng của ngài với sứ mạng của Đấng Mê-si-a. Ngài làm phép rửa bằng nước, còn Đấng Mê-si-a làm phép rửa bằng Thánh Thần và lửa. Bản thân ngài chỉ là đầy tớ của Đấng Mê-si-a, không đáng xách dép hay cởi giày cho Đấng Mê-si-a. Chính Đấng ấy mới có quyền phán xét mọi người. Như vậy, sứ mạng của thánh Gio-an chỉ là người tiền hô đi trước dọn đường cho Đấng Mê-si-a. Chính Chúa mới là Đấng Mê-si-a. Người đang tới và sắp tới.

 

Tóm lại, muốn đón Chúa đến, cách tốt nhất thánh Gio-an đề nghị là hãy sống yêu thương và công bằng. Đó là những hoa trái biểu lộ đích thực lòng thống hối. Đó cũng là những giáo huấn chuẩn bị cho những đòi hỏi quyết liệt hơn của Chúa Giêsu sau này. Chúa đòi hỏi chúng ta phải ra sức làm việc phục vụ anh em trong yêu thương, trong công bằng bác ái, chú ý đến kẻ khác và quên mình, chuyên cần làm việc trong niềm vui. Tóm lại, chúng ta hãy sống chan hòa tình yêu thương với nhau, không phải chỉ trong dịp lễ Giáng Sinh mà trong suốt cuộc đời.

 

35.        Chúa Nhật 3 Mùa Vọng

(Suy Niệm Lời Chúa của Radio Veritas Asia)

 

NIỀM VUI LÀM CHO CON NGƯỜI TƯƠI TRẺ LÂU GIÀ VÀ SỐNG LÂU HƠN

 

Trong bầu khí chuẩn bị mừng lễ Giáng sinh, Lời Chúa hôm nay kêu mời chúng ta sống trong niềm vui. Ngay từ ca nhập lễ, Giáo Hội dùng lời thánh Phaolô tông đồ kêu gọi tín hữu thành Philipphê để nhắc nhở tất cả: “Anh em hãy vui lên trong Chúa, tôi nhắc lại một lần nữa, anh em hãy vui lên vì Chúa đã gần đến”. Và khởi đầu bài đọc thứ nhất trích từ sách tiên tri Sôphônia, chúng ta nghe những lời đầy khích lệ: “Hỡi thiếu nữ hãy cất tiếng ca. Hỡi Israel hãy hân hoan. Hỡi thiếu nữ Giêrusalem hãy hân hoan và hãy nhảy mừng hết tâm hồn”. Rồi đến câu đáp ca cũng kêu gọi: “Hãy nhảy mừng và ca ngợi vì ở giữa ngươi có Đấng thánh của Israel thật cao cả”. Như thế Giáo Hội muốn chúng ta đón Chúa Cứu Thế với một tâm hồn thật vui vẻ. Niềm vui rất cần cho đời sống con người, ai cũng mong cho đời sống mình được luôn vui tươi.

 

Trong những cánh thiệp chúc mừng dịp lễ tết, người ta đều chúc nhau vui tươi hạnh phúc. Khoa tâm lý ngày nay còn chứng minh niềm vui làm cho con người tươi trẻ lâu già và sống lâu hơn. Và trên thực tế, con người cố tạo được nhiều cuộc vui chừng nào tốt chừng nấy và mỗi cuộc vui càng kéo dài càng hay. Nhưng phải là những niềm vui nào? Vì có những niềm vui mà sau đó con người cảm thấy trống rỗng buồn sầu và chán nản. Có những niềm vui mà sau đó con người mệt mỏi và thất vọng. Có những niềm vui mà sau đó con người lo âu hối hận. Vậy niềm vui mà Giáo Hội cầu chúc và mong muốn con cái mình đạt được đây phải là niềm vui thật. Niềm vui lâng lâng của Mùa Giáng sinh, khi thấy những trang hoàng rực rỡ với đèn màu, với ngôi sao hang đá máng cỏ, khi nghe những bản thánh ca du dương dịu vợi, khi nhận cánh thiệp với những lời cầu chúc êm đềm từ những người thân yêu. Tất cả vẫn luôn là niềm vui chính đáng. Nhưng chưa phải là niềm vui thật. Vì lễ Giáng sinh sẽ qua đi, mọi trang hoàng sẽ được dẹp lại, mọi người đều trở về với cuộc sống hằng ngày. Niềm vui thật phải là niềm vui phát xuất từ bên trong của con người. Đi tìm nguồn vui bên ngoài mà thôi chỉ là một sự chạy trốn thực tại trong tâm hồn và thường thì không bao giờ đạt được kết quả vì “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Niềm vui chân chính phải bắt nguồn từ một trạng thái của tâm hồn và đặt nền tảng trên sự bình an. Đó là niềm vui đã làm cho thánh Phanxicô trong cảnh nghèo khó tự nguyện hòa tâm hồn mình cùng vạn vật ca hát chúc tụng Thiên Chúa. Đó là niềm vui mà thánh Têrêxa Hài Đồng đã nói: “Niềm vui mằm trong cuộc sống con người và con người có thể đạt được nó bất cứ lúc nào và ở đâu, ngay cả trong lâu đài tráng lệ của hoàng cung hay trong chốn thâm u của ngục tù”.

 

Làm thế nào để đạt được niềm vui đó? Trong bài Phúc Âm, thánh Luca ghi lại: Gioan Tiền Hô, người hô hào: “Hãy sửa đường cho Chúa bằng phẳng và ngay thẳng”, đã trả lời câu hỏi cho từng lớp người đến hỏi ông. Dân chúng hỏi ông: “Chúng tôi phải làm gì?” Gioan đã trả lời: Hãy sống yêu thương và bác ái. Biết nghĩ đến người khác, biết chia sẻ với những người kém may mắn hơn mình, đừng lợi dụng địa vị, quyền hành hà hiếp người khác. Nói tóm lại, vì Chúa quên mình phục vụ anh chị em và chu toàn bổn phận hằng ngày của mình, đó là đường dẫn đến niềm vui thật sự.

 

Mảnh đất tốt cho niềm vui thật phát triển là tình thương yêu nhau giữa con người. Sống trong một thế giới đầy dẫy hận thù chiến tranh, sống trong một xã hội cá lớn nuốt cá bé, sống trong một môi trường tranh đấu lừa đảo, gạt gẫm nhau để sống làm cho chúng ta có một tư tưởng bi quan: con người chắc là không bao giờ yêu thương nhau được, con người khó thực hiện những điều Gioan Tiền Hô chỉ dạy trong Phúc Âm. Dầu vậy, chúng ta đừng bi quan mà hãy nhớ đến phúc thật thứ bảy Chúa Giêsu đã dạy: “Ai làm cho người hòa thuận ấy là phúc thật, vì chưng sẽ được gọi là con Đức Chúa Trời vậy”. Và một điểm nữa giúp chúng ta lạc quan là mẫu số chung của tất cả mọi người, mọi phe nhóm, mọi xu hướng, mọi chủ trương đều là hòa bình và huynh đệ yêu thương nhau.

 

Thật vậy, nếu chúng ta có dịp hỏi tất cả mọi người, tất cả mọi tổ chức kể cả những tổ chức đang cầm súng lăn xả vào chiến tranh xâm lược, thì trong thâm tâm họ, họ vẫn tin là họ yêu mến hòa bình và huynh đệ, dầu cho họ sai lầm trong phương tiện. Đó có thể là mẫu số chung, là điểm phát xuất chung để dựng một thế giới an vui. Và điều những người có đức tin càng tin tưởng vững chắc là Thiên Chúa luôn luôn hiện diện trong lịch sử của con người, lịch sử cứu độ nhất là kể từ sự nhập thể của Chúa Kitô, Ngôi Hai Thiên Chúa. Đó là một sự hiện diện sống động như chính Chúa Giêsu đã nói: “Cha ta làm việc liên lỉ; Ta cũng thế”. Sự hiện diện đó không bao giờ để một bên những nghịch cảnh, những đau buồn của con người nhất là những con người bị áp bức, bị kìm kẹp.

 

Trong những ngày chuẩn bị mừng lễ Chúa Giáng sinh này, chúng ta hãy có cái nhìn lạc quan vào vũ trụ, vào đời sống con người trên mặt đất này. Vì hãy biết rằng, công việc tạo dựng cũng như công việc cứu chuộc là công việc của Thiên Chúa, và công việc Chúa làm thì không bao giờ thất bại. Bằng chứng là gương của Chúa Giêsu, sau sự đau khổ cùng cực và cái chết đau thương nhục nhã là sự sống lại vinh quang làm vua cai trị trời và đất. Với cái nhìn lạc quan đó và với lòng tin tưởng Thiên Chúa là Cha nhân từ đầy lòng từ bi thương xót, chúng ta hãy luôn sống trong niềm vui và hy vọng. Niềm vui và hy vọng đó phải thúc đẩy mỗi người chúng ta cộng tác tích cực vào công trình cứu rỗi, nhờ ơn Chúa và với những người thành tâm thiện chí.

 

Để có việc làm cụ thể trong tuần này, tôi sẽ cố gắng năng nhớ đến lời tiên tri Sôphônia trong bài đọc thứ nhất để sống tin tưởng vào Chúa hơn: “Hỡi Sion đừng sợ, Chúa là Thiên Chúa ngươi, là Đấng mạnh mẽ ở giữa ngươi, chính Người cứu thoát ngươi”. Và cụ thể hơn, tôi sẽ cố gắng không than van về những cực nhọc hoặc đau buồn tôi đang gánh chịu, nhưng biết chấp nhận cho người khác được vui và luôn cố gắng tươi cười niềm nỡ với tất cả mọi người, nhất là những người trong gia đình của tôi.

 

36.        Nhập thể bóng dáng

(Suy niệm của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL)

 

Chủ đề chung Mùa Vọng là “Lời đã hóa thành nhục thể” lại càng hiện tỏ hơn vào Chúa Nhật Thứ Ba Mùa Vọng hôm nay là thời điểm Chúa gần đến, như phụng vụ hôm nay của Giáo Hội mang một mầu hồng tươi vui chứ không còn mầu tím xám hối nữa.

Đúng thế, ngay trong Tuần Ba Mùa Vọng này, Giáo Hội sẽ bắt đầu tuần bát nhật trước Giáng Sinh, từ ngày 17 đến hết 24 tháng 12, một thời điểm với những bài Phúc Âm trực tiếp liên quan đến biến cố nhập thể và giáng sinh của Chúa Giêsu Kitô Thiên Sai Cứu Thế.

Bởi vậy, Chúa Nhật Thứ Ba Mùa Vọng hôm nay đây chẳng khác gì như một dạo khúc về mầu nhiệm và biến cố “Lời đã hóa thành nhục thể” (Gioan 1:14), Đấng sắp đến với dân của Chúa là thành phần đang trông đợi (thậm chí cho đến bây giờ) Người đến như một Vị Thiên Sai Cứu Độ.

Đó là lý do chúng ta thấy Bài Đọc 1 và 2, kể cả bài Đáp Ca đều có nội dung hân hoan vui mừng và đều kêu gọi dân Chúa hãy vui lên.

Bài Đọc 1 hôm nay Tiên Tri Xôphônia đã kêu gọi dân Chúa hãy vui lên như sau: “Hỡi thiếu nữ Sion, hãy cất tiếng ca! Hỡi Israel, hãy hoan hỉ! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy hân hoan và nhảy mừng hết tâm hồn! Chúa đã rút lại lời kết án ngươi và đã đẩy lui quân thù của ngươi. Vua Israel là Chúa ở giữa ngươi, ngươi không còn sợ khổ cực nữa. Trong ngày đó, ở Giêrusalem thiên hạ sẽ nói rằng: Hỡi Sion, đừng sợ, tay ngươi sẽ hết rã rời! Chúa là Thiên Chúa ngươi, là Ðấng mạnh mẽ ở giữa ngươi, chính Người cứu thoát ngươi. Người hân hoan vui mừng vì ngươi. Người cảm động yêu thương ngươi, và vì ngươi, Người sung sướng reo mừng. Những kẻ hư hỏng bỏ lề luật, Ta sẽ quy tụ họ lại, vì họ cũng là con cái ngươi”.

Bài Đáp Ca hôm nay Tiên Tri Isaia cũng kêu gọi dân Chúa hãy vui lên như thế này:

1) Ðây Thiên Chúa, Ðấng Cứu Chuộc tôi. Tôi sẽ tin tưởng mà hành động, tôi không run sợ: vì Thiên Chúa là sức mạnh của tôi và là Ðấng tôi ca ngợi. Người trở nên phần rỗi của tôi.

2) Các ngươi sẽ hân hoan múc nước nơi suối Ðấng cứu độ: Hãy tung hô Chúa, hãy kêu cầu thánh danh Người, hãy công bố cho các dân tộc biết các kỳ công của Người, hãy nhớ rằng danh Người rất cao trọng.

3) Hãy hát mừng Chúa, vì Người đã làm những việc cả thể, hãy công bố việc này trên khắp địa cầu. Hỡi dân Sion, hãy nhảy mừng và ca ngợi, vì ở giữa ngươi, có Ðấng Thánh của Israel thật cao cả.

Bài Đọc II Thánh Phaolô Tông Đồ cũng hợp với Bài Đọc 1 và Bài Đáp Ca đồng thanh kêu gọi Kitô hữu Giáo Đoàn Philiphê như sau: “Anh em thân mến, anh em hãy vui luôn trong Chúa! Tôi nhắc lại một lần nữa: anh em hãy vui lên! Ðức ôn hoà của anh em phải sáng tỏ trước mặt mọi người, vì Chúa đã gần đến. Anh em đừng lo lắng gì hết, nhưng trong khi cầu nguyện, anh em hãy trình bày những ước vọng lên cùng Chúa, bằng kinh nguyện và lời cầu xin đi đôi với lời cảm tạ. Và bình an của Thiên Chúa vượt mọi trí hiểu, sẽ giữ gìn lòng trí anh em trong Chúa Giêsu Kitô”.

Bài Phúc Âm hôm nay, tuy không thấy tỏ tường bầu khí và tính cách kêu gọi “hãy vui lên… vì Chúa đã gần đến” như Bài Đọc 1, Bài Đáp Ca và Bài Đọc 2, chúng ta cũng cảm thấy như có một cái gì đó gần đến khi thấy một Tiền Hô Gioan Tẩy Giả xuất hiện bằng chính ngôn từ của ngài, những ngôn từ được Thánh ký Luca kết thúc bài Phúc Âm hôm nay cho biết tính chất vui mừng ở lời của ngài như sau: “Ông còn khuyên họ nhiều điều nữa khi rao giảng tin mừng cho dân chúng”.

Thật vậy, theo tiến trình của phụng vụ Lời Chúa trong Mùa Vọng chu kỳ Năm C, thì Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả chưa hoàn toàn xuất hiện cho đến chính Chúa Nhật III Mùa Vọng này. Ở bài Phúc Âm Chúa Nhật II Mùa Vọng, ngài mới chỉ được Chúa Kitô nói tới, và ở 3 ngày (Thứ Năm, Thứ Sáu và Thứ Bảy) cuối Tuần Thứ Hai Mùa Vọng vừa rồi cũng thế, ngài cũng chỉ mới được Chúa Giêsu nói tới mà thôi.

Trong bài Phúc Âm hôm nay, Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả này đang đích thân thực hiện sứ vụ “rao giảng tin mừng cho dân chúng” chẳng những bằng lời nói của ngài mà còn bằng chính bản thân của ngài nữa.

Trước hết, Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả này đang thực hiện sứ vụ “rao giảng tin mừng cho dân chúng” bằng lời nói của ngài:

“Khi ấy, dân chúng hỏi Gioan rằng: ‘Vậy chúng tôi phải làm gì?’ Ông trả lời: ‘Ai có hai áo, hãy cho người không có; ai có của ăn, cũng hãy làm như vậy’. Cả những người thu thuế cũng đến xin chịu phép rửa và thưa rằng: ‘Thưa Thầy, chúng tôi phải làm gì?’ Gioan đáp: ‘Các ngươi đừng đòi gì quá mức đã ấn định cho các ngươi’. Các quân nhân cũng hỏi: ‘Còn chúng tôi, chúng tôi phải làm gì?’ Ông đáp: ‘Ðừng ức hiếp ai, đừng cáo gian ai; các ngươi hãy bằng lòng với số lương của mình'”.

Sau nữa, Tiền Hô Gioan Tẩy Giả này đang thực hiện sứ vụ “rao giảng tin mừng cho dân chúng” bằng chính bản thân của ngài:

“Vì dân chúng đang mong đợi và mọi người tự hỏi trong lòng về Gioan rằng: ‘Có phải chính ông là Ðức Kitô chăng?’ Gioan trả lời cho mọi người rằng: ‘Tôi lấy nước mà rửa các ngươi, nhưng Ðấng quyền năng hơn tôi sẽ đến, – tôi không xứng đáng cởi dây giày cho Người, – chính Người sẽ rửa các ngươi trong Chúa Thánh Thần và lửa. Người cầm nia trong tay mà sảy sân lúa của Người, rồi thu lúa vào kho, còn rơm thì đốt đi trong lửa không hề tắt!’ Ông còn khuyên họ nhiều điều nữa khi rao giảng tin mừng cho dân chúng”.

Qua bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta thấy một Tiền Hô Gioan Tẩy Giả xuất hiện để báo trước một Đấng đến sau ngài. Đầu tiên, ở phần đầu, ngài dọn lòng cho dân chúng đủ mọi thành phần đón chờ Đấng Thiên Sai Cứu Thế, rồi sau đó, ở phần cuối, ngài chính thức nói về Đấng Thiên Sai Cứu Thế là Đấng đến sau ngài cũng là Đấng cần ngài được sai đến trước để dọn đường cho Người.

Ngài đã dọn lòng cho dân chúng tùy theo hoàn cảnh xã hội của họ. Tiêu biểu cho những ai đến với ngài là ba thành phần: dân chúng nói chung, thu thuế và binh lính. Với cả 3 thành phần tiêu biểu trong dân chúng đến với ngài này, cho dù hoàn cảnh khác nhau, nhưng ngài vẫn khuyên một điều giống nhau đó là sống công bình bác ái yêu thương: 1- “Ai có hai áo, hãy cho người không có; ai có của ăn, cũng hãy làm như vậy” (với dân chúng); 2- “đừng đòi gì quá mức đã ấn định” (với thu thuế); và 3- “Ðừng ức hiếp ai, đừng cáo gian ai; các ngươi hãy bằng lòng với số lương của mình” (với binh lính).

Ngài quả thực đã thực hiện sứ mệnh dọn đường cho Đấng đến sau nơi dân chúng bằng cách, như bài Phúc Âm Chúa Nhật II Mùa Vọng tuần trước đã nói về những gì ngài cần phải làm đó là: “sửa đường Chúa cho ngay thẳng (với chung dân chúng trong Bài Phúc Âm hôm nay), lấp mọi hố sâu và bạt mọi núi đồi (với thành phần thu thuế); uốn ngay đường lối cong queo, san bằng đường lối gồ ghề (với thành phần binh lính)”, nhờ thế “mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa”, hay mới có thể nhận biết Đấng Thiên Sai Cứu Thế được ngài báo trước.

Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả đã chính thức làm chứng về Chúa Kitô, trước hết bằng cách phủ nhận mình không phải là “Đức Kitô” như dân chúng tự nhiên cảm nhận, một “Đức Kitô” là Đấng đến sau ngài nhưng lại là “Ðấng quyền năng hơn tôi – tôi không xứng đáng cởi dây giày cho Người”. Ở chỗ, trong khi ngài chỉ “lấy nước mà rửa”, một phép rửa chỉ có tính cách thống hối chứ không có thể tha tội, thì “chính Người sẽ rửa các ngươi trong Chúa Thánh Thần và lửa”, một phép rửa tái sinh con người để con người chẳng những được sự sống mà còn được sự sống viên mãn (xem Gioan 10:10), đến độ họ có thể trở thành chứng nhân cho Chúa Kitô như các vị tông đồ ở Giêrusalem trong ngày Lễ Ngũ Tuần sau khi đã lãnh nhận “phép rửa trong Thánh Thần” với hình lưỡi lửa đậu trên đầu từng vị (xem Tông Vụ 1:5,8;2:1-13).

Phần Kitô hữu chúng ta, đã “được tái sinh bởi trên cao” (Gioan 3:3), “bởi nước và Thánh Linh” (Gioan 3:5), khi lãnh nhận Phép Rửa, và sau đó cũng đã được rửa “trong lửa” nơi Bí Tích Thêm Sức để có thể làm chứng về Chúa Kitô và cho Chúa Kitô, “Lời đã hóa thành nhục thể” (Gioan 1:14).

Thế nhưng, thực tế cho thấy, Kitô hữu chúng ta tự bản chất “là ánh sáng thế gian” (Mathêu 5:14) với vai trò là “chứng nhân của Thày cho đến tận cùng trái đất” (Tông Vụ 1:8) chẳng những không làm chứng về Chúa Kitô và cho Chúa Kitô mà còn có những xu hướng, ý nghĩ, ước muốn, chọn lựa, quyết định, ngôn từ, tác hành và phản ứng hoàn toàn phản chứng, chỉ là những gì phản Kitô, như hưởng thụ hơn phục vụ, gian dối hơn thành thật, tự cao hơn tự hạ, hận thù hơn tha thứ v.v.

Trong Mùa Vọng để dọn mừng đón Chúa Giáng Sinh năm nay cũng như hằng năm, nếu chúng ta là một người đang đứng chờ tới phiên xưng tội, chúng ta không cần phải hỏi “chúng tôi phải làm gì?” như 3 thành phần dân chúng trong Bài Phúc Âm hôm nay hỏi Tiền Hô Gioan Tẩy Giả, vì họ chưa biết Chúa Kitô là ai, nên mới hỏi Tiền Hô Gioan Tẩy Giả mà họ tưởng là “Đức Kitô” như vậy.

Kitô hữu chúng ta, theo đức tin, đã biết Người, Đấng đã đến, là ai, và vì thế chúng ta đã có thể biết được chúng ta đã sống xứng với Người hay chưa, để mà quyết tâm làm sao mỗi ngày một hơn Người có thể “thần hiển – theophany” một cách rạng ngời nơi thành phần chứng nhân chúng ta trước những ai đang khao khát thần linh và Ơn Cứu Độ của Vị Thiên Chúa vô cùng yêu thương nhân hậu của chúng ta.

 

37.        Chúng tôi phải làm gì?

(Suy niệm của Lm. John Nguyễn Tươi)

 

Khi được chịu Phép rửa của thánh Gioan Tẩy Giả, đoàn người kéo đến hỏi ngài: “Chúng tôi phải làm gì?” Họ vui sướng và hạnh phúc vì được làm con cái Thiên Chúa. Gioan bảo họ phải anh năn sám hối để chờ Chúa đến. Chúng ta nghe Tin Mừng hôm nay thấy có ba hạng người hỏi thánh Gioan Tẩy giả câu hỏi này: “Chúng tôi phải làm gì?”. Chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu lời giải thích của ngài.

Thứ nhất, đám đông dân chúng hỏi: “Chúng tôi phải làm gì?” Ngài bảo họ phải làm những việc như sau: Họ phải sống công bình bác ái. Bác ái là chia sẻ: “Ai có hai áo, thì chia cho người không có, ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy”. Như thế, bác ái không phải là bố thí những gì dư thừa, nhưng phải là chia sẻ trong tinh thần “nhường cơm sẻ áo”. Và họ phải sống công bằng. Công bình là giữ đúng luật pháp. Chẳng hạn, ai làm thì người đó được hưởng, không gian tham của người khác, hối lộ, tham nhũng, lấy của chung làm của riêng.

Thứ hai, nhân viên thu thuế hỏi: “Chúng tôi phải làm gì?” Thánh Gioan Tẩy giả trả lời: “Đừng đòi hỏi quá mức ấn định”. Tại sao ngài lại dặn họ điều này, vì những người thu thuế là những người thường cho vay nặng lãi, bóc lộc sức lao động của người nghèo. Họ dùng quyền lực của đồng tiền để đàn áp và đưa người dân nghèo đến bước đường cùng. Gioan Tẩy giả dạy họ phải có lòng từ tâm và biết chia sẻ với người kém may mắn hơn họ, đừng chất lên vai họ những gánh nặng của nợ nần quá mức vì đồng lãi. Sám hối là phải thương cảm với nỗi khổ của người khác.

Thứ ba, binh lính hỏi: “Chúng tôi phải làm gì?” Thánh Gioan nói với họ là phải có lòng nhân từ chứ đừng cậy quyền thế áp bức mà bóc lột người khác: “Chớ hà hiếp ai, cũng đừng chiếm đoạt của người, hãy bằng lòng với mức lương của mình.” Người lính là người đại diện cho những người có thế quyền trong xã hội. Họ có thật sự là người có tâm để bảo vệ cho người dân hay chỉ dùng uy quyền để ra tay đàn áp người dân. Nhà lãnh đạo là người không chỉ có tài mà đòi phải có đức thì mới có thể mang lại cho một đất nước tự do, dân chủ, hạnh phúc và thịnh vượng. Chúng ta có thể đưa ra một hình ảnh của nhà lãnh đạo tài đức của nước Mỹ. Đó là tổng thống George Washington, dân chúng gọi ông là vị cha già của dân tộc. Người dân Mỹ luôn ca ngợi và nhớ đến công ơn của ông. Nhà lịch sử học Henry Lee có lời nhận định: ” Người đầu tiên trong chiến tranh, người đầu tiên trong hòa bình, và người đầu tiên nằm trong lòng dân tộc, ông là người có một không hai về đức tính khiêm nhường và trải qua những đoạn đời riêng tư. Lễ nghĩa, công bình, nhân đạo, ôn hòa, và thành thật; trước sau như một, trang nghiêm, và uy nghi; mẫu người của ông như đang soi sáng cho tất cả những người quanh ông cũng như những hiệu ứng của mẫu hình này vẫn đang trường tồn… Cái xấu bị rúng động trước sự hiện diện của ông và cái đẹp luôn cảm thấy có bàn tay giúp đỡ của ông. Đức tính cá nhân thanh khiết của ông đã thắp sáng đức độ phục vụ dân công chúng của ông… Ông là một người đàn ông như thế, người đàn ông mà quốc gia chúng ta đang thương tiếc.”

Thế thì, hôm nay chúng ta phải làm gì đây? Chúng ta đang chờ Chúa đến, chúng ta mong ơn phúc từ trời ban phát cho mình, mà lòng chúng ta có sám hối, có thay đổi, có từ tâm, có lòng bác ái và yêu thương không? Đó là câu hỏi cho mỗi người chúng ta trả lời và tự chất vấn lương tâm của mình.

Tóm lại, những việc cụ thể rút ra từ Tin Mừng hôm nay, chúng ta không phải tìm đâu những nơi xa xôi, nhưng là hãy thực hiện công bình bác ái trong đời sống thường ngày của mình, và với những người sống chung quanh mình. Điều cần chúng ta không phải đổi nơi ở, nhưng là thay đổi chính mình, đổi mới ý nghĩ, đổi mới lời ăn tiếng nói, đổi mới việc làm. Đó là con đường dẫn chúng ta đến gần Chúa, gặp được Chúa và lãnh nhận được niềm vui và ơn cứu độ. Amen.

 

38.        Chúa Nhật 3 Mùa Vọng

(Suy niệm của Lm. Nguyễn Hữu Thy)

 

NIỀM VUI MỪNG LÀ SỨ ĐIỆP CỦA MÙA VỌNG

 

Ai trong chúng ta lại không muốn được hân hoan vui mừng? Ai trong chúng ta lại không muốn thoát ra khỏi tất cả những gì đang ám ảnh và đè nặng lên mình: Những trách nhiệm quá nặng nề; những tư tưởng xâu xé dằn vặt; những băn khoăn lo lắng cho con cái, cho tình yêu, cho gia đình và cho tương lai; sự sợ hãi trước đau ốm bệnh tật, trước cảnh già yếu và trước sự chết? Ai lại không muốn thoát ra khỏi vòng tay của những người đang khống chế và đe dọa mình? Ai lại không muốn thực sự thoát ra khỏi chính mình, khỏi những biên giới hạn hẹp, khỏi tình trạng bất ổn và khỏi sự thiếu sót bất toàn của mình?

Ðược hân hoan vui mừng: Có nghĩa là có thể thở ra nhẹ nhõm thoải mái, là biết bằng lòng với chính mình và ngoại cảnh, là có thể mĩm cười với đời, là có thể bình tĩnh nhìn thẳng vào các biến cố của cuộc đời và thản nhiên chấp nhận chúng!

Vui mừng: Có nghĩa là tôi không còn bị kích thích xúc động nữa; tôi không còn bị ngoại cảnh chi phối và kích động nữa; tôi không còn nhìn cuộc đời bằng cặp kính đen nữa; trái lại, tôi đã làm chủ được chính mình, tôi đã tìm cho mình được sự an bình thanh thản và có thể đầy lạc quan tin tưởng chờ đợi một ngày mới sắp tới!

Vui mừng: Ðó chính là sự xác tín được mình đang đi đúng đường, mình đang sống một cuộc sống chân chính và lương thiện. Và đó chính là lúc chúng ta đã thực sự sống đời mình! Ðó chính là lúc chúng ta thực sự cảm nhận, nhìn thấy và kinh nghiệm được niềm vui là gì! Tuy nhiên, những mâu thuẩn và những đối kháng cũng rất lớn: Ai còn có thể vui được khi đưa mắt nhìn vào tình trạng bấp bênh và bất an của thế giới hôm nay? Người ta có thể nói đó là một tình trạng đầy lo ngại hơn là an vui. Thật ra, nhân loại đã tiến xa trên phương diện kỹ thuật và khoa học. Nhân loại ngày nay đã đạt được một sự giàu có thịnh vượng mà những thế hệ trước đây không dám mơ ước. Nhưng có phải vì thế mà chúng ta đã trở nên hạnh phúc hơn, vui vẻ và sung sướng hơn hay không? Khắp nơi trên thế giới vẫn ngự trị hận thù và ghen ghét, bạo động và khủng bố, lừa đảo và ích kỷ, tham lam và đố kỵ, v.v…!

Và ngay trong cuộc sống gia đình của chúng ta vẫn không thiếu căng thẳng, nghi ngờ, thất trung và mất tín nhiệm. Thêm vào đó còn có gánh nặng của công ăn việc làm, và những mất mát thiệt thòi. Và sau tất cả những tình trạng và hiện tượng đó là một câu hỏi được đặt ra: Tại sao lại có những cảnh trớ trêu như thế? Phải chăng cả cuộc sống chúng ta là vô nghĩa hay sao?

Dĩ nhiên, người ta có thể chạy trốn trước tất cả những hiện tượng đó bằng cách lao mình vào công việc, bằng sự thành công, bằng những cuộc ăn uống say sưa, bằng rượu chè và ma tuý, hay bằng những phương tiện lệch lạc rẽ tiền khác. Nhưng chúng ta vẫn không thể làm thay đổi được cục diện của vấn đề, trái lại vấn đề càng trở nên tồi tệ hơn và càng lút sâu vào cái vòng luẩn quẩn không có lối thoát. Và bấy giờ một câu hỏi khác lại được đặt ra là: Chúng ta sẽ còn lại những gì? Phải chăng bấy giờ chỉ còn lại sự sợ hãi và nội tâm bất an, thái độ xa lạ đối với môi trường thiên nhiên và đồng loại, sự thác loạn và sự đổ vỡ mất mát hoàn toàn? – Một điều gì đó trong chúng ta đang vùng lên và cự tuyệt lại tình trạng đó!

Vâng, chúng ta không tìm cách chạy trốn sự thật, chạy trốn thực tại, nhưng chúng ta tìm kiếm một lối thoát đúng đắn. Chúng ta hướng nhìn về một Ðấng duy nhất có thể giúp đỡ được chúng ta. Nhưng Ðấng đó là ai? Bởi vì quanh chúng ta chỉ có toàn những người cùng mang trên mình những gánh nặng và những bức xúc tương tự! Vậy, để tìm được một sự giúp đỡ thực sự không phải là điều dễ dàng.

Trong khi đó, thánh Phaolô nói: Trong mọi hoàn cảnh, anh em hãy vui lên! Anh em hãy vui lên, mặc cho phải chịu đau khổ nhiều! Sự vui mừng lạc quan phải luôn luôn là thái độ sống của anh em. “Bởi vì Ðức Chúa đã gần đến! Anh em đừng lo lắng gì cả. Nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà giải bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện” (Pl 4,6). Vâng, niềm vui mùa vọng là “Ðức Chúa đang đến gần!”

Phải chăng lý do cho bao thất vọng mà chúng ta từng phải gánh chịu, cho bao cay đắng và bao cam phận: là vì chúng ta đã nuôi nấng và ấp ủ những sự chờ đợi sai lạc, là chúng ta cứ tưởng sẽ tự giải cứu được mình, nếu chúng ta càng lao mình vào công việc và vào kỹ thuật nhiều hơn nữa, càng chạy theo săn tìm sự phồn vinh giàu có và sự tự do hơn nữa?

Những sự thất vọng đều có thể cứu chữa và hàn gắn được, nếu người ta biết chấp nhận mình bị làm lẫn!

Vì thế, Mùa Vọng nói cho chúng ta rằng: Con người có thể làm được tất cả, nhưng chỉ sự cứu rỗi của mình thì con người không thể tạo ra được. Con người có thể tạo ra được cả những thần thánh và rồi quì gối thờ lạy chúng, nhưng chỉ có Thiên Chúa là con người không thể tạo ra được. Thiên Chúa muốn tự ban tặng mình cho chúng ta. Người đã ban tặng mình cho chúng ta! Chúng ta hãy mở vòng tay ra, hãy mở rộng trái tim ra để đón tiếp Người, Emmanuel, Thiên Chúa-ở-cùng-chúng-tôi. Người đã ở gần bên chúng ta qua lời Người phán. Người đã ở giữa chúng ta dưới hình thức tấm bánh mà chúng ta bẻ chia cho nhau. Người tiếp xúc với chúng ta qua sự gần gủi của những người thân yêu. Chúng ta luôn được Người ủ ấp, dù phải chịu thiếu thốn cơ bần. Thánh nhan Người chiếu giãi trên chúng ta khắp nơi. Ðược gần gủi bên Người, mọi lo lắng sẽ trở nên nhẹ nhàng. Chúng ta không còn cần phải tự khẳng định chính mình nữa, không còn cần phải áp đặt được kẻ khác bằng bất cứ giá nào. Ðược gần gủi bên Người, chúng ta sẽ trở nên thanh thản, an bình, tin tưởng và vui mừng hơn!

Thánh Phaolô nói niềm vui mừng như thế giải thoát chúng ta thành những con người thánh thiện. Chúng ta không cần phải lấy oán báo oán. Chúng ta có thể tha thứ bỏ qua và luôn luôn có can đảm bắt đầu lại từ đầu. Chúng ta sẽ không còn cảm thấy cay đắng đau thương, mặc dầu còn phải đối mặt với đủ thư đắng cay khổ nhục.

Trong những ngày Mùa Vọng này, tôi cầu chúc cho tất cả chúng ta cảm nghiệm được chắc chắn rằng: Ðức Chúa đang đến gần. Nhưng tôi cũng cầu chúc cho chúng ta biết giúp nhau cảm nghiệm được Ðức Chúa đang đến gần trong cuộc sống của chính mình, trong chính gia đình mình và trong khu vực mình sinh sống: bằng những lời nói thánh thiện và đầy an ủi; bằng việc băng bó và chữa lành các vết thương thay vì gây ra các vết thương; bằng việc biết quan tâm đến những đau khổ thầm kín của kẻ khác; bằng vòng tay mở rộng cho hết mọi người. Và nếu có thể, bằng cả những món quà được chọn lựa đàng hoàng và bằng những tấm thiệp mừng Giáng sinh với những lời cầu chúc chân tình!

Ðược vậy, sứ điệp Mùa Vọng và Giáng Sinh đối với tất cả chúng ta không còn là điều mơ ước, nhưng là một thực tại cụ thể, nghĩa là: Tất cả mọi người sẽ được nhìn thấy được ơn cứu độ của Thiên Chúa. Amen.

 

39.        Vui trong Chúa

(Suy niệm của Lm. Jb Nguyễn Minh Phương, CSsR)

 

Là người ai ai cũng mong đón nhận được niềm vui. Có người tìm niềm vui nơi những thú vui giải trí. Có người tìm niềm vui nơi những phát minh khám phá. Có người tìm niềm vui khi thống trị, hành hạ người khác… Phụng vụ lời Chúa Chúa Nhật 3 Mùa Vọng năm C sẽ hướng người tín hữu tìm niềm vui đích thực trong Chúa.

 

  1. CHÚA THỨC TỈNH

Tiếp xúc và nghe lời giảng dạy của thánh Gio-an Tẩy Giả, dân chúng đủ mọi thành phần túa đến với thánh nhân xin được làm phép rửa và hỏi ngài: “Chúng tôi phải làm gì?” (Lc 3, 10). Câu hỏi của họ cho thấy đã có một sự đột biến trong tâm linh. Trước đây, nhiều người đã sống vị kỷ không quan tâm gì đến người nghèo, những binh lính ngông cuồng hà hiếp dân lành, những người thu thuế vẽ chuyện đòi hỏi người khác quá đáng… Nay, thái độ của họ đã khác hẳn. Họ nỗ lực tử tế qua việc xin được lãnh nhận phép rửa và xin được chỉ dạy để tìm về một cuộc sống có ý nghĩa.

Ngày nay, thế giới không ngừng tiến triển; cuộc sống con người xem ra văn minh hơn xưa. Thế nhưng, trong thế giới văn mình đầy đủ tiện ích không ít người vẫn còn sống trong ích kỷ. Khoảng cách người giàu và người nghèo như càng xa hơn. Cũng trong những thế giới văn minh thì không ít người có quyền đã lạm dụng quyền lực để đàn áp những người thấp cổ bé miệng. Bất chấp nỗi thống khổ của người nghèo, họ bao che cho nhau tham nhũng và dùng mọi thủ đoạn mánh khóe để bòn rút của cải vật chất cho riêng mình,

Khi xưa, Thiên Chúa đã dùng cuộc đời khổ hạnh và những lời giảng dạy đanh thép của thánh Gio-an Tẩy Giả để thức tỉnh lương tâm con người, giúp họ tìm về nẻo chính đường ngay. Chắc chắn những lời giảng dạy Chúa thánh Gio-an Tẩy Giả sẽ vượt thời gian thức tỉnh con người mọi thời đại. Lời Chúa sẽ mang lại niềm vui cho những ai được thức tỉnh để dấn thân bằng cuộc sống bác ái yêu thương, bằng sự chu toàn đúng mức những bổn phận được trao phó

  1. CHÚA ĐỔI ĐỜI

Vấn nạn “Chúng tôi phải làm gì?” (Lc 3, 10) của đám đông dân chúng đã được thánh Gio-an Tẩy Giả giải mã:

  • Mọi người “Ai có hai áo thì chia cho người không có; ai có gì ăn thì cũng làm như vậy” (Lc 3, 11).
  • Người thu thuế: “Đừng đòi hỏi những gì quá mức ấn định cho các anh” (Lc 3, 13).
  • Binh lính: “Chớ hà hiếp ai, cũng đừng chiếm đoạt của người, hãy bằng lòng với đồng lương của mình” (Lc 3, 14).

Rõ ràng thánh Gio-an Tẩy Giả không có ý bảo người ta phải bỏ việc đang làm nhưng ngài dạy họ phải làm việc thật tốt đúng với bổn phận đã được lãnh nhận, không những họ phải trở thành người biết yêu thương mà còn phải trở nên những người đáng mến và dễ thương.

Thiên Chúa đã dùng lời của thánh Gio-an Tẩy Giả để ban ơn đổi mới cho nhân loại. Người đổi mới chứ không hủy bỏ những trật tự đã ban cho con người trong trần gian. Thiên Chúa đã muốn con người tìm được niềm vui và hạnh phúc trong chính môi trường sống hòa nhã đáng yêu và dấn thân phục vụ, làm việc bác ái từ thiện giúp đỡ người nghèo. Niềm vui Thiên Chúa ban chỉ dành cho những ai đón nhận được ơn đổi đời. Từ một người hẹp hòi ích kỷ trở thành người quảng đại dấn thân biết chia sẻ biết sống bác ái yêu thương chan hòa với mọi người được mọi người quý mến. Từ là người lạm dụng quyền hành hà hiếp bạo lực trở nên dễ mến đáng yêu được mọi người kính trọng. Từ là người cơ hội, tham lam thủ đoạn chiếm đoạt của cải người khác khiến họ phải oán giận thậm chi nguyền rủa trở thành người biết sống công bằng. Ơn sám hối và niềm vui được biến đổi sẽ là khởi đầu để người ta đón nhận ơn cứu độ.

III. CHÚA BAN ƠN CỨU ĐỘ

Được thánh Gio-an Tẩy Giả cử hành phép rửa và được lãnh nhận những lời thánh nhân chỉ dạy, dân chúng ngỡ rằng chính ngài là Đấng Mê-si-a muôn dân mong đợi “Biết đâu ông Gio-an lại chẳng là Đấng Mê-si-a” (Lc 3, 15). Trước tình trạng này, thánh Gio-an Tẩy Giả đã khiêm tốn hướng họ đến với Đấng Mê-si-a đích thực “Người sẽ làm phép rửa cho anh em bằng Thánh Thần và bằng lửa” (Lc 3, 16). Vậy là phép rửa của thánh Gio-an chính là giai đoạn chuẩn bị lòng người đón nhận phép rửa bằng lửa và Thánh Thần của Chúa Giê-su Cứu Thế. Niềm vui trọn vẹn là niềm vui trong Chúa “Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa” (Pl 4, 4).

Lễ Giáng Sinh đang đến gần; khung cảnh đất trời như đổi thay nhộn nhịp rõ rệt: những ánh đèn rực rỡ sắc màu, những tiếng thánh ca làm lòng người rộn rã, những tấm thiệp, những món quà truyền đi khắp nơi… Tất cả những điều này sẽ tô điểm cho ngày lễ Giáng Sinh thêm rực rỡ, nhưng chưa thể là niềm vui trọn vẹn. Niềm vui Giáng Sinh không chỉ dừng lại nơi sự đổi thay nhất thời đời mà sâu xa hơn là niềm vui được thức tỉnh, được biến đổi hưởng ơn cứu độ, được phục hồi quyền làm nghĩa tử của Thiên Chúa, được sống muôn đời.

KẾT

Mùa Vọng, Thiên Chúa dùng Hội Thánh ban cho người tín hữu niềm vui đích thực nhờ “tỉnh thức và cầu nguyện”. Trong cô tịch và cầu nguyện kết hiệp với Chúa, họ sẽ đón nhận niềm vui trong nội tâm và diễn tả ra bên ngoài bằng cuộc sống biến đổi vượt qua những thói hư tật xấu, những ích kỷ, những lo âu trĩu nặng vật chất, những sợ sệt ngại ngùng, những mặc cảm do tội lỗi gây ra… Nhờ ơn Chúa, người tín hữu hoán cải cuộc đời để lãnh nhận ơn cứu độ, lãnh nhận niềm vui bất tận trong Chúa.

 

40.        Hoa quả của lòng thống hối

 

Sứ mạng của Gioan Tiền Hô là kêu gọi người ta ăn năn sám hối (Lc 3, 7 – 9) để dọn lòng mừng Chúa đến. Hưởng ứng lời kêu gọi của Ông, dân chúng tuôn đến nghe ông giảng dạy và muốn thực thi sự hóan cải đó. Vì thế họ gặp trực tiếp để bàn hỏi mình phải làm gì.

 

Gioan khuyên họ sống tốt trong hoàn cảnh của mình. Tùy theo hoàn cảnh của họ mà Gioan truyền dạy phải thực thi công bằng bác ái, sống đúng với nhiệm vụ của mình, thích hợp với địa vị của mình. Việc thực thi công bằng bác ái mà Gioan đề ra như ai có hai áo, hãy cho người không có, ai có của ăn cũng hãy làm như vậy.

 

Gioan lấy lại những yêu sách các tiên tri đã công bố. “Hỡi ngươi, Người đã tỏ cho ngươi điều gì là thiện; điều mà Giavê đòi ngươi lại không phải là thực thi công bằng, yêu mến sự nhân từ và bước đi cách khiêm nhường với Thiên của ngươi sao? ” (Mi 6, 6-8). Vì thế, ông không đòi buộc người ta phải lìa khỏi thế gian xấu xa hoặc phải từ bỏ các nghề nghiệp trong thế gian. Ông chỉ đòi hỏi lòng nhân hậu và đức công bằng: đó là những hoa trái biwe63u lộ lòng sám hối đích thực trong lúc này. Những việc làm bác ái mà ông đề nghị đã được quy định trong Cựu Ước (Is 58,7; Giop 31,17.19.21; Ez 18,7.16…)

 

Như thế lời khuyên này vẫn còn thích hợp trong thời đại chúng ta. Bên cạnh chúng ta còn nhiều người cần chúng ta thực thi lòng bác ái, sự chia sẻ, quan tâm giúp đỡ…. Vì cuộc sống của họ còn gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn; bệnh tật luôn theo đuổi. Họ thiếu thốn vật chất lẫn tinh thần, thiếu tình thương, thiếu sự chia sẻ công bằng, sự thật, chân lý,… Để thực hiện lời mời gọi của Gioan thực thi công bằng bác ái, sống đúng với nhiệm vụ của mình, thích hợp với hoàn cảnh của mình, chúng ta phải thực hiện cuộc hoán cải nội tâm, canh tân đời sống, nhất là trong thái độ ứng xử tốt đối với mọi người, xây dựng m,ột nền văn minh tình thương, có công lý và hòa bình ngự trị.

 

Qua sứ điệp Lời Chúa hôm nay, Giáo Hội muốn dùng lời khuyên bảo của Gioan đối với dân chúng để nhắc nhở chúng ta phải tỏ lòng sám hối và đời sống bác ái và công bằng để xứng đáng đón nhận Chúa đến.

 

Ước gì niềm vui của Chúa Nhật III mùa vọng hôm nay không chỉ mang đến niềm vui cho chúng ta mà còn mang đến niềm vui cho tha nhân sưởi ấm lòng họ chờ đón Chúa đến. Xin Chúa cho chúng ta sống niềm vui này là gặp được tha nhân và chính Chúa trong đời sống mình.

 

41.        An và Vui

(Suy niệm của Anmai, CSsR)

 

Những lần đi tham dự tiệc cưới, người ta thường hay chúc cho những đôi tân hôn với những lời chúc hết sức dễ thương: chúc cho hai bạn được an vui, hạnh phúc. Và trong những ngày đầu năm người ta vẫn thường hay chúc nhau: chúc anh, chúc chị, chúc ông, chúc bà sang nắm mới được an vui, hạnh phúc. Chẳng biết vô tình hay hữu ý mà chữ an vui nó dính liền với nhau. Nếu suy nghĩ như vậy thì ta có thể nói là khi nào tâm hồn ta bình an thì lòng ta mới vui được. Mà thật là thế! Không có niềm vui trọn vẹn nếu như tâm hồn người đó không được vui.

Thánh Lễ Chúa Nhật 3 Mùa Vọng người ta vẫn thường gọi là Chúa nhật hồng với ý chỉ rằng Chúa gần đến rồi, hãy vui lên, vui lên vì Chúa sắp đến. Thi thoảng, chúng ta vẫn thường nghe hay thường hát với nhau: Vui lên anh em hãy mừng vui trong Chúa! Vang lên câu ca ta tạ ơn Thiên Chúa! Người đã đoái đến viếng thăm người chúng ta! Hallê Hallê lui! Hallêluia! Một khách quý, một thượng khách đến với gia đình ta, đến với cộng đoàn ta thì ta đã cảm nhận niềm vui ấy như thế nào huống hồ chi Chúa chính là vị Thượng thượng khách của mỗi người chúng ta. Lẽ nào Chúa đến với mỗi người chúng ta mà chúng ta lại buồn?

Hơn ai hết, Israel có cái cảm nghiệm hết sức sâu sắc về sự mong chờ Chúa đến. Trong lịch sử cứu độ, Chúa đã bằng cách này cách khác đến với dân qua các ngôn sứ, qua các sấm ngôn. Một trong những sấm ngôn, ngôn sứ loan báo niềm vui Chúa đến đó chính là ngôn sứ Sôphônia. Sấm ngôn mà chúng ta vừa nghe thật là hay:

Reo vui lên, hỡi thiếu nữ Sion,

hò vang dậy đi nào, nhà Israel hỡi!

Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy nức lòng phấn khởi!

Án lệnh phạt ngươi, Đức Chúa đã rút lại,

thù địch của ngươi, Người đã đẩy lùi xa.

Đức Vua của Ísrael đang ngự giữa ngươi,

chính là Đức Chúa.Sẽ chẳng còn tai ương nào

khiến ngươi phải sợ.

Ngày ấy, người ta sẽ bảo Giêrusalem:

“Này Sion, đừng sợ, chớ kinh hãi rụng rời.”

Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi đang ngự giữa ngươi,

Người là Vị cứu tinh, là Đấng anh hùng.

Vì ngươi, Chúa sẽ vui mừng hoan hỷ,

sẽ lấy tình thương của Người mà đổi mới ngươi.

Vì ngươi, Chúa sẽ nhảy múa tưng bừng

như trong ngày lễ hội.”

Thiên Chúa cũng mang trong mình cảm thức của con người, có lúc Ngài vui và cũng có lúc Ngài buồn. Vui khi thấy dân chúng nghe lời của Ngài và đi theo đường ngay nẻo chính mà Ngài chỉ vẽ. Buồn khi mà dân chúng cứng đầu cứng cổ. Bằng chứng, qua lời sấm ngôn chúng ta thấy đó. Thiên Chúa tức giận nên ra án phạt nhưng rồi khi nguôi cơn giận thì Ngài lại thương. Giá như mà dân Israel chịu đi theo con đường mà Thiên Chúa vạch ra thì đâu có chuyện tai ương, đâu có chuyện án phạt.

Dừng lại một chút để chúng ta thấy tại sao có tai ương, tại sao có án phạt? Đơn giản có tai ương án phạt vì dân Israel – dân Do Thái – sống có Chúa mà như không có Chúa trong cuộc đời của họ vậy. Họ đã đẩy Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời của họ. Khi họ đẩy Thiên Chúa ra khỏi đời họ thì họ thoải mái sống bất công, chèn ép những người nghèo, những người thấp cổ bé họng hơn họ.

Đọc lại lịch sử cứu độ thời Cựu Ước, ta sẽ thấy rõ phần nào của cái kiếp nô lệ. Đã nghèo mà còn rơi vào cảnh nô lệ nữa thì coi như đời đã tàn. Sang thời Tân Ước tưởng chừng khá hơn nhưng có khá gì đâu? Khi người ta đến hỏi thì Gioan trả lời một cách mau chóng, một cách thẳng thừng như chúng ta vừa nghe ông trả lời với dân. Không phải ngẫu nhiên mà Gioan lại trả lời một cách huỵt tẹt như thế này: “Ai có hai áo, thì chia cho người không có; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy”. Câu trả lời này đủ hiểu là cuộc sống của của những người Do Thái thời Gioan như thế nào. Và, gần nhất, ngay cái thời buổi hiện tại này, chuyện bất công trong xã hội, khoảng cách giàu nghèo trong xã hội còn quá nhiều. Người ta nói cũng không sai rằng người giàu càng giàu thêm và người nghèo càng nghèo thêm. Vì sao? Vì tình trạng bất công cứ lan tràn trong xã hội.

Thế nên, lời của Gioan hôm nay rất có giá. Gioan trả lời quá sức là thực tế: “Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta, hãy an phận với số lương của mình.” Bi đát của cuộc đời ngày hôm nay đó chính là tình trạng “sống chết mặc bay”. Người ta bất chấp lương tâm, bất chấp đạo đức của con người để rồi chỉ cần biết sao cho đầy túi tiền của họ là được rồi. Người ta vẫn mang trong mình cái tâm trạng hơn người khác là bắt đầu lên mày lên mặt và tìm đủ mọi cách để hà hiếp những kẻ dưới quyền mình, những kẻ thấp cổ bé họng hơn mình. Thực tế cuộc đời đã cho ta thấy quá rõ vai trò địa vị của những người nghèo trong cuộc sống và vì thế Gioan khuyên nhủ rất chính xác: Đừng hà hiếp ai! Đừng tống tiền ai!

Thật sự ra mà nói, hà hiếp, tống tiền người khác thì đời sống vật chất thoải mái thật đấy vì nhà cửa của họ thường sung túc, cao sang hơn người nghèo. Nhìn bề ngoài, những người giàu có có vẻ hạnh phúc hơn người nghèo, đó là điều hiển nhiên nhưng chưa chắc như vậy. Có chắc chắn rằng là giàu có là hạnh phúc hay không? Nếu được nghe những người giàu tâm sự ắt hẳn chúng ta, những người nghèo sẽ vở lỡ ngay! Vì lẽ đa phần người giàu họ hiếm có hạnh phúc lắm. Có chăng thì thoả mãn được nhu cầu vật chất của con người nhưng con người đâu sống bởi vật chất mà còn cả một cái khoảng trời tinh thần rất lớn. Nhớ lời của Thánh Gioan nói thật hay: Hãy an phận! Vấn đề nằm ở chỗ đó đó! Không phải là chuyện giàu hay nghèo nhưng là chuyện ta có cảm thấy cuộc đời ta, phận người của ta có an hay không mà thôi!

Một chuyện kể có thật. Ở một xứ đạo nghèo nọ, có anh chàng kia bỗng dưng không thấy lui tới nhà thờ nữa. Cha xứ hỏi anh ấy tại sao anh không đến nhà thờ thì anh nói là tại vì anh đi chiếc xe đạp cọc cạch đến nhà thờ anh ta cảm thấy nhục quá! Để khi nào anh có xe máy thì anh sẽ đến nhà thờ! Thời gian sau, cha xứ thấy anh đi xe máy nhưng anh vẫn không đến nhà thờ. Cha xứ thắc mắc và hỏi tại sao anh không đến nhà thờ thì anh thiệt tình nói là anh cảm thấy nhục, nhục vì lẽ nhà anh ở còn xập xệ! Thế đấy! Lòng tham của con người hình như nó vô đáy! Tưởng chừng có chiếc xe máy thì cũng an được cái phận nghèo nhưng chưa! Còn cái nhà! Thế nhưng, chưa chắc có cái nhà là anh ta chưa cảm thấy hết nhục vì khi anh ta xây được nhà thì người ta đã ở cao ốc cả rồi! Cái vòng luẩn quẩn của sự bất an nó cứ đeo bám anh ta để rồi anh ta không bao giờ cảm thấy an được. Và không thấy an với tất cả những gì mình có thì làm sao cuộc đời của anh có thể vui được.

Ta cũng vậy thôi, ta dừng lại một chút để nhìn ta. Thời còn bao cấp, ta ước ao có được chiếc xe đời 81 như nhà hàng xóm nhưng nay, ta có cả một chiếc xe Dream, ngoài ước mơ của ta thuở ấy nhưng ta đâu có chịu dừng lại ở chiếc xe Dream. Khi có Dream rồi, ta lại ước mơ cao hơn nữa để rồi mãi mãi cuộc đời ta ở trong tâm trạng bất an. Ta cũng giống như cái anh chàng ở xứ đạo nghèo kia. Khi ước mơ của ta thành hiện thực thì ta không dừng lại ở ước mơ đó mà lại đi tìm cái ước mơ cao hơn. Không phải ước mơ là xấu, không phải có óc cầu tiến là xấu nhưng chuyện quan trọng là ta phải biết dừng ước mơ của ta ở đâu và óc cầu tiến của ta như thế nào là đủ. Chuyện cần thiết là ta có cảm thấy ta an khi ta được như vậy hay không? Khi ta cảm thấy không đủ, không bằng người khác thì ta lại cứ đi tìm và đi tìm mãi có bao giờ thoả mãn lòng tham của con người. Khi nào ta cảm thấy ta đủ thì ta mới vui, ta mới bình an được.

Tâm thư của Thánh Gioan vừa gửi cho ta nơi cộng đoàn Philip thật là hay: Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: vui lên anh em! Sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hoà rộng rãi, Chúa đã gần đến. Anh em đừng lo lắng gì cả. Nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện. Và bình an của Thiên Chúa, bình an vượt lên trên mọi hiểu biết, sẽ giữ cho lòng trí anh em được kết hợp với Đức Ki-tô Giê-su

Tâm tình của Thánh Phaolô quá rõ ràng, chuyện của ta, chuyện cuộc đời của ta, ta cứ đem đi giãi bày cho Thiên Chúa và Ngài sẽ ban cho ta những điều mà ta thỉnh nguyện. Khi ta giãi bày với Thiên Chúa, ta sẽ được sự bình an thật, bình an của Chúa trong đời ta. Cuộc đời ta, nhìn lên không bằng ai như người ta vẫn thường nói nhưng khi nhìn xuống ta hơn được nhiều người. Khi ta đặt mình trước mặt Chúa, ta thấy Chúa thương ta nhiều hơn ta tưởng, ấy vậy mà ta vẫn cứ để cho cuộc đời ta cứ mãi loay hoay với nhiều thứ phù du mau qua chóng tàn. Khi và chỉ khi ta chìm đắm trong cầu nguyện ta mới có được sự bình an và niềm vui thật.

Thật sự thì Chúa đã đến rồi, Chúa đã đến trong thế gian này và một lúc nào đó bất chợt Chúa đến với cuộc đời của mỗi người chúng ta. Chúa đến với mỗi người chúng ta như kẻ trộm như Chúa đã từng báo trước vậy. Chúa đến vào lúc chúng ta không ngờ và vào giờ mà chúng ta không thể nào biết được. Chuyện quan trọng, chuyện cần thiết là ta phải giữ sao cho tâm hồn của ta được bình an đển khi Chúa đến ta có được niềm vui trọn vẹn. Khi ta thấy Chúa là đủ cho chúng ta, Chúa là tất cả cho chúng ta thì cuộc sống ta mới an bình thư thái thật sự. Vinh danh Thiên Chúa trên trời – bình an dưới thế cho người thiện tâm! Bình an chỉ dành cho những ai thiện tâm, những ai có tấm lòng biết chia sẻ, biết quan tâm đến người nghèo. Nguyện xin Chúa đến và ở lại với mỗi người chúng ta để tâm hồn chúng ta được tràn đầy niềm vui, tràn đầy bình an thật sự.

 

42.        Hãy vui mừng trong Chúa!

 

Trong tâm tình chuẩn bị mừng lễ Giáng sinh, Chúa Nhật 3 Mùa Vọng hôm nay, Phụng vụ Lời Chúa kêu mời chúng ta sống tâm tình vui mừng, hoan hỷ, mừng biến cố Ngôi Hai Nhập Thể.

 

Niềm vui đó bén rễ sâu trong lời cầu nguyện và đó là dấu chỉ của người Kitô hữu: “Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa!” (Pl 4, 4). Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta: “Anh em hãy vui lên trong Chúa, tôi nhắc lại một lần nữa, anh em hãy vui lên vì Chúa đã gần đến”. Và chúng ta nghe những lời đầy khích lệ được trích từ sách tiên tri Sôphônia: “Hỡi Israel, hãy hân hoan. Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy nhảy mừng. Chúa đã rút lại lời kết án. Vua Israel là Chúa ở giữa ngươi, ngươi sẽ không còn sợ tai họa nữa” (Xp 3, 14 – 15). Câu đáp ca cũng kêu gọi sống tâm tình hân hoan: “Hãy nhảy mừng và ca ngợi vì ở giữa ngươi có Đấng thánh của Israel thật cao cả”. Như thế Giáo Hội muốn chúng ta đón mừng Chúa Cứu Thế bằng một tâm hồn hân hoan, vui vẻ.

 

Trên thực tế, chúng ta không dễ dàng được an ủi và vui mừng vì mình mỗi ngày nghe, thấy, chứng kiến biết bao cái chết do chiến tranh, thiên tai, ôn dịch, nghèo đói, công lý bị coi thường. Làm sao chúng ta có thể vui mừng được khi biết rằng chung quanh chúng ta nhiều người đang gặp khổ sở do những ảnh hưởng trên. Hơn nữa, ngày nay con người cố tạo nhiều niềm vui giả tạo. Nhưng đâu là những niềm vui đích thực cho con người? Vì có những niềm vui mà sau đó con người cảm thấy trống rỗng, buồn sầu và chán nản. Có những niềm vui mà sau đó con người trở nên mệt mỏi và thất vọng. Có những niềm vui làm cho con người thêm âu lo, hối hận. Thế nên niềm vui mà Giáo Hội mong muốn chúng ta đạt được đây phải là niềm vui thật.

Nếu niềm vui bên ngoài như đến từ những cánh thiệp của mùa Noel, những trang hoàng rực rỡ đèn màu, ngôi sao, hang đá, máng cỏ,… thì đó chưa hẳn là niềm vui thật. Vì lễ Giáng sinh sẽ qua đi, mọi trang hoàng sẽ được dọn dẹp, mọi người đều trở về với cuộc sống hằng ngày. Niềm vui thật phải là niềm vui phát xuất từ bên trong của con người. Nếu chỉ đi tìm niềm vui bên ngoài mà thôi thì chỉ là một sự chạy trốn thực tại trong tâm hồn. Niềm vui chân chính phải bắt nguồn từ một trạng thái của tâm hồn và đặt nền tảng trên sự bình an.

 

Khi phục vụ tha nhân và chu toàn bổn phận hằng ngày của mình vì Chúa, đó là đường dẫn đến niềm vui thật sự cho tâm hồn mình. Mảnh đất tốt cho niềm vui thật phát triển là tình thương yêu nhau giữa con người. Sống trong một thế giới chạy theo lợi nhuận cá nhân “mạnh được yếu thua”, theo lối “chủ nghĩa cái tôi” thì con người chắc là không bao giờ yêu thương nhau được, họ khó thực hiện những điều Gioan Tiền Hô chỉ dạy trong Phúc Âm. Tuy nhiên, chúng ta vẫn có thể mĩm cười trong đau khổ và vui tươi trong thử thách, khi chúng ta xác tín rằng Thiên Chúa vẫn hiện diện trong đau khổ của chúng ta. Niềm xác tín này làm nảy sinh và gia tăng niềm hy vọng hân hoan.

 

Thật vậy, Thiên Chúa luôn luôn hiện diện trong lịch sử của con người, lịch sử cứu độ nhất là kể từ sự nhập thể của Chúa Kitô, Ngôi Hai Thiên Chúa. Đó là một sự hiện diện sống động như chính Chúa Giêsu đã nói: “Cha Ta làm việc liên lỉ, Ta cũng thế”(Ga 5, 17). Sự hiện diện đó không bao giờ là không giá trị nhưng chính sự hiện diện đó làm cho con người có giá trị hơn trong cuộc sống chung với đồng loại. Vì thế, chúng ta hãy có cái nhìn lạc quan vào Thiên Chúa và tha nhân. Với cái nhìn lạc quan và tin tưởng vào Thiên Chúa là Cha nhân từ đầy lòng từ bi thương xót, chúng ta hãy luôn sống trong niềm vui và hy vọng. Niềm vui và hy vọng đó phải thúc đẩy mỗi người chúng ta cộng tác tích cực vào công trình cứu rỗi, nhờ ơn Chúa và với những người thành tâm thiện chí.

 

Nhưng làm sao để nhận ra “Đấng đang ở giữa ngươi”? Gioan Tẩy Gỉa đã đưa ra những chỉ dẫn cụ thể: “Ai có hai áo thì hãy chia cho người không có..Ai có cái ăn thì cũng làm như vậy…Đừng đòi hỏi quá mức ấn định…Chớ dùng vũ lực, cũng đừng vu khống mà tống tiền người ta. Hãy an phận với số lương của mình”(Lc 3, 10 – 14). Nói chung, Gioan đã đưa ra những hướng đi cụ thể: bác ái, chia sẻ, chấp nhận thực tại, sống hiền hòa, công bình, chính trực trong các mối tương quan xã hội. Sống như vậy là chuẩn bị đón nhận Đấng Cứu Thế, là đặt mình vào trong hàng ngũ những kẻ bé mọn của Thiên Chúa. Chính những người bé mọn này mới cảm thấy vui mừng và hy vọng, vì nhận ra Chúa sắp đến, đang đến…Ngài sẽ thay đổi tất cả, đổi mới toàn thế giới và xã hội.

 

Hãy vui mừng vì Chúa giải thoát đã đến và đang ở với chúng ta. Ngài đang thực hiện một cuộc đổi mới toàn diện, đang qui tụ muôn nước thành một dân một nước. Đó là Dân Chúa, Nước Trời. Không phải bằng vũ lực khống chế, nhưng bằng sự giải thoát loài người khỏi những ràng buộc của tội lỗi, ích kỷ nhỏ nhen, bất chính; bằng cách sống liên đới yêu thương, chia cơm sẻ áo; bằng cách sống công bình, chính trực và chan hòa với mọi người.

 

Lời Chúa trong Cựu Ước cũng như trong Tân Ước đều cho chúng ta thấy rõ đâu là niềm hy vọng của những kẻ tin, đâu là lý do hân hoan của những người bé nhỏ của Thiên Chúa: Thiên Chúa Cứu Độ, đó là tất cả động lực của cuộc sống và cuộc chiến đấu của người tin theo Chúa Kitô. Thiên Chúa nhập thể và cứu độ là căn bản để giải quyết mọi vấn đề: Thiên Chúa nhập thể để chúng ta sống như con cái, nghĩa là, như những con người tự do và trách nhiệm, những con người tự nguyện cống hiến cho tha nhân. Vì vậy, trong bất cứ hoàn cảnh bế tắc khó khăn nào, người có lòng tin vào Thiên Chúa vẫn không thất vọng, chán nản, vì họ biết rằng mọi phấn đấu của mình và của loài người đều mang một ý nghĩa cứu độ: ý nghĩa dọn đường cho Nước Trời, cho Đức Giêsu của Thiên Chúa ngự đến.

 

Muốn hòa mình vào niềm vui của Phụng vụ, chúng ta không thể không liên đới với những người đang khao khát đổi mới, đang khát vọng phẩm giá con người. Hơn thế nữa, Giáo Hội Chúa Kitô không thể đứng ngoài nhửng cuộc đấu tranh cho hòa bình, bình đẳng, tôn trọng con người, phát triển xã hội mà loài người đang theo đuổi. Sống Mùa Vọng là sống liên đới với người nghèo, là sống công bình với tha nhân, là sống hòa giải với mọi người, là sống yêu thương, an bình trong mọi hoàn cảnh, là đấu tranh cho tình huynh đệ và khơi lên niềm vui cho những ai đang chán nản, thất vọng chán chường vì không có niềm tin, vì đã mất niềm tin nơi con người, nơi xã hội và cả nơi Thiên Chúa nữa.

 

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết mở lòng mình ra để đón nhận Lời Chúa, thay đổi cách nghĩ, để sống tích cực hơn, phù hợp hơn với tinh thần Chúa mời gọi và cho chúng con niềm vui vì nhận ra Chúa đang hiện để cứu độ chúng con. Amen.

 

43.        Niềm vui đích thực

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

 

Cũng như Chúa Nhật III Mùa Chay, Chúa Nhật 3 Mùa Vọng được gọi là Chúa Nhật mầu hồng. Không biết truyền thống này có từ bao giờ, nhưng hẳn chúng ta thầm hiểu ý của giáo hội khi cho phép mặc phẩm phục mầu hồng trong Thánh Lễ. Mầu hồng gợi lên niềm vui, niềm hân hoan. Các bài đọc Lời Chúa cũng tràn đầy niềm hân hoan, phấn khởi. Tất thảy vì một lẽ này: đổi mới vì sợ hải thì sẽ hời hợt và chóng qua, trái lại vì hân hoan phấn khởi mà đổi mới thì sẽ thiết thực và bền lâu.

 

Sau khi nghe Gioan Tẩy giả rao giảng, dân chúng tuôn đến tham vấn: chúng tôi phải làm gì đây? Không ẩn mình trong đám đông, nhóm thu thuế, anh em binh lính cũng đến để xin hướng dẫn cách cụ thể đối với trường hợp của mình (x. Lc 3,11-14). Chắc hẳn người dân Israel thời bấy giờ đang khát khao sự xuất hiện của Đấng Thiên sai để giải thoát họ khỏi ách nô lệ ngoại bang. Và họ cũng như đã thông thuộc lời tiên báo của ngôn sứ Isaia năm nào về thời của Người: ” Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi… Rồi hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa” (Is 40,4-5). Qua phần Phụng Vụ Lời Chúa, chúng ta có thể nhận ra một vài lý do để phấn khởi, vui mừng: “Hãy nhảy mừng và ca ngợi, vì ở giữa ngươi có Đấng Thánh của Israel thật cao cả”. Điệp khúc của đáp ca cho chúng ta một lý do để hân hoan đó là vì Đấng Thánh đang ở giữa chúng ta. Gioan Tẩy Giả cũng đã trả lời với một số tư tế và thầy Lêvi được phái đi từ Giêrusalem: ” Tôi đây làm phép rửa trong nước. Nhưng có một Đấng đang ở giữa các ông mà các ông không biết” (Ga 1,26). Đấng ấy chính là Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Có Chúa ở cùng, chính là hạnh phúc bất tận. Có Đấng cao cả cũng là Đấng đầy lòng từ bi và hay thương xót ở cùng, thì chúng ta đâu còn sợ gì. Dù người mẹ nào có bỏ con mình đi nữa thì Thiên Chúa không bao giờ bỏ chúng ta, vốn là hình ảnh của chính Người (x. St 1,27). Vấn đề là chúng ta đã thực sự nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa chưa? Câu trả lời nằm ở nơi thái độ của chúng ta, đó là có phấn khởi mừng vui hay không.

 

Nếu như chúng ta chưa thực sự mừng vui thì đó là một trong những dấu chỉ cho biết chúng ta chưa nhận ra Đấng Thánh, Đấng cao cả đang ở giữa chúng ta. Phận phàm hèn, làm thế nào để chúng ta có thể thấy Thiên Chúa, Đấng ngàn trùng chí thánh? Chính Chúa Giêsu đã minh nhiên cho chúng ta chìa khóa vấn nạn. ” Phúc cho ai có tâm hồn trong sạch, vì họ được nhìn thấy Thiên Chúa” (Mt 5,8). Những lời khuyên của Gioan Tẩy Giả cho dân chúng cũng như cho binh lính và những người thu thuế xưa chính là cách thế giúp họ thanh tẩy tâm hồn để nên trong sạch. Và Ngài đã lưu ý rằng không phải cứ cúi mình xuống nhận dấu thanh tẩy mà được thanh sạch, nhưng phải thay đổi đời sống. Sau này chính Chúa Giêsu cũng đã khẳng định với người Pharisiêu đã mời Người dùng bữa rằng: Không phải do việc tẩy rửa bên ngoài mà làm cho chúng ta nên thanh sạch, nhưng phải đem những cái bên trong ra mà phân phát thì mọi sự sẽ nên thanh sạch cho chúng ta. (x. Lc 11,37-41).

 

Hãy vui mừng vì Thiên Chúa đã rút lại lời kết án. Thiên Chúa yêu thương chúng ta và vì chúng ta, Người cũng quy tụ những kẻ hư hỏng, người tội lỗi về (x.Soph 3,14-18). Niềm vui của người được tha thứ tội lỗi là niềm vui thật khó tả, hơn nữa, khi đó là một món nợ, vượt quá khả năng chi trả của chúng ta. Một người được thứ tha sẽ trở thành nguyên cớ để nhiều người tội lỗi khác tin tưởng trở về. Bất cứ tội lỗi nào cũng có tính lây nhiễm ít nhiều. Cũng thế và hơn thế nữa, ân phúc tha thứ nào cũng có sức năng động lan tỏa. Đây chính là lý do để ngôn sứ Sôphônia mời gọi chúng ta hãy hân hoan và hãy nhảy mừng hết tâm hồn (Soph 3,14).

Hãy vui mừng vì Chúa Kitô đã chọn chúng ta, không vì công nghiệp của chúng ta mà chỉ vì tình yêu của Người. Thánh tông đồ dân ngoại đã nói với tín hữu Philipphê rằng nếu tự hào về công trạng theo lề luật, thì ngài có thể hơn rất nhiều người. Nhưng ngài bỏ tất cả đằng sau, ngài chấp nhận mọi thua thiệt, trước một mối lợi lớn là được biết chúa Kitô (x. Phil 3,1-16). “Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em…” (Ga 15,16). Vì đã chọn chúng ta nên Chúa Giêsu tự nguyện liên đới với chúng ta cho đến cùng. Người không chỉ làm con chiên gánh lấy tội nhân trần mà còn đón nhận loài người như đàn em đông đúc để thông chia phần phúc gia nghiệp đã hứa ban (x. Êph 1,3-14).

 

Tuy nhiên, một vấn đề cần làm sáng tỏ: niềm vui đích thật được biểu lộ như thế nào? Chắc hẳn chúng ta đồng thuận với nhau rằng đó không phải là những tiếng cười ha hả của những bữa tiệc tùng đầy sơn hào hải vị và rượu bia. Cũng chẳng nhất thiết là trạng thái lâng lâng, ngay sau khi đạt được một thành công trong kinh doanh hay trong thi đấu thể thao…Một niềm vui đích thật đó là tâm trạng của người cảm nhận mình được yêu thương vượt quá mọi công trạng mình đã có, vượt quá mọi khả năng mình đang có hay sẽ có. Tâm trạng này chính là sự bình an tận đáy tâm hồn khiến chúng ta can đảm vượt qua mọi thử thách và gian khổ, đồng thời thúc đẩy chúng ta nỗ lực sống đức ái, nghĩa là biết yêu thương một cách không tính toán không chỉ với người dễ thương mà với cả những người thù ghét và bách hại chúng ta. Có thể nói rằng các thánh tử đạo là những người đã thể hiện niềm vui đích thực này cách rõ nét.

 

Nước Trời là vương quốc của tình yêu và của niềm vui đích thật. Chúng ta có thể luận suy chân lý này qua các hình ảnh tiệc cưới mà Chúa Giêsu đã dùng để minh họa về thực tại Nước Trời và các hình ảnh mà Người nói về tình trạng trầm luân đời đời, đó là nơi phải khóc lóc và nghiến răng (x. Mt 22,2; Mt 8,12). Mùa Vọng lại về, một trong những ý nghĩa của Mùa Vọng là chuẩn bị đón mừng mầu nhiệm Chúa nhập thể – nhập thế. Thiên Chúa đã làm người, đã vào trần gian và Người mãi ở với chúng ta cho đến tận thế (x. Mt 28,20). Nước Trời đang ở giữa chúng ta (x. Lc 17,21). Ước gì bà con lương dân, anh em khác đạo và cả những người tự nhận là vô thần, thấy được niềm vui đích thật nơi Kitô hữu chúng ta. Trăm nghe không bằng một thấy. Thiết tưởng rằng đó cũng là một lời loan báo tin mừng khả tín không thua, mà có khi lại hơn những tổ chức “lễ hội đình đám” bên ngoài trong dịp mừng Chúa Giáng Sinh.

 

44.        Bác ái và bổn phận

 

Tác giả Ôn Như Nguyễn Ngọc có kể câu chuyện như sau: Gia đình buôn bán nọ chế ra một cái cân để lừa đảo khách. Cái cân vừa nhẹ vừa nặng và bao giờ phần lợi cũng về phía ông ta. Vì buôn bán vậy nên chẳng bao lâu ông đã trở nên giàu có. Lại sinh được hai người con trai hiền lành, học giỏi khôi ngô tuấn tú, ai cũng khen là nhà có đại hồng phúc.

 

Một hôm, hai vợ chồng bàn nhau: bây giờ hai vợ chồng ta đã dư giả, giàu có không còn thiếu thứ gì ta hãy phá bỏ cái cân kia đi để dành cái đức lại cho con. Sau khi đem cái cân ra đập. Khi bể ra thì thấy có đọng một cục máu đỏ hỏn. Sau đó ít lâu thì hai đứa con bất tử lăn đùng ra chết, làm cho hai vợ chồng khóc lóc thảm thiết. Được Bụt hiện ra dạy “Hãy tu tĩnh làm ăn không tham lam gian lận”. Từ đó hai vợ chống cố gắng làm ăn không gian lận, làm phúc bố thí. Quả nhiên sau một thời gian sinh được hai đứa con trai khác hiền lành tử tế, văn hay chữ tốt, và sau lớn lên cha mẹ được vẻ vang hạnh phúc.

 

Qua câu chuyện trên ta thấy hai vợ chồng vì buôn bán gian lận nên hai đứa con bị Trời phạt nhãn tiền. Điều đáng khen là họ nhận ra mình tội lỗi, và tự biết phục thiện sửa đổi và được tha thứ. Công việc mà họ phục thiện chính là ăn ngay ở lành, làm phúc bố thí và không buôn bán gian lận. Nhìn chung lại chính là hãy biết làm tròn bổn phận và sống bác ái. Tương tự bài Tin Mừng dân chúng cũng lũ lượt kéo đến với Gioan.B và hỏi ông “Tôi phải làm gì?” hay “Tôi phải phục thiện bằng cách nào? ” để rước Chúa. Câu trả lời của Gioan.B không ngoài hai việc chính là:

 

  1. Sống bác ái

Trong bản văn Tin Mừng không nói rõ là Gioan.B kêu gọi mọi người sống bác ái. Nhưng qua lời ông yêu cầu mọi người hãy sống tương trỡ lẫn nhau:”Ai có hai áo thì chia cho người không có; ai có gì ăn thì cũng làm như vậy”. Gioan.B muốn họ làm một công việc bác ái cụ thể giúp tha nhân chứ không phải chờ đợi bằng lời nói xuông. Thật ra ngày nay chúng ta cũng gặp được nhiều người làm việc từ thiện, làm những công việc bác ái giúp đỡ người nghèo, người tàn tật cơ nhỡ ở khắp nơi. Nhưng cách làm việc của họ không có được tinh thần bác ái như lời Gioan.B kêu gọi. Vì đôi khi họ chi cho những chiếc “áo cũ”, “áo không mặc nữa”. Còn Gioan.B thì kêu gọi người ta cho đi cái mình “đang mặc”. Không thể phủ nhận lòng tốt của mọi người, nhưng nhiều người đã lạm dụng công việc bác ái để đạt được mục đích mà họ muốn, chứ không có chút gì là ái cả. Cho nên cũng có rất nhiều phần lương thực được giúp cho người nghèo, mà là phần dư thừa chứ không phải tất cả những gì họ có. Nhưng cũng có những tấm lòng cao cả mà cho đi với tinh thần không đắn đo, không đòi hỏi mà làm việc bằng một con tim hiến dâng. Điều đó thật đáng khen.

 

Thực trạng ngày nay đang cần con người sống bác ái với nhau nhiều hơn nữa, biết “nhường cơm xẻ áo”. Qua thống kê mới đây cho biết trên thế giới có khoảng một tỉ người bị đói vì cuộc khủng hoảng kinh tế. Bên cạnh đó lại có quá nhiều người dư thừa tiền của. Nếu tất cả mọi người đều sống theo lời mời gọi cua Gioan.B, thì trên thế giới không còn người đói nghèo và bệnh tật nữa. Thánh Gioan.B khôngđưa ra một đòi hỏi nào quá sức mình, vì vậy để sống trong tầm tình mùa vọng, chúng ta không chỉ dọn đường mà còn phải sống bác ái ngay trong đời thường, với những người ở xung quanh ta. Vì chắc chắn Thiên Chúa sẽ không thích ta sống dư thừa của cải, trong khi người anh em lại thiếu thốn không đủ cung ứng cho nhu cầu của họ.

 

  1. Làm việc bổn phận

Bài Tin Mừng còn nhắc đến những người thu thuế và lính tráng. Đối với dân Israel, hai hạng người này bị coi là xấu xa tội lỗi, vì họ tiếp xúc với dân ngoại và nghề nghiệp mang đến cho họ hành vi bất nhân, làm giàu cách bất chính. Nhưng thánh Gioan.B thì không nghĩ thế, ngài chỉ yêu cầu họ làm đúng, làm tròn và làm tốt công việc mà họ đang làm. Tiêu biểu đối với người thu thuế ngài nói: “Đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định cho các anh”. Nghĩa là gian lận trong thu thuế là không hợp với đạo đức. Với người lính cũng nhận được mệnh lệnh tương tự: “Chớ hà hiếp ai cũng đừng tống tiền người ta, hãy an phận với số lương của mình”. Công việc binh nghiệp tự nó đâu phải là xấu, mà cũng chẳng đáng chê trách, chỉ xấu khi người ta lợi dụng nó làm việc bất chính, như hà hiếp, tống tiền… Lời kêu gọi của Gioan.B trong mùa chay này thật đơn giản dễ thực hiện. Nhưng đòi hỏi mỗi người phải thực hiện cách triệt để và quyết liệt. Vì nếu chúng ta dọn lòng không sửa đổi thì Thiên Chúa sẽ không vào được lòng ta, vì nó đã chứa đầy những bất chính lo âu rồi. Vậy mỗi người hãy biết ăn năn sám hối để dọn lòng đón Chúa trong mùa vọng này.

 

Lạy Chúa, xin cho con biết mở lòng ra với tha nhân, để yêu thương chia sẻ những gì mình có, và làm tốt công việc mà Chúa đã giao. Amen.

 

45.        Vui sống trong Chúa

(Suy niệm của Lm. Anphong Trần Đức Phương)

 

Chúa Nhật 3 Mùa Vọng được gọi là “Chúa Nhật Hãy Vui Lên!” (Gaude/Rejoice Sunday). Chủ Tế có thể mặc Áo Lễ mầu hồng. Lý do là vì chúng ta đã sống được một nửa thời gian đặc biệt hy sinh, hãm mình, tĩnh tâm và cầu nguyện để chuẩn bị Đại Lễ Chúa Giáng Sinh, và “Ngày Chúa Đến” đã gần tới. Mở đầu Thánh Lễ Chúa Nhật hôm nay, trong lời Ca Nhập Lễ, Giáo Hội trích lời Thánh Phaolô kêu gọi tín hữu Philiphê “Hãy vui lên trong Chúa; tôi nhắc lại, anh em hãy vui lên, vì Chúa đã đến gần!” (Philiphê 4: 4-5). Đây cũng là những lời mở đầu của Bài Đọc II (Philiphê 4:4-7) trong Thánh Lễ hôm nay.Trong đoạn này, Thánh Phaolô khuyến khích chúng ta hãy vui luôn trong Chúa với tâm tình cầu nguyện, cảm tạ, tri ân và sống an hòa với mọi người; rồi phó thác mọi nỗi lo âu cho Chúa, Chúa sẽ lo liệu mọi sự cho chúng ta, và lòng chúng ta sẽ được an vui trong Chúa với niềm phó thác tuyệt đối. Ngay trong Bài Đọc I, trích trong sách Tiên Tri Sophonia (3: 14-18), chúng ta đã đọc được những lời phấn khởi vui mừng: “Hỡi thiếu nữ Sion, hãy cất tiếng ca! Hỡi Israel, hãy hân hoan! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy vui lên…!” Tiên Tri Sophonia (Zephaniah) sống vào thế kỷ 7 trước Chúa Giáng Sinh. Tiên tri có nhiệm vụ cảnh tỉnh và kêu gọi dân chúng hãy sám hối lỗi lầm, ăn năn sửa đổi đời sống “vì ngày của Giavê đã tới gần!”, và sau cùng, Tiên Tri cũng đem lại niềm vui cho Dân Chúa “Vì Chúa đã đến gần… Chúa yêu thương dân của Người… ngày của Chúa là ngày giải thóat!” Cũng như các Tiên Tri khác trong Cựu Ước, Tiên Tri Sophonia có nhiệm vụ kêu gọi Dân Chúa đừng bỏ đường lối Chúa, và đừng quên đi niềm mong chờ “Đấng Thiên Sai” (“Đấng Được Xức Dầu” – “The Messiah” – “Đấng Kitô”) mà Thiên Chúa đã hứa sẽ đến để cứu độ Dân Chúa. Đó là “Ngày của Chúa.” Ngày đó đã thực sự đến, là ngày Chúa Giêsu Kitô Giáng Sinh, và nhân loại đang sửa soạn mừng kỷ niệm ngày đại lễ đó – LỄ CHÚA GIÁNG SINH!

Vị tiên tri sau cùng của Cựu Ước chuẩn bị lòng người chờ đón “Ngày Chúa Đến” là Thánh Gioan Baotixita. Ngài thường được gọi là Gioan Baotixita hay Gioan Tẩy Giả, vì ngài ban Phép Rửa thống hối dọn lòng dân đón Đấng Kitô. Ngài cũng còn được gọi là Gioan Tiền Hô, vì Ngài “đi trước để dọn đường” cho Chúa đến. Trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần trước (Luca 3: 1-6), chúng ta đã nghe Thánh Gioan nhắc lại lời của Tiên tri Isaia kêu gọi “Hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng…” Chúa Nhật tuần này, trong Bài Phúc Âm (Luca 3: 10-18), Thánh Gioan thẳng thắn xác định Ngài không phải là Đấng Kitô, Ngài chỉ làm phép rửa thống hối để dọn lòng dân chúng đón “Đấng uy quyền hơn tôi đang đến… Ngài sẽ ban phép Thanh Tẩy cho anh em trong Chúa Thánh Thần và lửa.” Thánh Gioan cũng chỉ cho mọi người phải làm gì để dọn lòng đón Chúa đến. Đó là chia cơm sẻ áo cho người nghèo khó. Mỗi người, tùy theo nghề nghiệp, phải làm gì cụ thể để sửa đổi đời sống: “người thu thuế” hay “quân nhân” hay các ngành nghề nào khác, tất cả đều cần phải chu toàn bổn phận, sống theo lương tâm ngay thẳng. Mỗi người chúng ta hôm nay cũng cần lắng đọng tâm hồn và thưa với Chúa: Chúng con phải làm gì để dọn lòng chúng con đón Chúa đến trong dịp Lễ Giáng Sinh sắp tới? Chúng con phải làm gì để luôn sẵn sàng đón Chúa đến với chúng con trong bất cứ biến cố nào xảy ra trong cuộc đời chúng con; nhất là khi Chúa đến gọi chúng con ra khỏi cuộc đời này? Trong thinh lặng và cầu nguyện, chúng ta sẽ được Chúa chỉ bảo phải làm gì, tùy theo cương vị chúng ta là Chủ Chăn, Linh Mục, Tu sĩ hay cha mẹ trong gia đình, hay giới trẻ đang lớn lên trong một xã hội đầy xáo trộn này.

“Mừng vui lên Sion! Này đây Chúa ngươi đến rồi! Mừng vui lên Sion, Ngài khấng nghe lời ngươi đó! Ngài dẫn đưa ngươi qua những hố sâu, qua núi đồi, Về nơi an vui, nơi suối mát đẹp tươi…”

(Thành Tâm: Thánh ca “Vui lên, Sion”).

 

46.        Hãy vui lên.

(Trích trong ‘Suy Niệm Phúc Âm Hàng Ngày’)

 

Alqua Robil là một nhạc sĩ dương cầm nổi tiếng nhất trong các thiên tài dương cầm trên thế giới hiện nay. Tuy tự xưng mình là người vô thần, nhưng ông đã nói về Chúa Giêsu như sau: “Đối với tôi, Đức Giêsu Kitô đã và luôn luôn là một nhân vật siêu việt cao vời và lý tưởng nhất chưa từng có trong lịch sử nhân loại. Sự kiện Ngài là người Do Thái khiến cho tôi kiêu hãnh lây, vì tôi cũng thuộc dòng giống Do Thái. Cuộc sống của Ngài, các lời Ngài giảng dạy, sự hy sinh và lòng tin của Ngài đã trao ban cho thế giới món quà quí báu cao trọng nhất mà thế giới chưa bao giờ nhận được. Đó là món quà của “tình yêu thương”; tình yêu thương đối với tha nhân, tình yêu thương đối với người nghèo khó, tình thương xót, tình nhân loại và sau cùng là tất cả các tâm tình khiến cho con người trở thành cao thượng.”

Phải! Nhận xét trên đây của nhạc sĩ Alqua Robil thật sâu sắc và chí lý. Đúng thế! Ở đâu có tình yêu thương, thì ở đó có hạnh phúc tươi vui và an bình đích thực. Bởi vì, tình yêu thương là phương thế duy nhất hữu hiệu giúp con người xây dựng một thế giới tốt lành hơn mà không gây đổ máu, chết chóc và tàn phá thương đau cho con người.

Qua các bài đọc hôm nay, Mẹ Giáo hội kêu mời chúng ta thực thi tình yêu thương ấy trong cuộc sống mỗi ngày. Trong chương III, thánh Luca trình thuật biến cố ngôn sứ Gioan Tẩy Giả rao giảng phép rửa thống hối bên bờ sông Jordan, để nêu bật tính cách đại đồng của ơn cứu độ. Thánh sử Luca lồng khung sinh hoạt này của thánh Gioan Tẩy Giả trong những môi trường và với những lớp người vẫn thường bị Do Thái giáo cho là tội lỗi, như đám đông dân chúng dốt nát, ô hợp, bọn thu thuế gian tham xảo trá và lũ lính tráng vô đạo ác độc.

Là người có nếp sống chay tịnh khắc khổ, khi nghe ngài giảng, người ta tưởng đâu là thánh Gioan cũng nghiêm ngặt đòi buộc mọi người sống khổ hạnh tiết chế như ngài. Nhưng không, thánh nhân không đòi buộc họ làm những việc lạ thường khó khăn, mà chỉ khuyên mọi người thay đổi kiểu cách sống và thái độ hành xử đối với người khác. Thánh nhân đề nghị với một thái độ sống quân bình, biết thực thi công lý và yêu thương, chia sẻ cụ thể với tha nhân như:

– Ai thuộc lớp người giàu có, dư tiền dư của và phương tiện vật chất thì từ nay đừng sống ích kỷ, bo bo vơ vét tích trữ cho mình như trước nữa, mà hãy biết chia sẻ cơm áo, quảng đại trợ giúp cho họ có công ăn việc làm, tạo điều kiện sinh sống cho các anh chị em nghèo khó thiếu thốn hơn mình, cốt sao để họ có cuộc sống hạnh phúc sung sướng và đầy đủ, xứng đáng với phẩm giá con người.

– Ai thuộc lớp công nhân viên nhà nước, nắm giữ các nhiệm vụ trong các guồng máy hành chính, thuế má và mọi dịch vụ ngành nghề của cuộc sống, thì từ nay đừng ỉ nại quyền bính mà gian tham, hối lộ, chèn ép, áp bức, hà hiếp và khai thác bóc lột người dân nữa, nhưng hãy sống công bằng.

Nhà nước và các giới chủ hãng hãy trả tiền lương công nhân viên của mình, còn các công nhân viên hãy chu toàn bổn phận của mình với lương tâm nghề nghiệp, tinh thần trách nhiệm và phục vụ cao độ. Bởi vì, khi thăng tiến công ích là mọi người phục vụ và lo lắng cho chính gia đình mình, cho tương lai của con cái và những người thân yêu của chính mình, chứ không phải cho ai khác.

Giới quân nhân là những người có phận vụ phụng sự quê hương và bênh đỡ kẻ cô thân, cô thế thì hãy biết chu toàn phận vụ với tinh thần hào hiệp và ý thức trách nhiệm, chứ đừng dùng vũ khí và chức vụ của mình để hà hiêp bóc lột người dân.

Nói cách khác, thánh Gioan Tẩy Giả khuyên mọi người có kiểu cách sống và hành xử công bằng, yêu thương, liên đới và biết tôn trọng tha nhân, làm thế nào để loại trừ ra khỏi cuộc sống của chúng ta mọi hình thức bạo lực, ích kỷ, tính gian dối lừa đảo, lòng ham hố của cải và tư lợi, gây thiệt thòi và đau khổ cho nhau. Dĩ nhiên, kiểu cách sống trên đây chưa đủ để con người có thể trở thành môn đệ và con cái của Chúa, nhưng nó là một bước khởi đầu cụ thể tốt đẹp, giúp sửa soạn tâm hồn đón nhận Chúa Cứu Thế đến.

Ngoài những kiểu cách hành xử kể trên, cuộc sống lòng tin của người tín hữu còn phải mang một đặc thái khác, đó là thái độ tươi vui mà ngôn sứ Sôphônia nói đến trong chương 3,14-18. Ngôn sứ Sôphônia sống vào cuối thế kỷ VII, và thời đó có rất đông dân thành Jérusalem và vùng Judéa chạy theo các thần linh ngoại giáo. Họ chủ trương hòa đồng các thói tục tôn thờ thần ngoại này với việc phụng sự Thiên Chúa. Ngôn sứ Sôphônia đã mạnh mẽ tố cáo thái độ lệch lạc và bất trung này của họ. Ông báo trước cho họ biết các hình phạt họ sẽ phải gánh chịu, đó là cảnh thành thánh Jérusalem sẽ bị đạo quân Babylon bủa vây đánh chiếm.

Để diễn tả tai ương này, ngôn sứ dùng kiểu nói “Ngày Của Giavê”. Trong ý nghĩa Kinh Thánh, “Ngày Của Thiên Chúa” ám chỉ biến cố Thiên Chúa phán xử con người và mọi loài, mọi vật trong thời cánh chung. Trong ngày lịch sử thế giới kết thúc, Thiên Chúa ra tay uy quyền can thiệp để tạo dựng trời mới đất mới. Đó là thời gian quyết liệt định đoạt đối với vận mệnh con người, hoặc rộng mở tâm hồn đón nhận ơn cứu độ hoặc tự loại trừ khỏi hàng ngũ những người sẽ được cứu thoát.

Tuy nhiên, ngôn sứ Sôphônia cũng hé mở cho dân Do Thái lòng xót thương nhân lành của Thiên Chúa và sự hiện diện cứu độ của Ngài. Thiên Chúa sẽ đến để thu hồi án phạt, chấm dứt tình trạng đọa đày buồn thương cho họ và cứu thoát họ. Chính vì thế, ông mời gọi mọi người “hãy vui lên”, hãy reo hò hớn hở hân hoan, vì Sion là người con gái yêu của Thiên Chúa. “Con gái” là kiểu nói hay được thơ văn của các dân tộc vùng Trung Đông cổ dùng để gọi các thành phố vùng biển.

Trong truyền thống Kinh Thánh, “con gái Sion” ám chỉ nhóm tín hữu còn sót của dân Israel, tức những người đã kiên trung tin tưởng vào Thiên Chúa, tuân giữ luật Ngài và mong chờ Đấng Cứu Thế đến. “Vui lên” cũng là động từ thánh sử Luca dùng trong trình thuật thiên thần Gabriel truyền tin cho Trinh Nữ Maria. Biến cố Chúa Giêsu Con Thiên Chúa Nhập Thể làm người để cứu chuộc nhân loại là một tin vui vĩ đại. Chính vì thế, nên sứ thần mới chào Mẹ Maria với lời chào lạ lùng: “Hãy vui lên, Đấng đầy ơn phúc”.

Mẹ Maria là người được Thiên Chúa yêu thương tuyển chọn, nên được tràn đầy ơn thánh Chúa. Mẹ là hiện thân số còn sót lại của Israel, của cộng đoàn nhỏ bé gồm các tín hữu đã biết sống trung thành với Thiên Chúa và lời hứa của Ngài. Đồng thời Mẹ cũng là toàn thân của Israel đang trông đợi ơn cứu độ thực hiện trong lịch sử loài người. Mẹ Maria là Sion mới, nơi Thiên Chúa sẽ xuống ngự trị và sống với con cái loài người.

Trong chương 4,4 thư thánh Phaolô tông đồ gởi tín hữu Philipphê, Ngài cũng lập lại sứ điệp Tin Mừng ấy và khuyến khích tín hữu sống vui tươi, để trong cuộc đời hãy quên hết mọi khó khăn đau đớn tủi nhục và gian truân cay đắng để chỉ còn cảm thấy niềm vui. Niềm vui đó được phát xuất từ chính tình yêu thương của Chúa Giêsu Kitô, và Ngài giải thích lý do của niềm vui đó là: Kitô hữu có nhiều lý do thuận tiện để luôn có thái độ sống vui tươi. Bởi vì kể từ khi Chúa Giêsu nhập thể làm người, thì Thiên Chúa đã hiện diện giữa lòng trần gian và Ngài đồng hành với họ, chia sẻ mọi biến cố vui buồn trong đời họ.

Qua bí tích rửa tội, Ngài đã giải thoát họ khỏi xích xiềng nô lệ tội lỗi, trả lại cho họ sự tự do, ơn làm con cái Thiên Chúa. Tin vui cứu độ ấy không cho phép Kitô hữu buồn sầu thất vọng như những người không có niềm tin. Có Chúa trong lòng, có Chúa trong đời, có Chúa kề bên thì người Kitô hữu có được tất cả.

Vì thế, họ phải sống tin yêu phó thác và an bình, tươi vui, không âu lo, không sợ hãi. Kết hợp với Chúa qua lời cầu nguyện, qua cuộc sống đối thoại thân tình với Ngài. Họ phó thác mọi sự cho Chúa, và noi gương Chúa Giêsu sống nhân hậu, sống tốt với mọi người, yêu thương, thông cảm và quảng đại với mọi người. Nếu Giáo Hội đánh mất đi sự tươi vui của mình, thì điều đó có nghĩa là Giáo Hội đã đánh mất đi tất cả. Khi đó Giáo Hội không làm chứng cho niềm hạnh phúc là hôn thê của Chúa Kitô nữa, và điều đó cũng có nghĩa là tình yêu đã chết hay đang hấp hối. Tuy nhiên, khi đó Giáo Hội sẽ không còn khả năng yêu thương con người hay yêu thương với một tình yêu buồn sầu, mà tình yêu buồn sầu thì không phải là tình yêu.

Cũng thế, một tín hữu không còn khả năng sống tươi vui là dấu chỉ họ chưa gặp gỡ Thiên Chúa đích thực, Khi người Kitô hữu đánh mất đi niềm vui, thì họ phải tự vấn lương tâm mình xem nó có phải là ấu trĩ hay không? Và nếu quả thật có như vậy, thì đây là lúc chúng ta phải nghe lời thánh Phaolô kêu mời: Anh chị em hãy tìm lại Chúa Kitô, nghĩa là món quà và ơn thánh quí báu nhất trong Mùa Vọng hay sao?

 

47.        “Hãy vui lên”

(Suy niệm của Lm. Phêrô Trần Ðình)

 

Chúa Nhật III Mùa Vọng được gọi là “Chúa Nhật Niềm Vui”. Những bài đọc Kinh Thánh cũng như phụng vụ muốn chúng ta suy nghĩ theo hướng này.

 

  1. “Tôn giáo là tiếng thở dài…”. Ông Karl Marx đã phát biểu như vậy. Đúng sai còn là chuyện phải bàn. Chỉ có điều, là người kitô hữu, Chúa muốn ta phải sống sao cho vui, đẩy lui những “tiếng thở dài” trong cuộc sống mà chính chúng ta đôi khi vô tình hay hữu ý đã gây ra.

Ai mà lại không muốn có niềm vui, nhưng làm sao để có niềm vui?. Câu trả lời thật không đơn giản, bởi vì mỗi người có một cảnh ngộ khác nhau. Tuy nhiên, thiết tưởng cũng có những mẫu số chung cần phải thực thi.

  1. Muốn có niềm vui phải có tâm hồn an bình. Thật chẳng phải vô lý mà trong đêm Chúa giáng trần, thiên thần cầu chúc cho nhân loại được “bình an”. Cứ nhìn vào thế giới hôm nay sẽ rõ: điều mà nhân loại thiếu hơn cả đó là sự an bình. Có ngày nào qua đi mà lại không có cảnh máu chảy đầu rơi?. Làm sao vui được khi phải sống trong cảnh binh đao khói lửa?. Rồi giữa người với người, một cách nào đó, người ta cũng gây ra những cuộc “chiến tranh” khi thì nóng khi thì lạnh.

Tuy nhiên,  cõi lòng chúng ta mới thật sự là nơi mất an bình hơn cả. Vì thế Ông Gioan Tiền Hô kêu gọi hãy sửa lại những con đường. Những con đường ấy không phải là những con đường chạy bên ngoài nhưng là chính cõi lòng chúng ta, hang ổ của tội lỗi. Bao giờ cũng vậy, chính tội lỗi làm cho con người xao xuyến, cô đơn và mất an bình.

  1. Muốn có niềm vui phải biết yêu thương và chia sẻ: “Ai có hai áo hãy chia cho người không có, ai có gì ăn cũng hãy làm như vậy”. Đây là một nghịch lý nhưng cũng là một sự thật hiển nhiên. Cho là mất, điều này đã rõ, nhưng lại nhận được một niềm vui sâu xa vì đã cho, đã quên mình, đã sống quảng đại và chia sẻ.

Ở Palestine có hai biển: Biển Hồ và Biển Chết. Cả hai đều tiếp nhận nước của sông Giođan. Biền Hồ quanh năm nước trong xanh và có nhiều cá, du khách thích qua lại nơi đây. Còn Biển Chết là nơi không ai muốn lui tới, trừ khi bắt buộc phải đi qua. Do đâu mà có sự khác biệt ấy?. Thưa là vì Biển Hồ Galilê tiếp nhận nước của sông Giođan rồi chảy sang những chỗ khác nữa. Còn Biển Chết tiếp nhận nước nhưng không chảy đi đâu, chỉ giữ lại cho mình nên gọi là Biển Chết. Nơi đây chẳng những khách tham quan không thích lui tới mà thậm chí cá mú cũng không thể sống được.

Đây là một hình ảnh rất thi vị dạy mỗi người chúng ta cách thế để tạo niềm vui cho chính mình.

  1. Muốn có niềm vui phải bằng lòng với chính mình. “Hãy bằng lòng với đồng lương của mình”. Ông Gioan Tiền Hô đã nói với binh lính như vậy. Ở đời thì ai mà chẳng thích lương cao, lương thấp thì cuộc sống vì thế mà đôi khi phải khổ sở và thiếu thốn. Chỉ có điều con người rất nhiều khi mất niềm vui vì cứ so sánh với kẻ khác rồi đâm thèm thuồng và nhiều khi dẫn đến sự tội.
  2. Muốn có niềm vui phải chấp nhận “nhỏ đi”. Ít ai nghĩ và muốn nghĩ như vậy. Chính Gioan Tiền Hô dạy ta. Gioan là vị tiên tri vĩ đại. “Trong số những người đàn ông sinh ra từ lòng mẹ, chưa có ai lớn hơn ông”, vậy mà khi Đấng Cứu Thế xuất hiện, ông đã chấp nhận rút lui vào bóng tối: “Người phải lớn lên còn tôi phải nhỏ lại”. Và Gioan gọi đó là niềm vui của ông (x. Ga 3, 29). Người ta thường cảm thấy vui khi biểu dương chính mình, mấy ai cảm thấy vui khi bị nhỏ đi. Gioan đã sống điều đó. Đây là một khám phá ngược với mọi suy tưởng của con người.

Cho hay, để có được niềm vui chân thật, phải biết sống những điều nghịch lý trong đời.

 

48.        Chúng tôi phải làm gì?

(Suy niệm của Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)

 

  1. DẪN NHẬP.

Chúa nhật hôm nay được gọi là Chúa nhật Mầu Hồng vì Ca nhập lễ bắt đầu bằng lời kêu gọi “Hãy vui lên” của thánh Phaolô. Bài đọc 1 và 2 hôm nay làm sáng lên niềm vui và hy vọng. Mầu hồng là mầu diễn tả niềm vui thay vì mầu tím, mầu của tình trạng chưa được thỏa mãn. Có tất cả những điều ấy vì ngày Chúa đến đã gần kề. Ngày hôm nay là cơ hội thuận tiện để chúng ta suy nghĩ về niềm vui của đời Kitô hữu, của những người có Tin mừng cứu độ của Thiên Chúa.

Tuy nhiên, chúng ta chỉ có được niềm vui thực sự khi tâm hồn chúng ta đã được chuẩn bị sẵn sàng cho việc Chúa đến. Nói cách khác, trong khi chờ đợi Chúa đến, chúng ta phải làm gì một cách cụ thể? Thánh Gioan đã trả lời cho chúng ta trong bài Tin mừng hôm nay.

Một cách tổng quát, thánh Goan bảo mọi người phải thực thi công bằng và bác ái trong khi chờ đợi Chúa đến. Nhưng cách riêng đối với từng hạng người thì Gioan đã cho những chỉ dẫn khác nhau:

– Đối với dân chúng: hãy biết chia sẻ cho người khác.

– Đối với người thu thuế, hãy thực thi đức công bằng.

– Đối với quân nhân: đừng hà hiếp dân chúng.

Họ không cần thay đổi nghề nghiệp mà chỉ cần sống cho lương thiện.

Ngoài ra, để đánh tan dư luận cho ngài là Đấng Messia thì Gioan đã khiêm tốn loan báo cho họ biết Đấng Messia sẽ đến, Ngài cao trọng hơn ông, đến nỗi ông không xứng đáng cởi quai dép cho Ngài.

 

  1. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.

+ Bài đọc 1: Xp 3, 14-18.

Tiên tri Xophônia, là người đồng thời với tiên tri Giêrêmia, đi rao giảng vào cuối thế kỷ thứ 7 trước công nguyên, thời ấu vương Giosias (640-630) vào những năm trước cuộc phục hưng tôn giáo do nhà vua phát động.

Trong hoàn cảnh đó, nước Do thái đang ở trong tình trạng tồi tệ: bên trong thì đạo đức suy đồi, bên ngoài thì họa xâm lăng đang rình rập. Tuy thế, tiên tri Xophônia vẫn loan báo tin vui cho dân chúng “Án lệnh của ngươi Thiên Chúa đã rút lại, và thù địch của ngươi Ngài đã đẩy xa” vì thế “hãy reo lên hỡi thiếu nữ Sion. Hoan hô đi nào, hỡi Israel! Mừng vui lên, hỡi thiếu nữ Giêrusalem… Bởi đã đến ngày Thiên Chúa đến ban ơn cứu độ và ngự giữa dân Ngài”.

 

+ Bài đọc 2: Pl 4,4-7.

Thánh Phaolô kêu gọi các tín hữu Philipphê hãy vui lên trong niềm vui của Thiên Chúa bởi vì Chúa sắp đến với ơn bình an của Ngài:”Anh em hãy vui lên trong Chúa. Tôi nhắc lại một lần nữa: anh em hãy vui lên”(Pl 4,4).

Niềm vui này sẽ đến với chúng ta nếu chúng ta biết sống hiền hòa rộng rãi với mọi người và biết sống phó thác cho Chúa trong lời cầu nguyện. Không phải lo lắng gì cả, có gì cứ trình bầy với Chúa.

 

+ Bài Tin mừng: Lc 3,10-18.

Nghe Gioan rao giảng, người ta nô nức đến sông Giođan chịu phép rửa để xin ơn tha tội. Họ tỏ lòng sám hối để đón chờ Chúa đến. Nhưng để dọn đường cho Chúa đến, dân chúng chưa biết phải làm gì và làm thế nào, nên họ hỏi ông: ”Chúng tôi phải làm gì”?

Để giúp các thành phần trong dân Chúa dọn lòng đón tiếp Đấng Messia, Gioan Tẩy giả đã đề nghị một cách tổng quát: Hãy sống công bình và bác ái. Ôâng không bảo họ phải bỏ nghề nghiệp của mình mà hãy sống tốt cho phù hợp với hoàn cảnh của từng hạng người:

– Đối với người dân: hãy chia sớt cho ai không có.

– Đối với người thu thuế: hãy sống công bằng.

– Đối với quân nhân: đừng hà hiếp dân.

Thấy dân chúng tôn vinh mình, tưởng mình là Đấng Messia, Gioan đã khiêm tốn phủ nhận dư luận ấy, và giới thiệu Đấng Messia thật cho họ biết: “Đấng quyền thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Ngài”.

 

  1. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.

Tôi phải làm gì đây.

 

  1. ẢNH HƯỞNG CỦA LỜI KÊU GỌI.
  2. Gioan rao giảng việc sám hối.

Trong tuần lễ trước, thánh Gioan đã xuất hiện tại sa mạc Giođan rao giảng kêu gọi mọi người chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội. Ông đã lặp lại lời tiên tri Isaia cách đó 500 năm, vạch ra con đường để dân chúng theo: ”Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Ngài đi. Mọi thung lũng phải lấp cho đầy, mọi núi đồi phải bạt cho thấp, khúc quanh co phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng. Rồi mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa”.

Lời kêu gọi đó đã được nhiều người chấp nhận, trong số những người đã chịu phép rửa ở sống Giorđan có cả những người thu thuế và quân nhân. Dĩ nhiên cũng có người tò mò đến xem hoặc đến nghe mà cứng lòng không hối cải như những người biệt phái và luật sĩ. Đối với những ngưới ấy, Gioan đã răn đe, báo trước cho họ hình phạt sẽ hòng đổ xuống đầu như chiếc rìu đã đặt sẵn vào gốc cây.

 

  1. Ý thức và nhận mình là người có tội.

Muốn sửa đổi con người của mình, muốn tiến triển trên con đường nhân đức, đều cần thiết là phải biết mình. Người ta thường mắc khuyết điểm nay vì: ”Bàng quan giả tỉnh, đương cục giả mê”: việc người thì sáng, việc mình thì quáng. Nhiều khi con người bị tính tự ái hay tình tư dục làm mờ ám lương tri, không còn nhìn ra chân lý, không biết thực trạng con người mình, nên nhiều khi cần có người thức tỉnh.

 

Truyện: Anh là người có tội.

Cách đây ít lâu, bác sĩ Karl Menninger, trưởng khoa tâm bệnh học của Mỹ đã làm nhiều người kinh ngạc với quyển sách của ông mang tựa đề “Whatever became of sins” (điều gì đang xẩy đến cho tội lỗi). Ôâng bắt đầu quyển sách bằng một câu chuyện trào lộng khiến chúng ta phải suy nghĩ. Vào một ngày chúa nhật tháng 9 năm 1972, trên góc phố đông người qua lại thuộc khu trung tâm Chicago, xuất hiện một nhà chuyên giảùng thuyết ở đường phố. Đang lúc các nhân viên văn phòng vội vã lo đi ăn trưa, nhà giảng thuyết này thình lình giương cánh tay phải lên, dùng cánh tay xương xẩu chỉ vào một nhân viên nào đó rồi la lên: ”Anh là kẻ có tội”! Đoạn ông đứng im, nghỉ vài giây rồi lại bắt đầu chỉ vào một nhân viên khác rồi la lên: ”Anh là kẻ có tội”!

Bác sĩ Menninger nói: ”Tác động mà nhà giảng thuyết gây ra nơi những người bộ hành đi ngang qua đó thật là kỳ lạ”. Họ lấm lét nhìn ông, rồi lại quay mặt đi chỗ khác, rồi lại lén nhìn nữa, và cuối cùng vội vàng đi tiếp (M. Link).

Chắc chắn Gioan Tẩy giả cũng gây được tác động tương tự trên đám dân khi ngài xuất hiện ở bờ sông Giorđan. Ngài cũng như nhà giảng thuyết đã chạm vào nơi vùng thâm sâu dễ thương tổn nhất của dân chúng. Ngài đòi buộc dân chúng xét lại tâm hồn mình và nhận biết lỗi lầm của mình. Ngài còn đòi hỏi họ phải từ bỏ tội lỗi để quay về cùng Thiên Chúa.

 

  1. Chờ đợi Đấng Cứu thế.

Kẻ học biết Kinh thánh và những luật sĩ chỉ lo nghiền ngẫm những lời tiên tri loan báo: Đấng Cứu thế sắp đến là: ”Vua được xức dầu. Ngài đến trong dòng dõi Giuđa. Ngài chiến thắng quân thù, giết những vua chúa ngoại bang… Đấng xức dầu sẽ tụ họp dân Ngài trong đường công chính, cai trị các quốc gia, loại trừ mọi bất công và gian ác. Phúc cho ai được sống trong thời đại ấy”. Họ nghiền ngẫm những lời ấy và suy đoán sắp đến ngày Đấng Cứu thế xuất hiện và ai ai cũng đều cầu xin Ngài đến.

Giờ đây họ được nghe loan báo Ngài đang đến. Thế là như cá gặp nước, như người chết đuối vớ được phao cứu, dân chúng đổ xô đến với Gioan và hỏi: ”Chúng tôi phải làm gì để đón rước Đấng Cứu thế” (Vũ khắc Nghiêm).

 

  1. CHÚNG TÔI PHẢI LÀM GÌ?
  2. Những hướng dẫn cụ thể.

Sau khi được nghe lời kêu gọi sám hối của Gioan Tẩy giả, dân chúng nôn nóng muốn thực hành ngay những điều ông dạy, nhưng những lời rao giảng ấy còn khó hiểu với những người phần lớn là thôn quê, đơn sơ chất phác. Họ muốn những lời dạy cụ thể hơn. Những việc mà Gioan muốn cho họ thực hiện chung qui là “Công bằng và Bác ái”. Tùy từng hạng người mà ông cho những hướng dẫn cụ thể.

 

  1. a) Đối với dân chúng.

Đám dân đến nghe Gioan rao giảng đều là những người bình dân, cho nên lời rao giảng của ông là rõ ràng, chính xác và cần thực hiện ngay không được chậm trễ. Nó không có gì thuộc phạm vi trí thức hay khó hiểu cả, chính trong cái bình thường nhất hay tầm thường nhất của cuộc sống hằng ngày (ăn, mặc…) mà sự hoán cải qua thân xác, sự quay lại của tâm hồn gọi là “metanoia” cần được thực hiện. Nên Gioan đã trả lời: ”Ai có hai áo, thì chia cho người không có, ai có gì ăn thì cũng làm như vậy”.

 

  1. b) Đối với người thu thuế và quân nhân (cảnh sát).

Trong đám đông dân chúng đến chịu phép rửa, người ta nhận thấy có cả người thu thuế và cảnh sát. Đó là những người bị người ta ghét nhất thời đó, là những người ít tư cách nhất để đón tiếp Đức Giêsu, những người sống ngoài lề xã hội và bị khinh bỉ, những người tội lỗi nhất, những hạng người “đểu cáng”.

Những người thu thuế cũng thành thực hỏi ông:”Thưa Thầy, chúng tôi phải làm gì”? Ông trả lời cho họ: ”Đừng hỏi gì quá mức đã ấn định cho mình”. Binh lính cũng hỏi ông: ”Còn anh em chúng tôi thì phải làm gì”? Ông bảo họ: ”Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta, hãy an phận với số lương của mình”

Ở đây chúng ta nhận ra rằng Tin mừng theo thánh Luca sẽ cho chúng ta thấy Đức Giêsu ”dùng bữa nơi nhà người tội lỗi” (Lc 5,27-30). Làm cho những người công chính rất bất bình với Đức Giêsu, ”ngụ tại nhà người tội lỗi” (Cl 19,7) làm cho những người “đàng hoàng” phải bực bội. Đức Giêsu nói rằng Ngài đến không phải vì những người công chính (Lc 5,32).

 

  1. Không đổi nghề nhưng đổi cung cách hành xử.

Thánh Phaolô không bảo họ phải lên rừng, vào hoang địa đi tu như Ngài. Không bảo người ta phải sống khắc khổ, ăn châu chấu và mật ong rừng, mặc áo nhặm da thú như ngài. Nhưng đối với đại đa số dân chúng, ngài chỉ bảo họ sống yêu thươug, hãy thực thi bác ái.

Còn đối với những người thu thuế và cảnh sát của quân đội chiếm đóng, Gioan Tẩy giả không yêu cầu họ đổi nghề, nhưng chỉ cần có cung cách sống mới: tôn trọng công lý, không lạm dụng sức mạnh mình có trong tay, bằng lòng với những gì mà quyền lợi và luật pháp đã quy định. Tất cả những lời khuyên trên đây thuộc lãnh vực nghề nghiệp. Chúng nhằm đến những tội lỗi, mà người thu thuế và binh lính thời ấy thường hay vấp phạm: làm giầu bằng cách lợi dụng tư thế bất khả xâm phạm do nghề nghiệp của mình. Lợi dụng thế mạnh nhất của mình đang nắm giữ (Quesson).

Lao động là việc cần thiết và có lợi cho đời sống vật chất cũng như tinh thần. Nói đến lao động là nói đến nghề nghiệp. Hiện nay bên Mỹ người ta đếm được 23.559 cách làm ăn để sinh sống. Tựu trung tất cả các nghề làm ăn sinh sống đều qui về hai loại lao động là trí óc và chân tay. Nghề nào cũng tốt, không có nghề nào xấu, chỉ có người xấu như ngạn ngữ Pháp đã nói: ”Il n’y a pas un sot métier”: không có nghề nào xấu cả. Chúng ta cứ tiếp tục nghề nghiệp hiện tại của mình một cách lương thiện.

Những lời khuyên của Gioan ở trên thích nghi với địa vị của mỗi người. Ôâng không đòi buộc người ta tách lìa khỏi thế gian hoặc phải từ bỏ các nghề nghiệp. Ông chỉ đòi hỏi lòng nhân hậu và đức công bình, đó là những hoa trái biểu lộ lòng sám hối đích thực trong lúc chời đợi Đấng Cứu thế.. Giáo huấn của Gioan vì thế có tính cách chuẩn bị cho những đòi hỏi quyết liệt hơn của Đức Giêsu (Lc 6,29.32-36; Mt 5,39-48).

 

  1. Kết quả của việc sám hối.

Nếu mọi người biết thực thi lời Gioan khuyên nhủ, chắc chắn niềm vui sẽ đến với mọi người vì tâm hồn mình đang sẵn sàng chờ đợi Chúa đến. Lời thánh Phaolô tông đồ trong bài đọc 2 hôm nay phải rộn vang trong lòng mọi người đón chờ Chúa đến: ”Anh em hãy vui lên trong Chúa. Tôi nhắc lại một lần nữa: Anh em hãy vui lên”(Pl 4,4).

Tác giả Chesterton đã viết: ”Niềm vui là bí mật to lớn của người Kitô hữu”. Quả đúng như thế, bởi vì Kitô hữu là người đã được Thiên Chúa mạc khải, được Ngài hướng dẫn đưa vào trong những kế hoạch huyền nhiệm của Ngài liên quan đến tương lai của nhân loại, cũng như những phương thế để thực hiện tương lai này. Ngoại trừ tội lỗi, không một thứ gì có thể làm cho người Kitô hữu phải buồn phiền: họ vui vì họ đã đặt mọi niềm hy vọng nơi Thiên Chúa; họ luôn luôn vui. Bởi vì Chúa Thánh Thần là Đấng dưỡng nuôi niềm vui của họ.

Để cho niềm vui được chan hòa trong lòng, người Kitô hữu cần biết chia sẻ niềm vui; bởi vì tâm hồn càng triển nở và dồi dào sức sống, nếu nó biết trao hiến, biết tận tình phục vụ. Đây không phải là một tình huynh đệ giả tạo, mà là sự khả ái, sự an nhiên giúp chúng ta có thể thấu hiểu mọi sự, mà không thiếu sự cương quyết; có thể sống an nhiên, mà không vì thế trốn tránh các khó khăn của cuộc đời.

Thánh Phaolô đã khuyên các tín hữu: ”Hãy vui cùng kẻ vui, hãy khóc cùng kẻ khóc”. Sở dĩ Ngài khuyên các tín hữu như vậy là vì con người hay ích kỷ, chỉ biết vơ mọi cái vào cho mình, mình là trung tâm của vũ trụ, còn thì sống chết mặc bay. Cho nên biết chia sẻ niềm vui cho người khác cũng là thực thi bác ái và nó đòi phải hy sinh, hy sinh phải ra khỏi cái ốc đảo của mình để chú ý đến người khác. Người ta nói:”Niềm vui mà được chia sẻ thì tăng lên gấp bội, và nỗi buồn mà được chia sẻ thì sẽ giảm đi được một nửa”. Như vậy thì ai mà không muốn được chia sẻ?

 

Sự vui tươi không ở trong cảnh vật mà chỉ có ở trong lòng người: ta vui thì cảnh vật vui, ta buồn thì cảnh vật sẽ buồn. Cảnh vật bên ngoài chỉ là bức họa phản chiếu tâm hồn từng người. Đúng như thi sĩ Nguyễn Du đã nói trong truyện Kiều:

Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.

Một người đã có Chúa trong mình thì bao giờ cũng vui tươi mặc dầu sống trong cảnh đau khổ. Không gì có thể làm cho họ buồn vì thánh vịnh 42 đã chứng minh: ”Introibo ad altare Dei, ad Deum qui laetificat juventutem meam”: Tôi sẽ bước tới bàn thờ Thiên Chúa, đến cùng Đấng làm cho tuổi xuân tôi được mừng vui”(Tv 42,4).

 

Truyện: Vui buồn ở tại lòng người.

Buổi sáng ở trạm xăng ngoại ô San Francisco. Một người ngồi xe hơi đến:

– Xin cho hỏi thăm ông chủ một chuyện. Hai tuần lễ vừa qua, tôi nghỉ mát tại Santa Cruz. Thật hứng thú. Phong cảnh ở đó đẹp. Dân ở đó dễ thương. Còn về Redwood Highway, ông chủ có ý kiến gì không?

Ôâng chủ cây xăng hớn hở trả lời:

– Ở Redwood-Highway dân cũng dễ mến lắm.

Chưa đầy một tiếng đồng hồ sau, một người khác cũng muốn biết về nơi nghỉ mát này. Chàng nhăn nhó nói:

– Vừa rồi, tôi đã uổng mất hai tuần nghỉ mát. Chỉ thấy bực mình. Phòng ngủ thì thiếu tiện nghi. Dân ở đó dễ ghét.

Ôâng chủ rầu rầu đáp:

– Miền Redwood-Highway cũng chẳng hơn gì.

Khách đi rồi, người ta mới hỏi ông:

– Tại sao thay đổi ý kiến chóng như vậy?

Ôâng nói:

– Đâu có. Tôi chỉ nhận xét rằng hai ông khách kia mỗi người theo đuổi một cảm nghĩ, không ai muốn thay đổi. Ôâng thứ nhất yêu những người đã gặp, và thích phong cảnh đã được xem. Vậy chắc là đi tới nơi nào ông cũng thích cũng yêu nơi đó. Còn người thứ nhì thì khó tính, hay càu nhàu. Vậy tôi nghĩ rằng đi tới đâu, ông ta bất mãn nơi đó.

(Vũ Minh Nghiễm, Sống sống, tr 210-212)

 

Trong tuần lễ này, chúng ta phải năng hỏi Chúa: ”Lạy Chúa, con phải làm gì”? Câu hỏi này chúng ta đã từng gặp nhiều lần trong Kinh thánh để rồi Chúa sẽ trả lời cho chúng ta trong ơn thánh. Chúng ta thử đưa ra mấy trường hợp. Trước hết, người thanh niên giầu có và thông luật đến hỏi Đức Giêsu: ”Tôi phải làm gì để được sống đời đời”? Ông Nicôđêmô, sau khi nghe Đức Giêsu nói về sự “tái sinh” bởi nước và Thánh Thần, ông thấy khó hiểu và tự hỏi: ”Tôi phải làm gì, không lẽ già cả như tôi lại chui vào lòng mẹ mà sinh lại”? Khi bị quật ngã trên đường đi Đamas, thánh Phaolô cũng đã hỏi Chúa một câu tương tự: ”Thưa ngài, tôi phải làm gì”?

 

Tóm lại, qua bài Tin mừng hôm nay, thánh Gioan Tẩy giả đã vạch ra cho chúng ta một cách sống đẹp lòng Chúa để dọn đường cho Chúa đến là hãy sống yêu thương và công bằng. Đó là những hoa trái biểu lộ đích thực lòng sám hối. Và đó cũng là những chuẩn bị cho những đòi hỏi quyết liệt của Chúa Giêsu sẽ vạch ra sau này. Chúa đòi hỏi chúng ta phải ra sức làm việc phục vụ anh em trong yêu thương, trong công bằng bác ái, chú ý đến kẻ khác để có thể nói “Mình vì mọi người, mọi người vì mình”. Chúa cũng muốn chúng ta thực hiện câu tục ngữ người ta thường nói: ”Có đi có lại mới toại lòng nhau”: chúng ta có biết quên mình đi mà đến với tha nhân, thì Chúa mới đến với chúng ta và khi đã có Chúa là nguồn vui thì chắc chắn chúng ta sẽ được vui tươi. Hãy thực hiện lời thánh Phaolô: “Anh em hãy vui lên trong Chúa”.

 

49.        Chúng tôi phải làm gì?

(Trích trong ‘Tin Mừng Chúa Nhật’)

 

Bác sĩ Karl Menniger, trưởng khoa tâm bệnh học của Mỹ làm nhiều người kinh ngạc khi đọc cuốn “Whatever became of sin” (Điều gì đang xảy đến cho tôi?) Ông bắt đầu cuốn sách với câu chuyện khiến mọi người phải suy nghĩ. Vào một ngày Chủ nhật tháng 9 năm 1972, trên góc phố đông người qua lại, xuất hiện một nhà giảng thuyết. Vào lúc các nhân viên văn phòng vội vã lo đi ăn trưa, ông thình lình giơ cánh tay gầy guộc dùng ngón tay xương xẩu chỉ vào một nhân viên nào đó la lên: “Anh là kẻ có tội”, đoạn ông đứng im, nghỉ vài giây, rồi lại chỉ vào một người khác và la lên: “anh là kẻ có tội”.

 

Bác sĩ Menniger nói: “Tác động mà nhà giảng thuyết gây ra nơi những người bộ hành đi qua đó thật là kỳ lạ”. Họ lấm lét nhìn ông rồi quay mặt đi chỗ khác, rồi lại lén nhìn nữa, và cuối cùng vội vàng đi tiếp…

 

Chắc hẳn Gioan Tẩy Giả cũng gây được tác động tương tự trên đám dân khi Ngài xuất hiện bên bờ sông Giođan. Hẳn nhiên, một số chế nhạo Ngài, một số tức giận khó chịu, một số khác giật mình như bị chích vào vùng nhạy cảm, tự tận thâm sâu của lòng họ nhận ra sự sai quấy đã làm. Chúng ta đọc thấy phản ứng đó qua câu hỏi: “Chúng tôi phải làm gì?”. Trong cuốn sách nói trên, bác sĩ Menniger cho thấy người thời nay làm nhiều điều sai quấy, nhưng điều đó không làm cho ông ưu tư, điều ông ái ngại là có rất nhiều người không chịu chấp nhận rằng mình làm điều sai quấy, chính vì thế mà nhà giảng thuyết trên chỉ nói: anh là kẻ có tội đã tạo ra một tác động kỳ lạ nơi những nhân viên làm việc tại Chicago.

 

Dầu con người chấp nhận hay không chấp nhận, sự thật vẫn là con người là một tội nhân: Mọi người đều phạm tội, Thánh Kinh chép: “Chẳng một người nào công chính dù chỉ một người thôi. Mọi người đều trở mặt, đi vào đường lầm lạc. Chẳng một ai làm lành, dù chỉ một người cũng không. Vì mọi người đều phạm tội không còn phản chiếu vinh quang Thiên Chúa” (Rm 3,10.12.23).

 

Nếu vua tiên tri Đavít có thú nhận: “Lúc chào đời, con đã vương lầm lỗi, đã mang tội khi mẹ mới hoài thai” thì cũng chỉ nói lên thân phận của kiếp người trước cái nhìn của Thiên Chúa. “Nếu chúng ta chối tội là chúng ta tự lừa dối, và không chịu nhìn nhận sự thật. Nếu chúng ta bảo mình vô tội là cho Chúa nói dối” (1Ga 1,8.10). Chúa Giêsu khẳng định với Nicôđêmô: “Thể xác chỉ sinh ra thể xác. Thánh Linh mới sinh ra tâm linh”. Như vậy cần phải tái sinh.

 

Nhưng việc tái sinh này, Gioan Tẩy Giả không làm được, ông có thể cho con người biết mình tội lỗi, như các người thu thuế nhận ra mình có lỗi trong việc thu thuế quá mức, đám lính tráng nhận ra mình hay bắt nạt dân chúng, còn tất cả dân chúng đều nhận ra tội ích kỷ không chia sẻ của cải cho những ai túng thiếu. Ông đòi buộc dân chúng xét lại tâm hồn mình và nhận biết lỗi lầm. Ông còn đòi họ phải từ bỏ tội lỗi để quay về với Thiên Chúa… Nhưng còn việc tha tội thì ông không làm được. Ông không làm được nhưng có thể chỉ cho người ta Đấng có thể làm điều ấy: “Tôi thì lấy nước mà rửa cho các ngươi, nhưng Đấng quyền năng hơn tôi sẽ đến, tôi không xứng đáng cởi dây giày cho Người. Chính Người sẽ rửa các ngươi trong Chúa Thánh Thần và lửa”. Rửa trong Thánh Thần là cách nói khác của tái sinh, là lãnh nhận ơn tha thứ tội lỗi do công ơn cứu chuộc của Đức Kitô trên thập giá. Đó chính là lý do vui mừng mà thánh Phaolô đã kêu gọi và là cao điểm của Thánh Lễ Chúa Nhật III Mùa Vọng hôm nay.

 

Chúng ta phải hết sức ngạc nhiên khi xét đến bối cảnh mà vị tông đồ đã đưa ra lời kêu mời vui mừng này. Đây không phải là như một người đang vui say lạc thú trần gian đưa tay cầm ly rượu kêu mời bạn hữu, nhưng là một con người đang sống trong ngục tù, Phaolô đã được đưa về giam tại Rôma, đang chờ đợi bản án chung kết, có thể là tử hình (và sau này là tử hình thật). Chỉ trong một bức thư gửi giáo đoàn Philipphê, ngài đưa ra lời kêu gọi vui mừng này tới hai lần, và lần nào cũng “tôi nhắc lại” với một tâm tình tha thiết đặc biệt. Người cha tinh thần ấy đang động viên tinh thần đoàn con của mình trong hoàn cảnh khó khăn mà họ đang phải đương đầu. Ông không thuyết giảng một cách mơ hồ, nhưng khích lệ họ với chính kinh nghiệm của bản thân mình, tại sao ông có thể vui và vui luôn, dầu trong bất cứ hoàn cảnh nào?

 

Ông có thể vui vì ông đã được tha thứ. Không ai có thể vui vì mình là tội nhân, nhưng vì tội nhân đã được tha thứ: “Đây là lời trung thực, đáng được mọi người tin nhận: Chúa Cứu Thế Giêsu đã đến trần gian để cứu vớt những người tội lỗi. Trong những người được cứu, ta nặng tội nhất” (1Tm 1,15). Ông nặng tội, bởi vì “trước kia, ta là người phạm thượng, tàn bạo, khủng bố người theo Chúa, nhưng Chúa còn thương xót vì ta không hiểu điều mình làm khi chưa tin nhận Ngài” (1Tm 1,13). Chỉ những ai nếm trải được sự tha thứ này mới cảm nhận được điều mà thánh tông đồ chia sẻ. Mỗi lần chúng ta phạm tội, lòng chúng ta luôn áy này, tâm hồn chúng ta nặng chĩu như bị một khối nặng đè lên, nhưng khi vừa được ơn tha thứ, biết rõ tội mình được tha, lòng chúng ta được thanh thoát, khối nặng đã bị cất đi…

 

Phaolô vui mừng vì tội được tha, vì ngài biết rõ Đấng ngài đặt niềm tin vào: “Vì ta biết rõ Đấng ta tin cậy, chắc chắn Ngài có quyền bảo vệ mọi điều ta uỷ thác cho đến ngày cuối cùng” (2Tm 1,12). Ông đã ký thác linh hồn mình cho Chúa Giêsu, và ông biết chắc chắn cuộc đời ông sẽ kết thúc như thế nào, sẽ dẫn ông đến bến bờ nào. Được như thế là nhờ: “Ta cứ chăm chú nhìn vào Chúa Giêsu là căn nguyên và cứu cánh của đức tin. Nhằm vào niềm vui tối hậu, Chúa đã kiên nhẫn vác cây thập giá xem thường sỉ nhục, và hiện nay ngồi trên ngai uy quyền tuyệt đối, bên phải ngai Thiên Chúa” (Dt 12,2). Cả cuộc đời đã như thế, còn gì mà không vui mừng: “Riêng phần ta, ta biết gần đến ngày từ giã trần gian, về thiên đàng. Ta đã chiến đấu anh dũng, chạy xong cuộc đua, giữ vừng niềm tin. Từ đây mão miện công chính đã dành sẵn cho ta. Chúa là Chánh án chí công sẽ ban cho ta trong ngày Ngài trở lại, cũng như cho tất cả những ai yêu mến, trông đợi Ngài” (2Tm 4,6-8).

 

Có lẽ trong chúng ta có người tự nghĩ: ai được như Phaolô, ai được Chúa đích thân gặp gỡ. Đúng thế, nhưng chúng ta cũng rất tự hào vì đã có một anh hùng tử đạo, không những có tinh thần của Phaolô, nhưng còn mang tên Phaolô nữa, đó là cha thánh Phaolô Lê Bảo Tịnh.

 

Trong bức thư viết từ nhà giam tại Hà Nội đề ngày 24.04.1843 gửi cho các bạn ở chủng viện Vĩnh Trị, thầy viết: “’Tôi, Phaolô Lê Bảo Tịnh, đang mang gông xiềng vì Đức Kitô, từ ngục thất tôi gửi về các bạn những lời chào thân ái, và chắc chắn là những lời chào sau cùng… Tù ngục này quả là hình ảnh sống động của hoả ngục muôn đời. Không kể gông cùm xiềng xích, tôi còn phải nghe, phải chứng kiến, phải chịu đựng những oán ghét, thù hằn, những lời phỉ báng Thiên Chúa, những lời nói dâm ô, những cuộc xô xát, những hành vi bỉ ổi, những lời thề nguyền gian dối. Ngoài ra, tôi còn phải chịu phiền cực, chịu muỗi đốt, rệp cắn. Đã hết đâu, người ta còn luôn tuôn ra những lời căm hờn chửi rủa vua quan, bạn hữu, cha mẹ… Ngoài những đau khổ nói trên, mùa hè tôi phải chịu cái nóng nung người, mùa đông chịu rét buốt. Qua nhiều năm không bao giờ nhìn thấy mặt trăng hay ánh sao. Suốt đêm tôi không ngủ được, hoặc chỉ chợp mắt một vài trống canh là cùng… Nhưng nhờ ơn Chúa, ở giữa những cực hình thường làm cho các tù nhân khác phải sầu khổ, tôi lại được tràn ngập hoan lạc, vì tôi không cô đơn, nhưng Chúa Kitô ở với tôi. Chính Người, Thầy của chúng ta, chịu đựng sức nặng của cây thập giá, phần tôi, tôi chỉ vác cách nhẹ thôi. Vì Người không phải chỉ đứng xem chiến đấu nhưng chính Người chiến đấu và đắc thắng. Chính Người sẽ kết thúc cuộc chiến đấu…”.

 

Nhưng xem ra cuộc chiến chưa kết thúc, thầy lại được ra khỏi ngục, tiếp tục tu, làm linh mục chui, trở thành giám học chủng viện Vĩnh Trị, để rồi lại bị bắt giam tại nhà tù Nam Định, ngày 6.04.1857, tức là mười hai ngày trước khi chịu tử đạo, cha viết cho chủng sinh: “Chúng con hãy ca tụng Chúa nhân lành vì việc Người đã thực hiện nơi cha”, sau đó cha kể sơ qua về đời sống khổ cực trong lao tù, rồi tâm sự: “Cha cảm tạ Chúa đến muôn đời vì Người cho cha được sống trong yên lặng, cha có thể cầu nguyện và suy niệm tuỳ ý. Cha sung sướng tin tưởng rằng không gì có thể phân ly cha khỏi tình yêu Chúa Kitô, dù tù tội, đói khát, gươm giáo hay cái chết, vì Chúa Kitô là sự sống của cha”. Và rồi cha nhắc lại hầu như đúng lời vị đại tông đồ: “Cha có thể nói rằng: đã đến giờ cha phải ra đi, cha đã giữ vững đức tin, đã chạy hết chặng đường và cha đã trông đợi rằng: vị Thẩm phán sẽ trao cho cha vòng hoa dành cho người công chính, không phải chỉ cho cha, nhưng còn cho tất cả những ai hết tình mong đợi Người đến”. Cha kết thúc bức thư: “Sau khi khuất đi, nếu có thế lực gì bên Chúa, cha hứa sẽ không bao giờ quên chúng con. Vĩnh biệt”.

 

Chính nhờ thế lực của các vị anh hùng đức tin bên toà Chúa, và gương sáng của cha ông để lại mà chúng ta có được như ngày hôm nay. Tôi xin kết thúc bài chia sẻ với câu truyện sau đây: “Khi đạo Chúa được truyền bá ở thành phố lớn nhất miền Nam, có rất ít người tin Chúa. Một hôm có người ga trưởng là thầy Lê theo đạo. Thầy về thuyết phục những người trong gia đình và bạn hữu ở Bình Trị Đông, nhưng không ai chịu theo. Mấy tháng sau, thầy đau nặng rồi qua đời. Khi an táng, các tín hữu chung quanh tới cử hành, họ đau buồn vì mất một người anh em thân yêu, nhưng tất cả đều có niềm an ủi lớn và vui thoả khác thường trong Chúa, vì biết chắc thầy Lê đang an nghỉ trong Nước Chúa như lời Chúa dạy. Niềm an ủi và vui thoả khác thường đó đã gây một ấn tượng sâu xa nơi những người dự đám tang. Sau đó ít lâu, cả gia đình thầy Lê xin theo đạo, và rất nhiều người ở Bình Trị Đông quyết định theo Chúa. Những người ấy khi tin Chúa đều nói rõ, tuy trước kia họ không muốn nghe Phúc Âm, nhưng niềm vui an ủi vui thoả của các tín hữu giữa đám tang thầy Lê đã khiến họ lưu ý đặc biệt, rồi tìm hiểu đạo và tin Chúa”.

 

50.        Chúa Nhật 3 Mùa Vọng

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu Duyên)

 

“CÒN CHÚNG TÔI, CHÚNG TÔI PHẢI LÀM GÌ”

 

Chắc là niềm vui của Đại Hội Simon-Hòa IV vẫn còn âm vang trong anh và gia đình? Ở quê hương thì ngày 12.12 cũng là ngày cử hành năm thánh với các Chủng Sinh. Nhìn vào những khuôn mặt rạng rỡ của anh chị em tuốn về những ngày đó, chúng ta hiểu được lời kêu gọi của Thánh Phaolô “Anh em hãy vui luôn trong Chúa! Tôi nhắc lại một lần nữa: Anh em hãy vui lên”. Niềm vui những ngày ấy, niềm vui của những con người đã từng theo đuổi cùng một lời gọi: niềm vui có gốc gác nơi Chúa. Không có niềm vui nào để lại trong lòng ta và cuộc sống ta âm hưởng rộng lớn và bền bỉ hơn niềm vui thật giản đơn ấy. Đức Cha Phaolô đã khẳng định như vậy khi chọn cho mình khẩu hiệu “Chúa là Nguồn Vui”. Thánh Phaolô đã cho thấy là “Bình an của Thiên Chúa vượt mọi trí hiều”. Những ngày đại hội cho chúng ta cảm nếm ý nghĩa chân thật của Lời Chúa.

Những tháng ở gần anh em bên đó, tôi cũng có nhiều cơ hội để đến một số trung tâm giải trí, nhìn từ bên ngoài thì có cảm nghĩ là lời tiên tri Sophonia đang được thể hiện ở đó: người người như thác lũ tuốn về, hoan hỉ reo vui, nhảy mừng…tôi cũng thả bộ trên cầu bãi biển Cali nhìn dọc theo bờ những niềm vui dường như bất tận. Nhưng nó vẫn không che khuất được những lo nghĩ và căng thẳng trong lòng mỗi con người ở đó, họ vẫn còn có những bài toán nan giải đeo bám họ.

Gioan thật chí lý khi khiêm tốn xác minh phép rửa của ông chỉ là phép rửa trong nước: nó chỉ có thể đụng chạm tới da thịt, không thể gột rửa tâm hồn con người. Thậm chí, ngay cả những việc làm ông đề nghị cho từng hạng người, những việc làm ấy cũng chỉ là giai đoạn chờ đợi. Những niềm vui chúng ta phải trả giá đắt: ở Las Vegas, ở các Tours du lịch, ở những bãi biển… tất cả chỉ kích thích cho da thịt rung lên, nhưng cái ẩn kín của tâm hồn thì dường như càng thêm u uất… Cũng như Gioan, cũng như những người nghe Gioan hôm ấy, mọi nỗ lực tìm kiếm niềm vui và bình an của chúng ta tất cả cũng chỉ là những thoáng lửng trôi ngang qua cuộc đời trăm đắng nghìn cay.

Và Gioan loan báo Phép Rửa trong Thánh Thần, Phép Rứa gạn lọc tất cả để niềm vui thấm nhập tận cõi u minh của tâm hồn. Điều chúng ta cần thấy trong tất cả lời loan báo này: những cố gắng của con người như của chính Gioan không phải là vô ích, tất cả là điều kiện và sẽ tồn tại nếu như nó được dấn vào trong quyền năng của Thánh Thần. Sự khiêm tốn của Gioan mở toang mọi cánh cửa hiện sinh cho lửa Thánh Thần trở nên Lời Loan Báo Tin Mừng. Sự khiêm tốn được đồng hóa với sự đảm nhận hiện sinh trong lòng tin và niềm hy vọng vào Đấng Quyền Năng sẽ đến.

Niềm vui của những ngày Đại Hội là niềm vui của những con người đã một lần nghe tiếng gọi của Đấng yêu thương mình, và muốn có Người đồng hành trong cuộc sống hôm nay. Niềm vui ấy sẽ tròn đầy nếu như chúng ta biết như Gioan làm cho Đức Kitô bước vào “sân lúa” của Người. Điều ấy sẽ thành hiện thực, nếu như trong ngày gặp gỡ, chúng ta đã biết đứng sang một bên và ân cần giới thiệu Đức Kitô cho anh chị em mình. Đó cũng chính là niềm vui của mùa vọng của Giáo Hội, của tập thể cộng đoàn Simon-Hòa ngay từ thưở ban đầu. Không lẽ nào lại chẳng là niềm hy vọng của chúng ta hôm nay?

 

51.        Chúa Nhật 3 Mùa Vọng

 

Anh chị em thân mến.

Trên đường đi, anh chị em gặp nhiều bản hiệu hướng dẫn; nào cấm đậu xe, không được nhấn còi, rẻ trái, rẻ phải… thỉnh thoảng còn có những cảnh sát giao thông. Vậy mà tai nạn giao thông cứ xảy ra thường xuyên. Không phải những người đó không nhìn thấy bản chỉ dẫn, cũng không phải họ không biết luật lệ giao thông. Trái lại họ biết rất rỏ, nhưng không tuân giữ nên mới có tai nạn xảy ra. Nếu họ biết tôn trọng luật lệ giao thông thì họ bảo đảm an toàn cho mình mà còn gìn giữ cho người khác nữa.

Gioan tẩy giả xuất hiện, ông kêu gọi ăn năn sám hối, sửa đỗi cuộc sống. Mọi người chạy đến với ông và hỏi: “chúng tôi phải làm gì?”. Ông không chỉ cho điều gì mới lạ, mà từng người từng địa vị, từng trường hợp, ông bảo sống đúng trách nhiệm của mình, làm tròn bổn phận được chỉ định. Ông chỉ dạy và ông còn làm gương cho mọi người, qua việc ông xác định thân phận của mình. Ông chỉ là người đi báo tin, ong chỉ biết làm tròn trách nhiệm của mình, ông không chấp nhận những gì mà mọi người gán ghép cho, ông không thể nhận điều mình không xứng đáng được nhận. Ông chỉ kêu gọi mọi người chuẩn bị đón Đấng đến sau ông, nhưng có trước ông, quyền lực hơn ông và là Đấng mang ơn cứu rỗi đến cho mọi người.

Lời kêu gọi của Gioan năm xưa đối với những người Do Thái thời bấy giờ, cũng là lời mời thống thiết đối với từng người trong chúng ta. Nhưng chúng ta có biết lắng nghe và chạy đến để hỏi như người Do Thái khi xưa không? Tôi phải làm gì? Chúng ta cũng đã từng nghe câu trả lời, nghe rất nhiều, nhưng những gì đã nghe có đưa tới hành động hay không lại là một chuyện khác.

Ai có hai áo thì chia cho ngưới không có,

Ai có của ăn cũng hãy làm như vậy.

Đừng đòi hỏi quá mức ấn định.

Chớ dùng vũ lực,đừng vu khống mà tống tiền người ta,

Hãy an phận với số lương của mình.

Những điều đó chúng ta biết quá rõ, những điều đó chúng ta cũng nghe quá nhiều, nghe nhiều quá rồi đôi khi trở nên nhàm chán. Chính vì nhàm chán nên chúng ta không thi hành được, mà đó lại là những điều cần thiết cho cuộc sống. Hôm nay một lần nữa chúng ta lại nghe lời mời gọi, nhưng chúng ta có dám hỏi như những người Do Thái khi xưa: “chúng tôi phải làm gì?” Chúng ta có nghe câu trả lời và chúng ta có dám thực hành những gì mình đã lắng nghe không?

  • Nếu chúng ta biết nhìn lại chính mình, nhìn thấy những gì cần thay đỗi và không ngần ngại để cho con người chúng ta được trở nên tốt hơn.
  • Nếu chúng ta nhìn thấy được nhu cầu của những người chung quanh và biết đáp ứng theo khả năng của mình khi cần thiết.
  • Nếu chúng ta nhìn thấy được trách nhiệm của mình trong cuộc sống và biết chu toàn cách tốt đẹp.
  • Nếu chúng ta biết chấp nhận cuộc sống hiện tại mà không một lời kêu ca, phàn nàn, chỉ trích.
  • Nếu chúng ta biết tôn trọng những người chung quanh qua lời nói, hành động và cả suy tư.
  • Nếu chúng ta biết chấp nhận những gì mình đang có và bằng lòng với tất cả niềm tuân phục Thánh Ý Thiên Chúa.

Đó là chúng ta biết lắng nghe lời chỉ dạy của Gioan. Đó là chúng biết tự bảo vệ mình, đồng thời cũng tôn trọng và bảo vệ người chung quanh mà không gây thiệt hại cho họ và cho cả chính mình. Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho chúng ta nhìn thấy được chính mình, thấy những gì cần sửa đỗi, thấy những gì cần phải làm, để xứng đáng đón rước Chúa và lãnh ơn cứu độ. Xin Chúa đến và ngự trong tâm hồn mỗi người chúng ta.

 

52.        Chúa Nhật 3 Mùa Vọng

(Suy niệm của Achille Degeest)

 

ĐỂ TIẾN TỚI MỘT THẾ GIỚI TỐT HƠN

Sự thể nhiều hạng người khác nhau đến nghe Gioan Tẩy Giả rao giảng cho thấy niềm hy vọng vào một thế giới tốt hơn phổ cập đến mức nào trong dân Israel. Với người Biệt phái và người Sa đốc tự tin đã giữ đạo bề ngoài mà thiếu thật lòng ăn năn trở lại thì chẳng ích gì. Với những người thu thuế, ông khuyên hãy thi hành chức vụ cách công bằng, vì thật vậy họ là nhân viên thuế vụ, thậm chí lại thu thuế cho người La mã đô hộ. Với những quân nhân, ông khuyên không nên dùng sức mạnh phục vụ cho bất công. Với tất cả đám đông, ông rao giảng hãy chia sẻ của cải, tương thân tương ái và thực thi công bằng cách thực tế. Ở điểm này chúng ta thấy rằng biến cố lớn là công cuộc cứu độ mà Gioan Tẩy Giả loan báo sắp xảy đến trong tương lai gần, nó liên quan đến khắp mọi người chẳng trừ ai. Để chuẩn bị tâm hồn sẵn sàng đón nhận ơn cứu độ, người ta cần thay đổi nếp sống cho phù hợp với tinh thần tôn trọng công lý và liên kết nhau trong tình thân ái.

 

Một vấn đề cho chúng ta: Phúc Âm loan báo một cuộc cách mạng. Vậy cách mạng này là gì?

 

1) Đó là một cuộc cách mạng nội tâm thực hiện bằng sự thanh tẩy tâm hồn trong Chúa Thánh Linh và trong lửa. Nhờ được thanh tẩy trong Chúa Thánh Linh, con người được mạc khải, nhận thức rằng mình là con Thiên Chúa. Qua trung gian Chúa Thánh Linh, con người nói với Thiên Chúa và gọi Thiên Chúa là Cha. Thanh tẩy bằng lửa là một sự thanh lọc thiêng liêng, là sám hối vì trót phạm tội, chấp nhận mình phải cố gắng xua đuổi sự dữ. Thanh tẩy do ông loan báo chính là phép rửa của Kitô giáo, là bí tích thăng tiến con người lên địa vị làm con Thiên Chúa, và điều hợp lý là từ đây con người phải tỏ ra xứng đáng với phẩm trật tôn quý đó.

 

2) Đó cũng là một cuộc cách mạng trong xã hội loài người –được thực hiện bằng bạo lực ư? Không, vì ông khuyên đám thính giả chớ dùng bạo lực, theo nghĩa cưỡng bách người khác làm theo ý mình. Ông cũng không đề nghị dùng bạo lực để giải phóng, nhưng nói rằng xã hội được giải phóng là do kết quả những nỗ lực mỗi cá nhân để cố gắng cư xử công bằng vì lòng bác ái. Tuy nhiên xin chớ hiểu lầm. Một hình phạt ghê gớm dành cho những kẻ nào vì ích kỷ, tham lam hoặc ác ý mà từ chối không đón nhận Tin Mừng. Thánh Gioan Tẩy Giả ví họ với rơm rạ người ta đem đốt sau vụ gặt. Một sự cưỡng bách chính đáng duy nhất là tự ép buộc mình thực thi công bằng bác ái. Sử dụng bạo lực đối với tha nhân, dù để đạt một cứu cánh mình cho là tốt, tất sẽ bị Thiên Chúa nghiêm phạt.

 

53.        Đau khổ

 

Giáng sinh năm ấy, cha Lini đang hoàn tất những chuẩn bị cuối cùng để cử hành thánh lễ trong một bầu khí trang trọng, thì bỗng mọi người trong nhà thờ đều xôn xao. Ngẩng đầu lên, cha nhìn thấy một người phong cùi, mặt mũi xần xùi. Hai cánh tay bị cụt. Vết thương ở chân tuôn máu làm thành một vệt dài trên nền gạch bông. Toàn thân bốc ra mùi hôi thối.

Tất cả đều kinh hoàng. Còn cha thì bối rối. Một đàng không thể bắt đầu thánh lễ khi người phong cùi còn đứng đó. Đàng khác, cha cũng không thể đuổi anh ta, bởi lẽ nhà thờ là nhà của Chúa, cha chung của mọi người, không trừ một ai. Càng là bất hạnh thì lại càng đáng được ở lại để đón mừng Chúa giáng sinh.

Người phong cùi dừng lại trước bàn thờ với thái độ van xin. Thế rồi cha nói với anh:

– Bạn hãy ở lại với chúng tôi và chúng ta sẽ làm thành một gia đình duy nhất. Các vết lở loét nơi tâm hồn còn thối tha hơn những vết lở lóet nơi thân xác gấp bội. Tất cả chúng ta đều là anh em với nhau. Và dưới một góc cạnh nào đó, tất cả chúng ta đều là những người phong cùi về đời sống thiêng liêng trước mặt Chúa.

Sự việc này đã đánh động cha để rồi sau lễ giáng sinh năm ấy, cha đã dồn mọi nỗ lực để chăm sóc cho những người đáng thương này.

Từ câu chuyện trên chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng sáng hôm nay và đưa ra câu hỏi:

– Nếu Thiên Chúa là tình yêu thì tại sao lại xảy ra biết bao nhiêu tội ác và bất hạnh trên thế giới?

Và như thánh Phaolô đã diễn tả:

– Đối với nhiều người, thập giá đã trở nên dấu chỉ của sự điên khùng và dại dột. Thế nhưng Thiên Chúa lại dùng chính sự điên khùng và dại dột này để cứu chuộc chúng ta.

Thực vậy, để cứu chuộc chúng ta Ngài không cần phải đổ máu, mà chỉ cần phán một lời hay sai một thiên thần cũng đủ. Tuy nhiên, Ngài đã không làm như vậy. Trái lại, Ngài đã xuống thế làm người để trở thành một Emmanuel, một Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Ở cùng chúng ta mà thôi chưa đủ, Ngài còn muốn chia sẻ thân phận khổ đau của kiếp người: Sinh ra trong nghèo khó. Lớn lên trong lao động cực nhọc. Cũng khổ đau. Cũng đói khát. Cũng mỏi mệt. Suốt dọc quãng đời công khai Ngài đã thực hiện biết bao nhiêu phép lạ để xoa dịu những đớn đau của những người đương thời. Như lời tiên tri Isaia: “Thần khí Chúa ngự trên tôi, vì Ngài xức dầu cho tôi, sai tôi đi loan báo tin mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hồn sám hối, công bố sự giải phóng cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được xem thấy, trả tự do cho kẻ bị áp bức, công bố năm hồng ân về ngày khen thưởng…”.

Và sau cùng đã đổ ra những giọt máu cuối cùng với cái chết đầy tủi nhục, đầy ê chề trên thập giá để cứu chuộc chúng ta như lời thánh Phaolô: “Chính Ngài đã hạ mình bằng cách vâng phục cho đến chết và chết trên thập giá”. Để rồi kể từ đây, thập giá đã trở nên dấu chỉ của sự khôn ngoan, của tình thương và của ơn tha thứ.

Còn chúng ta thì sao, chúng ta có thái độ nào khi đứng trước thập giá của đời mình và nhất là chúng ta có biết nâng đỡ để làm giảm nhẹ thập giá của những người chung quanh hay không.

 

54.        Chúng tôi phải làm gì đây?

 

Dân chúng tỉnh ngộ đến hỏi Gioan: “Chúng tôi phải làm gì?” (Lc 3, 10)

Khi ấy, thánh Gioan Tiền hô đã đi khắp vùng ven sông Giođan, rao giảng kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối, như lời chép trong sách Tiên tri Isaia (Is 40, 3): hãy dọn đường cho Chúa; thung lũng hãy lấp đầy – núi đồi phải bạt xuống – quanh co uốn cho ngay – gồ ghề phải san cho bằng…. Lời rao giảng của Gioan vừa đanh thép, đánh động lòng người, vì thế dân chúng tuôn đến nghe Gioan giảng dạy, đồng thời vì xúc động và tỉnh ngộ do những lời Gioan rao giảng, nên họ đã hỏi Gioan: Lạy Thầy, chúng tôi phải làm gì? Câu hỏi này, hôm nay có phải cũng là câu hỏi của mỗi người Kitô hữu chúng ta không, nhân mùa Vọng, kính mời anh chị em cùng suy niệm.

 

  1. Câu hỏi: trong Kinh thánh, một số trường hợp người ta đến hỏi Chúa như thế:

Mc 10, 17: một anh thanh niên giàu có đến trước mặt Chúa Giêsu, sụp lạy Chúa và hỏi: “Lạy Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sống đời đời?”….

Lc 10, 25-28: một kinh sư đứng lên hỏi Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời……? “

Cvtđ 22, 6-11: Thánh Phaolô sau khi bị Chúa quật ngã trên đường đi Damas, đã hỏi Chúa: “Lạy Chúa, con phải làm gì đây?”

Thánh Phêrô, trong tác phẩm và phim “Quo Vadis”, khi ông muốn trốn chạy ra khỏi thành tránh cơn bắt bớ, đã bị Chúa chặn lại hỏi: “con đi đâu vậy?”, và ông cũng đã hỏi Chúa: “Lạy Chúa, con phải làm gì?”

Anh chị em thân mến, câu hỏi trên đây, Hội thánh cho chúng ta đọc lên ngay giữa Mùa Vọng này, chắn chắn phải có ý nghĩa và mục đích của nó. Chính vì thế trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta còn tìm thấy câu trả lời cho dân chúng của thánh Gioan Tiền Hô nữa…

  1. Câu trả lời: nhiều hạng người đến hỏi Gioan Tiền Hô, ông trả lời theo hoàn cảnh họ:

* Với dân chúng cách chung, là những người chỉ thích làm toán cộng và toán nhân, để tiền của và quyền lợi càng nhiều thêm, Gioan dạy làm toán trừ và toáV chia: hãy chia sẻ. Bác ái kitô giáo là yêu thương bằng hành động, là chia sẻ với anh em khó khăn hơn mình, chứ không phải là bố thí cái dư thừa của mình. Đức Kitô đã yêu thương ta bằng một tình yêu cụ thể, sống động, và là mẫu gương trước tiên về tình yêu đó…

* Với các người thu thuế, là những người muốn thu càng nhiều chừng nào càng tốt, Gioan khuyên: đừng đòi hỏi quá mức ấn định; mỗi người hãy sống đúng cương vị và bổn phận của mình

* Với binh lính là hạng người thường lợi dụng sức mạnh để hà hiếp kẻ khác, Gioan nhắc nhở: ” hãy biết bằng lòng “.

Những điều Gioan dạy hầu như không giống thói quen ở đời, là thích được thêm; ở đây Gioan dạy phải bỏ bớt. Người đời thì hi vọng thu tích thêm cái bên ngoài, Gioan dạy hi vọng chính là giải thoát được những thứ cồng kềnh làm ta buồn, những cái làm ta chìm xuống; thoát được những thứ đó, cuộc đời sẽ vui hơn và tràn đầy hi vọng…

  1. Gợi ý sống và chia sẻ:

* Chúng tôi phải làm gì? Dân chúng đã khiêm tốn và tỏ lòng sám hối mà hỏi thánh Gioan, để ông chỉ cho họ con đường phải theo. Phần ta ta có đủ khiêm tốn và ăn năn, để dọn tâm hồn chờ Chúa đến không, nhất là khi ta có tội?

Thánh Gioan không nói người khác phải sống như Ngài, nhưng nhắc nhở mọi người hãy sống xứng đáng với chức vụ, địa vị và nghề nghiệp của họ. Thánh Gioan là như thế. Còn ta ta có sẵn sàng noi theo gương Ngài? để không đòi hỏi kẻ khác theo ý riêng của mình, mà giúp họ nên thánh trong ơn gọi của họ không?

 

55.        Đấng Thánh Israel thật cao cả

(Suy niệm của Cố Lm. Hồng Phúc)

 

Thánh Phaolô Tông đồ, trong thư gửi giáo đoàn Philiphê đã kêu lên “Anh em hãy vui luôn trong Chúa. Tôi nhắc lại một lần nữa: anh em hãy vui lên” (Philiphê 4, 4). Chúng ta hãy vui lên vì Chúa gần đến. Chúng ta hãy vui lên vì Chúa đến đem sự bình an, hòa bình chân chính cho nhân loại. HÒA BÌNH không phải chỉ là tình trạng không có chiến tranh.

Hòa bình chân chính dựa trên sự nhìn nhận quyền năng của Thiên Chúa, phụng sự Ngài, yêu mến Ngài, đồng thời đối xử với tha nhân trong tình bác ái và thương yêu. Sự an bình đó mới đem lại nguồn vui chân thật mà nhà tiên tri Sophonia mô tả trong bài đọc thứ nhất.

Muốn được sự hòa bình chân chính đó phải làm sao? Qua bài Phúc âm, Gioan tiền hô mô tả cho chúng ta. Trước tiên, Người trả lời cho ba nhóm người đến đặt câu hỏi: “Vậy chúng tôi phải làm gì?”

Cho nhóm người thiện chí đang mong ngày Chúa đến, Gioan dạy họ, cũng như dạy chúng ta biết chia sẻ cơm áo với những người túng thiếu. Đó là điều tối thiểu. Nếu ngày nay, tiếng nhà Tiền hô còn vang vọng giữa núi đồi, Ngài sẽ kêu gọi cải thiện hoàn cảnh tương xứng, bảo vệ sức khỏe v.v… Đối với những người thu thuế, đại diện cho lớp quan chức hay tham nhũng bốc lột người ta, nhà tiên tri gọi sự liêm khiết. Và với những người có phận sự giữ trật tự công cộng, họ phải công minh, biết tôn trọng kẻ khác. Mỗi người trong địa vị, chức vụ, công việc của mình, Gioan đòi hỏi phải chu tất.

Nhưng Gioan, vị tiền hô ấy là ai? Ông không được sai đến chỉ để ban vài bài luân lý thường thức. Tiếng ông vang dội trên núi đồi, lôi kéo đoàn người tầng lớp lớp. Người ta coi ông là Đấng Messia trông đợi. Nhưng Ông chỉ là một “tiếng kêu”, một người làm phép rửa dọn đường.

Gioan là nhà tiên tri đầu tiên nói đến một “Phép Rửa trong Chúa Thánh Thần và lửa”. Ông cũng làm phép rửa, theo tục lệ Do-thái để khuấy động sự thống hối, ăn năn nhưng đây chỉ là một nghi thức tiên báo phép Rửa của Đấng Messia đã đến, đó là Phép Rửa trong Chúa Thánh Thần và lửa, là Phép Rửa tội. Thánh Gioan Tông đồ sẽ nói rõ: “Rửa trong nước và Thánh Thần” (Gio 3, 5). Phép Rửa tội bao gồm hai mầu nhiệm: Phục sinh và Hiện xuống, nhờ đó chúng ta được rửa sạch tội lỗi, liên kết với Chúa Kitô Phục sinh, nhưng đồng thời cũng được sức mạnh Chúa Thánh Thần để làm chứng nhân của Chúa Giêsu sống lại. Sau này, với thời gian Giáo hội mới tách rời thành hai là Phép Rửa tội và Thêm sức, nhưng với phép Thánh Thể được gọi chung là Bí tích gia nhập Kitô.

Chúng ta đã được rửa tội “trong nước và Thánh Thần” (Ga 3, 5). Chúng ta đã được “rửa tội trong Thánh Thần và Lửa” (Lc 3, 16). Nhưng chúng ta có sống ơn Rửa tội không? Chúng ta có làm cho xã hội thấm nhuần tinh thần Kitô-giáo không?

Trong thông điệp Centesimus Annus (1991) khi phân tích sự sụp đổ của cộng sản Đông Âu và sự tái thiết một xã hội mới, Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II lên án điều mà Ngài gọi là “Xã hội ăn xài” muốn giảm hạ con người vào lãnh vực kinh tế và làm thỏa mản các nhu cầu vật chất mà thôi, nghĩa là thay thế thần tượng đã sụp đổ bằng một thần tượng khác không mấy tốt đẹp hơn.

Hãy chuẩn bị tâm hồn để đón Chúa. “Hãy hát mừng Chúa, vì Người đã làm những việc cả thể, hãy công bố việc này trên khắp địa cầu. Hãy nhảy mừng ca ngợi vì ở giữa ngươi có Đấng Thánh của Israel thật cao cả” (Is 12).

Ngài đã đến và sắp đến.

 

56.        Hé mầm hy vọng

 

Lần mò tiến bước trong bóng đêm, ta ước ao có được ánh sáng soi chiếu, ta sẽ mừng rỡ khi bắt gặp được một tia sáng dù le lói, dù chỉ là vật được chiếu sáng. Dân Do Thái xưa cũng mừng rỡ đến đón nhận phép rửa của Gioan. Họ đã mong ngóng đợi chờ Vị Cứu Tinh và nay họ nhận thấy nơi Gioan có vẻ là Vị Cứu Tinh mà họ đang trông ngóng, họ xin ông chỉ cho họ phải làm gì để tỏ lòng sám hối. Và Gioan đã chỉ cho họ cũng như ông tự nhận về vai trò của mình.

 

Ta thấy được rằng lòng sám hối không chỉ được thực hiện trong tâm nhưng còn đòi hỏi phải thể hiện bằng hành động cụ thể, bằng việc thực thi công bằng bác ái. Với dân chúng “ai có hai áo thì chia cho người không có, ai có gì ăn thì cũng làm như vậy”. Với người thu thuế thì “đừng đòi hỏi gì quá mức đã quy định….” Gioan không đòi hỏi mọi người phải và sa mạc như ông nhưng hãy thực thi công bình bác ái trên chính nghề nghiệp của mình. thế nên cuộc sống thường ngày của ta chính là phương tiện giúp ta nên thánh. “Chúa thấy mọi sự đều tốt đẹp” nên mọi việc chúng ta làm dù khiêm tốn mấy đi chăng nữa nếu được thực thi với tấm lòng quảng đại vui tươi thì cũng trổ hoa nhân đức trước mặt Chúa.

 

Gioan cũng tiết lộ thân phận của mình cho người Do Thái. Ông nhận mình không phải là Mêssia, ông chỉ là người dọn đường, chỉ là vật được chiếu sáng bởi ánh sáng thật đang đến, ông nhận mình không đáng cởi quay dép cho Đấng Mêssia… Gioan qủa là một con người được tuyển chọn, đang khi sự nghiệp của ông đang hoang đãng, mọi người đang tín nhiệm lũ lượt kéo đến với ông nhưng ông không vì thế mà ngộ nhận về sứ mạng của mình, ông khiêm tốn nhìn nhận chính mình. khiêm tốn không có nghĩa là hạ mình nhưng là nhìn nhận chính mình. Phép rửa của Gioan chỉ là tỏ lòng sám hối không đáng gì so với phép rửa trong cái chết và sự phục sinh của Đức Kitô sẽ thực hiện. Gioan giới thiệu Đấng Mêsia cho dân chúng rằng Ngài sẽ thanh luyện để dành riêng những người con mới trong trời mới đất mới. Cũng như Gioan ta biết mình chỉ là thụ tạo được Thiên Chúa yêu thương cho hiện diện trong cuộc sống này và đã được máu châu báu của Đức Kitô đổ ra mà chuộc lại nên ta phải biết trân trọng từng giây từng phút trong cuộc sống của ta. Tuy nhiên quê hương thật của chúng ta là quê hương vĩnh cửu trên trời, ta xây dựng quê hương trần thế nhưng không vì thế mà bỏ quên quê hương thật. Nhìn nhận mình chỉ là thụ tạo còn cho ta thấy được mọi sự trong cuộc sống mà ta có được đều là ân ban. Nên tâm tình cảm tạ tri ân phải hằng luôn đặt trên môi miệng chúng ta. vì là ân ban nên mọi sự ta có đều là đón nhận, ý thức điều này cho ta biết khiêm tốn tránh thái độ tự kiêu tự mãn nhưng phải luôn dâng lời cảm tạ.

 

Chúa đã gần đến! Gioan đã hé mở cho dân Do Thái thấy Đấng Mêssia đã gần đến, hãy ăn năn sám hối để nhận ra Ngài. Khung trời hy vọng đã hé mở, thời kỳ muôn dân mong đợi đã gần đến.

 

57.        Thiên đàng là thế đó

(Suy niệm của Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn)

 

“Mừng vui lên Sion, này đây Chúa ngươi đến rồi.

Mừng vui lên Sion, Ngài khấng nghe lời ngươi đó.

Ngài dẫn đưa ngươi, qua những hố sâu, qua núi đồi,

Về nơi an vui, nơi suối mát trong đẹp tươi.”

Đó là lời reo ca thoát thai từ niềm tin son sắt của tiên tri Sôphônia trong tang tóc khổ đau của kiếp lưu đày biệt xứ.

Số là vào thế kỷ thứ 7 trước Công nguyên, vùng đất Do thái bị áp lực và sâu xé bởi đoàn quân viễn chinh Assyria hùng mạnh ở phía Bắc và vương quốc Aicập rộng lớn ở phía Nam. Ngoài ra còn phải đương đầu với tệ nạn cướp bóc, sách nhiễu của các nước lân bang. Triều đình Do thái bị phân năm xẻ bảy. Người thì muốn cấu kết với Assyria để tránh tai hoạ, kẻ thì đòi liên minh với người Assur để chống giặc phương Bắc. Tình trạng rối rắm, bất ổn, chia rẽ, lo sợ đã làm đất nước nhỏ bé Giuđa rơi vào hoàn cảnh khốn đốn, kiệt quệ chưa từng thấy. Rốt cuộc Giêrusalem bị dày xéo, đền thờ rơi vào tay giặc, và dân cư phải đi lưu đày. Kiếp nô lệ cho đế quốc Assur bắt đầu.

Vào khoảng năm 609 trước Thiên Chúa giáng sinh, đế quốc Assur bắt đầu suy yếu. Tin tưởng ngày Giavê ra tay cứu thoát, thấy trước thời kỳ khôi phục quốc gia Giuđa, Sôphônia đã phấn chấn tâm hồn người dân lưu đày bằng lời reo vui: “Hỡi thiếu nữ Sion, hãy cất tiếng ca! Hỡi nhà Israel hãy vui mừng! Vì Chúa đã cất án phạt trên ngươi. Địch thù của ngươi, Ngài bắt phải tháo lui. Vua Israel là Chúa ở giữa ngươi, ngươi không còn phải sợ khổ cực nữa” (Xp 3:14-15).

Đây là niềm vui lớn lao cho toàn dân. Vui vì được Giavê giải thoát. Vui vì Chúa đến ở với dân Người. Chính Thánh Phaolô cũng đã nhắc đến niềm vui cứu độ này cho cộng đoàn tiên khởi Philip: “Anh em hãy vui mừng lên… vì Chúa đã gần bên” (Phi 4:4-5). Đây chính là chủ đề của Chúa nhật thứ 3 mùa vọng. Màu tím trong phụng vụ được thay bằng màu hồng. Qua đó, Giáo hội kêu mời dân Chúa hãy đổi mới thái độ sống, hãy hân hoan vui mừng, hãy hát lên, vì khổ đau kinh hoàng sẽ qua đi và bình an của trời cao đang ngự đến.

Hãy đổi mới thái độ sống cũng chính là câu trả lời của Thánh Gioan Tiền hô khi dân chúng đến hỏi “Chúng tôi phải làm gì?”

Theo Thánh Gioan, để đón chào Sứ giả Bình an, để tiếp nhận Hạnh phúc của trời cao, thì “ai có hai áo, hãy cho người không có, ai có của ăn, cũng hãy làm như vậy… Đừng đòi gì quá mức ấn định… Đừng ức hiếp ai, đừng cáo gian ai.” Phải chăng vị ngôn sứ đã muốn làm nổi bật chân lý: Hãy thương người để gặp được Chúa.

Khi hết lòng tu chỉnh thái độ sống của mình đối với anh chị em chung quanh, khi cố gắng thực thi công bình, bác ái, yêu thương và san sẻ, khi quyết tâm thay đổi tính khí xung giận hận thù, là tôi đang chân thành mở ngỏ đón mừng Đấng Cứu Thế ngự đến, là khơi dòng cho nguồn bình an tuôn tràn đến người thiện tâm, và làm cho thiên đàng thật sự chớm nở nơi trần thế.

 

Người Nhật thường kể cho nhau nghe câu chuyện về một hiệp sĩ Samurai hung bạo, cộc cằn không ai bằng. Một hôm chàng ta đến gặp một vị thiền sư và nói:

– Xin hãy chỉ cho tôi biết thiên đàng là gì và hoả ngục là gì?

Vị thiền sư đưa mắt nhìn con người thô bạo từ đầu đến chân rồi thất vọng trả lời:

– Dạy cho ngươi biết thế nào là thiên đàng và thế nào là hoả ngục ư? Ta không thể dạy cho ngươi bất cứ điều gì cả. Vì ngươi là một kẻ hung bạo, thô lỗ. Ngươi là nỗi tủi nhục cho hàng ngũ hiệp sĩ Samurai. Hãy cút khỏi mặt ta. Ta không chịu được ngươi nữa.

Nghe những lời sỉ vả ấy, chàng hiệp sĩ nổi nóng, liền rút gươm định chém đầu vị thiền sư. Nhưng vị này giơ tay ngăn lại và nói:

– Hỏa ngục là thế đó!

Chợt nhận ra đây là bài học thực tiễn của nhà tu hành, chàng hiệp sĩ vội dừng tay. Sự hối hận bỗng đâu dâng tràn tâm hồn, chàng ta hiểu rằng vị thiền sư muốn hy sinh cả mạng sống để dạy cho mình bài học về hoả ngục. Thế rồi chàng từ từ hạ gươm xuống, cho vào bao, đoạn đến quì gối trước mặt vị thiền sư với tất cả sự thành tâm sám hối. Vừa nâng chàng dậy, vị thiền sư vừa nhìn sâu vào đôi mắt của chàng và nói:

– Thiên đàng là thế đó!

 

Thiên đàng đã hiện hữu nơi cõi thế. Đấng Cứu Thế đã đến trần gian. Một Hài Nhi đã sinh ra đời. Nhưng, nếu không biết thành tâm sám hối, đổi mới thái độ, làm sao người ta có thể cảm thấu được hạnh phúc thiên đàng là gì, Chúa Hài đồng là ai, hay niềm vui cứu độ là chi. Phải chăng vì bao lâu nay tính nóng nảy, giận hờn, ích kỷ, và nhất là vì thiếu hành vi sám hối mà người ta đã gây ra không biết bao nhiêu quang cảnh tan nát, lưu đày, hoả ngục cho chính mình và cho tha nhân?

 

Nhưng nếu biết sống an hoà với mọi người, biết chia sẻ cứu giúp những ai bần cùng khốn khó, biết chế ngự thói xấu tật hư, biết hướng lòng lên với trời cao bằng kinh nguyện và lời tri ân, thì như lời Thánh Phaolô đoan quyết, “bình an của Thiên Chúa sẽ gìn giữ lòng trí của anh em trong Đức Giêsu Kitô” (P1 4:7)

Vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho người thiện tâm.

 

58.        Sám hối, một niềm vui

 

Khi nghe ông Gioan rao giảng kêu gọi sám hối, rất nhiều người đến từ Giêrusalem và các vùng phụ cận để được Gioan thanh tẩy, họ thú nhận sự bất trung đối với Thiên Chúa và những tội ác đã phạm. Sám hối là cải đổi nội tâm, thay đổi suy nghĩ và đời sống. Sám hối bao gồm dứt khoát từ bỏ quá khứ tội lỗi, đồng thời quyết tâm dấn thân thực sự trong đời sống mới. Sám hối đúng nghĩa làm ta phải đau xót, mất mát, tổn thương vì là tự mình cắt bỏ một thói quen chưa hay, một đam mê thiếu trong sáng, hay một tật xấu nào đó… để lòng mình khiêm nhường hơn, biết yêu mến sự thiện hảo hơn, biết sống tinh thần phục vụ, biết sống vì Chúa và vì anh chị em hơn…

 

Khi chịu phép rửa tỏ lòng sám hối, đông đảo dân chúng hỏi ông Gioan,”Chúng tôi phải làm gì?” vì không phải chịu phép rửa là xong, nhưng còn phải sinh hoa quả là việc lành phúc đức thể hiện lòng thống hối nữa. Ông Gioan kêu gọi hãy cảm thông, chia cơm sẻ áo cho người nghèo khổ “ai có hai áo thì chia cho người không có; ai có gì ăn thì cũng làm như vậy”.Ông Gioan không đòi dân chúng bỏ lối sống bề ngoài, nếu họ là lính hay người thu thuế, thì cứ hãy giữ chức vụ của mình, nhưng phải cải đổi nội tâm, đổi mới tâm hồn bằng sám hối và dấn thân vào một lối sống mới”người thu thuế thì đừng đòi gì quá mức ấn định cho các người; còn các người lính thì đừng ức hiếp ai, đừng cáo gian ai, hãy bằng lòng với số lương của mình”. Ông Gioan dạy bảo dân chúng hãy sống ngay lành, trong sự công bằng và tình bác ái với nhau. Đây là cách chuần bị rất tốt để “dọn đường” cho Chúa đến trong tâm hồn mình.

 

Một hôm Mẹ Têrêsa Calcutta đem 5 chiếc bánh cho một gia đình nghèo đói. Sau khi cám ơn và chia cho bốn đứa con, bà mẹ đó cầm 2 chiếc bánh vội vã chạy sang nhà hàng xóm. Khi bà trở lại Mẹ Têrêsa hỏi: Chị cầm bánh đi đâu vậy? Người mẹ đó vui vẻ trả lời: Con mang bánh chia cho gia đình chị Ba. Họ cũng đang đói như gia đình con. Thật cảm động và yêu thương: Dù nghèo dù thiếu thốn họ vẫn quan tâm và chia sẻ cho nhau. Một nghĩa cử cao đẹp thay.

 

Xưa dân chúng đã nghe lời ông Gioan kêu gọi mà chịu phép rửa tỏ lòng thống hối và thực hành những nhân đức để thay đổi đời sống, chuẩn bị tâm hồn đón Chúa đến. Còn chúng ta hôm nay thì sao? Lời kêu gọi của Gioan Tẩy Giả có làm lay động tâm hồn chúng ta không? Mỗi người hãy tự đặt câu hỏi như những người Do thái xưa với Gioan “Tôi phải làm gì?” Xưa Gioan bảo những người Do thái hãy sống đúng cương vị và trách nhiệm của mình.

 

Hôm nay thánh Gioan cũng bảo chúng ta, đừng tham lam của cải người khác, đừng nói thêm nói bớt, hay đặt chuyện vu khống; nhưng mỗi người hãy sống đúng cương vị của mình, hãy hoàn thành tốt trách nhiệm của mình, hãy thực thi công bằng và bác ái trong đời sống mình với hết thảy mọi anh chị em chung quanh. Những ai biết sống yêu thương chia sẻ là những người ở trong Thiên Chúa.

 

Hãy tiết kiệm trong chi tiêu, mua sắm để chia sẻ, giúp đỡ những người đang thiếu thốn, những người kém may mắn hơn; nhất là cho những anh chị em là nạn nhân của cơn bão số 9 vừa qua. Người phụ nữ nghèo trong câu chuyện trên còn biết nhín chút quà bánh để chia cho người hàng xóm nghèo của chị. Còn chúng ta, chúng ta có làm được thế không?

 

59.        Chúa Nhật 3 Mùa Vọng

(Suy niệm của Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long)

 

NHẠY CẢM VỚI HOÀN CẢNH SỐNG

Nếu có ai hỏi tôi: Bây giờ chúng tôi phải sống đạo làm sao cho đúng với tin mừng của Chúa? Tôi sẽ lúng túng không biết trả lời làm sao cho đúng, cho ngắn gọn dễ hiểu và dễ thi hành. Nếu có ai hỏi tôi: Lề luật nào là kim chỉ nam cho đời sống người tín hữu Chúa ở trần gian? Tôi không ngần ngại trích dẫn tin mừng của Chúa như sau: Đó là luật mến Chúa và yêu người (Mt 22,33-40). Nếu có ai hỏi tiếp: Như vậy chúng tôi phải sống như thế nào?

Phúc âm hôm nay ghi lại câu trả lời của Ông Thánh Gioan Tẩy Giả khi xưa trả lời cho những người hỏi ông cũng câu hỏi này: Anh em biết đấy, chúng ta nên chia cơm xẻ áo với người nghèo khổ; không nên cậy quyền thế hà hiếp người khác, không nên tham lam vượt quá giới hạn cho phép…(Lc 3, 10-14)

Tôi chắc người nghe sẽ có phản ứng ít là âm thầm trong lòng: Lại giọng luân lý. Điều đó ai chả biết! Vả chăng đạo nào, sách luân lý nào cũng dậy như vậy mà, có gì khác đâu! Có thật sự Ông Thánh Gioan chỉ dậy luân lý như thế hay ông còn muốn điều gì khác hơn nữa?

Tôi không tin là ông chỉ muốn đem một mớ lý thuyết luân lý dậy đời ra làm câu trả lời. Nhưng Ông muốn nói đến những sự việc nhỏ nhặt, những biến cố, những khó khăn, những thắc mắc, những tiếng kêu cứu cần sự giúp đỡ trong đời sống của con người. Những sự việc đó tuy nhỏ bé, tuy không có chiều kích gì to lớn vĩ đại, nhưng là nền tảng cho câu trả lời người ta hỏi Ông: Chúng tôi phải sống thế nào?

Câu trả lời của Ông Gioan không dựa trên một sách vở dẫn chứng cớ, hay một lý luận nào, nhưng đặt nền tảng trong nhu cầu đời sống: bất cứ người nào cũng cần cơm ăn áo mặc, cần được kính trọng che chở bảo vệ, cần được quan tâm và không bị hà hiếp. Theo Ông, nếu biết nhậy cảm và sống tình liên đới với hoàn cảnh đời sống của con người, chính là sẵn sàng biết chấp nhận đổi mới cuộc sống của chính mình: Trở về với tin mừng mến Chúa yêu người rồi.

Những dấu chỉ bên ngoài tỏ tình liên đới với con người không là những dấu hiệu trống không vô nghĩa, nhưng có giá trị mang lại ơn cứu rỗi, mang lại hạnh phúc, vì là phản ảnh tình yêu Thiên Chúa giữa trần gian và Thiên Chúa nhìn thấy tâm tư của người làm và chúc phúc cho việc họ làm.

Truyện kể: “Một người giầu có luôn luôn nghĩ về cách làm thế nào giữ của cải của mình kể cả khi sắp chết. Ông muốn khi chết cũng phải mang tiền đi theo để có thể mua sắm những thứ cần dùng cho đời sống. Lúc nằm trên giường bệnh và biết ngày giờ sống của mình sắp hết hạn, ông cố gượng lần mò chiếc chìa khóa hòm đựng tiền buộc dính liền với sợi dây chuyền nơi cổ. Ông gọi người đầy tớ tín cẩn đến bảo mở hòm tiền ra và lấy vòng vàng chôn cùng với ông trong quan tài. Sau khi qua đời, ông được gọi lên trời. Đi qua tầng trời ông nhìn thấy một bàn dài có bày bán nhiều thứ hàng. Ông hỏi ngay: Thứ bánh này giá bao nhiêu? Người bán trả lời: Một đồng thôi!. Còn hộp cá mòi kia giá bao nhiêu? Dạ giá cũng như vậy! Còn hộp sữa giá bao nhiêu? Dạ cũng một đồng thôi!

Như vậy quá rẻ. Được, tôi mua hết cả mâm đựng những thứ này! Ông ta lần túi tiền mang theo, móc ra những đồng tiền vàng tính trả cho người bán. Người bán hàng lắc đầu nói ngay: Này Ông, như thế không đủ đâu. Ông đã được sống hơn năm mươi nhăm năm trên đời, nhưng ông đã không học biết đủ!!! Ông ta liền sừng sộ đối lại: Như thế nghĩa là gì? Bộ những thỏi vàng này không đủ để trả cho bằng ngần ấy thứ sao? Người bán hàng bình tĩnh cắt nghĩa tiếp: Chúng tôi chỉ nhận những loại tiền đã trao tặng giúp đỡ người khác thôi. Đó là lòng bác ái thương người!”

 

60.        Sứ điệp tình thương

(Suy niệm của Lm. Augustin Nguyễn Huy Tưởng)

 

Bài tin mừng hôm nay nói về sứ điệp của Gioan: sứ điệp tình thương. Thương là chia xẻ những gì mình có, vật chất hay tinh thần. Có hai áo thì cho một áo. Thỏa mãn với đồng lương của mình. Đừng ức hiếp ai. Nói tóm lại muốn đón Chúa phải thực tập yêu thương.

Càng có kinh nghiệm sống chúng ta càng cảm nhận lời kinh thánh: Omnis homo mendax: mọi người đều giả dối. Tội lỗi làm cho con người thành pháo đài của nhau. Hay như hiền triết la mã: homo homini lupus: người là chó sói của con người. Gần đây Jean Paul Sartre: l”enfer c”est les autres.

Không yêu thương là tội lỗi và tội lỗi làm cho con người xa cách nhau. Gioan kêu gọi sự chia sẻ và sự lương thiện. Chúng ta đang sống ở trần gian có nghĩa là không có gì thiệt trong cõi ta bà thế giới này. Thi sĩ gọi trần gian chỉ là ảo ảnh là hư không. Vi thực ra cái trò huyễn hóa của trần gian này như giấc mộng vàng. Và tình yêu chúng ta dành cho nhau nhiều khi cũng không thực như là dọi chiếu tình yêu qui hướng về mình mà thôi. Chúng ta yêu kẻ khác có thật sự vì họ hay là vì chúng ta? Cái phân biệt tình yêu đích thực chính là sự qui chiếu này.

Người Mỹ rất sợ hurt feelings nên ngôn ngữ hành động của họ nhiều khi hời hợt giả dối không thật. Mới buổi sáng nói: you are wonderful buổi chiều đã có thể lay off không thương tiếc. Hai ông cha Việt nam thấy thằng nhỏ cỡi xe đạp ném báo bị xỉu vì lạnh. Mang nó vào nhà. Mẹ nó kêu cảnh sát vì nghi cho hai chàng đông phương này làm con bà xỉu. Cũng may thằng bé tỉnh dậy cho hay: không có hai ông nó đã chết. Bà mẹ cám ơn rối rít. Về nhà cha sở còn quở: các cha bác ái không phải lối. Vậy thì bác ái đúng là như thế nào? Bác ái đúng là: cứ yêu đi rồi muốn làm gì thì làm (thánh Âutinh) hay đối với những kẻ Chúa yêu mọi sự đều tốt đẹp.

Sứ điệp thứ hai là lòng khiêm nhượng của Gioan. Ngài khiêm nhường đến mức không coi mình là nô lệ của Chúa. Nô lệ cởi dây giày mà ngài nói mình không đáng cởi dây giày. Tận cùng bằng số trong cuộc đời. “Ai nhất thì tôi thứ nhì, ai còn muốn nữa tôi thì thứ ba”. Tội đầu tiên của con người là kiêu ngạo nên Chúa Giêsu đã hạ mình vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá. Ngài nâng kẻ hèn mọn lên (kinh Magnificat). Gioan còn nói: Ngài phải lớn lên còn tôi phải nhỏ đi. Đa số chúng ta muốn lớn hơn người khác. Chúng ta còn muốn lớn hơn cả Chúa nữa. Sau tội kiêu ngạo là tội ghen ghét: Cain Abel, Esau Jacob, 11 anh em và Giuse, vì thấy người khác hơn mình.

Trong “Cổ Học Tinh Hoa” có kể câu chuyện: loài hồ sợ loài vật nào nhất: loài hồ sợ loài hồ nhất. Hai ca sĩ hai bác sĩ hai người cùng làm một nghề thường ghen ghét nhau. Chẳng qua vì thiếu sự khiêm nhường. Thánh Têrêxa nói: khiêm nhường là nhận sự thực. Ta không dám nhận sự thực của chính ta vì sợ mất lòng. Nếu ai cũng thấy ta như Chúa thấy, chắc là chúng ta xấu hổ lắm. May thay ngày tận thế mọi người sẽ thấy. Nhưng nếu chúng ta thành thực và nhận sự thực của chính chúng ta, chúng ta sẽ thêm xác tín sự yếu đuối để dựa cậy vào Chúa hơn. Hãy tâm niệm thánh vịnh 131:

Lòng con chẳng dám tự cao,

mắt con chẳng dám tự hào Chúa ơi,

đường cao vọng chẳng đời nào bước,

việc diệu kỳ vượt sức chẳng cầu,

hồn con con vẫn trước sau,

giữ cho thinh lặng giữ sao thanh bình,

như trẻ thơ nép mình lòng mẹ,

trong con hồn lặng lẽ an vui,

cậy vào Chúa Ich diên ơi,

từ nay đến mãi muôn đời muôn năm.

 

61.        Hoa thơm lấn dần cỏ dại

 

Mảnh đất sau khi đã được dọn dẹp sạch cỏ rác, muốn cho tốt hơn người ta thường tìm cách cải tạo. Vun xới hay bón thêm phân là một trong những cách cải tạo. Nhờ đó, những cây trồng xuống sẽ mau xanh tốt và nếu là cây thu hoạch thì đem lại năng suất cao.

 

Lời Chúa Chúa nhật II Mùa vọng Thánh Gioan đã chỉ cho cách dọn dẹp những trở ngại trên đường liên lạc giữa ta với Chúa. Tuần này, ông cũng tiếp tục chỉ cách cụ thể hơn. “Ai có hai áo, thì chia cho người không có; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy.” Với những người thu thuế thì: “Đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định cho các anh”. Còn với binh lính thì: “Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta, hãy an phận với số lương của mình.” Đặc biệt, ông còn chỉ cho cách để cải tạo con đường liên lạc giữa ta với Chúa hiệu quả hơn. Ông nói: “…Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa”. Như vậy, Thánh Thần mà Chúa Giêsu đem lại sẽ giúp ta.

 

Tâm lý chung của nhiều người gần đến Lễ Giáng sinh thường lo nghĩ đến những việc mang tính bên ngoài hơn. Máng cỏ, đèn sao và cờ xí phải cho rực rỡ và rầm rộ. Tổ chức lễ sao cho thật ồn ào và náo nhiệt. Đó là suy nghĩ có thể nói được là còn nông cạn nếu nhìn theo cái nhìn đức tin.

 

Xưa kia, Chúa Giêsu đến thế gian trong khung cảnh âm thầm lặng lẽ. Đến nỗi nơi Người được sinh ra có thể nói là đầu đường xó chợ vì là nơi tồi tàn và hôi thối. Dường như lịch sử loài người từ trước đến nay chưa từng có ai được sinh ra trong khung cảnh như thế. Hơn nữa, Người lại còn được sinh ra giữa đêm đông lạnh giá mà không có tấm áo che thân phải nhờ đến hơi của bò lừa sưởi ấm.

Vì thế, những sự chuẩn bị chỉ mang tính cách bên ngoài chắc là Người sẽ không vui. Vì thế, hãy để lòng ta chìm đắm trong mầu nhiệm cao cả này. Chắc chắn trong sự chìm đắm ấy, Thánh Thần Chúa sẽ chỉ cho cần phải làm gì để vun xới tâm hồn cho hiệu quả.

 

  • Hãy tỏ lòng yêu mến Chúa thật nhiều như chị phụ nữ tội lỗi đã quỳ gối trước Chúa Giêsu lấy nước mắt và tóc mà lau chân Người. (Lc 7, 36 – 50)
  • Hãy có thái độ chăm chỉ lắng nghe Lời Chúa như cô Maria ở làng Bêtania khi Chúa Giêsu đến thăm nhà. (Lc 10, 38 – 41)
  • Hãy khiêm tốn thật lòng và khao khát đi tìm Chúa như Dakêu – người thu thuế xưa. (Lc 19, 1 – 10)
  • Hãy thực thi giới răn yêu người như người Samaritanô nhân hậu. (Lc 10, 29 – 37)

 

62.        Chúng tôi phải làm gì?

 

Sau khi nghe lời kêu gọi ăn năn sám hối của thánh Gioan Tẩy Giả, nhiều người tỏ vẻ phục thiện, sẵn sàng cải đổi nếp sống sai lạc của mình, họ xin thánh Gioan những lời khuyên thiết thực: “chúng tôi phải làm gì đây?”.

Một câu hỏi hết sức quan trọng.

Đây là câu hỏi các nhà sản xuất, chế tạo thường xuyên đặt ra với sản phẩm của mình: Tôi phải làm gì… để cải tiến công nghệ… để nâng cao chất lượng hàng hoá?

Kết quả là họ đã thực hiện được vô vàn cải tiến trong rất nhiều lãnh vực, từ máy bay siêu thanh khổng lồ cho đến những con chíp nhỏ xíu, tất cả đều được cải tiến nhanh chóng phi thường.

Không chỉ trong lãnh vực công nghệ lớn lao mà ngay cả trong các mặt hàng tiêu dùng nhỏ mọn hằng ngày như cái chổi lau nhà, cái thùng rác nằm trong xó bếp, cũng luôn được cải tiến. Nói chung, tất cả mọi sản phẩm do con người làm ra, từ những sản phẩm lớn lao đồ sộ cho đến những thứ ti tiểu như cái chổi quét nhà… cũng đều được cải tiến từng giờ từng phút!

Trong khi đó, con người là tạo vật ưu việt của Thiên Chúa, được chính Thiên Chúa dựng nên theo hình ảnh của Ngài, thì được cải thiện bao nhiêu về nhân cách, về phẩm chất đạo đức? Hay ngược lại ngày càng suy thoái trầm trọng?

Hiện nay, luật pháp của một số nước cho phép mẹ giết con (trong bào thai), cho phép những cặp đồng tính luyến ái kết hôn với nhau (nam với nam, nữ với nữ, chung chạ với nhau như vợ chồng) và được công nhận như một gia đình thực thụ, được hưởng mọi quyền lợi của một gia đình. Thứ tội ghê tởm đáng trừng phạt của dân thành Sô-đô-ma ngày xưa, nay được pháp luật của các nước được xem là văn minh, công nhận và hợp pháp hoá!

Đau thương thay, khi sản phẩm do tay con người làm ra thì ngày càng được nâng cao chất lượng, trong khi con người là sản phẩm đệ nhất của Thiên Chúa, do chính Thiên Chúa dựng nên theo hình ảnh tuyệt vời của Ngài thì ngày càng sa sút, suy đồi thê thảm.

Con người không được nâng cấp thì cũng như bức tượng, trước sao, sau vậy, không cao thêm, không đẹp thêm; trái lại có khi càng về lâu càng bị rêu mốc, nứt nẻ, càng xuống cấp thêm. Như thế thì thật là đáng tiếc và đau lòng cho Thiên Chúa.

Bao nhiêu năm qua, chúng ta đầu tư rất nhiều công sức, thời gian cũng như tiền bạc để tạo bộ mã bên ngoài bằng các loại mỹ phẩm đắt tiền, bằng nâng cấp nhà, lên đời xe, nâng cấp đủ mọi thứ vật dụng trong nhà, còn chủ nhân của tất cả những thứ đó thì đã được nâng đến cấp nào hay đang xuống cấp nghiêm trọng?

Hãy tự đặt lại câu hỏi đó với chính mình và xin Chúa cho chúng ta càng quan tâm nhiều hơn, đầu tư nhiều công sức hơn để rèn luyện cho mình thành người có trình độ, có năng lực, có phẩm chất cao cho xứng với tầm vóc của người con Thiên Chúa.

Vậy để bắt đầu công cuộc cải thiện, chúng ta hãy noi gương những người đến nghe ông Gioan rao giảng, để thưa với Chúa và hỏi lại lòng mình: “Còn tôi, tôi phải làm gì?” rồi bắt đầu ra tay.

***

Lạy Chúa Giê-su, xin dạy con biết noi gương Chúa để đào tạo lại bản thân con, nâng cấp con người con thành người mới, có phẩm chất cao đẹp, có đạo đức, có văn hoá.

 

63.        Chúa Nhật 3 Mùa Vọng

(Suy niệm của Lm. Ignatio Trần Ngà)

 

XÂY DỰNG XÃ HỘI BẰNG THỰC HÀNH LỜI CHÚA

 

Sau khi nghe thánh Gioan Tẩy Giả kêu gọi ăn năn sám hối, nhiều người tỏ ra phục thiện, sẵn sàng cải đổi nếp sống sai lạc của mình. Họ xin thánh Gioan những lời khuyên: “Thưa Thầy, chúng tôi phải làm gì?”

 

Gioan Tẩy Giả đã đưa ra những lời khuyên thiết thực. Đối với người khá giả thì ngài khuyên họ hãy chia cơm xẻ áo: “Ai có hai áo, thì chia cho người không có; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy.” (Lc 3,11) Đối với người thu thuế thì ngài dạy họ đừng bắt chẹt ai: “Đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định cho các anh.” (Lc 3,13) Đối với người nắm quyền lực trong tay thì đừng ức hiếp dân lành và đừng tham nhũng: “Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta, hãy an phận với số lương của mình.” (Lc 3,14)

 

Nói chung, các lời khuyên nêu trên đều khuyến khích mọi người thực hiện công lý, công bằng và bác ái. Nhưng tiếc thay, những lời khuyên của Gioan Tẩy Giả trên đây cũng như những lời Chúa dạy trong Tin Mừng chưa được nhiều người đón nhận và đem ra thực hành nên nhân loại phải sống triền miên trong bất công và nghèo đói.

 

Theo báo cáo của Viện Nghiên Cứu Kinh Tế Phát Triển của Liên Hiệp Quốc năm 2009, hiện nay những người giàu nhất trên thế giới tuy chỉ chiếm 2% số người trưởng thành trên địa cầu nhưng lại sở hữu tới hơn một nửa của cải toàn thế giới; trong khi hơn một nửa dân số nghèo trên thế giới chỉ chiếm chưa đầy 1% của cải trên toàn trái đất nầy!

Còn theo báo cáo của FAO (Tổ Chức Lương Nông Thế Giới) ngày 14 tháng 10 năm 2009 thì hiện nay có đến 1.02 tỉ người, chiếm 1/6 dân số toàn cầu, đang lâm nạn đói. Số người đói đã lên đến mức kỷ lục!

 

Trong hoàn cảnh số người lâm nạn đói tăng lên nhiều chưa từng thấy và sự chênh lệch giàu nghèo đạt tới khoảng cách chưa từng có trong lịch sử loài người, thì việc chia cơm xẻ áo, thực thi công lý và công bằng mà Thiên Chúa mời gọi, qua miệng ngôn sứ Gioan Tẩy Giả, là việc làm khẩn thiết hơn bao giờ hết, để đem lại ấm no cho mọi người, đem lại công bằng cho xã hội, đem lại hạnh phúc cho muôn dân.

 

Hơn ai hết, Kitô hữu phải là người đầu tiên đáp lời mời gọi của Thiên Chúa và Hội Thánh để thực thi bác ái, công bình trong xã hội.

 

Đạo cứu đời

Một số người cho rằng đạo và đời là hai lãnh vực cách biệt, chẳng có liên hệ gì với nhau nên bên nào thì chuyên lo việc bên đó. Thực ra, hai lãnh vực nầy gắn bó với nhau mật thiết như xác với hồn, bởi vì khi tôn giáo đào tạo nên một tín hữu tốt thì xã hội có thêm một công dân tốt; khi người tín hữu sống công bằng bác ái với người chung quanh, là họ đang làm cho xã hội nên tốt đẹp, vì họ cũng là công dân trong xã hội. Chính khi sống theo những lời khuyên dạy của Tin Mừng, Kitô hữu góp phần xây dựng và phát triển xã hội bằng chính đời sống của mình.

 

Vì thế, trong thư gửi cộng đồng dân Chúa dịp công bố năm thánh 2010, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam nhắc lại lời kêu gọi của Đức Thánh Cha Bê-nê-đic-tô XVI gửi cộng đồng dân Chúa: “Khi xây dựng đời sống mình trên nền tảng những giá trị Tin Mừng như bác ái, liêm chính và quý trọng công ích, anh chị em là những công dân tốt, tích cực tham gia vào việc xây dựng một xã hội công bằng, liên đới và bình đẳng. Qua anh chị em, Giáo Hội đóng góp phần mình vào việc phát triển con người và xã hội cách toàn diện…” Nói tóm lại: bằng đời sống phản chiếu Tin Mừng, người giáo dân góp phần phát triển con người và xã hội.

***

Như thế, Lời Chúa không chỉ có tác dụng mang lại ơn cứu rỗi cho các linh hồn mà còn là nền tảng để xây dựng xã hội và thế giới này được hoà bình và hạnh phúc. Nhờ việc thực thi Lời Chúa trong đời sống hằng ngày, người giáo dân góp phần xây dựng và phát triển xã hội ngày càng tốt đẹp hơn.

 

Lạy Chúa Giêsu,

Khi xuống thế làm người, ngoài sứ mạng hiến thân đền tội để cứu rỗi các linh hồn, mang lại cho họ hạnh phúc đời sau, Chúa còn quan tâm xây dựng thế giới này thành một cộng đồng huynh đệ, sao cho mọi người được sống trong hạnh phúc an vui, bằng cách dạy chúng con thực thi công bằng bác ái, sống hy sinh phục vụ, mưu cầu hạnh phúc cho nhau.

 

Nguyện xin Chúa giúp chúng con chuyên chăm thực hành Lời Chúa trong cuộc sống hằng ngày, để vừa nâng cao đời sống đạo đức bản thân, vừa góp phần làm cho xã hội được an bình hạnh phúc.

 

64.        Sự sám hối chân thành

(Suy niệm của Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

 

Người Việt Nam được coi là một dân tộc hiếu khách. Vì thế, khi khách đến nhà thì “không gà thì vịt” và cố gắng tiếp đón làm sao để “vui lòng khách đến, vừa lòng khách đi”. Thực vậy, khi có khách đến thăm, người ta thường thăm dò ý muốn sở thích của vị khách để tiếp đãi cho chu đáo. Khách càng sang, càng cao qúy người ta càng chuẩn bị kỹ lưỡng từ trang trí nhà cửa, sân vườn đến các món ăn mà vị khách ưa thích. Cũng bởi sự hiếu khách đó, mà người Việt Nam thường tự trách mình thất lễ khi thiếu sự chuẩn bị mà khách lại đột xuất viếng thăm.

 

Cách đây hơn 2.000 năm người dân Palsetin cũng háo hức đón chờ một thượng khách đến viếng thăm. Một vị khách mà cả pho Cựu ước là bằng chứng sự trăn trở đợi chờ. Đó chính là Đấng Thiên Sai, Đấng Messia sẽ đến để thực hiện lời hứa cứu độ cho nhân trần. Hôm nay họ nghe Gioan rao giảng Đấng đó đã đến nhân trần. Đấng mà cha ông họ ngày đêm mong chờ mà chưa có diễm phúc gặp gỡ, nay quả là phúc đức cho họ được diện kiến Đấng Thiên sai. Họ tràn ngập niềm hân hoan. Họ chạy đến Gioan để tư vấn, xem phải làm gì để vui lòng Đấng Messia? Từ những người nông dân chất phác đầu hôm sớm mai nơi ruộng vườn đến các nhà thu thuế và quan quyền đều muốn có một động tác chuẩn bị thật chu đáo để đón tiếp Đấng Messia. Nhưng lạ thay, Gioan không bảo họ trang trí nhà cửa phố xá cho nguy nga lộng lẫy. Gioan không bảo họ chuẩn bị các món ăn đặc sản của dân tộc để thiết đãi Đấng Messia. Gioan đề nghị họ một cung cách sống để vui lòng Đấng Messia. Đối với đám đông dân chúng hãy biết sống chia sẻ với nhau. Hãy sống đùm bọc nhau trong tình bác ái chân thành qua việc chia sẻ cơm ăn, áo mặc. Đối với người thu thuế và người giầu có hãy sống công bình bác ái. Đừng cho vay nặng lãi. Đừng chồng chất thêm gánh nặng cho dân bằng sưu cao thuế nặng. Hãy sống bằng một trái tim nhân ái biết xót thương kẻ bần cùng lầm than. Đối với binh lính, Gioan đề nghị hãy biết thương dân, đừng hà hiếp bóc lột, đừng sống theo kiểu tham quan vô nại, hãy sống theo chức vụ của mình là để bảo vệ và gìn giữ sự an ninh cho dân làng.

 

Nghe lời Gioan ai nấy đều muốn thay đổi lối sống cho đẹp lòng Đấng Messia. Từng đoàn người đến sông Giordan. Trong đó có đủ mọi thành phần già trẻ, lớn bé. Quyền qúy cao sang và đói khổ bần hàn. Tất cả đều cúi mình sám hối. Tất cả đều muốn thay đổi lối sống. Sửa lại những quanh co gian trá của lòng người. Lấp đầy những hố sâu của ngăn cách bằng tình yêu chân thành. Và san bằng núi đồi kiêu căng bằng đời sống hoà hợp mến yêu. Một bầu khí thật vui tươi và an bình trải rộng khắp giòng sông Giordan. Một niềm hy vọng cho một thế giới không còn bất công, không còn hận thù chỉ còn có sự chia sẻ, cảm thông trong yêu thương chân thành. Một bầu khí hứa hẹn những ngày tháng thanh bình như lời tiên tri Isaia đã nói: “sói nằm chung với chiên con. Trẻ con thò tay vào hang rắn độc. Người ta sẽ lấy lưỡi gươm mà rèn nên lưỡi cầy và nhân loại sẽ cùng nhau hát vang tiếng hát hoà bình”.

 

Hôm nay, Giáo hội cũng gợi lại hình ảnh đó để nhắc nhở con người thời nay. Chúa đã đến với chúng ta hôm nay qua tha nhân, qua các bí tích. Chúa sẽ đến với chúng ta trong ngày cuối cùng của đời người dương gian, và Chúa sẽ đến trong uy nghi vinh hiển trong ngày quang lâm. Vậy có ai đó đã tự hỏi lòng mình: tôi phải làm gì để đón tiếp Chúa? Nếu chúng ta tin rằng Chúa đang hiện diện giữa chúng ta, liệu rằng chúng ta có gì để dâng cho Chúa? Có lẽ Chúa không cần chúng ta xây nhà nguy nga lộng lẫy cho Chúa. Chúa cũng không cần chúng ta trải thảm lót đường cho Chúa. Chúa chỉ cần chúng ta dâng cho Chúa tấm lòng thanh sạch không vương vấn tội nhơ. Một con tim tràn đầy tình yêu thương đồng loại. Một tấm lòng muốn sửa đổi, muốn thăng tiến bản thân cho tốt hơn, cho đúng với giáo huấn và lề luật của Chúa.

 

Có một câu chuyện ngụ ngôn kể rằng: Khi Chúa giáng sinh, muôn loài đều tới mừng Chúa. Mỗi loài đều dâng cho Chúa chút quà. Chị bò cái dâng sữa, cậu khỉ biếu Chúa mấy trái cây nhỏ, chú sóc nâu bé nhỏ tình nguyện ở lại làm đồ chơi cho Chúa. Chúa hài đồng vui vẻ nhận tất cả. Đang lúc các thú vật quây quần bên Chúa, thì chàng cáo xuất hiện. Các con vật đều ghét cáo, vì hắn gian manh quỉ quyệt. Chúng chận không cho cáo đến gần Chúa và tự hỏi không biết cáo định âm mưu gì. Cáo nói rằng, cáo đến dâng lễ vật cho Chúa, nhưng chẳng thấy cáo mang theo lễ vật. Chúa ra hiệu cho cáo vào. Quì bên Chúa hài đồng chàng cáo thì thầm:

– Lạy Chúa, con xin dâng lên Chúa lòng quỷ quyệt của con!

Mọi con vật bỡ ngỡ:

– Dâng gì kỳ cục vậy?

Nhưng cáo vui cười hớn hở, còn Chúa đặt hai tay trên đầu cáo tỏ dấu ưng thuận chúc lành.

 

Có lẽ đó là món quà mà Chúa cần chúng ta dâng cho Chúa. Dâng lên Chúa chính tội lỗi, yếu đuối của mình. Dâng cho Chúa là hứa với Chúa từ nay sẽ thôi không theo đường cũ, quyết ăn ở ngay lành, sống công bình bác ái và thân ái với mọi người. Ước mong những ngày chuẩn bị mừng lễ giáng sinh với sự trang hoàng bên ngoài bằng hang đá, cây thông, đèn sao lấp lánh, mỗi người chúng ta cũng chuẩn bị một món quà từ tấm lòng sám hối ăn năn để từ trong sâu thẳm cõi lòng có thể rộn ràng lên câu hát “vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”. Amen.

 

65.        Loan báo Lòng Thương Xót

(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)

 

Cuộc đời thật vui khi con người sống yêu thương nhau. Tình yêu sẽ giúp người ta sáng tạo ra muôn nghìn cách để làm vui lòng nhau. Mỗi nghĩa cử yêu thương sẽ mang lại cho đời muôn vàn nụ cười của sự mãn nguyện hạnh phúc.

Có một lần đến quán cơm Nghĩa Tình ăn cơm giá 5.000đ với thợ lao động. Tôi nhìn thấy trên khuôn mặt những người nghèo là một nụ cười hạnh phúc vì được ăn ngon và no. Vì ở đây cơm được bao no với cơm thịt, cơm cá thật phong phú. Đặc biệt ở đây còn có “Ngày thứ năm hạnh phúc”. Trong ngày này tất cả các món như: phở, hủ tíu, bún bò, bún bò huế… cũng đồng giá là 1.000 đồng/1 tô và mọi người ăn bao nhiêu tùy thích.

Nếu tình cờ đi ngang qua các bệnh viện, các nơi có đông những công nhân nghèo chúng ta cũng thấy rộ lên niềm vui trên khuôn mặt những người nghèo khi nhận được những chén cháo tình thương, những bát cơm nhân ái…

Và như vậy, nếu xã hội có nhiều người thiện tâm làm việc thiện, luôn quảng đại dấn thân cho mọi hạng người cùng đinh là chúng ta đang làm cho xã hội vui lên, nhất là cho những phận người bất hạnh vui lên.

Phụng vụ Chúa nhật thứ 3 Mùa Vọng mời gọi chúng ta cùng vui lên. Vui lên vì Chúa đang hiện diện giữa chúng ta. Vui lên vì giờ hồng phúc đã đến với con người chúng ta. Và niềm vui này càng được nhân lên khi Gioan mời gọi mọi thành phần hãy làm điều gì đó tốt cho anh em. Gioan bảo đám đông dân chúng hãy làm cho xã hội vui lên qua việc thực thi bác ái một cách quảng đại với tha nhân: “Ai có hai áo, thì chia cho người không có; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy”. Xã hội sẽ vui hơn nếu con người biết sống công bình với nhau. Cuộc đời sẽ vui hơn nếu người nghèo được quan tâm, được giúp đỡ. Xã hội sẽ hòa bình trật tự nếu mọi người biết tôn trọng phẩm giá và quyền lợi của nhau thay cho những hà hiếp, áp bức làm đau lòng nhau…

Có ai đó nói rằng: cuộc sống vốn đầy khổ đau rồi, đừng chồng chất gánh nặng lên nhau. Hãy sống làm vui lòng nhau hơn là đầy đọa nhau. Không ai lại vui khi nhìn thấy người khác khóc. Tại sao chúng ta không đối xử nhân ái với nhau thay vì cứ nói xấu, hay tìm cách loại trừ nhau? Làm đau lòng nhau đâu khiến ta vui lên?

Thế nên, điều quan yếu là hãy làm vui lòng nhau để gây tiếng cười cho nhân thế. Hãy thực thi lòng nhân ái trong Năm Lòng Thương Xót. Hãy thể hiện tình yêu một cách cụ thể chia cơm cho người đói ăn. Hãy tạo tình liên đới khi mời một gia đình nghèo hay di dân cùng ăn cơm với ta. Hãy sống khoan dung khi tha nợ cho những người bất hạnh đang gặp rủi ro, tai nạn trong làm ăn. Hãy sống tình tha thứ thay cho những đố kỵ ghen tương. Hãy xây dựng hòa bình thay cho những xung đột, hiềm khích lẫn nhau…

Đó là cách chúng ta loan báo Lòng Thương Xót Chúa cho anh em. Đó chính là lời chứng hùng hồn cho tình yêu vô biên của Thiên Chúa mà chúng ta đã được hấp thụ, uốn nắn lên người loan báo tình thương.

 

Xin cho đời sống của chúng ta luôn mang lại niềm vui cho nhân thế qua việc bác ái, phục vụ. Xin cho lời loan báo tình thương của chúng ta luôn đi đôi với việc làm để muôn dân sẽ nhận ra chúng ta là môn đệ của Chúa, và cùng ca ngợi tôn vinh Thiên Chúa. Amen.

 

66.        Thắp sáng đức tin

(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)

 

Thời gian gần đây, mỗi ngày có hàng trăm cây nến được mang tới nhà thờ làm phép. Các cửa hàng bán nến xem ra “đắt như tôm tươi”. Vì người này rỉ tai người kia phải mua nến để chuẩn bị ngày “tận thế”. Người ta rỉ tai nhau “nếu không có nến được làm phép sẽ chịu cảnh tối tăm bao trùm trong ngày “tận thế”.

 

Có người còn xác định thật rõ ràng ngày định đoạt đó là ngày 21.12! Xem ra người ta rất sợ ngày đó. Đối với họ, đó không phải là ngày lành. Đó không phải là ngày họ chờ đợi mà là ngày họ không bao giờ muốn xảy đến trong cuộc đời của họ.

 

Theo niềm tin ky-tô giáo chúng ta vẫn xác tín sẽ có ngày “cánh chung” đối với con người và vũ trụ. Đó là ngày Chúa Ky-tô quang lâm để đưa vũ trụ tới thành toàn viên mãn. Nhưng đây không phải là ngày sợ hãi, mà là ngày tràn ngập niềm vui. Ngày mà muôn dân phải mong đợi. Vì trong ngày đó, Đức Ky-tô sẽ mang đến cho nhân trần niềm hạnh phúc viên mãn và trường cửu. Ngày đó con người sẽ không còn lo sợ chiến tranh, không còn lo âu vất vả, không còn những hỉ nộ ái ố. Ngày đó con người sẽ cùng nhau hát tiếng ca hoà bình. Ngày đó, Thiên Chúa sẽ thiết đãi các dân tộc một bữa tiệc hiệp nhất, một bữa tiệc tràn đầy hoan lạc và bình an.

 

Trong ngày cánh chung của vũ trụ và cũng là ngày Đức Ky-tô quang lâm lần thứ hai, Giáo hội vẫn nhắc nhở chúng ta phải luôn cầm nến sáng trên tay. Nhưng không phải là cây nến vật chất mau tan biến mà là cây nến tâm hồn chúng ta. Cây nến của đức tin luôn toả sáng giữa thế gian. Cây nến của cuộc đời luôn tràn ngập tình yêu với tha nhân.

 

Như Gioan đã đề nghị người Do Thái một cung cách sống để đón chờ Đấng Messia. Giáo hội cũng mượn lời Chúa hôm nay để nhắc nhở mọi thành phần dân Chúa hãy có thái độ sẵn sàng chờ đón Chúa. Đối với tín hữu hãy biết sống chia sẻ với nhau. Hãy sống đùm bọc nhau trong tình bác ái chân thành qua việc chia sẻ cơm ăn, áo mặc. Đối với người thu thuế và người giầu có hãy sống công bình bác ái. Đừng cho vay nặng lãi. Đừng chồng chất thêm gánh nặng cho dân bằng sưu cao thuế nặng. Hãy sống bằng một trái tim nhân ái biết xót thương kẻ bần cùng lầm than. Đối với quan quân hãy biết thương dân, đừng hà hiếp bóc lột, đừng sống theo kiểu tham quan vô nại, hãy sống theo chức vụ của mình là để bảo vệ và gìn giữ sự an ninh cho dân làng.

 

Năm xưa dân Do Thái, nghe lời Gioan ai nấy đều muốn thay đổi lối sống cho đẹp lòng Đấng Messia. Từng đoàn người đến sông Giordan. Trong đó có đủ mọi thành phần già trẻ, lớn bé. Quyền qúy cao sang và đói khổ bần hàn. Tất cả đều cúi mình sám hối. Tất cả đều muốn thay đổi lối sống. Sửa lại những quanh co gian trá của lòng người. Lấp đầy những hố sâu của ngăn cách bằng tình yêu chân thành. Và san bằng núi đồi kiêu căng bằng đời sống hoà hợp mến yêu. Một bầu khí thật vui tươi và an bình trải rộng khắp dòng sông Giordan. Một niềm hy vọng cho một thế giới không còn bất công, không còn hận thù chỉ còn có sự chia sẻ, cảm thông trong yêu thương chân thành. Một bầu khí hứa hẹn những ngày tháng thanh bình như lời tiên tri Isaia đã nói: “sói nằm chung với chiên con. Trẻ con thò tay vào hang rắn độc. Người ta sẽ lấy lưỡi gươm mà rèn nên lưỡi cầy và nhân loại sẽ cùng nhau hát vang tiếng hát hoà bình”.

 

Thế nhưng, thế giới hôm qua cũng như hôm nay vẫn còn đó những bất công và hận thù, những chia rẽ, dối gian vì con người vẫn chưa dám sống theo niềm tin của mình. Họ tin Chúa, tin đạo nhưng không thực hành đạo. Đức tin của con người chỉ dừng lại nơi đầu môi chóp lưỡi nhưng không mang ra thực hành giữa cuộc đời. Đức tin của con người hôm nay đôi khi chỉ thể hiện trong nhà thờ nhưng không dám thể hiện trong thánh lễ cuộc đời.

 

Ước gì năm đức tin sẽ là dịp để chúng ta thể hiện đức tin của mình bằng hành động. Đức tin không dừng lại ở lời tuyên xưng nhưng thể hiện bằng cả đời sống tin cậy mến giữa cuộc đời. Ước gì ánh nến đức tin của chúng ta luôn sáng ngời, luôn được thắp sáng giữa thế gian còn đầy bóng tối của nghi nan, bóng tối của bất công và chia rẽ. Và ước gì chúng ta luôn là ngọn nến thắp sáng cho trần gian ánh sáng của tin yêu và hy vọng. Amen.

 

67.        Chúa Nhật 3 Mùa Vọng

(Suy niệm của McCarthy)

 

Suy Niệm 1. VĨ ĐẠI CỦA GIOAN TẨY GIẢ

Ngày kia, có một người thắp đèn kỳ lạ, tên là ông T. Ông là một người hoàn toàn đáng tin cậy và chính xác như một cái đồng hồ. Mỗi tối, khi trời vừa chập tối, thì các ngọn đèn dầu luôn luôn được thắp sáng lên. Bằng cách nào mà ông đoán biết được giờ giấc mà không một ai biết được, bởi vì ông không hề có đồng hồ. Người ta thường nhìn ra cửa sổ đằng trước, khi ông đi lên đi xuống trên đường, để lại một vệt ánh sáng phía sau ông. Đối với tất cả mọi người, rõ ràng ông yêu mến công việc của mình. Ông sống chỉ vì một việc duy nhất: đốt lên những ngọn đèn. Cuộc sống của ông không phải là một cuộc sống dễ dàng, nhưng sáng rực một ý nghĩa. Tất cả mọi người đều yêu quý ông, đặc biệt là các trẻ nhỏ. Khi bóng tối đến đe dọa kết thúc những trò chơi trên đường phố của chúng, thì ông T. đến, cùng với ngọn đèn, và chúng lại được tiếp tục chơi.

 

Điều gì làm cho ông T. trở nên lạ lùng đến thế? Rốt cuộc, có nhiều người yêu mến công việc của mình, và làm một cách trung thành. Tính cách vĩ đại của ông T. hệ tại ở sự kiện rằng ông bị mù lòa. Con người quá trung thành trong việc đem ánh sáng đến cho những người khác, nhưng lại không bao giờ nhìn thấy bản thân mình.

 

Cuối cùng, khi có đèn điện, và hiện nay, theo năm tháng, ông T. đã già yếu rồi, thì ông trở nên một người thừa. Cuộc sống của ông đột nhiên bị mất đi ý nghĩa. Ông cảm thấy mình vô dụng và không còn ai mong mỏi nữa. Thật đáng buồn. Những người đã từng quý mến ông, thì nay đã quên lãng ông. Ánh sáng mới vượt xa ánh sáng cũ quá nhiều, đến nỗi không còn ai tiếc nuối ánh sáng cũ nữa.

Ông T. nhắc nhở chúng ta về thánh Gioan Tẩy Giả. Tương tự như ông T., thánh Gioan Tẩy Giả đã làm việc cần cù, để mang đến cho mọi người ánh sáng của bản thân ngài. Ngài đã một nhân vật nổi tiếng, thống trị cả một vùng. Nhưng ngài luôn ý thức rằng có một ánh sáng vĩ đại hơn sắp đến, một ánh sáng mà bản thân ngài không được tiền định để đi vào. Khi ánh sáng đó xuất hiện qua con người của Đức Giêsu, thì ngài đứng sang một bên, để dọn đường cho Đức Giêsu. Đó là một tính cách vĩ đại.

 

Không một người nào đến, để làm nổi bật hoặc đạt được sự nổi tiếng cho bản thân mình. Bạn sẽ luôn luôn nhận thấy rằng ở sau hậu trường, có một người tạo điều kiện thuận lợi. Công việc của người đó là giúp đỡ, hướng dẫn và khích lệ bạn. Nói cách khác, để chuẩn bị đường cho bạn. Khi bạn đạt được sự nổi tiếng thì không ai nhìn đến người dọn đường nữa, và thường bị rơi vào quên lãng.

 

Để dọn đường, hoặc thậm chí chỉ để dọn phòng cho người khác, thì đòi hỏi phải có tinh thần khiêm tốn và quảng đại. Thật vậy, công việc này đòi hỏi một kiểu chết đi về bản thân mình. Khi rút lui khỏi một chức vụ cao, là chết đi một chút, thậm chí lại còn hơn cả một chút nữa. Một số người làm hư việc, khi nắm quyền lực trong một thời gian quá lâu dài.

 

Các bậc cha mẹ luôn dành ra những năm tháng tốt đẹp nhất cuộc đời mình, để chuẩn bị đường cho những đứa con của họ, theo ý nghĩa là mở lối cho chúng đi vào cuộc đời. Nhưng đến một thời điểm nào đó, cha mẹ phải rút lui, để con cái họ có thể tự đi trên đôi chân của chúng. Một khi đã đem cuộc sống đến cho con cái, thì cha mẹ cũng phải cho phép chúng được sống cuộc sống đó.

 

Tất cả chúng ta đều có khuynh hướng thích được nổi tiếng. Có lẽ một cách đầy bất ngờ, chúng ta thường thống trị người khác, và loại bỏ họ vào bóng tối. Chúng ta phải cố gắng chiếu tỏa hết khả năng của mình ra, trong khi vẫn phải cẩn thận, để không ngăn cản đường đi của người khác. Và chúng ta cũng phải ý thức về món nợ đối với người khác, đó là những người đã chuẩn bị đường cho chúng ta.

 

Suy Niệm 2. BÍ QUYẾT CỦA HẠNH PHÚC

Một trong những chủ đề của các bài đọc hôm nay là chủ đề về hạnh phúc. Tất cả chúng ta đều mong muốn có hạnh phúc. Nhưng bí quyết của hạnh phúc là gì?

 

Lần kia, có một người chăn chiên gửi con trai của ông đến với một người khôn ngoan, để học hỏi bí quyết của hạnh phúc. Khi tới tòa lâu đài đẹp đẽ, nơi sinh sống của con người khôn ngoan đó, người con trai đó nói với ông ta rằng anh mong muốn được biết về bí quyết của hạnh phúc. Tuy nhiên, thay vì giải nghĩa cho anh về bí quyết này, con người khôn ngoan đó lại đưa cho anh một cái muỗng chứa đầy dầu, nói rằng: “Con hãy nhìn khắp chung quanh tòa lâu đài. Trong đi vòng quanh, con hãy mang theo cái muỗng này, mà không được làm chảy dầu ra”. Anh thanh niên bắt đầu đi vòng quanh tòa lâu đài. Trong khi đi, anh liên tục nhìn vào cái muỗng. Sau hai giờ, anh trở lại căn phòng, nơi có nhân vật khôn ngoan đó.

 

Người khôn ngoan hỏi “Tốt, thế con nhìn thấy cái gì?”. Anh thanh niên tỏ ra bối rối, và thú nhận rằng anh không hề nhìn thấy gì cả. Mối quan tâm duy nhất của anh là không làm chảy dầu ra, theo như người khôn ngoan đã tin tưởng vào anh. Người khôn ngoan nói: “Vậy thì con hãy đi trở lại, và quan sát những quang cảnh tuyệt vời trong thế giới của ta. Con không thể tin tưởng vào một người nào, nếu con không biết gì về ngôi nhà của người đó”.

Trong tâm trạng khuây khỏa, anh thanh niên cầm lấy cái muỗng, và trở lại với công việc đi khám phá tòa lâu đài, lần này, anh quan sát tất cả những đồ đạc đẹp đẽ và những tác phẩm nghệ thuật trang trí các căn phòng của tòa lâu đài. Sau đó, anh thăm viếng khu vườn, với vòi nước nguy nga, những bông hoa và những bụi cây xinh đẹp, thưởng thức thị hiếu thẩm mỹ mà tất cả mọi đồ vật được bố trí theo đó. Khi trở về với nhân vật khôn ngoan, anh tường thuật lại từng chi tiết mọi thứ anh đã nhìn thấy.

 

Người khôn ngoan hỏi: “Nhưng những giọt dầu mà ta đã tin tưởng giao phó cho con đâu rồi?”. Anh thanh niên nhìn xuống cái muỗng, và nhận thấy không còn chút dầu nào cả. Người khôn ngoan nói “À, ta chỉ có thể cho con một lời khuyên mà thôi: Bí quyết của hạnh phúc hệ tại ở khả năng nhìn thấy tất cả những điều tuyệt vời của thế giới, không bao giờ quên lãng những giọt dầu trong cái muỗng”.

 

Ngay tức khắc, anh thanh niên hiểu được điều mà nhân vật khôn ngoan đang nói. Người chăn chiên có thể ưa thích đi đây đi đó, nhưng người đó không bao giờ được quên đàn chiên của mình. Bí quyết của hạnh phúc bao gồm sự trung thành với những lời cam kết của mình và có tinh thần trách nhiệm, trong khi đồng thời vẫn thưởng thức được hương vị cuộc sống. Thật dễ dàng có hạnh phúc, khi chúng ta đang làm công việc mà mình mong muốn. Nhưng để tìm thấy hạnh phúc trong những công việc mà chúng ta phải làm, chứ không đơn giản là trong công việc mà chúng ta muốn làm, thì đây là một ân sủng của Thiên Chúa.

 

Hạnh phúc không phải là một cảm giác tự mãn nông cạn. Chúng ta không thể có hạnh phúc, nếu những công việc chúng ta làm đều khác hẳn so với những điều chúng ta tin tưởng. Và không thể có hạnh phúc, mà không có tình yêu. Khi chúng ta khước từ tình yêu, thì một cảm giác buồn phiền sẽ thấm nhập vào tâm hồn chúng ta.

 

Chúng ta cũng không được đánh giá sự vui mừng và lạc thú ngang hàng với nhau. Lạc thú thuộc về cơ thể, còn sự vui mừng thuộc về tinh thần. Bạn có thể nhanh chóng ngán ngẩm lạc thú, nhưng bạn không bao giờ chán ngán niềm vui.

 

Cuối cùng, chỉ duy nhất một mình Thiên Chúa mới có thể đáp ứng được trọn vẹn những giấc mơ của chúng ta. Sự hiện diện của Thiên Chúa chính là nguyên nhân đưa đến niềm vui cho chúng ta. Ngôn sứ Isaia đã nói với dân chúng “Anh em hãy vui mừng lên”. Nguyên nhân của niềm vui đó là gì? Bởi vì “Thiên Chúa đang ở giữa anh em”. Và thánh Phaolô cũng nói với dân thành Philipphê: “Tôi mong muốn cho anh em được hạnh phúc”. Tại sao vậy? Bởi vì “Chúa rất gần rồi”. Niềm vui mà thế gian này không thể nào mang lại được, chính là niềm vui phát xuất từ ý nghĩ về Thiên Chúa và tình yêu của Người đối với chúng ta.

 

68.        “Làm”

(Suy niệm của Lm. Vũ Xuân Hạnh)

 

Làm! Một động từ rất ngắn gọn: chỉ có một tiếng, nhưng lại là một con đường dài, khởi đi từ suy nghĩ đến cái miệng hoặc cái tai rồi mới đến bàn tay. Làm! Một động từ mà bản thân nó chẳng nói lên điều gì tốt hay xấu. Nhưng khi nó trượt hết con đường dài đến được bàn tay, thì kết quả của nó có thể là hoa trái của tình yêu, nhưng cũng có thể gây ra không biết bao nhiêu hận thù, chết chóc. Làm! Đơn giản là thế, nhưng cũng phức tạp không ít. Vì chỉ một hành vi nào đó, có khi thể hiện ra bên ngoài là một nghĩa cử rất yêu thương, lại ẩn chứa bên trong nó là một thái độ mua chuộc, mưu lợi, tệ hơn: trả thù. Có khi nó là một sự che đậy giả tâm của một ai đó.

Những năm qua, khi mà nhân loại còn đang bắt đầu thời gian khai mạc ngàn năm thứ ba, cứ tưởng rằng, với mọi nỗ lực đi đến hòa bình của bao nhiêu tâm hồn thiện chí, sẽ mang lại bình an cho thế giới. Nào ngờ, hòa bình trên thế giới vẫn bị đe dọa và thách thức từng ngày.

Tại Đất Thánh, quê hương của Chúa Giêsu, người ta đổ máu nhau gần như mỗi ngày. Sự thù hận làm cho người ta trở nên những kẻ điên cuồng. Hết đánh bom cảm tử đến càn quét, cày xới nhà cửa, đất đai của nhau. Năm 2003, cũng tại Đất Thánh, người ta dựng lên bức tường ngăn cách. Nếu phải gọi tên cho bức tường này, có lẽ phải gọi nó là sự thất bại của con người cho một mơ ước rất đơn giản: hòa bình! Đơn giản là thế, vậy mà bao nhiêu năm rồi vẫn cứ giằn co, máu vẫn cứ thay nhau mà đổ, mà chảy, đỏ thắm cả niềm đau.

Tại Iraq, những cuộc đánh bom giết người, tàn phá tài sản liên tục xảy ra, mặc cho thế giới lên án, căm phẫn, mặc cho những bên có liên quan, những người trong cuộc, các nhà lãnh đạo và tất cả những ai yêu hòa bình lo sợ. Đã nhiều năm nay, nguy cơ vũ trang nguyên tử Bắc Triều Tiên vẫn chưa có lối mở nào giải quyết khả dĩ. Người ta vẫn chưa quên được sự xách động của thế giới Hồi giáo làm ồn ào và gây nhiều nguy hiểm cho nền hòa bình thế giới khi hô hào chống lại lời phát biểu của Đức Thánh Cha Bênêdictô XVI…

Đó mới chỉ là những con sự kiện nổi cộm. Nếu ước tính những vụ khủng bố và bạo động trong một năm qua hay xa hơn nữa, chắc không ai dám nghĩ tới, vì nó sẽ làm ta rùng mình khiếp sợ. Thật là trái ngược, trái ngược đến mức mâu thuẫn hoàn toàn, vì tận trong tâm, ai cũng yêu hòa bình, ai cũng muốn sống niềm vui và hạnh phúc. Nhưng tại sao khi hành động, thì việc làm của con người lại có quá nhiều nguy hiểm, đe dọa và giết chóc. Lòng người sao tàn nhẫn đến thế!

Người ta nhân danh sự lớn mạnh, sự giàu có của quốc gia mình để trút bao nhiêu bom đạn và huênh hoan rằng, sẽ dẹp yên bạo động, trừ vạ khủng bố. Không biết người ta đã trừ, đã dẹp đến đâu, đạt được những thành quả nào, chỉ biết rằng, hôm nay nhân loại vẫn đang mất bình an, thế giới càng đầy dẫy hận thù, nguy cơ của những cái chết tập thể không ai lường hết được.

Con người dường như không ngăn nổi sự điên cuồng của bản thân, hay cũng đã trở nên điên cuồng. Tất cả những điều đó đều gói trong một động từ duy nhất: LÀM. Và sử dụng động từ làm như thế, đã biến con người ta thành những kẻ say máu đến độ thèm khát giết chóc, lao mình vào giết chóc. Những kẻ đánh bom cảm tử là một điển hình.

Cũng cùng một động từ làm, nhưng đối với thánh Gioan Tẩy Giả, nó lại quásức thân thương, đáng yêu và đáng học đòi. Thánh Gioan đề nghị mọi người động từ LÀM, mà nếu ai sống như thế, chẳng những bản thân bình an, cuộc sống của mọi người xung quanh cũng sẽ hưởng bình an lớn lao.

Đọc lại bài Tin Mừng hôm nay, ta sẽ cảm nhận tất cả tình cảm đáng yêu, đáng quý, đáng trân trọng của động từ làm mà thánh Gioan đề nghị: Dân chúng hỏi thánh Gioan, “Chúng tôi phải LÀM gì?” Thánh Gioan trả lời cho họ biết phải làm gì bằng những việc làm thật cụ thể, thật gần gũi, dính kết ngay trong bổn phận của mỗi một người. Và tùy từng đấng bậc, nhiệm vụ mà thánh Gioan dạy họ làm:

Đối với dân chúng: “Ai có hai áo, hãy cho người không có, ai có của ăn cũng hãy làm như vậy”.

Đối với người thu thuế: “Các ngươi đừng đòi gì quá mức đã ấn định cho các ngươi”.

Đối với các quân nhân: “Đừng ức hiếp ai, đừng cáo gian ai, các ngươi hãy bằng lòng với số lương của mình”.

Nếu ở thời đại chúng ta, chắc chắn thánh Gioan cũng không đề nghị một cái gì khác hơn, nhưng vẫn chỉ là một động từ làm kết dính vào bổn phận của từng người, của chính bạn và chính tôi.

Điều cần chú ý ở đây là những gì thánh Gioan nói cũng chính là những gì Chúa Giêsu dạy. Trong Tin Mừng, động từ LÀM được nhắc đi, nhắc lại rất nhiều lần. Chẳng hạn trước câu hỏi của người thanh niên giàu có: “Tôi phải làm gì để sống đời đời”, Chúa dạy: “Ngươi hãy bán tất cả của cải và phân phát cho người nghèo, rồi đi theo Ta”. Như vậy, điều cần làm ở đây, đó là sự trút bỏ để nên nghèo khó, là lòng bác ái với anh chị em nghèo.

Hay ở nơi khác, Chúa dạy người luật sĩ bằng dụ ngôn về người Samari tốt bụng, giúp đỡ người bị nạn trên đường đi. Và Chúa kết luận: “Anh hãy đi và LÀM như vậy” (Lc 6, 46). “Làm như vậy”, nghĩa là nếu người Samari trong dụ ngôn tốt bụng thế nào, thì người luật sĩ và cả chúng ta cũng hãy tốt bụng như thế. “Làm như vậy” còn là cúi xuống để nâng dậy những anh chị em khốn cùng, bất hạnh, đói rét… “Làm như vậy”, nghĩa là chấp nhận xóa mình, chấp nhận hao mòn sức lực, thời giờ, để hiến thân như chính Chúa đã hiến thân cho ta.

Dẫu biết rằng con đường dài nhất là con đường đi từ nói hoặc nghe đến làm. Đó là một con đường khó đi. Nhưng khó không có nghĩa là không thể thực hiện được. Chỉ cần chúng ta học lấy mỗi ngày một chút, chú ý thêm mỗi ngày một chút, chắc chắn không có gì khó đến mức không thể làm được. Đó là chưa kể tới ơn Chúa trợ giúp. Với ơn Chúa, chúng ta vững tin rằng, lòng mình sẽ được biến đổi để trở nên mềm mại hơn, đáng yêu hơn và dễ đến với anh em hơn. Bởi vậy động từ làm mà hôm nay thánh Gioan đề nghị sẽ là một từ ngữ đẹp hơn hết mọi thứ mà ta có thể cho là đẹp.

Chúng ta nói tới những việc làm gây chấn động thế giới bằng sự giết người tàn bạo. Nhưng cụ thể nơi tâm hồn mỗi người thì sao? Có lẽ bạn và tôi không ai dám nghĩ tới việc hãm hại anh chị em quanh mình, nhưng cách này cách khác, bằng sự đố kỵ, bằng thái độ chấp nhất, không tha thứ, không bao dung, nói không tốt về người khác, hoặc có khi trả đũa một người nào, không phải bằng giết người, nhưng bằng một hành động, một việc làm nào đó…, ta đã không LÀM tốt, không LÀM như Tin Mừng dạy. Vì thế, nhiều lần bản thân mỗi người đã xúc phạm đến anh chị em, gây đổ vỡ trong tình yêu, trong những mối tương thân tương ái, và làm mất bình an trong lòng người khác, nặng hơn: đào sâu thêm mối oán hận, thù nghịch nào đó…

Không biết có phải bi quan quá không, khi nói rằng: Nếu đi từ suy nghĩ đến hành động đã khó, thì từ suy nghĩ đến suy nghĩ đúng, lan rộng tới hành động: làm đúng, lại càng khó. Bởi thế, đứng trước mọi hiểm họa do lòng người độc ác đã tàn nhẫn gây nên, người Kitô hữu được mời gọi hãy lắng nghe Lời Chúa, hãy sống những gì Tin Mừng dạy và làm những gì hợp Thánh ý Thiên Chúa để thế giới hòa thuận hơn, cuộc sống con người bình an hơn. Khi môi trường xung quanh có bình an, mỗi người cũng sẽ tràn ngập bình an.

 

69.        Vui lên anh em.

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

 

Gần đến lễ Giáng Sinh, người ta thấy hình ảnh ông già Noel đủ cỡ xuất hiện khắp nơi. Các em thắc mắc không biết ông già Noel là ai? Và có thật không?

Tháng 9 năm 1987, một bé gái tên là Virginia đã viết cho một tờ báo Công giáo Hoa Kỳ để hỏi về ông già Noel. Câu hỏi của cô bé là: Ông già Noel có thật không?

Vài ngày sau, trên mục quan điểm của tờ báo, người ta đọc được câu trả lời của ông chủ nhiệm kiêm chủ bút như sau: “Virginia yêu dấu của bác. Điều trước tiên bác muốn nói với cháu là: các bạn của cháu thật là sai lầm khi bảo rằng không có ông già Noel. Các bạn của cháu đã bị tiêm nhiễm bởi trào lưu hoài nghi. Họ nghĩ rằng chỉ có thể tin được những gì họ thấy tận mắt. Họ nghĩ rằng không gì có thể có được nếu trí khôn nhỏ bé của họ không hiểu được.

Virginia ạ! Ông già Noel có thực. Ông có thực cũng như tình yêu và lòng quảng đại, nhờ đó cuộc sống của cháu sẽ trở thành vui tươi và xinh đẹp. Bé ơi, nếu không có ông già Noel thì thế giới của chúng ta sẽ như thế nào?…”.

Được biết ông già Noel là một nhân vật lịch sử có thật. Người Pháp gọi là Cha Noel (Le père Noel). Người Anh gọi trực tiếp là Thánh Nicola (Santa Claus). Thánh Giám mục Nicola nầy được mừng lễ ngày 6/12 mỗi năm, trước lễ Giáng Sinh gần 20 ngày. Người Pháp thân mật gọi ngài là Cha Noel, vì ngài liên hệ nhiều với lễ Noel, nhất là với trẻ em. Các em mộ mến ngài như một ông già Noel. Các em được kể rằng nếu chúng ngoan, ông già Noel sẽ chui vào lò sưởi, vào phòng của chúng, bỏ bánh kẹo vào những chiếc giày các em để ở bên lò sưởi hay bỏ vào những chiếc vớ các em treo ở chân giường…

Ông già Noel sẽ tiếp tục làm cho tâm hồn trẻ thơ được tràn đầy hoan lạc. Cũng vậy, lời Chúa của Chúa Nhật thứ III Mùa Vọng hôm nay mời gọi chúng ta hãy vui lên. Không phải vui vì có ông già Noel, vì quà tặng, vì những thiệp chúc mừng, vì đèn sao, máng cỏ… Những niềm vui hời hợt bên ngoài ấy sẽ qua mau nhưng niềm vui đích thực sẽ còn mãi, cả trong lúc lo âu, thất bại. Niềm vui đó bén rễ sâu trong lời cầu nguyện và đó là dấu chỉ của người Kitô hữu.

 

“Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa!”

Qua bài đọc thứ nhất, Tiên tri Sôphônia cất lên những tiếng kêu đầy lạc quan: “Hỡi Israel, hãy hân hoan. Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy nhảy mừng. Chúa đã rút lại lời kết án. Vua Israel là Chúa ở giữa ngươi, ngươi sẽ không còn sợ tai hoạ nữa”.

 

Thưa anh chị em,

Lời đó có an ủi được chúng ta hay không, khi mỗi ngày tai chúng ta nghe sang sảng từ trong đài phát thanh những tin tức bi đát của một thế giới đang còn nhiều điểm nóng chiến tranh, còn những cuộc tranh chấp vì bất công, vì đói khổ; khi mắt chúng ta còn thấy nhan nhản những chiếc khăn sô chít trên đầu, những đàn con mất cha mất mẹ; còn chứng kiến biết bao bệnh nhân trong các bệnh viện rên la đau đớn…

 

Khi nghe, khi nhìn các điều đó, có phải chúng ta là người ngoài cuộc không? Chúng ta thấy hoà bình và hạnh phúc trộn lẫn những mối nguy đang đe doạ chúng ta. Trong thực tế, chúng ta vẫn lo lắng và đau khổ, mà chính những cơn bão táp trong lòng, những cái mâu thuẫn giữa con tim, giữa lý trí, làm chúng ta xao xuyến băn khoăn. Thánh Phaolô đã cảm nghiệm điều đó trong bản thân và ngài đã thốt ra những lời chân thành của một con người chân đạp đất: “Sự lành tôi muốn thì tôi không làm; còn sự không muốn thì tôi lại làm”.

 

Tuy nhiên chúng ta vẫn có thể mỉm cười trong đau khổ và vui tươi trong thử thách, khi chúng ta xác tín rằng Thiên Chúa vẫn hiện diện trong đau khổ của chúng ta. Niềm xác tín này làm nảy sinh và gia tăng niềm hy vọng hân hoan. Nhưng làm sao để nhận thấy “Đấng đang đến” gần kề? Làm thế nào để nhận ra “Đấng đang ở giữa ngươi?” Gioan Tẩy Giả đã đưa ra những chỉ dẫn cụ thể cho những người hỏi ông: “Chúng ta phải làm gì?” – “Ai có hai áo thì hãy chia cho người không có. Ai có cái ăn thì cũng làm như vậy” – “Đừng đòi hỏi quá mức ấn định” – “Chớ dùng vũ lực, cũng đừng vu khống mà tống tiền người ta. Hãy an phận với số lương của mình”. Nói chung, Gioan đưa ra những hướng đi cụ thể: bác ái, chia sẻ, chấp nhận thực tại, sống hiền hoà, công bình, chính trực trong các mối tương quan xã hội. Sống như vậy là chuẩn bị đón nhận Đấng Cứu Thế, là đặt mình vào trong hàng ngũ những kẻ bé mọn của Thiên Chúa. Chính những người bé mọn này mới cảm thấy vui mừng và hy vọng, vì nhận ra Chúa sắp đến, đang đến… Ngài sẽ thay đổi tất cả, đổi mới toàn thế giới và xã hội.

 

Chính vì thế mà trong Mùa Vọng, Chúa Nhật III bao giờ cũng nổi bật nét hân hoan: “Anh em hãy vui lên!”. Hãy hoan hỉ vui mừng vì Chúa giải thoát đã đến và đang ở với chúng ta. Ngài đang thực hiện một cuộc đổi mới toàn diện, đang quy tụ muôn nước thành một dân một nước: Dân Chúa, Nước Trời. Không phải bằng vũ lực khống chế, nhưng bằng sự giải thoát loài người khỏi những ràng buộc của tội lỗi, ích kỷ, nhỏ nhen, bất chính; bằng cách sống liên đới yêu thương, chia cơm sẻ áo; bằng cách sống công bình, chính trực và chan hoà với mọi người.

 

Anh chị em thân mến,

Có phải là điều viễn vông không, khi chúng ta nhắc lại lời mời gọi của Phụng vụ: “Anh em hãy vui lên!”. Vui làm sao được khi đông đảo dân chúng đang nghèo đói, đau khổ? Phải chăng là để nhạo cười những người này mà Giáo Hội cứ lập lại những lời cũ rích, không gắn liền với cuộc sống thực tế lúc này? Bởi vì, hơn bao giờ hết, vấn đề cơm áo, phát triển, quyền con người đang là những vấn đề nóng bỏng trên hành tinh này cũng như trong xã hội hiện tại của chúng ta.

 

Lời Chúa trong Cựu Ước cũng như trong Tân Ước đều cho chúng ta thấy rõ đâu là niềm hy vọng của những kẻ tin, đâu là lý do hân hoan của những người bé nhỏ của Thiên Chúa: Thiên Chúa Cứu Độ, đó là tất cả động lực của cuộc sống và cuộc chiến đầu của người tin theo Chúa Kitô. Thiên Chúa nhập thể và cứu độ là căn bản để giải quyết mọi vấn đề: Thiên Chúa nhập thể để chúng ta được sống như con cái, nghĩa là, như những con người tự do và trách nhiệm, những con người tự nguyện cống hiến cho anh em, cho xã hội. Vì vậy, trong bất cứ một hoàn cảnh bế tắc khó khăn nào, người có lòng tin rằng mọi phấn đấu của mình và của loài người đều mang một ý nghĩa cứu độ: ý nghĩa dọn đường cho Nước Trời, cho Đức Giêsu của Thiên Chúa ngự đến.

 

Muốn hoà mình vào niềm vui của Phụng vụ, người Kitô hữu và Giáo Hội không thể không liên đới với những người đang khao khát đổi mới, đang khát vọng phẩm giá con người. Hơn thế nữa, Giáo Hội Chúa Kitô không thể đứng ngoài những cuộc đấu tranh cho hoà bình, bình đẳng, tôn trọng con người, phát triển xã hội mà loài người đang theo đuổi. Sống Mùa Vọng là sống liên đới với người nghèo, là sống công bình với tha nhân, là sống hoà giải với hết mọi người, là sống yêu thương, an bình trong mọi hoàn cảnh, là đấu tranh cho tình huynh đệ và khơi lên niềm vui cho những ai đang chán nản, thất vọng chán chường vì không có niềm tin, vì đã mất niềm tin nơi con người, nơi xã hội và cả nơi Thiên Chúa nữa. Vui lên anh em! Hãy vui lên trong niềm vui của Chúa!

 

70.        Vui luôn trong Chúa!

(Suy niệm của Lm. Phạm Quốc Hưng)

 

Trong niên lịch Phụng Vụ của Hội Thánh, Chúa Nhật thứ ba Mùa Vọng hôm nay được gọi là “Chúa Nhật Vui Mừng” hay “Chúa Nhật hồng trong mùa áo tím.” Màu hồng được dùng trong Phụng Vụ để diễn tả niềm vui đang dâng tràn nơi tâm hồn của những người mừng đón Chúa. Vì vậy, thật thích hợp để chúng ta suy nghĩ về niềm vui trong cuộc sống đức tin.

Hồi còn là chủng sinh, một anh bạn cùng lớp với tôi mỗi khi gặp các linh mục thường hay hỏi các ngài: “Điều gì trong đời sống linh mục làm cha vui nhất?” Tôi thấy câu hỏi này thật ý nghĩa, vì nó giúp anh em chủng sinh chúng tôi hiểu biết hơn về ơn gọi linh mục mà mình đang theo đuổi. Nếu đời sống linh mục không có gì làm cho mình vui thì làm sao mình có thể trung tín và thăng tiến trong ơn gọi linh mục được? Câu hỏi trên cũng có thể áp dụng cho mọi người: “Điều gì trong cuộc sống hiện nay làm bạn vui nhất?” Hay nói khác đi: “Điều gì đem lại niềm vui lớn nhất cho bạn?” Thành thật trả lời cho câu hỏi này sẽ cho chúng ta biết mình là ai?

Trong đời sống con người, bất cứ ai cũng ước mong có được niềm vui. Ai cũng ham vui! Ai cũng kiếm tìm niềm vui! Thật vậy, chúng ta ai cũng có kinh nghiệm về những niềm vui và có thể nhận ra những niềm vui khác nhau: Trong chiều kích tự nhiên, trước hết, ai trong chúng ta cũng biết đến những thú vui giác quan mà chúng ta có chung với mọi loài vật khác: đói ăn, khát uống, mặc ấm, mệt nghỉ, “buồn ngủ gặp được chiếu manh”, nhìn cảnh đẹp, nghe tiếng nhạc êm tai, ngửi mùi hương thơm tho, nếm vị ngọt bùi, được vuốt ve chiều chuộng và thích cảm thấy an toàn.

Kế đến là những niềm vui thích hợp tương hợp với trí tuệ con người: chúng ta thưởng thức được những tác phẩm văn chương, triết học, thi phú, hội họa, âm nhạc, phim ảnh hay những phát minh kỳ diệu của khoa học kỹ thuật hiện đại. Rồi phải kể đến những niềm vui từ sinh hoạt tình cảm xã hội của chúng ta: sự thân mật trong tương giao vợ chồng, tình gia đình êm ấm, được bạn hữu chấp nhận, giúp đỡ, yêu mến, ngưỡng mộ, yêu thích công việc, thăng tiến trong nghề nghiệp.

Trong chiều kích luân lý thuộc bản tính tâm linh của con người, chúng ta phải nói đến những niềm vui của nhân đức đối nghịch với thú vui tội lỗi: Người nhân đức vui với việc thực hành các nhân đức như yêu thương phục vụ, hy sinh xả kỷ vị tha, tận tâm với nghĩa vụ, trong sạch, ngay thẳng…Rất nhiều khi để có được niềm vui nhân đức, người ta phải hy sinh những thú vui tự nhiên. Đó là lý do của việc thực hành việc hy sinh hãm mình đền tội. Niềm vui nhân đức này hoàn toàn phù hợp và hài hòa với đức tin Công giáo; đồng thời niềm vui này được kiện toàn nhờ ánh sáng đức tin và mẫu gương nhân đức tuyệt hảo của Chúa Kitô.

Người xấu nết tìm thú vui nơi tội lỗi, nơi những việc nghịch với lương tâm và lề luật Chúa: đam mê rượu chè, cờ bạc, trai gái, ngoại tình, ghen tương, hút sách, tham lam hà tiện, bất chính, lật lọng… Thông thường, vì đam mê những thú vui giác quan quá đáng, người ta không biết tự chủ để sẵn sàng bất tuân luật Chúa.

Trong chiều kích đức tin Công giáo dưới ánh sáng Tin Mừng Chúa Kitô, chúng ta biết rằng Thiên Chúa đã dựng nên con người để họ được chia sẻ niềm vui trong tình thương và sự hiệp thông với Thiên Chúa nhờ ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần. Niềm vui này bị phá vỡ bởi tội lỗi và được phục hồi nhờ cuộc khổ nạn và phục sinh của Chúa Kitô.

Các ngôn sứ trong Cựu Ứơc đã không ngừng mời gọi Dân Chúa đón nhận niềm vui vì được Chúa yêu thương, được Chúa tuyển chọn, được Chúa tha thứ, được Chúa cứu thoát, được Chúa hướng dẫn, được Chúa bênh vực, được Chúa chăm lo. Lời Chúa trích sách Tiên Tri Xôphônia trong bài đọc một của Phụng Vụ hôm nay đầy những lời hứa dịu ngọt ấy: “Hỡi thiếu nữ Sion, hãy cất tiếng ca! Hỡi Israel, hãy hoan hỉ! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem. Hãy hân hoan, hãy nhảy mừng hết tâm hồn! Chúa đã rút lại lời kết án ngươi và đã đẩy lui quân thù của ngươi. Vua Israel là Chúa ở giữa ngươi, ngươi không còn sợ khổ cực nữa. Trong ngày đó, ở Giêrusalem thiên hạ sẽ nói rằng: Hỡi Sion, đừng sợ, tay ngươi sẽ hết rã rời! Chúa là Thiên Chúa ngươi, là Đấng mạnh mẽ ở giữa ngươi, chính Người cứu thoát ngươi. Người hân hoan vui mừng vì ngươi. Người cảm động yêu thương ngươi, và vì ngươi, Người sung sướng reo mừng” (Xp 3:14-18a).

Chính vì nhằm mục đích giúp con người phục hồi niềm vui trong Chúa mà Thánh Gioan Tiền Hô đã rao giảng phép rửa sám hối cầu ơn tha tội. Cũng chính vì cùng mục đích ấy, Chúa Giêsu cũng lập lại lời mời gọi phải sám hối và tin vào Tin Mừng. Tin Mừng ở đây chính là việc Thiên Chúa đã hứa ban tặng ơn tha thứ, ơn cứu độ, cũng là sự sống đời đời hay niềm vui khôn tả và vô tận cho những ai tin nhận Chúa Giêsu Kitô và sống theo giáo huấn của Người, như đã được ghi nhận trong Thánh Kinh theo sự hướng dẫn của Hội Thánh nhờ sức mạnh của Thánh Thần.

Hội Thánh không ngừng tiếp tục sứ mạng rao giảng Tin Mừng cứu độ của Chúa Kitô, mời gọi mọi người đón nhận niềm vui của Chúa, niềm vui trong Chúa, và tiếp tục lập lại lời Thánh Phaolô trong bài đọc hai trong Phụng Vụ hôm nay: “Anh em thân mến, anh em hãy vui luôn trong Chúa! Tôi nhắc lại một lần nữa, anh em hãy vui lên! Đức ôn hòa của anh em phải sáng tỏ trứơc mặt mọi người, vì Chúa đã gần đến. Anh em đừng lo lắng gì hết, nhưng trong khi cầu nguyện, anh em hãy trình bày những ước vọng lên cùng Chúa, bằng kinh nguyện và lời cầu xin đi đôi với lời cảm tạ. Và bình an của Thiên Chúa vượt mọi trí hiểu, sẽ giữ gìn lòng trí anh em trong Chúa Giêsu Kitô” (Pl 4:4-7).

Như vậy, câu hỏi “Chúng tôi phải làm gì?” (Lc 3:10) trong Tin Mừng hôm nay mà dân chúng đã đặt ra cho Thánh Gioan Tiền Hô cũng chính là câu hỏi chúng ta phải đặt ra chính mình trước mặt Chúa hôm nay: “Chúng con phải làm gì?” Phải làm gì để có được vui đích thực, niềm vui trọn vẹn, niềm vui bất diệt? Chắc hẳn câu trả lời vẫn không gì khác hơn là lời rao giảng của Thánh Gioan như một sự nhắc lại truyền thống của các ngôn sứ, được tóm gọn nơi lời ngôn sứ Mikha: “Người hỡi, Ta sẽ chỉ cho ngươi việc phải làm, và việc nào Chúa đòi hỏi nơi ngươi: tức là ngươi hãy thực hiện công bình, quý mến lòng nhân lành, và khiêm tốn bước theo Thiên Chúa của ngươi” (Mk 6:8), cùng với lời mời gọi sống theo niềm tin vào Chúa Kitô, thực thi đức ôn hòa, chuyên chăm cầu nguyện và cảm tạ Thiên Chúa của Thánh Phaolô trên đây.

Thiên Đàng hay Nước Trời-mục đích cuối cùng của chúng ta là tín hữu Công giáo-không gì khác hơn là Vương Quốc của Chúa Kitô, nơi chúng ta sẽ được vui luôn trong Chúa, trong sự yêu thương kết hiệp trọn vẹn với Chúa Ba Ngôi. Để xứng đáng vào Nước Trời, chúng ta phải tập trở thành những người biết vui luôn trong Chúa. Thật vậy, Thánh Giuse-Maria Escriva từng nhận xét: “Nếu bạn không sống vui với Chúa trở dưới thế, thì làm sao bạn có thể mong được sống vui với Chúa trên trời?”

Vậy nên, chúng ta phải coi lời mời gọi “Hãy vui luôn trong Chúa” (Pl 4:4) của Thánh Phaolô trong Phụng Vụ hôm nay như một lệnh truyền của chính Chúa! Chúa truyền chúng ta phải vui luôn trong Chúa qua việc yêu mến và tuân giữ Lời Chúa và Luật Chúa! Vui luôn trong Chúa hay niềm vui trong Chúa vì vậy không phải chỉ là vấn đề của một giác cảm mau qua, nhưng phải là một chọn lựa kéo dài cả đời, một quyết định của niềm tin hướng đến chung cánh đời đời!

 

Lạy Mẹ Maria, “Lạy Nữ Vương, Mẹ nhân lành làm cho chúng con được sống, được vui, được cậy,” xin Mẹ cầu thay nguyện giúp cho chúng con luôn được yêu mến gắn bó với Chúa Giêsu Con Mẹ và luôn sống theo ơn Chúa Thánh Thần để chúng con được “vui luôn trong Chúa”. Amen.

 

71.        Mừng vui lên

(Suy niệm của JM. Lam Thy ĐVD.)

 

Sứ vụ của thánh Gio-an Tiền Hô là loan báo Tin Mừng Đấng Cứu Độ sắp đến và kêu gọi mọi người chuẩn bị tâm hồn để đón tiếp Người. Ngay ở thời điểm khai mạc sứ vụ, đã có kết quả là một tin vui: “dân chúng lũ lượt đến xin ông Gio-an làm phép rửa và họ hỏi ông: “Chúng tôi phải làm gì?” (Lc 3, 10). Khung cảnh bên bờ sông Gio-đan lúc ấy không còn là nơi sa mạc hoang vu nữa, mà chỉ thấy người người từ khắp nơi kéo đến như một ngày hội. Và như vậy thì lời rao giảng của Thánh Gio-an không còn là “tiếng hô trong hoang địa” (theo nghĩa chiểu tự) nữa. Mọi người chen vai thích cánh để được thánh nhân làm phép rửa và để được hỏi thánh nhân xem mình phải làm gì để có thể “tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội”. “Chúng tôi phải làm gì?”, đó là câu hỏi chung của tất cả những ai đến xin thánh Gio-an cho họ một lời khuyên để họ thực hiện sám hối và sẵn sàng đón nhận Đấng Cứu Thế.

Có một điều đáng lưu ý là nếu đọc đoạn Tin Mừng theo thánh Mat-thêu có cùng chủ đề (“Ông Gio-an Tẩy Giả rao giảng”), thì thấy trong đám đông có cả những “người thuộc phái Pha-ri-sêu và phái Xa-đốc đến chịu phép rửa” và thánh Gio-an Tẩy Giả đã nói với họ: “Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy? Các anh hãy sinh hoa quả để chứng tỏ lòng sám hối … Cái rìu đã đặt sẵn gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa” (Mt 3, 7-8). Đón Chúa đến nếu chỉ nghe những câu như vừa dẫn, thì tưởng chừng như một việc làm quá khó khăn, quá nặng nhọc, khó lòng thực hiện được. Tuy nhiên, nếu đọc kỹ bài Tin Mừng hôm nay của thánh Lu-ca, thì sẽ thấy cũng đơn giản thôi, và chắc chắn sẽ làm được. Câu trả lời của thánh Gio-an cho từng người thật là ngắn gọn nhưng đầy đủ. Với thường dân thì “Ai có hai áo, thì chia cho người không có; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy.” Với người thu thuế thì “Đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định cho các anh.” Còn với binh lính thì “Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta, hãy an phận với số lương của mình.”

Cứ kể lời dạy của thánh Gio-an Tẩy Giả (“Ai có hai áo, thì chia cho người không có; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy”) cũng đơn giản thật. Bình thường, một con người sống trên đời, dù có nghèo kiết xác đi chăng nữa, cũng đâu đến nỗi chỉ có một áo, hoặc chỉ có một chén cơm, mà phải nhường hết cho anh em, còn mình thì cởi trần, nhịn đói. Thậm chí, đến như kẻ thù đã đoạt áo ngoài thì cũng sẵn sàng nhường luôn áo trong cho nó (“Ai đoạt áo ngoài của anh, thì cũng đừng cản nó lấy áo trong” – Lc 6, 29), hoặc như bà goá sẵn sàng dâng cúng vào đền thờ 2 đồng tiền kẽm cuối cùng của mình (“còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình, mà bỏ vào đó tất cả những gì bà có để nuôi sống mình” – Lc 21, 4). Quả thật, Chúa không đòi hỏi những gì quá sức của con người, nhưng dù là không vượt quá sức của con người, thì cũng vẫn có thể không thực hiện nổi, nếu không có một ý chí hướng thiện, một tấm lòng quảng đại, một niềm tin vững vàng vào mục đích nhắm tới của công việc, cùng với một quyết tâm thực hiện. Đúng như vậy, “Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông” (Nguyễn Bá Học).

Chung quy, vấn đề đặt ra là phải có lòng tin vững vàng về Tin Mừng Đấng Cứu Độ sắp đến, và phải sống niềm tin ấy bằng cuộc sống chan hoà đức ái. Ấy mới là biết dọn đường cho Chúa đến. Vâng, hãy mạnh dạn nhìn thẳng vào lòng mình, lấp cho đầy những thung lũng tị hiềm, bạt cho thấp mọi núi đồi kiêu căng, uốn cho ngay khúc quanh co hiểm ác, san cho phẳng những lồi lõm bất minh; tắt một lời, với một niềm tin sắt đá, hãy sửa lối đi tâm hồn cho ngay thẳng, công chính. Đồng thời hãy thể hiện đức tin của mình bằng những “chứng tá bác ái” (Tông thư “Porta Fidei”, số 14) trong đời sống thường nhật với tất cả anh em, nhất là những kẻ thấp cổ bé miệng khó nghèo, tật bệnh, lao tù. Ấy cũng bởi vì, vào ngày chung thẩm, Đức Vua Tình Yêu sẽ thẩm định hành trình đức tin của mọi tín hữu rằng: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han.” (Mt 25, 34-36).

Một nhân chứng sống là thánh Phao-lô đã thấy được ơn cứu độ mà ngôn sứ Xô-phô-ni-a loan báo (Xp 3, 14-18). Hơn thế nữa, chính ngài đã thấy và đã nhận được phép rửa trong Thánh Thần và lửa như thánh Gio-an Tiền Hô đã báo trước (“Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa” – Lc 3, 16). Đó chính là biến cố Đa-mát. Vì thế, ngài nhắc nhở mọi người: “Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: vui lên anh em! Sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hoà rộng rãi, Chúa đã gần đến. Anh em đừng lo lắng gì cả.” (Pl 4, 4-6). Theo ngài, ngày Chúa quang lâm lần thứ hai có những hiện tương kinh hoàng báo trước, nhưng đừng sợ hãi lo lắng thái quá, mà phải mừng vui lên vì Chúa đã gần đến. Ngài còn lặp lại một lần nữa lời kêu gọi “mừng vui lên” để nhấn mạnh tinh thần “sống hiền hoà rộng rãi”. Đó phải chăng là những chứng tá sống động trong “hành vi bác ái” của mỗi Ki-tô hữu? Vâng, nếu quả thực mỗi tín hữu đều “sống hiền hoà rộng rãi” trong hành trình đức tin của bản thân, thì đâu còn sợ hãi lo lắng gì nữa mà chẳng “mừng vui lên chờ đón Chúa quang lâm”?

Là con người, Ki-tô hữu chúng ta nhiều khi hoang mang lo sợ trước viễn cảnh tương lai vĩnh cửu và không ý thức mình đang trên con đường được Thiên Chúa cứu độ. Từ chỗ mất niềm tin ấy, chúng ta có thể dần dần đi tới tình trạng buông xuôi, phó mặc cho số phận đẩy đưa, không còn sống theo những điều Chúa và Giáo Hội dẫn dắt nữa. Phụng vụ Lời Chúa hôm nay thắp lại ánh sáng đức tin và niềm hy vọng vào ơn cứu độ Đức Ki-tô đem đến cho chúng ta. Mà cũng “Vì chúng ta tin, nên Đức Giê-su đã mở lối cho chúng ta vào hưởng ân sủng của Thiên Chúa, như chúng ta đang được hiện nay; chúng ta lại còn tự hào về niềm hy vọng được hưởng vinh quang của Thiên Chúa” (Rm 5, 2). Quả thật “Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy” (Dt 11, 1). Hãy nhìn vào đích điểm của hành trình đức tin là niềm vui được cứu độ và sống “kết hợp với Đức Ki-tô Giê-su” như thánh Phao-lô dạy. Đó chính là điều giúp ta nhận chân được ý nghĩa đích thực của cuộc sống trần gian và vững lòng tiến bước trong tinh thần “mừng vui lên” vì ngày Chúa quang lâm đã gần kề.

Ôi! Lạy Chúa! Như xưa dân chúng đã đến với Thánh Gio-an Tiền Hô để hỏi “Chúng tôi phải làm gì”, thì ngày hôm nay, chúng con cũng xin thưa với Chúa: Chúng con phải làm gì để dọn lòng đón Chúa đến trong dịp Lễ Giáng Sinh này? Chúng con phải làm gì để luôn sẵn sàng đón Chúa đến với chúng con trong bất cứ biến cố nào xảy ra trong cuộc đời chúng con; nhất là khi Chúa đến gọi chúng con ra khỏi cuộc đời này? Cúi xin Chúa ban Thánh Linh soi sáng và dẫn dắt cho chúng con hiểu được rằng chúng con phải làm gì để được mừng vui khi đón Chúa quang lâm. Ôi! “Lạy Thiên Chúa từ bi nhân hậu, này dân Chúa đem tất cả niềm tin đợi chờ ngày lễ Sinh Nhật Đấng Cứu Thế. Xin hướng niềm vui chúng con về chính nguồn hoan lạc của mầu nhiệm Giáng Sinh cao cả để tâm hồn chúng con hoàn toàn đổi mới, mà họp mừng ngày cứu độ đã gần kề. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. A-men.” (Lời nguyện Nhập lễ, Chúa Nhật III mùa Vọng).

 

72.        Chúa Nhật 3 Mùa Vọng

(Suy niệm của R. Gutzwiller)

 

NHỮNG LỜI GIẢNG CỦA VỊ TIỀN HÔ (3, 7-20)

Những lời khuyến cáo của Gioan, hoàn toàn phù hợp với sứ mạng của ông trong việc sửa dọn đường cho Chúa sắp đến. Những lời giảng đó bao gồm hai giáo huấn:

 

  1. Sửa dọn.

Như các vị ngôn sứ xưa, Gioan coi nước cứu độ như quà tặng ban một lần hay tất cả. Ý niệm về một Đấng Messia đến hai lần, lần đầu là lần sửa soạn, rồi trong ngày thế mạt là lần quyết định để hoàn tất nước Thiên Chúa, còn là cái gì xa lạ với Ngài. Vì thế Ngài đã nhìn Đấng Messia như vị Thẩm phán sẽ đến. Những lời cảnh cáo đánh dấu đặc tính quan hệ và cấp bách của cuộc sửa soạn được đòi hỏi ở đây.

 

‘Cuộc thẩm phán trong thịnh nộ’ sẽ đến và chẳng ai tránh được. Cái rìu đã được đặt ở gốc cây, người ta sẽ chặt những cây cằn cỗi và gỗ của nó sẽ bị vứt vào lửa. Cây nào cũng phải sai trái: đối với Israel hoa quả này là thống hối, thay đổi tâm trí, nhận biết tội riêng của mình. Nhưng những người Do thái chưa sửa soạn đủ: họ cậy mình thuộc đòng dõi huyết tộc của Abraham, và vẻ bên ngoài thuộc về dân Thiên Chúa. Thực ra, đó là tình trạng tâm trí hoàn toàn sai lầm, vì trước Đấng có thể biến hòn đá thành con cháu Abraham, thì nó chẳng có nghĩa gì.

 

Thay vì liên hệ huyết tộc, sẽ xuất hiện liên hệ thiêng liêng. Thay vì thuộc về dáng vẻ bên ngoài, là thuộc về bên trong, thuộc về Thiên Chúa.

 

Trong phạm vi tôn giáo, ai chỉ liên kết với yếu tố bên ngoài, với cơ chế hữu hình của Giáo Hội, với một chức vụ hay với một nhiệm sở chính thức hoặc với những công tác bên ngoài, với những hoạt động cá nhân mà chẳng thêm vào đó: những tình cảm, sám hối, sự nhận thức về tình trạng tội lỗi của mình và lòng ao ước chân thành một cuộc hoán cải sâu xa, thì đó chưa thể được kể là con cháu Abraham, huống nữa là con cái Thiên Chúa. Họ thuộc về ‘loài rắn độc’. Vậy ra họ là con ma quỉ chứ không phải con Chúa.

 

Sự cải thiện thực sự kéo theo những hoa quả hữu hiệu về sám hối, hẳn sẽ biểu lộ rõ khi con người bắt đầu làm những việc lành cách vô vụ lợi. ‘Kẻ có hai áo, hãy chia cho người không có, và kẻ có của ăn, cũng hãy làm như vậy’.

 

Thời nào cũng vậy, các ngôn sứ, vẫn đặt ưu tiên phong hoá trên lễ nghi, hay ít là đòi hỏi phải có những chuẩn bị về luân lý và hành vi nhân đức như yếu tố bất khả kháng của các cuộc lễ. Chính vị tẩy giả cũng đòi phải việc từ thiện không tính toán, đòi phải giúp nhau, mở rộng bàn tay như dấu chỉ của một tâm hồn quảng đại.

 

Hoa quả của sám hối là đức ái hoạt động phát xuất từ sự hoán cỉa nội tâm. Cái nhìn hướng lên Thiên Chúa phải làm dội lại sâu xa hơn cái nhìn hướng về tha nhân; quay về với Thiên Chúa mà không biến đổi những liên hệ với đồng loại thì chỉ là một việc đạo đức giả.

 

Bản văn Tin mừng còn đặc biệt nhắc tới những người thu thuế và lính tráng. Đối với dân Israel, những phần tử của hai hạng người này coi như đã hỏng vì họ tiếp xúc với dân ngoại (tự bản chất là dơ dáy) và vì nghề nghiệp của họ mang đến những hành vi bất nhân và làm giàu cách bất chính. Vị tẩy giả nghĩ khác. Ngài quảng đại đối với họ, chỉ đòi hỏi họ những cái nhỏ bé nhất: với những người thu thuế, Ngài nói: “Chớ đòi gì quá mức đã định cho các anh’. Họ phải giữ tiết độ đúng mức. Vượt quá kích thước đã định mới là điều không hợp với lòng đạo đức chứ không phải vì nghề nghiệp. Những người lính đã nhận đươc một mệnh lệnh tương tự: ‘đừng xách nhiễu, đừng vu khống cho ai, hãy bằng lòng với số lương bổng của mình’. Đó lại là một sự khuyến khích giữ giới hạn của mình. Binh nghiệp tự nó đâu phải là xấu, mà cũng chẳng có gì là đáng chê trách khi phục vụ cho thế quyền. Nhưng chắc chắn phải tố giác việc dùng sức mạnh theo sở thích, sử dụng quyền hành và khí giới cách đáng trách và sự bất mãn, là nguồn mọi tham vọng.

 

  1. Đức Messia đến.

Dân chúng coi Gioan như Đấng Messia. Nhưng vị tiền hô cũng không phải là Vua; nên Ngài nói: ‘không phải ta đâu, mà là Đấng khác’. Vị tiền hô hướng họ tới Đức Kitô. Đó không phải là người ích kỷ, vì người ích kỷ thì vẫn muốn chiếm đoạt tha nhân, nhưng đây là người của Chúa, một người bất vụ lợi đưa đường tha nhân về với Thiên Chúa. Phải, giữa Đấng Messia và Ngài có một sự cách biệt quá lớn lao như người đầy tớ nghĩ mình không đáng cởi giây giày cho chủ mình.

 

Cả hai phép rửa cũng khác nhau như vậy. ‘Tôi, tôi rửa anh em trong nước, sẽ có Đấng quyền năng hơn tôi: Ngài sẽ rửa các ông trong Thánh Thần và trong lửa’. Phép rửa của Gioan chỉ là bên ngoài, như nước chảy trên thân xác, còn phép rửa của Chúa Giêsu, bên trong, như lửa thiêu huỷ tất cả, như Thánh Thần mà sức nóng của Ngài ăn sâu vào tận đáy lòng và biến đổi tất cả.

 

Để hoàn tất lời giảng, Gioan còn nhấn mạnh tới việc hệ trọng của giờ đã đến. Phải có vị trí nào với Chúa Kitô. Phải quyết định, vì Đức Kitô sẽ đến thi hành một cuộc phân cách. Ngài sẽ sảy sạch lúa sân Ngài, thu lúa vào lẫm, và đốt hết trấu.

 

Sứ điệp của Gioan đã bắt đầu bằng những lời giảng về phán xét thì cũng bằng những lời đó Ngài kết thúc. Người ta, một khi bị gọi trình toà, hẳn phải nhận thức được tầm quan trọng của lúc đó. Họ còn được tuỳ ý sắp xếp công việc, để có thể tự biện hộ cho mình. Nhưng ở đây đã thực cấp bách. Sự phân cách và phán xét đã đang xảy ra rồi: sau cùng, trình thuật Tin mừng đã ám chỉ việc này.

 

Thực ra dân chúng có đón nhận ‘Tin mừng’ mà họ biết nhận ra dưới những lời lẽ long trọng và có tính cách đe doạ đó. Tin mừng đã bắt đầu. Nhưng nó lại là khởi sự của một chống đối. Hêrôđê mà liên hệ tội lỗi với chị dâu bị lời Chúa cảnh cáo đã lợi dụng quyền hành của mình để bắt giam vị tẩy giả. Sự phân cách các tâm trí bắt đầu, và cùng với sự phân cách đó là sự phán xét.

 

73.        Chúng tôi sẽ phải làm gì?

 

Bài Tin Mừng hôm nay nối kết với bài Tin Mừng Chúa nhật 2 mùa vọng, một lần nữa, Luca nói với chúng ta về Gioan Tẩy giả, vị tiền hô của Chúa Giêsu, và về lời rao giảng của ông. Bản văn gồm hai phần: Trong phần thứ nhất, Gioan trả lời câu hỏi của thính giả về những gì họ phải làm để hưởng ứng sứ điệp căn bản của ông – sứ điệp loan báo về cuộc xét xử sắp xảy đến và nêu đòi hỏi người ta phải triệt để đổi đời. Trong phần thứ hai, Gioan Tẩy giả phân trần rằng ông không phải là Đấng Mêsia, và rằng ông không thể hành động như trung gian chuyển giao Thánh Thần của Vương Quốc đang đến.

Phần thứ nhất không phải là cái gì đáng ngạc nhiên lắm. Bao giờ cũng có những cám dỗ để người ta phớt lơ những bổn phận luân lý được nêu ra ở đây, xem chúng là quá rõ ràng, thậm chí quá bình thường. Nhưng nếu xét kỹ hơn, ta sẽ thấy những bổn phận luân lý ấy đầy thúc bách.

Gioan được nhìn nhận là người mà Ngôn sứ Isaia đã loan báo trước; là tiếng kêu trong hoang địa, là người loan báo sự cứu độ đang đến của Thiên Chúa, là ngôn sứ của cuộc xét xử cuối cùng sắp xảy đến, là ngôn sứ của cơ hội cuối cùng để hoán cải tận căn, của sự thực rằng người ta không thể làm hài lòng Thiên Chúa bằng bất cứ gì khác hơn là thực hiện một cuộc hoán cải dứt khoát trong đó thay đổi toàn bộ và tận nền tảng cuộc sống của mình, bứt mình ra khỏi tình trạng của mình hiện tại. Và giờ đây người ta đến hỏi vị giảng thuyết này về một cuộc thay đổi tận căn và một sự bắt đầu mới. Điều gì họ thực sự phải làm nếu họ muốn hưởng ứng sứ điệp không khoan nhượng ấy? Câu trả lời xem ra chỉ là một chuỗi những huấn dụ đạo đức sáo mòn mà người ta có thể gặp thấy ở bất cứ chỗ nào khác – và đó là những huấn dụ không cần phải được dẫn trước bởi bất cứ sự cảnh báo thế mạt nào để làm cho nó trở nên dễ hiểu. Các nhân viên thuế vụ không được đòi hỏi người ta thái quá; các binh lính phải trở nên những con người đàng hoàng, không doạ nạt người khác và phải biết hài lòng với lương bổng của mình. Dĩ nhiên, Gioan không đặt vấn đề về động cơ hay công việc của các nhân viên thuế vụ và binh lính làm tay sai cho chính quyền đô hộ – công việc mà những người có vẻ đạo đức sẽ đánh giá là rất tồi tệ và đáng khinh bỉ.

Ngay cả khi Gioan tiếp tục nói rằng họ phải chia sẻ thực phẩm và áo quần (nếu họ có đủ phần mình) cho người thiếu thốn xung quanh, ông cũng đã không đi quá điều xem ra được thấy chỉ là những mệnh lệnh luân lý phổ quát và hiển nhiên của con người. Nếu chúng ta làm một liệt kê dài hơn về những lời khuyên tương tự cho những người thuộc các nghề nghiệp và hoàn cảnh khác, thì sự tương phản bên ngoài sẽ vẫn còn giữa một bên là mệnh lệnh triệt để đòi người ta đổi đời và bên kia là những chuẩn mực đạo đức rất thông thường mà chắc chắn các thính giả của Gioan đã hiểu rõ – và đã thi hành hay đã không thi hành – trước khi nghe ông rao giảng; và nếu gạt chuyện thiện chí qua một bên thì chắc hẳn là các thính giả của Gioan cũng đã không chu toàn các chuẩn mực ấy một cách hữu hiệu hơn mấy kể từ lúc họ nghe ông kêu gọi trong bối cảnh đặc biệt này. Điều ấy có nghĩa gì? Bài Tin Mừng không hề cung cấp câu trả lời trực tiếp. Chúng ta chỉ biết rằng những tương phản mặt ngoài này lại ăn nhập với nhau một cách nào đó và làm bật ra ý nghĩa.

Chắc chắn ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm rằng những đòi hỏi đạo đức xem ra thông thường ấy không hề là những đòi hỏi dễ dàng chút nào – miễn là chúng ta đừng lập lờ đánh lận con đen để chỉ xếp vào các nguyên tắc đạo đức những gì phù hợp và dễ dàng đối với mình. Cuộc sống hằng ngày tự nó đòi hỏi người ta rất nhiều. Sống được cuộc sống đơn điệu nhạt nhẽo hằng ngày thường khó hơn là thực hiện một hành vi phi thường nào đó mà tính anh hùng của nó dễ làm cho ta tự mãn. Giá trị đạo đức và tôn giáo không duy chỉ là tổng số ý nghĩa của các khoảnh khắc dồn lại; giá trị ấy hình thành một toàn thể với đặc tính riêng của nó là một toàn thể – ngay cả khi giá trị ấy được nhận ra xuyên qua các hành vi riêng lẻ. Nếu không phủ nhận điều đó thì ta sẽ nghĩ gì về một đời sống được kết dệt trong các bổn phận, trong ý chí mới mẻ mãi muốn trung thực và tốt lành đối với người khác; một đời sống không cho phép mình sa vào bạc nhược chán chường do bởi sự vô nghĩa của hiện tại; một đời sống với tinh thần lành mạnh sáng suốt vốn là một ân huệ và là nhân đức Chúa ban …? Một đời sống như vậy đâu có còn đối lập với lời kêu gọi hoán cải của Gioan nữa! Một đời sống đạo đức xem ra thông thường như thế thực sự cho thấy rằng sự hoán cải không phải là một cái gì đó xảy ra vào một khoảnh khắc nhất định trong thời gian – nhưng là một nguyên động lực giấu ẩn thấm nhuần vào bản chất trông có vẻ bình thường của đời sống xét như một toàn thể.

Nhưng không phải chỉ vậy. Đó không phải là tất cả ý nghĩa rút ra được từ sự tương phản ngoại tại nói trên. Còn một ý nghĩa gì đó khác nữa – (có lẽ không thể cảm nhận được ít là trong một số trường hợp) – hàm chứa trong việc chúng ta thi hành những bổn phận hằng ngày của mình, kể cả những bổn phận thuộc loại tiện ích cho chính mình. Trong cuộc sống thường ngày, nhiều lúc chúng ta bị đẩy vào những tình huống trong đó ta bỗng thấy các công việc lặt vặt buồn tẻ của mình chẳng có nghĩa lý gì, hoặc thậm chí phi lý. Có những lúc bất chợt tính chất đạo đức thông thường trở nên chẳng đáng gì. Ý nghĩa đạo đức thông thường bỗng biến mất, hoặc đổi thành một cái gì hoàn toàn khác. Tính hiệu dụng của một hành vi bỗng tiêu ma, hoặc đã chuyển vào cõi thiêng thánh! Đó là những lúc mà ta phải làm việc bổn phận chỉ vì đó là bổn phận chứ không cảm nhận được một sự tưởng thưởng nào; đó là những lúc mà ta thấy bổn phận giống như một thứ hình phạt.

Một kẻ đang có danh giá bỗng không còn được trọng vọng trước mặt người ta nữa, nhưng trở thành một kẻ khờ dại vụng về bước đi giữa đời. Đột nhiên, thiên hạ triệt để lợi dụng tấm lòng vị tha; thiên hạ không còn nể trọng sự thành thực mà thậm chí sử dụng nó như một thứ vũ khí để chống lại chính kẻ thành thực! Có cả ngàn cách trong đó tính chất đạo đức thông thường có thể trở thành một điều hết sức mỉa mai, trong tất cả tính hiển nhiên của nó và chẳng thấy ở nó ý nghĩa gì là đặc biệt anh hùng. Nó không còn cần thiết nữa; nó không còn sảnh sinh ra kết quả rõ ràng mà chính người thực hiện mong muốn nhận được … Song nếu như người ta vẫn kiên thủ thi hành các việc đạo đức thông thường ấy ngay cả khi nó không còn có lợi nữa, ngay cả khi nó trở thành dường như vô nghĩa – thì điều gì xảy ra? Những việc thi hành như thế sẽ trở thành một loại “tiền hô” của Thiên Chúa, Đấng là nguồn ơn cứu độ và là nguồn mạch tự do. Từ “Thiên Chúa” ở đây không được hiểu một cách mơ hồ chung chung. Từ “Thiên Chúa” ở đây mang một ý nghĩa trực tiếp. “Thiên Chúa” ở đây được cảm nghiệm trong chính cuộc biến đổi lặng lẽ nhưng phi thường này, cuộc biến đổi làm hoàn thành trọn vẹn ý nghĩa cho hành vi đạo đức thường ngày của chúng ta.

Khi chúng ta dám điên rồ, khi chúng ta từ chối tranh chấp dù mình có cơ hội giành phần thắng, khi chúng ta nhất mực yêu thương dù ngay từ đầu mình không nắm chắc sẽ được yêu thương đáp lại, khi chúng ta vẫn trung thực với những xác tín của mình – thậm chí với sự bất lợi của mình dù sự bất lợi đó không phải chỉ là một giai đoạn trong cuộc chiến mà ta chắc chắn sẽ đạt chiến thắng chung cuộc, tóm lại – khi chúng ta không lập lờ với lương tâm mình và không còn nhập nhằng lẫn lộn những đòi hỏi của lương tâm với tính hiệu dụng và ý nghĩa vật chất hiển nhiên được chủ yếu hàm chứa (và hoàn toàn có thể biện minh) trong tính chất đạo đức thường ngày… đó là những khi mà chúng ta gặp gỡ chính Thiên Chúa, dù có lẽ chúng ta không gọi tên Ngài và dù ta không ý thức rằng mình đang gặp Ngài.

Để cho sự đòi hỏi của lương tâm chuyển hoá ý nghĩa của những hành vi đạo đức thường ngày đằng sau vẻ bên ngoài của chúng – đó là một thách đố, và nếu chúng ta từ thác sự thách đố này (nhiều khi một cách rất khéo léo), thì đó chính là lúc Thiên Chúa đang xét xử chúng ta. Ngược lại, nếu chúng ta hưởng ứng tiếng gọi bất chợt ấy, chúng ta sẽ được chính Thiên Chúa là nguồn mạch tự do và là nguồn ơn cứu độ. Tất cả điều này có thể diễn ra một cách thật âm thầm lặng lẽ chính khi ta chu toàn các bổn phận hằng ngày. Chúng ta dường như cũng ứng xử theo khuôn mẫu thông thường của con người, hết mực kính trọng người khác (ngay cả dù mình đang ở vị trí thượng phong trên họ). Nhưng rồi bất chợt, trong nháy mắt, chúng ta ở trong sa mạc – sa mạc cứu độ của Thiên Chúa.

Nếu chúng ta trân trọng giương cao nguyên tắc đạo đức thường ngày và không lập lờ quẳng bỏ nó khi nó không đem lại lợi ích cho mình, đó là chúng ta đang thật sự tiến tới một sự biến đổi tận căn trong tâm hồn, cho dù chúng ta không thể xác định rõ sự biến đổi ấy diễn ra chính xác vào lúc nào. Bấy giờ chúng ta cầu khẩn và tán dương ân sủng Chúa, ân sủng lấp đầy các chiều sâu mà những nẻo bước của cuộc sống bình dị hằng ngày chúng ta thực sự vẫn hướng về, vươn lên tới điểm mà ở đó chúng ta không chút hãi sợ để cho chính mình rơi vào cõi sâu thăm thẳm ấy.

Chúng tôi sẽ làm gì? Dường như bị khiếp sợ, người ta đã nêu câu hỏi ấy sau bài giảng đầy tính đe doạ của Gioan Tẩy giả về tội lỗi và về sự xét xử tất yếu sẽ xảy đến, về cuộc hoán cải toàn diện. Gioan đã trả lời họ. Và thật bất ngờ, câu trả lời của ông đặt chúng ta vào ngay chính chỗ hiện tại của mình, yêu cầu ta sống một cách hết sức bình thường, yêu cầu ta tiếp tục nhẫn nại sống cuộc sống thực tế của mình. Câu trả lời ấy cho thấy rằng chính ở đây và chính lúc này ta có thể cảm nghiệm Nước Thiên Chúa đang đến, chỉ cần chúng ta thực sự muốn cảm nghiệm, và chỉ cần chúng ta chịu nhìn nhận – trong niềm cậy trông – ý nghĩa ẩn giấu và năng lực nội tại thâm sâu của cuộc sống thường ngày.

 

74.        Những hành vi thống hối

 

Bài Tin Mừng hôm nay Gioan Tẩy giả đưa ra lời kêu gọi thống hối đầy khó khăn, theo văn phong tiên tri của Cựu Ước: “Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy? Các anh hãy sinh những hoa quả xứng với lòng sám hối”.

Nhiều người nhanh chóng phản ứng và hỏi: “Phải làm gì đây?”. Đây là bài học quý giá của bài Tin Mừng này: đừng bao giờ để nhiệt tình thống hối ở trong sự mập mờ, không có sự thống hối. Có những hành vi chứng tỏ rằng chúng ta muốn thống hối và những hành vi đó cụ thể hoá tức khắc sự quay lại của con tim: “Phải làm gì đây?”

Trong khi suy niệm Tin Mừng Máccô, chúng ta thấy có điều gì đó làm thất vọng trong sự “thống hối” của chúng ta. Tâm tình của một sự biến đổi tuyệt diệu làm chúng ta hứng khởi: “Giờ đây, tốt lắm, cuộc sống của tôi sắp thay đổi”. Chúng ta nghĩ đây là bước đầu vĩ đại hướng tới lý tưởng, hướng tới sự thánh thiện. Nhưng chúng ta hầu như luôn luôn bị mắc bẫy, chúng ta ở trong “tình cảm” nồng nhiệt này (không đến) vài ngày, không nhanh chóng khai thác ơn thống hối này, và sự hứng khởi hạ xuống, cuộc sống tái diễn như trước.

Có một ranh giới khó vượt qua mà chúng ta thường kinh nghiệm: đi từ tình cảm tới hành động. Để chúng ta tức khắc đi cho đúng đường, bài suy niệm đầu tiên về sự thống hối nhấn mạnh đến tầm quan trọng của đức tin và lời cầu nguyện. Đừng láu cá, đừng chỉ dựa vào sức mình mà thôi, cầu xin sự giúp đỡ của Thiên Chúa.

Lần này lại chú trọng đến lòng can đảm của chúng ta, cũng phải tự tin nữa! Và do đó nhanh chóng tự hỏi “phải làm gì đây?”, một câu hỏi đơn sơ nhưng dứt khoát, trong khi hướng về cái đời thường nhất của cuộc sống chúng ta.

Những lời khuyên của Gioan Tẩy giả có thể xa vời với những vấn đề của chúng ta, nhưng chúng ta hãy ghi nhận lời mời gọi yêu thương, công bằng và bất bạo động. Một số nhiệt tình thống hối thúc đẩy chúng ta hướng về cầu nguyện hoặc thờ phượng, hay nỗ lực tạo tính cách: “Tôi sẽ tỏ ra dễ thương hơn đối với x…”. Tốt, nhưng chúng ta hãy nhìn xem chung quanh chúng ta một chút. Chúng ta sẽ đi đến chỗ chia sẻ như thế nào? “Ai có hai áo hãy cho bớt một áo”. Thật giản dị… và hiệu quả hơn là giấc mộng anh hùng cho mười cái áo mà điều này sẽ chỉ là một giấc mơ và sau đó sẽ là biết bao lần thống hối thất bại. Chúng để lại cho chúng ta vị đắng chát.

“Đừng ép buộc quá!”, Gioan Tẩy giả nói như thế với những người thu thuế. Thật là một sự xem xét lại rất cụ thể cách cư xử của chúng ta trong công việc, việc kinh doanh, sự giao dịch!

“Đừng làm khổ ai cả!”. Thậm chí không phải binh sĩ cũng không phải Trung tâm nghiên cứu khoa học, có lẽ chúng ta ảnh hưởng quá mạnh trên con cái chúng ta, trên các nhân viên, trên các thành viên của một cộng đồng mà chúng ta có trách nhiệm. Có rất nhiều cách để làm khổ, làm tay anh chị. Chúng ta càng nỗ lực để trở nên sáng suốt trong lãnh vực tế nhị này, sự thống hối của chúng ta càng sẽ đi từ giấc mơ đến thực tế.

Và điều mà Gioan Tẩy giả đã không nói, chúng ta phải tìm cho ra, trong khi vẫn ở trong đường lối thực tiễn này: – Làm gì đây? – Cứ làm một điều gì đó!

 

75.        Hãy sống trong niềm vui!

(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển)

 

Tin mừng Lc 3: 10-18: Bài Tin Mừng, Gioan Tẩy Giả đã chỉ ra cho dân chúng thấy đâu là niềm vui thật và đâu là niềm vui giả tạo! Muốn có được niềm vui thực sự thì phải làm gì!

 

Lúc còn sinh thời, Mẹ Têrêxa Calcutta đã được thế giới biết đến nhờ vào lòng bao dung qua tình thương của Mẹ dành cho người nghèo! Tuy nhiên, điều mà thế giới ít biết đến, đó là món quà thiêng liêng mà mẹ dành tặng cho bất cứ ai, trong bất cứ hoàn cảnh nào, đó là: nụ cười.

 

Đã có nhiều cá nhân, đoàn thể, với những đối tượng khác nhau, họ đã xin Mẹ lời khuyên để sống bình an, hạnh phúc và tốt đẹp hơn! Khi được đề nghị như vậy, Mẹ đã nói: “Quí vị hãy về và ban tặng cho nhau những nụ cười… Hãy cười tươi với tất cả mọi người, bất luận người đó là ai! Với những nụ cười tươi như thế, quí vị sẽ lớn lên trong tình yêu hỗ tương”.

 

Còn đối với người Việt Nam, chúng ta cũng thấy mẫu gương này của Đấng Đáng Kính – Đức Hồng Y Fx. Nguyễn Văn Thuận: ngài đã cười với mọi người, kể cả kẻ thù; ngài cười lúc bình an; khi chịu đau khổ; hiểu lầm, thử thách; ngài cười lúc tự do; nhưng cũng không thiếu những nụ cười ngay khi bị tù đầy khốn cùng nơi nhà lao… lý giải cho điều này, ngài đã chia sẻ trong sách Đường Hy Vọng như sau: “Vui với người thương con.Vui với người ghét con.Vui lúc con hớn hở.Vui lúc lòng con đau khổ tê tái. Vui lúc mọi người theo con.Vui lúc con cô đơn bị bỏ rơi. Vui tươi và làm cho mọi người đến với con cũng cảm thấy bầu khí vui tươi, mặc dù lòng con tan nát. Đó là thánh thiện hơn mọi sự ăn chay, hãm mình” (ĐHV. số 539), bởi lẽ: một ông thánh buồn là một ông thánh đáng buồn. Và ngài khuyên: “Con không có tiền? Con không có quà để tặng? Con không có gì cả. Con quên tặng họ niềm vui, tặng sự bình an mà thế gian không thể cho được, kho tàng vui tươi của con phải vô tận” (ĐHV. số 540). Qua những mẫu gương đó, chắc hẳn chúng ta không khỏi thắc mắc rằng: tại sao các ngài có được niềm vui như thế? Thưa! Đơn giản: vì các ngài có Chúa trong mình và làm mọi việc vì lòng yêu mến Chúa và con người.

 

Chúa Nhật thứ 3 Mùa Vọng hôm nay còn được gọi là Chúa Nhật của niềm vui, hay Chúa Nhật Hồng. Phụng vụ Giáo Hội mời gọi chúng ta hãy vui lên trong Chúa; hãy cảm nghiệm được tình thương và sự giải thoát của Thiên Chúa trong cuộc đời, nhất là tình thương cứu chuộc qua con của Người là Đức Giêsu. Tuy nhiên, để làm sao có được niềm vui cứu độ! Đây là điều chúng ta cùng nhau tìm hiểu qua ba bài đọc trong phụng vụ hôm nay.

 

  1. Ý nghĩa Lời Chúa

Khi nói về niềm vui, chúng ta không thể chấp nhận một niềm vui giả tạo, nhưng niềm vui phải khởi đi từ chính nội tâm. Tâm tình này đã được tiên tri Sôphônia cảm nghiệm trong thời của Ngài. Khi đối diện với cảnh nhiễu nhương, loạn lạc, cướp bóc, trả thù, tất cả những cái đó đã làm cho dân chúng thời bấy giờ rơi vào tình trạng hoang mang, sợ hãi và làm hao mòn thể xác, héo hon tinh thần… Hơn nữa, khi sống trong thảm trạng cơ cực, nhục nhã, đắng cay, bên trong thì suy đồi đạo đức, bên ngoài thì họa xâm lăng tứ phía…. Điều này đã làm cho dân Chúa luôn khao khát, mong chờ từng ngày với hy vọng được giải thoát khỏi cảnh khổ đau sầu thương họ đang chịu…

 

Tuy nhiên, ngay thời điểm đó, tiên tri Sôphônia đã tìm được niềm vui khi nhận ra sự tha thứ của Thiên Chúa, nên ngài hân hoan kêu gọi cũng như loan báo cho dân tin vui mừng: “Hỡi thiếu nữ Sion, hãy cất tiếng ca! Hỡi Israel, hãy hoan hỉ! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy hân hoan và nhảy mừng hết tâm hồn! Chúa đã rút lại lời kết án ngươi và đã đẩy lui quân thù của ngươi. Vua Israel là Chúa ở giữa ngươi, ngươi không còn sợ khổ cực nữa” (Xp 3, 14-15). Niềm vui ấy cũng được thánh Phaolô diễn tả qua bài đọc 2 trong thư gửi giáo đoàn Philipphê khi mời gọi và loan báo về ơn giải thoát qua sự kiện Chúa gần đến, ngài nói: “Anh em hãy vui luôn trong Chúa! Tôi nhắc lại một lần nữa: anh em hãy vui lên! Ðức ôn hoà của anh em phải sáng tỏ trước mặt mọi người, vì Chúa đã gần đến” (Pl 4,5).

 

Sang bài Tin Mừng, Gioan Tẩy Giả đã chỉ ra cho dân chúng thấy đâu là niềm vui thật và đâu là niềm vui giả tạo! Muốn có được niềm vui thực sự thì phải làm gì! Giáo huấn của Gioan Tẩy Giả được bắt đầu bằng câu hỏi của dân chúng sau khi nghe ông rao giảng và kêu gọi sám hối để được hưởng trọn niềm vui của ơn cứu độ qua Đấng Cứu Thế: “Chúng tôi phải làm gì?”.

 

Để giúp cho mọi thành phần được ơn cứu độ, và hưởng trọn niềm vui đích thực, Gioan đã mời gọi họ dân chúng sống tình huynh đệ, sẻ chia: “Ai có hai áo, hãy cho người không có; ai có của ăn, cũng hãy làm như vậy”; với những người thu thuế, ngài dạy họ: “Các ngươi đừng đòi gì quá mức đã ấn định cho các ngươi”; còn với quân nhân, Gioan lên tiếng dạy họ cách dứt khoát: “Ðừng ức hiếp ai, đừng cáo gian ai; các ngươi hãy bằng lòng với số lương của mình”. Những lời dạy của Gioan thật chí lý, thấu tình và thiết thực, không vòng vo, không trừu tượng, cũng như không quá khó! Những đường lối mà Gioan định hướng cho dân, ai cũng có thể làm được, nếu họ có đủ lòng khiêm tốn, sám hối và chân thành, nhất là nếu họ đặt mục đích tối hậu của cuộc đời mình nơi Chúa. Khi dạy như thế, Gioan đã không buộc họ phải thay đổi nghề nghiệp, nhưng nếu để được hưởng trọn niềm vui đích thực thì phải thay đổi lối sống và cung cách hành xử.

 

  1. Sống Lời Chúa

Phụng vụ Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta: hãy sám hối để thay đổi lối sống cho phù hợp với thánh ý Chúa.

  • Nếu lối sống cũ là một lối sống ích kỷ, nhỏ nhen, ưa sống hào nhoáng, hình thức bên ngoài, thì từ nay, hãy sống quảng đại, bao dung, tha thứ, nhất là tình thương ấy được ưu tiên cho người nghèo.
  • Nếu trước kia, chúng ta sống kiểu bề trên kẻ cả, lộng quyền, gian tham, bóc lột, thì từ nay, chúng ta phải sống trong tinh thần phục vụ, mình vì mọi người, chứ không phải mọi người vì mình, xây dựng sự công bằng, bác ái với nhau.
  • Nếu trước kia, chúng ta thường hay nói hành, nói xấu, vu vạ cáo gian, nhất là nhân danh điều tốt để làm chứng gian hại người, thì từ nay, chúng ta hãy sống trong sự thật, đơn sơ, chân thành…

Sống được như thế, chúng ta sẽ có niềm vui Tin Mừng đích thực, bởi tất cả những điều thiện hảo đó chính là hoa trái của sự sám hối.

 

Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban cho chúng con có được niềm vui sâu xa từ bên trong tâm hồn bằng việc thay đổi lối sống cho phù hợp với tinh thần của Chúa. Có được niềm vui đó, chúng con mới xứng đáng trở thành con của Chúa. Amen.

 

76.        Chúa Nhật 3 Mùa Vọng

(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển)

 

HÃY VUI LÊN! CHÚA SẮP ĐẾN RỒI

 

“Anh em hãy vui luôn trong Chúa! tôi nhắc lại một lần nữa: anh em hãy vui lên” (Pl 4, 4).

Đó là lời mời gọi của thánh Phaolô trong bài đọc II mà chúng ta vừa đón nghe. Hay như trong phần đáp ca, chúng ta vừa đáp sau các câu xướng: “Hãy nhảy mừng và ca ngợi, vì ở giữa ngươi có Ðấng Thánh của Israel thật cao cả” (Is 12, 6). Niềm vui ấy cũng được lời nguyện đầu lễ nhắc đến như một định hướng: “Xin hướng niềm vui chúng con về chính nguồn hoan lạc của mầu nhiệm Giáng Sinh cao cả, để tâm hồn chúng con hoàn toàn đổi mới, mà họp mừng ngày cứu độ đã gần kề” (Lời nguyện nhập lễ CN III Mùa Vọng). Như vậy, Chúa Nhật III Mùa Vọng hôm nay phải là Chúa Nhật Hồng, Chúa Nhật của niềm vui, hoan lạc và bình an.

 

Niềm vui ấy được Ngôn sứ Xôphônia loan báo: “Reo vui lên, hỡi thiếu nữ Sion, hò vang dậy đi nào, nhà Ítraen hỡi! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy nức lòng phấn khởi!” (Xp 3:14), vì: “Ta sẽ thực hiện điều tốt lành Ta đã phán về nhà Israen và về Giuđa… Trong những ngày ấy, Giuđa sẽ được cứu thoát, Giêrusalem sẽ an cư lạc nghiệp. Đây là tên người ta sẽ đặt cho thành: Đức Chúa là sự công chính của chúng ta” (Gr 33, 15-16). Bởi lẽ: “Án lệnh phạt ngươi, Đức Chúa đã rút lại, thù địch của ngươi, Ngài đã đẩy lùi xa. Đức Vua của Ítraen đang ngự giữa ngươi, chính là Đức Chúa. Sẽ chẳng còn tai ương nào khiến ngươi phải sợ” (Xp 3:15). Và: “Đây chính là Thiên Chúa cứu độ tôi, tôi tin tưởng và không còn sợ hãi, bởi vì Đức Chúa là sức mạnh tôi, là Đấng tôi ca ngợi, chính Người cứu độ tôi” (Is 12:2).

 

Không vui sao được khi dân Do Thái đang sống trong cảnh lưu đày tha hương tại Babylon, không biết đến bao giờ mới được trở về nơi quê cha đất tổ. Đặt mình vào giữa nỗi buồn day dứt đó, chúng ta mới cảm nghiệm được niềm vui mừng, hy vọng của dân Chúa mong chờ Đấng Cứu Thế là chừng nào! Vì vậy, khi nghe Gioan loan báo về Đấng Cứu Thế sắp đến, dân chúng đã lũ lượt đến để xin lãnh nhận phép rửa sám hối và không quên xin Gioan vạch ra cho mình một lối sống phù hợp để xứng đáng đón chờ Đấng Cứu Thế, họ nói: “Chúng tôi phải làm gì?” và Gioan đã dạy: “Ai có hai áo, hãy cho người không có; ai có của ăn, cũng hãy làm như vậy”. Và, với những người người thu thuế thì: “Các ngươi đừng đòi gì quá mức đã ấn định cho các ngươi”. Với các quân nhân: “Ðừng ức hiếp ai, đừng cáo gian ai; các ngươi hãy bằng lòng với số lương của mình”. (x. Lc3, 10-18)

 

Nếu Chúa Nhật I Mùa Vọng, Gioan mời gọi tỉnh thức và sẵn sàng vì không biết ngày nào, giờ nào Chúa đến; Chúa Nhật II ông kêu gọi ăn năm sám hối, sửa sang con đường tâm hồn để đón Chúa là nguồn ơn cứu độ, thì Chúa Nhật III hôm nay ngài đã vạch ra cho người đương thời và cũng là cho mỗi người chúng ta những việc làm cụ thể để đón nhận trọn vẹn nguồn ơn cứu độ.

 

Khi loan báo và kêu gọi dân chúng sám hối và tin vào Tin Mừng, Gioan đã không bảo người ta phải từ bỏ công việc, môi trường cũ hay phải lên rừng, vào hoang địa để lánh xa trần gian. Ngài cũng không bảo người ta phải sống khắc khổ, ăn châu chấu và uống mật ong rừng, mặc áo da thú như ngài. Nhưng Gioan muốn họ vẫn sống trong đời sống thường ngày với công việc của mình. Ai thu thuế, cứ thu thuế. Ai đang là binh lính thì vẫn là binh lính. Điều quan trọng là thi hành đúng phận vụ của mình cách chính đáng, lương thiện, sống yêu thương và thực thi bác ái.

 

Qua đó, Gioan đã muốn nói với dân chúng thời bấy giờ và chúng ta ngày hôm nay một điều là: vui mừng, hân hoan đón chờ Chúa đến, đồng nghĩa với việc chu toàn bổn phận và đổi mới lại cung cách bề ngoài, ý nghĩ bên trong, và, mang lại cho nó một ý nghĩa mới, ý nghĩa cứu độ. Tức là làm mới lại những hành động, cử chỉ đó và mặc cho nó giá trị của nội dung Tin Mừng.

 

Như vậy, sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta hãy chia sẻ bác ái trong tinh thần Kitô giáo. Sự chia sẻ đó có thể là vật chất, lời khuyên, một sự trải nghiệm, một lời nói chân tình hay còn là một ánh mắt thiện cảm, yêu thương, luôn thực thi công bằng, không phải chỉ bằng lời nói suông, hay bằng thứ tình cảm nhất thời, nhưng bằng việc làm cụ thể như: không được dùng quyền lực để áp bức, dùng vũ lực để hà hiếp những người thấp cổ bé họng; không được vu khống, bịa đặt làm phương hại đến thanh danh tiếng tốt của người khác.

 

Lạy Chúa, xin cho mỗi người chúng con khi vui mừng hân hoan chuẩn bị đón Chúa đến trong đêm Giáng Sinh, thì cũng biết chuẩn bị tâm hồn mình, thay đổi cách sống cho phù hợp với Tin Mừng để được hưởng trọn vẹn niềm vui của ơn cứu độ. Amen.

 

77.        Chúa Nhật 3 Mùa Vọng

(Suy niệm của Lm. John Eckert)

 

Nếu bạn chưa nghe đầy đủ câu chuyện Đức Mẹ Gua-da-lu-pe hiện ra, tôi hết sức khuyên bạn hãy đọc trong kho tàng đức tin đó của chúng ta, vì những sự kiện gần 500 năm qua là viết cho chúng ta. Xin được tóm tắt ngắn gọn, sau một thời gian các nỗ lực truyền giáo để truyền bá đức tin ở miền Trung Mỹ không mấy thành công, Đức Mẹ đã hiện ra với Juan Diego, một người trở lại đạo khiêm tốn và không nghi ngờ. Anh được Đức Mẹ cho biết phải đến gặp giám mục để xin ngài xây một thánh đường trên đồi Tepeyac, ngay bên ngoài Thành phố Mexico ngày nay. Dĩ nhiên, lúc đầu vị giám mục không tin người lao động khiêm nhường này và ngài đã đòi anh phải xin một dấu chỉ và Mẹ Maria đã ban cho anh ta.

Bỏ qua nhiều chi tiết liên quan đến dấu chỉ, có hai chi tiết tôi muốn tập trung vào Chủ nhật vui mừng hôm nay, cũng là Lễ Đức Mẹ Gua-da-lu-pe. Đầu tiên, Đức Mẹ dạy Juan Diego hãy lên đỉnh đồi Tepeyac; ở đó anh đã thấy những bông hoa hồng mà Mẹ Maria bảo anh mang về cho đức giám mục. Sự kiện này có vẻ không hữu lý cho lắm, vì lúc đó đang là tháng 12, mặt đất phủ đầy sương giá, và các cây hoa hồng ấy không phải là thổ sản vùng này ở Mễ Tây Cơ, giống như tại Tây Ban Nha là nơi vị giám mục sinh sống. Thứ hai, Mẹ Maria đã sắp xếp những bông hồng trên chiếc áo choàng của Juan Diego để anh mang đến cho vị giám mục. Áo choàng là một tấm vải kết hợp giữa dây thắt lưng đeo dụng cụ và một cái tạp dề. Đó là trang phục làm việc của một người lao động thấp hèn như Juan Diego. Và chính trên chiếc áo choàng lao động hàng ngày này, các bông hồng lạ lùng đã được mang đi cùng với hình ảnh Đức Mẹ Gua-da-lu-pe linh thiêng in trên đó, sau 500 năm vẫn còn đặt trong Vương cung thánh đường mang tên Mẹ ở thành phố Mexico.

Hôm nay tôi dài dòng kể lại câu truyện này không những vì sự trùng hợp ngày lễ Đức Mẹ Gua-da-lu-pe với Chúa Nhật thứ ba Mùa Vọng, mà còn vì cách phép lạ lớn lao này đã xảy ra phù hợp với câu trả lời của Thánh Gio-an Tẩy Giả trước những câu hỏi trong bài Tin Mừng là “Vậy chúng tôi phải làm gì?” Giữa rất nhiều cách Đức Mẹ có thể tỏ mình ra cho đức giám mục, Mẹ đã chọn một anh lao động thấp hèn và bộ quần áo lao động tầm thường để gây ấn tượng không những cho vị giám mục, mà cho cả thế giới nữa.

Thánh Gio-an Tẩy Giả không bảo những người đến hỏi ngài hôm nay rằng họ phải làm điều gì phi thường. Ngài không yêu cầu họ rời xa thế gian, đến nơi hoang địa, lấy châu chấu và mật ong rừng mà sống. Nhưng ngài bảo họ phải có lòng đạo đức, ngay tại nơi họ đang sống. Người thu thuế – đừng lấy nhiều hơn mức bạn phải thu. Những binh lính – đừng bắt nạt kẻ khác, hãy lương thiện và biết ơn. Về phần chúng ta – đừng tham lam và hãy chia sẻ những gì bạn có. Chẳng có điều nào trong những điều kể trên là rất khó hiểu và khó thực hiện, nhưng cũng không có nghĩa là dễ dàng đâu.

Tuần trước, Thánh Gioan Tẩy Giả đã kêu gọi chúng ta sám hối; bây giờ chúng ta đã ăn năn, hi vọng đã đi xưng tội và được tha thứ những lỗi lầm ngăn cách chúng ta với Chúa và với nhau, câu hỏi bây giờ là của đám đông: ” Vậy chúng tôi phải làm gì?” Hiểu rõ ý nghĩa việc Đức Mẹ đã sử dụng chiếc áo choàng của Thánh Juan Diego làm dấu hiệu, nên hãy để Mẹ sử dụng công việc hàng ngày của bạn để làm dấu chỉ. Bạn nhớ là những cây hồng không thể mọc được trong sương giá chứ? Phải, đáng lẽ chúng ta không còn ngoan đạo và yêu thương nữa vào thời kỳ hậu Kytô giáo của những kẻ “vô tôn giáo”. Tuy nhiên thật là kỳ diệu, chúng ta vẫn tiếp tục phá vỡ được băng giá. Đừng giữ những bông hồng đó ở nhà hay trong khuôn viên nhà thờ; nhưng hãy mang niềm vui lan tỏa đó vào nơi làm việc của bạn. Tôi không có ý bảo bạn nên hành động quá đáng và mù quáng (Pollyanna). Chúng ta không được kêu gọi trở thành những người lạc quan; nhưng chúng ta được kêu gọi trở thành những môn đệ tràn đầy hy vọng của Chúa Giêsu Kitô. Tôi có ý nói ngày nay thế giới cần nhiều hơn là chiếc áo choàng thứ hai và thức ăn dư thừa của chúng ta (mặc dù thế giới vẫn đang cần những thứ đó); thế giới cần niềm vui mà Thánh Phao-lô đã truyền dạy tín hữu Phi-líp-phê phải tham dự vào khi Ngài viết thư cho họ từ trong tù.

Lời nguyện nhập lễ hôm nay cầu xin Chúa “hướng niềm vui chúng con về chính nguồn hoan lạc của mầu nhiệm Giáng Sinh cao cả để tâm hồn chúng con hoàn toàn đổi mới, mà họp mừng ngày cứu độ đã gần kề.” Lời đó luôn biến lời khẩn cầu này thành một lời cầu xin vĩ đại. Tất cả chúng ta đều biết rằng chúng ta đang sống trong thời kỳ đầy thử thách, vì rất nhiều lý do nên tôi sẽ không đào sâu ở đây. Như cha Paul Mankowski đã phát biểu khi kết thúc một bản tóm tắt tuyệt vời về tình trạng của Giáo hội: “Tôi hoàn toàn không tìm thấy lý do gì để lạc quan, nhưng tôi có mọi lý do để hy vọng.” Bạn thân mến, theo mệnh lệnh của Thiên Chúa nhân từ và đầy lân ái, hoa hồng tiếp tục bừng nở xuyên băng giá, những chiếc áo choàng ơn gọi của chúng ta tiếp tục được mang đi, và Đấng Thánh của Ít-ra-en vẫn ở giữa chúng ta.

Vậy chúng ta phải làm gì? Hãy xin Chúa cho chúng ta biết mang niềm vui cứu rỗi vào một thế giới đang khao khát, ngay cả khi thế giới chưa biết đến ơn cứu rỗi ấy. Điều này đòi hỏi lòng can đảm phát sinh từ niềm vui mãnh liệt không bắt nguồn từ thú vui chóng qua của mùa lễ, mà từ tình yêu bền vững của Con Thiên Chúa dành cho mỗi người chúng ta, tình yêu chiến thắng tội lỗi và sự chết. Hãy cầu xin Con Thiên Chúa, nhờ lời chuyển cầu của Đức Mẹ Guadalupe, Thánh Gioan Tẩy Giả và Thánh Juan Diego đốt cháy đi trong bạn những rác rưởi ngăn cản bạn chia sẻ ngọn lửa đức tin của bạn và làm tan băng giá đang bóp nghẹt thời đại chúng ta.

 

78.        Chúa Nhật 3 Mùa Vọng

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

 

HÃY SỐNG ĐẠO CÁCH VUI VẺ

 

Bước vào Chúa nhật III Mùa Vọng quen gọi là Chúa nhật của Niềm Vui (Gaudete). Phụng vụ lễ ca, từ bài đọc, Thánh vịnh đáp ca cho đến màu sắc, tất cả đều diễn tả niềm vui sâu sắc ngập tràn. Với nhiều cung giọng khác nhau, nhưng Sôphônia, Luca tác giả Tin Mừng và cả thánh Phaolô nữa cũng đều hòa chung một khúc hát ca mừng Chúa đang đến mang lại niềm vui ơn cứu độ cho hết mọi người.  Màu sắc từ màu tím chuyển sang màu hồng, màu của bình minh ló rạng, đánh dấu nửa chặng đầu của Mùa Vọng, nay Giáo hội tạm dừng, lấy thêm can đảm bước tiếp, để chuẩn bị tâm hồn tốt hơn để cảm nghiệm được niềm vui thực sự của Lễ Giáng Sinh đã gần kề.  “Hỡi thiếu nữ Sion, hãy cất tiếng ca! Hỡi Israel, hãy hoan hỉ! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy hân hoan và nhảy mừng hết tâm hồn! ” 

 

Mặc lấy tâm tình của dân Chúa, đọc và nghe những lời trên chúng ta cảm thấy lòng đầy niềm vui thiêng thánh ngập tràn làm sao không vui mừng được.

 

Vậy đâu là lý do sâu xa để vui mừng?

Câu trả lời đúng nghĩa nhất: Chúa là nguyên nhân niềm vui của dân Chúa và của chúng ta. Trong lúc Vương quốc Giuđa bị Assyri tàn phá và Vương quốc Israel phải đi lưu đầy, Isaia loan báo rằng một đám đông người bị bỏ rơi, bị khinh dể, bị thương tích sẽ được Thiên Chúa đến cứu. Quả thật: “Chúa đã rút lại lời kết án ngươi và đã đẩy lui quân thù của ngươi. Vua Israel là Chúa ở giữa ngươi, ngươi không còn sợ khổ cực nữa… Chúa là Thiên Chúa ngươi, là Đấng mạnh mẽ ở giữa ngươi, chính Người cứu thoát ngươi “. Vui vì có Chúa ở cùng. Nhưng để có được Thiên Chúa đến ở cùng chúng ta làm gì nếu không phải là hoán cải.

 

Hoán cải

Lời Chúa qua miệng của Gioan Tiền Hô tiếp tục vang lên, gửi đến mọi thành phần dân chúng không trừ một ai. Hoán cái, vâng cần phải hoán cải, phải thay đổi hướng đi, thực thi đức công bằng, sống tình liên đới và tiết độ là những giá trị không thể tách rời khỏi một cuộc sống hoàn toàn nhân bản và Kitô chân chính. Một đám đông thuộc đủ mọi thành phần trong xã hội Do thái thời bấy giờ, đôi khi đối nghịch nhau về cách sống cùng đến nghe Gioan giảng. Họ không hỏi: “Chúng tôi phải tin gì? “, nhưng hỏi: “Chúng tôi phải làm gì ? “

 

Để trả lời, Gioan Tẩy giả mời gọi họ chuẩn bị cho Đức Messia đến bằng cách thực hiện những việc làm cụ thể và có ý nghĩa. Gioan không đưa ra một giáo huấn trừu tượng, đơn giản Gioan mời gọi họ chia sẻ những gì mình đang có: “Ai có hai áo, hãy cho người không có; ai có của ăn, cũng hãy làm như vậy” (Lc 3,10). Như thế, Gioan đặt sự sẻ chia, một khía cạnh của công bằng lên hàng đầu. Với những kẻ thu thuế mang tiếng là tội lỗi cũng đến nghe Gioan giảng. Gioan đề nghị với họ, trong khi tác nghiệp đừng đòi nhiều hơn những gì họ phải trả. Có nghĩa là đừng đòi tiền hối lộ! Rõ ràng là thế. Với các binh sĩ, có lẽ là lính ngoại đạo, được tuyển vào phục vụ trong quân đội vua Hêrôđê. Gioan Tẩy Giả không lên án nghề nghiệp của họ, nhưng khuyên nhủ họ phải tôn trọng công lý, đừng bóc lột của ai điều gì nhưng hãy hài lòng với đồng lương của mình (Lc 3,14).

 

Sống Đạo với niềm vui

Giờ Kinh truyền tin tại quảng trường thánh Phêrô ngày 13 tháng 12 năm 2015: Ðức Thánh Cha Phanxicô mời gọi các tín hữu sống tinh thần vui tươi giữa bao nhiêu khó khăn trong cuộc sống. Ngài nhận xét rằng Chúa nhật thứ III Mùa Vọng giúp chúng ta tái khám phá một chiều kích đặc thù của sự hoán cải, đó là sự vui mừng: “Ngày nay cần có can đảm để nói về niềm vui, nhất là cần đức tin! Thế giới bị vây bủa vì bao nhiêu vấn đề, tương lai đầy bấp bênh và sợ hãi. Nhưng Kitô hữu là người vui tươi, và niềm vui của họ không phải là một cái gì hời hợt chóng qua, trái lại sâu xa và bền vững, vì đó là một hồng ân của Thiên Chúa lấp đầy cuộc sống. Niềm vui của chúng ta xuất phát từ xác tín ‘Chúa ở gần’” (Phi 4,5).

 

Cũng như đám đông xưa kia, giờ đây chúng ta cũng đặt câu hỏi: Thưa ông Gioan chúng tôi phải làm gì? Gioan Tẩy giả không đòi chúng ta làm điều kì diệu. Nhưng chắc chắn ngài sẽ bảo chúng ta hoán cải khởi đi từ việc chia sẻ, chu toàn bổn phận của người Kitô hữu.

 

Chúng ta hãy phó thác hành trình Mùa Vọng tiếp theo của chúng ta cho Ðức Maria, thần trí của Mẹ đã vui mừng trong Chúa là Ðấng Cứu Thế. Xin Mẹ hướng dẫn tâm hồn chúng ta trong sự vui mừng chờ đợi Chúa Giêsu đến, một sự chờ đợi đầy kinh nguyện và việc lành. Amen.

 

79.        Nào ta vui lên

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

 

“Vui lên” là chủ đề của Chúa nhật thứ III Mùa Vọng. Hôm nay Phụng vụ Giáo hội đang màu tím chuyển sang hồng thể hiện rõ nét của niềm vui, vui vì những gì đã đạt được trong chặng đường thứ nhất của Mùa Vọng, nay nghỉ một chút để nhìn lại chặng đường đã qua với niềm vui, và lấy thêm đà mới chuẩn bị mừng (Chúa Giáng Sinh), nên Giáo hội mời gọi con cái mình “Gaudete – Hãy vui lên”.

 

Với lời thánh ca du dương phỏng theo lời của thánh Phaolô: Anh em hãy vui lên trong niềm vui của Chúa. Vui như Isaia nói :“Tôi hớn hở vui mừng trong Chúa, và lòng tôi hoan hỉ trong Chúa tôi” (Is 61, 10). Lời nguyện nhập lễ hôm nay đưa chúng ta vào chính niềm vui thiêng thánh ấy: “Lạy Chúa, xin đoái xem, này dân Chúa đem tất cả niềm tin đợi chờ ngày lễ Sinh Nhật Đấng Cứu Thế. Xin hướng niềm vui chúng con về chính nguồn hoan lạc của mầu nhiệm Giáng Sinh cao cả để tâm hồn chúng con hoàn toàn đổi mới mà họp mừng ngày cứu độ đã gần kề” (Lời nguyện nhập lễ Chúa Nhật III Mùa Vọng).

 

Những lời trên làm tâm hồn chúng ta rạo rực hẳn lên, dẫn chúng ta bước vào mầu nhiệm của niềm vui ơn cứu độ. Nghe những lời loan báo của Xôphônia chúng ta không thể không vui: “Hỡi thiếu nữ Sion, hãy cất tiếng ca! Hỡi Israel, hãy hoan hỉ! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy hân hoan và nhảy mừng hết tâm hồn!” (Xp 3, 14-15). Cũng sứ điệp của niềm vui, Thiên Thần chào Đức Maria: “Hỡi Bà đầy ơn phúc, hãy vui lên” (Lc 1,26). Lý do chính để thiếu nữ Sion vui là có: “Chúa là Thiên Chúa ngươi, là Đấng mạnh mẽ ở giữa ngươi, chính Người cứu thoát ngươi. Người hân hoan vui mừng vì ngươi. Người cảm động yêu thương ngươi, và vì ngươi, Người sung sướng reo mừng” (Xp 3, 16-18).

 

Xôphônia muốn chúng ta phải vui mừng, không có lý do gì để thất vọng, nản chí, buồn sầu, dù tình trạng ta phải đương đầu có thế nào đi nữa, chúng ta chắc chắn về sự hiện diện của Chúa, nguyên sự hiện diện ấy cũng đủ để làm cho tâm hồn ta hân hoan.

 

Trong thư gửi  tín hữu thành Philiphê, thánh Phaolô mời gọi con cái mình vui lên trong niềm vui của Chúa, và ngài đưa ra lý do tại sao phải vui mừng. Thưa vì “Chúa đang đến gần!” (Pl 4,5) Chúa sắp ngự đến rồi, vậy để đón Chúa, chúng ta làm gì đây? Cám ơn những người thu thuế, các quân nhân và những người đã đến hỏi Gioan về cách thức chuẩn bị đón Chúa đến, vì nhờ họ chúng ta mới có câu trả lời, Thiên Chúa không đòi điều gì ngoại thường, nhưng Chúa muốn mỗi người sống theo các tiêu chuẩn liên đới và công bằng; nếu không có những đức tính này thì ta không thể chuẩn bị tốt đẹp để gặp gỡ Chúa.

 

Khi dân chúng đến hỏi Gioan Tẩy Giả, ông khuyên: “Ai có hai áo, hãy cho người không có; ai có của ăn, cũng hãy làm như vậy” (Lc 3, 11). Thật là thích hợp, bởi đức bác ái được đề cao, yêu thương được chú trọng phải thực hành. Bác ái thúc đẩy quan tâm đến người khác và đáp ứng nhu cầu của họ. Công lý đòi phải vượt thắng sự chênh lệch giữa người có của dư thừa và người thiếu những điều tối cần thiết. Công lý và bác ái không đối nghịch nhau, nhưng cả hai chắp lại thành đôi cánh để con người thăng tiến trong yêu thương. Theo Đức Nguyên Giáo hoàng Bênêđitô XVI thì, “Tình thương luôn là điều cần thiết, cả trong một xã hội công bằng nhất, vì luôn luôn có những tình trạng thiếu thốn về vật chất trong đó sự trợ giúp là điều tối cần thiết trong sự yêu thương cụ thể đối với tha nhân” (Trích Deus caritas est, số 28)

 

Đối với người làm nghề thu thuế, họ thường bị khinh rể bởi lợi dụng địa vị. Gioan không bảo họ phải đổi nghề, nhưng đừng đòi thêm điều gì khác ngoài mức đã được ấn định (x. Lc 3,13). Theo Gioan, tiên vàn hãy chu toàn nghĩa vụ của mình một cách lương thiện. Hãy tuân giữ các giới răn (x. Xh 20,15). Đến lượt các quân nhân, hạng người dễ bị cám dỗ lạm quyền. Thánh Gioan nói: “Đừng ức hiếp ai, đừng cáo gian ai; các ngươi hãy bằng lòng với số lương của mình” (Lc 3,14). Cả trong trường hợp này, sự hoán cải bắt đầu bằng sự lương thiện và tôn trọng tha nhân: chỉ dẫn này có giá trị đối với mọi người, nhất là những người có trách nhiệm lớn hơn.

 

Israel vui vì có Chúa, để có được niềm vui đích thực, niềm vui trong Chúa và có Chúa ở cùng. Mượn lời các quân nhân, chúng ta hỏi Gioan Tiền Hô: Còn chúng tôi, chúng tôi phải làm gì? Chắc ngài sẽ chỉ cho chúng ta những việc phải làm. Chỉ dẫn của Gioan Tẩy Giả vẫn luôn thời sự: cả trong thế giới phức tạp của chúng ta ngày nay, tình thế sẽ khá hơn nếu mỗi người tuân giữ các qui luật hành xử này.

 

Ước chi Lễ Giáng Sinh nay đã gần kề, thôi thúc chúng ta khắp nơi trên trần thế canh tân niềm tin của mình vào Thiên Chúa và vào Con của Ngài là Đức Giêsu Kitô, đồng thời chuẩn bị một nơi xứng đáng để đón tiếp Chúa Kitô.

 

Lạy Mẹ Maria, xin giúp chúng con chuẩn bị tâm hồn để đón rước Chúa Giêsu. Amen.

 

80.        Là “lúa” hay là “rơm”?

(Suy niệm của Pio X Lê Hồng Bảo)

 

Hôm nay được gọi là “Chúa nhật Hồng giữa mùa Tím”. Nỗi niềm trông đợi ngày Chúa đến được thể hiện bằng tấm lòng háo hức, nôn nao… “Hỡi Israel, hãy hoan hỉ! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy hân hoan và nhảy mừng hết tâm hồn! Chúa đã rút lại lời kết án ngươi và đã đẩy lui quân thù của ngươi. Vua Israel là Chúa ở giữa ngươi, ngươi không còn sợ khổ cực nữa.” (Xp. 3, 14-15).

 

Trong những ngày này, tôi lại đọc thấy trên mạng Internet những thông tin từ nhiều nguồn về ngày 21 & 23/12/2012. Những thông tin dù lành dù dữ đều khiến những người đọc nó lo lắng, bồn chồn… Người thì dự trữ mì gói, gạo sấy; người thì trữ xăng dầu để chạy máy phát điện; người thì lo sắm áo phao, đèn pin, bếp cồn…; có người còn đào hầm để tránh động đất… Để đối phó với ngày quang lâm của Chúa, người ta lo tém vén mọi thứ có thể được để bảo đảm cho mạng sống của mình.

 

Còn Gioan khuyên dân Do Thái ngày xưa điều gì?

  • Ai có hai áo, hãy cho người không có; ai có của ăn, cũng hãy làm như vậy.
  • Các ngươi đừng đòi gì quá mức đã ấn định cho các ngươi.
  • Đừng ức hiếp ai, đừng cáo gian ai.
  • Các ngươi hãy bằng lòng với số lương của mình.

Nói chung là: Bằng lòng với cuộc sống tối thiểu cho bản thân và dành sự quan tâm đối với tha nhân. Bài học từ hai ngàn năm trước đã mấy ai ứng dụng? Tôi vẫn thường nghe nói: “Không ai nghèo khó đến nỗi không có gì để cho đi và cũng không ai giàu có đến nỗi không có thể lãnh nhận được gì thêm nữa”. Đối với tôi, xem ra câu nói này chỉ đúng… có vế sau! Lo cho bản thân mình thì tôi thấy không biết bao nhiêu cho đủ nhưng cho người khác thì cứ phải cân nhắc, đắn đo…

 

Đối với đại đa số dân chúng, hình tượng 2 cái áo diễn tả thật tích cực tâm tình bác ái và phó thác của Đức Tin Kitô giáo. Chỉ có 2 cái để thay đổi mà Gioan còn kêu gọi cho đi bớt 1 cái, rồi để ngày mai cho Chúa lo liệu. Trong thời đại hiện nay, có lẽ lại càng khó tìm ra người có ít hơn 2 cái áo. Điều này đồng nghĩa với việc “không có ai nghèo khó đến mức không có gì để cho đi”.

 

Với những người thu thuế (đại diện cho tầng lớp viên chức), Gioan thấy được những cám dỗ kim tiền nơi họ. Chỉ cần thêm bớt một dấu phẩy, họ đã có cả một gia tài lận lưng. Ngày nay, giới viên chức lại càng có nhiều cơ hội để kiếm chác từ một chữ ký, một con dấu hay những hợp đồng tranh tối tranh sáng… Ngay cả giáo viên cũng cắn con chữ làm đôi, một nửa dạy trên lớp, một nửa đem về nhà… dạy thêm!

 

Với giới quân nhân (đại diện cho thành phần nắm quyền lực), Gioan thấy được khuynh hướng lạm quyền để tư lợi nơi họ. Ngày nay, hình ảnh này lại càng đại trà và rõ nét hơn với hiện tượng tham nhũng (nhũng nhiễu dân chúng để thỏa lòng tham) khắp nơi. “Lương” không quan trọng bằng “bổng”. Tình trạng “chạy ghế” khiến tham nhũng càng phổ biến và lan tràn. Tốn vài trăm triệu để “chạy” vào một vị trí nào đó nên khi “yên vị”, tất người ta phải… “lấy lại những gì đã mất”.

 

Nhiều năm trước, tôi phải nuôi người thân điều trị ở bệnh viện K. Dính phải thứ này thì coi như “trúng số độc đắc”, không hết bệnh thì cũng… hết tiền. Vô bệnh viện phải lo thủ thân, tối nằm không dám ngủ. Đêm đã khuya, tôi bỗng nghe tiếng thì thào từ giường bên cạnh: “Anh à, em thú thiệt với anh cái này… Em biết nhà mình chẳng giàu có gì! Anh cũng phải bán đi chiếc xe và mấy công đất để lo cho em. Nhưng em nghĩ… bệnh tình của em thì có thêm vài triệu bạc cũng chẳng bõ bèn gì! Vô đây, em mới thấy nhiều người còn khổ hơn mình gấp bội anh ạ! Như chị Hai ở Cai Lậy kia, mỗi cuối tuần về nhà, chị lại bới lên một bao dưa leo với chai nước mắm để dành ăn dần cả tuần… Rồi cô Sáu Lagi nữa, nhiều bữa mắc lo cho đứa con gái mà đi xin cơm từ thiện không kịp là nhịn đói luôn. Vậy cho nên, mỗi khi có người thân vào thăm cho chút ít tiền, em đều cho họ hết. Tuần trước, cô Ba cho em hai trăm; hôm qua, cậu Bốn vào cho năm trăm. Em không nói với anh vì số tiền đó em đã cho hết rồi! Anh đừng giận em nghen.” Thinh lặng giây lát rồi có tiếng anh chồng: “Ừ, em làm vậy anh thấy cũng hay. Hồi nào tới giờ mình cứ tưởng mình nghèo nên chẳng bao giờ giúp đỡ ai. Bây giờ mới có cơ hội…”

 

Gần chục năm sau, tôi lại gặp cô bệnh nhân ấy đi tái khám ở bệnh viện K. nọ, mặt mày tươi tắn, thân thể nở nang, khỏe mạnh… Vị bác sĩ tái khám nói với tôi: “Trường hợp của cô ấy như một phép mầu vậy. Tôi cứ tưởng cổ chỉ sống được chừng một năm nữa là cùng. Vậy mà… Hiện nay, tôi hẹn cổ 6 tháng tái khám một lần như là đi kiểm tra sức khỏe định kỳ vậy thôi, chứ mức máu CA của cổ không có gì đáng ngại. Lần nào, cổ vào tái khám cũng đem đường, sữa vô cho các bệnh nhân. Món quà thì chẳng đáng là bao nhưng sự hiện diện của cổ là niềm khích lệ rất lớn đối với bệnh nhân ở khoa này khi biết cổ đã từng điều trị ở đây 10 năm trước.”

 

Bệnh tình đối với tôi là tai họa hoặc chí ít là thử thách, trong khi đối với cặp vợ chồng kia lại là… cơ hội! Và, Thiên Chúa giàu lòng từ ái đã không để ai phải thiệt thòi! Chúa lại đòi hỏi còn ít hơn Gioan, chỉ cần một chén nước lã: “Ai cho anh em uống một chén nước vì lẽ anh em thuộc về Đấng Kitô, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu.” (Mc 9,41).

 

Tôi cứ cố sức vơ vét cho mình những gì có thể được trong điều kiện sống hiện có và khư khư giữ lấy cho riêng mình, để rồi tôi lại dùng những thứ ấy để mua sắm mì tôm, xăng dầu, máy phát điện, áo phao, bếp cồn… mà lòng cứ thắc thỏm không yên. Trong khi nhiều người đã nghe theo Gioan trút bỏ những vướng víu trần thế để lòng nhẹ thênh thang khi ra trình diện Đấng Quyền Năng Uy Linh Cao Cả. Đấng ấy không chỉ giáo huấn và ban phép Thanh Tẩy như Gioan mà còn là Vị Thẩm Phán Tối Cao“cầm nia trong tay mà sảy sân lúa của Người, rồi thu lúa vào kho, còn rơm thì đốt đi trong lửa không hề tắt!” Lúc bấy giờ, tôi sẽ là “lúa” hay là “rơm”? Liệu những mì tôm, áo phao… có cứu tôi thoát khỏi “lửa không hề tắt”?

 

Lạy Chúa Giêsu, chúng con cảm tạ Chúa vì đã dựng nên chúng con, đã thanh tẩy hồn xác chúng con bằng lửa và Thánh Thần, đã ban Lời để giáo huấn chúng con, và nhất là đã hy sinh chính thân mình làm giá cứu chuộc chúng con. Xin cho chúng con biết từ bỏ những quyến rũ của thế gian hư ảo này, biết quan tâm đến anh chị em chung quanh chúng con như Lời Chúa dạy, để ngày sau chúng con trở thành “lúa” được Chúa thu gom và tích vào kho lẫm vinh quang của Người. Amen.

 

81.        Chúa Nhật 3 Mùa Vọng

(Suy niệm của Lm. Giuse Vũ Tiến Tặng)

 

SỐNG CÔNG BÌNH, BÁC ÁI VÀ TÔN TRỌNG THA NHÂN

 

Kể từ Chúa Nhật thứ II Mùa Vọng, bóng dáng của Gioan Tẩy Giả xuất hiện trong Tin Mừng với vai trò dọn đường cho Con Thiên Chúa đến. Ông đã rời hoang địa và rao giảng khắp vùng ven sông Giođan để kêu gọi dân chúng lãnh nhận phép rửa giục lòng sám hối (x. Lc 3,3). Có rất nhiều hạng người khác nhau kéo đến với Gioan. Họ là những người lao động chân tay bình thường trong xã hội hoặc cũng là bậc ông bà cha mẹ trong gia đình. Trong số đó, có những người làm nghề không được xã hội tôn trọng như nghề thu thuế, nhưng cũng có cả những viên sĩ quan. Tất cả đều xin ông cho mình lời khuyên để canh tân đời sống với cùng một tâm trạng thao thức: “Chúng tôi phải làm gì đây?”.

 

Trong bối cảnh chờ mong Đấng Mêssia đến, dân chúng mong muốn rằng chính bản thân mình cần phải có những hành động cụ thể, một sự thay đổi tận căn chứ không chỉ dừng lại ở những hình thức tiếp đón xã giao bề ngoài. Hành động đó cần được bắt đầu bằng việc đoạn tuyệt với những cử chỉ, lời nói và thói quen không tốt trong quá khứ, để rồi kể từ hôm nay bắt đầu lại một cuộc sống với những công việc cụ thể mang chiều hướng tích cực hơn. Việc chuẩn bị để đón Đấng Mêssia không chỉ là giục lòng sám hối mà còn hướng tới một cuộc sống tốt đẹp hơn. Khi dành riêng cho mình một khoảng khắc trong cái ồn ào náo động của cuộc sống để nhìn lại chính mình bằng cách đặt câu hỏi “Tôi phải làm gì đây?” là đang chọn cho mình một lối đi đúng đắn bằng cả con tim, khối óc và ý thức trách nhiệm.

 

Lời khuyên cụ thể của Gioan Tẩy Giả dành cho mỗi hạng người có khác nhau, nhưng nhìn chung ông nhấn mạnh đến chiều kích chia sẻ, sống công bình và tôn trọng phẩm giá nơi tha nhân. Đó là những chuẩn mực cần thiết để xây dựng mối tương giao bền chặt mang đầy nhân bản và đậm nét Kitô giáo. Nếu như những người thu thuế trước đây ít để ý đến việc công bình mà có những hành vi bất minh làm thiệt hại đến người khác, thì nay họ được mời gọi “đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định cho mình”. Nếu như những quân nhân xưa kia cậy quyền thế ức hiếp thường dân, thì nay Gioan đòi buộc họ “chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta, hãy an phận với số lương của mình”. Đối với dân chúng nói chung, tuy nhìn lên “chẳng bằng ai” nhưng khi nhìn xuống thì vẫn còn nhiều trường hợp “chẳng ai bằng” thì cần mở rộng vòng tay và con tim để chia sẻ cơm áo với những ai đang cần đến nhu cầu này.

 

Lời khuyên của Gioan cho dân chúng thời xưa cách thời đại chúng ta ngày nay thật xa, nhưng nó vẫn là chuẩn mực sống cho con người ở vào mọi nơi và mọi thời. Trong bất kỳ một quốc gia, cộng đồng xã hội và Giáo Hội hay cấp gia đình đều cần đi từ nguyên tắc hành xử tối quan trọng này giữa con người với nhau để củng cố tinh thần hiệp nhất và liên đới trên một cấp độ cao nhất.

 

Trong tâm tình mừng ngày Con Chúa giáng trần để chia sẻ thân phận làm người của chúng ta, mỗi người được mời gọi sám hối, canh tân đời sống và tăng cường mối tương giao tốt lành với tha nhân bằng những hành động cụ thể không chỉ trong Mùa Vọng mà suốt cả cuộc đời và cho tới ngày Chúa Giêsu lại đến với từng cá nhân. Amen.

 

82.        Thánh Thần và Lửa

(Suy niệm của P. Trần Đình Phan Tiến)

 

MÙA VỌNG LÀ MÙA KHỞI ĐẦU CỦA TÌNH YÊU

 

Vâng! thật vậy, mùa vọng đã đi hơn nữa chặng đường. Nhưng con người mới bắt đầu cảm nghiệm ý nghĩa của mùa vọng. Ai sống trong tâm trạng tình yêu, sẽ cảm nghiệm được ý nghĩa mùa vọng. Nhưng mùa vọng lại là mùa buồn. Mùa âu sầu, màu của phụng vụ chính là màu tím. Màu tím được khoác lên mình phụng vụ mùa vọng.Cuối năm phụng vụ, tháng các linh hồn, nhưng màu tím chỉ có mặt trong ngày lễ các linh hồn, còn lại là màu xanh, tượng trưng cho sự sống. Nhưng tháng đầu của năm phụng vụ, là mùa vọng, Giáo Hội chỉ định màu tím cho cả mùa vọng. Như vậy, ta thấy có một điểm đặc biệt gì? Bàn thờ không trưng hoa. Rõ ràng là mang sắc thái không vui. Tâm trạng nầy là tâm trạng của dân Do-thái xưa, diễn tả sự mong đợi Đấng Cứu Thế.

 

Mong đợi hay chờ mong là một tâm trạng buồn. Như vậy, cũng có thể lý giải về tình yêu. Tình yêu luôn mang tâm trạng buồn, vì không ai thỏa mãn được tình yêu. Nhưng tình yêu được định nghĩa là Thiên Chúa, vậy Thiên Chúa là sự buồn, vì Thiên Chúa là tình yêu. Giải thích như vậy có đúng không? Nếu giải thích như thế, quả nhiên là không đúng, vì mùa vọng chỉ có bốn tuần lễ. Nhưng tâm trạng buồn trong mùa vọng tượng trưng cho bốn mươi năm trong sa mạc của người Do- thái xưa. Tượng trưng cho thời gian từ khi Thiên Chúa Hứa ban Đấng Cứu Thế đến khi Đấng Cứu Thế Giáng Sinh là khoảng bốn ngàn năm. Như vậy, theo ý nghĩa đó, Thiên Chúa là Đấng buồn, buồn vì con người bất nghĩa, bất trung, buồn vì tội lỗi nhân loại và buồn vì nhân loại vẫn chìm đắm trong thế gian.

 

Đặc tính của tình yêu, không gì khác đó là nỗi buồn, vì càng yêu thì càng buồn. Sự thật nầy có đối lập với chân lý Kitô giáo không? Thưa chắc chắn là không.Bởi vì, chúng ta nhớ lại, trong vườn cây Dầu, Chúa Giêsu đã đau buồn đến thảng thốt. Sự thật không thể chối cải, và cũng chính vì thế, Thiên Chúa đã ban Người Con duy nhất cho thế gian, bởi vì Thiên Chúa đã yêu thế gian.

 

Nói như vậy, thì Kitô giáo là một Đạo buồn sao? Thưa hoàn toàn không phải vậy. Vì tình yêu sinh ra bác ái, bác ái thì sinh ra vị tha. Nên chi niềm vui của tình yêu, đó là sự tha thứ. Sự tha thứ mới chính là tình yêu đích thực.Vì thế, có vị thánh đã nói: “ Một vị thánh buồn là một vị thánh đáng buồn”. Vì sao? Thưa vì đó là sự yêu thương và tha thứ. Không thể có tha thứ, nếu như không yêu thương và không thể yêu thương mà không tha thứ. Vì vậy động cơ đích thực của tình yêu là sự tha thứ. Tha thứ là tình yêu lớn nhất và quà tặng lớn hơn tình yêu. Vì Thiên Chúa không thể tiếp tục yêu thương con người, nếu Ngài không tha thứ cho con người.

 

Như vậy, Thiên Chúa là tình yêu và mùa vọng là mùa khởi đầu của tình yêu. Thiên Chúa giáng sinh làm Người, là đã quá đỗi yêu thương con người, nhưng biết bao kỳ vọng và đẹp đẽ dành cho lễ giáng sinh được nhắc nhớ hằng năm không phải là một lễ giáng sinh đích thực. Vì lễ giáng sinh đích thực, là một lễ giáng sinh buồn. Vì Chúa đến thật sự lần I không được ai tiếp đón, và nơi được chào đời là một hang đá của súc vật ngủ nghĩ. Nhưng hào quang và ánh vinh quang uy quyền của Thiên Chúa đã chiếu tỏa nơi Người sinh ra. Còn sự tủi nhục nào, còn sự bất hạnh nào dành cho Ngôi Hai Nhập thế nữa hay không?

 

Như vậy, ý nghĩa của đoạn Tin Mừng (Lc 3, 10-18), hôm nay được tạm chia bốn phần:

  • Cải thiện nội tâm là hướng lòng đến bác ái (c 10-14).
  • Dân chúng đang ngóng trông Đấng Cứu Thế, nhưng lầm tưởng Gioan Tẩy giả là Đấng Messia.(c 15)
  • Gioan Tẩy Giả giới thiệu Đấng Cứu Thế cho dân chúng. (c 16a).
  • Thánh Thần và Lửa (c 16 b -17).

 

Như vậy, Thánh Thần là tình yêu và sự tha thứ, còn lửa cũng chính là tình yêu và sự tha thứ, nhưng lửa cũng chính là sự thiêu đốt, sự trừng phạt, một khi không còn xứng đáng để yêu thương. Lại nữa, Thánh Thần chính là chân lý của Thiên Chúa và mở ra chân lý cho nhân loại, để họ nhận biết Ngài. Và một khi cuối cùng ai chối bỏ chân lý, thì sẽ bị ném vào lửa để thiêu đốt.

 

Lạy Chúa Thánh Thần, Ngài là Đấng Thánh hóa muôn loài trong lửa tình yêu và sự tha thứ. Mở ra chân lý để cho con người nhận biết và noi theo. Nhưng cuối cùng, nếu ai chối bỏ thì Ngài sẽ thiêu đốt như rơm rạ. Nguyện xin Ngài thương mở ra cho chúng con biết chân nhận giá trị đích thực của Thiên Chúa. Amen.

 

83.        Chúa Nhật 3 Mùa Vọng

(Suy niệm của Lm. Bùi Trọng Khẩn)

 

VUI TRONG HY VỌNG ĐỢI CHỜ

Thời gian đang đưa chúng ta tới gần lễ Giáng Sinh. Chúng ta đang mong chờ điều này và cảm thấy vui khi được đón mừng lễ Noel. Cả những người khác tôn giáo với chúng ta cũng thấy vui. Nhiều người cứ hỏi sắp tới lễ Noel chưa vậy?

 

Chúa nhật thứ III mùa vọng hôm nay được gọi là Chúa nhật của niềm vui, nên cho phép sử dụng áo màu hồng. Thánh Phaolô nói: “Hãy vui lên, vì Chúa đã đến gần”. Đó là lý do để chúng ta vui. Nhưng nếu chỉ dừng lại ở lời nói, hô hào vui để đón Chúa thì niềm vui ấy chưa trọn vẹn, mau qua, giả tạo, khó đạt được lắm. Niềm vui mà Chúa Giêsu mang đến cho nhân loại là những việc làm cụ thể kiểm chứng được. Đó chính là dấu chỉ về ơn cứu độ mà con người mọi thời hằng khát khao. Lúc ấy ông Gioan đang ngồi tù, liền sai môn đệ đến hỏi Đức Giêsu: Thầy có thật là đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác? Đức Giêsu đã trả lời: các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: người mù xem thấy, kẻ què bước đi, người cùi được sạch, kẻ được nghe được, người chết trỗi dậy, và kẻ nghèo được nghe tin mừng”.

 

Dân chúng đã được thấy, được hưởng những ân phúc của Thiên Chúa qua các phép lạ và công việc phục vụ đồng loại của Chúa Giêsu. Đây là công việc hàng đầu và là sứ mệnh của Chúa Giêsu. Sứ mệnh ấy xuất phát từ Chúa Cha, nay thể hiện qua Chúa Giêsu để cho nhân loại thấy rằng: Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người.

 

Nhưng tại sao trước bao nhiêu phép lạ và công việc phục vụ ấy của Chúa Giêsu mà người ta vẫn không nhận ra Chúa là đấng cứu thế.; thậm chí ông Gioan là kẻ dọn đường cho Chúa đến cũng còn chưa rõ, nên mới sai người đến thăm dò, hỏi han xem Chúa Giêsu có phải là đấng Thiên Sai không, hay chúng tôi còn phải đợi ai khác? Chắc chắn Gioan phải biết rõ hơn về Chúa Giêsu so với người khác. Việc Gioan sai người đi hỏi điều này không có nghĩa là Gioan thiếu hiểu biết về Chúa Giêsu nhưng ông muốn nói cho người khác đặc biệt môn đệ của ông được trực tiếp nghe Chúa Giêsu trả lời mà biết chính xác hơn, không còn mơ hồ, nghi ngờ nữa. Phải nói đây là phương pháp giáo dục rất tài tình và tế nhị của Gioan. Nhờ đó củng cố đức tin cho chúng ta hôm nay nữa. Đúng như thánh Phaolô nói: đức tin có là nhờ nghe, nghe thế nào được nếu không có người rao giảng, rao giảng thế nào được nếu không có ai được sai đi?

 

Gioan Tẩy Giả biết sứ mệnh của mình sắp chấm dứt, vì ông xác định mình chỉ là tiếng kêu trong hoang địa. Ong là tiếng, Đức Giêsu là Lời. Ong là ngọn đèn, Đức Giêsu là ánh sáng. Ong là phù rể, Đức Giêsu là chàng rể. Ong là người dọn đường, Đức Giêsu là con đường. Ong phải mờ nhạt, phải nhỏ bé đi để nhường chỗ cho Đức Giêsu xuất hiện. Quả thật, ông bị ngồi tù và bị chặt đầu đang khi Đức Giêsu rao giảng Tin Mừng cho muôn dân. Thánh Gioan đã không bỏ lỡ cơ hội nào mà không làm chứng cho Đức Giêsu. Dù thuận tiện hay không thuận tiện, Lời Chúa vẫn được rao giảng. Vì làm chứng cho Chúa là một niềm vui, giới thiệu về Chúa là một niềm vui, giới thiệu ơn cứu độ cho người khác là một niềm vui dù bản thân Gioan có phải bị thiệt thòi, tống ngục, bị chặt đầu.

 

Ơn cứu độ của Chúa mang lại niềm vui không chỉ cho con người mà cho cả những loài vô tri vô giác nữa. Isaia mời gọi: “Vui lên nào, hỡi sa mạc, hỡi đồng khô cỏ cháy, vùng đất hoang hãy mừng rỡ, hãy trổ bông, hãy tưng bừng nở hoa nhưu khóm huệ và hân hoan múa nhảy reo hò….” Đúng thế, vì Thiên Chúa cứu độ tất cả mọi loài thụ tạo, nên có lần thánh Phaolô nói: ‘muôn loài thọ tạo đang quằn quại rên xiết chờ ngày được giải thoát’. Riêng con người là loài có ý thức thì nỗi khát khao này càng cháy bỏng, mãnh liệt thiết tha hơn nhiều. Thánh vịnh 145 là lời cầu xin của dân Chúa thốt lên rằng: “Lạy Chúa xin ngự đến mà giải thoát chúng con”.

 

Sau Chúa nhật I Mùa vọng, Gioan Tẩy Giả kêu gọi sám hối, Chúa nhật II kêu gọi dọn đường, Chúa nhật này chúng ta được thấy kết quả của ơn cứu độ là niềm vui cho con người. Quả thật, nếu người ta hưởng ứng theo lời ngôn sứ Gioan rao giảng, thực hành những điều ông dạy là: ai có 2 áo hãy chia cho người không có, ai có cái gì ăn cũng làm như vậy. Đối với người thu thuế thì ông dạy: ‘đừng đòi hỏi quá mức đã ấn định cho mình’. Đối với binh lính thì ông dạy: ‘chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta, hãy an phận với đồng lương của mình'(x. Lc 3,10-18). Những lời đề nghị rất thực tế của Gioan mục đích muốn giải thoát con người tội lỗi khỏi những thứ cồng kềnh, ngổn ngang làm chúng ta quá nặng lòng với trần thế, quá bận tâm với cuộc sống khiến người ta buồn chứ không có niềm vui thật sự. Việc thay đổi tận căn phải phát xuất từ chính cõi lòng mỗi người trước tiên. Có câu tục ngữ nói: “Dù có đi xa vạn dặm mà không chịu thay đổi thì bạn vẫn chỉ là con người cũ, ngược lại ở nhà mà đổi mới là đi rất xa”.

 

Dựa vào Lời Chúa hôm nay, mỗi người kitô hữu chúng ta hãy suy nghĩ mình đang thế nào? Trạng thái tâm hồn có niềm vui của những bon chen, ích kỷ, những toan tính nhỏ nhen, những tham lam bất công, chà đạp, vụ lợi chỉ vì miếng cơm manh áo, chút quyền lợi địa vị; hay là có niềm vui thánh thiện về ơn cứu độ? Mình đang ở trong môi trường thú vui tội lỗi hay môi trường niềm vui đạo đức? Mình đã ăn năn sám hối và dọn lòng tới đâu để chờ đón Chúa Giáng Sinh, đón rước Chúa mỗi lần rước lễ? Sự thật căn bản mà thánh Gioan tông đồ bảo là “Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình và sự thật không ở trong chúng ta. Nếu chúng ta thú nhận tội lỗi, Thiên Chúa là đấng trung thành và công chính sẽ tha tội cho chúng ta”(1Ga 1,8-9).

 

Không có niềm vui nào lớn bằng niềm vui của người tội lỗi được Thiên Chúa tha thứ, được ơn cứu rỗi. Thời gian còn rất vắn vỏi, mỗi người chúng ta hãy tìm cơ hội để thanh toán lương tâm, coi lòng với Chúa trước lễ Giáng Sinh. Vì thế, những ngay cuối cùng còn lại trong Mùa Vọng này chúng ta hãy sống tích cực hơn bằng cách không chỉ dừng lại ở những tâm tình đạo đức, dọn dẹp bên ngoài mà phải biết sám hối tận căn; biết hành động bác ái, chia sẻ phục vụ. Càng chuẩn bị kỹ, tốt thì niềm vui càng tràn đầy. Càng thực hành Lời Chúa, chúng ta càng hạnh phúc, bình an.

 

Chớ gì mọi người luôn có mãi niềm vui Chúa ban để giới thiệu cho những người khác biết về đạo, về Thiên Chúa của chúng ta bằng những hành động yêu thương cụ thể.

 

84.        Chúng tôi phải làm gì?

(Suy niệm của Lm. Luy Phạm Hữu Độ, CRM)

 

Phúc Âm hôm nay viết lại có 3 hạng người đến hỏi thánh Gioan Tẩy Giả cùng một câu hỏi:Vậy chúng tôi phải làm gì? Họ là hạng: dân chúng – thu thuế – quân nhân. Qua câu hỏi đó, chứng tỏ họ tin tưởng ở thánh Gioan và họ muốn sống tốt hơn.

 

Những câu trả lời của thánh Gioan rất thực tế: “Ai có áo, có của ăn hãy chia sẻ cho người không có” (đó là Đức Bái ái). “Đừng đòi hỏi gì quá mức ấn định – Đừng ức hiếp, đừng cáo gian ai” (Đó là đức Công bằng). “Hãy bằng lòng với số lương của mình” (Đó là sự An phận). Thánh Gioan Tẩy Giả chỉ cho họ cách sống để đẹp lòng Thiên Chúa. Nghĩa là đối với tha nhân hãy cư xử Công bằng và Bác ái. Còn đối với chính mình thì hãy Bằng lòng, An phận.

 

Thứ nhất đối với tha nhân

Chúng ta phải Công bằng trước đã rồi mới nói tới Bác ái. Công bằng là “trả cho người ta những gì thuộc về người ta.” Đây là điều hợp với lẽ phải. Ăn cắp, ăn trộm, làm hư hại của cải, mượn rồi không trả, qụyt tiền… là lỗi đức Công bằng. Ngoài ra nói hành, nói xấu, đỗ vạ, cáo gian, vu khống, ức hiếp… cũng là lỗi đức Công bằng. Lỗi công bằng về danh giá thì nặng hơn lỗi công bằng về vật chất vì “hổ chết để da người chết để tiếng”. Mất của cải thì hai bàn tay có thể làm lại được nhưng mất tiếng tốt thì xấu hổ, ô nhục suốt đời. Lỗi công bằng buộc phải đền trả lại bằng tiền của hay bằng lời nói, chữ viết thanh minh cho người ta.

 

Trên sự công bằng đó là đức Bác ái, có nghĩa là mình không lấy gì của người khác nhưng mình còn ban tặng thêm. Bác ái rất rộng rãi, có thể giúp: tiền bạc, thời giờ, sự săn sóc, chỉ bảo, che chở… Bác ái gồm tóm trong kinh thương người có 14 Phúc (Thương xác 7 Phúc, Thương Linh hồn 7 phúc)

 

Thứ hai đối với bản thân mình.

Hãy cố gắng sống An phận. Đừng ngó sang ngườỉ khác để ghen tương, phân bì, so sánh, đừng ao ước viễn vông, giá tôi thế này thế kia. Mỗi người Chúa ban cho những tài năng, sức khoẻ, thời giờ, hoàn cảnh khác nhau để bổ túc cho nhau, xây dựng thế giới này tốt đẹp hơn. Điều đó nằm trong sự quan phòng tuyệt diệu của Thiên Chúa. Đó cũng là dụ ngôn nén bạc Chúa nói trong Phúc Âm, người 10 nén, người 5 nén, người 2 nén…. Hãy an phận với những gì mình có trong tay để hạnh phúc. Điều đó không có nghĩa biến mình thành lười biếng, không trau dồi, không cố gằng thêm. Chỉ muốn nói rằng những gì mình có trong tầm tay không thể thay đổi được thì hãy sống an phận. Đó là bí quyết để có sự bình an.

 

Chúng tôi phải làm gì? Thánh Gioan Tẩy Giả đã trả lời cách đây hơn 2000 năm và câu trả lời đó vẫn còn hiệu quả với chúng ta ngày hôm nay. Hãy Sống Công Bằng, Bác Ái với tha nhân và An Phận với chính mình.

 

85.        Giàu và nghèo

 

Ai có hai áo hãy chia cho người không có và ai dư của ăn, cũng hãy lạm như vậy. Vấn đề lớn nhất của nhân loại hiện nay là vấn đề giàu nghèo. Thực vậy, trên thế giới, có những nước quá giàu, lại có những nước quá nghèo. Có những người quá dư thừa tiền của, lại có những người quá thiếu thốn. Người giàu thì ít mà kẻ nghèo thì nhiều. Người giàu chỉ là thiều số, nhưng lại chiếm giữ đa số của cải. Ba mươi phần trăm người giàu ngồi hưởng tụ tới tám chín, mươi phần trăm lợi tức của toàn thế giới. Còn bảy mươi phần trăn kẻ nghèo thì lại cứ nghèo thêm. Cái nghèo lại khoét sâu vào cái nghèo.

 

Nghèo khó chính là mặt trái của cuộc đời, từ đó nảy sinh biết bao nhiêu điều xấu xa:

Bần cùng sinh đạo tặc.

Đói ăn vụng, túng làm liều.

 

Nghèo túng không phải là một tội, nhưng là một nỗi lo âu triền miên, nó làm cho con người không còn nhân phẩm, không còn là người nữa. Mà còn gì nữa đâu, vì nó đã cướp đi những đặc tính cao đẹp của con người. Nó làm cho con người trở thành ghen tương và đố kỵ, chia rẽ và bạo động, phản bội và lừa đảo, bệnh tật và chết chóc. Từ chỗ thù hận, con người đối xử với nhau như một loài lang sói cũng chỉ vì miếng ăn.

 

Hơn thế nữa, nghèo túng còn làm cho người ta coi nhẹ phần linh hồn, để rồi quì gối thờ lạy con bò vàng, hầu kiếm lấy cho mình chút lợi lộc. Vì đồng tiền, người ta sẵn sàng bán rẻ lương tâm và phẩm giá của mình. Người ta sẵn sàng cưỡi lạc đà chui qua lỗ kim và nuốt trửng gia tài của những bà góa. Nghèo túng thì chẳng ai ưa, còn giàu sang thì ai cũng muốn. Nhưng với Chúa Giêsu thì khác. Ngài đã từ giã cõi trời cao sang để đến với chúng ta nơi máng cỏ Bêlem nghèo túng. Ba mươi năm tại Nagiarét là ba mươi năm lao động cực nhọc, ba mươi năm lam lũ đổ mồ hôi nước mắt với nghề thợ mộc. Trong hoang địa, ma quỉ đã cám dỗ Chúa về mộng ước giàu sang, nhưng Ngài đã xua đuổi. Quãng đời loan báo Tin mừng là cả một quãng đời vất vưởng lầm than, không có lấy một chỗ để tựa đầu. Sau cùng, Ngài đã chết một cái chết tủi nực và trơ trụi trên thập giá. Và ngay cả mấm mồ, nơi an nghỉ cuối cùng, cũng chỉ là một nấm mồ đi mượn của người khác mà thôi.

 

Giáo lý của Ngài cũng là giáo lý dành cho những kẻ khó nghèo và thực tế, kẻ nghèo đã đón nhận bản thân và những lời giảng dạy của Ngài. Thực vậy, Ngài đã phán: “Không thể làm tôi hai chủ, vì nếu mến chủ này thì sẽ ghét chủ kia. Cũng vậy, không thể vừa làm tôi Thiên Chúa lại vừa làm tôi tiền của được… Kho tàng ở đâu thì lòng các ngươi cũng ở đó… Được lời lãi cả thế gian, mà mất linh hồn thì nào có ích lợi chi… Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Trời…”

 

Vì thế, chúng ta hiểu được tại sao Ngài lại chúc phúc cho những kẻ nghèo túng. Họ là những người có tấm lòng từ bỏ để tuân theo ý Chúa vì mọi sự trần gian sẽ qua đi, của cải đã từng nhiều phen làm mồi cho rỉ sét, cho mối mọt, chứ chưa cần tới đời sau. Tục Ngữ VN đã bảo:

Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy,

Cảnh phù du trông thấy cũng nực cười.

 

Vậy tại sao không cố gắng sắm cho mình của cải vĩnh cửu? Không ai trong chúng ta chịu bỏ tiền ra đều mua đồ dổm hay đồ giả, thì tạo sao trong lãnh vực thiêng liêng, chúng ta không sắm cho mình đồ tốt, đồ thật, tức là niềm hạnh phúc Nước trời và cuộc sống vĩnh cửu. Vàng bạc và của cải trần gian so với hạnh phúc Nước trời chỉ là sự phù vân giả trá mà thôi. Vậy để chiếm hữu Nước trời, chúng ta phải làm gì? Tôi xin thưa: “Phải nhường cơm sẻ áo cho nhau, lá lành đùm lá rách, như lời Gioan Tiền hô khuyên nhủ”.

 

Chúng ta hãy nhớ rằng: được giúp đỡ người khác là một đặc ân Chúa ban cho chúng ta, vì cho đi thì hạnh phúc hơn là nhận lãnh. Bàn tay tặng đóa hồng bao giờ cũng còn phải phất hương thơm và người làm phúc bố thí sẽ không bao giờ nghèo. Hơn thế nữa, khi giúp đỡ người khác là chúng ta giúp đỡ cho Chúa cũng như giúp đỡ cho chính bản thân mình.

 

86.        Hãy vui lên

 

Giáo Hội vào ngày Chúa nhật 3 Mùa vọng mời gọi tất cả con cái mình cử hành Bí tích Thánh Thể trong tinh thần vui mừng hân hoan: “Hãy vui lên, vì Thiên Chúa ngự đến. Hãy vui lên, vì ngày cứu rỗi chúng ta đã đến, ơn cứu rỗi chúng ta đã được thực hiện”.

Niềm vui mà Giáo Hội mời gọi chúng ta sống trong những ngày này không phải là niềm vui vật chất như treo đèn ngôi sao, dọn hang đá, chuẩn bị quà cáp, mua sắm thức ăn chuẩn bị mừng lễ Giáng sinh theo tinh thần trần tục. Niềm vui mà Giáo Hội mời gọi mỗi người chúng ta sống trong những ngày này là một niềm vui khác, niềm vui thánh thiêng, niềm vui Thiên Chúa ban cho con người biết cộng tác với ơn thánh của Ngài.

Bài đọc 1 của Chúa nhật 3 mùa vọng hôm nay được trích từ sách tiên tri Sôphônia, gợi lên cho chúng ta ba lý do căn bản của niềm vui thánh thiêng này.

 

Lý do thứ nhất: Hãy vui lên, vì Thiên Chúa đã thương tha thứ tội lỗi cho con người. Ngài tha thứ tội lỗi không phải là vì chúng ta đã lập công nên đáng được như vậy, nhưng vì sáng kiến tình thương của Ngài: “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi sai Con Một của mình xuống để cứu rỗi thế gian, để ai tin vào Ngài thì sẽ được ơn cứu rỗi”. Đó là niềm vui đầu tiên của niềm vui Kitô, Thiên Chúa đã thương tha thứ tội lỗi của chúng ta.

 

Lý do thứ hai: Hãy vui lên, vì Thiên Chúa đến ngự giữa con người, Ngài đến hiện diện với con người, sống với con người: “Thiên Chúa đã làm người và sống giữa chúng ta”. Trong Kinh Thánh, quan niệm Thiên Chúa sống giữa con người, trước hết biểu lộ tình thương đặc biệt của Thiên Chúa, Ngài muốn đối thoại với con người liên lỉ để hướng dẫn con người sống theo chương trình của Ngài, chu toàn sứ mạng của mình. Niềm vui đó Chúa Kitô Phục sinh đã trao ban cho các tông đồ khi Chúa phán: “Các con đừng sợ, hãy đi rao giảng Tin Mừng khắp thế gian. Này đây Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”. Niềm vui được loan báo trong Cựu ước nơi tiên tri Sôphônia đã được thực hiện nơi Chúa Giêsu Kitô và đã được trao ban cho con người.

 

Lý do thứ ba của niềm vui Kitô gồm tóm hai lý do trên: Hãy vui lên, vì Thiên Chúa yêu thương con người. Con người tội lỗi, có những tật xấu, nhưng Thiên Chúa vẫn yêu thương con người và mời gọi con người canh tân đời sống: “Hãy ăn năn thống hối và tin vào Tin Mừng”.

 

Chúng ta lắng nghe lời mời gọi của thánh Gioan tiền hô được nhắc đến trong Phúc âm hôm nay để trở về với Thiên Chúa, để sống trong niềm vui. Người Kitô là kẻ sống trong niềm vui, sống với tin vui mừng, đó là Thiên Chúa yêu thương con người, Thiên Chúa yêu thương mỗi người chúng ta.

Victofrans là một nhà phân tâm học người Do thái, khi thế chiến thứ hai bùng nổ, ông bị Đức Quốc Xã đưa vào trại tập trung, được thoát chết, ông đã viết lại tập sách có tựa đề là: “Con Người Đi Tìm Ý Nghĩa Sống” để kể lại tất cả những nỗi khổ mà những người Do thái phải chịu trong trại tập trung. Một trong những đau khổ nặng nề nhất là phải sống trong đợi chờ; đợi chờ để biết số phận của những người thân yêu bị lạc mất, đợi chờ để biết số phận của chính mình sẽ ra sao, đợi chờ để được cứu thoát.

Những người Do thái thời Chúa Giêsu và có thể chúng ta ngày hôm nay có lẽ cũng rơi vào đau khổ đợi chờ này. Những người Do thái đợi chờ Đấng được giải phóng đến giải thoát họ khỏi sự thống trị của đế quốc Rôma, và một khi phải đợi chờ mãi nhiều người mất đi hy vọng, niềm tin và niềm an vui. Họ đợi chờ và không làm gì cả, đợi chờ trong thụ động, đợi chờ trong sự trốn chạy trách nhiệm phải dấn thân.

Giáo Hội vào ngày Chúa nhật 3 mùa vọng mời gọi chúng ta hãy đợi chờ trong niềm vui, trong niềm tin, trong niềm hy vọng, chắc chắn được Chúa đến giải thoát tội lỗi. Sự thật thì Chúa đã đến rồi trong lịch sử, trong tâm hồn của biết bao anh chị em chúng ta đã sẵn sàng đón nhận Ngài. Nhưng có thể đối với chúng ta thì Chúa chưa đến, vì tâm hồn chúng ta không còn chỗ trống dành cho Người, vì chúng ta chưa sẵn sàng thay đổi đời sống nên cứ sống trong lo âu khắc khoải không biết mình chờ đợi gì? Chờ đợi tương lai sẽ về đâu?

Chúng ta đừng sợ Thiên Chúa, đừng sợ và hãy vui lên, đó là mệnh lệnh của Thiên Chúa cho con người trong suốt lịch sử. Đừng sợ và hãy vui lên, đó là lời kêu gọi của Thiên Chúa gởi đến cho con người, trong đó được tóm gọn trọn cả tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người, tóm gọn cả lịch sử cứu rỗi Cựu và Tân ước. Đừng sợ và hãy vui lên, đây là hai khía cạnh của cùng một thực tại ơn cứu rỗi. Đừng sợ và hãy vui lên, vì Thiên Chúa ngự đến sống với và sống trong con người. Đừng sợ và hãy vui lên, vì Thiên Chúa đang chờ chúng ta đến với Ngài. Tương lai của đời người và lịch sử chắc chắn sẽ qui về Ngài, vì Ngài là khởi đầu và cùng đích của mọi sự.

Lắng nghe lời mời gọi của Thiên Chúa, chúng ta có thể đặt ra câu hỏi: Tôi phải làm gì bây giờ? Gioan tẩy giả đã trả lời mà nội dung chính có thể được tóm gọn lại trong công thức chính Chúa Giêsu đã nói lên: Hãy ăn năn thống hối và tin vào Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô”.

 

87.        Vui mừng

 

Những kẻ chán ngán bởi quảng cáo rầm rộ có thể nghĩ rằng sứ điệp của thánh Phaolô chỉ hỗ trợ thêm cho sự lạm phát lời nói của những phương tiện truyền thông xã hội mà thôi.

Chúng ta được tạo dựng nên để tham dự vào niềm vui muôn thuở của Thiên Chúa, và theo lời Chúa Giêsu, niềm vui này đã được ban cho chúng ta rồi. Chúng ta phải khám phá ra nó, đón nhận nó và trung thành với nó. Phụng vụ Chúa nhật mùa vọng hôm nay là một bài học về niềm vui thực sự, niềm vui sâu xa và chân chính vốn là hồng ân của Chúa.

Người ta có thể vui mừng vì những gì mình đã tránh được: một tai nạn xe hơi, một cuộc gặp gỡ khó chịu, một cuộc đình công, chi phí thêm vào việc sửa nhà; người ta cũng có thể vui mừng vì những gì xảy đến: một người bạn mới, một chuyến du lịch tốt đẹp, kết quả khám sức khỏe đầy khích lệ, một đứa con đã chờ đợi từ lâu. Mọi sự xảy ra như thể niềm vui tùy thuộc vào phẩm chất của cách thức hiện diện mà ta thiết lập với những con người và sự vật. Có những hình thức hiện diện áp bức, phá hại niềm vui, và những hình thức khác làm nảy sinh một niềm vui luôn luôn mới mẻ.

Niềm vui của các Kitô hữu nảy sinh từ một sự hiện diện như thế: Sự hiện diện của Thiên Chúa! “Thiên Chúa, Chúa ngươi ở nơi ngươi… nơi ngươi Ngài tìm được niềm vui và sự hân hoan (Bài đọc ngôn sứ Sôphônia). Và thánh Phaolô phụ họa theo: “Chúa đến gần rồi!” Ngài như là một ai đang đến, nhưng Ngài là Đấng hiện diện cách thực tại đến nỗi người ta phải nói rằng Ngài “gần bên ta”, như vợ chồng ở bên nhau, như con cái gần gũi cha mẹ, như bạn bè quây quần sum họp.

Chúa hiện diện. Ngài là Đấng biết ta, chăm sóc ta, can thiệp để tha thứ và cứu độ ta. Ngài là Đấng mời gọi, chờ đợi, an ủi và làm cho ta sống động. Kinh nghiệm về niềm vui của những kẻ tin là như thế.

Nếu niềm vui nảy sinh nơi chúng ta do sự hiện diện của Chúa, thì ta phải để nó xâm chiếm mình, sống nơi mình, và biểu lộ trước mặt mọi người. Như thế không có nghĩa là ta được kẻ khác chú ý bởi một niềm phấn khởi tràn trề và không thể thắng được, bởi một sự lạc quan quá đáng hoặc bởi những câu hát tiếng cười vang lên từ đầu đường đến cuối phố.

Thánh Phaolô nói về sự thanh thản. Các Kitô hữu biểu lộ niềm vui sâu xa của mình bằng thanh thản, tính cao thượng của tâm hồn và sự bình an.

Khi nhìn xung quanh chúng ta hoặc xa hơn một chút, khi đọc lại tờ báo cuối tuần, ta khó mà nhận ra được những cách sống thanh thản. Những người tưởng mình thanh thản lại giống như kẻ lãnh đạm, vô cảm hoặc không dám dấn thân vào cuộc sống. Nhưng môn đệ của Chúa Giêsu phải được định nghĩa như một người dấn thân đến cùng trong thế giới này và trong lịch sử của nó, bởi vì với Chúa Kitô mọi sự đều trở nên mới mẻ, mọi sự đang thay đổi nhờ sự hiện diện của Ngài, và trong Ngài mọi sự vươn lên hướng tới chỗ hoàn tất.

Thanh thản là nghệ thuật sống đặc sắc của môn đệ Chúa Giêsu. Họ không sợ đời, vì họ biết rằng Chúa của họ đang hiện diện và đang hoạt động. Họ biết rằng bên dưới những biến cố rất huyền nhiệm của cuộc sống đời này, sự gặp gỡ tuyệt vời giữa Chúa và dân Ngài đang được chuẩn bị. Họ chắc chắn rằng mọi sự sẽ được hoàn tất bởi vì, trong Chúa Kitô, mọi sự đã được ban cho chúng ta rồi.

Cũng như chúng ta, các Kitô hữu được thánh Phaolô viết bức thư mà chúng ta vừa nghe đọc lại một đoạn, có nhiều lý do để lo lắng. Thánh Phaolô mời gọi họ hãy can đảm lên và hãy sống vui vẻ. Không phải là nuôi những giấc mộng hão huyền đâu. Nhưng là sống. Sống mỗi ngày trong sự thanh thản biểu lộ niềm vui mà sự hiện diện của Chúa làm nảy sinh nơi chúng ta.

 

 

88.        “Chúng tôi phải làm gì?”

(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)

 

“Chúng tôi phải làm gì?”.

Đây là câu hỏi các nhà sản xuất chế tạo thường xuyên đặt ra với sản phẩm của mình: Tôi phải làm gì… để cải tiến công nghệ… để nâng cao chất lượng hàng hoá? Kết quả là họ đã thực hiện được vô vàn cải tiến trong rất nhiều lãnh vực, từ máy bay siêu thanh khổng lồ cho đến những con chíp nhỏ xíu, tất cả đều được cải tiến nhanh chóng phi thường. Không chỉ trong lãnh vực công nghệ lớn lao mà ngay cả trong các mặt hàng tiêu dùng nhỏ mọn hằng ngày như cái chổi lau nhà, cái thùng rác nằm trong xó bếp, cũng luôn được cải tiến. Nói chung, tất cả mọi sản phẩm do con người làm ra, từ những sản phẩm lớn lao đồ sộ cho đến những thứ ti tiểu như cái chổi quét nhà… cũng đều được cải tiến từng giờ từng phút!

 

Một đất nước phát triển là nhờ kết quả của những việc làm cụ thể.

Tôi vừa đọc trên fb Đỗ Ngọc Thống có bài viết “Thưa Thủ Tướng”. Hôm qua 8/12, Thủ tướng làm việc với tỉnh Đắk Lắk (vtc.vn/thu-tuong-dak-lak-thieu-qua-dam-thep), tại đây ông phát hiện tỉnh này còn thiếu “quả đấm thép”. Tôi đọc thấy băn khoăn, bạn tôi bảo: Có thể Thủ tướng quen nói kiểu ấy rồi và hình như không ai góp ý với ông về cách phát biểu như thế.

 

Rồi cậu ấy dẫn ra hàng loạt câu nói tương tự của Thủ tướng khi đến các tỉnh như: “Thanh Hoá là một Việt Nam thu nhỏ”, “Phú Yên là cô gái đẹp đang ngủ quên”, “Khánh Hoà phải là hình mẫu của một chính quyền đối thoại”, “Bắc Ninh phải là thủ phủ sản xuất điện tử sáng tạo của châu Á và thế giới”, “Bình Phước phải là thủ phủ của nông-công nghiệp cao”, “Ninh Bình phải thành một trung tâm du lịch tầm cỡ quốc tế”, “Bình Thuận phải trở thành trung tâm năng lượng sạch”, “Hà Nội phải là trung tâm khởi nghiệp sáng tạo”, “Thành phố Hồ Chí Minh phải là hòn ngọc chiếu sáng Viễn Đông”, “Đà Nẵng phải là thành phố độc đáo, độc nhất vô nhị trên toàn thế giới”, “Sóc Trăng phải là kho chứa bạc của các nhà đầu tư”, “Ninh Thuận là Tây Á thu nhỏ”,… Ví von nhiều quá nên dễ lặp, có đến mấy tỉnh: Hải Phòng, Long An, Vĩnh Phúc, Quảng Ninh, Cần Thơ, Bình Dương… đều “phải trở thành đầu tàu kinh tế”. Rồi Thủ tướng lại nói: “Nghệ An phải là vùng đất khởi nghiệp và thu hút nhân tài”, thế chẳng lẽ các tỉnh khác không phải thế?…

 

Kính thưa Thủ tướng!

Xưa nay các đấng quân vương, các vị đứng đầu quốc gia đều trị vì, lãnh đạo, điều hành đất nước bằng luật pháp và chính sách, bằng những chủ trương và các giải pháp rất cụ thể. Không ai chỉ nói hay, nói giỏi mà đất nước đi lên cả. Cũng có tuyên ngôn, nhưng rất ít và chỉ nói trong những dịp “quốc gia đại sự” để giữ được sự trang trọng, thiêng liêng. Cái chính là phải hành động.

 

Đức Thánh Trần từng răn: “cựa gà trống không thể đâm thủng áo giáp của giặc; mẹo cờ bạc không thể dùng làm mưu lược nhà binh… tiếng hát hay không thể làm cho giặc điếc tai”. Ông Mác cũng đã cảnh báo: “Vũ khí phê phán không thể thay thế được sự phê phán bằng vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất”. Vì thế chính phủ kiến tạo và hành động của Thủ tướng chủ yếu là phải làm, phải thực thi quyết sách một cách quyết liệt; không chỉ tuyên bố; không nên tuyên ngôn nhiều. Bằng việc làm, bằng những minh chứng thật sự về thành quả phát triển của đất nước trên mọi phương diện, làm cho mong ước của Ức Trai xưa: “khắp nơi thôn cùng, xóm vắng không có tiếng oán hận, sầu than” trở thành hiện thực mới là gốc của mọi niềm tin.

 

Tôi chỉ là một lương dân, xin thành thực góp ý với Thủ tướng. Tôi nếu có nói sai chỉ ảnh hưởng đến mình tôi, còn Thủ tướng nếu nói dở sẽ ảnh hưởng tới cả đất nước, buồn cười cho cả đất nước. Báo chí cũng đừng vì nịnh nọt mà giật những tít bài màu mè, thớ lợ; tưởng đề cao hóa ra lại hạ thấp Thủ tướng.  Cũng biết “trung ngôn nghịch nhĩ”, nhưng vì trân trọng Thủ tướng mà đành phải nói đôi lời. (Hà Nội 9-12, Đỗ Ngọc Thống).

***

Tác giả nói thật đúng: Bằng việc làm, bằng những minh chứng thật sự về thành quả phát triển của đất nước.

 

Chúa Giêsu đã từng dạy rằng: “Đức Khôn Ngoan được chứng minh bằng hành động” (Mt 11,19). Đức Khôn Ngoan được chứng minh bằng việc làm, để biết ý nào là ý khôn ngoan, cần phải nhìn vào kết quả cụ thể. Sứ điệp Chúa Nhật II, Gioan Tẩy Giả kêu gọi dân chúng sám hối dọn con đường tâm hồn. Chúa Nhật III, Tin Mừng kể chuyện, lời của Gioan đạt kết quả cụ thể là có nhiều người phục thiện, sẵn sàng cải đổi nếp sống cũ. Nhiều người đến xin Gioan những lời khuyên thiết thực: “Chúng tôi phải làm gì đây?”. Họ xin ngài chỉ dẫn cách phải sống và việc phải làm.Tùy từng người mà Gioan khuyên bảo cụ thể:

  • Đối với dân chúng: “Ai có hai áo, hãy cho người không có, ai có của ăn cũng hãy làm như vậy”.
  • Đối với người thu thuế: “Các ngươi đừng đòi gì quá mức đã ấn định cho các ngươi”.
  • Đối với các quân nhân: “Đừng ức hiếp ai, đừng cáo gian ai, các ngươi hãy bằng lòng với số lương của mình”.

Các lời khuyên của Gioan khuyến khích mọi người thực hiện công bằng và bác ái. Công bằng là sống đúng luật pháp: “Đừng đòi hỏi quá mức ấn định”; “Chớ dùng vũ lực, cũng đừng vu khống mà tống tiền người ta”. Bác ái là chia sẻ: “Ai có hai áo, thì chia cho người không có, ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy”.

 

Thánh Gioan rất thực tế và có những giải pháp thích ứng với từng hoàn cảnh, từng hạng người. Gioan không bảo mọi người hãy sống như ngài hoặc gia nhập nhóm của ngài. Gioan không yêu cầu ai phải làm gì khác thường, cũng không đòi hỏi họ phải đổi nghề nghiệp hay đổi chỗ ở, nhưng ngài khuyên: dù ở hoàn cảnh nào cũng phải biết thắng dẹp tính vị kỷ, bằng cách làm việc bác ái, chia sớt với anh em mình, đó là cách sám hối tốt nhất. Gioan khuyên họ phải bằng việc làm cụ thể mới trở thành người biết yêu thương và đáng mến.

 

“Chúng tôi phải làm gì?”.

Dân chúng hỏi Gioan Tẩy Giả ở bờ sông Giođan. Sau lễ Hiện Xuống, đám đông cũng đặt câu hỏi ấy với thánh Phêrô: “Chúng tôi phải làm gì?”. Đó cũng là một cách nhắc lại rằng, đức tin phải thực tiễn và sống động. Chúa Giêsu dạy: “Không phải những người nói lạy Chúa, lạy Chúa mà được vào Nước Trời đâu, nhưng là những người thực hiện ý muốn của Cha Ta” (Mt 7,21). Ngài luôn đòi hỏi bằng việc làm cụ thể: “Đức Giêsu vừa lên đường, thì có một người chạy đến, quỳ xuống trước mặt Người và hỏi: Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp? Đức Giêsu đáp: Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi”. (x.Mc 10, 17-27). Người nghe mà không làm thì giống như người xây nhà không nền móng (Lc 6,49).Trong cuộc đối thoại với một luật sĩ, Ðức Giêsu đã bảo ông: “Hãy làm như vậy và ông sẽ được sống” (Lc 10,28). Sau dụ ngôn người Samaria nhân hậu, Ngài còn dặn ông: “Hãy đi và làm như vậy” (Lc 10,37).

 

“Lạy Chúa, con phải làm gì?”.

Đây là câu nói đầu tiên của thánh Phaolô sau cú ngã ngựa trên đường đi Đamát (x.Cv 9,1-19). Phaolô được biến đổi và trở thành vị Tông đồ chuyên lo rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại. Từ đây cuộc đời của thánh nhân đã viết nên thiên anh hùng ca, sống và chết cho Đức Kitô.

 

Đối với chúng ta ngày nay, lời khuyên của thánh Gioan rất thiết thực trong những ngày chờ đón Chúa giáng sinh. Mỗi người hãy tự đặt câu hỏi: “Còn tôi, tôi phải làm gì?”. Cách trả lời của Gioan còn nguyên giá trị: mỗi người hãy sống đúng cương vị của mình, hãy hoàn thành trách nhiệm của mình, hãy thực thi tình bác ái huynh đệ và sống trong tương giao tốt đẹp với mọi người. Gioan không đòi những điều kì diệu, nhưng rất đơn giản và thực tế. Người dấn thân phục vụ thì sống đời tận hiến.Người có gia đình được mời gọi sống yêu thương, trung thành. Người thương gia ngay thẳng, người quản lý tín trung. Người làm công chu toàn bổn phận, người chủ quảng đại khoan dung. Người có hai áo thì chia cho người không có áo mặc. Người có quyền thì yêu thương đùm bọc kẻ dưới. Ai nấy sống đúng chức phận của mình trong công lý và tình yêu.

 

Có một cuộc đối thoại độc đáo giữa một người Tân tòng và một người chưa có niềm tin như sau:

  • Anh đã theo đạo Công giáo rồi sao?
  • Vâng, nói đúng hơn là tôi theo Đức Kitô.
  • Vậy xin hỏi anh, Ông Giêsu sinh ra ở quốc gia nào?
  • Rất tiếc là tôi quên mất chi tiết này.
  • Thế khi chết ông ta được bao nhiêu tuổi?
  • Tôi cũng nhớ không rõ nên chẳng dám nói.
  • Vậy ông ta đã thuyết giảng bao nhiêu bài?
  • Tôi không biết.
  • Quả thật anh biết quá ít, quá mơ hồ để có thể quả quyết là anh đã theo đạo.

 

Anh nói đúng một phần. Tôi rất hổ thẹn vì mình đã biết quá ít về Đức Kitô. Thế nhưng điều mà tôi biết rất rõ là thế này: Ba năm trước tôi là một người nghiện rượu sáng say chiều xỉn, nợ lút đầu lút cổ, gia đình tôi xuống dốc trầm trọng, bao nhiêu của cải tôi đều nướng vào các cuộc men say tuý luý. Mỗi tối, khi trở về nhà, vợ con tôi đều tức giận, buồn tủi và xấu hổ.Thế mà bây giờ tôi đã dứt khoát bỏ rượu và đã cố gắng trả được hết nợ, gia đình tôi đã tìm lại được hạnh phúc. Vợ tôi, các con tôi ngóng trông và vui mừng đón đợi tôi sau khi tôi đi làm về. Những điều này, không ai khác hơn chính là Đức Kitô đã làm cho tôi và đó là tất cả những gì tôi biết về Người.

 

“Chúng tôi phải làm gì?“.

Mùa Vọng này, mong sao những thao thức sẽ biến thành việc làm cụ thể.

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết hỏi, để được nghe câu trả lời: “Hãy chia cơm sẻ áo, đừng hà hiếp anh em, vui lòng sống hiện tại, tôn trọng lẽ công bằng”.

 

Lạy Chúa, chúng con đang tiến gần đến niềm vui mừng ngày Con Chúa giáng trần. Như xưa dân chúng đã khiêm tốn và thành tâm đón nhận lời mời gọi sám sối của Gioan Tẩy Giả, xin cho chúng con giờ đây cũng biết tích cực cải thiện đời sống bằng việc làm cụ thể và cùng giúp nhau chuẩn bị tâm hồn đón Chúa đến trong công bình và yêu thương. Amen.

 

89.        Chúa Nhật 3 Mùa Vọng

(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê)

 

ANH EM HÃY VUI LÊN VÌ CHÚA ĐÃ ĐẾN GẦN

 

Kính thưa quý cố ông bà và anh chị em,

Trong cuộc sống có nhiều biến cố chúng ta chờ đợi. Có thể phân chia sự chờ đợi bằng hai loại đối nghịch nhau:

Một là: chờ đợi trong đau buồn, sợ hãi run rẩy như tai họa đến từ thiên nhiên: động đất, sóng thần, bão tố, lụt lội, những hung tin thể lý: bạo bệnh, covid-19, tai nạn, tù tội, chết chóc… Chắc chắn nó sẽ đến, dù không ai muốn. Chờ, nhưng không mong, bởi vì nó là sự dữ phá hoại cuộc đời, giả như nó không đến thì tốt đẹp biết bao.

Hai là: chờ đợi một tin vui, một lời hứa, một con người đức cao vọng trọng, đến để chữa lành, để ban tặng bình an, để giải phóng khỏi kiếp tôi đòi, nô lệ, giải phóng tội lỗi, hận thù và sự chết. Chờ và rất mong, thấp thỏm trong niềm hy vọng biến cố đến càng sớm càng tốt.

Kinh nghiệm dân Chúa thời cựu ước chờ đợi lời hứa cứu độ, chờ đợi Đấng thiên sai, cháy bỏng, được diễn tả bằng những hình ảnh thật khẩn thiết, như nai mong nước nguồn, tuần phiên mong trời sáng, đất khô mong mưa xuống.

Đấng cứu thế sẽ xé trời ngự xuống, để mắt người mù được nhìn xem, tai người điếc được nghe, người què được nhẩy nhót, tội lỗi được thứ tha, hòa giải, tử thần bị chôn vùi trong sự sồng muôn đời.

Niềm khát mong chờ đợi ấy được Thiên Chúa hứa và người sẽ thực hiện, khởi sự bằng việc khơi niềm hy vọng và thanh luyện con tim, để thời viên mãn tới, Thiên Chúa sai “Con Một Người” sinh làm con một người phụ nữ, sống dưới lề luật để giải phóng những kẻ ở trong lề luật.

Vị cứu tinh muôn dân mong đợi không ai khác hơn là Chúa Giê-su, Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể làm người, đến ở giữa và ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế.

Các ngôn sứ loan báo ngày Người xuất hiện, đi kèm với việc hoán cải canh tân cách tích cực, để xứng đáng đón rước người vào nhà chúng ta. Niềm vui trọng đại, con tim rộn ràng, lễ hội tưng bừng, đón chào Chúa đến. Ngài thực hiện những việc vĩ đại, diệu kỳ, trí khôn, sức lực con người không bao giờ dám nghĩ tới: khơi kênh rạch giữa miền sa mạc, đào hồ nước trên đỉnh núi cao, đắp những con đường giữa các đại dưỡng.

Những hình ảnh đó được ứng nghiệm nơi Chúa Giê-su. Chúa đã làm tất cả những việc kỳ diệu ấy và còn hơn thế nữa: giao hòa thế gian, tháp nhập nhân loại vào thân mình mầu nhiệm Chúa, tha thứ tội lỗi nhân gian, phục sinh kẻ chết… Đó là những việc kỳ diệu Chúa đã làm.

Vậy nên, ngày Người đến không vui sao được!

Thánh Phao-lô Tông Đồ nhắc chúng ta: anh em hãy vui lên, vui luôn mãi, vì Chúa đã đến gần!

Bài đọc I, trích sách ngôn sứ Sophonia, nhắc dân phải vui lên, vì mọi đau khổ họ đang phải gánh chịu đã được Chúa cất đi, án lệnh phạt tội cũng đã được rút lại, quân thù đã bị đẩy xa, đừng thất vọng buồn phiền, vì Chúa đã ban ơn nhiều gấp hai lần tội lỗi.

Vị vua muôn dân mong đợi là đấng thánh, trong triều đại người sẽ chẳng còn tai ương đe dọa, người sẽ lấy tình thương mà cai trị, ơn thái bình và nguồn phú túc sẽ chảy về như thác lũ.

Bài Tin Mừng tập chú nơi Gio-an Tiền Hô. Ông chỉ cho dân cách thức dọn lòng đón Chúa. Mỗi người đều được chỉ rõ một việc phải làm, phù hợp hoàn cảnh của mình: bác ái, sẻ chia tùy hoàn cảnh, khả năng ; thực thi công bình, trung thực; không o ép hà hiếp người bé nhỏ, nghèo hèn.

Khi dân tỏ lòng sám hối, ăn năn, ông đã lấy nước làm phép rửa cho họ như một dấu chỉ sám hối, nhưng dân còn phải chờ phép rửa của Đấng đang đến. Người rửa con người trong Thánh Thần, nghĩa là: trong sự chết và sự phục sinh của người.

Phép rửa Giê-su thực hiện cho phép chúng ta hiệp thông với ơn cứu chuộc, tháp nhập chúng ta vào thân mình Người, để được thông hiệp vào sự sống thần linh sự sống muôn đời. Đó chính là lý do khiến chúng ta vui mừng hoan hỉ cử hành ngày Chúa ngự đến.

Thánh Phao-lô, trong bài đọc II, khuyến khích cộng đoàn hãy vui luôn vì Chúa đã gần đến. Việc Người đến là “mầu nhiệm”, vì tính bất ngờ về nơi chốn và thời gian. Chúng ta sẽ không phải sợ hãi, run rẩy, vì Chúa là tình yêu.

Nếu chúng ta kiên trì trong đức tin, cậy, mến, thì hầu chắc thuộc hàng đầy tớ tỉnh thức và khôn ngoan, đáng được hưởng phần phúc của kẻ khôn ngoan.

Nếu chúng ta biết sẻ chia trong tình yêu chân thật, chúng ta sẽ dẫy tràn niềm vui khi Chúa đến, vì lời hứa Chúa dành cho người môn đệ sống tinh thần bác ái kitô sẽ là hạnh phúc Nước Trời.

 

Thưa anh chị em,

Vui lên vì Chúa đã gần đến phải đi đôi với một lối sống hiền hòa rộng rãi, một tinh thần cậy trông phó thác “đừng sợ hãi”. Kitô hữu tốt phải là người biết đọc ra ý Chúa trong mọi hoàn cảnh, luôn sống tinh thần cầu nguyện, van xin và tạ ơn. Để được như vậy, người môn đệ phải luôn phó thác tất cả trong tay Chúa với một xác tín vững vàng như thánh Phao-lô: “Tôi có thể làm được tất cả trong Đấng ban sức mạnh cho tôi” (Pl 4, 13). Niềm vui sẽ ngập tràn, mới mẻ, vì biết rằng Chúa gần đến.

 

Xin Chúa thương nâng đỡ và chúc lành cho mỗi người chúng ta! Amen.

 

90.        Hy vọng

 

Chủ đề chính của Phụng vụ Chúa nhật hôm nay là Vui Mừng và Hy Vọng. Đất Israel thời tiên tri Sophonia luôn bị đe dọa bởi sự xâm lược của ngoại bang. Vì thế có nhiều bất ổn, chinh chiến loạn lạc, thành thánh Giêrusalem bị dày xéo và dân bị bắt đi lưu đày. Đó chính là hậu quả của việc bất trung với Thiên Chúa. Nhưng dầu sống trong cảnh đau thương, tiên tri Sophonia vẫn tin tưởng mạnh mẽ vào Thiên Chúa. Một Thiên Chúa mà theo ông là Thiên Chúa đầy tình yêu thương và tha thứ. Người không ruồng bỏ, nhưng sẽ giải thoát, sẽ đẩy xa mọi nỗi sợ hãi, mọi tai ương khỏi dân Người. Chính trong niềm tin tưởng ấy, mà tiên tri đã kêu gọi: “Hãy vui lên, hỡi thiếu nữ Sion. Hỡi Israel, hãy vui mừng lên, vì Thiên Chúa đang ở giữa ngươi. Người là Đấng cứu tinh oai hùng, sẽ lấy tình thương mà đổi mới các ngươi”.

 

Rồi bằng chính kinh nghiệm bản thân, thánh Phao lô cũng đã cảm nghiệm rất rõ ràng Thiên Chúa là Đấng Cứu độ. Người sẽ giải thoát, sẽ ban bình an và hạnh phúc cho dân Người. Vì thế, người cũng đã kêu gọi các tín hữu Philipphê: “Hãy vui lên anh em. Tôi nhắc lại: Hãy vui lên trong Chúa”. Và bài Tin Mừng diễn tả: chính trong niềm hy vọng ơn cứu độ mà những người Do thái thiện chí đã phấn khởi đến với ông Gioan tiền hô xin ông cho biết phải làm gì để đón nhận Đấng Cứu Thế sắp đến.

 

Như vậy, qua các bản văn Thánh Kinh, chúng ta thấy: Thiên Chúa chính là Niềm vui và Hy vọng của con người. Bởi chỉ mình Người mới có thể giải thoát nhân loại khỏi mọi nỗi cơ cùng, khỏi kiếp sống nô lệ. Chỉ mình Người mới có thể ban cho nhân loại niềm vui, bình an và hạnh phúc. Do đó, lời kêu gọi: Hãy vui lên, Hãy vui lên trong Chúa là điều rất hợp lý.

 

Ngày hôm nay chúng ta không còn phải đón chờ Chúa đến như dân Do thái ngày xưa, bởi Chúa đã đến rồi. Người đang hiện diện bên ta như lời Người đã nói: “Này đây, Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”. Người vẫn tiếp tục thi ân cho chúng ta như Người đã thi ân cho dân Do thái ngày xưa.

 

Nhưng có thật là chúng ta vui mừng vì sự hiện diện của Thiên Chúa trong đời mình? Có thật là chúng ta vui mừng là được Chúa viếng thăm? Có thật là chúng ta vui mừng vì được làm con Chúa, được làm người có đạo? Phải chăng đã chẳng có những lúc chúng ta nghĩ rằng: làm con Chúa vui đâu chẳng thấy, mà chỉ thấy những phiền lụy cho cuộc đời? Những người không tin có Thiên Chúa, họ có thể an tâm ăn chơi xả láng, có thể mánh mung, lường gạt để kiếm cho được lắm bạc nhiều tiền với hy vọng một cuộc sống thoải mái ung dung. Còn làm con Chúa ư? Có cả một mạng lưới lề luật vây bọc quanh ta, đến nỗi ta cảm thấy mình như bị ngộp thở bởi những trói buộc và cấm đoán. Nếu không phải là người có đạo thì giờ này ta đã được rong chơi thoải mái chứ đâu có bị bó buộc để ngồi trong nhà thờ này. Nếu không phải là con Chúa thì tuổi thanh xuân của ta sẽ đẹp đẽ biết bao, bởi ta có thể làm tất cả những gì mình muốn, sẽ được thỏa mãn mọi khát vọng luôn nung nấu ta ngày đêm. Nếu không phải là con Chúa thì đời sống hôn nhân sẽ dễ chịu hơn nhiều. Vui thì ở, buồn thì chia tay chứ đâu có phải gắn bó mãi với một con người mà mình đã chán ngấy.

 

Nếu Thiên Chúa của chúng ta là một hung thần luôn đàn áp con người, nếu lề luật của Thiên Chúa như là những thứ giết chết tự do của chúng ta thì quả thật, chúng ta chẳng nên vui mừng vì được làm con của một Thiên Chúa như vậy. Nhưng Thiên Chúa mà chúng ta tôn thờ là Thiên Chúa của tình yêu thương. Một Thiên Chúa luôn nhẫn nhục trước sự bất tín, bất trung của dân Chúa. Một Thiên Chúa luôn biết nhỏ lệ trước những nỗi đớn đau của kiếp người. Một Thiên Chúa cảm thông và tha thứ cho những yếu đuối của con cái mình. Chính trong tình yêu thương vô biên ấy mà nếu Thiên Chúa có đặt ra những lề luật, thì đó chỉ là những lời diễn tả tình yêu, là hàng rào gìn giữ chúng ta trong tình yêu và là con đường dẫn chúng ta tới sự sống. Chúng ta phải vui mừng vì được tôn thờ một Thiên Chúa như vậy trong đời mình.

 

Nếu ngày hôm nay chúng ta hỏi thánh Gioan tiền hô: Chúng tôi phải làm gì? Có thể người sẽ bảo chúng ta rằng: Hãy thay đổi cái nhìn về Thiên Chúa. Hãy nhìn người như một người Cha, như một người bạn thân hay như một người tình để thấy được tình yêu vô bờ của Người. Thấy được tình yêu vô bờ của Người, chúng ta cũng sẽ thấy được điều mình phải làm để đáp lại tình yêu tuyệt đối ấy.

 

91.        Hoa quả của lòng thống hối

(Gợi ý suy niệm của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt)

 

Sau khi trình bày đề tài tổng quát trong việc rao giảng lòng thống hối của Gioan tẩy giả và những lời ông đe dọa án xử của vị Thiên sai (cc. 7-9), Luca cho thấy rõ những lời Gioan khuyên bảo những người đến bàn hỏi với ông. Vì Gioan tẩy giả không muốn bắt mọi người sống theo cách sống của ông. Thực ra ông có lập một nhóm môn đệ thân tín và dạy cho họ một công thức cầu nguyện (Lc 11,1); họ cũng có ngày ăn chay (Lc 5,33). Ông chuẩn bị cho họ cách đặc biệt để gởi họ cho Đấng Thiên sai ngay khi có thể.

 

Nhưng ông cũng kêu mời nhiều người khác sống thánh thiện tùy theo hoàn cảnh của mình. Ông ban cho mỗi người sống những lời khuyên tùy theo hoàn cảnh của mình. Ông ban cho mỗi người những lời khuyên thích hợp vị địa vị của họ. Với tất cả mọi người, ông truyền dạy phải thực thi bác ái; với nhân viên thu thuế và bộ đội, ông nhắc nhở sống công bình trong khi thi hành nhiệm vụ, chống lại những ước muốn tham lam. Đó là những ý kiến đúng và rõ ràng, có thể áp dụng ngay. Về phương diện này, Gioan không tự cho mình là người đầu tiên đưa ra những lời khuyên đó, ông chỉ lấy lại những yêu sách các tiên tri đã công bố. Đó là lời giảng dạy mà ta gặp thấy ví dụ như trong tiên tri Mikêa: “Với cái gì tôi sẽ trình diện trước Giavê, tôi sẽ phủ phục trước Thiên Chúa Đấng tối cao? Tôi ra trình diện với của lễ, với bò con một năm ư? Đức Giavê lại thích hàng ngàn chiên đực hay là hàng vạn sông dầu sao? Phải chăng tôi nên dâng con đầu lòng của tôi vì sự phạm pháp của tôi và trái của thân thể tôi vì tội lỗi linh hồn tôi sao? Hỡi ngươi, Người đã tỏ cho ngươi điều gì là thiện; điều mà Đức Giavê đòi ngươi lại không phải là thực thi công bình, yêu mến sự nhân từ và bước đi cách khiêm nhường với Thiên Chúa của ngươi sao? (Mi 6,6-8).

 

Như thế Gioan dạy một luân lý “tạm thời” mà trọng tâm là: “Hãy làm hết sức mình trong các hoàn cảnh hiện tại, đang khi chờ đợi thời đại thiên sai đến”. Vì thế ông không đòi buộc người ta phải tách lìa khỏi thế gian xấu xa hoặc phải từ bỏ các nghề nghiệp trong thế gian. Ông chỉ đòi hỏi lòng nhân hậu và đức công bình: đó là những hoa trái biểu lộ lòng sám hối đích thực trong lúc này. Những việc làm cụ thể của đức ái mà ông đề nghị đã được qui định trong Cựu ước (Is 58,7; Giop 31,17.19.21; Ez 18,7.16…) và trong đạo Do thái sau này, như là dấu hiệu phân biệt làng đạo đích thực đẹp lòng Giavê. Giáo huấn của Gioan chuẩn bị cho những đòi hỏi quyết liệt hơn của Chúa Giêsu (Lc 6,29t 32-36; Mt 5,39-48).

 

Sứ điệp của vị tiền hô liên quan đến Đấng Thiên Sai (cc. 15-18) được đóng khung trong một câu nhập đề và một câu kết luận theo lối hành văn thông thường trong Phúc âm thứ ba. Chúng ta biết dân chúng đang chờ đợi sự thực hiện các lời hứa Thiên sai. Cho nên lời rao giảng của Gioan gặp được thửa đất thuận lợi để sinh hoa trái vì ông loan báo Tin mừng (c.18). Nhưng dần dần người ta tự hỏi có phải Gioan là Đấng Thiên sai không, nên ông cố gắng đánh tan sự ngộ nhận đó.

 

Gioan so sánh phẩm giá của hai nhân vật mà dân chúng dễ lẫn lộn: người này là chủ, người kia là nô lệ. Để cho dân chúng hiểu rõ hơn, ông lấy hình ảnh người đầy tớ đi theo chủ tiệc đến dự tiệc: khi vào phòng tiệc, ông chủ cởi giày, thì người đầy tớ cúi xuống chân chủ (chi tiết này chỉ có Mc 1, tả lại thôi) để cởi sợi dây buộc giày và trong suốt bữa tiệc, người đầy tớ cầm giày của chủ trên tay (Mt 3,11). Trong cả ba phúc âm nhất lãm, chúng ta có thể đọc lời tuyên xưng của vị tiền hô về địa vị thấp kém của mình đối với Đấng Thiên Sai. Ý tưởng diễn tả trong ba bản văn đều giống nhau; hình ảnh trình bày ý tưởng đó cũng giống nhau, nhưng trong các lời nói của Gioan, ba bản văn đã không giữ lại cùng một chi tiết của cũng một hình ảnh: hai bản Lc và Mc chú trọng đến cử chỉ của người đầy tớ đang cởi giày, bản văn Mt thì làm nổi bật thái độ của người đầy tớ xách đôi giày ấy.

 

Người ta cũng còn có thể so sánh hai phép rửa. Đó là điều mà Gioan đã không bỏ quên. Nét khác biệt rất rõ ràng: “Phần tôi, tôi thanh tẩy các người bằng nước… Đấng quyền thế hơn tôi… chính Ngài sẽ thanh tẩy các người trong Thánh Thần và lửa”. Sự đối nghịch rõ rệt đó có thể làm cho ta tưởng rằng phép rửa do Đấng sẽ đến, Đấng Thiên sai, sẽ không là phép rửa bằng nước như phép rửa của vị tiền hô. Tuy nhiên, sau này Chúa Giêsu nói với Nicôđêmô là sự tái sinh Kitô giáo được thực hiện bởi Thánh Thần và nước, trong phép rửa (Ga 3,1-10).

 

Phép rửa mà Đấng Thiên sai thiết lập sẽ vừa là một phép rửa trong Thánh Thần và trong lửa. Nước chỉ nghi thức bên ngoài, rửa sạch trên thân xác, lửa là biểu tượng cho sự biến đổi trong tâm hồn sâu thẳm. Vì trong lúc nước chỉ chạm tới mặt ngoài của sự vật, thì lửa trái lại, xuyên thấu vào trong, thanh tẩy, soi sáng và đốt nóng Ta sẽ không tìm gặp được nơi phép rửa do Đấng Thiên sai lập một thứ lửa nào khác ngoài lửa của Thánh Thần: vì chính Ngài thánh hóa các tâm hồn.

 

Tuy nhiên về điểm này, hãy xem lại những giải thích đã học được trong loạt bài chú giải về Mt 3,11 (bộ chú giải phúc âm chủ nhật năm A). Có thể là trên bình diện lịch sử của Gioan tẩy giả, không nói đến phép rửa trong Thánh Thần, nhưng đúng hơn là phép rửa trong “gió” điểm này cho phép kết luận là chỉ “lửa” giữ nguyên cùng một ý nghĩa như “lửa phán xét” được nói qua cả đoạn văn. Sau nữa, khi người Kitô hữu đọc lại phúc âm, thì họ giải thích “gió” như là hơi thở của Thánh linh: lối giải thích như thế không có gì lạ, vì trong tiếng Do thái cũng như Hy Lạp, cũng một chữ đó (ruâ: Do thái; pneuma: Hy lạp) vừa chỉ gió và Thánh Linh. Cho nên theo lối tái lập lịch sử thì có lẽ Gioan tẩy giả đã nói đến phép rửa “trong gió và lửa” của sự phán xét; nhưng từ thuở ban đầu (có lẽ bắt đầu từ thời truyền khẩu) người Kitô hữu đã hiểu những chữ này như báo trước một phép rửa trong “gió hay trong Thánh Linh và lửa” của ngày hiện xuống.

 

Cũng nên nói ngay là hình như không cần phải hạn hẹp tầm quan trọng của Lời Gioan vào phép rửa Kitô giáo: “Ngài sẽ thanh tẩy các ngươi trong Thánh Linh và lửa”. Phải xem câu này là lời loan báo về sự chuyển thông Thánh Linh do Chúa Giêsu, hoặc bằng phép rửa Kitô giáo, hoặc bằng phép thêm sức, hoặc bằng các cách khác.

 

Đó là ngọn lửa lớn mà Chúa Giêsu đã đến để ném vào thế gian (Lc 12,49). Trước khi lên trời, ngay thăng thiên, Ngài đã truyền cho các tông đồ hãy ở lại Giêrusalem để chờ đợi “điều Chúa Cha đã hứa, như các con đã nghe Ta nói”. Vì chưng, Gioan đã được thanh tẩy bằng nước, còn các con, không mấy ngày nữa, sẽ được thanh tẩy bằng Thánh Thần (Cv 1,4-5). Và trong chính ngày hiện xuống, Chúa Thánh Thần đã xuống trên đầu họ dưới hình lưỡi lửa, đem lại phép rửa trong Thánh Thần và lửa cách tỏ tường (Cv 2,1-5).

 

Như thế, giữa phép rửa của Gioan và của Đấng Thiên sai không có cùng một giá trị. Phép rửa của Gioan không luôn luôn là phép rửa bằng nước và chỉ là phép rửa bằng nước. Đó là một nghi thức tượng trưng nhằm thúc đẩy và diễn tả tâm tình thống hối. Phép rửa của Đấng thiên sai là sự tuôn tràn Thánh linh mà có thể không cần phải rửa bằng nước và ngay chính khi nghi thức bên ngoài là việc rửa bằng nước (phép rửa Kitô giáo), thì vẫn nhằm nói đến hoạt động bên trong tâm hồn nơi Thánh linh xuyên thấu như lửa.

 

Nhưng đây còn có một thứ lửa khác mà Đấng Thiên sai trang bị sẵn sàng: lửa của phán xét. Như thế chúng ta được đặt giữa hai thứ lửa: lửa của thánh linh và lửa giận dữ không hề tắt. Vì Đấng Thiên sai sẽ là quan án: sân lúa là thế gian, kho lẫm là cõi trời. Khốn cho ai bị Ngài ném vào lửa như vỏ trấu vô dụng hoặc như rơm rạ vụn vặt. Vì “Đấng uy quyền” hơn Gioan thật đáng sợ. Hình như đó là nét chính yếu của lời rao giảng và hành động tượng trưng của Gioan tẩy giả.

 

KẾT LUẬN

Chúa Giêsu, Đấng Thiên sai, là quan án thời tận thế. Đức tin và lời kinh của Giáo hội không có quyền chểnh mảng vai trò của mình trong khía cạnh này. Lời rao giảng của Gioan tẩy giả vẫn còn giá trị, dù không chứa đựng tất cả những gì Chúa Thánh Thần đã mạc khải Luca đã hiểu bài diễn từ của Gioan như một lời rao giảng hiện đại cho hoàn cảnh Giáo hội của ông bấy giờ. Điều đó biểu lộ qua câu 15 dùng để nhập đề, với câu hỏi: Gioan có phải là Đấng Thiên sai không? Vị Tẩy giả làm chứng Đấng Thiên sai là một người khác: là Đấng mà ông chiêm ngưỡng và loan báo như là quan án. Hình ảnh quan án vẫn là hình ảnh cốt yếu cho Tân ước và Giáo hội. Không phải chỉ có những thính giả thời ấy, nhưng tất cả mọi Kitô hữu đều có sự chọn lựa được “thanh tẩy” trong Chúa Thánh Thần.

 

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

  1. Thính giả Gioan tẩy giả chất vấn: “chúng tôi phải làm gì?” Lòng thống hối đích thực không bao giờ dừng lại nơi những tình cảm bên trong, nơi những tư tưởng tốt đẹp, nhưng còn phải thể hiện qua hành động bằng một cuộc sống phù hợp với giáo huấn của Chúa Kitô. Không phải những người nói: “Lạy Chúa, lạy Chúa là vào được nước trời, nhưng những ai thực hành ý Chúa, nghĩa là thực thi công bằng xã hội, chia sẻ, tha thứ xúc phạm, liêm chính trong nghề nghiệp.
  2. Gioan tẩy giả sai mỗi người trở về nghề nghiệp hiện tại, với nhiệm vụ của mình. Không phải việc ta làm khiến ta trở thành môn đệ hoặc không phải là môn đệ của Chúa Giêsu, nhưng là cách thế ta làm. Chúa Giêsu không đòi ta từ bỏ nghề nghiệp và từ bỏ thế gian để đi tu. Ngài đòi chúng ta phải thi hành nghề nghiệp chúng ta theo Phúc âm: nghĩa là phục vụ anh em trong yêu thương và công bằng, chú ý đến kẻ khác và quên mình, chuyên cần làm việc và vui tính. Nhờ nghề nghiệp khiêm tốn mấy đi nữa của chúng ta mà người khác “sẽ thấy ánh sáng và ca tụng vinh quang Chúa: (Mt 5,16).

 

  1. Gioan tẩy giả tự nhận mình dưới quyền Chúa Giêsu: ông là đầy tớ chỉ đáng lo giày dép cho Ngài thôi. Khi tự coi mình như thế, trước mặt Chúa, Gioan tẩy giả không tìm cách hủy diệt mình bằng một thứ tình cảm giận ghét chính bản thân. Ông không tìm cách chối cãi những ưu điểm có thật và những năng khiếu tự nhiên của mình. Không khinh chê ơn gọi tiên tri của mình. Ông chỉ làm cho người ta nhận ra địa vị đích thực của ông: là vị tiền hô, chứ không phải là Đấng Thiên sai. Đó chính là Đức khiêm nhượng đích thực của người Kitô hữu: nhận biết mình là gì trước mặt Chúa. Vui vẻ chấp nhận mình chỉ là Đấng thụ tạo trước mặt Đấng tạo hóa, một tội nhân trước mặt Đấng cứu chuộc. Đức khiêm nhượng đích thực không dừng lại nơi chính mình, dù là chỉ để chê bai: người nào luôn nói tới những lỗi lầm của mình, những thiếu sót khả năng, sự bất xứng… người đó có ít cơ may trở thành kẻ khiêm tốn, họ quá lo lắng về chính mình. Cái nhìn khiêm tốn thật sự phải hướng về Chúa Giêsu. Dĩ nhiên, phải ý thức đến vực thẳm ngăn cách mình với Ngài, nhưng còn phải ý thức nhiều hơn về lòng nhân hậu, cao sang của Đấng mình yêu.

 

  1. Gioan thanh tẩy trong phép rửa thống hối. Về điểm này, sứ điệp của ông vẫn luôn thực hiện cho chúng ta. Vì chúng ta phải luôn luôn thống hối, phải chuẩn bị cho “Đấng uy quyền hơn chúng ta” đến phải thanh tẩy tâm hồn khỏi những khát vọng bất chính, khỏi những hẹp hòi, khỏi chai đá. Nhất là trong mùa Vọng này, chúng ta phải làm cho các năng lực của phép rửa tội tái hoạt động bằng việc canh tân tâm hồn để mừng đại lễ Giáng sinh và dịp đó Đức Giêsu sẽ tự trao ban Ngài cho chúng ta với một nguồn súc mạnh và ánh sáng phong phú để nối kết chúng ta trong tình thân mật với Ngài.

 

Lời Gioan tẩy giả hứa về một phép rửa tương lai của Thánh linh đã được thực hiện cho chúng ta. Khi ta lãnh nhận bí tích rửa tội, Chúa Thánh Thần đã thực sự thông ban cho chúng ta. Ngài làm cho chúng ta trở thành đền thờ, nơi cư ngụ thường xuyên của ngài, dấy lên trong lòng chúng ta những tâm tình con thảo đối với Cha trên trời. Chính Thánh Linh, giây tình ái giữa Chúa Cha và Chúa Giêsu, hằng cầu nguyện trong ta và giúp ta dần dần trở nên giống Chúa Giêsu con thật của Chúa Cha, nếu ta biết vâng theo cảm hứng của Ngài và các tác động êm dịu của Ngài trong tâm hồn chúng ta. Hoạt động của Thánh Linh trong ta sẽ thanh tẩy ta bừng một, sẽ đốt cháy những ngọn rơm ích kỷ và hèn nhát, sẽ giữ gìn đến muôn đời hạt lúa công phúc và trung tín của ta đối với việc bổn phận.

 

92.        Chúa Nhật 3 Mùa Vọng

(Suy niệm, Chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông)

 

Vào Chúa Nhật III Mùa Vọng này, Phụng Vụ Lời Chúa mời gọi chúng ta hãy vui lên, vì Chúa sắp đến rồi. Quả thật, xưa kia, Chúa Nhật III Mùa Vọng này được gọi Chúa Nhật “hãy vui lên”, nhan đề được mượn từ thư thánh Phao-lô gởi tín hữu Phi-líp-phê mà chúng ta đọc vào Chúa Nhật hôm nay.

Xp 3: 14-18

Trong Bài Đọc I, ngôn sứ Xô-phô-ni-a mời gọi Giê-ru-sa-lem “hãy vui lên”, vì đã được Thiên Chúa sủng ái và sắp được Thiên Chúa viếng thăm.

Pl 4: 4-7

Trong Bài Đọc II, thánh Phao-lô khuyên các tín hữu Phi-líp-phê “hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa”, chính Ngài là nguồn bình an.

Lc 3: 10-18

Trong Tin Mừng, thánh Lu-ca thuật lại lời rao giảng của thánh Gioan Tẩy Giả, lời rao giảng này xác định những nét đặc trưng của “Tin Mừng”.

 

BÀI ĐỌC I (Xp 3: 14-18)

Ngôn sứ Xô-phô-ni-a sống vào thế kỷ thứ bảy trước Công Nguyên, ông thi hành sứ vụ của mình ở Giê-ru-sa-lem vào những năm 640-625 trước Công Nguyên.

 

  1. Bối cảnh

Vào lúc đó, vương quốc Giu-đa được cai trị bởi một ấu chúa là Giô-si-gia, lên ngôi lúc tám tuổi. Thời kỳ này được ghi dấu bởi những di hại của một triều đại dài lâu do một vị vua vô đạo là Mơ-na-se: phong tục ngoại giáo, thờ cúng ngẫu tượng, bạo lực, gian lận, bất công xã hội, thói kiêu căng của những kẻ quyền thế, tinh thần hưởng thụ của những người giàu có, v.v… Vị ngôn sứ lớn tiếng phê phán lối sống vô đạo, thiếu tình người này và tiên báo cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, đó sẽ là “Ngày của Đức Chúa”, ngày thịnh nộ. Tuy nhiên, đó sẽ không là ngày tận thế, vì Thiên Chúa sẽ cho sót lại một dân nghèo hèn và bé nhỏ, dân này sẽ không làm những chuyện tàn ác bất công, nhưng tìm nương ẩn nơi Đức Chúa.

 

Bài hoan ca được trích dẫn hôm nay mời gọi Giê-ru-sa-lem hãy vui lên, và ngay liền sau đó, gợi lên những người công chính thoát khỏi án phạt. Nguyên nhân sâu xa khiến Giê-ru-sa-lem hoan hỉ vui mừng chính là chắc chắn mình đã được Thiên Chúa sủng ái, đã được Thiên Chúa cứu độ, Ngài là Chủ Tể lịch sử và đang ngự giữa dân Ngài.

 

  1. Niềm vui của dân Ngài cũng là niềm vui của Thiên Chúa

Điều ngạc nhiên nhất của bài hoan ca này đó là vị ngôn sứ thiết lập một sự đối xứng giữa niềm vui của dân thành Giê-ru-sa-lem và niềm vui của Thiên Chúa, chính Ngài sẽ vui mừng hoan hỉ vì gặp lại dân Ngài.

 

Chắc chắn không cần thiết phải tìm kiếm xem biến cố nào đã gây nên niềm phấn khởi đầy lạc quan ở nơi vị ngôn sứ. Trước tiên, đây là viễn cảnh thời Thiên Sai. Bài thơ của ông ca ngợi vị Vua Cứu Tinh tiến vào Thành Thánh, Ngài là vị vua chiến thắng và giải thoát: “Án lệnh phạt ngươi, Đức Chúa đã rút lại, thù địch của ngươi, Người đã đẩy xa”, vì thế “Này Xi-on, đừng sợ, chớ kinh hãi rụng rời”. Trong ngôn từ của vị ngôn sứ, sự giải thoát là dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa tha thứ: “Đức Chúa Thiên Chúa của ngươi đang ngự giữa ngươi, Người là vị cứu tinh, là Đấng anh hùng”.

 

Thành Thánh Giê-ru-sa-lem hân hoan reo mừng đón tiếp Đức Vua của mình, chính Đức Chúa thân hành ngự giá đến ở giữa dân Ngài, Ngài là vị vua đích thật của Ít-ra-en. Trong một bản văn mang đậm nét Thiên Sai hơn, ngôn sứ Da-ca-ri-a ca ngợi niềm vui của Giê-ru-sa-lem bằng những lời lẽ tương tự: “Nào thiếu nữ Xi-on, hãy vui mừng hoan hỹ! Hỡi thiếu nữ Giê-ru-sa-lem, hãy vui sướng reo hò! Vì kìa Đức Chúa của người đang đến với ngươi…” (Dcr 9: 9). Thành Đô Giê-ru-sa-lem được giải thoát và sống trong cảnh thái bình thịnh trị, bởi vì Chúa “sẽ lấy tình thương của Người mà đổi mới ngươi” như người yêu lấy tình thương mà biến đổi người mình yêu. Niềm vui của Thiên Chúa chẳng thua kém gì niềm vui của Thành Thánh. Thiên Chúa hạnh phúc được ở giữa những người mà tình thương của Ngài đã cứu thoát. “Chúa sẽ nhảy múa tưng bừng như trong ngày lễ hội” vì dân Ngài đã thấy ơn cứu độ.

 

Một vị ngôn sứ khác, I-sai-a đệ tam, cũng thấy Thiên Chúa vui mừng hoan hỉ, nhưng trong viễn cảnh cánh chung, Thiên Chúa liên kết mình vào niềm vui của những người được tuyển chọn: “Này đây Ta sáng tạo trời mới đất mới, không còn ai nhớ đến thuở ban đầu và nhắc lại trong tâm trí nữa. Nhưng thiên hạ sẽ vui mừng và luôn mãi hỷ hoan vì những gì chính Ta sáng tạo. Phải, này đây Ta sẽ tạo Giê-ru-sa-lem nên nguồn hoan hỷ và dân ở đó thành nỗi vui mừng. Vì Giê-ru-sa-lem Ta sẽ hoan hỷ, vì dân Ta, Ta sẽ nhảy mừng. Nơi đây, sẽ chẳng còn nghe thấy tiếng than khóc kêu la” (I s 65: 17-19). Thật ra bản văn của Xô-phô-ni-a gợi lên quang cảnh Thành Thánh Giê-ru-sa-lem trên trời.

 

Niềm vui cứu độ thời Thiên Sai là niềm vui mà sứ thần loan báo cho Đức Ma-ri-a, thiếu nữ Xi-on tuyệt vời nhất: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà… Thưa bà, xin đừng sợ… Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà”.

 

BÀI ĐỌC II (Pl 4: 4-7)

Thánh Phao-lô cũng khẩn khoản kêu mời các tín hữu Phi-líp-phê hãy vui lên. Còn hơn cả lời khuyến dụ, lời mời gọi này là nguyên tắc căn bản trong thần học của vị Tông Đồ, đây là niềm vui tâm linh: “Hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa”, đó là biểu thức quen thuộc của thánh Phao-lô.

 

  1. Hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa

Tuy nhiên, nhờ bức thư này, chúng ta biết các tín hữu Phi-líp-phê phải chiến đấu cam go vì niềm tin của mình: “Quả thế, nhờ Đức Giê-su Ki-tô, anh em đã được phúc chẳng những là tin vào Người, mà còn được chịu đau khổ vì Người. Nhờ vậy, anh em được tham dự cùng một cuộc chiến mà anh em đã thấy tôi phải đương đầu trước kia, và nay anh em nghe biết là tôi vẫn còn tiếp tục” (Pl 1: 29-30).

 

Thánh Phao-lô đưa ra một mẫu gương về niềm vui này, vì vào lúc đó thánh nhân đang bị giam cầm, chắc chắn ở Ê-phê-xô. Thánh nhân đã nhận biết những đau khổ của sứ vụ tông đồ (vài người dân Cô-rin-tô đố kỵ vu khống ngài và cản trở sứ vụ của thánh nhân ở Ê-phê-xô), tuy nhiên, thánh nhân vẫn vui trong niềm vui của Chúa.

 

  1. Sống hiền hòa

“Sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hòa rộng rãi”. “Hiền hòa” là dụng ngữ của khoa khôn ngoan Hy lạp, đức hạnh này đặt nền tảng trên lý trí và mực thước, được thăng hoa ở nơi một cuộc sống hiền hòa. Thánh Phao-lô lập lại đức hiền hòa này trong lời khuyên gởi đến hai môn đệ và là cộng tác viên của ngài là Ti-mô-thê: “Không được nghiện rượu, không được hiếu chiến, nhưng phải hiền hòa, không hay gây sự, không ham tiền” (1Tm 3: 3) và Ti-tô: “Đừng chửi bới ai, đừng hiếu chiến, nhưng phải hiền hòa, luôn luôn tỏ lòng nhân từ với mọi người.” (Tt 3: 2) Nếu dân ngoại tìm kiếm đức hạnh như vậy, huống chi là những người Ki-tô hữu. Còn gì tốt đẹp cho bằng các tín hữu phải nêu gương về một cuộc sống hiền hòa. Rõ ràng thánh Phao-lô gởi đến các Ki-tô hữu gốc Hy lạp, họ có thể hiểu được lời khuyên của thánh nhân.

 

  1. Chúa đã gần đến

 Những người Ki-tô hữu sống vui vẻ và hiền hòa vì họ xác tín ơn cứu độ đang ở trong tầm tay, điều mà các tác giả Tin Mừng diễn tả “Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần rồi”. Thánh Phao-lô có một cái nhìn tăng tốc của lịch sử. Cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Giê-su đã thiết lập kỷ nguyên cứu độ; chắc chắn kỷ nguyên này sẽ triển nở viên mãn vào ngày Đức Giê-su quang lâm. Viễn cảnh này phải đem lại niềm vui tròn đầy cho người Ki-tô hữu, tuy nhiên, ngay từ bây giờ viễn cảnh này được khai mở trong một cuộc sống kết hiệp với Đức Ki tô.

 

  1. Niềm vui, lời khẩn nguyện và bình an

Vui vì tin tưởng và phó thác vào Thiên Chúa, do đó chẳng có gì phải lo lắng cả. Chính ở nơi niềm tin tưởng này mà lời khẩn nguyện và tâm tình tạ ơn được liên kết mật thiết với nhau. Mối liên kết này hoàn toàn thuộc truyền thống Kinh Thánh. Các tác giả thánh vịnh dâng lên Thiên Chúa lời khẩn nguyện và tâm tình cảm tạ tri ân của mình, đồng thời các ngài tin chắc rằng Thiên Chúa sẽ đáp trả niềm tin tưởng của mình. Trong những viễn cảnh Ki-tô giáo, lời khẩn nguyện cắm rể sâu vào trong tâm tình cảm tạ và chiêm ngắm mầu nhiệm cứu độ. Từ đó sinh ra một sự bình an trong tâm hồn, một sự bình an không phát xuất từ nỗ lực phàm nhân, nhưng từ lời hứa của Đức Giê-su cho các môn đệ Ngài, một sự bình an vượt quá mọi hiểu biết phàm nhân.

 

Trong các thư của thánh Phao-lô, chúng ta cũng gặp thấy những lời khuyên tương tự, nhưng thư gởi tín hữu Phi-líp-phê được viết với những lời lẽ thân tình và tràn đầy tin tưởng, qua đó thánh Phao-lô để lộ những bí ẩn đời sống nội tâm của mình.

 

TIN MỪNG (Lc 3: 10-18)

Thánh Lu-ca là tác giả Tin Mừng duy nhất cho nhiều chi tiết xác định về lời rao giảng của thánh Gioan Tẩy Giả. Bản văn này cũng dâng hiến một lợi ích lớn lao: thánh ký không rao giảng về những đề tài thần học khó hiểu, nhưng về đời sống. Bản văn bao gồm hai phần, tương xứng với chuyển động kép của câu chuyện: phát triển sứ điệp của thánh Gioan Tẩy Giả, khởi đi từ giáo huấn thực tiễn đến mặc khải về Đấng Mê-si-a; đồng thời phát triển tâm lý của những ai thực tâm muốn thay đổi cuộc đời mình, từ việc mở lòng mình ra thi hành đức ái và sự công chính, cho đến việc vươn mình lên tìm kiếm Thiên Chúa hay ít ra vị sứ giả của Ngài.

 

  1. Đám đông

Đối với đám đông, những người đến xin được chịu phép rửa và bày tỏ ước nguyện thăng tiến trên con đường đức hạnh, thánh Gioan Tẩy Giả đề xuất nguyên tắc đức ái: “Ai có hai áo, thì chia cho người không có; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy”. Việc san sẻ chia sớt cho nhau những hạt cơm manh áo là bước khởi đầu của sự biến đổi tấm lòng. Chúng ta đừng quên, thánh Lu-ca cũng là tác giả sách Công Vụ Tông Đồ, trong đó thánh ký đã mô tả hành động “tương thân tương ái” giữa các Ki-tô hữu tiên khởi: “Không một ai coi bất cứ cái gì mình có là của riêng, nhưng đối với họ, mọi sự điều là của chung” (Cv 4: 32).

 

  1. Những người thu thuế

Những người thu thuế bị quy trách nhiệm là những kẻ tham lam hút máu đồng bào của mình, bởi vì những người thu thuế này ứng trước tiền thuế dân chúng phải nộp cho đế quốc Rô-ma, sau đó, nâng cao tiền thuế của dân chúng để làm giàu cho mình. Hơn nữa, dân chúng khinh bỉ họ vì sự hiện diện của họ nhắc nhớ ách đô hộ của chính quyền Rô-ma trên dân Do thái và buộc tội họ là tay sai của thế lực ngoại bang và đối xử họ như “quân trộm cướp”.

 

Đức Giê-su thường giao du với “quân trộm cướp” này, những kẻ tội lỗi này; Ngài cũng sẽ đưa ra một người trong số họ làm mẫu gương cầu nguyện (Lc 18: 9-14). Chính họ mà thánh Lu-ca, ngay từ khởi đầu Tin Mừng, giới thiệu họ như những người thành tâm thiện chí muốn được hoán cải: “Thưa thầy, chúng tôi phải làm gì?”. Thật lạ lùng, trong Tin Mừng Gioan những người Pha-ri-sêu cũng đến hỏi Gioan Tẩy Giả, nhưng với thái độ hiếu kỳ và ngờ vực, vì thế họ từ chối hoán cải. Thói tự cao tự đại làm cho họ trở nên cố chấp trong khi những kẻ bị khinh bỉ, ghét bỏ lại là những người khiêm tốn mở lòng mình ra trước ánh sáng. Đối với những người thu thuế này, thánh Gioan Tẩy Giả không đòi hỏi họ phải từ bỏ nghề nghiệp của mình, nhưng thực thi công bình: “Đừng đòi hỏi điều gì quá mức ấn định cho các anh”.

 

  1. Binh lính

Binh lính cũng đến hỏi thánh nhân: “Còn anh em chúng tôi thì phải làm gì?”. Những binh lính này là ai? Chắc chắn không phải là binh lính Rô-ma, họ tránh không trà trộn vào đám đông dân chúng, cũng không phải binh lính Do thái, vì Rô-ma không cho các đất nước bị chiếm đóng quyền tổ chức quân đội. Chắc hẳn đây là dân quân tự vệ được chiêu mộ từ các dân tộc chung quanh, họ thường hộ tống những người thu thuế, vì việc thu thuế thường khó khăn. Khi kể họ là binh lính, phải chăng thánh Lu-ca có ý định khoác cho sứ điệp của Gioan Tẩy Giả một chiều kích phổ quát? Dù thế nào, họ cũng là hạng người bị dân chúng ghét cay ghét đắng như bọn người thu thuế. Đối với những binh lính này, thánh nhân cũng không đòi hỏi họ từ bỏ nghề nghiệp của mình, nhưng thực thi công bình: “Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta, hãy an phận với số lương của mình”.

 

  1. Dân chúng

Thật có ý nghĩa biết bao, vào lúc này, thánh Lu-ca không còn nói đến “đám đông”, nhưng đến “dân”: “Hồi đó, dân đang trông ngóng”. Như các ngôn sứ xưa kia, thánh Gioan kêu gọi họ hãy hoán cải đừng chần chờ gì nữa vì thời gian sắp đến gần rồi. Thánh nhân nói như một người có uy quyền khiến những ai trông đợi Đấng Thiên Sai tự hỏi: “biết đâu ông Gioan lại chẳng là Đấng Mê-si-a!”. Qua sách Công Vụ Tông Đồ chúng ta biết rằng trong suốt nhiều thập niên có những cộng đoàn môn đệ của thánh Gioan Tẩy Giả, họ vẫn trung thành lời dạy của thầy mình và tôn kính thánh nhân như Đấng Thiên Sai (Cv 18: 24-25; 19: 1-7).

 

Lúc đó, thánh Gioan Tẩy Giả công bố cho mọi người biết rằng ông không là Đấng Thiên Sai. Với sự khiêm hạ, thánh nhân gợi lên sự cao cả vô cùng tận của Đấng mà ông chỉ là Tiền Hô của Ngài: “Tôi không đáng cởi quai dép cho Người”. Lời này ám chỉ chính xác đến một truyền thống lâu đời, theo đó các kinh sư cấm không được bắt một người nô lệ Do thái làm một công việc nặng nhọc hay hèn hạ như cởi dày cho chủ hay rửa chân cho chủ. Ngay cả một công việc hèn hạ đến thế, thánh nhân tự nhận mình cũng không xứng đáng đối với Đấng mà ông có nhiệm vụ chuẩn bị con đường cho Ngài đến.

 

  1. Phép rửa của Đấng Thiên Sai

Thánh Gioan Tẩy Giả nhấn mạnh sự khác biệt giữa phép rửa của ông và phép rửa mà Đấng Thiên Sai sẽ thực hiện: “Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa”. “Lửa” này phải chăng được hiểu là lửa của Chúa Thánh Thần như các Giáo Phụ đã hiểu, hay phải hiểu lửa theo Kinh Thánh, nghĩa là lửa có chức năng vừa thanh luyện những người công chính vừa tiêu hủy quân vô đạo? Chúng ta không biết chính xác, nhưng một điều chắc chắn, đó là thánh Gioan Tẩy Giả tự nhận mình là vị Tiền Hô, không chỉ của Đấng Thiên Sai nhưng cũng của Giáo Hội. Chính Giáo Hội sẽ lãnh nhận ơn Chúa Thánh Thần, Đấng ngự xuống trên Giáo Hội như “những hình lưỡi giống như lưỡi lửa” vào ngày lễ Ngũ Tuần (Cv 2: 1-4).

 

  1. Đấng Thiên Sai Thẩm Phán

Khi mô tả chân dung của Đấng Thiên Sai với tư cách là một vị Thẩm Phán, Ngài sẽ tách biệt những người tốt ra khỏi những kẻ xấu, thánh Gioan Tẩy Giả định vị mình vào hàng những đại ngôn sứ, liên kết kỷ nguyên Thiên Sai và kỷ nguyên cánh chung vào trong cùng một viễn cảnh: “Tay Người cầm nia rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi”. Giờ thu hoạch mùa màng sẽ tới, nhưng chậm hơn. Chính Đức Giê-su sẽ là vị Thẩm Phán của ngày Chung Thẩm.

 

  1. Khởi điểm của Tin Mừng

“Ngoài ra, ông còn khuyên dân nhiều điều khác nữa, mà loan báo Tin Mừng cho  họ”. Cũng như Tin Mừng Mác-cô, Tin Mừng Lu-ca đánh dấu khởi điểm Tin Mừng bằng lời rao giảng của thánh Gioan Tẩy Giả. Điều này khiến chúng ta nghĩ rằng khoa giáo lý tiên khởi bắt đầu với việc kể ra thánh Gioan Tẩy Giả và lời dạy của thánh nhân. Bản văn của thánh Lu-ca bày tỏ rất rõ nét khoa giáo lý này. Việc thực hành đức ái và công bình được xem như bước khởi đầu của việc hoán cải, nhưng như thế vẫn chưa đủ, phải dẫn đến việc kết hiệp với một con người, Đức Ki-tô. Chính trong Giáo Hội mà sự kết hiệp này sẽ được thực hiện.

 

Đây là một trong những bài học, một bài học không nhỏ chút nào, của Tin Mừng hôm nay.

 

93.        Chúa nhật 3 Mùa Vọng

(Suy niệm của Lm. GB. Phạm Hồng Thái)

 

Chúa nhật III Mùa Vọng được gọi là Gaudete Sunday: Chúa nhật Vui mừng. Để diễn tả niềm Vui thì các linh mục dâng Thánh lễ mặc phẩm phục mầu Hồng. Mầu Hồng giữa mùa Tím. Nhưng lí do nào khiến chúng ta vui mừng trong khi bao nhiêu khó khăn do dịch bệnh, do kinh tế khó khăn … vẫn còn đó?

 

Lý do vui mừng vì Chúa đến: Thánh Gioan nói: “Có Đấng đang ở giữa anh em mà anh em không biết (Ga 1,26)”. Tôi thiết tưởng người công giáo chúng ta luôn có được niềm vui vì chúng ta ôm ấp trong lòng niềm hi vọng. Thánh Phaolô ngồi trong tù mà vẫn kêu gọi các tín hữu hãy vui lên trong Chúa! Có đức tin vào Chúa thì chúng ta dù trong hoàn cảnh nào vẫn có niềm vui.

 

Thánh linh mục tử đạo Việt Nam Phaolô Lê Bảo Tịnh trong nhà tù đã viết thư cho các học trò chủng sinh của ngài như sau: “Lao tù này quả  thực là hình ảnh của hỏa ngục đời đời: Ngoài xiềng xích gông cùm còng tay chân, còn có giận dữ, oán thù, nguyền rủa, tục tĩu, cãi lộn, bậy bạ, chửi thề, nói hành, và sau đó là chán nản, buồn sầu, ruồi muỗi, chấy rận, bọ mát, nhất là những con rệp chui rúc trong bao gối, chăn chiếu, quần áo…rất khó chịu. Còn có oán hận vua quan, thù ghét bạn hữu và chửi bới cha mẹ! Nhưng Đấng mà thời xưa đã cứu thoát ba anh em trong lửa bừng bừng, Ngài vẫn ở bên tôi, cứu thoát tôi khỏi những tai họa nói trên, và biến tất cả thành êm dịu ngọt ngào, vì muôn đời Ngài vẫn là Đấng từ bi nhân hậu” ( trích thư I)

 

Chúa nhật trước thánh Gioan xuất hiện kêu gọi chúng ta dọn đường cho Chúa đến bằng hình ảnh tương tự như một kĩ sư làm đường: “Quanh co uốn cho ngay, gồ ghề san cho phẳng, hố sâu lấp cho dầy, nơi cao phải bạt xuống” thì hôm nay khi những người đến với ngài đặt câu hỏi: “Chúng tôi phải làm gì?” ngài đã căn cứ vào thực tế để cho họ những lời khuyên giúp họ thăng tiến và hoán cải như sau:

  • Với dân chúng thì ngài nói: “Ai có hai áo hãy cho người không có: ai có của ăn cũng hãy làm như vậy”. Đây là một lời khuyên sống bác ái chia sẻ: nhường cơm sẻ áo.
  • Với những người thu thuế thì Ngài khuyên:”Các ngươi đừng đòi gì quá mức ấn định cho các ngươi”. Qua lời này, Ngài tỏ ra không có kì thị ghét bỏ những người thu thuế như người dân khi đó, nhưng chỉ yêu cầu họ giữ sự công bình
  • Với các quân nhân thì ngài khuyên: “Đừng ức hiếp ai, đừng cáo gian ai; các ngươi hãy bằng lòng với số lương của mình”. Cũng như những người thu thuế, họ cũng là những người cộng tác với đế quốc Roma và bị dân ghét, nhưng thánh Gioan không bảo họ phải từ bỏ nghề nghiệp nhưng chỉ yêu cầu họ giữ đức công bình, không lợi dụng quyền hành mình mà ức hiếp hay gian tham, nhưng hãy bằng lòng với đồng lương của mình để sống lương thiện.

 

Vậy cũng như những người Do thái đã hỏi thánh Gioan: “Chúng tôi phải làm gì? Trong Mùa Vọng, chúng ta  cũng hãy đặt cho mình câu hỏi như vậy hoặc thưa với Chúa như thánh Phaolô bị ngã ngựa trên dường đi bắt bớ các kitô hữu ở Đamas: “Lạy Chúa, con phải làm gì?” để rồi nhờ lãnh nhận bí tích giải tội, chúng ta xét mình, Chúa sẽ soi sáng cho mỗi người chúng ta biết phải làm gì. Nhưng dù sao đi nữa thì chúng ta có lời khuyên của thánh Gioan hôm nay là giữ sự công bình và sống bác ái chia sẻ. Chúa Giêsu dạy chúng ta: “Đức khôn ngoan được minh chứng bằng việc làm”(Mt 11,19), còn thánh Giacôbê thì quả quyết:”Đức tin không có việc làm là đức tin chết (Gc 2,17)”. Vậy chúng ta hãy thực tâm giữ đức công bình và thực hành Bác ái chia sẻ trong cuộc sống thường ngày: “Ai có hai áo hãy cho người không có. Ai có của ăn cũng hãy làm như vậy”.

 

Câu chuyện thánh Martinô Giám mục trong lễ kính ngày 11/11: Martinô gia nhập quân đội Rôma khi đó mới là dự tòng. Các binh sĩ trong trại sống không gương mẫu gì, nhưng Martinô tin vào Chúa Kitô nên sống như một Kitô hữu. Ngài phân phát một phần tiền lương cho người nghèo và có những hành vi bác ái ít gặp thấy, chẳng hạn đảo ngược vai trò để đánh giày cho người hầu. Ở cửa thành Amiens một ngày mùa đông, chàng hiệp sĩ trẻ gặp người ăn xin dường như trần truồng. Martinô nói: “Tôi chỉ có áo quần và khí giới.” Rồi rút kiếm ra, Ngài xẻ đôi chiếc áo choàng cho người ăn xin một nửa.

 

Trong giấc mơ đêm đó, Martinô thấy Chúa Giêsu hiện ra mặc nửa chiếc áo choàng và nói với các thiên thần: “Chính Martinô đã mặc cho Ta đấy.” Khoảng 20 tuổi, Martinô lãnh nhận phép rửa tội, và sống cuộc sống tu trì sau này ngài dược lên tới chức giám mục thành Tour.

 

Nguyện xin Chúa cho chúng ta sống tinh thần Mùa vọng như thánh Don Bosco dạy: “Bí quyết nên thánh là luôn sống vui tươi và chu toàn trách nhiệm mình.” Đó cũng chính là cách tốt đẹp giúp ta dọn tâm hồn đón mừng Chúa đến. Amen.

 

94.        Chúa Nhật 3 Mùa Vọng

(Suy niệm của Đs. Montfort Nguyễn Xuân Pháp Ocist.)

 

VAI TRÒ CỦA GIOAN TRONG CHƯƠNG TRÌNH CỨU ĐỘ CỦA THIÊN CHÚA

 

  1. Tóm Lược Các Bài Đọc

Bài Đọc 1: Xh 3, 14- 18a

Thiên Chúa phán với ông Môsê: Ta là Đấng Hiện Hữu, là Thiên Chúa của cha ông anh em, Thiên Chúa của Apraham, Isaac và Giacop. Đó là Danh Ta đến muôn thuở, là danh hiệu để kêu cầu ta từ đời nọ đến đời kia. Thiên Chúa thật sự quan tâm đến con cái Israel bên Ai cập. Và Ngài sẽ giải thoát Israel khỏi nỗi khổ ải, mà đưa vào miền đất sữa và mật.

 

Bài Đọc 2: Pl 4, 4- 7

Thánh Phaolô khuyến khích các tín hữu: Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hòa, rộng rãi, Chúa đã gần đến. Trong mọi hoàn cảnh, anh em hãy giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều thỉnh nguyện. Và bình an của Thiên Chúa sẽ giữ lòng trí anh em được kết hợp với Đức Kitô.

 

Bài Đọc Tin Mừng: Lc 3, 10- 18a

Khi nhiều người đến chịu phép rửa và hỏi ông Gioan phải làm gì để đón nhận ơn cứu độ, ông đã trả lời: Hãy làm đúng chức năng của mình và theo luật định, sống bác ái và tránh bốc lột người khác, bằng lòng với những gì mình đang có. Hồi đó, người ta cứ nghĩ: biết đâu ông Gioan là Đấng Messia. Ông Gioan đã trả lời: Tôi làm phép rửa cho anh em bằng nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em bằng Thánh thần và lửa.

  1. Suy Niệm

Khi được ai thổi phồng bản thân hay đề cao mình, chúng ta có khuynh hướng chấp nhận nó như một điều tất yếu, một tặng ân xứng đáng với việc mình làm. Ngay cả trong lãnh vực tôn giáo cũng vậy, không thiếu những lần chúng ta rao giảng và làm chứng cho Tin Mừng, bố thí của cải, nhưng lại mong chờ lời khen nơi người thụ ơn. Do đó, chúng ta cảm thấy khó chịu khi không được người khác đáp lại xứng với những gì ta bỏ ra. Những bệ cao của chức quyền, danh vọng, lời khen luôn có nguy cơ làm cho ta bị đốn ngã; vậy mà chúng ta vẫn mong được người khác đặt lên đó và  xông hương. Với hạng con người này, những gì làm nhân danh Chúa chẳng qua chỉ là cái giá nâng mình lên để ăn mày những lời tán thưởng nơi người khác.

 

Bài Tin Mừng hôm nay cho ta một khuân mặt đầy khiêm tốn là Gioan Tiền Hô. Khi được dân chúng ca tụng như một Đấng Messia, ông đã nói lên sự thật: “Tôi làm phép rửa cho anh em bằng nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh thần và lửa” (Lc 3, 16). Gioan luôn nhận thức mình là người dọn đường cho Đấng quyền năng hơn đang đến; và khi đến, ông phải lui vào phía sau để nhường bước cho Chúa Giêsu. Thật là một con người vĩ đại. Ông được dân chúng coi như Đấng Messia mà lại xem mình không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Đức Giêsu; phép rửa của ông đã làm cho biết bao tâm hồn sám hối, mà lại xem không đáng gì so với một phép rửa lớn hơn: phép rửa trong Thánh thần và lửa. Như vậy, ông Gioan cũng chân nhận mình là ngọn đèn cháy sáng trong một thời gian để soi đường dẫn lối dân chúng tới ánh sáng vĩnh cửu là Đức Kitô. Khi Đức Kitô đến, Ngài sẽ đem lại niềm vui và ơn bình an đích thực cho con người để giúp mỗi người sống hiền hòa và rộng rãi ((x. Pl 4, 4- 7).

 

Qua con người của Gioa Tiền Hô, chúng ta cũng thành tâm nhìn lại chính bản thân mình. Nếu một chứng nhân Tin Mừng mà tâm hồn chất đầy những kiêu căng của tự mãn và tinh thần thế tục thì rất khó mang Chúa đến cho người khác. Thay vì một Thiên Chúa mạc khải, chúng ta lại tạo nên Thiên Chúa của ngẫu tượng hầu phù hợp với tâm tính và tinh thần vụ lợi của mình. Mỗi người chúng ta rất dễ rơi vào khuynh hướng dẫn người khác đến với mình thay vì đến với Chúa, muốn tô hồng bản thân thay vì làm cho Nước Chúa được vinh quang. Thật là đau buồn cho những người thợ trong cánh đồng truyền giáo nhưng lại nặng mùi thế tục.

 

Là những Gioan Tiền hô của thời đại, Thiên Chúa cũng muốn mỗi người chúng ta hãy dọn đương cho Chúa đến với thế giới này bằng chính cuộc sống trong sạch, khiêm tốn và đượm chất Tin Mừng. Điều này đòi hỏi mỗi người phải giữ lòng trí kết hợp với Chúa (Pl 4, 7), ở lại trong Ngài để được thanh luyện nên một con người mới. Chúng ta hãy can đảm để Đức Kitô tẩy rửa những uế tạp trần tục, loại bỏ những ý hướng thấp hèn hầu mặc lấy tâm tình của Ngài để thực sự sống công chính và thánh thiện.

 

Bởi chưng, con người thời nay cần nhân chứng hơn là thầy dạy. Do đó, Giáo hội cũng cần một kitô hữu thánh thiện, hơn là một kitô hữu “khua chiêng đánh trống”, mà tâm hồn lại trống rỗng. Điều đó đồng nghĩa để trở nên một nhân chứng sống động cho tình yêu cứu độ của Thiên Chúa, mỗi người cần có một kinh nghiệp đích thực về Ngài: kinh nghiệm về một Thiên Chúa gần gũi để có thể bàn thảo, tâm sự và ngay cả để than van. Nói cách khác, nhà truyền giáo đích thực, trước hết phải là một con người cầu nguyện, luôn chìm đắm trong Đấng đã sai đi. Bởi vì, truyền giáo là mang Chúa đến cho người khác, chứ không phải để tiếp thị bản thân. Ý hướng này, chúng ta cũng gặp thấy nơi diễn văn của thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II gửi các Giám mục và cộng đoàn Dân Chúa ở Việt nam tháng 12/1996: “Tương lai truyền giáo tùy thuộc phần lớn ở chiêm niệm. Người thừa sai, nếu không phải là nhà chiêm niệm, thì không thể loan báo Đức Kitô một cách khả tín; họ là một chứng nhân của kinh nghiệm về Thiên Chúa và phải nói như thánh tông đồ: Điều chúng tôi đã chiêm niệm…, đó là lời sự sống…, chúng tôi loan báo cho anh em”.

 

Lạy Chúa, xin mở lòng và uốn nắn tâm trí chúng con để chúng con thực sự là chứng nhân của tình yêu Chúa giữa lòng thế giới hôm nay.

 

95.        Chúa nhật 3 Mùa Vọng

(Suy niệm của Jaime L. Waters)

 

CHÚNG TA MANG LẠI NIỀM VUI CHO THẾ GIỚI KHI SỐNG THEO CHƯƠNG TRÌNH CỦA THIÊN CHÚA DÀNH CHO CON NGƯỜI

 

Trong tuần thứ ba mùa Vọng, chúng ta được nhắc nhở về tầm quan trọng của niềm vui – điều đôi khi bị lãng quên giữa những khổ đau trên thế gian này. Hôm nay là Chúa nhật Vui mừng (Gaudete). Nhiều linh mục sẽ mặc lễ phục màu hồng, và cây nến thứ ba của vòng hoa mùa Vọng cũng là màu hồng. Việc thay đổi màu sắc trong một mùa phụng vụ thường là màu tím là một lời nhắc nhở cụ thể, trực quan hãy thực sự vui mừng hân hoan  khi chúng ta tiếp tục chuẩn bị tâm hồn mừng đại lễ Chúa Giáng Sinh.

 

Phụng vụ Lời Chúa trong Chúa nhật III mùa Vọng suy niệm về sự hiện diện của Thiên Chúa trên trần gian. Bài đọc một và bài đọc hai nói lên niềm vui khi có Chúa ở gần bên .Bài Tin mừng cũng nhắc nhở chúng ta trở nên giống Chúa qua những việc làm của mình. Trong bài đọc một trích sách ngôn sứ Xôphônia, vị ngôn sứ đã nhắc bảo những người đau khổ ở Giêrusalem hãy lớn tiếng reo mừng vì “Thiên Chúa ở giữa họ”. Tuy ở đầu chương 3, ngôn sứ Xôphônia trình bày cuộc phán xét và trừng phạt, nhưng nơi phần kết, quan điểm này đã thay đổi để nhấn mạnh việc Thiên Chúa yêu thương và quan tâm, đây là những hành động đáng để vui mừng cử hành.

 

Bài đọc hai trích thư gửi tín hữu Philipphê được xây dựng trên ý tưởng nêu trên, nhắc cộng đoàn hãy vui mừng vì Thiên Chúa đã gần đến. Quan trọng hơn, thánh Phaolô nhắc nhở về sức mạnh của lời cầu nguyện. Thánh nhân lưu ý rằng khi con người đau khổ và đầy lo âu, thì lời cầu nguyện đưa đến một cách thức kết nối với Thiên Chúa, cho phép con người diễn tả nhu cầu của mình và dâng lời cảm tạ về những ơn lành Chúa ban.

 

Một cách nào đó, lời nhắc nhở hãy mừng vui và hân hoan có thể làm chúng ta cảm thấy lạc lõng trong thời đại hôm nay, nhưng bài đọc hai lại cho chúng ta một góc nhìn cần thiết. Đôi khi thiếu vắng niềm vui, chúng ta cần nhớ rằng sức mạnh của cầu nguyện giúp chúng ta kiên trì, tìm kiếm sự an ủi và niềm vui nơi tình yêu và sự hiện diện của Thiên Chúa, dù cho điều này không phải lúc nào cũng cảm nhận được.

 

Bài Tin mừng thúc đẩy chúng ta cùng mang niềm vui đến cho thế giới bằng cách sống đạo đức và noi theo gương của Chúa. Trong bài Tin mừng theo Luca, Gioan Tẩy giả rao giảng lối sống công chính, kêu gọi lòng quảng đại và sự liêm chính. Khi làm phép rửa cho dân, Gioan bảo họ hãy chia sẻ ơn phúc cho những người kém may mắn hơn. Không những thế, ông còn đề cập những tha hóa khác nhau về tài chính và pháp luật khi khuyên bảo những người thu thuế không thu nhiều hơn mức qui định. Gioan cũng bảo với những người lính rằng: “Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta, hãy an phận với số lương của mình”. Những tuyên bố này cho thấy sự lạm dụng quyền lực trong đất nước, khi những người nắm quyền lạm dụng chức vụ, gây thiệt hại cho những người khác trong cộng đồng.

 

Đáng chú ý là Gioan đưa ra những tuyên bố này đang khi làm phép rửa cho dân, điều này cho thấy mối liên hệ giữa hành vi nghi lễ tôn giáo và luân lý. Chịu phép rửa thôi thì chưa đủ. Đúng hơn, hành vi lễ nghi tôn giáo phải đi đôi với hành vi luân lý, đạo đức. Gioan rao giảng Tin mừng qua lời nói và việc làm. Ông đã gợi hứng cho cộng đoàn của mình sống niềm tin trong mọi cảnh huống của cuộc sống. Gioan dạy cho dân biết nhìn nhận phép rửa như là một yêu cầu thay đổi cung cách hành xử để đối xử đúng phẩm giá và tôn trọng với những thành viên khác trong cộng đoàn. Cũng vậy, chúng ta nên nhận ra những đòi buộc và những áp dụng của phép rửa đã lãnh nhận.

 

Trong ngày Chúa nhật Mừng vui (cũng như mọi ngày), chúng ta nên tìm thấy niềm vui nơi sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc sống, cũng như tìm cách nuôi dưỡng niềm vui ấy trong thế giới này khi sống đức tin. Cầu nguyện là phương thế mạnh mẽ và quan trọng để kết nối với Thiên Chúa và bày tỏ những nhu cầu cùng lời cám ơn của chúng ta.Cũng vậy, sống công chính và từ bỏ những hành vi tha hóa sẽ làm phong phú cuộc sống của chúng ta cũng như của tha nhân.

 

96.        Chúa Nhật 3 Mùa Vọng

(Suy niệm của Lm. Ga. Phan Tiến Dũng)

 

“Hãy vui lên, hãy hoan hỉ mừng vui, hãy vui sướng hò reo, hãy vui luôn trong Chúa…” Đây chính là sứ điệp, là lời mời gọi của Thiên Chúa dành cho mỗi người chúng ta. Thật vậy, qua các bài đọc Lời Chúa, qua các ý nguyện cầu và ngay cả nến hồng cũng như lễ phục hồng…tất cả đều mời gọi chúng ta hãy có tâm tình hân hoan, vui mừng, hướng về ngày Thiên Chúa đến ban ơn cứu độ. Nhưng thưa ACE, làm sao có thể sống vui, sống lạc quan và hy vọng trong khi bao nhiêu người chúng ta đang phải đối diện và gánh lấy với biết bao khó khăn, thử thách, đau khổ vì dịch bệnh, vì thiên tai, vì hoàn cảnh sống rất bấp bênh như hiện nay? Nhưng thật ra, chỉ khi nào chúng ta có niềm tin vào Chúa, chỉ khi sống khiêm tốn, mở lòng để lắng nghe, để được Lời Chúa soi sáng hướng dẫn và ban ơn thì chúng ta mới được Chúa và sức mạnh từ Lời Chúa ban cho niềm vui, bình an và hạnh phúc đích thực.

 

Bài đọc một từ (Xp 3, 14-18a).

Tường thuật lại, Ngôn sứ Xôphônia được Chúa sai đến để nói tiên tri và huấn lệnh của Chúa cho dân. “Hỡi thiếu nữ Sion, hãy cất tiếng ca! Hỡi Israel, hãy hoan hỉ! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy hân hoan và nhảy mừng hết tâm hồn! Chúa đã rút lại lời kết án ngươi và đã đẩy lui quân thù của ngươi. Vua Israel là Chúa ở giữa ngươi, ngươi không còn sợ khổ cực nữa”. Sứ điệp này vang lên trong khi dân chúng đang sống trong một xã hội bất công, đầy đau khổ; con người không tìm được lối thoát, nên đang tìm để tôn thờ ngẫu tượng và sống tinh thần hưởng tục… Thế nên, họ không còn phân biệt được đâu là điều xấu hay tốt, điều tội hay phúc, đâu là thánh ý Chúa hay chỉ là mưu toan gian ý của con người. Chính vì lẽ đó, mà con người phải lãnh lấy những hậu quả hay án phạt do chính tội lỗi của mình gây nên. Thế nhưng, vì lòng thương xót và sự kiên nhẫn chờ đợi của Thiên Chúa, những ai trông cậy vào lượng từ bi của Chúa, biết tin vào Chúa mà ăn năn hoán cải để sống ngay lành, thì họ sẽ được Chúa đoái thương. Đây chính là lý do để cho con người sống vui mừng, hoan hỉ. Thật vậy, ơn vui sống, chỉ được ban cho những ai tin nhận vào tình thương, ơn thánh Chúa, những ai vẫn còn nhận ra mình là người được Chúa đoái thương, sủng ái và tuyển chọn. Khi suy niệm về ơn thánh này, gợi nhắc cho chúng ta nhớ lại hình ảnh sau này của Đức Maria, khi thiên sứ truyền tin, chào Mẹ: “Hãy vui lên, Đấng đầy ân sủng, Thiên Chúa ở cùng Bà”. Chúa thật là niềm vui, là nguồn bình an, ơn thánh cho những ai tin và thực thi thánh ý cùng mệnh lệnh Chúa.

 

Bài đọc hai (Pl 4, 4-7).

Thánh Phaolô cũng đã mời gọi các tín hữu Philipphê và mỗi người chúng ta hãy sống vui lên, hay nói khác hơn, cách thế duy nhất để trở nên người có niềm vui đích thực chính là người cần phải có Chúa Giêsu, là người sống kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu trong sứ vụ của mình. Thế nhưng, với kinh nghiệm của bản thân, Phaolô cũng cho chúng ta biết, thực tế trong cuộc sống của con người chúng ta, dẫu khi đang phải đối diện với biết bao vướng bận, bao thử thách và đau khổ, chúng ta phải vượt lên những cản trở đó, để còn lại trong lòng trí chúng ta những điều tích cực là lòng yêu mến và kính sợ Chúa mà thôi qua kinh nguyện và bác ái hy sinh của chúng ta.

 

Tin mừng hôm nay (Lc 3, 10-18).

Thuật lại cho chúng ta kinh nghiệm của những hạng người khác nhau đến với Gioan, sau khi nghe lời rao giảng của Gioan về việc sám hối để đón nhận ơn thánh cứu độ của Chúa; ai cũng rất muốn được ơn phúc này, thế nhưng, họ lại phân vân không biết phải sống và thực thi như thế nào? Cho nên họ đã hỏi Gioan: “Vậy chúng tôi phải làm gì?” Thưa ACE, tin chắc rằng giờ đây, Lời Chúa cũng đang soi sáng và thúc bách mỗi người chúng ta, hãy tự vấn chính lương tâm, lòng trí mình: “Lạy Chúa, chúng con cần phải làm gì?” Ba cung cách, hành động sống mà Gioan đang mời gọi chúng ta cần phải sống và thực thi để có niềm vui ơn cứu độ là: Trước hết, phải biết ăn ở ngay lành và sống chính trực. Thứ đến, phải biết mặc lấy Đức Kitô Giêsu và thánh ý của Ngài, để chỉ nhờ vào ơn Chúa, Ngài sẽ giữ gìn, che chở, bảo vệ và làm cho chúng ta trở nên người biết làm đẹp lòng Chúa. Sau hết, phải có thái độ khiêm tốn, sẵn sàng xin vâng để thực thi ý Chúa. Thật vậy, chỉ khi nào chúng ta nỗ lực cố gắng, để với ơn Chúa mà thực hiện những điều mà Chúa mời gọi và dạy bảo qua Gioan Tẩy Giả thì chính Thiên Chúa sẽ hiện diện, ban ơn chúc phúc cho chúng ta với ơn thánh của Ngài, có như vậy thì niềm vui của chúng ta mới thực sự nên trọn vẹn được.

 

Lạy Chúa Giêsu, hôm nay dưới ánh sáng của Lời Chúa soi dẫn, thực sự đang thúc bách lương tâm, lòng trí và cuộc sống của chúng con. Nguyện xin cho tình yêu thương và bình an của Chúa Giêsu luôn thực sự ở với chúng con và Chúa trở nên là nguồn vui sống đích thực của chúng con. Xin cho chúng con biết noi theo những lời dạy và cung cách mà Gioan đã hướng dẫn để chúng con luôn giữ cho lòng trí của mình được kết hiệp mật thiết với Chúa và được sống trong bình an. Amen.

 

97.        Chúa Nhật 3 Mùa Vọng

(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)

 

Mùa Vọng phủ màu Tím, nhưng không phải là “sắc tím buồn” như Mùa Chay, mà là “sắc tím thủy chung” trong khoảng mong đợi Đấng Thiên Sai đến cứu độ nhân loại. Chúa nhật III Mùa Vọng và Chúa Nhật IV Mùa Chay được mệnh danh là Chúa Nhật Hồng. Nhưng để phân biệt, Chúa nhật III Mùa Vọng được gọi là Chúa Nhật Vui (Gaudete), Chúa Nhật IV Mùa Chay được gọi là Chúa Nhật Mừng (Laetare).

 

Chúng ta vui vì được Chúa Giêsu giải phóng khỏi ách tội lỗi, vì được Ngài cứu độ. Với tâm tình đó, Ns Đức Huy bày tỏ: “Và con tim đã vui trở lại, Tình yêu đến cho tôi ngày mai, Tình yêu chiếu ánh sáng vào đời, Tôi hy vọng được ơn cứu rỗi”. Niềm hy vọng ấy không mơ hồ, mà chắc chắn sẽ được như ý muốn!

 

CHIA SẺ VUI MỪNG

Nỗi buồn thì người ta thường muốn giữ kín, chỉ muốn ngồi mình yên (một mình) mà gặm nhấm nó, nhưng niềm vui thì mấy ai mà giấu kín trong lòng, nghĩa là người ta muốn “khoe” niềm vui đó với người khác. Như vậy cũng là một dạng chia sẻ.

 

Ngôn sứ Xôphônia mời gọi: “Reo vui lên, hỡi thiếu nữ Sion, hò vang dậy đi nào, nhà Ítraen hỡi! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy nức lòng phấn khởi!” (Xp 3:14). Tại sao vậy? Lý do đơn giản mà kỳ diệu: “Án lệnh phạt ngươi, Đức Chúa đã rút lại, thù địch của ngươi, Ngài đã đẩy lùi xa. Đức Vua của Ítraen đang ngự giữa ngươi, chính là Đức Chúa. Sẽ chẳng còn tai ương nào khiến ngươi phải sợ” (Xp 3:15). Do đó mà vào ngày ấy, người ta sẽ bảo Giêrusalem: “Này Sion, đừng sợ, chớ kinh hãi rụng rời” (Xp 3:16). Đừng hoang mang hoặc run sợ vì Thiên Chúa của chúng ta đang ngự giữa chúng ta, chính Ngài là Vị Cứu Tinh, là Đấng Anh Hùng.

 

Ngôn sứ Xôphônia xác định: “Vì ngươi, Chúa sẽ vui mừng hoan hỷ, sẽ lấy tình thương của Ngài mà đổi mới ngươi. Vì ngươi, Chúa sẽ nhảy múa tưng bừng như trong ngày lễ hội. Những kẻ tản lạc được hồi hương Ta đã cất khỏi ngươi tai hoạ khiến ngươi không còn phải ô nhục nữa” (Xp 3:17-18). Đó cũng là lời nói với chúng ta. Quả thật, chúng ta vui mừng có Chúa, và Ngài cũng vui mừng ở giữa chúng ta để chia vui sẻ buồn với chúng ta, dù chúng ta hoàn toàn bất xứng. Niềm vui tột đỉnh, hạnh phúc tuyệt vời!

 

Trong niềm vui đó, ngôn sứ Isaia quả quyết: “Đây chính là Thiên Chúa cứu độ tôi, tôi tin tưởng và không còn sợ hãi, bởi vì Đức Chúa là sức mạnh tôi, là Đấng tôi ca ngợi, chính Người cứu độ tôi” (Is 12:2). Và ông cũng nói với chúng ta: “Các bạn sẽ vui mừng múc nước tận nguồn ơn cứu độ. Các bạn sẽ nói lên trong ngày đó: Hãy tạ ơn Đức Chúa, cầu khẩn danh Ngài, vĩ nghiệp của Ngài, loan báo giữa muôn dân, và nhắc nhở: danh Ngài siêu việt” (Is 12:3-4). Chúng ta phải thể hiện cho mọi người biết niềm vui đang rạo rực trong mình: “Đàn ca lên mừng Đức Chúa, vì Ngài đã thực hiện bao kỳ công. Hãy reo hò mừng rỡ, vì Đức Thánh của Ítraen quả thật là vĩ đại!” (Is 12:5-6).

 

Người ta nói rằng “phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí”, thế nhưng chúng ta đang có những niềm vui “trùng lai”. Niềm vui nối tiếp điều mừng, Thánh Phaolô cũng chẳng giấu được nên phải lặp đi lặp lại lời động viên: “Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: vui lên anh em!” (Pl 4:4). Nhưng phải thể hiện niềm vui đó qua cách sống “sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hoà rộng rãi” (Pl 4:5), vì Chúa đã gần đến.

 

Có lẽ biết chúng ta còn e dè nên Thánh Phaolô tiếp tục khuyến khích: “Anh em đừng lo lắng gì cả. Nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện. Và bình an của Thiên Chúa, bình an vượt lên trên mọi hiểu biết, sẽ giữ cho lòng trí anh em được kết hợp với Đức Kitô Giêsu” (Pl 4:6-7). Niềm vui của Kitô hữu khác hẳn niềm vui của người không có niềm tin tôn giáo. Dù thế nào cũng vẫn vui, vui vì có Chúa, vui cả ngay trong nỗi buồn, vui vì luôn hy vọng và tin tưởng.

 

CHIA SẺ CÁCH SỐNG

Nói hay mà làm không hay thì cũng vô ích. Gioan Tẩy Giả, con ông Dacaria, mệnh danh là Tiếng-Hô-Trong-Hoang-Địa, nhưng ông là người đầy uy tín. Đám đông hỏi ông Gioan rằng: “Chúng tôi phải làm gì đây?”. Ông trả lời ngay: “Ai có hai áo thì chia cho người không có; ai có gì ăn thì cũng làm như vậy” (Lc 3:11). Ôi, khó quá! Ông này đúng là dị nhân chính hiệu “con nai vàng”. Ấy thế mà vẫn có những người thu thuế đến chịu phép rửa, và tôn ông Gioan là Thầy. Họ hỏi ông: “Thưa thầy, chúng tôi phải làm gì?”. Ông bảo họ: “Đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định cho các anh” (Lc 3:13). Ngay cả binh lính cũng hỏi ông: “Còn anh em chúng tôi thì phải làm gì?”. Ông bảo họ: “Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta, hãy an phận với số lương của mình” (Lc 3:14).

 

Ông Gioan muốn chia sẻ cách sống tốt với mọi người. Đó là sống công bình, vì mọi người có thể hiện công lý thì xã hội mới khả dĩ có nền hòa bình đích thực. Thể hiện công lý là tôn trọng nhân vị, nhân phẩm và nhân quyền của người khác. Những điều ông Gioan kêu gọi ngày xưa thì ngày nay là những điều thuộc lĩnh vực Giáo huấn Xã hội của Giáo hội Công giáo.

 

Hồi đó, dân đang trông ngóng Đấng Cứu Thế, và trong thâm tâm, ai nấy đều tự hỏi: “Biết đâu ông Gioan lại chẳng là Đấng Mêsia?” (Lc 3:15). Nhưng ông xác định với mọi người rạch ròi: “Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa. Tay Người cầm nia rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi” (Lc 3:16-17).

 

Ông Gioan nhận mình không xứng đáng “cởi quai dép” chứ đừng nói chi là “xách dép” cho Chúa Giêsu. Ông biết người và biết ta nên ông khiêm nhường. Chính ông cũng mong đợi Đấng đến sau ông, người đó mới là Đấng Thiên Sai.

 

Mong chờ ai đó vì chúng ta yêu mến người đó. Mong đợi Chúa thì chúng ta cũng phải yêu mến Chúa. Nếu không thì… “kẹt” lắm! Thật vậy, Thánh Phaolô đã khẳng định: “Nếu ai không yêu mến Chúa thì là đồ khốn kiếp!” (1 Cr 16:22).

 

Lạy Thiên Chúa, chúng con vui mừng biết bao vì Ngôi Hai Thiên Chúa sắp sửa đến với chúng con, để chia sẻ vui buồn với chúng con, để thông phần số phận với chúng con, và dạy chúng con những điều tốt lành. Xin giúp chúng con biết yêu mến Con Chúa là hiện thân của Chúa, dám sống “khác người” và chia sẻ mọi thứ với tha nhân. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.

 

98.        Chúa Nhật 3 Mùa Vọng

(Chú giải mục vụ của Hugues Cousin)

 

PHƯƠNG DIỆN ĐẠO ĐỨC

TRONG LỜI RAO GIẢNG CỦA GIOAN

 

Phương diện đạo đức trong lời rao giảng của Gioan (cc. 10-14) được trình bày dưới hình thức đối thoại. Cả ba lần cũng một câu hỏi được lặp lại: “Phải làm gì?”. Đâu là những thay đổi đời sống cụ thể sẽ diễn tả ra bên ngoài sự hối cải sâu xa?

 

Lời đáp của diễn giả đáng lưu ý ở hai điểm. Một đàng nó bao gồm những hành vi xã hội của con người và không đòi hỏi hy lễ đền tội, cũng như thực hành khổ chế; đàng khác, phải giúp đỡ những người túng thiếu, phải trung thực và công bình trong nghề nghiệp của mình. Đó là những đòi hỏi vượt quá luật Môsê và bắt buộc tất cả mọi người, người không cắt bì cũng như người Do Thái. Sự cần thiết phải hoán cải có tính cánh phổ phát, cũng như ơn cứu độ được trao ban (x. 6); điều có ý nghĩa là chính đám đông hiện diện trong hoạt cảnh này.

 

Cũng cần ghi chú thêm là những đòi hỏi này không được đặc biệt tô điểm lời rao giảng có tính cánh chung ở các câu 7-9. Gioan không loan báo gì về sự đảo lộn các cơ cấu xã hội (so sánh với Chúa Giesu ở Lc 6,20-26); ông không đòi hỏi các người thu thuế đoạn tuyệt với người Rôma xâm lược mà họ đang cộng tác, cũng không bảo các người lính Do Thái phục vụ trong đạo binh của Hêrôđê phải đào ngũ. Ông không kêu mời ai bỏ tất cả mọi sự để theo ông; điều mà Chúa Giêsu đòi hỏi nơi một bậc vị vọng ở Lc 18,22 sẽ triệt để hơn! Đối với Luca, việc chia sẻ trở lại điều này. Ở đây chỉ cần để ý là ông Giakêu – người thu thuế (Lc 19,8) hứa với Chúa Giêsu sẽ đền bù những thiệt hại cho người khác – chính là điều Gioan đòi hỏi những người anh em mình – và dâng tặng cho người nghèo khó phân nửa gia tài của mình – đó là lời đáp của Gioan cho đám đông nghĩa là cho tất cả mọi người.

 

Cánh cửa chót trong lời rao giảng của vị Tẩy Giả (cc. 15-18) được khai mở bằng một câu hỏi mà mọi người đặt ra: phải chăng Gioan là phẩm phán quan thuộc dòng Đavit sẽ đến thiết lập nền hòa bình và công chính mà dân trông đợi? Rõ ràng khía cạnh cánh chung trong sứ điệp của Gioan kép chú ý thính giả hơn là khía cạnh đạo đức…

 

Lúc đó vị Tẩy Giả định nghĩa vai trò của mình trong tương quan với Đấng sẽ đến. Việc nhận chìm trong dòng nước khác với phép rửa bằng thần khí và bằng lửa mà Chúa Kitô sẽ ban kể từ ngày Ngũ tuần (Cv 2). Vì vậy, Gioan không xứng đáng với lao dịch chỉ dành cho hàng nô lệ, đó là cởi dép cho Đấng sẽ là người cải cách phong tục một cách quyết liệt khác với kiểu của ông. Cụm từ “Đấng đến sau tôi” (x. Mt, Mc và Ga) xác nhận lúc đầu rằng Chúa Giêsu thuộc nhóm đệ tử của Gioan đã được cẩn thận sửa chữa: Chúa Giêsu chỉ đến sau vị Tẩy Giả theo nghĩa thời gian thôi! Vị sứ giả cuối cùng, theo như Gioan mô tả, trước hết là vị thẩm phán vào thời cuối cùng; Ngài sẽ tẩy sạch dân Ngài khỏi những cáu bẩn để chúng vĩnh viễn biến mất.

 

Cuối cùng hai động từ tiêu biểu cho diễn từ của vị Tẩy Giả –khuyến dụ– đó sẽ là một hoạt động đặc biệt của các thừa sai Kitô giáo, Cv 2,40; 15,22 – và nhất là loan báo Tin Mừng/Phúc Âm hóa. Như thế, trước cặp mắt của Luca, vị Tiền hô khai mạc việc rao giảng trong thời đại cuối cùng. Nhưng việc Phúc Âm hóa này, về mặt hình thức, không có nội dung, trong khi mà ở thời đại Kitô, Tin Mừng thường quen được xác định rõ: Tin Mừng về Vương Quốc (Lc 4,43; 8,1; 16,16; Cv 8,12) hoặc, sau Phục Sinh, Tin Mừng về Chúa Giêsu như Đấng Kitô và Đức Chúa (Cv 5,42; 11,20). Khi không nói Tin Mừng về Vương Quốc qua môi miệng của vị Tiền hô, Luca chứng tỏ rằng Gioan rao giảng khác với Chúa Giêsu; ông dẫn vào kỷ nguyên mới, không thuộc về lĩnh vực của Chúa Giêsu. Và nếu không có vấn đề đảo lộn các giá trị trong chương trình của vị Tẩy Giả, chính bởi vì việc đảo lộn này được gắn liền cách nội tại với việc Thiên Chúa đến.

 

99.        Chúa Nhật 3 Mùa Vọng

(Chú giải và suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)

 

HÃY SINH NHỮNG HOA QUẢ HỐI CẢI

 

Sự hoán cải chân thật không bao giờ chỉ dừng lại với những tâm tình tốt đẹp, nhưng phải được diễn tả ra bằng một cuộc sống tương hợp cụ thể với giáo huấn của Đức Kitô.

1.- Ngữ cảnh

Tác giả Luca đưa Đức Giêsu đi vào lịch sử dưới dấu chỉ là hoàn cảnh chính trị và tôn giáo của đế quốc Rôma và của Israel. Qua cái cổng này, ngài lấy lại cái chặng của Tin Mừng Máccô: Gioan Tẩy Giả (3,1-20), phép Rửa và việc Thánh Thần ngự xuống (3,21-22), Cám dỗ (4,1-13). Giữa phép Rửa và Cám dỗ, ngài ghép gia phả của Đức Giêsu vào (3,23-28).

 

Bản văn đọc hôm nay là trích phần đầu của phần 2 của Tin Mừng Lc.

 

2.- Bố cục

Bản văn có thể chia thành ba phần:

1) Gioan bảo dân chúng những việc phải làm (3,10-14);

2) Ông loan báo Đấng mạnh hơn đang đến (3,15-17);

3) Tóm kết sứ vụ Gioan (3,18).

Nếu muốn đầy đủ cho phần rao giảng của Gioan, thì lấy từ câu 7. Chúng tôi sẽ trình bày khởi đi từ c. 7 này.

 

3.- Vài điểm chú giải

– Đấng Mêsia (15): tức là “Đấng được xức dầu”. Ít ra từ đầu thế kỷ ii trước CN, trong Do Thái giáo Paléttina, đã kết tinh một nỗi niềm chờ mong Đấng Mêsia. Lời sấm của ngôn sứ Nathan (2 Sm 7,14-17) và “những lời cuối cùng của vua Đavít” (2 Sm 23,1-17) tiết lộ lời Thiên Chúa hứa ban một vương tộc và minh nhiên qui chiếu về vua Đavít lịch sử như là “đấng được xức dầu” của Thiên Chúa Giacóp. Xem Tv 18,51; 89,39.52; 132,10.17.

 

– Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến (16): Dịch sát là “Đang đến Đấng mạnh hơn tôi”. Luca nhấn mạnh đến động từ “đang đến” (HL. erchetai) đặt ở đầu câu; ngài đã lấy lại Mc 1,7, nhưng bỏ cụm từ “sau tôi”. Đây là một gợi ý tới bản văn Ml 3,1.23.

 

– tôi không đáng cởi quai dép (16): Hành vi này là nhiệm vụ của một nô lệ. Tập tục được thực thi như sau: người chủ đi dự một cuộc tiếp tân, có một nô lệ đi theo; vào phòng, người chủ phải cởi dép; khi đó, người nô lệ quì xuống (x. Mc 1,7) để tháo quai dép cho ông (x. Mc và Lc); và trong suốt cuộc tiếp tân, người nô lệ phải xách dép của chủ (x. Mt 3,11). Trong truyền thống kinh sư Do Thái, các kinh sư cấm môn đệ làm việc này cho thầy mình. Hình ảnh Gioan dùng nêu bật vị trí thấp kém của ông trong quan hệ với Đức Giêsu, Đấng mạnh hơn.

 

– phép rửa trong Thánh Thần và lửa (16): Nước có ý nói về nghi thức bên ngoài, thực hiện trên thân xác; còn lửa là biểu tượng diễn tả sự biến đổi bên trong tâm hồn. Trong khi nước chỉ đạt tới bề mặt của các sự vật, thì lửa thấm sâu vào, thanh luyện, soi sáng, đốt cháy. Trong phép rửa Đấng Mêsia thiết lập, người ta sẽ không gặp được thứ lửa nào ngoài thứ lửa của Thánh Thần, bởi vì chính Ngài thánh hóa các tâm hồn.

 

Dựa theo Mt 3,11, ta phỏng đoán rằng rất có thể Gioan Tẩy giả lịch sử đã không nói đến phép rửa trong Thánh Thần, nhưng là phép rửa trong “gió [khí]”, như thế để cho từ “lửa” vẫn giữ được ý nghĩa “lửa Phán xét” trong suốt bản văn. Sau đó, các Kitô hữu đã đọc lại và đã giải thích lại “gió [khí]” như là làn hơi Thánh Thần: đọc như thế cũng là hợp lý, bởi vì trong tiếng Híp-ri cũng như tiếng Hy Lạp, một từ ngữ duy nhất (Hp. ruâh, HL. pneuma) được dùng để chỉ gió và Thần Khí. Như vậy, hẳn là Gioan Tẩy Giả đã nói đến một phép rửa “trong gió [khí] và lửa” Phán xét, nhưng chẳng bao lâu (có khi là ngay lúc còn đang truyền khẩu), các Kitô hữu đã hiểu các lời này như loan báo một phép rửa “trong [Thần] Khí hoặc Thánh Thần và lửa” của Lễ Ngũ Tuần.

 

Cũng cần nói rằng không nên giới hạn tầm mức lời Gioan nói vào phép rửa mà thôi. Cần phải thấy đó là mọi cuộc thông ban Thánh Thần do Đức Giêsu thực hiện, hoặc bằng phép rửa Kitô giáo, hoặc bằng bí tích thêm sức, hoặc bằng cách nào khác: Lc 12,49 (Đức Giêsu ném lửa xuống thế gian); Cv 1,4-5 (điều Chúa Cha đã hứa); 2,1-4 (lưỡi lửa).

 

Nhưng cũng vẫn có nghĩa là lửa Phán xét. Chúng ta bị đặt giữa hai ngọn lửa: lửa Thánh Thần và lửa của cơn giận không tắt. Bởi vì Đấng Mêsia sẽ là Thẩm Phán (x. cc. 17-18).

 

– Tay Người cầm nia rê sạch lúa (17): Cái rê (ptyon, winnowing-shovel) là một dụng cụ giống cái xẻng, người ta dùng để rê lúa (“làm sạch thóc bằng cách đổ thóc từ trên cao rơi từ từ theo hướng gió để bụi và hạt lép bay ra hết”, Đại từ điển tiếng Việt), còn thóc thì rơi xuống thành đống (x. Is 30,24). Hình ảnh này được dùng để chỉ việc Đấng quyền thế hơn phân loại loài người theo giá trị của họ.

 

– thóc mẩy thì thu vào kho lẫm (17): Đống thóc tượng trưng những người sẽ được cứu bởi vị thẩm phán đang đến. Công việc phân loại của Người được diễn tả bởi hai hành động, “rê sạch” và “thu vào kho”.

 

4.- Ý nghĩa của bản văn

Gioan đến như nhà rao giảng sự thống hối và như sứ giả niềm vui. Ông ra sức giải thích cho dân chúng biết rằng sự hoán cải cần được cụ thể hóa bằng những hoa trái xứng đáng (3,7-9). Và ông dạy họ những việc cụ thể phải làm cũng như về Đấng đang đến. Ông giới thiệu hoàn cảnh trong tính nghiêm túc và trong đặc điểm cứu độ, ông không giấu giếm gì cả. Nguyện vọng duy nhất của ông là chuẩn bị cho dân đón nhận ơn cứu độ, ơn này đang hiện diện nơi Đức Giêsu Kitô.

 

Các hoa trái hối cải tuyệt đối cần thiết, ta không thể loại trừ hay trì hoãn. Với những lời lẽ hết sức mạnh mẽ, Gioan ngỏ lời với những người muốn hoán cải. Họ đến với ông bởi vì họ coi trọng lời ông loan báo và muốn nhận phép rửa. Gioan bảo họ rằng chỉ có ý muốn mà thôi thì không đủ; còn cần phải có hoa trái nữa, tức là những hành động. Thiên Chúa muốn có những hành động này. Ai không làm những hành động này, thì sẽ phải gánh lấy cơn thịnh nộ của Ngài (3,7), tức là hậu quả của một chọn lựa đi ngược lại ý Ngài muốn. Phải có một sự hoán cải thực thụ. Dĩ nhiên phải hoán cải con tim, bằng cách hoàn toàn quay hướng về Thiên Chúa. Nhưng sự hoán cải không chỉ dừng lại ở bình diện nội tâm, thiêng liêng. Nó phải được diễn tả ra trong lối xử sự bên ngoài. Người ta không thể tránh né lối sống bên ngoài bằng cách nại đến các duyên cớ nào đó. Nại đến tư cách con cháu tổ phụ Abraham cũng không ích gì. chúng ta phải luôn luôn sẵn sàng nên cũng phải luôn tìm cách sinh những hoa quà xứng với lòng hối cải.

 

* Gioan bảo dân chúng những việc phải làm (10-14)

Những người được Gioan ngỏ lời với không chỉ muốn nghe nói về cáh hoa quả cách chung chung; họ muốn biết cụ thể họ phải làm gì. Gioan không mời họ thực hành một việc đạo đức hình thức hay tham dự một nghi lễ thống hối nào; ông yêu cầu họ làm một việc cụ thể và triệt để nào đó. Ông trả lời họ không quanh co. Mọi hoa trái hối cải ông đề nghị đều liên hệ đến cách xử sự với người đồng loại. Sự hoán cải, nghĩa là việc quay về với Thiên Chúa, phải được diển tả ra thực sự qua cách thức xử sự với anh chị em mình. Sự hoán cải đòi hỏi sự chia sẻ huynh đệ và từ khước mọi thứ bất công. “Ai có hai áo, thì chia cho người không có; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy” (3,11). Lời yêu cầu này được đề nghị không những cho tất cả những ai đang sống trong sự sung túc, để họ sớt bớt phần dư thừa, nhưng còn được gửi đến tất cả những ai có thứ gì hơn mức thực sự cần thiết. Ngay người chỉ có hai áo cũng phải cho một cái và bằng lòng chỉ còn một cái, nếu người thân cận không có cái nào. Đứng trước nhu cầu của người khác, người ta chỉ được giữ lại điều gì mình cần mà thôi.

 

Người thu thuế và lính tráng cũng đến với Gioan. Đây là hai hạng người bị khinh bỉ và căm ghét, bởi vì họ thường lợi dụng địa vị mà thủ lợi. Gioan không mời họ bỏ nghề, nhưng kêu gọi họ loại trừ những hình thức xử sự bất công khi hành nghề. Người thu thuế có thể lợi dụng địa vị để đòi mức thuế cao hơn mức đã quy định để làm giàu. Những người lính có thể dùng vũ lực để ép người khác làm theo ý mình, để gia tăng đồng lương. Trong cả hai trường hợp, vấn đề là áp bức người khác để có thêm tiền bạc. Hoán cải, quay về với Thiên Chúa, không phải là chuyện thực hiện trong trừu tượng, nhưng phải được thể hiện ngay trong lãnh vực nghề nghiệp.

 

Sau này, Đức Giêsu còn yêu cầu mạnh hơn nữa: “Ai vả anh má bên này, thì hãy giơ cả má bên kia nữa. Ai đoạt áo ngoài của anh, thì cũng đừng cản nó lấy áo trong” (Lc 6,29).

 

* Ông loan báo Đấng mạnh hơn đang đến (15-17)

Một yếu tố tiêu biểu của sự cao cả của Gioan là đánh giá đúng đắn vị trí của ông. Ông đến theo bài sai của Thiên Chúa và ông hành động hết sức cương quyết. Do đó, ông đã gợi lên nới dân chúng ấn tượng là ông chính là Đấng Cứu thế thời cuối cùng, Đấng Mêsia. Ông tuyên bố rằng ông chỉ là người dọn đường, và dứt khoát hướng người ta đến Đấng đến sau ông. Ngài cao cả hơn ông vô cùng, không sao sánh ví được. Tương quan giữa ông và Đấng ấy không thể mô tả cách nào cho xứng hợp, cho dù là bằng hình ảnh “nô lệ-chủ nhân”. Gioan không xứng đáng làm một việc phục vụ thấp hèn nhất cho Đấng đang đến. Bằng cách đó, vị ngôn sứ cao cả này đã cung cấp cho chúng ta một ý tưởng về sự cao trọng của Đức Giêsu. Ngay cụ Simêôn cũng đã loan báo Ngài như là Đấng làm cho người này được nâng dậy, còn kẻ khác bị té ngã (2,34). Gioan đã mô tả cách hành động của Đấng ấy theo hai cách: Người làm phép rửa bằng Thánh Thần và bằng lửa; Người thu gom lúa và đốt vỏ trấu. Đức Giêsu có quyền thông ban thực tại cao hơn và quý hơn: Thần Khí, quyền năng sống động vĩnh hằng của Thiên Chúa, đối lập với mọi thứ bất lực, yếu đuối và mong mạnh tạm bợ. Ai không sẵn sàng với Thần Khí mang sự sống, thì phải chịu phép rửa trong lửa tiêu diệt sự sống. Đức Giêsu quy tụ lại với Người, trong sự hiệp thông vĩnh cửu, lúa (thóc mẩy), tức là những ai phù hợp với những tiêu chí nhân lành của Người; Người loại trừ và đẩy vào nơi bị dày vò muôn đời những người khác, những người trống rỗng và không có giá trị.

 

* Tóm kết sứ vụ Gioan (18)

Gioan đã “loan báo Tin Mừng” cho dân chúng? Như vậy ông là người đầu tiên loan báo Tin Mừng (Wink). Nhưng nếu theo bản văn Lc, thì dường như thiên thần Gabiel mới là vị đầu tiên loan báo Tin Mừng (1,19)! Thật ra, có lẽ nên cho rằng đây là một từ tác giả dùng để “bình” hoạt động của Gioan, là hoạt động khuyến khích người ta quay về với Thiên Chúa. Tác giả không cho thấy là có lần nào Gioan đã rao giảng về “Nước Thiên Chúa”, bởi vì ngài dành công việc này cho Đức Giêsu. Từ đó có thể nói cho dù hoạt động của Gioan là giai đoạn chuẩn bị cho giai đoạn Đức Giêsu, lời rao giảng của ông vẫn không giống với lời rao giảng của Đức Giêsu.

 

+ Kết luận

Gioan không thể loan báo một ơn cứu độ dễ dàng cho mỗi người, dù họ muốn hay không, dù họ sẵn sàng đón lấy hay không. Thiên Chúa ban ơn cứu độ, nhưng không áp đặt cho loài người chúng ta, bất kể tình trạng cá nhân chúng ta hoặc ngược lại với ý muốn của chúng ta. Bởi vì Gioan biết ý nghĩa của việc Đức Giêsu đến và biết điều gì liên hệ, ông xứng đáng vừa là sứ giả niềm vui vừa là nhà rao giảng việc hoán cải.

 

5.- Gợi ý suy niệm

  1. Sự hoán cải chân thật không bao giờ chỉ dừng lại với những tâm tình tốt đẹp, nhưng phải được diễn tả ra bằng một cuộc sống tương hợp cụ thể với giáo huấn của Đức Kitô. Các thính giả của Gioan đã hỏi: “Chúng tôi phải làm gì đây?”, và vị Tẩy Giả đã chỉ dẫn cho mỗi hạng người một cách thức cụ thể để sống hoán cải. Có người thì phải tôn trọng công bình, có người được đề nghị chia sẻ, có người thì được mời tha thứ những xúc phạm, hoặc sống lương thiện trong nghề nghiệp của mình.

 

  1. Người ta có thể yêu cầu gì nơi những con người và những dân tộc đang sống và hầu như đang chết ngộp trong sự phồn vinh phú túc, trong khi hàng triệu người đang sống cũng trên trái đất này đang chết đói? Với quyền gì mà có những người được bảo rằng họ được duy trì và đảm bảo sự phú túc của họ, trong khi những người khác thậm chí không có những cái hết sức cần thiết? Tình trạng này là một sỉ nhục, chế nhạo lời kêu gọi hoán cải theo Tin Mừng. Cho dù cá nhân không có nhiều điều kiện để hành động, người ta cũng không được chấp nhận tình trạng ấy. Họ phải làm hết sức mà chia sẻ cách huynh đệ.

 

  1. Liên kết với mỗi loại địa vị, thẩm quyền, khả năng, kiến thức… là một thứ quyền nào đó. Do đó trong mỗi loại nghề nghiệp, luôn có những nguy cơ và cám dỗ lạm dụng quyền hành để bóc lột người khác hầu thủ lợi cho mình. Mỗi thứ nghề nghiệp đều cần một nền luân lý nghề nghiệp riêng. Và mỗi người phải hành động với tinh thần trách nhiệm trong vị trí của mình và trong chính nghề của mình, phục vụ người khác bằng chính “quyền bính” của mình, chứ không lạm dụng mà làm thiệt hại đến người khác.

 

  1. Nếu Đấng Mêsia đến đưa ơn cứu độ cho thế giới, các núi đồi (những ai có quá nhiều) phải lấp đầy các thung lũng (những người có quá ít). Nơi nào còn có bất bình đẳng, sự giàu có bất công bên cạnh cảnh sống cùng quẫn, người Kitô hữu phải san bằng các núi đồi và thung lũng. Nếu chúng ta có một thứ mà người khác rất cần, phải chăng chúng ta bán với giá thật cao để trục lợi? Có khi nào chúng ta lạm dụng địa vị, nghề nghiệp để khống chế kẻ khác? Có khi nào chúng ta lạm dụng quyền bính để bắt người khác chờ hàng giờ để được một điều chúng ta có thể làm dễ dàng tức khắc cho họ?

 

  1. Xin ghi lại một suy tư của thánh Âutinh (354-430): “Gioan cao trọng đến nỗi người ta đã có thể coi ông là Đức Kitô. Chẳng cần ông phải nói ra; người ta đã nghĩ như thế rồi… Nhưng người bạn khiêm tốn ấy của chàng rể, nhiệt thành phục vụ danh dự của chàng rể, không muốn chiếm lấy chỗ của chàng rể, như một chuyện ngoại tình. Ông làm chứng cho bạn mình, ông đưa chàng rể đích thực đến với cô dâu, ông kinh tởm chuyện mình được yêu thương thay thế Người bởi vì ông chỉ muốn được yêu thương trong Người mà thôi…

 

Người môn đệ nghe tiếng thầy; người ấy đứng bởi vì đang lắng nghe thầy, bởi vì nếu người ấy từ chối nghe thầy, chắc chắn người ấy sẽ té ngã. Điều làm nổi bật sự cao trọng của Gioan trước mắt chúng ta, đó là ông đã có thể được coi là Đấng Kitô, tuy thế, ông đã chọn làm chứng cho Đức Giêsu Kitô, công bố sự cao cả của Người và hạ mình xuống, chứ không coi mình là Đấng Mêsia và tự lừa dối mình khi lừa dối kẻ khác. Do đó, Đức Giêsu có lý khi nói về ông rằng ông còn hơn là một ngôn sứ … Gioan đã tự hạ trước sự cao cả của Chúa, để sự khiêm nhường của ông đáng được sự cao cả ấy nâng lên” (Bài Giảng thứ hai lễ Sinh nhật thánh Gioan Tẩy Giả, số 288, 2; PL 38-39, 1302-1304).

 

100.     Chúa Nhật 3 Mùa Vọng

(Chú giải của Noel Quesson)

 

Đám đông hỏi ông rằng: “Chúng tôi phải làm gì đây?”

Gioan Tẩy giả “Rao giảng kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội”. Chúng ta đã đọc như thế trong Chúa nhật trước. Đám đông người Palestine thời Đức Giêsu gồm có những nông dân, đơn giản và thực tế; họ muốn sống phù hợp với phép rửa của họ. “Chúng tôi phải thay đổi những gì trong cuộc sống? Chúng tôi phải làm gì?”.

 

Chúng ta đã nhận phép rửa để tha tội trong tình trạng vô ý thức của thời thơ trẻ. Nhưng suốt cuộc đời ý thức trưởng thành, chúng ta phải sống lại “dấu chỉ” này, bí tích hoán cải này. Và chúng ta biết rằng, bí tích rửa tội đúng ra không thể tái diễn được nữa, chúng ta có thể sử dụng điều mà thần học truyền thống gọi là “phép rửa thứ hai”; đó là “bí tích sám hối” mà chúng ta chuẩn bị nhận lãnh để chúng ta cũng đón tiếp Đấng sẽ đến.

 

Cũng như đám đông Palestine, chúng ta không thể thỏa mãn với những lời nói suông với những nghi lễ. Chúng ta cần phải nhiệt tình đặt câu hỏi với Chúa: “Lạy Chúa, con phải làm gì để trở thành Kitô hữu?”.

 

Ông trả lời: “Ai có hai áo, thì chia cho người không có; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy.”

Lời rao giảng của Gioan Tẩy giả là rõ ràng, chính xác và cần thực hiện ngay không được chậm trễ. Nó không có gì thuộc phạm vi trí thức hay khó hiểu cả, chính trong cái bình thường nhất hay tầm thường nhất của cuộc sống hằng ngày (ăn, mặc…) mà sự “hoán cải” qua thân xác, sự quay lại của tâm hồn gọi là “métadola” cần được thực hiện.

 

Để xét xem những cách tuyên xưng đức tin của bạn có đúng hay không, bạn không nên kiểm tra tính xác thực có vẻ lý thuyết của chúng trong sách vở… nhưng tốt hơn hãy nhìn vô tủ áo, tủ chứa đồ ăn, những ngăn kéo và trương mục ngân hàng của bạn. Hãy chia sẻ – Hãy cho một nửa đi- Lạy Chúa, Chúa yêu cầu con những gì?

 

Chúng con nhận thấy rõ Luca người loan báo Tin Mừng của Chúa sẽ nêu gương cho chúng con qua cử chỉ điên rồ của tên vô lại Da-kêu trưởng ban thu thuế thành Giêrikhô: “Tôi cho người nghèo phân nửa tài sản của tôi” (Lc 19,9). Luca còn kể lại rằng, chính Đức Giêsu đã bảo những người giàu có đương thời sống, chia sẻ, thay vì quá lo lắng đến sự “trong sạch” của họ (Lc 11,41). Luca cũng cống hiến cho chúng ta gương mẫu của toàn thể cộng đoàn Kitô hữu: “Họ để mọi sự làm của chung” (Cv 2,44 – 4,32-35). Còn chúng ta thì sao?

 

Cũng có những người thu thuế đến chịu phép rửa. Họ hỏi ông: “Thưa thầy, chúng tôi phải làm gì?” Ông bảo họ: “Đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định cho các anh.” Binh lính cũng hỏi ông: “Còn anh em chúng tôi thì phải làm gì?” Ông bảo họ: “Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta, hãy an phận với số lương của mình.”

Từ những đám đông này, Luca rút ra được hai loại người: thu thuế và cảnh sát. Đó là những người bị người ta ghét nhất thời đó, là những người ít tư cách nhất để đón tiếp Đức Giêsu, những người sống ngoài xã hội và bị khinh bỉ, những người tội lỗi nhất, những hạng người “đểu cáng”.

 

Ở đây chúng ta cũng nhận ra rằng Tin Mừng theo Thánh Luca sẽ cho chúng ta thấy Đức Giêsu “dùng bữa nơi nhà những người tội lỗi” (Lc 5,27-30). Làm cho những người công chính rất bất bình Đức Giêsu, “ngụ tại nhà người tội lỗi” (Cl 19,7) làm cho những “người đàng hoàng” phải bực bội. Đức Giêsu nói rằng Người đến không phải vì những người công chính (Lc 5,32).

 

Mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa (Lc 3,6) cả những người thu thuế và những binh lính, cả những người tội lỗi, và cả tôi nữa. Lạy Chúa, Tạ ơn Chúa về lòng từ bi của Chúa.

 

Đối với những người thu thuế và cảnh sát của quân đội chiếm đóng, Gioan Tẩy giả không yêu cầu họ đổi nghề, nhưng chỉ cần có cung cách sống mới, tôn trọng công lý, không lạm dụng sức mạnh mình có trong tay, bằng lòng với những gì mà quyền lợi và luật pháp đã quy định. Tất cả những lời khuyên trên đây thuộc lãnh vực nghề nghiệp. Chúng nhằm đến những tội lỗi, mà người thu thuế và binh lính thời bấy giờ thường hay vấp phạm: làm giàu bằng cách lợi dụng tư thế bất khả xâm phạm do nghề nghiệp của mình, lợi dụng thế mạnh nhất của mình đang nắm giữ.

 

Còn tôi thì sao? Tôi thường phạm những tội nào do nghề nghiệp, địa vị của tôi? Tội của linh mục? Của giáo sư? Của nhân viên văn phòng? Của cô y tá? Của y sĩ? Của công chức? Của chủ xí nghiệp? Của người thợ ăn lương? Của người buôn bán? Của con cái? Của cha mẹ? Của nữ tu sĩ? Xã hội đã đổi mới biết bao, nếu tất cả những người được rửa tội đều cử hành một “phụng vụ sám hối” đích thực.

 

Còn chúng ta, chúng ta phải làm gì? Trình thuật của Luca có thể dừng ở đó. Nhu cầu “hoán cải” có thể dừng lại ở phương diện nhân bản, xã hội và luân lý. Thế nhưng, đám đông lại chờ đợi một cái gì khác.

 

Hồi đó, dân đang trông ngóng, và trong thâm tâm, ai nấy đều tự hỏi: biết đâu ông Gioan lại chẳng là Đấng Mêsia!

Ở đây Luca đổi từ ngữ những “đám đông” (tiếng Hy Lạp là ochloi) bây giờ trở thành một “dân tộc” (tiếng Hy Lạp là laos). Khối dân chúng nặc danh đạt được một phẩm giá mới, nhờ tự đặt ra cho mình một câu hỏi: họ không chỉ đợi một cái gì đó nữa, mà là một Đấng nào đó… Khát vọng căn bản của họ, là một ước muốn thầm kín, nằm sâu trong lòng họ, mà họ không biết diễn tả hay không dám diễn tả. Biết bao người ngày nay cũng như thời bấy giờ không biết “gọi tên Đấng – mà họ mong đợi trong lòng”. Có một Đấng Cứu chuộc hay không? Chúng ta có thể trông cậy ở một Đấng Mêsia, một Đấng Thiên Chúa sai đến để giải thoát tận căn những khổ đau của chúng ta không?

 

Ông Gioan trả lời mọi người rằng: “Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người.

Bề ngoài, người ta không nghe thấy họ đặt câu hỏi cách rõ ràng, nhưng Gioan Tẩy giả, do một thứ ân sủng ngôn sứ, đã đọc thấy trong lòng họ. Tôi có biết lắng nghe những gì thầm kín trong lòng các bạn đồng nghiệp, người lân cận và bạn bè của tôi không? Từ những vấn đề thuộc nhân quyền, tôi có đi đến chỗ nhìn nhận sự hiện diện của Thiên Chúa không? Người đã mời họ mở tủ áo, mở tủ đồ ăn của họ. Bây giờ Người mời họ mở lòng họ ra để tiếp gặp một Đấng đang tiến đến phía họ. Hãy lắng nghe! Lắng nghe. Những bước chân của Chúa đang đến với bạn đó.

 

Đối với Gioan, không chỉ có những diễn viên hiện diện trên sân khấu: đám đông, người thu thuế, binh lính, v.v… Nhưng có một diễn viên chính còn đang ẩn nấp. Còn đối với tôi thì sao?

 

Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa.

Đây chính là trung tâm của trình thuật Tin Mừng: Sự can thiệp cần thiết của Thiên Chúa. Hoán cải có thể là một hành vi không thường dễ dàng. Gioan Tẩy giả chỉ đòi hỏi những việc tầm thường. Các bạn hãy thử đi? Những điều Thiên Chúa đòi hỏi, dù có nhiều dạng thức nhưng đều là những gì khó có thể thực hiện: “Hoán cải”, “trở lại”, đổi đời đều khó thực hiện, nếu con người chỉ dùng sức riêng của mình. Cần phải có một hành vi của Thiên Chúa: Mỗi bí tích là một hành vi của Thiên Chúa, bằng và hơn một hành vi của con người.

 

Để mô tả tác động của Thiên Chúa, Gioan Tẩy giả dùng ba hình ảnh: Sự dìm xuống nước, gió và lửa. Trong tiếng Aramên cũng như trong tiếng Do Thái, cùng một từ là “ruah” có nghĩa vừa là “gió” vừa là “tinh thần”. Lối chơi chữ này muốn cho ta hiểu rằng, Thần khí của Thiên Chúa sẽ lay chuyển chúng ta như một cơn gió bão, một cơn bão táp mà ta bị “nhận chìm”, bị “dìm sâu” trong đó. Và Thần Khí của Thiên Chúa cũng như một ngọn lửa sẽ đốt cháy và thiêu hủy những nhơ bẩn của ta. Quả nhiên, khi Luca mô tả phép rửa trong Thánh Thần, Đấng “hoán cải” các tông đồ, thì trong ngày lễ Ngũ Tuần, sự kiện đó sẽ diễn ra qua một “tiếng gió mạnh” và những hình lưỡi giống như lưỡi lửa” (Cv 2,2-3).

 

Để giúp bạn tưởng tượng ra bí tích sám hối ngày Giáng sinh (phép rửa thứ hai), bạn hãy thử coi bạn như đang ở trong sức thiêu đốt của một cơn bão lửa… sẽ đổi mới bạn. Ôi, sự thiêu đốt đầy hạnh phúc của Thần Khí Thiên Chúa! Chúng ta có khuynh hướng biến những “chất nổ” Tin Mừng thành những thứ “kẹo bánh” dịu ngọt, tuy nhiên, đâu có hoàn toàn giống như thế!

 

Tay Người cầm nia rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi.”

Ở đây đúng là đang nói về Đức Giêsu: Người đến, tay cầm “nia” như vị thẩm phán ngày cánh chung để thu dọn và quét sạch một lần cuối cùng. Bạn đã bao giờ nhìn thấy một người rê thóc trên sân phơi của anh ta chưa? Vào một ngày có gió lớn, anh ta đứng thẳng, tay cầm chiếc nia lớn chứa thóc lẫn lộn với trấu và bụi bặm… rồi anh ta đổ xuống. Lúc đó, gió sẽ tách rời hạt nặng hơn khiến chúng rơi thẳng xuống, còn rơm trấu thì gió thổi đi xa. Người ta đem lúa vào vựa người ta đốt rơm trong lửa.

 

Chúng ta chớ lừa gạt chính mình. Chúng ta cũng không thể lừa gạt được Thiên Chúa. Một ngày nào đó, chúng ta sẽ thấy những gì có giá trị, có trọng lượng trong cuộc sống của mình, và những gì không có giá trị trong lòng dạ con người: Có bao nhiêu thóc? hay chỉ là rơm rác?

 

Mong sao cho “gió và lửa” của Thần Khí ngay từ bây giờ hãy làm ra sự thật. Nhờ “phép rửa thứ hai” tôi lãnh nhận, nhờ “hành động của Thiên Chúa”, tôi sẽ cố gắng làm nên sự thật, để chọn lựa trong cuộc sống của tôi, giữa ích kỷ và tình thương, giữa đàn áp và công lý, giữa tính ích kỷ làm nhơ bẩn tình yêu của tôi và tình yêu trong sự trong sạch của nó, giữa thái độ thực sự ngóng đợi Thiên Chúa và thái độ lãnh đạm buồn thảm đầy duy vật.

 

Ngoài ra, ông còn khuyên dân nhiều điều khác nữa, mà loan báo Tin Mừng cho họ.

Sự phán xét này không phải là những điều khủng khiếp đáng sợ, mà là một “Tin Mừng”. Chúa phán: “Không đâu, sự ác sẽ không tồn tại luôn mãi. Ta đã cầm nia rồi đấy”. Tạ ơn Chúa.

=> Tài liệu dạng Word, xin nhấn vào đây để tải về máy