Các bài suy niệm Chúa Nhật 19 thường niên – Năm B

10/08/2024

Các bài suy niệm CHÚA NHẬT 19 THƯỜNG NIÊN – B

Lời Chúa: 1V. 19, 4-8; Ep. 4, 30-5,2; Ga. 6, 41-51 

MỤC LỤC

  1. Bánh trường sinh.
  2. Bánh bởi trời
  3. Sắp hàng lãnh bánh của Chúa.
  4. Chúa Nhật 19 Thường Niên.
  5. Thánh Thể.
  6. Trường sinh.
  7. Bánh Hằng Sống.
  8. Bánh Hằng Sống.
  9. Bánh bởi trời
  10. Bánh Hằng Sống.
  11. “Ta là bánh ban sự sống”
  12. Đừng xem thường nhau.
  13. Việt Nam ăn gì cũng chết
  14. Bánh từ trời
  15. Bánh Hằng Sống từ trời xuống.
  16. Những lời thầm thì
  17. Thực phẩm trường sinh.
  18. Tin Chúa sẽ được sống muôn đời
  19. Bí quyết trường sinh.
  20. Tấm bánh bẻ ra.
  21. Tôi là Bánh từ trời xuống.
  22. Không dừng lại, không chấm dứt
  23. Chúa Nhật 19 Thường Niên.
  24. Chúa Nhật 19 Thường Niên.
  25. Thần lương độ đường.
  26. Từ trời xuống.
  27. Hình ảnh tự hiến trọn vẹn.
  28. Niềm vui được Chúa viếng thăm..
  29. “Bí Quyết Trường Sinh”
  30. “Đây Là Màu Nhiệm Đức Tin”
  31. Còn hơn manna nữa.
  32. Bánh Hằng Sống.
  33. Bánh Trường Sinh.
  34. Tâm điểm đức tin.
  35. Chúa Nhật 19 Thường Niên.
  36. Có ai thấy Chúa Cha đâu?.
  37. Bánh trường sinh.
  38. Lời hứa về Sự Sống.
  39. Bánh Trường Sinh.
  40. Ai được Cha giáo hóa thì đến với Ta.
  41. Chân lý và những hệ lụy.
  42. Nguồn trợ lực đời ta.
  43. Sắp hàng lãnh bánh.
  44. Bánh hằng sống.
  45. Bánh trường sinh.
  46. Bánh Hằng Sống.
  47. Bánh Hằng Sống.
  48. Bánh hằng sống.
  49. Của ăn đường.
  50. Chúa Nhật 19 Thường Niên.
  51. Bánh Hằng Sống.
  52. Bánh Hằng Sống.
  53. Nguồn sinh lực.
  54. Sống đời đời
  55. Dậy mà ăn, vì đường còn xa!
  56. Chúa Nhật 19 Thường Niên.
  57. Lương thực.
  58. Giúp đỡ.
  59. Thoát ly.
  60. Bánh sự sống đến từ trời
  61. Chúa Nhật 19 Thường Niên.
  62. Đường lên Núi Chúa.
  63. Một Chúa Kitô đến trong xác thịt
  64. Chúa Nhật 19 Thường Niên.
  65. Chúa Nhật 19 Thường Niên.
  66. Chúa Nhật 19 Thường Niên.
  67. Chúa Nhật 19 Thường Niên.
  68. Chúa Nhật 19 Thường Niên.
  69. Chúa Nhật 19 Thường Niên.
  70. Chúa Nhật 19 Thường Niên.
  71. Bánh Ban Sự Sống.
  72. Tôi là Bánh Ban Sự Sống.
  73. Chúa Nhật 19 Thường Niên.
  74. Chú giải của Noel Quesson.
  75. Chú giải của Fiches Dominicales.
  76. Chúa Nhật 19 Thường Niên.
  77. Chú giải của William Barclay.
  78. Chúa Nhật 19 Thường Niên.
  79. Manna mới trên đường về quê trời
  80. Lương thực trường tồn.
  81. Suy niệm các ngày trong tuần 19 TN.

*****************************

1.   Bánh trường sinh

(Trích trong ‘Manna’) 

Suy Niệm

Một ngôn sứ dũng cảm như Êlia trên núi Các-men cũng có lúc chán nản, thất vọng, chỉ muốn xin được chết. Giữa sa mạc, Êlia nằm ngủ dưới gốc cây. Ông không còn đủ sức tiếp tục cuộc hành trình. Một thiên thần đã đem đến cho ông bánh và nước, nhờ đó ông có sức đi đến núi của Thiên Chúa.

Người Kitô hữu cũng phải đi ngang qua sa mạc cuộc đời, với bao thách đố, ngờ vực, hiểm nguy… Chúng ta cần được dưỡng nuôi, nâng đỡ, để có sức đi hết cuộc hành trình về quê thật. Có thiên thần nào hiện ra đem bánh cho ta không? Có thứ manna nào từ trời rơi xuống?

– Thiên Chúa Cha muốn ban cho ta tấm bánh từ trời, đó là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa (Ga 6,32-33).

– Đức Giêsu là Tấm Bánh Cha ban cho nhân loại, và chính Ngài cũng muốn tặng bản thân mình cho ta: “Tôi là Bánh trường sinh” (c.48). “Tôi là Bánh hằng sống từ trời xuống” (c.51).

Khi nói đến Bánh hằng sống, Bánh trường sinh, chúng ta thường nghĩ ngay đến bí tích Thánh Thể và ít khi nghĩ đến Tấm Bánh Lời Chúa.

Mỗi thánh lễ là một bữa tiệc. Chúng ta được mời đến dự bàn tiệc Lời Chúa trước khi dự bàn tiệc Thánh Thể. Cả hai đều là lương thực cần thiết cho tín hữu.

Công đồng Vaticanô (PV 7) khẳng định rằng khi chúng ta nghe đọc Lời Chúa trong Phụng Vụ thì Chúa Giêsu “hiện diện trong Lời của Người, vì chính Người nói khi ta đọc Kinh Thánh trong Giáo Hội”. Như thế Chúa Giêsu vẫn loan báo Tin Mừng trong từng thánh lễ (PV 33). Ngài vẫn trao cho ta Tấm Bánh là Lời của Ngài.

Con người sống đâu chỉ nhờ cơm bánh vật chất, mà còn nhờ mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra. Đức Giêsu là Lời viết hoa của Thiên Chúa. “Thầy có những lời ban sự sống đời đời” (Ga 6,68).

Lời Chúa là thức ăn khó nuốt. Cuốn Tân Ước tôi cầm trên tay là một bản văn cổ, thuộc nền văn hóa xứ Pa-lét-tin cách đây hơn 2000 năm. Phải học hỏi, đào sâu mới hiểu đúng và hiểu đủ.

Lời Chúa cũng là thức ăn khó nuốt, vì là một lời mời gọi tôi ra khỏi mình, bỏ lại những tính toán khôn ngoan và hợp lý. Tiếng Chúa đụng đến con người tôi, ở đây, bây giờ, và mời tôi dấn thân vào một cuộc mạo hiểm. Nhưng Lời Chúa sẽ là tấm bánh thơm ngon nếu tôi biết lắng nghe và đem ra thực hành. Càng sống Lời Chúa, tôi càng gặp được ánh sáng và sức mạnh, nhất là được hiệp thông với con người Đức Giêsu.

Hãy hưởng dùng Tấm Bánh Chúa trao cho bạn, và hãy chia sẻ cho nhau kho tàng Lời Chúa. 

Gợi Ý Chia Sẻ

– Có câu Lời Chúa nào đã soi sáng cho bạn khi bạn đứng trước một chọn lựa? Có câu Lời Chúa nào đã ảnh hưởng trên đời sống của bạn?

– Theo ý bạn, để hiểu các bài Sách Thánh trong Thánh Lễ có dễ không? Thế nào là một bài giảng Lời Chúa “đạt yêu cầu”, theo ước mơ của bạn? 

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu, xin cho con nhìn thấy sự hiện diện của Chúa dưới muôn ngàn dáng vẻ.

– Chúa hiện diện lặng lẽ như tấm bánh nơi nhà Tạm, nhưng Chúa cũng ở nơi những ai nghèo khổ, những người sống không ra người.

– Chúa hiện diện sống động nơi vị linh mục, nhưng Chúa cũng có mặt ở nơi hai, ba người gặp gỡ nhau để chia sẻ Lời Chúa.

– Chúa hiện diện nơi Giáo Hội gồm những con người yếu đuối, bất toàn, và Chúa cũng ở rất sâu trong lòng từng Kitô hữu. 

Lạy Chúa Giêsu, xin cho con thấy Chúa đang tạo dựng cả vũ trụ và đang đưa dòng lịch sử này về với Chúa. Xin cho con gặp Chúa nơi bất cứ ai là người vì họ có cùng khuôn mặt với Chúa. Xin cho con khám phá ra Chúa đang hẹn gặp con nơi mọi biến cố buồn vui của đời thường. Ước gì con thấy Chúa ở khắp nơi, thấy đâu đâu cũng là nhà của Chúa. Và ước gì con đừng bỏ lỡ bao cơ hội gặp Chúa trên bước đường đời của con. Amen.

 

2.  Bánh bởi trời

(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt) 

Cuộc đời tiên tri Êlia là một cuộc chiến đấu anh dũng và kiên cường. Một mình người phải chiến đấu chống lại cả một dân tộc bỏ đạo do hoàng hậu Dêdaben cầm đầu. Người khiển trách dân chúng vì họ đã nghe theo hoàng hậu mà bỏ Chúa. Người thách thức 400 sư sãi của thần Baan trong một cuộc dâng của lễ cầu mưa. Người đã chiến thắng. Nhưng chính vì chiến thắng. Người bị hoàng hậu săn đuổi, phải chạy trốn vào sa mạc. Hôm nay, đói khát đến lả người, vị tiên tri dũng mãnh rồi cũng cảm thấy mệt mỏi rã rời. Người mất hết sức lực thể chất lẫn tinh thần. Chẳng thiết sống, người xin Chúa cất người ra khỏi thế gian phiền nhiễu đầy bất trắc. Người mất hết sức phấn đấu. Người chỉ muốn an nghỉ trong Chúa. Nhưng Chúa sai thiên thần đem bánh cho người. Ăn được bánh bởi trời, tiên tri mới đủ sức vượt qua sa mạc, sau cùng đi tới núi của Thiên Chúa.

Tương tự như thế, đời sống ta cũng là một chuyến đi về nhà Thiên Chúa. Để đến với Thiên Chúa, ta phải vượt qua sa mạc cuộc đời đầy chông gai cạm bẫy. Đường đi rất xa và rất khó khăn. Những chiến đấu có thể sẽ khiến ta mệt mỏi rã rời. Ta sẽ chẳng đủ sức đi trọn con đường nếu không được nâng đỡ, an ủi. Để giúp ta đủ sức chiến đấu và đi trọn con đường khó khăn thử thách tiến về nhà Cha. Thiên Chúa đầy tình yêu thương đã ban cho ta tấm bánh bởi trời. Tấm bánh bởi trời mà Chúa Cha ban cho ta chính là Đức Giêsu Kitô, người Con duy nhất của Người. Món quà của Chúa Cha ban được thực hiện dưới hai hình thức: Lời Chúa và Phép Thánh Thể. 

Đức Giêsu Kitô là Lời Ban Sự Sống của Thiên Chúa. Lời Thiên Chúa là Lời Ban Sự Sống. Chính Đức Giêsu đã khẳng định điều này khi Người trả lời ma quỉ cám dỗ: “Người ta sống không nguyên bởi bánh. Nhưng còn bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra”. Thật vậy, chính Lời Chúa làm cho sự sống xuất hiện. Nhờ Lời quyền năng của Thiên Chúa, vũ trụ được tạo thành. Lời Chúa là lẽ sống của Đức Giêsu, nên trọn đời Người luôn đi tìm thực hiện thánh ý Chúa Cha: “Lương thực của Thầy là làm theo ý Đấng sai Thầy”. Xưa kia, Thiên Chúa nói qua trung gian các tổ phụ và các tiên tri. Nay, Đức Giêsu là Lời của Thiên Chúa trực tiếp nói với nhân loại. Lời Người ban sự sống cho Ladarô, cho con trai bà góa thành Naim. Lời Người tha thứ tội lỗi cho Mađalêna, cho người phụ nữ ngoại tình, cho Giakêu. Lời Người hoán cải người phụ nữ xứ Samaria. Người đưa tất cả những người tội lỗi trở về con đường sự sống. Lời Người đã giúp cho bao thế hệ tìm thấy lẽ sống. Lời Người ban cho họ một sự sống mới, tươi trẻ, phong phú, dồi dào hơn. Chính vì thế, thánh Phêrô đã lên tiếng tuyên xưng: “Lạy Thầy, bỏ Thầy chúng con biết đi theo ai. Chỉ Thầy mới có những Lời ban sự sống đời đời”.

Ban Lời hằng sống chưa đủ với tình yêu thương của Người, Đức Giêsu còn ban cho ta chính bản thân Người trong bí tích Thánh Thể. Thật là một tình yêu sâu xa tha thiết. Khi nuôi dưỡng ta bằng chính thịt máu Người, Đức Giêsu không những muốn kết hiệp mật thiết với ta trong từng thớ thịt, từng dòng máu, mà Người còn muốn ban cho ta sự sống đời đời. Bí tích Thánh Thể là lương thực thần linh. Lương thực thần linh ban sự sống thần linh. Qua bí tích Thánh thể, sự sống thần linh dần dần thấm nhập bản thân ta. Đây là một tiến trình thần hóa chầm chậm. Ta trở nên một thân thể với Đức Giêsu. Ta sống cùng sự sống của Người, sự sống đời đời trong hạnh phúc của Thiên Chúa.

Thánh lễ chính là bữa tiệc trong đó Thiên Chúa dọn ra hai bàn tiệc. Bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Thánh Thể. Cả hai bàn tiệc cũng đều là chính Đức Giêsu. Trong thánh lễ, ta nghe lời Chúa dạy dỗ ta. Lời Chúa chỉ cho ta con đường ngay thẳng, con đường hạnh phúc, con đường đưa ta về với Chúa. Thánh Thể Chúa ban sức mạnh giúp ta đủ sức đương đầu với những khó khăn thử thách của cuộc đời. Bởi thế, khi tham dự thánh lễ, ta cần lưu ý lắng nghe Lời Chúa. Chúa muốn nói riêng với từng người. Hãy lắng nghe để tìm ra điều Chúa muốn nhắn gửi. Hãy lắng nghe để tìm ra lẽ sống. Hãy lắng nghe để biết con đường phải đi. Lời Chúa là con đường đưa tới sự thật và sự sống.

Hãy rước lễ một cách kính cẩn sốt sắng. Phép Thánh Thể chính là một quà tặng của tình yêu Thiên Chúa. Hãy hưởng nếm sự ngọt ngào được kề cận Thiên Chúa. Hãy múc lấy nơi Thánh thể nguồn sức mạnh để thắng vượt những thử thách trong cuộc đời. Hãy để Thánh Thể uốn nắn, biến đổi ta để ta ngày càng nên giống Người hơn. Hãy nếm cảm hương vị thiên đàng ngay khi còn tại thế. 

Lạy Chúa là Cha vô cùng yêu thương, con cảm tạ Cha đã ban cho con chính Con Một yêu quý của Cha làm bánh trường sinh nuôi dưỡng và đưa chúng con vào sự sống đời đời.

 

3. Sắp hàng lãnh bánh của Chúa

(Suy niệm của ĐGM. Arthur Tone) 

Trong những cơn khủng hoảng kinh tế của thập niên 1930, hàng triệu người Mỹ thất nghiệp, và hàng triệu người bị đói. Ở một số thành phố, những nhóm tu sĩ tổ chức phát chẩn cho những người bị đói, một trong những nhóm đó là tu viện Thánh Phanxicô ở số 1615 Vine street (Phố Cây Nho) tỉnh Cincinnati, tiểu bang Chio. 

Mỗi ngày bánh mì kẹp thịt được phân phát cho hàng trăm người đói, đàn ông, đàn bà đứng xếp hàng đợi đến 5 giờ chiều để được phát bánh. Cả ngày, hai thầy dòng Phanxicô và năm, bảy người giáo dân trợ giúp, làm bánh mì kẹp thịt và gói lại. Nhìn những người sa cơ lỡ thế ấy nhận bữa ăn tạm, tôi thấy: nhiều người nhận gói bánh mỉm cười và cám ơn, có người mắc cở, giật lấy gói bánh rồi lẩn mất, có người mở gói bánh ngay, ăn liền và vội vàng ra đi, có người cầm gói bánh đi vào một ngõ hẻm. Ít, rất ít người mở gói bánh ra, rồi liệng đi tất cả. Một vài người ăn thịt còn bánh liệng đi. Hầu hết ăn trọn một tấm bánh, một vài người ăn thịt còn bánh liệng đi. Hầu hết ăn trọn tấm bánh, một vài người ăn một phần, bỏ đi một phần, có người gói lại và để dành một phần. Nhiều người gọn gàng bỏ giấy gói vào thùng rác. Những người khác thì xả rác bừa bãi trên đường. Thỉnh thoảng một vài người làm dấu thánh giá.

Cách thức những người bất hạnh đến xin ăn, phần nào giống như cách thức những người nghe đón nhận lời Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay: “Tôi là bánh sinh sự sống từ trời đến, ai ăn bánh này sẽ được sống đời đời. Và bánh Tôi sẽ ban là Thịt Tôi vì sự sống của thế gian”.

Trong thời đại Chúa Giêsu và trong thời đại chúng ta có người lẩm bẩm: “Không thể được, ông ấy chẳng có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn, và máu mình cho chúng ta uống”. Họ quên rằng Đức Giêsu là Thiên Chúa. Người khác đón nhận bánh của Người nhưng đức tin yếu ớt. Có người còn nói họ tin nhưng đức tin của họ yếu ớt. Có người nói họ tin nhưng việc làm của họ là từ chối. Họ không đón nhận thường hơn như họ có thể. Bạn có thể tưởng tượng một người đó ở Cincinnati lại lười biếng không đến nhận bánh Sandwich được cho không?

Có người Công giáo rước lễ với lòng biết ơn, có người nghĩ là họ làm ơn cho Đức Kitô, cho vị linh mục.

Một số lãnh nhận được rất ít sự bổ dưỡng thiêng liêng trong việc rước lễ. Vì họ đến bàn thánh thiếu chú ý và chuẩn bị cẩn thận. Cám ơn Chúa. Hầu hết những người Công giáo ý thức rằng của ăn thánh chúng ta đón nhận nơi đây, tại bàn thờ này sẽ giữ gìn chúng ta sống động và lành mạnh thiêng liêng.

Tất cả nhân loại đang đói khát Đức Kitô, có khi họ còn chưa được nghe nói về Người. Nhiều người thực sự đang khao khát Đức Kitô, nhưng họ không biết cái gì, hoặc ai sẽ thỏa mãn cơn đói của họ.

Đức Kitô đã chuẩn bị phát chẩn, phát chẩn Thánh Thể để cho chúng ta, vâng, cho mỗi người chúng ta của ăn là chính Ngài, để thêm sức mạnh và giúp chúng ta sống mãi mãi.

Xin Chúa chúc lành bạn.

 

4. Chúa Nhật 19 Thường Niên

(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn) 

LỜI VÀ THÁNH THỂ GIÚP TA SỐNG GIỐNG CHÚA 

Phim Hàn Quốc ‘Cuộc Đời Lớn’ kể rằng trong một đất nước văn minh giàu có, có 2 gia đình ông Chô-bin-son trí thức giàu có, gia đình Quan-ti-súp cũng giàu có, trí thức. Ấy thế chẳng hạnh phúc gì, cha con thù hằn, đòi giết nhau chẳng còn tính người. Có người nói rằng phim ảnh chỉ là hư cấu mà thôi không có ở ngoài đời. Không! Có tích mới dịch ra tuồng chứ! Cụ thể, theo thống kê của trang điện tử www.tin24.com cho biết mỗi ngày Việt Nam có trung bình mỗi ngày có hơn 1.300 thai nhi bị giết hại, mỗi ngày hơn 35 người chết vì tai nạn giao thông, mỗi ngày có thêm 50 – 100 người nhiễm AIDS, và mỗi ngày những vụ án hình sự lại nhiều trò man rợ kinh hoàng hơn…Như vậy, con người có còn là “nhân chi sơ tính bản thiện” hay đã bị thoái hóa mất tính người? Tại sao hằng ngày con người đang phải đối đầu với bao cái ác hoành hành làm mất đi luân thường đạo lý, tại sao lại dễ dàng làm điều xấu, hại người hơn là làm điều tốt? Tại sao con người văn minh như thế đáng lý ra phải cứu sống thay vì giết chết?

Con người là hình ảnh Thiên Chúa. Con người vượt lên trên muôn loài muôn vật vì “Chúa cho con người chẳng thua kém thần linh là mấy, ban vinh quang danh dự làm mũ triều thiên, cho làm chủ công trình tay Chúa sáng tạo,đặt muôn loài muôn sự dưới chân” (Tv 8,6-7). Như vậy, con người có tương giao với Thiên Chúa, và với nhau. Con người bởi Thiên Chúa mà ra, mà Thiên Chúa là toàn chân, toàn thiện và toàn mỹ. Cho nên, chúng ta phải giống Chúa về thiện và mỹ. Nhưng cuộc đời đầy khó khăn và gian khổ, con người luôn bị cám dỗ bởi dục vọng, dục tính. Vì con người chẳng thua kém thần linh là mấy cho nên chúng ta phải chiến đấu để cuộc sống này bình an và lành thánh và mai sau được hạnh phúc sống đời đời với Chúa. Vậy, để giúp ta đủ sức chiến đấu và đi trọn con đường khó khăn thử thách này, Thiên Chúa đã ban cho dân Ít- ra-en khi xưa và chúng hôm nay chính là Tấm Bánh bởi trời, đó chính là Đức Giêsu Kitô, cụ thể hơn là Lời Chúa và Thánh Thể.

Đức Giêsu Kitô là Lời Ban Sự Sống của Thiên Chúa. Chính Đức Giêsu đã khẳng định điều này khi trả lời ma quỉ cám dỗ Ngài: “Người ta sống không nguyên bởi bánh. Nhưng còn bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra” (Mt 4,4). Thật vậy, chính Lời Chúa làm cho sự sống xuất hiện. Lời Chúa tạo thành vũ trụ. Lời Chúa đem lại sự sống cho Ladarô, cho con trai bà góa thành Naim. Lời Chúa tha thứ tội lỗi cho Mađalêna, cho người phụ nữ ngoại tình, cho Giakêu. Lời Chúa hoán cải người phụ nữ xứ Samaria. Lời Chúa đưa tất cả những người chết trong tội lỗi trở về sống trong thánh thiện. Lời Chúa giúp cho bao thế hệ tìm thấy lẽ sống cho đời mình. Và Lời Chúa ban ban lại cho con người có một sức sống mới, tươi trẻ, phong phú, dồi dào hơn. Chính vì thế, Chúa Giêsu hôm nay mời gọi rằng: “Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy, và tôi, tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết. Xưa có lời chép trong sách các ngôn sứ: Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ. Vậy phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Chúa Cha, thì sẽ đến với tôi” (Ga 6,44-45).

Ban Lời hằng sống chưa đủ với tình yêu thương của Người, Đức Giêsu còn ban cho ta chính bản thân Người trong bí tích Thánh Thể. Khi nuôi dưỡng ta bằng chính thịt máu Người, Đức Giêsu không những muốn kết hiệp mật thiết với ta trong từng thớ thịt, từng dòng máu, mà Người còn muốn ban cho ta sự sống đời đời. Bí tích Thánh Thể là lương thực thần linh. Lương thực thần linh ban sự sống thần linh. Qua bí tích Thánh thể, sự sống thần linh dần dần thấm nhập bản thân ta và ta trở nên một thân thể với Đức Giêsu. Từ đây, ta sống cùng sự sống của Người đồng thời có cùng tư tưởng, lời nói và hành động như Chúa. Cho nên, Thánh Phaolô trong bài đọc 2 dạy rằng: “Anh em chớ làm phiền lòng Thánh Thần của Thiên Chúa, vì chính Người là dấu ấn ghi trên anh em, để chờ ngày cứu chuộc. Đừng bao giờ chua cay gắt gỏng, nóng nảy giận hờn, hay la lối thoá mạ, và hãy loại trừ mọi hành vi gian ác. Trái lại, phải đối xử tốt với nhau, phải có lòng thương xót và biết tha thứ cho nhau, như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Đức Ki-tô” (Ep 4,30).

Mỗi Thánh lễ, Chúa ban cho ta Lời Chúa và Thánh Thể Ngài. Lời Chúa chỉ cho ta con đường đưa đến hạnh phúc, bình an, yêu thương và sự sống. Khi rước Thánh Thể Chúa vào lòng, ta được kết hiệp mất thiết với Ngài, xóa bỏ tội nhẹ và giúp ta xa tránh tội trọng. Thế nhưng, chúng ta đời sống chúng ta phải luôn kết hiệp với Chúa thật sự không chỉ qua Bí tích Thánh Thể, mà còn ở Lời Chúa. Lời Chúa là bánh ban sự sống cũng có giá trị ngang hàng với bàn tiệc Thánh Thể. Chúa là tấm bánh được ban để cho chúng ta ăn. Và khi chúng ta ăn, chúng ta cũng phải trở thành bánh thịt ngon, để anh em chúng ta có thể ăn. Chúng ta sống bằng tình thương, bằng lời Chúa và bằng chính cuộc sống của Ngài thế nào, thì mọi người chung quanh chúng ta cũng được sống bằng tình thương, bằng lời nói và bằng chính cuộc sống tín hữu của chúng ta như vậy.

Nếu tất cả cuộc đời, lời nói và hành động của chúng ta đều xuất phát một cách chân thành từ tình thương, thì chúng ta sẽ là những tấm bánh thơm ngon cho ngưới anh em. Còn nếu cuộc đời chúng ta chỉ toàn gương xấu, tính ích kỷ, chỉ biết lo đến phần rỗi của riêng cá nhân mình: ai chết mặc ai, miễn là ta lên thiên đàng, thì không ai gọi chúng ta là những tấm bánh được, mà chỉ là một thứ rác rưởi, một thứ cặn bã cần tống đi mà thôi. Vì vậy, Lời Chúa trong bài đọc 2 Thánh Phaolô dạy chúng ta rằng: “Hãy bắt chước Thiên Chúa, vì anh em là con cái được Người yêu thương, và hãy sống trong tình bác ái, như Đức Ki-tô đã yêu thương chúng ta, và vì chúng ta, đã tự nộp mình làm hiến lễ, làm hy lễ dâng lên Thiên Chúa tựa hương thơm ngào ngạt. Chuyện gian dâm, mọi thứ ô uế hay tham lam, thì dù nói đến, anh em cũng phải tránh, như thế mới xứng đáng là những người trong dân thánh. Đừng nói lời thô tục, nhảm nhí, cợt nhả: đó là những điều không nên; trái lại, phải tạ ơn Thiên Chúa thì hơn” (Ep 5,1-4). 

Lạy Chúa là Cha vô cùng yêu thương, con cảm tạ Cha đã ban cho con chính Con Một yêu quý của Cha làm bánh trường sinh nuôi dưỡng và đưa chúng con vào sự sống với Chúa ngay ở đời này và đời sau nữa. Amen.

 

5.   Thánh Thể

Ta là bánh từ trời xuống ai ăn bánh này thì sẽ được sống đời đời. Đức Kitô là bánh bởi trời, nhưng không phải đã rớt xuống như manna trong sa mạc. Trái lại cũng như tấm bánh được hình thành qua nhiều giai đoạn. Trước hết phải có hạt giống, phải có người gieo trồng, phải có người làm cỏ và bón phân. Rồi phải có mưa có nắng, phải có người gặt, phải có người xay bột và sau cùng phải có người làm bánh và khi ăn chúng ta phải bẻ, phải cắt ra từng miếng.

Đức Kitô tấm bánh chúng ta bẻ ra hôm nay trong bàn tiệc Thánh Thể cũng đã phải trải qua nhiều giai đoạn hình thành như thế. Có thể nói ngài là hạt lúa miến tinh tuyền đã được gieo cấy trong trần gian. Ngài đã lớn lên dưới ánh nắng mặt trời của xứ Nadarét, đã vươn lên trên nhân loại tội lỗi này, tựa như cây lúa vươn lên giữa khoảng bùn lầy. Rồi Ngài đã bị gặt hái, nghĩa là bị bắt, bị đánh đập, bị nghiền nát. Cuối cùng Ngài bị nướng trong lò nghĩa là đóng đinh, bị bẻ ra nghĩa là bị đâm thấu tận trái tim. Do đó trong tấm bánh bẻ ra hôm nay chúng ta phải thấy được Đức Kitô chịu chết như lời thánh Phaolô: Mỗi lần ăn và uống chén này là anh em loan truyền việc Chúa chịu chết. Đức Kitô không thể trở thành bánh nuôi chúng ta nếu Ngài không chấp nhận cái chết trên thập giá bởi vì Ngài có chết thì mới làm cho chúng ta được sống.

Đồng thời như chúng ta thường thấy: Bữa cơm quy tụ mọi người trong gia đình thế nào thì bàn tiệc Thánh Thể cũng quy tụ những người con cái Chúa như vậy. Ngay từ những ngày đầu tiên Giáo Hội đã ý thức rằng Thánh Thể là bí tích, là dấu chỉ sự sự hiệp nhất: Chúng ta tuy nhiều, nhưng cùng chia sẻ một tấm bánh và làm nên một thân thể. Bởi đó nếu chúng ta đến nhà thờ mà không có sự chia sẻ hiệp thông thì bàn tiệc Thánh Thể chẳng còn ý nghĩa gì mấy. Chúng ta rước lấy Chúa vào lòng cũng giống như kẻ ngồi vào bàn ăn, nếu chỉ biết có mình với chén cơm, thì bữa ăn cũng chẳng còn ý nghĩa sâu xa tốt đẹp.

Do đó, phải luôn ý thức rằng Thánh Thể là dấu chỉ của sự hiệp nhất và chúng ta chỉ thực sự có quyền đón nhận Thánh Thể khi yêu thương hiệp nhất với anh em. Đưa tay đón nhận Thánh Thể Chúa cũng chính là mở rộng bày tay đón nhận tất cả mọi anh em là chỉ thể của Ngài. Mở rộng lòng đón rước Chúa là mở rộng trái tim đón nhận mọi anh em. Chúng ta đã thực sự sống tình bác ái yêu thương và hiệp nhất mà bí tích Thánh Thể đòi hỏi hay chưa?

 

6.   Trường sinh 

Tần Thuỷ Hoàng là người đã xây Vạn Lý Trường Thành, dài hơn 2000 dặm. Đây là một kiến trúc duy nhất mà các phi hành gia có thể nhận ra từ phía ngoài không gian. Ông rất sợ chết. Ngày kia, các chiêm tinh gia kể cho ông nghe về một hòn đảo thần tiên ở biển Đông. Dân cư ở đó đã khám phá ra bí quyết trường sinh. Thế là ông bèn phái một số tàu thuyền chất đầy châu báu, lên đường tiến tới hòn đảo ấy với hy vọng có thể dùng những báu vật để trao đổi lấy bí quyết trường sinh. Tuy nhiên dân cư ở đây lại nhất định không chịu đổi.

Từ ngàn xưa và cho đến ngày hôm nay, con người đã từng ước mơ được sống mãi và chẳng bao giờ phải chết. Nào là những viên thuốc trường sinh của bà Tây Vương Mẫu, nào là những trái đào bất tử. Ngày nay, ngành y dược đã biến bộ, người ta tìm thấy những phương thuốc để kéo dài tuổi thọ. Nhưng rồi cuối cùng con người vẫn cứ phải chết.

Vì thế, chẳng lạ gì khi Chúa Giêsu bắt đầu nói về cuộc sống vĩnh cửu, thì dân chúng bèn kéo đến để nghe. Dân Do Thái vốn tin rằng có một thế giới của người chết, nhưng họ chẳng có khái niệm gì về thế giới ấy. Bởi đó họ sẵn sàng đón nhận bất cứ tia sáng nào dọi soi vào mầu nhiệm này.

Thế nhưng, họ đã lắc đầu khi nghe Chúa Giêsu xác quyết: Ta là bánh Hằng Sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban cho chính là thịt Ta. Dân chúng bắt đầu lẩm bẩm: Người này chẳng phải là anh chàng Giêsu, con trai ông Giuse đó sao? Thế mà anh ta lại dám mạo nhận là bánh từ trời xuống.

Còn chúng ta thì sao? Cũng chính vì chấp nhận mầu nhiệm này mà chúng ta đã tụ tập với nhau để nghe Chúa nói về cuộc sống vĩnh cửu, cũng như để được nuôi dưỡng bằng Mình Máu Thánh Chúa Giêsu, bánh ban sự sống. Cái bí quyết được trường sinh, cái viên thuốc bất tử hiện đang ở giữa chúng ta… ngay trong ngôi thánh đường này. Đó là Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, nguồn mạch trường sinh.

Ngài ở với chúng ta bằng thần trí như Ngài đã nói: Bất cứ ở đâu có hai hoặc ba người tụ họp nhân danh Ta, Ta sẽ ở đó với họ.

Ngài còn ở với chúng ta bằng lời của Ngài. Điều Ngài đã nói cách đây 2000 năm với dân chúng cũng là điều Ngài vừa nói với chúng ta quan đoạn Tin Mừng vừa nghe.

Cuối cùng Chúa Giêsu hiện diện với chta trong bí tích ban sự sống như lời Ngài đã xác quyết: Ai ăn bánh này thì sẽ được sống đời đời. Đứng trước mầu nhiệm tuyệt vời ấy chúng ta hãy bắt chước các môn đệ mà kêu cầu Chúa: Lạy Chúa, xin gia tăng niềm tin nhỏ bé của chúng con.

 

7.   Bánh Hằng Sống

(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy) 

Tin Mừng Ga 6: 41-51: Khi nói về bí tích Thánh Thể, trước hết chúng ta phải hiểu cho đúng các từ “ăn” và “uống”, “thịt” và “máu” theo nghĩa tâm linh. 

  1. Bánh Hằng Sống

Từ xa xưa, con người đã mơ ước được sống trường sinh bất tử. Mỗi lần thấy một người thân chết, thì niềm mơ ước bất tử này càng ám ảnh con người dữ dội hơn. Vì thế chẳng lạ gì khi Chúa Giêsu xuất hiện ở Palestine và bắt đầu nói về cuộc sống vĩnh cửu thì dân chúng liền ùa đến nghe Ngài nói.

Đám đông dân chúng Do Thái rất chú tâm đến vấn đề này vì kể từ thời Abraham và Moisen họ triền miên sống trong mù mịt, chẳng hiểu chút gì về những điều xảy đến cho những người đã chết. Họ tin rằng có một “thế giới của người chết”, nhưng họ chẳng có một khái niệm gì về thế giới ấy, vì thế, họ sẵn sàng đón nhận bất cứ tia sáng nào Chúa Giêsu soi dọi vào sự bí nhiệm này. Khi nói: “Ta là bánh hằng sống từ trời xuống… Ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời. Bánh của Ta ban chính là Thịt Ta để cho thế gian được sống”, Chúa Giêsu mặc khải cho chúng ta biết cuộc sống nơi trần gian này không phải là cuộc sống duy nhất và chết không phải là chấm hết. Nhưng còn có một cuộc sống mai hậu không bao giờ chấm dứt, đó là cuộc sống vĩnh cửu, cuộc sống trường sinh. 

  1. Bánh Hằng Sống chính là bí tích Thánh Thể

Khi nói về bí tích Thánh Thể, trước hết chúng ta phải hiểu cho đúng các từ «ăn» và «uống», «thịt» và «máu» theo nghĩa tâm linh. Ăn và uống vật gì là được nuôi dưỡng, được trở nên mạnh mẽ bởi chính vật ấy. Thịt và máu một người nói lên chính bản thân hay bản chất người ấy. Ăn thịt và uống máu Đức Giêsu hiểu theo nghĩa tâm linh là được bổ dưỡng, được trở nên mạnh mẽ bởi chính bản chất Đức Giêsu.

Bản chất của Đức Giêsu là điều cốt yếu và hết sức quan trọng để có thể «ăn» và «uống» Mình Máu Ngài. Trước tiên, Ngài chính là Thiên Chúa, là một vị thần linh. «Ăn» và «uống» Ngài chính là làm cho bản chất của Ngài thấm nhập vào bản chất của ta, làm cho ta càng ngày càng trở nên như Ngài, nói cụ thể hơn là giống như Ngài, trở nên một với Ngài.

Nghĩa là ta cũng trở nên thần linh, trở nên nguồn sự sống, nguồn tình yêu, nguồn sức mạnh, nguồn trí tuệ, nguồn của tất cả mọi sự thiện hảo. Để rồi cuối cùng trở nên đúng như Ngài đã nói: Ai uống nước tôi cho, «nước» ở đây chính là bản thân Ngài, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên đem lại sự sống đời đời» (Ga 4,14). Lúc đó ta sẽ không còn khao khát một thứ gì nữa, nghĩa là được thỏa mãn mọi bề, được tràn đầy hạnh phúc, vì Ngài đã là tất cả rồi. Và mọi người sẽ thấy ở nơi ta một nguồn mạch tràn đầy sức sống, tình thương, khôn ngoan, can đảm, nghị lực… luôn luôn «vọt lên». Nhờ đó, chẳng những chính bản thân ta tràn đầy hạnh phúc, mà ta còn làm cho tất cả những người chung quanh ta hạnh phúc bằng sự dấn thân phục vụ không mệt mỏi của ta nữa. 

  1. Bánh Hằng Sống chính là Thịt Ta để cho thế gian được sống

“Ta là bánh hằng sống từ trời xuống… Ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời. Bánh Ta ban là chính Thịt Ta để cho thế gian được sống”.

Có lẽ chúng ta vẫn chưa xác tín vào lời của Chúa. Chúng ta vẫn chưa tin đủ mỗi khi chúng ta rước lễ, chính là lúc chúng ta rước Mình và Máu Chúa. Thì đây là một bằng chứng cụ thể để củng cố đức tin của chúng ta nơi bí tích Thánh Thể.

Năm 700, tại tu viện thánh Longino ở Lanciano, nước Ý. Cha Basiliô, đã dâng Thánh Lễ nhưng lại hoài nghi về mầu nhiệm Chúa biến bánh rượu nên Mình Máu Thánh Chúa, thì Chúa đã làm một phép lạ như một bằng chứng cụ thể về phép Thánh Thể, được gọi là phép lạ Lanciano. Sau khi cha Basiliô truyền phép, Bánh đã trở nên Thịt và Rượu đã trở nên Máu, còn được cô đọng đến ngày nay. Một cuộc khảo sát khoa học được thực hiện vào năm 1971 cho biết, thịt đây là một thớ thịt từ trái tim, máu là máu của một người thuộc nhóm máu AB (vết máu trên chiếc khăn liệm Turin cũng thuộc nhóm máu AB).

Ngày nay, Thịt và Máu Chúa được lưu giữ trong hào quang qúi giá gọi là Hào Quang phép lạ Thánh Thể Lanciano, có từ năm 1713 và thánh đường thánh Phanxicô, nơi lưu giữ, trở nên một trung tâm hành hương về sự hiện diện của Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể. 

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, xin ban đức tin cho chúng con. Amen.

 

8.   Bánh Hằng Sống. 

Cách đây không lâu, dân chúng tại thủ đô Paris đã bàn tán xôn xao vì một mẩu tin khủng khiếp: Một sinh viên gốc Nhật, đã giết một cô gái, chặt ra từng khúc, rồi bỏ vào tủ lạnh định ăn dần cho đến hết. Khi bị bắt, anh ta đã khai như sau: Cô gái ấy là người yêu của tôi. Tôi yêu cô đến độ muốn biến cô ấy thành máu thịt của tôi, cho nên đã giết đi và ăn thịt cô ấy. Chỉ tiếc rằng mới ăn được có vài ngày thì đã bị phát giác.

Mẩu chuyện trên khiến cho chúng ta cảm thông được thái độ của người Do Thái khi nghe Chúa Giêsu xác quyết: Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì sẽ được sống đời đời. Vấn đề không gây ra một ngộ nhận nào, Ngài đã lặp đi lặp lại lời xác quyết ấy.

Cô gái nói trên hẳn không bao giờ có được cái ý tưởng điên khùng là trở nên của ăn cho người mình yêu, hầu hai người trở nên một. Thế nhưng cái sáng kiến điên khùng ấy đã được Thiên Chúa thực hiện qua Đức Kitô. Ngài đã để cho mình bị giết và trở nên lương thực cho những người mình yêu quý. Trước một cái gì quá sức tưởng tượng, con người bỗng trở nên dửng dưng vì vậy hiện nay có biết bao nhiêu người chịu Mình Thánh Chúa mà không hề cảm thấy được hiệp nhất trong tình yêu. Máu thịt Đức Kitô không chỉ là Mình Thánh trong bí tích Thánh Thể, mà còn là lời Chúa bởi vì “Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta”. Ngày hôm nay Chúa phán: Ai ăn bánh này thì sẽ được sống muôn đời. Đây không phải là một lời hứa nhưng là một lời xác quyết, một lời khẳng định.

Thế nhưng, rất nhiều người đã từng nghe lời Chúa, đã từng rước lễ mà sao đời sống nội tâm vẫn cứ èo uột. Có thể vì họ không gắn bó với Chúa. Có thể họ chưa bao giờ đọc Lời Chúa với tâm trạng của một người yêu đọc bức thư tình. Có thể họ chưa đủ tin như người Do Thái ngày xưa.

Phúc Âm cho chúng ta thấy: Người đàn bà mắc chứng bệnh băng huyết, đã chạm đến gấu áo Ngài với niềm tin mãnh liệt và rồi bà đã được chữa khỏi, bởi vì sức mạnh từ Ngài được chuyển thông cho bà.

Với chúng ta cũng vậy, đến với Thánh Thể mà thiếu đi niềm tin yêu, thì e rằng miếng bánh ấy không bổ dưỡng bằng thức ăn vật chất. Đến với Thánh Thể mà thiếu đi niềm tin yêu, thì sợ rằng nó không hấp dẫn và hữu hiệu bằng một đoạn sách tầm thường. Ngôi Lời đã làm người. Và con người ấy đã trở nên lương thực nuôi sống tâm hồn chúng ta.

Nếu ngày hôm nay, bản thân chúng ta chưa tìm được sự bình an, và cuộc đời chúng ta vẫn còn nặng nề và mệt nhọc. Nếu cõi lòng chúng ta vẫn dửng dưng trước tiếng gọi của anh em, thì lỗi chắc chắn không phải là do Chúa. Ai ăn bánh này thì sẽ được sống đời đời. Phải chăng tôi quá ốm yếu để không dùng nổi thứ lương thực trường sinh này?

 

9. Bánh bởi trời

(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)

Thân xác con người cần được nuôi sống bằng những thực phẩm thông thường như bánh, cơm, thịt, cá… Tuy nhiên, có những thứ khác tuy không là thực phẩm như cơm bánh nhưng cũng cần cho sự phát triển trí tuệ con người nên cũng được xem là lương thực – thường được gọi là lương thực tinh thần- như sách, báo và nhiều loại văn hoá phẩm khác.

Lại còn có những thứ “bánh” khác cao cấp hơn, tuy không phải là thực phẩm thông thường như cơm cháo, không phải là lương thực tinh thần như sách báo, nhưng rất cần cho con người được sống và tăng trưởng. Điển hình cho thứ “bánh” nầy là… người mẹ!

Nhà thơ Kiên Giang viết về người mẹ như một thứ ‘cơm bánh’ tối cần giúp ông lớn lên thành người:

“Ngày xửa ngày xưa thời trẻ dại

Con đau rên siết mẹ sầu lo.

Bán đôi bông cưới mua thang thuốc

Mua bánh tai heo giấy học trò.

Đêm nao con khóc đòi ru ngủ

Mẹ thức mõi mòn nhịp võng đưa,

Thân lạnh nằm khoanh lòng mẹ ấm

Mẹ ơi! Con lớn giữa niềm ru…”

(Trích: Khói trắng của Kiên Giang)

Mẹ là “bánh” cho con, một thứ bánh rất cần thiết cho con được sống còn; vì nhờ dạ mẹ mà con được tượng hình và được sinh ra; nhờ dòng sữa mẹ mà con tăng trưởng từng ngày; nhờ lời mẹ ru mà con được yên giấc; nhờ sự ấp yêu vỗ về của mẹ mà con được hạnh phúc; nhờ mẹ lo liệu thuốc men mà con thoát khỏi những cơn bệnh ngặt nghèo; nhờ mẹ kiên trì dạy dỗ mà con được khôn ngoan; nhờ mẹ thương yêu mà con được trở thành người nhân ái… Mẹ là thứ “bánh” tuyệt vời mà đời con không thể thiếu. Mẹ là lương thực quý báu giúp con lớn thành người.

Tuy nhiên, dù được xem là tấm “bánh” rất cần thiết nuôi con lớn thành người, nhưng người mẹ cũng chỉ là “bánh” thuộc trần gian nên không thể đem lại sự sống lâu dài cho con cái. Vì thế, nhân loại cần có một thứ “bánh” cao cấp hơn có thể mang lại cho họ sự sống đời đời. Đó chính là Chúa Giêsu, Người là “Bánh trường sinh, là Bánh hằng sống từ trời xuống” như lời Người phán:

“Tôi là bánh trường sinh. Tổ tiên các ông đã ăn man-na trong sa mạc, nhưng đã chết. Còn bánh nầy là bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết. Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh nầy, sẽ được sống muôn đời” (Ga 6, 48-51). 

Nhờ “Tấm Bánh Giêsu” từ trời xuống mà một nhân loại mới được khai sinh, muôn người được cứu độ; con người được nhận ra nhau là anh em con cùng một Cha trên trời. 

Nhờ “Tấm Bánh Giêsu” và luật yêu thương của Người mà nhân loại dần dần xóa bỏ những cuộc chiến huynh đệ tương tàn, biết quên mình phục vụ tha nhân và yêu thương người khác như chính bản thân. 

Nhờ “Tấm Bánh Giêsu” được bẻ ra và trao ban mà các tín hữu được nên đồng huyết nhục với Chúa và nhận được sự sống đời đời do Người ban tặng.

Chúa Giêsu chính là “Bánh” từ trời xuống đem đến cho nhân loại cuộc sống hạnh phúc trên dương thế và cuộc sống vĩnh hằng trên thiên quốc. Khi tự giới thiệu mình là “Bánh” cho trần gian, Chúa Giêsu tỏ cho thấy Người là Đấng tuyệt đối cần thiết cho sự sống và hạnh phúc của loài người, không có Người, nhân loại không thể tồn tại và có được bộ mặt nhân ái như hôm nay.

Muốn hấp thụ cơm bánh hằng ngày, người ta cho nó vào miệng rồi nhai và nuốt; còn muốn hấp thụ “Bánh bởi trời”, người ta phải đón nhận và tin vào Chúa Giêsu.

– “Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ.” (Ga 6, 35)

– “Tôi bảo các ông, ai tin thì được sự sống đời đời. Tôi là bánh trường sinh.” (Ga 6, 48)

Tin vào Chúa Giêsu có nghĩa là đón nhận giáo lý của Người, noi gương bắt chước Người và sống như Người đã sống. 

Lạy Chúa Giêsu,

Chúng con đã không tiếc thời gian và công sức để kiếm cơm bánh nuôi sống thân xác mau hư nát nầy thì xin cho chúng con cũng đừng tiếc đầu tư thời gian và năng lực để đến với Chúa là “lương thực” thường tồn mang lại sự sống đời đời cho linh hồn chúng con. Amen.

 

10. Bánh Hằng Sống

     (Suy niệm của Lm. Alfonso) 

Tin Mừng Ga 6: 41-51: “Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống.” Chúa Giêsu khẳng khái cho biết chính Người là Bánh mà Thiên Chúa Cha ban tặng. 

Suy niệm:

Con người lao động cực nhọc cốt để có được lương thực nuôi sống bản thân. Nhưng loại lương thực mà con người thường khao khát tìm kiếm chỉ là tạm bợ, cũng như không thể dưỡng nuôi con người luôn mãi. Vậy rất cần nguồn lương thực có thể đem lại cho con người sự sống dài lâu.

Trên hành trình vào đất hứa, khi dân than đói khát, Môisen đã xin Thiên Chúa ban lương thực nuôi sống dân. Và Chúa đã dùng manna nuôi dân bốn mươi năm trường trong sa mạc. Cũng như trong Bài đọc I, chúng ta thấy hình ảnh tiên tri Elia trên đường lên núi Hôrép, khi lương thực cạn kiệt, ông đã cảm thấy mệt nhọc và muốn buông xuôi. Thế rồi Thiên Chúa đã sai thiên thần đem lương thực đến giúp ông lại sức và bước tiếp: “Hãy chỗi dậy mà ăn vì đường ngươi phải đi còn xa”. Ông đã ăn bánh để có đủ sức khoẻ đi đến núi của Chúa.

Chính Thiên Chúa đã nuôi dân Chúa vượt qua cơn đói khát. Nhưng manna Chúa ban cho Môisen hay lương thực mà Chúa cho tiên tri Elia chỉ là của ăn tạm bợ, trong khoảng thời gian bốn mươi ngày hay cùng lắm là bốn mươi năm. Và Chúa Giêsu muốn họ chấp nhận sự thật là “Cha ông các ngươi đã ăn manna trong sa mạc và đã chết”. Lương thực ấy chỉ là hình bóng cho loại lương thực khác mà Thiên Chúa muốn ban cho con người, đó là “Bánh trường sinh”. Bánh trường sinh là lương thực duy nhất có khả năng làm cho lòng người được no thỏa. Nhưng tìm kiếm Bánh trường sinh ở đâu?

“Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống.” Chúa Giêsu khẳng khái cho biết chính Người là Bánh mà Thiên Chúa Cha ban tặng; chính Mình và Máu Người sẽ trở nên lương thực nuôi sống dân Thiên Chúa cách vĩnh viễn.

Chúng ta là loài thụ tạo được Thiên Chúa yêu thương, được tạo dựng nên mang hình ảnh của Thiên Chúa. Và như người ta thường nói vui “ăn gì bổ nấy”, thì chúng ta cũng rất cần được dưỡng nuôi bằng chính Mình và Máu Thánh Chúa thường xuyên để Bánh trường sinh ấy nuôi sống linh hồn chúng ta. Nhờ đó mà niềm mong ước sự sống trường sinh nơi chúng ta được hiện thực hóa khi được Thiên Chúa biến đổi chúng ta nên thánh thiện vì Thiên Chúa là Đấng Thánh.

Kitô giáo là một tôn giáo thật hấp dẫn bởi được chính Đấng Thần thiêng nhập thể làm người, đồng hành với con người. Hơn thế nữa, chính Đấng Sáng lập đã dùng chính Mình và Máu của Ngài nuôi các tín hữu: “Bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống”, điều mà chưa có bất kỳ tôn giáo nào có giáo lý đó. Vâng, Chúa Giêsu Nhập Thể chính là câu trả lời cho mọi nhu cầu của con người. Cho người đói, Chúa chính là của ăn; cho người khát, Chúa chính là mạch nước Hằng sống; cho người mù, Chúa chính là ánh sáng soi đường; cho người lạc lối, Chúa chính là Con Đường; cho người kiếm tìm chân lý, Chúa chính là Sự Thật; cho người chết, Chúa chính là sự Phục sinh, cho các tội nhân, Chúa chính là Đấng Nhân lành.

Vậy lạy Chúa, để có Chúa là nguồn Lương thực Trường sinh, xin cho chúng con biết sống như lời thánh Phaolô khuyên bảo các tín hữu Êphêsô: Hãy loại ra khỏi mình mọi thứ gay gắt, tức giận, nóng nảy, dức lác, chửi rủa, cùng mọi thứ độc ác; ăn ở hiền hậu, thương xót và tha thứ cho nhau; bắt chước Thiên Chúa, sống trong tình thương, như Ðức Kitô đã yêu thương và phó Mình làm của dâng và lễ tế thơm tho ngọt ngào dâng lên Thiên Chúa vì chúng con. Amen.

 

11.“Ta là bánh ban sự sống”

     (Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)

Mỗi ngày Việt nam đang phải đối đầu với bao cái ác hoành hành. Những cái chết của phi nhân bất nghĩa, của tình người băng giá, của đạo đức suy đồi, của tham lam bất chính. Đây phải là lúc chúng ta nhìn lại nhân sinh quan cuộc sống, tại sao giữa nền văn minh nhân loại lại đổ vỡ tình người, lại tan nát tất cả những luân thường đạo lý mà bốn ngàn năm văn hiến của cha ông đã gầy dựng? Chúng ta thử nhìn lại thống kê của trang điện tử www.tin247.com/ mỗi ngày Việt Nam có:

 – Phá thai hơn 500.000 ca phá thai một năm, trung bình mỗi ngày có hơn 1.300 thai nhi bị giết hại.

 – Mỗi tháng có gần 1.100 người chết vì tai nạn giao thông, trung bình mỗi ngày hơn 35 người chết vì tai nạn giao thông.

– Trung bình mỗi ngày lại có thêm 50 – 100 người nhiễm AIDS.

– Mỗi một ngày tứ Bắc chí Nam có hàng ngàn cô gái đem thân xác đổi lấy những đồng tiền dơ bẩn.

– Mỗi ngày những vụ án hình sự lại nhiều trò man rợ kinh hoàng hơn.

Đạo lý làm người nay ở đâu? Con người có còn là “nhân chi sơ tính bản thiện” hay đã bị thoái hóa mất tính người? Con người biết thiện và ác, có khả năng tự chủ bản thân hơn loài vật, sao lại dễ dàng làm điều xấu, điều hại người hơn là làm điều tốt, điều cứu sống anh em?

Là người ky-tô hữu, ai trong chúng ta cũng tự hào vì mình là hình ảnh Thiên Chúa. Ai trong chúng ta cũng tự hào mình vượt lên trên muôn loài muôn vật vì “nhân linh ư vạn vật”. Ai trong chúng ta cũng hiểu rằng con người có tương giao với Thiên Chúa, với thần linh. Con người đến từ Thiên Chúa. Con người thuộc về Thiên Chúa, vì con người bởi Thiên Chúa mà ra. Nhưng liệu rằng, khi nhìn vào cuộc sống của chúng ta người ta có nhận ra chúng ta là con cái Thiên Chúa hay người ta sẽ ngán ngẩm bảo rằng: cuộc sống của anh, suy nghĩ độc ác, ích kỷ, những ước muốn tầm thường, những lời nói giết người không dao của anh làm tan nát tâm hồn bao người, …tất cả chúng tôi nào có lạ gì, sao anh bảo anh đến từ Thiên Chúa tình thương và nhân lành? “Người ta cứ dấu này, mà nhận biết các con là môn đệ Thầy: là các con yêu thương nhau”. Liệu rằng dấu hiệu ấy có được tỏ hiện qua lời nói việc làm của chúng ta hay không?

Cuộc đời dương thế của Chúa Giêsu đã chứng minh Ngài từ Thiên Chúa mà đến. Ngài đến để giới thiệu một Thiên Chúa yêu thương. Ngài đi gieo vãi yêu thương. Ngài đi nối kết tình người. Ngài đi xoa dịu đau thương. Ngài sống một cuộc đời thanh thoát không lệ thuộc của cải danh vọng trần gian. Ngài không bẻ gãy cây lau bị dập. Ngài không kết án ai. Ngài luôn bao dung tha thứ. Ngài đã từng tha thứ cho cả kẻ gây nên nhục hình cho Ngài. Đỉnh cao của dấu hiệu yêu thương ấy là chết cho người mình thương.

Cuộc đời Ngài ví tựa tấm bánh bẻ ra cho muôn người. Tấm bánh mang lại hạnh phúc cho nhiều người. Tấm bánh làm vui lòng trẻ thơ cũng như người già. Tấm bánh hòa tan cho muôn người. Kẻ thấp hèn cũng như người giầu sang. Tấm bánh thêm sức mạnh cho mọi người. Kẻ no đầy cũng như người khát. Tấm bánh nối kết tình mọi người. Vì “bánh ngọt bẻ đôi” sẽ là nhịp cầu thân ái cho người với người gần nhau hơn. Tấm bánh đời Ngài ban cho thế gian để cho thế gian được sống và sống dồi dào. “Và ai ăn bánh này sẽ không phải chết bao giờ”. Đó là tấm bánh phục sinh. Bánh cải từ hoàn sinh. Bánh trao ban sự sống đời này và cả đời sau.

Phải chăng Ngài cũng mời gọi chúng ta đón nhận tấm bánh đời Ngài để sức sống, ân sủng, tình thương của Ngài thẩm thấu trong cuộc đời chúng ta, để chính chúng ta cũng trở thành tấm bánh trao ban bình an và hạnh phúc cho tha nhân?

Phải chăng Ngài cũng đang mời gọi chúng ta, không chỉ nhận ra mình mang nguồn gốc từ trời, mà phải sống và hành động như con cái của Chúa. Sống hoàn thiện mình mỗi ngày như cha chúng ta ở trên trời là Đấng hoàn thiện. Mỗi ngày chúng ta phải thanh tẩy mình khỏi mọi điều gian ác, khỏi những ước muốn tầm thường và mặc lấy tâm tình từ bi nhân hậu như Đức Ky-tô để dung nhan Thiên Chúa được tỏ hiện trong đời sống hằng ngày của chúng ta.

Ước gì trong mỗi lời nói hành động đầy yêu thương bác ái của chúng ta mà các anh chị em chung quanh sẽ ngợi ca Cha chúng ta là Đấng ngự trên trời. Ứơc gì khi chúng ta nhận ra tình thương của Chúa dành cho mình, thì mỗi người hãy biết sống tâm tình tạ ơn Chúa, đồng thời biết noi gương Chúa sống yêu thương anh em đồng loại của mình. 

Nguyện xin Chúa Giêsu Thánh Thể là tấm bánh bẻ ra cho muôn người nâng đỡ và giúp chúng ta biết sống cao thượng, sống đúng với phẩm giá làm người và làm con Thiên Chúa. Amen.

 

12. Đừng xem thường nhau

    (Suy niệm của Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền) 

Có một câu chuyện kể rằng: Vào những lúc con người mới phát minh ra động cơ, con người vui mừng vì sự tiến bộ vượt trên tưởng tượng của mình. Chính vì thế có nhiều người không thể tin được. Có một cụ già nọ, nghe các sinh viên kể lại về chiếc tàu hỏa chạy mà không cần phải nhờ đến trâu, bò, hay ngựa kéo, nhưng nhờ động cơ máy mà nó hoạt động và chạy rất nhanh. Cụ già không tin. Các thanh niên tìm cách đưa cụ già đến một nhà ga xe lửa để cụ nhìn xem tận mắt. 

Khi đoàn tàu từ từ tiến đến và dừng lại, các thanh niên đến bên cụ, với vẻ mặt vui mừng, định hỏi xem cụ tin chưa. Bổng nhiên từ toa chở hàng, người ta mở cửa và dẫn một đàn bò từ trên toa xuống. Cụ già nhìn thấy đàn bò, nở một nụ cười tự mãn và chỉ vào đám thanh niên, cụ nói: “chúng bây đã bị mắc lừa”. Cụ quay lưng bỏ đi không chịu nghe các thanh niên giải thích là toa này chở bò mà thôi! 

Cụ già quá tự mãn về sự hiểu biết của mình, và cụ đã đóng khung nó lại. Thế giới đối với cụ chỉ có đối với những gì cụ hiểu biết. Ngoài những điều đó ra, tất cả đều không tồn tại. Nên cụ không thể nghe những gì người khác nói, cho dù đó là sự thật đang xảy ra trong thế giới hiện đại.

Những người Do Thái ngày xưa cũng không thể tin được Chúa Giê-su lại là bánh bởi trời. Càng khó tin hơn khi nghe Chúa nói ăn chính Chúa sẽ không chết bao giờ! Họ không thể chấp nhận. Bởi họ đã quen thuộc Chúa Giê-su. Quen quá đến nỗi không thể tin vào những việc lạ Chuá đã làm là do bởi Thiên Chúa. Vi đầu óc thành kiến nên họ không tìm hiểu, không lắng nghe. Phải chăng điều này cũng là lối suy nghĩ nông cạn của chúng ta?

Cuộc sống con người, ai cũng có một chút tự hào về chính mình: tự hào về nghề nghiệp, tự hào về sự hiểu biết, tự hào về địa vị bản thân, tự hào về con người của mình. Nhưng nếu quá cố chấp mà chỉ sống trong sự tự hào đó, thì chúng ta chỉ làm trò cười cho bao nhiêu người chung quanh. Còn biết bao nhiêu điều chúng ta chưa biết, và cũng còn rất nhiều điều chúng ta không thể biết và không thể hiểu được!

Nhất là trong đời sống đức tin chúng ta càng cần khiêm tốn để xin Chúa dạy chúng ta qua từng biến cố thời đại, và qua sự văn minh nhân loại cho ta khám phá ra biết bao điều vĩ đại, xin Chúa giúp chúng ta nhận ra quyền năng Chúa trên vũ trụ và con người luôn nhỏ bé trước quyền năng Thiên Chúa.

Và trong cuộc sống hôn nhân gia đình muốn hạnh phúc bền lâu cũng đòi hỏi mỗi người biết khiêm tốn nhìn nhận điều tốt, điều hay nơi nhau, đừng vì thành kiến mà đánh giá thấp về nhau, nhưng hãy biết tôn trọng và khích lệ nhau. Nếu cứ đánh giá thấp về nhau chúng ta sẽ làm tổn thương nhau. 

Có một người hàng xóm hỏi cô vợ:

  • Ai đánh vỡ kính ở cửa sổ lớn nhà chị vậy?
  • Tay chồng hèn nhát của tôi đấy!
  • Anh ta hiền như đất cơ mà?
  • Nhưng hắn đứng đó và tránh được cái chậu hoa tôi quăng vào mặt hắn! Cũng may cho hắn mà xui cho chậu hoa!

Theo các chuyên gia tâm lý, coi thường bạn đời là một trong những nguyên nhân chính dẫn tới đổ vỡ hạnh phúc gia đình. Vì khi trong lòng bạn đã chất đầy sự coi thường bạn đời, bạn sẽ có những lời nói khó nghe dành cho nhau, đôi khi cả những hành động miệt thị nhau. Chắc chắn khi đã xem thường nhau thì họ cũng mong sớm được giải thoát hơn là vun đắp cho cuộc sống hôn nhân hiện tại.

Trong hôn nhân, việc đánh giá thấp về nhau là điều không thể chấp nhận được. Vì con người vốn có nhu cầu cố hữu là được cảm thấy mình có ích, có giá trị với xã hội và những nỗ lực của mình được thừa nhận. Khi giá trị của mình không được thừa nhận ngay trong gia đình sẽ mang tới cảm giác thất vọng và không còn muốn vun đắp hạnh phúc chung.

Những người Do Thái đồng hương của Chúa Giê-su đã không có cơ hội nhận ơn lành của Chúa vì họ xem thường Chúa. Và có lẽ, vợ chồng nếu xem thường nhau cũng thiệt thòi vì không bao giờ nhận được sự trợ giúp nhiệt tình của người bạn đời. Đôi khi vì sự xem thường mà đánh mất đi hạnh phúc lứa đôi.

Ước gì các đôi hôn phối biết sống khiêm tốn trong cách ứng xử để kính trọng bạn đời. Ước gì mỗi người chúng ta cũng biết giúp nhau thăng tiến thay vì chì triết, xem thường nhau. Và xin cho chúng ta luôn biết tìm kiếm Chúa là nguồn sống đời đời để nhờ đó chúng ta thêm sức mạnh để sống tốt hơn trong cuộc sống hiện tại hôm nay. Amen.

 

13.Việt Nam ăn gì cũng chết

    (Suy niệm của Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

 

Thông thường ăn là để sống, chứ đâu phải ăn để chết, thế nhưng trước thời buổi làm ăn chộp giật, chỉ cần có lợi là việc gì cũng làm như hiện nay thì nhiều khi ăn lại là để chết. Có lẽ chưa bao giờ mà cả xã hội lại lo ngại, thậm chí hoang mang về chất lượng thực phẩm như hiện nay. Ăn gì, uống gì và dùng gì cũng sợ. Gạo nhựa, trứng giả, mực cao su, rau quả ngâm thuốc kích thích, bún, bánh phở có chứa formol… thôi thì đủ cả! Đến giấy lau miệng và chén đũa cũng mang độc hại chết người!

 

Hàng năm, Việt Nam có từ 100.000 – 150.000 người mắc ung thư và khoảng 70.000 người tử vong do căn bệnh này. Theo bác sĩ Đặng Huy Quốc Thịnh, phó giám đốc Bệnh viện Ung bướu TP.HCM, có nhiều lý do khiến số người mắc bệnh ung thư gia tăng trong những năm gần đây như số người hút thuốc, uống rượu bia tại nước ta còn cao, tình trạng ô nhiễm môi trường… Song, còn có một nguyên nhân khác nữa chính là vấn đệ ngộ độc thực phẩm không chỉ gây bệnh ung thư mà nhiều bệnh lý khác.

 

Nhìn những gì đang diễn ra tại Việt Nam khiến tôi nhớ tới câu chuyện ngụ ngôn về con Sư tử, con Gấu và con Hươu. Chuyện kể rằng: Con Hươu non bị chết tươi vì ăn phải bã độc. Sư tử và Gấu nhìn thấy xác Hươu liền tranh nhau miếng mồi. Hai con mãi đánh nhau nên không thấy Cáo cũng mò đến. Lợi dụng lúc Sư tử và Gấu không chú ý tới mình, Cáo tha Hươu vào bụi ăn một bữa no rồi ngấm độc ngã lăn ra chết. Vật nhau một hồi, Sư tử và Gấu không thấy Hươu đâu nữa liền buông nhau đi tìm mới thấy Cáo chết vì thịt Hươu nhiễm độc. Sư tử và Gấu lúc đó mới bảo nhau rằng:

  • Đáng đời cho con Cáo láu lỉnh và tham lam kia, nhờ nó mà hai ta khỏi chết.

 

Xem ra ăn gì cũng chết. Nên dường như ai bây giờ cũng nhắm mắt ăn đại, ăn cho xong vì đàng nào cũng mang mầm bệnh tật vào thân. Xem ra chẳng còn ai nghĩ ăn để sống nữa, vì mọi cái có thể ăn được đều đã bị đầu độc!

 

Hôm nay Chúa Giê-su giới thiệu cho chúng ta một của ăn không độc hại, không dẫn đến tiêu vong. Chúa giới thiệu cho chúng ta một của ăn để được sống đời đời chính là bánh Thánh Thể, là bánh trường sinh thỏa mãn niềm khao khát sống đời đời của nhân loại. Chúa bảo tổ tiên đã ăn Manna từ trời xuống rồi cũng chết, còn ai ăn bánh này thì sẽ sống muôn đời.

 

Thật hạnh phúc khi ở đời còn có của ăn không chết. Đây là của ăn thuần khiết vì là bánh thần linh. Đây là bánh thanh sạch vì được làm nên từ chính Máu Thịt Chúa. Đây là bánh không bao giờ hư nát vì là chính Thánh Thể phục sinh của Chúa. Thế nên, ai rước bánh này sẽ sống đời đời. Ai ăn bánh này sẽ được trường sinh.

 

Vâng, mỗi lần chúng ta rước Chúa là được đón nhận chính sự sống và tình yêu của Chúa. Ước gì tình yêu Chúa tuôn chảy trong con tim của chúng ta để chúng ta dám hiến dâng chính mình vì sự sống của tha nhân. Ước gì mỗi người biết hy sinh cho nhau, và biết kiến tạo hạnh phúc cho nhau, chắc chắn cuộc sống này sẽ đẹp hơn. Ước gì mỗi người chúng ta biết noi gương Chúa Giêsu trở thành quà tặng mang lại cho anh em niềm vui và hạnh phúc. Xin cho chúng ta luôn cảm nghiệm rằng “chính lúc cho đi là khi được nhận lãnh, chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”. Amen.

 

14.Bánh từ trời

    (Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)

 

Cơm bánh giúp con người có sức khỏe thể xác, giúp con người sống và phát triển. Đức Giêsu là bánh hằng sống từ trời. Ngài là sức sống cho con người. Ngài giúp con người triển nở toàn diện vươn tới tầm mức Thiên Chúa muốn.

 

  1. Thiên Chúa ban lương thực vật chất và tinh thần

Hoàng hậu Ideven đã sai sứ giả nói với tiên tri Elia rằng bà sẽ lấy mạng của Elia vào cùng giờ ngày hôm sau, giờ Elia đã hô hào dân chúng tru diệt các tiên tri thờ thần Baan. Elia đã bỏ xứ để trốn lên “núi Chúa”. Mệt lả vì đường dài và đói khát, Elia muốn chết và xin Chúa cất mình về, vì “con cũng không hơn gì cha ông con”. Thiên Chúa đã cho thiên thần mang lương thực nuôi tiên tri, để tiên tri có sức khỏe thể xác và tinh thần, hầu tiếp tục lên đường tới núi Khôrếp.

Con người không chỉ có nhu cầu thể lý nhưng còn có nhu cầu thiêng liêng. Con người cần lương thực vật chất nuôi sống thể xác, và cũng cần lương thực thiêng liêng cho tinh thần con người, làm con người thấy ý nghĩa cuộc đời. Thiên Chúa cung cấp lương thực vật chất nuôi sống con người, và Ngài cũng cung cấp thức ăn thiêng liêng cho con người.

Thiên Chúa luôn quan tâm săn sóc con người. Ngài là Cha của tất cả mọi loài, của vạn sự vạn vật. Thiên Chúa hiện diện với Elia khi ông kêu cầu Người, khi Ngài cho lửa thiêu đốt lễ vật trên tế đàn. Thiên Chúa săn sóc Elia cho ông thức ăn nước uống, cho ông có sức và nghị lực đi đến “núi Chúa”. Thiên Chúa cũng tỏ mình cho ông một cách đặc biệt khi ông ở trên núi thánh của Ngài: Ngài không ở trong cơn động đất, không ở trong gió bão nhưng ở trong gió hiu hiu thổi. Thiên Chúa là Đấng rộng lòng thương xót, yêu thương bao la.

 

  1. Đức Giêsu là bánh từ trời

Đức Giêsu đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi dân. Ngài không chỉ hóa bánh ra nhiều, nhưng chính Ngài là bánh để nuôi con người. Người Do Thái không hiểu ý nghĩa điều Ngài muốn nói, nên đã phản bác: “Ông ta không phải là con bác thợ mộc Giuse sao? Chúng ta đều biết cha mẹ ông ta, vậy sao ông ta có thể nói ông ta từ trời xuống”. Họ không hiểu Đức Giêsu, nên họ không thể chấp nhận được điều Đức Giêsu mặc khải cho họ. Họ cho rằng Đức Giêsu nói ngoa!

Đức Giêsu cầm lấy bánh, bẻ ra, trao cho các môn đệ mà nói: “Các con hãy cầm lấy mà ăn, này là mình ta, sẽ bị nộp vì các con”. Tấm bánh được bẻ ra, là của ăn nuôi sống con người. Đức Giêsu là người hơn ai hết thấy được giá trị của tấm bánh. Ngài nhận ra Thiên Chúa ban bánh nuôi sống con người. Ngài cũng là tấm bánh, được bẻ ra cho con người ăn. Ngài là quà tặng Thiên Chúa ban cho con người. Ngài là sức sống những ai biết và tin vào Ngài. Với những ai tin Ngài là bánh từ trời xuống, là quà tặng Thiên Chúa ban cho con người, người đó tìm được sức sống và sẽ không chết về thiêng liêng.

Không phải ai cũng hiểu được rằng Đức Giêsu là bánh từ trời xuống. Đa số những người Do Thái thời đó không hiểu. Khi bị phản đối, Đức Giêsu cũng nhận ra rằng: “không ai đến được với ta nếu không được Cha ta lôi kéo”. Điều Đức Giêsu nói với họ, không dễ để mà hiểu, phải có ơn đặc biệt để hiểu điều này. Phải tin vào Đức Giêsu để hiểu điều Ngài nói, để hiểu rằng Ngài là bánh ban sự sống. Đức Giêsu và cách sống của Ngài, là khuôn mẫu để con người noi theo, hầu con người sống hạnh phúc.

 

III. Hành xử như những người con đích thực của Thiên Chúa

Niềm tin vào Đức Giêsu sẽ giúp người ta sống như con cái Thiên Chúa. Đức Giêsu là Lời Thiên Chúa nhập thể. Ngài tự hủy làm người, mang thân phận của con người như bất cứ ai khác. Khi con một vị vua sinh ra, người con đó sẽ sống trong hoàng cung và được mọi người kính trọng. Ngôi Lời nhập thể làm người, không ai biết vì không ai có thể nghĩ rằng Thiên Chúa lại làm người. Thế nên, cách người ta đối xử với Đức Giêsu là cách người ta đối xử với những người nghèo hèn nhất. Đức Giêsu mang thân phận người, giống như bất kỳ người thấp cổ bé miệng nào trên thế giới này.

Đức Giêsu sống như thế nào, cách hành xử của Ngài ra sao, trở thành mẫu gương cho những người tin vào Ngài sống. Ngài là sức sống cho con người. Ngài là bánh nuôi sống những người tin vào Ngài. Nét đặc biệt của Ngài là tự hủy. Nhờ Ngài tự hủy mà con người tìm được lẽ sống, tìm được hạnh phúc trong việc cho đi và phục vụ. Yêu thương là phục vụ và cho đi. Phục vụ như người tôi tớ, theo nhu cầu của người mình phục vụ. Yêu thương là cho đi, cho đi chính mình, như tấm bánh được bẻ ra, bị tiêu hao cho con người được sống.

Ngày nay, Thánh Thần Thiên Chúa vẫn đang ở với con người, vẫn đang hoạt động nơi mỗi người, giúp con người đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa qua chọn lựa sống vươn lên và yêu thương phục vụ anh chị em mình. Những ai tin vào Đức Giêsu được mời gọi để mở lòng lắng nghe và vâng phục Thánh Thần. “Đừng dập tắt Thần Khí” (1Tx. 5, 19), “Chớ làm phiền Thánh Thần” (Eph.4, 30). Thánh Thần Thiên Chúa đang làm mới thế giới này, đang làm mới lòng con người, và làm con người thuộc về Thiên Chúa. Sống theo Thần Khí là trở thành bánh cho con người theo gương mẫu Đức Giêsu Kitô.

 

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

  1. Theo kinh nghiệm sống của bạn, điều gì làm bạn tăng sức sống và phấn khởi?
  2. Có bao giờ Đức Giêsu làm bạn phấn khởi và ao ước làm lại cuộc đời không? Nếu có xin bạn chia sẻ.

 

15.Bánh Hằng Sống từ trời xuống

    (Suy niệm của Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)

 

  1. DẪN NHẬP

Đời là một cuộc hành trình đi về quê trời. Con đường về trời vừa xa lại vừa khó khăn. Lương thực cho cuộc hành trình phải được đầy đủ. Nhưng lương thực chúng ta phải có là gì? Lấy đâu ra thứ lương thực đó? Hôm nay, Đức Giêsu đã chỉ bảo cho chúng ta thứ lương thực mà Ngài sẽ ban cho. Đó là bánh hằng sống từ trời xuống.

 

Đức Giêsu đã hé mở cho dân Do thái biết: Ngài sẽ ban cho họ thứ bánh đó: ”Ta là Bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ sống đời đời”. Lời tuyên bố này gây sốc cho người nghe, làm cho người ta sững sờ và khó chịu, nhất là khi Ngài nói thêm: ”Và bánh ta sẽ ban tặng, chính là thịt Ta đây”(Ga 6,51). Họ không thể nào chấp nhận được lời tuyên bố ấy khi bản thân Đức Giêsu chỉ là một người Nazareth, gia cảnh rất tầm thường.

 

Còn đối với chúng ta, nếu không có đức tin soi dẫn, chúng ta không thể nào chấp nhận được mầu nhiệm Thánh Thể, vì Thánh Thể là mầu nhiệm đức tin. Ngày nay chúng ta đã được Chúa soi sáng, chúng ta tin nhận Đức Giêsu là bánh hằng sống từ trời xuống va øBánh ấy là thịt máu Ngài. Thánh Thể chính là lương thực nuôi sống linh hồn chúng ta trên đường về quê trời và ban cho chúng ta sự sống đời đời.

 

  1. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.

+ Bài đọc 1: 1V 19,4-8.

Tiên tri Êlia đứng lên chống đối viêc thờ kính ngẫu thần do bà Jézabel, vợ ngoại giáo của vua Achab, đưa vào đất Israel. Sau lần tiên tri Êlia giết chết 400 sư sãi Baal, ông bị hoàng hậu Jézabel truy nã gắt gao, ông phải trốn chạy vào hoang địa. Bị đói khát và thất vọng, ông chỉ còn chờ chết. Nhưng Chúa sai thiên thần mang đến cho ông một chiếc bánh và một vò nước. Được bánh và nước bồi dưỡng, ông lấy lại sức và tiếp tục lên đường, đi một mạch suốt 40 ngày tới núi Horeb diện kiến Thiên Chúa.

 

+ Bài đọc 2: Ep 4,30-32 – 5,2.

Khi viết thư này, phải chăng đang có một sự căng thẳng trầm trọng đã nảy sinh trong cộng đoàn tín hữu ở Êphêsô, đến độ người ta đã la lối và thoá mạ nhau? Thánh Phaolô nhắc nhở mọi người hãy nhớ mình là Kitô hữu, nhờ phép rửa tội đã trở nên con Thiên Chúa, là môn đệ và là anh em với Đức Kitô.

 

Vì thế, địa vị ấy đòi hỏi chúng ta phải biết thương yêu, biết tha thứ cho nhau bằng cách phải giũ bỏ khỏi đời sống tất cả những gì làm thương tổn đức bác ái như giận hờn, thù oán, ích kỷ. Thánh Phaolô xác định rằng việc tha thứ cho nhau ấy là kết quả hợp lý của việc được Thiên Chúa thứ tha “Như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Đức Kitô”(Ep 5,2).

 

+ Bài Tin mừng: Ga 6,41-51.

Đức Giêsu đã tuyên bố: ”Ta là bánh từ trời xuống”. Đứng trước những thính giả hoài nghi và còn thù nghịch nữa, Đức Giêsu cứ khẳng định như thế. Ngài còn cho biết thêm: ai muốn được sống vĩnh hằng, cần phải lãnh nhận bánh ấy.

 

Người Do thái không thể nào chấp nhận được lời tuyên bố ấy bởi vì làm sao người ta có thể hiểu được mầu nhiệm Nhập thể. Người ta chỉ có thể lý luận theo lẽ tự nhiên rằng: làm sao ông này có thể là bánh hằng sống từ trời xuống được? Bởi vì ông ta chỉ là người Nazareth như họ, ông ta chỉ là người thợ mộc, con ông Giuse và bà Maria, anh chị em ông đang ở với mình, thân thế sự nghiệp chả có gì đáng lưu ý, gia cảnh của ông ta thật là tăm tối. Vậy tại sao ông ta dám tuyện bố như thế?

 

Đức Giêsu muốn trả lời cho họ rằng muốn tin mầu nhiệm này, hiển nhiên là phải có đức tin. Đức tin chỉ Thiên Chúa mới có thể ban cho. Đức tin giúp những người lãnh nhận nó được kết hợp với Chúa và sống bởi Chúa và nhờ Chúa. Như vậy, chúng ta hưởng nhờ đức tin vào Chúa Kitô, chúng ta hãy tỏ ra ngoan ngoãn với những giáo huấn của Ngài, trung thành yêu mến Ngài, nhiệt tâm với Thánh Thể Ngài. Do đó, Ngài sẽ là bánh hằng sống từ trời xuống, là nguồn mạch sự sống vĩnh hằng cho chúng ta.

 

  1. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.

Muốn được trường sinh bất tử

Đây là bài giảng dài, Đức Giêsu nói về Bánh Hằng Sống. Bài Tin mừng hôm nay tiếp theo đoạn Tin mừng tuần trước được rút ra trong bài giảng về Bánh hằng sống trong thánh Gioan. Bài giảng này có thể chia thành 3 phần:

  1. Chúa nhật tuần trước đã nói đến sự khác biệt giữa của ăn vật chất mau hư nát và của ăn bất hủ mà Con người đem đến trong thế gian.
  2. Chúa nhật này nói đến việc Đức Giêsu ban mình làm bánh hằng sống và kêu gọi mọi người ăn bánh đó.
  3. Chúa nhật tuần sau sẽ nói đến việc Đức Giêsu ban bánh đó trong phép Thánh Thẻ.

 

  1. TA LÀ BÁNH TỪ TRỜI XUỐNG.

Trong bài Tin mừng hôm nay, chúng ta thấy Đức Giêsu đưa dần đến mầu nhiệm “Bánh ban sự sống”. Nhưng dân chúng không mở tai ra để nghe, để hiểu. Họ chỉ khư khư xoay quanh những đòi hỏi vật chất. Khi nghe Đức Giêsu nói: ”Ta là bánh từ trời xuống”, người ta kêu ca phản đối: ”Ông này chẳng phải là Giêsu, con ông Giuse sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: Ta từ trời xuống”? Họ phản đối Đức Giêsu vì họ thấy theo con mắt xác thịt, theo suy nghĩ của loài người hạ giới. Họ giống như Gagarin, anh hùng vũ trụ đầu tiên, bay lên không gian ngày 12 tháng 4 năm 1961. Khi trở về trái đất, ông tuyên bố: ”Tôi không thấy thiên đàng đâu cả”. Lối nhìn này gọi là quan sát thực nghiệm, cân đo, đụng chạm được bằng mắt, tai, tay, chân, mũi. Ngoài ra không thấy gì khác nữa.

 

Họ phản ứng trước lời tự xưng của Đức Giêsu, nêu lên sự kiện Ngài là con bác thợ mộc, họ biết Ngài sinh sống tại Nazareth. Làm sao họ hiểu một người thợ mộc tầm thường nghèo nàn lại có thể trở thành sứ giả đặc biệt của Thiên Chúa được. Họ chối bỏ Đức Giêsu vì trắc nghiệm Ngài bằng các giá trị của loài người, của xã hội và bằng tiêu chuẩn thế gian.

 

Truyện: Bé cái lầm

Lawrencee là bạn thân của thi sĩ Thomas Hardy. Thời gian ông phục vụ trong Không lực hoàng gia Anh với tư cách thợ máy, ông vẫn thường mặc quân phục thợ máy đến thăm vợ chồng Hardy. Một lần tại nhà thi sĩ, ông gặp bà thị trưởng Dorchester. Không biết anh thợ máy cùng có mặt hôm đó là ai, bà tỏ ra khó chịu quay sang hỏi bà Hardy, nói bằng tiếng Pháp, bà than phiền “từ thuở cha sinh mẹ đẻ đến nay, tôi chưa bao giờ ngồi uống trà với một tên lính quèn như thế này”. Không ai nói năng gì. Một lúc sau, Lawrencee nói với bà bằng tiếng Pháp thật hoàn hảo rằng “Xin lỗi bà, tôi có thể làm thông dịch viên cho bà, vì bà Hardy không biết nói tiếng Pháp”.

 

Một mệnh phụ phu nhân rởm đời và bất nhã đã lầm lẫn tai hại chỉ vì xét người theo bề ngoài, theo tiêu chuẩn xã hội. Đó cũng là lầm lẫn của người Do thái đối với Đức Giêsu. Họ không thấy được Đức Giêsu từ trời xuống vì lòng họ ra chai đá, không còn cảm động theo ân huệ lôi kéo của Đức Chúa Cha, không còn nghe lời Cha dạy dỗ dù hết mọi người được Thiên Chúa dạy dỗ như sách tiên tri đã chép. Thiên Chúa lôi kéo. Thiên Chúa dạy dỗ. Thiên Chúa đề nghị, nhưng rồi ta không nghe, không đáp lại, không hiệp thông. Người ta có tự do, có quyền từ chối, tự do của họ đã chiều theo các tình tư dục của họ.

 

  1. TA LÀ BÁNH BAN SỰ SỐNG.

Sau khi đã trẽ câu chuyện vì sự lẩm bẩm của người Do thái, Đức Giêsu lạiï trở lại vấn đề Ngài là Bánh. Trên kia Ngài quả quyết Ngài là bánh từ trời xuống. Đây Ngài quả quyết thêm một điều nữa: ”Ngài là bánh ban sự sống”, khác với manna. So sánh manna được ban cho dân Do thái làm lương thực đi đường trong sa mạc với Bánh Hằng Sống được Đức Giêsu ban cho các tín hữu trong bí tích Thánh Thể, chúng ta thấy manna là lương thực được Đức Chúa ban cho dân Do thái trong thời xuất hành, là thứ đồ ăn mau bị hư nát (x.Xh 16,19-21). Dù dân Do thái đã ăn manna, nhưng họ vẫn bị giết chết do tội họ đã phạm (x.Tv 78, 29-31) và vẫn không sống đời đời (x.Ga 6,58). Còn Đức Giêsu mới là Bánh Hằng Sống đích thực, để ăn thịt và uống máu Ngài thì sẽ không phải chết (x.Ga 6,50) nhưng được sống đời đời(Ga 6,51.54), được ở trong Ngài (Ga 6,56), được sống nhờ Chúa Cha (x.Ga 6,57), được sống và được sống dồi dào(x.Ga 10,10).

 

Đức Giêsu lại nói tiếp: ”Bánh Ta sẽ ban tặng chính là thịt Ta đây, để cho thế gian được sống”. Với câu này, Đức Giêsu đã đưa vào một ý tưởng mới. Bánh này Đức Giêsu hứa sẽ ban, nhưng chưa ban. Đã rõ, đây Đức Giêsu muốn nói về Thánh Thể Ngài sẽ thành lập sau này. Từ lương thực nuôi sống thể xác, được Ngài biến thành Bánh Hằng sống (x.Ga 6,48), thành thân mình sẽ bị khổ nạn và phục sinh của Ngài (x.Ga 6,51), thành của ăn thần thiêng nuôi dưỡng đức tin, giúp các tín hữu đủ sức tiến về Đất Hứa là quê trời đời sau và sẽ được sống muôn đời.

Truyện: Phép lạ ở Lanciano.

Năm 700, tại tu viện thánh Longino ở Lanciano (Ý) có một linh mục Basiliô, đã dâng Thánh lễ nhưng lại hoài nghi về mầu nhiệm Chúa biến bánh rượu nên Mình Máu Thánh Chúa ,thì Chúa đã làm một phép lạ cả thể còn được lưu niệm đến ngày nay như một tang chứng vĩ đại về phép Thánh Thể, được gọi là phép lạ Lanciano. Sau khi vị Linh mục ấy truyền phép, Bánh đã trở nên Thịt và Rượu đã trở nên máu, còn được cô đọng đến ngày nay. Theo một cuộc phân tích, thịt là một thớ thịt từ trái tim, máu là máu một người với công thức AB (vết máu trên chiếc khăn liệm Turin cũng là công thức AB). Ngày nay, Thịt và Máu Chúa được lưu giữ trong hào quang qúi giá gọi là Hào Quang phép lạ Thánh Thể Lanciano, có từ năm 1713. Cuộc khảo sát khoa học chứng minh, được thực hiện năm1971. Thánh đường thánh Phanxicô, nơi lưu giữ, trở nên một trung tâm hành hương lớn của thế giới (Đọc Eucharistic Miracles của Carroll Cruz).

 

III. BÁNH BAN SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI.

Người đời ai cũng muốn sống lâu, sống trường sinh bất tử, cho nên mỗi độ xuân về người ta nhộn nhịp chúc tuổi nhau như thi sĩ Trần tế Xương đã diễn tả:

Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau

Chúc nhau trăm tuổi bạc đầu râu.

 

Người ta ai cũng sợ chết. Tham sinh úy tử là lẽ tất nhiên. Người ta nhận xét rằng không bao giờ người đời cảm thấy mình sống lâu cả. Dầu đã tóc bạc da mồi, đi không vững, đứng không ngay, cũng còn thấy như mới bước chân vào đời ngày hôm qua vậy. Cụ Tam nguyên Yên Đổ đã diễn tả tâm trạng ấy như sau:

Nhớ từ năm trước vẫn thơ ngây

Thoát chốc mà già đã tới ngay.

 

Đến ngay Đức Hồng y Mercier, trước khi kết thúc cuộc đời 74 tuổi, đã buồn rầu khóc lên khi thấy thần chết đến gõ cửa: ”Ôi đau đớn thay, Phải mang theo vào lòng đất bao nhiêu dự định”.

 

Càng sống lâu, người ta càng muốn sống, càng thích sống, thèm sống, khát sống… Cụ già tám chín mươi tuổi thấy còn ham sống , như trang thanh niên mười chín đôi mươi vậy. Người ta có sống lâu đến ngàn năm như ông Mathusalem đi nữa, chắc tâm trạng cũng không thay đổi được. Vì vậy, người ta mới tìm ra đủ cách, đủ mọi phương pháp để được cải lão hoàn đồng, được sống lâu, nhất là được trường sinh bất tử.

 

Truyện: Thuốc bất tử hay thuốc tử?

Thời Chiến quốc, có người đem dâng vua nước Sở một vị thuốc bất tử. Người ấy bưng vị thuốc vào, có viên canh cửa hỏi rằng:

– Vị thuốc này có ăn được không?

Người ấy đáp:

– Ăn được.

Tức thì, viên quan giật lấy vị thuốc mà ăn. Chuyện nói đến tai vua. Vua phán bắt viên quan đem giết.

Viên quan kêu rằng:

– Thần đã hỏi người đem dâng thuốc. Người ấy nói rằng: ”Ăn được” nên thần mới ăn. Thế là thần vô tội mà lỗi người dâng thuốc – Vả chăng, người đem dâng thuốc nói là “bất tử”, nghĩa là ăn vào thì không chết nữa. Thế mà thần mới ăn, đã sắp phải chết, vậy là thuốc tử, chớ sao gọi là bất tử được? Nhà vua giết thần, thực là bắt tội một người vô tội mà tỏ rằng thiên hạ dối được nhà vua mà nhà vua vẫn tin.

 

Vua nghe nói có lý, bèn tha cho viên quan ấy, không giết nữa.  (Nguyễn Văn Ngọc, Cổ học tinh hoa, tập 1, tr 170)

 

Người ta hoàn toàn bất lực trước cái chết. Bao nhiêu phương pháp làm cho con người trường sinh bất tử đều thất bại. Người ta chỉ còn có cách quay về với Chúa thôi. Một trong những câu nói quan trọng nhất của Đức Giêsu về đời sống vĩnh cửu là những gì Ngài nói trong bài Tin mừng hôm nay: ”Ta là Bánh từ trời xuống… Ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời. Bánh của Ta sẽ ban cho ấy là Thịt Ta, Ta ban Thịt Ta để thế gian được sống”. Đức Giêsu mạc khải cho biết cuộc sống nơi trần gian này không phải là cuộc sống duy nhất và chết không phải là chấm hết. Còn có cuộc sống trong tương lai không bao giờ chấm dứt, đó là cuộc sống vĩnh cửu.

 

  1. THÁI ĐỘ CỦA TA.
  2. Tin hay không tin.

Khi Đức Giêsu nói: ”Ta là Bánh từ trời xuống”, dân Do thái xầm xì phản đối là phải, vì Ngài mạc khải về mình cho họ, Ngài mời họ tin vào Ngài và ăn bánh trường sinh là Ngài, để không bị đói khát nữa mà được sống đời đời. Làm sao họ tin Ngài là sứ giả của Thiên Chúa, là Đấng ở nơi Thiên Chúa, là Đấng sống mật thiết với Thiên Chúa, là chính Ngôi Lời Thiên Chúa, tiếng nói của Ngài là tiếng nói của Thiên Chúa. Ngài là bánh hằng sống từ trời xuống ư?

 

Ngày nay tâm thức của con người cũng chẳng khác với người Do thái xưa. Không phải chỉ có ngày nay con người mới khước từ mầu nhiệm trung tâm của đức tin. Sự khước từ hiện nay của nhiều người trẻ cũng như người trưởng thành không phải là chuyện mới mẻ: việc này đã bắt đầu từ thời Đức Giêsu, khi chính Ngài đã giảng giải và dạy giáo lý! Trước hết chúng ta hãy khiêm tốn nhận biết lời xác quyết của Đức Giêsu thật to lớn. Chúng ta nên nhìn nhận rằng người không tin không phải là một kẻ bất bình thường. Họ sống theo “lý trí” của con người một cách hoàn toàn tự nhiên. Điều này càng nhấn mạnh đến tính cách đặc biệt của đức tin: đức tin không chỉ giới hạn vào những quan điểm hợp lý mà thôi. “Ta là Bánh hằng sống từ trời xuống”. Đây là cao vọng chưa từng thấy của một người thợ mộc thấp hèn ở làng bên cạnh, mà người ta biết rõ cha mẹ. Đức Giêsu đã phản ứng thế nào, hôm đó (và hôm nay) trước sự khước từ “Bánh bởi trời”( Noel Quesson)?

 

  1. Muốn được đến với Chúa.

Đức Giêsu phán tiếp: ”Các ông đừng có xầm xì với nhau, chẳng ai đến với Ta được, nếu Chúa Cha, là Đấng đã sai Ta, không lôi kéo kẻ ấy”. Ngay từ đầu, Đức Giêsu đã đứng trên một bình diện khác với lý trí của con người. Đó là điều mà chúng ta thường gọi là “Ân sủng”, hay nói cách khác, đó là sáng kiến của Thiên Chúa. Đức Giêsu nói cần phải có sự soi sáng ở bên trong của Thiên Chúa là Đức tin, để thấu hiểu được những việc của Thiên Chúa, để “đến với Đức Giêsu”. Chỉ có Chúa mới có thể nói về Chúa. Đấng siêu việt không phải là một thực tại nhỏ bé nằm trong tầm hiểu biết của bộ óc con người hay của máy móc khoa học: Thiên Chúa là Đấng hoàn toàn khác, vượt cao hơn tất cả. Hãy để cho Chúa dạy bảo chúng ta. Phải đón nhận “Lời Chúa”, lời từ một nơi khác đến với chúng ta.

 

Truyện: Hồng y Newman.

Hồng y Newman trước kia đã từng giữ chức vụ cao trong Anh giáo và bổng lộc hằng năm là một số tiền khá lớn. Dù thuộc tầng lớp qúi tộc và hàng chức sắc cao cấp như vậy, nhưng ngài vẫn luôn có sự áy náy lương tâm về một số vấn đề liên quan đến đức tin tôn giáo khó lòng lý giải được. Thế rồi một ngày kia, sau khi đã dành nhiều thời giờ suy nghĩ tìm hiểu và so sánh giữa Anh giáo và đạo Công giáo, cuối cùng ngài quyết định từ bỏ mọi chức vụ và các đặc quyền đặc lợi để xin cải giáo theo Công giáo. Biết được ý định của Newman, nhiều người thân là bà con và bạn bè đã đến thăm và đề nghị ngài suy nghĩ lại. Có người còn nêu cụ thể vấn đề bổng lộc như sau: ”Trước khi quyết định, xin ngài hãy cân nhắc cẩn thận. Vì nếu ngài cải giáo thì không những bị mất tất cả các chức danh và địa vị tinh thần, mà ngay cả lương bổng vật chất hàng năm không còn được hưởng nữa”. Nhưng Newman đã thẳng thắn trả lời họ rằng: ”Tiếc thì tôi cũng có tiếc thật. Nhưng tôi đã suy nghĩ kỹ rồi. Chức vụ, quyền hành và bổng lộc vật chất tuy đáng qúi, nhưng có đáng là gì nếu đem so sánh với những cái tôi nhận được khi tôi trở nên thành viên của Hội thánh Công giáo và tông truyền. Tôi sẽ được lãnh nhận ơn Chúa Thánh Thần qua việc lãnh các bí tích, nhất là được ăn bữa tiệc Thánh Thể. Đó mới thực là bánh đem lại phúc trường sinh”.

 

Sở dĩ Newman có được suy nghĩ sáng suốt và quyết tâm cao như vậy, là do Ngài được Chúa Thánh Thần soi dẫn và đã thuận theo sự hướng dẫn ấy. Thực vậy, nếu không có ơn Thánh Thần, thì người ta chẳng những sẽ không hiểu nổi các chân lý nói trên, mà sẽ còn tỏ ra khó chấp nhận những lời giảng dạy về mầu nhiệm Thánh Thể, như đám đông dân Do thái tại thành Capharnaum mà Tin mừng hôm nay đã thuật lại.

 

  1. Thánh Thể, nguồn sinh lực dồi dào.

Để có thể tin vào mầu nhiệm Thánh Thể, người ta phải mở rộng tâm hồn trước những mạc khải và quyền lực siêu nhiên. Văn sĩ Charles Péguy đã nói: ”Bí tích Thánh Thể, Bánh Hằng sống, không phải là những chuyện tầm thường ngang tầm tay chúng ta. Phải tìm kiếm vượt trên những gì hữu hình. Không ai đã thấy bao giờ! Vậy để thấy rõ hơn, có lẽ chúng ta sẽ nhắm hẳn mắt lại, tránh mọi sự chia trí trong thế giới hữu hình, để tập trung vào cái “vô hình”.

 

Người Kitô hữu cũng phải đi ngang qua sa mạc cuộc đời với bao gian nan trở ngại. Chúng ta cũng cần được Chúa nuôi dưỡng để đủ sức đi trọn cuộc hành trình về quê trời đời sau. Vậy chúng ta cần phải ăn thứ lương thực nào? Chúa Cha đã ban cho ta bánh bởi trời là Đức Giêsu (x.Ga 6, 32-33). Đó là Bánh Thánh Thể, được ban để đem lại sự sống đời đời như Ngài đã nói: ”Ta là Bánh hằng sống từ trời xuống. Bánh Ta sẽ ban chính là thịt Ta để cho thế gian được sống (x.Ga 6, 48.51).

 

Bánh ban Sự Sống còn là Lời Chúa như Đức Giêsu đã nói khi đương đầu với ma qủi cám dỗ: ”Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra”(Đnl 8,3; Mt 4,4). Ngài chính là Ngôi Lời hay lời nói của Thiên Chúa đã nhập thể làm người (Ga1,14) và chỉ mình Ngài mới có những lời mang lại sự sống đời đời (x.Ga 6,68).

 

Tóm lại, Mình Máu Chúa là của ăn không những nuôi dưỡng linh hồn mà còn tăng thêm niềm tin, lòng yêu mến và hy vọng, giúp chúng ta sống hào hùng, sống tốt đẹp ở đời này và bảo đảm cho chúng ta hạnh phúc trường cửu đời sau. Vậy chúng ta hãy qúy mến phép Thánh Thể và siêng năng rước lễ để lãnh nhận những ơn ích và những hiệu quả cao quý ấy.

 

16.Những lời thầm thì

    (Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)

 

Con đường Hiroshi Igarashi đến với Giáo hội bắt đầu từ trong tù, nơi anh được giới thiệu về Kitô giáo – và nhất là Mẹ Têrêsa thành Calcutta. Anh có lòng sùng kính sâu sắc nữ thánh nhân này kể từ đó, và trong những ngày này anh dọn chỗ trên vách tường căn hộ nhỏ ở Tokyo để treo những bức ảnh của thánh nhân. Một số ảnh trước đây được anh treo trong phòng giam. Thường thì phạm nhân không được phép treo ảnh, nhưng Igarashi nài xin ban quản giáo và cuối cùng được phép. Có tiền án hình sự ba lần và gần 20 năm ngồi tù, Igarashi biết rõ thực trạng và tất cả các vấn đề trong tù.“Nhiều tù nhân bị cô lập và thiếu thốn tình thương. Điều mà những người này cần là có người hỗ trợ họ về mặt tình cảm, nhưng không có ai làm điều đó cả. Vì thế họ cảm thấy tuyệt vọng. Thời gian ở tù chỉ làm họ tổn thương thêm và khiến họ tồi tệ hơn.”

 

Igarashi nói ra những điều này từ kinh nghiệm của mình vì anh cũng đã từng cảm thấy tuyệt vọng. Khi anh bị bắt giam lần thứ ba, gia đình anh cắt đứt mọi liên hệ với anh. Anh đã nghĩ đến chuyện tự vẫn, nhưng ngay lúc đó có một người Brazil gốc Nhật vui tính bị cảnh sát bắt giam. Người này thường xuyên cầu nguyện và nói về Kinh Thánh cho Igarashi nghe.

 

Đó là lần đầu tiên Igarashi bắt đầu đọc Kinh Thánh. Anh ấn tượng nhất là câu: “Saolô, Saolô sao ngươi lại bắt bớ ta?“ (Cv 9, 4) Đối với Igarashi, câu này nghe như thể Đức Kitô đang hỏi chính anh: “Sao con phạm tội chống Ta?” Đó là lúc anh trở lại đạo. Anh cầu nguyện hết lòng, lớn tiếng nói: “Con xin lỗi Chúa!”

 

Anh nhận ra khi Chúa Giêsu chết trên thập giá, Ngài chết thay cho anh trên đó và anh khóc nức nở. Một quản giáo nghĩ anh muốn tự tử, nên đã làm mọi việc có thể để an ủi con người tuyệt vọng này. Igarashi biết Mẹ Têrêsa cũng trong nhà tù, qua một quyển sách anh tình cờ đọc được. Anh lập tức tin rằng “con người này có thật” và muốn đi học hỏi nơi thánh nhân, mãi sau này anh mới biết ngài đã qua đời. May mắn thay, anh có cơ hội gặp được một số tu sĩ dòng Thừa sai Bác ái do ngài sáng lập.

 

Anh gặp nhiều người khác trong Giáo hội trước khi mãn hạn tù, trong đó có các giám mục, linh mục và nữ tu. Đức cố Hồng y Seiichi S. Hirayanagi mở khóa học giáo lý tân tòng giới thiệu đức tin Công giáo cho anh. Một luật sư Tin Lành đã đứng ra bảo lãnh anh. Khi ra tù, Igarashi bắt đầu biến đức tin thành hành động thực tế bằng cách thành lập Nhà Mẹ. Đức Tổng giám mục Takeo Okada đích thân gửi thư chúc mừng. Trong những ngày này điện thoại bắt đầu reo từ sáng sớm đến suốt ngày, người ta gọi đến hỏi thông tin về Nhà Mẹ. Anh làm việc hết mình, phấn đấu noi theo con đường tình yêu của Mẹ Têrêsa. (Ucanews.com, Câu chuyện của một tù nhân Nhật và Chân phước Têrêsa)

 

Lời thầm thì của Chúa qua Tin Mừng đã tái sinh anh Hiroshi Igarashi ngay trong ngục tù. Cộng thêm gương chứng nhân của Mẹ Têrêsa đã tiếp sức cho anh cải tà quy chánh, làm lại cuộc đời mới. Câu chuyện của anh minh họa sống động Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, khi Đức Giêsu tuyên bố: “Phàm ai nghe và dón nhận giáo huấn của Chúa Cha, thì sẽ đến với tôi.” Nhưng dân Do Thái thời ấy lại thì thầm bất tín, bất bình Lời Chúa. Chỉ vì họ đố kỵ ganh ghét, chỉ vì theo tà tâm, mong đợi Đấng Messia theo khuôn mẫu, thần tượng, một anh hùng giải thoát dân tộc khỏi ách thống trị La Mã, một đại ân nhân hào phóng cho họ thỏa thuê xôi thịt. Không được như ý, họ liền thì thầm ngấm ngầm chống báng Đức Giêsu.

Thầm thì đố kỵ

“Chớ thì ông này chẳng phải là Giêsu, con ông Giuse sao? Chúng ta đều biết rõ cha mẹ của ông. Vậy làm sao ông lại nói: ‘Ta bởi trời mà xuống.” Dân Do Thái tỏ ra phản đối, chống lại Người, không phải không thấy những phép lạ nhãn tiền, hay không phải không được nghe những lời giảng dạy cao quý của Đức Giêsu, mà họ chỉ nại đến một lý do đơn giản đến bất ngờ: lý lịch của Người. Tầm thường, nghèo khó, xuất thân chẳng quyền cao, chức trọng, không danh tiếng, cũng chẳng xuất chúng. Cộng với tánh đố kỵ, ganh ghét, nhỏ mọn, làm sao họ chấp nhận Người trổi vượt họ cả trăm ngàn lần? Sao dám chấp nhận Người là Đấng Messia ngàn đời mơ ước?

 

Tuy nhiên, họ chỉ dám thầm thì vì danh bất chính ngôn bất thuận. Không dám nói to lên để tranh luận thẳng thắn, vì biết sẽ thua lý, thua tình. Vì ngay các luật sĩ, các tư tế, các thầy Biệt phái Pharisiêu cũng từng bị đuối lý, thua trắng tay, khi công khai tranh luận với Người về luật lệ, giáo lý, và nhất là về Kinh Thánh.

 

Đức Giêsu trả lời cùng họ rằng: “Các ngươi chớ thì thầm với nhau. Không ai đến được với Ta nếu Cha, là Đấng sai Ta, không lôi kéo kẻ ấy, và Ta, Ta sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết. Thiên Chúa đặt vào lòng người từ khi sơ sinh, lương tâm cùng với tình cảm và trí khôn, để phân biệt đâu là sự lành, sự dữ, điều tốt, cái xấu, việc đúng, lỗi sai. Nhân chi sơ tánh bản thiện. Thiên Chúa giao cho mỗi người những vốn liếng cao quý đó, để có thể tự điều chỉnh, như lời ngôn sứ Isaia: “Mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy bảo.”(Is 54, 13)

 

Theo thời gian, lương tâm có thể thay đổi, biến dạng, lệch lạc vì chịu ảnh hưởng môi trường gia đình, giáo dục và xã hội, nhưng vẫn còn trí khôn có thể phán đoán, nhận biết lý lẽ, sự thật và vẫn còn con tim biết yêu chuộng, thích thú điều tốt lành, lánh xa điều dữ. Nên con người không thể dễ dàng tha hóa, nếu không cố tình sa đọa, cố ý gian tham, bất nhân, độc ác. Vậy chỉ vì sống vị kỷ, kiêu căng, tự phụ, nuông chiều theo ý riêng xác thịt, người ta mới bưng tai, bịt mắt, từ chối lý lẽ, sự thật, đường công chính, mà lìa xa Thiên Chúa, cội nguồn sự sống, tình yêu và lòng thương xót.

 

Thầm thì tà tâm

Sống trong không gian ba chiều, con người thường bị giam hãm, bị đóng khung trong tầm nhìn hữu hạn, thường hâm mộ những cái hữu hình to lớn, kỳ quan kiến trúc, công trình xây dựng quy mô, đồ sộ, phô trương, choáng ngợp, mà hầu như quên đi những gì bé nhỏ, tầm thường, tự nhiên và gần gũi, thân thiện, như sông biển, núi non, rừng thẳm, thiên nhiên hùng vĩ. Hay không muốn quan tâm, hướng đến những điều quan trọng hơn, cao siêu hơn, linh thiêng và bất biến, như Đấng Tạo Hóa. Vì coi thường, nên người ta không tiếc thương bạc đãi, khai thác, gây ô nhiễm, phá hoại môi trường, để rồi chịu những cơn nổi giận của Mẹ Trái Đất bị xúc phạm, như mưa lũ, lụt lội, sạt lở, hạn hán, sóng thần,…

 

Con người tham lam khai thác đất đai đến kiệt quệ và sa mạc hóa. Không đoái hoài cho đất đai nghỉ ngơi, tái tạo độ phì nhiêu màu mỡ, như Luật dạy phải tuân thủ Năm Sabbat. (Lv 25, 1-7) Hiện nay, hàng vạn mẫu đất chuyên trồng cây bông bên Trung Quốc bị sa mạc hóa vì quá tận canh, tận thu, phá vỡ cân bằng sinh thái. Vì tà tâm, rủ nhau suy tôn, thờ lạy con bò vàng, thiên hạ bất tuân Lề Luật Thiên Chúa, mới thầm thì bất bình, bác bỏ, lìa xa Lời Chúa.

 

Ai nghe lời giáo hoá của Cha, thì đến với Ta. Thiên hạ đâu chịu nghe lời răn dạy của Thiên Chúa, nên dĩ nhiên xoay lưng lại Lời Đức Giêsu rao giảng, để bây giờ phải lãnh những hậu quả nhãn tiền.

Thầm thì chống đối

Người ta thầm thì chống báng, cũng chỉ vì cái tôi quá lớn, kiêu căng cao ngất trời xanh, che khuất cả vầng sáng mặt trời rực rỡ, nên tự hóa ra tối tăm, hẹp hòi, hoang tưởng, u mê như ếch ngồi đáy giếng. Chỉ nhìn thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của chính mình, thì lại không để ý tới (Lc 6, 41)

 

Vẫn biết cơ cấu tổ chức nào cũng đều bất cập, bất toàn, kể cả Tòa Thánh Vatican, vẫn biết cá nhân các đấng bậc, từ Giám Mục, Linh mục, Tu sĩ, đến Giáo dân nam nữ, trẻ già, đều là con người, không thể vẹn toàn đức hạnh, thánh thiện, nhưng thiên hạ vẫn nại cớ vào đó để bài bác Nước Chúa. Không những không tin, hay nhẹ tin, hoặc nghi kỵ, bất tuân phục giáo lý Chúa, mà còn báng bổ, đả kích và xúc phạm thô bạo, vì những thiếu sót, những bất cập trong Giáo hội Công Giáo. Ngụy biện, suy diễn, quy nạp những tiểu tiết, chuyện nhỏ, mà vô tình hay hữu ý bác bỏ những điều vĩ đại vô song của đạo Chúa, như Tình Yêu Cứu Chuộc, Lòng Thương Xót bao dung và quảng đại của Thiên Chúa, thì còn gì đáng chê trách hơn?

 

Chẳng hề chấp nhất những lời thì thầm của thiên hạ bất bình, bất kính, lẫn bất mãn, vụng trộm kích động, phản đối, xúi giục, xúc phạm, Đức Giêsu vẫn điềm đạm dạy bảo toàn dân: “Không một ai đã xem thấy Cha, trừ Đấng bởi Thiên Chúa mà ra, Đấng ấy đã thấy Cha. Thật, Ta bảo thật các ngươi: Ai tin vào Ta thì có sự sống đời đời.

 

Chớ thì thầm với nhau

Đức Giêsu ôn tồn khuyên, đừng thì thầm đố kỵ, tà tâm hay chống đối, mà hãy hoàn toàn tin cậy và phó thác vào Người, để được ban sự sống. Hơn nữa Người còn tự hiến thân, hy sinh trở nên tấm bánh dưỡng nuôi và che chở con người lữ hành trên đường hy vọng. “Ta là bánh ban sự sống. Cha ông các ngươi đã ăn manna trong sa mạc và đã chết. Đây là bánh bởi trời xuống, để ai ăn bánh này thì khỏi chết.” Lời Chúa và Mỉnh Máu Chúa đã trở nên lương thực trường sinh, bất tử cho những ai đói khát sự công chính, sự thật và sức sống viên mãn.

 

“Muốn tin, phải nuôi mình bằng Thánh Thể, vì Thánh Thể chứa đựng “mầu nhiệm Đức Tin,” và ban sức mạnh đức tin cho con.” (Đường Hy Vọng, số 373)

 

Lạy Chúa Giêsu, chúng con đang sống trong một xã hội bát nháo, cơ hội, duy vật, thực dụng, ráo riết chối bỏ và chống báng Thiên Chúa, trong môi trường chỉ biết cúc cung bái thờ lạy cái bụng mà thôi. Kính xin Lời Chúa đến thức tỉnh, cảnh giác, giải thoát chúng con khỏi những tiếng thì thầm êm ái, ngọt ngào quyến rũ đến chết người. Xin ban Thánh Thể đến cải hóa, đổi mới và tăng sức mạnh cho chúng con can đảm dấn thân đi theo Chúa trọn đời.

 

Lạy Mẹ Maria Thánh Thể, kính xin Mẹ cầu bầu cùng Đức Chúa Thánh Thần soi sáng, chỉ đường dẫn lối chúng con trung kiên đi theo Chúa, thoát khỏi những cạm bẫy của thân xác, thế gian và ma quỷ, đố kỵ, tà tâm, bất mãn giăng lên khắp ngả đường. Amen.

 

17.Thực phẩm trường sinh

     (Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)

 

Khái niệm thực phẩm chức năng (Functional foods *) được người Nhật sử dụng đầu tiên trong những năm 1980, để chỉ những thực phẩm chế biến có chứa những thành phần tuy không có giá trị dinh dưỡng, nhưng giúp nâng cao sức khoẻ cho người sử dụng. Theo Viện Khoa học và Đời sống Quốc tế (International Life Science Institute – ILSI) thì thực phẩm chức năng là những thực phẩm, hay thành phần của chế độ ăn có thể đem lại lợi ích cho sức khoẻ nhiều hơn giá trị dinh dưỡng cơ bản. Thực phẩm chức năng có thể là sản phẩm có nguồn gốc tự nhiên, hoặc là thực phẩm trong quá trình chế biến được bổ sung thêm các chất “chức năng”.

 

Hiện nay các nước phát triển có xu hướng ưa chuộng dùng các TPCN hơn dùng thuốc. Chính vì vậy, đa số các tập đoàn sản xuất thuốc đang chuyển sang sản xuất TPCN và tìm được đối tượng tiêu thụ lớn hơn. Theo dự báo của chuyên gia, thì “thức ăn của con người trong thế kỷ 21 là TPCN”. Thức ăn không chỉ đảm bảo đủ calo, ăn ngon ăn sạch, mà còn phải được bổ sung các hoạt chất sinh học nguồn gốc tự nhiên cần cho sức khỏe và sắc đẹp, không chỉ có tác dụng phòng một số bệnh, mà còn tạo ra cho con người khả năng miễn dịch chống sự lão hóa và điều khiển được chức năng của từng hệ cơ quan trong cơ thể. (Wikipedia)

 

Dẫu thế, thực phẩm chức năng cũng chỉ có thể giúp con người chậm trễ đến cái chết, chứ không thể giúp vượt qua cái chết. Trong khi Chúa Giêsu lại giới thiệu một thực phẩm đặc biệt, không có gì sánh nổi, để nuôi dưỡng con người chiến thắng sự chết.

 

1- Bánh Thiên Sai

Trong sách Các Vua, quyển thứ nhất, hình ảnh Tiên tri Elia buông xuôi, chờ chết, được cứu sống bởi bánh từ trời, dẫn tín hữu đến gần với Bánh Từ Trời chánh thức giá trị vô song, đó chính là Đức Chúa Giêsu nhập thế. Người công khai mặc khải: “Tôi là Bánh Hằng Sống. Tổ tiên các ông đã ăn man-na trong sa mạc, nhưng đã chết. Còn bánh nầy là bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết.” (Ga 6, 48 – 49)

 

Với tình yêu vô biên, lòng thương xót hải hà, Chúa Giêsu lấy chính thân mình, tự dâng hiến trở thành lương thực cứu rỗi con người khỏi cái chết mục nát. Hơn nữa, còn ban cho đời sống vĩnh cửu.

 

2- Bánh Lời Chúa

Lời Chúa cũng được coi là Bánh Hằng Sống như ngôn sứ Amos đã cảnh báo dân Chúa: Ta sẽ gieo nạn đói trên xứ này, không phải đói bánh ăn, cũng không phải khát nước uống, mà là đói khát được nghe lời Đức Chúa. (Am 8, 11) Bởi vì “Lời Chúa là là ngọn đèn soi cho con bước là ánh sáng đường con đi” (TV 118,115). Hơn nữa Chính Đấng Thiên Sai còn xác nhận công khai: “Người ta sống không nguyên bởi bánh. Nhưng còn bởi mọi Lời do miệng Thiên Chúa phán ra.” (Mt 4,4)

 

Những lời khẳng định trên đều cho thấy, Lời Chúa là tấm Bánh không thể nào thiếu trong cuộc đời sống đạo ngày hôm nay, để giao hòa và kết hợp mật thiết với Thiên Chúa, hầu được cứu rỗi khỏi cạm bẫy thế gian.

 

3- Bánh Thánh Thể

Trước phong ba sự dữ dồn dập tấn công hiện nay, nhân đức Tin, Cậy, Mến cũng dễ bị chao đảo, sa sút hay khủng hoảng, nếu không có siêu lương thực Mình Máu Chúa dưỡng nuôi, cứu giúp và tăng lực. Bởi chưng chính Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế, đã chính thức công khai tiết lộ cho con người sự hào phóng vô biên: “Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống.”(Ga 6, 51)

 

Thánh Thể mặc khải cho trí hiểu biết Mầu Nhiệm nước trời sẽ đến sau này và sát nhập dân Chúa vào Mầu Nhiệm nước trời. Đức Tin không thể tồn tại nơi người Công Giáo sống ngoài Thánh Thể. (ĐHV, 379)

 

Lạy Chúa Giê su, con xin cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng, vì đã ban cho con Bánh Trường Sinh, để con được sống viên mãn.

 

Lạy Mẹ Maria, con xin hiệp ý cùng Mẹ trong kinh Magnificat, để tán dương, tri ân Thiên Chúa đã ban cho con lương thực Trường Sinh, hầu vững bước về Quê Trời. Amen.

___________

(*) Functional foods, Food suplement, Alicaments, Nutraceutics.

 

18.Tin Chúa sẽ được sống muôn đời

 

Anh chị em thân mến!

Chúng ta không phủ nhận sự kiện có nhiều người muốn chối bỏ Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa mà họ đang nắm giữ chưa phải là Thiên Chúa thật, đó mới chỉ là một phác họa của trí tưởng tượng, một phản ứng của những ước muốn nơi con người. Không chiều theo sở thích của họ thì họ sẽ sẵn sàng chối bỏ. Muốn khám phá ra một Thiên Chúa thật, con người phải tìm về cội nguồn là Đức Kitô, như lời dạy của Ngài qua tường thuật của thánh Gioan trong đoạn Tin Mừng hôm nay.

 

Thật thế, có nhiều cách nghe và nhiều cách phản ứng trước điều đã nghe. Có người nghe để rồi phê bình chỉ trích, có người nghe rồi chán nản bực mình, nghe để khiếp sợ xa lánh hoặc nghe chỉ vì không có cơ hội để nói. Tất cả các cách nghe này đều không phải là cách nghe mà Chúa Giêsu muốn nhắn nhủ: “Ai nghe và học nơi Cha thì đến với Ta”.

 

Nghe và học là đáp trả đối với tình yêu Thiên Chúa. Vì Lời của Thiên Chúa như mưa tuyết từ trời sa xuống, nó sẽ không trở lên trời lại nếu đã không thấm nhuần đất đai, nếu không làm cho đất đai sinh sản nẩy mầm và cho người gieo có giống cùng cơm bánh cho người ta ăn.

 

Lời Chúa là lời phát sinh hiệu quả. Hiệu quả ấy không phải là sản phẩm của trí tưởng tượng hoặc kết tinh của ước muốn. Nếu chỉ gặt hái được những kết quả như thế khi tiếp xúc với Thiên Chúa, sớm muộn gì con người cũng sẽ chối bỏ Ngài.

 

Muốn gặp được Thiên Chúa thật, con người phải đến với Đức Giêsu: “Không ai xem thấy Cha trừ ra Đấng bởi từ Thiên Chúa Cha mà ra. Đấng ấy đã thấy Cha và Đấng ấy cũng là Thiên Chúa”.

Tìm đến với Ngài là tìm gặp được Thiên Chúa. Nghe và học ở nơi Ngài không chỉ là việc tiếp nhận từ Ngài các kiến thức khô khan, như các công thức toán học, vật lý hoặc văn chương triết học. Nghe và học ở Ngài là đón nhận cả con người của Ngài. Thân thể Ngài trở nên của ăn, Máu Ngài trở nên của uống nuôi sống trần gian: “Ai đến với Ngài sẽ không hề đói. Ai tin vào Ngài sẽ không hề khát bao giờ”.

 

Con người vẫn còn than trách hoặc chối từ Thiên Chúa, vì họ còn giữ mãi cho mình hình ảnh của một Thiên Chúa do họ nắn tạo ra. Cần phải phá bỏ hình ảnh đó đi, họ mới có cơ may gặp được Thiên Chúa thật. Người Do Thái đã không từ chối hình ảnh của Đấng Cứu Thế theo những gì họ nghĩ tưởng. Thế nên, đứng trước một Đấng Cứu Thế thật, họ cũng chẳng bao giờ gặp được Ngài.

 

Biệt phái nghe để phê bình, luật sĩ nhìn để bắt bẻ, thì làm sao có thể nghe và nhìn để học hỏi nơi Đức Giêsu. Người tín hữu hôm nay cũng thế, nếu không biết nghe và học, họ sẽ không gặp được Thiên Chúa. Nghe và học đòi buộc họ phải đến với Chúa Giêsu, đến với Ngài đòi buộc họ phải đón nhận Ngài. Vì hiểu biết Thiên Chúa không phải chỉ là mớ kiến thức, nhưng hiểu biết về Ngài là một cảm nghiệm, một đối thoại trao đổi không ngừng.

 

Qua bài Tin Mừng hôm nay, ước mong rằng mỗi người trong chúng ta vượt qua hình ảnh về Thiên Chúa mà bấy lâu nay mỗi người trong chúng ta đã đúc sẵn cho mình. Có thể đó là một Thiên Chúa nhớ đến lúc nguy nan hoặc như nhãn hiệu gắn bên ngoài để che mắt người đời. Có như thế, chúng ta mới gặp được Thiên Chúa thật, Đấng hằng mong chờ chúng ta đến để sống với Ngài, để hưởng sự sống đời đời bên Ngài. Amen.

 

19.Bí quyết trường sinh

    (Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’ – Thiên Phúc)

 

Tần Thủy Hoàng là vị vua Trung Quốc, sống trước Chúa Giáng Sinh khoảng 200 năm. Ông là người đã truyền xây Vạn Lý Trường Thành dài hơn 2.000 dặm. Đó là kiến trúc duy nhất trên trái đất, mà các phi hành gia có thể nhìn thấy từ ngoài không gian. Theo tạp chí National Geographic, Tần Thủy Hoàng rất sợ chết, ông muốn được trường sinh bất tử, nên tìm đủ mọi cách để được cải lão hoàn đồng. Một ngày kia, các chiêm tinh gia kể cho ông nghe về một hòn đảo thần tiên ở biển Đông, dân cư ở đấy đã khám phá ra bí quyết trường sinh.

Tần Thủy Hoàng liền phái một số tàu thuyền chất đầy châu báu lên đường, hy vọng đổi được bí quyết trường sinh. Nhưng dân chúng không đổi cho ông bí quyết trường sinh của họ. Thế rồi ông lo xây nhà mồ như cung điện nguy nga rộng lớn, lấy châu ngọc làm tinh tú, lấy thủy tinh làm sông Ngân Hà, lấy vàng bạc lát tường và chôn sống hàng trăm cung nữ trong đó, để kiếp sau được sống như thần tiên. Nhưng kẻ tàn bạo ham sống ấy chỉ làm vua được hơn chục năm và sống trên năm mươi tuổi thì chết đi.

***

Trường sinh bất tử là ước mơ ngàn đời của con người. Cứ mỗi lần một người thân giã từ cõi thế, thì ước mơ được sống mãi lại càng dày vò con người dữ dội hơn. Nên không lạ gì khi Đức Giêsu nói về cuộc sống trường sinh thì mọi người tuôn đến như đi tìm kho báu.

Nhưng mầu nhiệm về “Sự sống đời đời” lại rất xa tầm trí mọn của đám dân chúng. Đức Giêsu không giúp họ thoát khỏi cái chết của thân xác, vì chính Người cũng vui lòng chết như mọi người. Nhưng Người cứu họ thoát khỏi cái chết của linh hồn: cái chết vĩnh viễn xa lìa Thiên Chúa và hoàn toàn ly biệt với tha nhân, cái chết đi vào trầm luân muôn kiếp, cái chết dẫn đến cõi tiêu diệt muôn đời.

Cuộc sống vĩnh cửu ấy, hôm nay Đức Giêsu đã mạc khải: “Ta là Bánh ban Sự Sống… Ai ăn Bánh này sẽ được sống muôn đời” (Ga.6,47). Vậy bí quyết trường sinh mà Tần Thủy Hoàng khó nhọc đi tìm kiếm tận các đảo thần tiên, lúc nào cũng hiện diện trước mặt chúng ta, trong mọi thánh đường Công giáo. Chính là Đức Giêsu nguồn mạch trường sinh.

 

Người đang hiện diện với chúng ta bằng thần trí Người: “Ở đâu có hai hoặc ba người tụ họp nhân danh Ta, Ta sẽ ở đó với họ” (Mt.18,20).

Người còn hiện diện với chúng ta qua Lời Chúa. Lời mà Người nói cách đây 2000 năm cũng chính là Lời Người đang nói với chúng ta trong tin mừng.

Người hiện diện với chúng ta qua các linh mục trong lúc giảng dạy và trong khi cử hành các Bí tích: “Ai nghe các con là nghe Ta” (Lc.10,16).

Đặc biệt Người hiện diện thực sự với chúng ta trong Bí tích Thánh Thể: “Ta là bánh hằng sống… Ai ăn bánh này sẽ được sống đời đời” (Ga.6,52).

Như vậy, “Sự sống đời đời” không phải là chuyện viễn vông xa vời, nhưng là một thực tại đang triển nở trong đời sống người tín hữu. Mỗi thánh lễ là một bàn tiệc nuôi dưỡng linh hồn đưa ta về chốn trường sinh.

***

Lạy Đức Giêsu, như Tấm Bánh Thánh xin cho tâm hồn chúng con nên trong trắng, cố xa tránh những ô uế cho dù nhỏ mọn để luôn xứng đáng với Chúa.

 

Xin cho tâm hồn chúng con nên khiêm hạ nhỏ bé, nhưng luôn bày tỏ một tình yêu lớn lao. Và cho tâm hồn chúng con luôn kết hợp với Chúa, để được Chúa dẫn vào cuộc sống muôn đời. Amen.

 

20.Tấm bánh bẻ ra

 

Ta là bánh ban sự sống. Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, chúng ta thấy Chúa Giêsu đã ban phát và nuôi sống dân chúng ngay khi Ngài còn ở giữa họ, không phải từ những tấm bánh cho bao nhiêu ngàn người ăn để rồi họ cũng chết như tổ tiên họ. Nhưng Ngài đã ban chính mình Ngài cho dân chúng, qua tất cả những phép lạ như một quà tặng cho nhân loại.

 

Ngài ban chính mình Ngài qua tình thương mà con người thấy được ở lời nói và hành động của Ngài. Ngài đã ban chính mình Ngài qua cái chết trên thập giá như một dấu chứng cho tình yêu, cho chân lý và cho chương trình cứu độ của Ngài. Ngài đã ban tất cả những gì cao quí nhất, cả đến mạng sống cho mọi người, như thế Ngài đã trở nên bánh ban sự sống cho chúng ta. Tình thương, lời Chúa và cuộc sống của Ngài vẫn luôn luôn là nguồn sống cho chúng ta, là động lực cho muôn người nối gót Ngài đi cải tạo thế giới bằng tình thương. Chính vì thế mà những ai sống trong Ngài, tin vào Ngài thì đã có sự sống đời đời. Lẽ tất nhiên, Chúa còn hứa ban chính mình Ngài trong Bí tích Thánh Thể.

 

Nhưng ở đây chúng ta muốn nói đến Ngài như tấm bánh đem lại sự sống. Ngài là Đấng bị ăn. Thực vậy, trong bữa tiệc ly Ngài đã phán: Các con hãy cầm lấy mà ăn, vì này là mình Ta. Thế nhưng, chúng ta không phải được kết hiệp với Ngài qua Bí tích Thánh Thể, mà còn một cách khác Ngài đã muốn chúng ta dùng để được kết hiệp thực sự với Ngài: Ai yêu mến Ta thì hãy giữ lời Ta. Lời Chúa là bánh ban sự sống cũng có giá trị ngang hàng với bàn tiệc Thánh Thể. Chúa là tấm bánh được ban để cho chúng ta ăn. Và khi chúng ta ăn, chúng ta cũng phải trở thành bánh thịt ngon, để anh em chúng ta có thể ăn. Chúng ta sống bằng tình thương, bằng lời Chúa và bằng chính cuộc sống của Ngài thế nào, thì mọi người chung quanh chúng ta cũng được sống bằng tình thương, bằng lời nói và bằng chính cuộc sống tín hữu của chúng ta như vậy.

 

Nếu tất cả cuộc đời, lời nói và hành động của chúng ta đều xuất phát một cách chân thành từ tình thương, thì chúng ta sẽ là những tấm bánh thơm ngon cho ngưới anh em. Còn nếu cuộc đời chúng ta chỉ toàn gương xấu, tính ích kỷ, chỉ biết lo đến phần rỗi của riêng cá nhân mình: ai chết mặc ai, miễn là ta lên thiên đàng, thì không ai gọi chúng ta là những tấm bánh được, mà chỉ là một thứ rác rưởi, một thứ cặn bã cần tống đi mà thôi. Chúa là tấm bánh cho ta, thì ta cũng phải là tấm bánh bẻ ra cho những người anh em.

 

21.Tôi là Bánh từ trời xuống

    (Suy niệm của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm – ViKiNi)

 

Chúa nhật trước, Đức Giêsu kêu gọi dân chúng: “Hãy ra công làm việc không phải vì lương thực hư nát, nhưng để có lương thực trường sinh”. Chúa nhật hôm nay, Đức Giêsu nhấn mạnh đến thứ lương thực đó là bánh từ trời xuống “Tôi là bánh từ trời xuống”.

 

Rất nhiều dân tộc trên thế giới chủ trương tổ tiên của họ là người từ trời xuống. Đoạn văn về Sáng Thế trong kinh Digha Nykaya của Phật giáo viết như sau: Có ít dân trời hết nghiệp tốt, phải bỏ trời xuống mặt đất. Họ vẫn sáng láng thanh tịnh. Nhưng xảy ra có mấy người tò mò lấy ngón tay động vào vỏ đất rồi đưa lên lưỡi nếm thấy mùi mật ong. Lòng tham thúc đẩy họ bắt đầu ăn vỏ đất. Những người khác thấy vậy cũng ăn vào, nên thân xác trở nên dầy đặc và nặng nề.

 

Platon, ông tổ triết học Tây phương, cũng cho con người từ trên lý giới sa đọa xuống hạ giới này.

 

Con người luôn mơ ước được về trời vì họ tưởng tổ tiên họ đã từ trời xuống. Nhưng khi nghe Đức Giêsu nói: “Tôi là bánh từ trời xuống”, người ta lại kêu ca phản đối: “Ông này chẳng phải là Giêsu, con ông Giuse đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: Tôi từ trời xuống”. Họ phản đối Đức Giêsu vì họ thấy theo con mắt xác thịt, theo suy nghĩ của loài người hạ giới. Họ giống như Gagarin, anh hùng vũ trụ đầu tiên, bay lên không gian ngày 12 tháng 04 năm 1961. Khi trở về trái đất, ông tuyên bố: “Tôi không thấy thiên đàng đâu cả”. Cũng như bác sĩ giải phẫu bệnh nhân, chỉ thấy ruột, tim, gan, phổi mà không thấy tâm tình, ý chí, trí khôn, lương tri, trí thức và nhất là linh hồn đâu cả.

 

Lối nhìn này gọi là quan sát thực nghiệm, nghĩa là chỉ thấy cái nhìn thí nghiệm, cân đo, đụng chạm được bằng mắt, tai, tay, chân, mũi. Ngoài ra, không thấy gì khác nữa, nên cho là không có.

 

Người Do thái cũng biết Đức Giêsu theo lối nhìn xác thịt. Họ chỉ thấy Người là con ông Giuse và bà Maria, sống ở thôn ấp nhỏ bé. Nếu họ thấy hơn chút nữa, thì họ cũng chỉ ngạc nhiên thấy Người làm cho kẻ què được đi, kẻ mù thấy được, kẻ câm nói được, kẻ điếc nghe được, kẻ chết sống lại và chính họ là kẻ đói được ăn no nê. Có thế thôi. Họ không thể thấy gì thiêng liêng, cao siêu qua những việc lạ lùng đó. Cùng lắm, họ coi Người là một tiên tri như Êlia được thiên thần đưa bánh cho ăn, hay là kẻ chết sống lại mới làm được những sự lạ ấy.

 

Họ không thể thấy Người từ trời xuống, thấy Người được Chúa Cha sai đến, thấy Người là Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể trong lòng Đức Maria bởi phép Chúa Thánh Thần, thấy các thiên thần hát mừng Người lúc sinh ra trong hang lừa, thấy được tiếng Đức Chúa Cha phán: Này là Con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng, khi Đức Giêsu chịu phép rửa của ông Gioan tẩy giả.

 

Họ không thấy được Đức Giêsu từ trời xuống vì lòng họ ra chai đá, không còn cảm động theo ân huệ lôi kéo của Đức Chúa Cha, không còn nghe lời Chúa Cha dạy dỗ dù hết mọi người được Thiên Chúa dạy dỗ như sách các Ngôn sứ đã chép. Thiên Chúa lôi kéo, Thiên Chúa dạy dỗ, Thiên Chúa đề nghị, nhưng rồi ta không nghe, không đáp lại, không hiệp thông. Người ta có tự do, có quyền từ chối, tự do của họ đã chiều theo cái bụng, cái mắt, cái tai, cái dục. Chừng nào họ diệt được tham, sân, si thì lòng mới trong sạch, mắt mới sáng lên, tai mới thính ra, lúc đó, họ mới sống đức tin, mới thấy được bánh từ trời xuống, họ mới rước được bánh trường sinh và được sống đời đời.

 

Mỗi Thánh lễ đều nói với chúng ta: “Tôi là bánh từ trời xuống” “Này là Mình Thầy, này là chén Máu Thầy”. Thánh lễ chẳng có gì hấp dẫn những con mắt no nê phim ảnh, những cái bụng say sưa ăn nhậu. Thánh lễ chẳng có gì làm hồi hộp rung động những con tim mê đắm xác thịt, những lòng trí miệt mài tiền của, danh vọng.

 

Thánh lễ chỉ cảm hóa những con người chân thành, những tấm lòng khao khát lương thực trường sinh. Thánh lễ chỉ hấp dẫn những ý chí quyết tin theo lời Thiên Chúa, những tình yêu sốt sắng hy sinh lấy thịt mình cho người khác ăn.

 

Lạy Chúa Giêsu, xin cho con đôi mắt sáng để nhìn thấy bánh từ trời xuống. Xin cho con đôi tai tinh tường để lắng nghe lời hằng sống. Xin cho con một ý chí mạnh mẽ để ra sức làm việc của Thiên Chúa và một trái tim nhạy cảm trước tình thương lấy thịt mình nuôi sống chúng con đời đời.

 

22.Không dừng lại, không chấm dứt

(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)

 

Diễn từ của Chúa Giêsu về bánh ban sự sống hấp dẫn chúng ta vì sức mạnh của những lời quả quyết và đồng thời cũng làm cho chúng ta phân vân về sự cô đơn mà Chúa Giêsu đã tạo ra chung quanh Người vì những lời quả quyết đó. Người ta tự hỏi tính chất cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và các người Do thái thực ra như thế nào?. Một điều hiển nhiên là những người Do thái không thể vươn lên tới trình độ của Chúa Giêsu hiện hữu và từ đó Người nói. Chúa Giêsu đã làm phép lạ cho bánh hoá nhiều. Ngay lúc ấy, người Do thái chú ý đến Chúa, nhưng không phải là để đi theo vị sứ giả của Thiên Chúa, họ chỉ muốn trưng dụng Chúa vào mục đích tư lợi là thoả mãn các ước vọng thế tục của họ. Dụng tâm sâu sắc của họ ngược hẳn lại với dụng ý của Chúa Giêsu. Họ, họ muốn kéo Chúa về với họ trong địa hạt trần thế, còn Chúa Giêsu, Người lại muốn đưa họ lên cao đến trình độ Thiên Chúa. Trong công việc này, Chúa không áp dụng chính sách ngoại giao. Người quả quyết Người là ai, dầu cho dân Do thái chỉ muốn nhìn nhận nơi Người là người mà họ biết cha và mẹ, theo lời họ nói.

Để suy gẫm, chúng ta có thể từ bối-cảnh đó rút tỉa ra hai điều đặc biệt sau đây:

 

1) ‘Không ai đến được với Ta, nếu Cha là Đấng đã sai Ta, không lôi cuốn nó’.

Cần phải hiểu rõ lời ấy của Chúa Giêsu. Nó không có nghĩa là trong xã hội loài người, Thiên Chúa lôi kéo một số người này, gạt bỏ một số người khác. Thiên Chúa muốn cho hết thảy được cứu rỗi. Ngay từ lúc khởi sự, Thiên Chúa không tiên thiên chọn phần này của nhân loại và bỏ rơi phần kia. Người đã đặt vào thâm tâm mỗi người, bản năng nội tại, luôn hướng họ về với số mệnh mà con người tạo dựng. Bản năng thiêng liêng ấy mang nhiều hình thức, và chỉ có Thiên Chúa biết lúc nào trong cuộc đời con người, nó sẽ chỗi dậy trong lương tâm mỗi cá nhân. Chúng ta chỉ cần nhớ rằng hết thảy mọi chúng sinh-dầu cho có kẻ sống trên trần gian chỉ vỏn vẹn một giây phút-cũng đều được kêu gọi trở nên con Chúa. Ơn gọi ấy luôn diễn ra bên trong 1 cuộc gặp gỡ với Đức Kitô. Lời Chúa Giêsu phán ở trên có nghĩa là loài người tự mình bất lực để tiến đến cùng Chúa Giêsu, hết thảy không trừ một ai, phải nhờ Chúa Cha dẫn dắt mới đến được cùng Chúa Giêsu. Không ai đến cùng Đức Kitô do sáng kiến nhân-loại, nhưng mọi người chỉ có thể đến với Đức Kitô nhờ Chúa Cha. Mầu nhiệm của cuộc gặp gỡ giữa Đức Kitô với mỗi người, nói riêng không thể nào hiểu thấu được. Đối với chúng ta là những kẻ tin vào Chúa Giêsu Kitô, vấn đề được đặt ra là phải lo đi sâu vào đức tin. Nhưng bằng cách nào?

 

2) ‘Ai nghe và học lấy giáo huấn của Cha, thì đến cùng Ta’.

Chúng ta cần lưu ý, Chúa Giêsu phán các lời đóở thì hiện tại, chớ không phải ở thì đã qua. Vấn đề không phải là đã được nghe, đã được giác ngộ và đã đến được với Đức Kitô, sau đó mục tiêu được đạt tới. Đây là một thực- tế hiện hữu mà chúng ta phải bành trướng không ngừng. Điều quan trọng là hằng ngày chúng ta phải ở trong tình trạng nghe giáo huấn của Chúa Cha, học hỏi Lời Người và tiến đến cùng Chúa Giêsu.

Việc Chúa Giêsu đến với chúng ta trong đời sống là một thời sự nội tâm luôn luôn hành động, không hề dừng lại, không chấm dứt. Cũng vậy, hành động của chúng ta tiến tới Chúa Giêsu, cuộc ‘gặp gỡ với Chúa Giêsu’, đức tin, sự kết hiệp của chúng ta với Người, là một sự tiến bộ sống động luôn luôn vươn tới sự gia tăng về đức tin, về sự kết hiệp với Chúa. Vậy tìm đâu ra sinh lực nội tại để nuôi dưỡng sự tiến bộ tới cùng Chúa Giêsu?. Xin thưa, phải tìm nơi Bánh hằng sống, tức Thánh Thể.

 

23.Chúa Nhật 19 Thường Niên

    (Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

 

HÃY ĐẾN VỚI CHÚA GIÊSU, BÁNH HẰNG SỐNG

 

Khởi đi từ phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi đám đông dân chúng, phụng vụ Lời Chúa các tuần tiếp theo giúp chúng ta đọc lại hầu như toàn bộ chương 6 Tin Mừng theo thánh Gioan. Đây là cơ hội để khám phá con người Chúa Giêsu, Bánh Hằng Sống, sức mạnh của Lời Chúa, ý nghĩa của Mầu Nhiệm Thánh Thể. Mỗi Chúa nhật một khía cạnh khác nhau. Từ Bánh Bởi Trời là Chúa Giêsu đến Bánh Ban Sự Sống, Tấm Bánh Thánh Thể và Bánh Lời Chúa.

 

Tin Mừng hôm nay tiếp tục quảng diễn cho chúng ta bầu không khí tại quê nhà của Chúa Giêsu và thái độ của những người đồng hương đến nghe Chúa giảng. Sau khi đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều, kèm theo lời giải thích cho dân chúng về ý nghĩa của “dấu chỉ” ấy xong, Chúa Giêsu tuyên bố: “Ta là hằng sống bởi trời mà xuống” (Ga 6,51). Câu này khiến cho những cùng quê với Chúa Giêsu sửng sốt. Họ đâu có đón nhận Lời này. Họ coi đó là gương mù gương xấu. Họ lẩm bẩm với nhau, bới lông tìm vết: “Chớ thì ông này chẳng phải là Giêsu, con ông Giuse sao? Chúng ta đều biết rõ cha mẹ của ông. Vậy làm sao ông lại nói: ‘Ta bởi trời mà xuống” (Ga 6,42). Cuộc sống của Chúa Giêsu rất đỗi bình thường giữa người làng xóm, thường đến nỗi khiến người ta vấp phạm vì lời Người. Thấy họ lẩm bẩm, Chúa Giêsu nói: “Các người chớ thì thầm với nhau. Không ai đến được với Ta nếu Cha, là Đấng sai Ta, không lôi kéo kẻ ấy”, và Người thêm: “Ai tin vào Ta thì có sự sống đời đời” (Ga 6, 44.47).

 

Người Cha mà Chúa Giêsu nói với họ không ai nhìn thấy bao giờ là người cha nào? Bánh từ trời xuống là bánh gì mà người ta ăn vào sẽ sống đời đời? Trong khi đó, manna của ăn trong sa mạc, cha ông họ đã ăn và đã chết thì Chúa phủ nhận, nay tuyên bố: “Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ sống đời đời” (Ga 6, 51). Thịt của Chúa có thể là thức ăn cho con người được không? Sự chống đối mà Chúa Giêsu đã gieo vào giữa những người Do Thái cũng có thể áp dụng cho chúng ta ngày hôm nay nếu chúng ta không trả lời được câu hỏi căn bản “Chúa Giêsu là ai?” trong đời sống kitô giáo của mình.

 

Trước chúng ta, nhiều người nam cũng như nữ đã tự đặt ra cho mình câu hỏi này, và cá nhân họ đã có câu trả lời, họ đã đến với Chúa, đi theo Chúa và tận hưởng một cuộc sống vô tận tràn đầy tình yêu như Chúa hứa: “Và Ta, Ta sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết” (x. Ga 6, 44). Juan Casiano đã nói với các môn đệ mình rằng, “Hãy đến gần Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ đến gần anh em vì ‘không ai đến được với Ta nếu Cha, là Đấng đã sai Ta không lôi kéo kẻ ấy'”. Lời mời gọi của Chúa trong Tin Mừng vẫn thúc bách chúng ta hôm nay, “Hãy đến với Ta, tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, Ta sẽ cho nghỉ ngơi bồ dưỡng” (Mt 11,28).

 

Những lời này không chỉ dành cho một số người, không, Chúa nói những lời ấy là dành cho tất cả mọi người, những ai đang mệt mỏi với gánh nặng, những ai cảm thấy mình bị loại ra khỏi lời mời gọi của Chúa. Chúa thấu hiểu cuộc sống này nặng tới mức độ nào và Chúa còn thấy bao điều mệt mỏi trong tâm hồn chúng ta như: thất vọng, vết thương trong quá khứ, lầm lỗi trong hiện tại, những bất định và lo âu về tương lai. Chúa mời gọi chúng ta: “Hãy đến! “.

 

Đón nhận Lời Chúa, chúng ta hãy năng đến với Chúa Giêsu mỗi ngày và đi vào trong sự hiệp thông thân tình với Chúa, ăn thịt Chúa, vì như Orgene nói: “Của ăn đích thực là mình Chúa Kitô, Đấng là Ngôi Lời, nhập thể làm người giữa chúng ta”. Hãy đến với Chúa Giêsu, vì chính Người là Đấng được Chúa Cha đã sai vào thế gian làm Lương thực trường tồn, và vì điều này mà Chúa Giêsu đã hiến tế mạng sống mình, hiến trao thịt và máu Người làm của ăn cho chúng ta.

 

Vì thế, trong Bí Tích Thánh Thể, Chúa Giêsu luôn đồng hành với chúng ta, những người đang lữ hành trên bước đường dương thế để nuôi dưỡng đức tin, niềm hy vọng và lòng bác ái nơi mình, như xưa Người đã đồng hành với các môn đệ trên đường Emmaus. Hơn nữa, Chúa Giêsu Thánh Thể sẽ an ủi chúng ta trong mọi cơn gian nan thử thách, nâng đỡ và hướng dẫn chúng ta đạt tới chân lý và bình an. Mỗi khi chúng ta đón nhận Chúa Giêsu trong Bí Tích Thánh Thể, chúng ta được nuôi dưỡng trong đức tin, đức cậy và đức mến; an ủi chúng ta giữa những thử thách của cuộc đời.

 

Được Chúa Giêsu Thánh Thể nuôi dưỡng, cũng có nghĩa chúng ta phải từ bỏ chính mình, để đặt niềm tin nơi Chúa và để cho Chúa hướng dẫn. Bằng cách ấy, tình yêu nhưng không mà chúng ta nhận nơi Chúa Kitô trong Bí tích Thánh Thể với tác động của Chúa Thánh Thần, sẽ nuôi dưỡng lòng mến Chúa và tình yêu thương mà chúng ta dành cho từng anh chị em mà chúng ta gặp gỡ trên mọi bước đường đời. Được nuôi dưỡng bởi Thân Mình Chúa Kitô, chúng ta ngày càng trở nên thân thiết hơn và cụ thể hơn với Thân Thể nhiệm màu của Chúa Kitô là chính Hội Thánh.

 

Lạy Đức Nữ Trinh Maria, Mẹ luôn hiệp thông mật thiết với Đấng là Bánh Hằng Sống, xin giúp chúng con tái khám phá vẻ đẹp của Bí tích Thánh Thể, là bí tích nuôi dưỡng đời sống đức tin, để chúng con biết sống mật thiết với Chúa và với anh chị em đồng loại. Amen.

 

24.Chúa Nhật 19 Thường Niên

    (Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

 

SẼ TRƯỜNG SINH NẾU ĂN BÁNH GIÊSU

Ngoài sống vui, sống khỏe, sống hạnh phúc, con người ở mọi nơi mọi thời vẫn hằng khao khát sống sống trường sinh bất lão. Vì khát khao vậy, nên người ta ra công tìm mọi cách để kéo dài sự sống bao nhiêu có thể. Hôm nay, Chúa Giêsu giới thiệu cho chúng ta một thứ lương thực trường tồn là chính Chúa: “Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ sống đời đời” (Ga 6, 51).

 

Bánh trong sa mạc

Trên hành trình về Đất Hứa, qua sa mạc Sin, giữa Êlim và Sinai, dân Israel nổi loạn kêu trách Môsê đã dẫn họ ra khỏi Ai Cập để vào đây phải chết đói (x. Xh 16,3). Môsê đã xinThiên Chúa ban cho Manna từ trời xuống làm của ăn dòng dã 40 năm trường (x. Xh 16, 1- 36).

Đến lượt Êlia, người Tisbê, ở Galaad, sứ ngôn của Thiên Chúa, trong thời kỳ hạn hán không có mưa, có sương, Thiên Chúa đã dùng quạ ở thung lũng Cơrít và bà góa thành Xarépta nuôi ông (x. 1V 17, 1-15). Và trong cuộc hành trình đến núi Horeb của Thiên Chúa, ngài đã dùng chính Thiên Thần mang bánh đến cho ông ăn, nhờ “sức của nuôi ấy, ông đi bốn mươi ngày bốn mươi đêm mới tới Horeb, núi của Thiên Chúa” (1V 19, 8).

Cho dù là Manna từ trời xuống nuôi dân Israel trong sa mạc, hay bánh Thiên Thần mang đến cho Êlia nuôi sống người ta 40 ngày cùng lắm là 40 năm đi nữa, thì những thứ bánh đó cũng chỉ nuôi sống con người cách rất tạm bợ, kẻ ăn những thứ bánh ấy vẫn đói, vẫn khát và vẫn phải chết. Hôm nay, Chúa Giêsu giới thiệu cho chúng ta bánh bởi trời xuống là chính Chúa, Người đến làm no thỏa cái đói tinh thần con người, ai ăn chính Người sẽ khỏi đói muôn đời, và nhất là khỏi chết đời đời.

 

Bánh Giêsu

Thật không phải dễ để giúp những người Do thái thời Chúa Giêsu đón nhận Chúa là Bánh Hằng Sống, thứ bánh họ cần thiết phải kiếm tìm, và ăn không phải nhằm thỏa mãn thể lý trong một thời gian, nhưng còn để sống vĩnh viễn. Chính vì thế, từ phép lạ hóa bánh ra nhiều làm thỏa mãn cái đói thể xác của họ một cách lạ lùng, Người chuẩn bị họ đón nhận lời loan báo, Người chính là bánh từ trời xuống (x. Ga 6, 41) làm thỏa mãn một cách vĩnh viễn:“Ai ăn bánh này, sẽ sống đời đời” (Ga 6, 51).

Trong hành trình dài nơi sa mạc, toàn dân Do thái đã sống kinh nghiệm Manna, bánh từ trời xuống dưỡng nuôi họ cho tới khi vào đất hứa. Thật đáng ngưỡng mộ Thiên Chúa đã làm mưa Manna từ trời xuống mỗi ngày cho cha ông chúng họ ăn no thỏa thích. Đó là lý do tại sao người ta nói: “Bánh Thiên Thần phàm nhân được hưởng” (Tv 77, 25). Tuy nhiên, những người ăn bánh này trong sa mạc đều đã chết. Nay, Chúa Giêsu là bánh đích thực do Thiên Chúa Cha ban xuống từ trời, ai ăn sẽ khỏi phải chết muôn đời, bánh đó chính là thân mình Chúa Giêsu, Người quả quyết: “Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ sống đời đời”(Ga 6, 51). Chúa Giêsu là bánh từ trời xuống, là hồng ân bởi trời, là chính Chúa ngự trên các tầng trời, có khả năng duy trì sự sống không phải chỉ trong một lúc hay một đoạn đường, mà luôn mãi. Người là lương thực ban sự sống vĩnh cửu, bởi vì Người là Con Một Thiên Chúa, ở cung lòng Thiên Chúa Cha, đến để trao ban cho con người sự sống tràn đầy, dẫn con người vào trong chính sự sống của Thiên Chúa.

Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã thất bại, gặp phải điều cấm kỵ trong dân Israel khi tuyên bố:“Ai ăn bánh này, sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống” (Ga 6, 51). Người dẫn chứng: “Cha ông các ngươi đã ăn Manna trong sa mạc và đã chết”, khiến họ kêu trách: “Chớ thì ông này chẳng phải là Giêsu, con ông Giuse sao? Chúng ta đều biết rõ cha mẹ của ông. Vậy làm sao ông lại nói: ‘Ta bởi trời mà xuống”(Ga 6, 42). Họ không vượt qua được các nguồn gốc trần gian, và vì thế họ khước từ tiếp nhận Chúa Giêsu như Lời nhập thể của Thiên Chúa. Và như một hệ quả, họ đã mang án tử để đi vào cõi chết vì không tin. Họ còn quá xa bánh bởi trời và không cảm thấy đói bánh ấy.

Phần chúng ta giờ này đây phải tự hỏi xem chúng ta có thật sự tin Chúa là bánh hằng sống, có cảm thấy đói Lời Chúa, đói bánh Giêsu không? Nếu chúng ta cảm thấy đói thực sự, chúng ta hay tin vào Chúa và để Thiên Chúa lôi kéo. Vì chỉ có ai được Thiên Chúa Cha lôi kéo, chỉ có ai lắng nghe Người và để cho Người dậy dỗ, mới có thể tin nơi Chúa Giêsu, găp gỡ Người và nuôi dưỡng mình bởi Người, và như thế tìm ra sự sống thật, tìm ra con đường sự sống, công lý, sự thật và tình yêu. Vì thật ra, ai ăn bánh hằng sống thì tin nơi Chúa, và ai tin thì ăn và trong một cách vô hình họ được no thỏa.

Ngày hôm nay, qua bàn tiệc Thánh Thể, Chúa Giêsu cũng mời gọi mỗi chúng ta hãy đến để đón nhận bánh ban sự sống, bánh bởi Trời đích thực là chính thân mình Người: “Đây là Mình Thầy”; “Đây là Máu Thầy”; “Ai tin và đón nhận sẽ được sống muôn đời”.

 

Xin cho mỗi người chúng ta có lòng tin yêu Chúa hiện diện nơi Bí Tích Thánh Thể, để qua việc lãnh nhận Mình và Máu Thánh Chúa, chúng ta được sống trường sinh. Amen.

 

25.Thần lương độ đường

     (Suy niệm của Lm. GB. Văn Hào SDB)

 

Trong cuộc sống đời thường, ai trong chúng ta cũng có lúc thành công, cũng có khi thất bại. Thành công mang lại cho chúng ta niềm phấn khích, nhưng thất bại dễ nhấn chìm chúng ta trong tuyệt vọng và chán chường. Hình ảnh của ngôn sứ Êlia được sách Các Vua phác vẽ trong bài đọc thứ nhất của phụng vụ hôm nay lột tả các trạng luống nhân sinh của đời sống con người. Ông đã chiến thắng ngoạn mục trên núi Car-mê-lô trước 450 tiên tri của thần Baal. Lời cầu khấn của ông đã được Chúa chấp nhận và cho lửa từ trời xuống đốt cháy lễ vật. Trong khi đó, môt đội quân đông đảo các tiên tri của Baal dài cổ kêu gào cả ngày mà không một thần linh nào đoái hoài tới. Sự thành công đó đã chứng minh Đấng mà ông tôn thờ là Thiên Chúa thật. Nhưng liền sau đó, gian nan ập đến. Hoàng hậu Idêven săn lùng và tìm cách giết ông, bởi vì bà ta bảo vệ cho tôn giáo thờ Baal. Thế là vị ngôn sứ phải lẩn trốn để lánh nạn. Ông lên đường ra đi trong tất tưởi và cay đắng. Ông hoàn toàn tuyệt vọng và muốn chết quách cho xong. Giữa sa mạc hoang vu, ông nằm vật xuống, đi sâu vào giấc ngủ và xin Chúa cất lấy linh hồn ông. Trong cơn thất vọng ê chề, vị ngôn sứ đã được Chúa sai thiên thần đến đem bánh và nước để ông tiếp tục cuộc hành trình tới núi Khô-rep.

 

Hình ảnh của Êlia là biểu trưng thân phận lữ hành của tất cả mọi người chúng ta. Biết bao lần chúng ta cũng bị bầm dập và tan nát giữa những bi thương của cuộc sống, tưởng chừng như bế tắc và sụp đổ hoàn toàn. Nhưng Thiên Chúa đã trao tặng một thứ lương thực kỳ diệu như đã ban cho Êlia năm xưa để giúp chúng ta độ thân trên con đường lữ thứ. Đó chính là Bánh ban sự sống, Bánh trường sinh, là thần lương cao quý nhất trong kiếp sống lữ hành trần thế hôm nay.

 

Một lần nữa trong bài Tin mừng, Chúa Giêsu mặc khải cho chúng ta về lương thực kỳ diệu này. Ngài khẳng định: “Tôi là Bánh từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ không phải chết…. Và bánh tôi ban tặng chính là thịt tôi đây để cho thế gian được sống” (Ga 6,50-51)

 

Bánh thần thiêng

Cha thánh Gioan Maria Vianney đã miêu tả trong một bài giảng. Thuở ban đầu khi tạo thành vũ trụ, Thiên Chúa định liệu cho mọi sinh linh có đủ lương thực để tồn tại. Mọi thứ rau cỏ, thịt cá… được dọn ra ê hề như một mâm cỗ đầy ắp và mỗi loài có thể tự chọn những lương thực thích hợp để bảo tồn sự sống cho mình. Cuối cùng đến lượt con người, Thiên Chúa khựng lại và tự hỏi “ Ta sẽ ban cho họ lương thực gì đây? Bởi vì con người được dựng nên giống hình ảnh Ta, không chỉ có thân xác mà còn có cả linh hồn”. Thân xác thì đã có của ăn vật chất còn linh hồn thì sao? Cuối cùng, để tương xứng với vẻ đẹp của linh hồn con người vốn là họa ảnh của chính Thiên Chúa, Ngài đã quyết định trao hiến thịt và máu Người Con yêu quý để nuôi sống chúng ta, cho dù Ngài biết con người đầy tội lỗi và bất xứng.

 

Thiên Chúa đã phân thây xẻ thịt người con duy nhất để biểu tỏ tình yêu điên rồ của Ngài. Chính Đức Giêsu khải thị điều này trong câu chuyện nói với Nicôđêmô: “ Thiên Chúa yêu trần gian đến nỗi đã ban chính con một yêu dấu” (Ga 3,16). Tình yêu này quả rất điên rồ mà chúng ta không thể lý giải được. Đức Giêsu đã nói: “ Không có tình yêu nào cao cả hơn mối tình của người hiến thân vì bạn hữu”. Đức Giêsu không phải là một lý thuyết gia, không phải là một nhà mô phạm chỉ nói bằng sáo ngữ trên đầu môi cửa miệng. Ngài đã hiện thực lời tuyên bố ấy qua chính cái chết trên thập giá. Thập giá Đức Kitô là câu định nghĩa tròn đầy nhất và sâu tận nhất về tình yêu mà Thiên Chúa muốn diễn bày. Đức Giêsu chính là tấm bánh được ban tặng, tấm bánh được nướng chín trong cuộc khổ nạn, tấm bánh đã được bẻ nát và được phân hủy để thông truyền sự sống cho chúng ta. “Bánh tôi sẽ ban chính là thịt tôi đây để cho thế gian được sống” (Ga 6,51).

 

Hình tượng Thịt và Máu

Cách đây hơn 80 năm, có một đoàn di dân từ Âu châu đến Úc châu. Trong đám người du cư lang thang lếch thếch đó, người ta bỗng nghe tiếng khóc xé lòng của một đứa bé bên vệ đường. Lại gần, mọi người thấy một em bé còn đỏ hỏn đang giãy dụa nằm khóc thét bên cạnh mẹ nó. Người phụ nữ xấu số đã chết vì mệt nhọc và đói khát. Khuôn mặt hốc hác và tím tái của chị trông bất động và thật lạnh lẽo. Bầu vú của người đàn bà hầu như đã cạn kiệt. Nhưng kỳ diệu thay, đứa bé vẫn còn sống. Nó vẫn mân mê mút đầu ngón tay của mẹ nó, và những giọt máu hiếm hoi của người mẹ đã cứu sống đứa trẻ. Chính người mẹ với tình mẫu tử bất tận đã truyền những giọt máu cuối cùng của mình cho đứa con để nó được cứu sống. Bà đã chết, nhưng tình yêu cao cả khiến bà vẫn sống. Bà vẫn sống và sống mãi trong tâm hồn đứa bé thơ. Năm mươi năm sau, đứa bé đó lớn lên trở thành chủ tịch quốc hội nước Úc. Chính ông ta đã kể lại câu chuyện cảm động này, làm sống lại hình ảnh người mẹ đã hy sinh tính mạng để cho con bà được sống.

 

Ngày hôm nay Giáo hội cũng kể lại cho chúng ta nghe một câu chuyện tương tự giống như vậy. Câu chuyện hôm nay được kể còn hay hơn và thâm thúy hơn rất nhiều. Chính xác hơn, chính Đức Giêsu đang kể cho chúng ta câu chuyên này. “Bánh tôi ban tặng chính là thịt tôi đây để cho thế gian được sống”. Qua bài Tin mừng, Chúa Giêsu dẫn mời chúng ta dần dần đi sâu vào câu chuyện tình rất linh thánh mà chính Ngài thủ vai chính.

 

Câu chuyện Đức Giêsu kể hôm nay không phải là một câu chuyện hoang đường hay mang tính thần thoại. Nhân vật chính trong câu chuyện là chính Ngài, đấng là Thiên Chúa –Người, đã đến trần gian để viết nên một câu chuyện tình hay đẹp nhất và sâu xa nhất. Cảm nghiệm điều này, thánh giáo phụ Irênê đã viết: “Vì yêu thương, Thiên Chúa đã trở nên con người để khi chúng ta đi vào quỹ đạo tình yêu cùng với Ngài, con người chúng ta được trở nên Thiên Chúa.”

 

Canh bạc điên rồ

Một viên phi công từng chở công nhân Trung quốc sang Miến điện làm việc hồi thế chiến thứ 2 đã kể lại một giai thoại. Hồi đó những chuyến bay như thế thường rất dài và hành khách tỏ ra khá mệt mỏi. Các công nhân trên máy bay có nhiều thời gian rảnh rỗi và không biết làm gì nên rủ nhau đánh bạc. Đi vào vận đỏ đen, có kẻ thắng người thua. Người được tiền, kẻ trắng túi. Khi không còn tiền bạc mà máu đen đỏ vẫn còn, họ vẫn ham mê và đánh bạc bằng chính mạng sống của mình. Ai thua phải nhảy ra khỏi máy bay mà không có dù. Họ đã liều lĩnh và nhiều người đã lao vào canh bạc một cách hết sức điên rồ.

 

Nhưng có lẽ điên rồ hơn cả là canh bạc mà chính Thiên Chúa đang liều mạng dấn bước vào. Ngài dùng chính mạng sống Con Một yêu dấu để đánh bạc với chúng ta. Ngài phân thây xẻ thịt chính Đức Giêsu một cách điên rồ để cá cược với mọi người. Qủa là một sự liều lĩnh và táo bạo. Trong canh bạc này, Thiên Chúa thắng hay thua là do chúng ta quyết định. Bàn tiệc đã dọn sẵn và chúng ta là những thực khách được mời. Chúng ta có đến hay không đến, Thiên chúa vẫn để cho chúng ta tự do lựa chọn.

 

Kết luận

Chúa Giêsu nói trong bài Tin mừng hôm nay: “Ai tin thì có sự sống đời đời” (Ga 6,47). Tin là chấp nhận lao vào canh bạc của tình yêu và để cho Thiên Chúa thắng. Thánh Augustinô cũng nói: “ Tin là chúng ta ký sẵn một bản hợp đồng với Thiên Chúa trên một tờ giấy trắng. Chúa muốn viết gì trên trang giấy đó tùy ý Ngài.” Mỗi lần chúng ta tham dự thánh lễ, Giáo hội công bố: “ Đây là mầu nhiệm đức tin”. Chúng ta xin Chúa ban cho chúng ta ơn đức tin để chúng ta luôn biết trải lòng mình ra lãnh nhận hồng ân ban tặng. Hồng ân được hiển thị rất cụ thể qua bữa tiệc linh thánh nhất mà chúng ta được mời tới tham dự. “Ai ăn thịt tôi sẽ được trường sinh” và “Ai tin sẽ được sự sống đời đời”. Đó là hai vế của một định đề duy nhất, diễn bày tình yêu sâu tận của Thiên Chúa. Đứng trước lời gọi mời này, thái độ của bạn, thái độ của tôi, thái độ của chúng ta phải như thế nào?

 

26.Từ trời xuống

     (Suy niệm của JM. Lam Thy ĐVD.)

 

Mở đầu bài Tin Mừng Chúa nhật XIX/TN-B (Ga 6, 41-51), thánh sử Gio-an trinh thuật sự kiện “Người Do-thái liền xầm xì phản đối, bởi vì Đức Giê-su đã nói: “Tôi là bánh từ trời xuống.” Họ nói: “Ông này chẳng phải là ông Giê-su, con ông Giu-se đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: “Tôi từ trời xuống?” Sở dĩ đám người Do-thái thắc mắc rồi xầm xì phản đối, bởi họ thấy Đức Giê-su là một con người rất bình thường, vì Người xuất thân từ một gia đình nghèo khó tại một miền quê hẻo lánh. Đối với họ, thật khó mà chấp nhận Người là một ngôn sứ, nói gì đến chuyện công nhận Người là Con Thiên Chúa từ trời xuống. Lý do khiến họ không chấp nhận là bởi họ nhìn vấn đề theo nhãn quan trần thế. Họ đã hiểu Thánh Kinh hoàn toàn theo nghĩa đen: Một người từ trời xuống có nghĩa là một người phải thật sự bay “từ trời xuống” như kiểu “mưa man-na” trong Cựu Ước, chớ không phải là một người sinh ra từ trong bụng một người mẹ ở trần gian như bao người khác. Từ cách hiểu trần tục đó, họ không chấp nhận được con người từ trời xuống lại chẳng có vẻ “từ trời xuống” một chút nào.

 

Người Do-thái tin vào lời các ngôn sứ lưu truyền về hiện tượng Đức Chúa “khiến man-na tựa hồ mưa đổ xuống, và ban bánh bởi trời nuôi dưỡng họ.” (Tv 78, 24); “Trong sa mạc, Người đã cho anh em ăn man-na, thức ăn mà cha ông anh em chưa từng biết, để bắt anh em phải cùng cực và thử thách anh em, hầu làm cho anh em được hạnh phúc trong tương lai.” (Đnl 8, 15-16). Man-na thực sự là vật chất (“Man-na như hạt ngò và trông nó như nhựa hương” – Ds 11, 7; ”Nó giống như hạt ngò, màu trắng và mùi vị tựa bánh tráng tẩm mật ong.” – Xh 16, 31), nên đã đổ từ trời xuống như mưa. Nhưng khi Đức Ki-tô nói “Tôi là bánh từ trời xuống” (Ga 6, 41) thì họ không thể tin nổi vì Đức Ki-tô là một con người bình thường như bao người khác, không phải và không thể là vật chất như man-na, đồng thời Người do bà Maria sinh ra chớ đâu có rơi từ trời xuống như man-na.

 

Với con người thì lúc nào cũng đòi được “thực mục sở thị” mới tin, nhưng đến khi được nghe thấy, trông thấy nhãn tiền thì lại chỉ hiểu theo những thành kiến, định kiến của loài người. Cũng vì sự non kém, bất toàn đó, nên Thiên Chúa phải mạc khải cho con người hiểu được những công trình kỳ diệu của Người. Mà muốn hiểu được những mạc khải, thì điều tiên quyết là phải có đức tin. Đám nguời Do-thái ngày xưa cũng như không ít con người ngày nay vì cứng lòng không tin, nên chỉ hiểu Lời Chúa theo nghĩa đen và nghe Lời Chúa bằng đôi tai nghễnh ngãng. Chính vì thế nên không lạ khi thấy họ cho rằng chỉ có đồ điên mới đại ngôn: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống.” (Ga 6, 51).

 

Nhưng nếu họ hiểu rằng Lời Chúa phải lắng nghe bằng tâm linh, chớ không thể nghe bằng hai lỗ tai của cái vỏ bằng đất là xác thịt nặng nề (“cái vỏ bằng đất này làm tinh thần trĩu xuống” – Kn 9, 15). Với Lời Đức Ki-tô Thiên Chúa, lại càng cần phải lắng nghe bằng nội tâm kết hợp với lời cầu nguyện xin ơn soi sáng, thì mới hy vọng hiểu được, vì Người luôn dùng dụ ngôn với “ý tại ngôn ngoại” (ý ở ngoài lời), thậm chí có nhiều lúc Người còn dùng sự tương phản trong cách nói ẩn dụ để nhấn mạnh ý chủ đạo (Vd: “Anh em đừng tưởng Thầy đến đem bình an cho trái đất; Thầy đến không phải để đem bình an, nhưng để đem gươm giáo. Quả vậy, Thầy đến để gây chia rẽ giữa con trai với cha, giữa con gái với mẹ, giữa con dâu với mẹ chồng. Kẻ thù của mình chính là người nhà.” – Mt 10, 34-35; “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ” – Lc 9, 60; “Ai tìm cách giữ mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình, thì sẽ bảo tồn được mạng sống.” – Lc 17, 33).

 

Trở lại bài Tin Mừng hôm nay, với đám người Do-thái thì quả là phi lý khi một con người bằng xương bằng thịt bình thường lại dám nói mình là bánh hằng sống từ trời xuống, rồi còn khẳng định “ai ăn thịt tôi và uống máu tôi sẽ được sống đời đời”; bởi đây là lần đầu họ nghe nói và cũng vì những sự kiện minh hoạ cho lời nói đó chưa xảy ra. Họ không tin cũng không có gì lạ. Tuy nhiên, khi minh chứng hùng hồn đã thực sự xảy ra là chính Người nói câu nói kỳ dị ấy đích thị là Thiên Chúa từ trời xuống thế, chịu khổ hình thập giá và sống lại hiển vinh, đem lại sự sống vĩnh cửu cho những kẻ tin; thì sau đó cả hàng ngàn năm cũng vẫn còn nhan nhản những kẻ cứng lòng, vẫn cho Lời nói ấy là chướng tai, là phi lý. Ấy cũng chỉ vì họ cũng không hơn gì đám người Do-thái, chỉ hiểu Lời Chúa bằng nghĩa đen, nghĩa vật chất, không chịu loại suy để tìm đến chiều kích vũ trụ của Lời (“Truyền thống tư duy Ki-tô Giáo vốn khai triển yếu tố chủ chốt trong bản hòa tấu lời này. Như Thánh Bonaventura, chẳng hạn, người vốn theo truyền thống các Giáo Phụ Hy Lạp mà nhìn ra mọi khả thể sáng thế trong Logos, đã nói rằng “mọi tạo vật đều là lời Chúa, vì nó công bố Người”. Hiến Chế Tín Lý “Lời Chúa” đã tổng hợp các dữ kiện ấy khi cho rằng “Thiên Chúa, Đấng tạo dựng và duy trì mọi vật bằng chính lời của Người (Ga 1:3), đã cho ta chứng cớ mãi mãi về chính Người ngay trong các thực tại tạo dựng.” – Tông huấn Lời Chúa “Verbum Domini”, số 7).

 

Tấm màn đã được vén lên (mạc khải), mọi sự đã rõ ràng: Để hiểu được Lời Chúa thì điều kiện tiên quyết là phải có đức tin (“Đức tin đến từ điều nghe được, và điều nghe được đến từ lời Chúa Ki-tô” – Rm 10, 17). Lời Chúa Ki-tô đích thị là Đức Giê-su, Ngôi Lời nhập thể (“Điều vẫn có ngay từ lúc khởi đầu, điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng, và tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời sự sống, là Ngôi Lời.” – 1Ga 1, 1-3; “Từ nguyên thủy đã có Ngôi Lời, Ngôi Lời ở với Thiên Chúa, và Ngôi Lời chính là Thiên Chúa… Và Ngôi Lời trở nên xác phàm.” – Ga 1, 1-14). Rõ ràng Ngôi Lời đã từ trời xuống mặc lấy xác phàm để cứu độ nhân loại bằng chính thân thể Người bị bầm giập vì đòn roi, chết treo trên thập giá còn bị lưỡi đòng của sự dữ đâm thâu trái tim khiến máu chảy ra đến giọt cuốí cùng. Thân xác ấy, dòng máu ấy há chẳng phải là nguồn ơn cứu độ đem lại sự sống vĩnh hằng cho những kẻ tin đó sao? Và như vậy, Lời dạy “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống.” (Ga 6, 51) đã là hiện thực 100%.

 

Liên tục 2 Chúa nhật XVIII và XIX, bài Tin Mừng đều được trích trong “Bài giảng tai hội đường Ca-phac-na-um” (Ga 6, 21-66) trình thuật về Bánh Hằng Sống. Đó cũng chính là phép Thánh Thể được Ngôi Lời thiết lập vào bữa Tiệc Ly trước ngày khổ nạn, và cũng chính vì thế mới gọi là Bí tích Thánh Thể (dấu tích bí nhiệm ẩn tàng Lời Chúa). Bí tích nhiệm mầu này được tái hiện hàng ngày hàng giờ trên bàn thánh ở khắp năm châu bốn biển để nuôi dưỡng đời sống tâm linh của mọi tín hữu. Muốn được Lời Chúa dưỡng nuôi trên hành trình đức tin tiến về quê trời, không gì bằng chạy đến với MẸ CỦA LỜI, “vì Đức Maria hoàn toàn thấm nhuần Lời Chúa, nên ngài có khả năng trở thành Mẹ của Lời Nhập Thể … Khi chiêm ngưỡng nơi Mẹ Thiên Chúa một cuộc đời hoàn toàn do Lời lên khuôn, ta hiểu được rằng cả ta nữa cũng được mời gọi bước vào mầu nhiệm đức tin, nhờ đó, Chúa Ki-tô tới cư ngụ trong đời ta. Thánh Am-brô-si-ô nhắc nhở ta rằng xét theo một phương diện nào đó, mọi tín hữu Ki-tô đều tượng thai và sinh hạ Lời Thiên Chúa: mặc dù chỉ có Mẹ Thiên Chúa là tượng thai bằng xương bằng thịt, còn chúng ta, Chúa Ki-tô là con cái của mọi người chúng ta trong đức tin. Như thế, điều xẩy ra cho Đức Maria cũng hàng ngày xẩy ra nơi mỗi người chúng ta, trong việc nghe lời Chúa và trong việc cử hành các bí tích.” (Tông huấn Lời Chúa “Verbum Domini”,, số 20).

 

Ôi! Lạy Chúa Giê-su, xin ban Thánh Thần gia tăng lòng tin cho chúng con để chúng con luôn tin vào Chúa, tin vào sự hiện diện của Chúa trong Bí tích Thánh Thể và để mỗi lần chúng con tham dự thánh lễ, mỗi lần chúng con rước Chúa vào lòng, là chúng con được nhận lãnh bánh trường sinh ban sự sống đời đời. Lạy Mẹ Maria, Mẹ là Mẹ của Lời Hằng Sống, Mẹ Đức Tin, xin Mẹ cho chúng con được ở trong cung lòng của Mẹ, để chúng con được “nhờ Mẹ, đến với Chúa” và tin vào sự hiện diện của Chúa Ki-tô trong Bí tích Thánh Thể, bây giờ và mãi mãi. Amen.

 

27.Hình ảnh tự hiến trọn vẹn

    (Suy niệm của P. Trần Đình Phan Tiến)

 

Vâng, thưa quý vị, các bạn, không một thứ lương thực nào tồn tại vĩnh cửu ngoài “Thần lương“ từ Thiên Chúa. Nhưng, thứ “Thần Lương“ ấy là bánh từ trời “manna”, cũng không tồn tại. Vì con người trần gian phải ra công làm việc để có cái ăn nuôi thân xác. Vì thân xác con người được Thiên Chúa tạo dựng vốn vĩnh hằng cùng với linh hồn siêu nhiên. Nhưng, từ khi con người nghe theo quỷ chống lại Thiên Chúa, mang sự phản nghịch, bất trung. Vì thế, thân xác con người phải chịu nô lệ cho sự “phản nghịch “ ấy.

Vì vậy, tuy manna là lương thực từ trời, nhưng cũng chỉ là thứ lương thực nuôi sống “tạm thời“ thân xác của con người trong thời hữu hạn. Không phải là “thần lương“ nuôi lấy sự sống tạm bợ nơi thân xác đã chịu sự nô lệ của tội phản nghich, bất trung.

Vì thế, khi con người chứng kiến Con Thiên Chúa từ Trời đến, con người vốn dửng dưng không thể thấu hiểu “ân ban“ ơn cứu độ trọng đại là “Lương Thực“ nuôi linh hồn. Vâng, một “Thần Lương“ đích thực, một nhu cầu cao cả, mục đích tái tạo lại sự sống vĩnh hằng nơi loài thọ tạo bất trung.

Như vậy, khi Chúa Giêsu nói: “Chính Tôi là Bánh Trường Sinh“ (Ga 6, 35). Người ta thật sự ngỡ ngàng, khó hiểu, đầy sự nghi ngờ, bán tín, bán nghi. Vì sự khác biệt giữa thân xác và linh hồn, cũng như lương thực của thân xác và Thần Lương nuôi linh hồn, con người thật không thể hiểu một cách đơn thuần được.

Từ đó, chúng ta thấy, Chúa Giêsu không bác bỏ sự sống nơi thân xác, nhưng Người kiện toàn ý nghĩa siêu nhiên nơi thân xác con người. Vâng, đây đích thị là ân sũng ”Thần Lương“, là Lời của Ngôi lời Thiên Chúa, cũng là một thứ “Thần Lương“ đích thực nơi Đấng Tạo Thành ban cho loài thụ tạo. Vì, Thiên Chúa chính là nguồn của sự sống, ngoài Thiên Chúa không có sự sống đích thực nào khác. Vì vậy, lương thực nuôi thân xác hằng ngày, mà người ta gọi là đồ ăn, cái ăn, miếng ăn nhằm chỉ để nuôi sự tạm bợ. Nên chi, Chúa Giêsu nói: việc làm lụng hằng ngày để kiếm cái ăn nuôi thân xác. Nhưng, cái ăn nuôi thân xác ấy để hướng đến sự sống viên mãn, chứ không phải dừng lại cái ăn nuôi thân xác.

Vâng, tai sao vậy, thưa quý vị? Thưa, bởi vì, nếu chỉ có cái ăn nơi thân xác mà thôi, thì mãi maĩ không có sự sống, hay nói cách khác, sự sống nơi thân xác không tồn tại. Vì, nguyên lý của sự sống không dừng lại nơi miếng ăn. Chỉ có chân lý và tình yêu mới là nguồn của sự sống, sự sống viên mãn, đích thực. Vì, chân lý đó, Thiên Chúa luôn ân ban sự sống cho con người. Sự sống đích thực, đó là sự “trao ban“ trọn vẹn sự sống từ Thiên Chúa qua Đức Giêsu – Kitô, Đấng Cứu Độ con người. Bởi vì, sự sống đích thực chính là ”Lương Thực Thần Linh”, mà chỉ có từ nơi Thiên Chúa mà thôi.

Khi chúng ta nghiền ngẫm Lời Chúa hằng ngày chính là khi linh hồn chúng ta được no thỏa nhu cầu công chính là sự sống đích thực.

Để dễ chấp nhận chân lý trên, chúng ta cùng nhau đưa ra một dẫn chứng cụ thể vể lương thực cho thân xác và lương thực cho linh hồn.

Người ta thường tin rằng lương thực cho thân xác là nhu cầu của sự sống, nhưng, khi chúng ta ăn uống no say từ ngày này qua ngày khác, thì sự sống của chúng ta không còn là sự sống đích thực nữa, mà là “sự chết”. Bởi vì, không ai sống trên đời mà cứ nằm rồi ăn, ăn rồi nằm. Nếu thực sự sự sống chỉ có thế thì không còn là sự sống, đó chính là sự chết, một sự chết đích thực.

Thứ đến, nếu sự sống chỉ có vậy, thì không mang một ý nghĩa siêu nhiên, tháp nhập vào Thiên Chúa được. Vì vậy, Chúa Giêsu đã hướng con người đến một một đích tối thượng đó là được tháp nhập vào sự sống vĩnh cửu nơi nguồn sống Thiên Chúa. Đó là của ăn, lương thực bất tử, sự sống siêu phàm từ Đấng vô biên.

Như vậy, lương thực là thức ăn cho sự sống nơi con người không phải duy nhất là cơm bánh, mà chính là Chúa Giêsu, vì khi con người không có Thiên Chúa, thì không bao giờ họ có được sự sống đích thực. Vì, khi con người chỉ có của ăn nuôi thân xác mà thôi, thì sự chết sẽ tiêu diệt họ. Cứ kẻ mạnh giết kẻ yếu và cuối cùng sự chết ngự trị, vì kẻ mạnh cuối cùng cũng phải chết.

Theo đó sự sống nuôi sống đích thực là chính Thiên Chúa, từ đó cho thấy sự giáo huấn của Chúa Giêsu chính là lương thực cho sự sống vĩnh hằng. một sự sống mà nơi đó Người đã tự hiến trọn vẹn cho con người.

Qua ba tuần lễ liên tiếp, chủ đề lời Chúa Chúa Nhật hôm nay minh họa cho chúng ta một sự tự hiến trọn vẹn của Chúa Giêsu, Đấng đã đến vì con người, trao ban trọn vẹn Thiên Tính và Nhân tính và chỉ có Người mới thực sự là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống từ Thiên Chúa được trao ban cho con người mà thôi.

Chúa Giêsu không hứa hẹn trao ban của cải vật chất cho những kẻ đi theo Người, vì của cải của thế gian vốn có sẵn, nhưng không mang lại sự sống đích thực là chính Thiên Chúa. Theo đó, Thiên Chúa muốn ban cho con người chính Ngài, vì vậy, Người đã từ trời xuống thế…

 

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đến thế gian để chỉ cho nhân loại một con Đường của sự Sống, một Con Đường Hằng Sống, đó là Lương Thực trường sinh, thứ Thần Lương vĩnh cửu là chính Người. Xin thương ban cho nhân loại nhận ra tình Chúa yêu thương, và trọn vẹn dâng hiến, hầu bước theo và được nhận lãnh./. Amen.

 

28.Niềm vui được Chúa viếng thăm

    (Suy niệm của Lm. Thu Băng, CRM)

 

Tại giáo xứ Bùi Phát, cha xứ luôn luôn thấy một ông già râu tóc bạc phơ, ngày nào cũng vào khoảng 12 giờ trưa, ông vào nhà thờ cầu nguyện, rồi vài phút sau ông ra về. Thấy ông ra vào rất nhanh, cha thắc mắc hỏi ông thì ông trả lời:

“Con không thể cầu nguyện lâu giờ được, nhưng mỗi ngày vaò lúc nghỉ trưa, con vào nhà thờ đề thưa với Chúa: “Lạy Chúa Giêsu, Con đây!”, xong tôi nán lại đôi ba phút, rồi ra về”.

 

Bẵng đi một thời gian không thấy ông già đâu, vì ông bị tai nạn nên được đưa vào bệnh viện. Vì không thân nhân, không họ hàng đưa về, nên phải chạy chữa ngay ở trong nhà thương, và ở đây ngày nào cũng vậy ông được Chúa đến thăm. Ông cũng chỉ nói những lời giống như ông thường đến thăm Chúa trong nhà thờ: “Lay Chúa Giêsu, con đây!”

 

Các nữ tu coi sóc bệnh nhân, thấy từ ngày ông già vào đây thì hoàn cảnh vật đều đổi thay, vì ông thường đi thăm hỏi và nói chuyện tếu táo với mọi người, khiến các soeurs cũng cảm thấy thay đổi. Các soeurs hỏi ông thì ông thưa lại:”Có người đến thăm con hàng ngày, sao con lại không vui được?”. Hỏi mãi ông mới gạn trả lời:”Chúa Giêsu đến thăm con.” Bởi thấy Chúa là nguồn vui dến thăm, khiến ông đã không quàn ngại chia sớt cái niềm vui ông được cho các bệnh nhân đang cùng điều trị chung phòng với ông.

 

Câu chuyện “Niềm vui đuợc Chúa viếng thăm” là niềm vui mà ông già đã lãnh nhận, ông đã chia sẻ với mọi người. Niềm vui được Chúa đến với mình lúc tham dự thánh lễ, và nhất là khi rước lễ, cũng phải là niềm vui thúc đẩy chúng ta thực hiện tất cả những gì Đức Giêsu đã làm! Thánh Công Đồng Vaticanô II đã nói:”Chúa Giêsu vẫn hằng hiện diện trong Giáo Hội, nhất là trong việc cử hành phụng vụ. Ngài hiện diện trong Thánh Lễ, trong con người Linh Mục…Nhất là trong Phép Thánh Thể, trong các Bí Tích Thánh. Ngài còn hiện diện qua Phúc Âm, qua Lời Chúa….” (Constitutin on the Sacred Liturgy). Điều này được giải thích cách rõ ràng trong bài Phúc Âm:”Ta là bánh hằng sống…. Bánh từ trởi xuống. Ai ăn bánh này sẽ sống muôn đời. Bánh Ta ban chính là Thịt Ta, để cho thế gian được sống”. Như thế, chính là Chúa phục sinh ngự đến với ông già.

 

Lạy Chúa, xin thêm đức tin cho chúng con, để chúng con có thể nhận ra Chúa hiện diện nơi người anh em chúng con.

 

29.“Bí Quyết Trường Sinh”

     (Suy niệm của Lm. Gioan Vượng, CRM)

 

Tần Thủy Hoàng là một ông vua giầu có, nắm trong tay quyền uy muốn làm gì cũng được, nhưng ông lại rất sợ chết. Ông tìm mọi cách để cho mình được sống trường sinh bất tử. Ngày kia các nhà chiêm tinh và thầy pháp thưa ông rằng ở Biển đông có một hòn đảo địa đàng, dân cư ở đấy đã khám phá ra được bí thuật trường sinh. Nghe thế Tần Thủy Hoàng truyền lấy mấy chiếc tầu chở trân châu ngọc qúi và cho người đi tìm hòn đảo đó để đổi lấy cái bí thuật sống trường sinh bất tử. Truyện kể rằng đoàn tầu thám hiểm đó đã tìm thấy hòn đảo, nhưng dân cư ở đấy nhất định không chịu đổi bí thuật trường sinh bất tử bằng những món đồ qúi gía, nhưng dưới mắt họ lại chỉ là tầm thường rẻ mạt so với cuộc sống đời đời. Thực ra hòn đảo địa đàng kia làm gì có. Chẳng qua là do trí tưởng tượng, hoặc mưu kế của các nhà chiêm tinh và thầy pháp bày ra để trấn an sự sợ chết, để làm dịu bớt cái khát vọng sống bất tử của Tần Thuỷ Hoàng.

 

Nhưng cái bí thuật trường sinh bất tử mà dân cư trên hòn đảo trong câu chuyện không muốn đổi cho Tần Thủy Hoàng thì Chúa Giêsu lại ban tặng cho ta nhưng không (free gift). Chính Ngài giới thiệu và mời gọi ta đến lãnh nhận sự sống đời đời. Ngài tuyên bố thật rõ ràng: “Ta là bánh từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban chính là thịt Ta để cho thế gian được sống” (Ga 6: 51). Như vậy, để đạt được sự sống đời đời thì phải tin Ngài là bánh ban sự sống bởi trời xuống. Phải lấy lòng tin mà ăn thịt và uống máu Ngài. Điều này không phải là dễ đối với những người Dothái thời Chúa Giêsu vì thế có một số người xầm xì: “Lời nói đó chói tai quá! Ai mà nghe được?” (Ga 6: 60), nên họ đã rút lui không theo Ngài nữa. Họ bảo Chúa Giêsu chỉ là con bác phó mộc Giuse, mẹ Ngài là Maria và anh em Ngài đang sống giữa họ. Cũng vậy, ngày nay có nhiều người cũng sống hoàn toàn theo lý trí tự nhiên. Họ nhìn Thánh Thể chỉ là một tấm bánh thường, làm bằng chút bột miến có thế thôi. Và số đó có cả một số người Công giáo nữa mới đáng buồn!

 

Vì thế Chúa Giêsu nói rõ ai được Chúa Cha ban cho thì mới có thể đến với Ngài: “Không ai đến được với Ta, nếu Cha là Đấng sai Ta không lôi kéo kẻ ấy” (Ga 6: 44). Cần phải được Chúa ban ơn cho, ta mới có thể nhận ra Chúa Giêsu là người thật và là Thiên Chúa thật. Cần phải có đức tin mới có thể nhận ra dưới hình bánh nhỏ mọn có thật Chúa Giêsu hiện diện, một Chúa Giêsu với trót cả bản tính Thiên Chúa và nhân loại.

 

Nếu rước lễ nên ta được kết hợp mật thiết với Chúa Kitô. Chúa đã phán: “Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, kẻ ấy ở trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy” (Ga 6: 56). Như giọt nước hòa tan với rượu nho trong chén thánh, ta cũng được tan hòa với Chúa Kitô như vậy. Rước lễ còn chuẩn bị thân xác ta sẵn sàng đón nhận cuộc phục sinh vinh hiển: “Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta sẽ được sống đời đời và Ta sẽ làm cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết” (Ga 6: 55). Khi kết hiệp với ta trong lúc rước lễ, Chúa Giêsu đặt trong ta mầm sự sống vinh quang, như mầm sống trong hạt giống nằm sẵn đó chờ ngày đâm chồi phát triển thành cây xanh tươi mang đầy hoa trái.

 

Vậy, để đáng Chúa ban ơn trường sinh bất tử, ta hãy dọn mình xứng đáng và kính cẩn đến rước Chúa với lòng tin yêu mạnh mẽ. Sau khi rước lễ, ta hãy cầm trí cám ơn Chúa tử tế. Nhưng rất tiếc, nhiều lần ta đã rước Chúa một cách máy móc, và vừa mới rước Chúa ngự vào lòng đã chia trí lo ra, chẳng nói với Chúa được một lời, chẳng biết bày tỏ với Người những nhu cầu, những ước vọng, chẳng biết thưa với Người những nỗi băn khoăn lo lắng trong cuộc sống xin Người hướng dẫn để ta biết sống đẹp ý Chúa.

 

Nói tóm lại, để việc rước Chúa sinh công hiệu tốt, ta phải gắng cất những ngăn trở: những tội lỗi, những dịp tội, những hành vi, cử chỉ, lời nói bất xứng. Trong khi rước lễ, ta lại phải giục lòng tin cậy, t ô n t hờ, yêu mến Chúa cách mạnh mẽ. Nhưng tự sức ta, ta khó có thể làm được cách hẳn hoi. Vậy ta hãy cậy nhờ Mẹ Maria và thánh Giuse đón tiếp Chúa và cám ơn Chúa với ta và thay cho ta.

 

30.”Đây Là Màu Nhiệm Đức Tin”

    (Suy niệm của Lm. Bùi Mạnh)

 

Giáo lý của Chúa Kitô, nói chung, được nhiều người chấp nhận vì tính cách “hợp tình hợp lý” của nó. Nhưng khi mặc khải về nguồn gốc thần linh của mình và về bí tích Thánh Thể, Ngài đã gặp những phản ứng hoàn toàn bất lợi. Thánh Gioan ghi lại rằng khi Ngài nói: “Ta là bánh bởi trời”, thính giả đã xì xèo: “Ông này không phải là Giêsu con ông Giuse sao? Chúng ta biết rõ cha mẹ của ông. Vậy tại sao ông ta lại nói: Ta là bánh bởi trời xuống?”

 

Trước những phản ứng tiêu cực đó, Chúa Giêu đã không rút lại lời tuyên bố, trái lại, tiếp tục giải thích: “Tôi là bánh từ trời. Cha ông anh em đã ăn manna trong sa mạc và đã chết. Chính tôi đây mới là bánh từ trời để ai ăn thì không phải chết. Bánh đó chính là thịt tôi để nhân loại ăn mà được sống.” Những lời giải thích đã không đủ sức thuyết phục người nghe, trái lại còn gây thêm rắc rối, đến mức độ họ phải kêu lên: “Lời gì mà nghe thật chói tai. Làm sao ông ta có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn đươc?” Và họ bỏ đi. (Xem Gioan 6:60,66)…

 

Quả thực, bí tích Thánh Thể là một điều khó tin, khó chấp nhận, vì đây là một việc vượt xa lý luận và khả năng con người. Nói cách khác, đây là một phép lạ, một sự việc hoàn toàn nằm trong lãnh vực đức tin. Chính vì thế, mỗi khi đọc xong lời truyền phép, linh mục chủ tế lớn tiếng tuyên bố với chúng ta: “Đây là màu nhiệm đức tin”. Cũng vậy, trước mỗi lần lãnh phép lành Mình Thánh Chúa, chúng ta nói với nhau “Ta hãy lấy đức tin bù lại, nếu giác quan không cảm thấy gì” (Ca khúc Pange lingua, đoạn cuối).

 

Đúng thế, bí tích Thánh Thể là một mầu nhiệm đức tin, nên con người không thể dùng lý trí để suy luận, cũng không thể dùng giác quan mà cảm nhận. Vậy câu hỏi được đặt ra là, tại sao chúng ta chấp nhận bí tích Thánh Thể? Chúng ta tin rằng Đức Kitô chính là Thiên Chúa tòan năng và chân thật. Là Thiên Chúa toàn năng, Ngài có thể làm bất cứ điếu gì Ngài muốn. Là Thiên Chúa chân thật, Ngài không bao giờ dối trá và sai lầm. Lời Ngài là chân lý; Ngài nói là phải có, phải đúng. Căn cứ vào hai ưu điểm này của Ngài, chúng ta xác tín rằng:

– Chúa Giêsu đã thiết lập bí tích Thánh Thể.

– Bánh hằng sống từ trời ban xuống chính là thịt Ngài.

– Muốn có sự sống đời đời, con người phải ăn thịt Ngài.

 

Chính qua niềm tin đó,và tuân theo lệnh truyền của Chúa “Hãy làm việc này mà nhớ đến Thày”, Giáo Hội Công Giáo luôn cử hành Thánh Thể, đồng thời khuyến khích chúng ta rước lễ và chầu Mính Thánh Chúa khi có thể. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II năm ngoái đã gởi đến chúng ta một thông điệp về bí tích Thánh Thể, mang tên “Ecclesia de Eucharistica” (Giáo Hội từ Thánh Thể Chúa) và đặt năm 2005 là Năm Thánh Thể. Với thông điệp này và năm Thánh Thể, Đức Thánh Cha cống hiến cho chúng ta một cơ hội thuận tiện để đào sâu ý nghĩa của bí tích Thánh Thể, đồng thời khơi lên tâm tình yêu mến Thánh Thể nơi tâm hồn chúng ta. Năm Thánh Thể đã chấm dứt, nhưng niềm tin và tâm tình đối với Thánh Thể cần phải được tiếp tục trong suốt cuộc sống của mỗi người.

 

Vững tin vào lời quả quyết của Chúa Giêsu và sự khích lệ của Giáo Hội, ước gì chúng ta luôn đặt Chúa Giêsu Thánh Thể làm trung tâm cuộc sống của mình, bằng cách lợi dụng mọi cơ hội, đặc biệt ngày Chúa Nhật, để đến với Thánh thể, nhờ đó, chúng ta được nuôi dưỡng và thêm sức mạnh.

 

31.Còn hơn manna nữa

    (Suy niệm của Jean Yves Garneau)

 

Thật dễ quên đi những điều đẹp đẽ nhất, phong phú nhất, sâu sắc nhất… và làm cho chúng trở nên tầm thường! Tình yêu được sống ngày này qua ngày nọ, không ồn ào. Người ta ít nhận ra nó, người ta không quý trọng nó đúng mức. Sức khỏe của chúng ta được xem như một điều quá bình thường… Vậy nói về nó làm gì? Những gì tuyệt vời trong thiên nhiên, người ta không còn nhìn thấy nữa. Có nhiều món trên bàn ăn, ba lần mỗi ngày, có gì tự nhiên hơn đâu? Tại sao phải tạ ơn vì những món ăn đó?

Người ta cũng quen với những thực tại thiêng liêng, thần thiêng và chẳng thiếu gì những lúc người ta còn xem những thực tại ấy là tầm thường nữa. Ta hãy nêu một ví dụ, đó là việc rước lễ. Một Chúa Nhật, hay có lẽ nhiều hơn nữa, chúng ta được đón tiếp tại bàn tiệc của Thiên Chúa. Bánh Thánh được trao cho chúng ta, chúng ta rước Mình Thánh Chúa. Sự sống của Con Một Thiên Chúa tràn vào tâm hồn chúng ta, thật không tầm thường chút nào!

Nhưng chúng ta rước lễ ra sao? Chúng ta quý trọng Thánh Thể như thế nào? Thánh Thể dùng để làm gì cho chúng ta? Thực sự, nguy cơ trở nên quen thuộc với Bánh Thánh thật là lớn, cũng như người ta quen thuộc với bánh người ta đặt trên bàn ăn gia đình mỗi ngày. Vậy phải phản ứng: Phải mở mắt ra. Hôm nay là dịp tốt để làm điều này, vì Tin Mừng nói với chúng ta về Bánh Thánh, cũng như hôm Chúa Nhật vừa rồi.

 

Bánh trong sa mạc: Tiền vị của Thánh Thể.

Để cho người ta hiểu giá trị của nó, Chúa Giêsu nhắc đến manna được ban cho dân Chúa trong sa mạc, Ngài nói: Bánh Thánh Thể vượt xa hơn manna nữa. Nó còn phong phú vô cùng hơn nữa.

Tuy nhiên manna đã là một cái gì lạ lùng rồi. Mỗi ngày khi thức dậy, người ta có thể đi nhặt bánh đó đầy giỏ. Vui thích biết bao được nuôi dưỡng bằng thứ bánh ấy! Không có nó không thể nào tiếp tục bước đi giữa sa mạc, ngày này qua ngày nọ, tiến về đất hứa được. Chính manna đã cứu dân Chúa trong sa mạc. Manna đã là một thứ bánh làm cho sống, một thứ bánh giải phóng.

Manna đối với người Do Thái như thế nào, thì bánh Thánh Thể đối với chúng ta cũng thế ấy. Và còn hơn nữa! Như Manna, Thánh Thể sẵn có cho chúng ta mỗi ngày. Được ban nhưng không. Được ban dư dật. Tuy có điều này đặc biệt: Sự sống mà bánh Thánh Thể ban không chỉ là thể lý, sẽ chấm dứt bởi cái chết, nhưng là sự sống vĩnh cửu. “Trong sa mạc, cha ông anh em đã ăn manna, và họ đã chết, nhưng bánh này từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ không chết… Họ sẽ sống đời đời”.

Lời khẳng định tuyệt vời. Chúng ta có sẵn một lương thực cho phép chúng ta sống mãi. Khi chúng ta tự nuôi dưỡng mình bằng Thánh Thể, chính là lúc chúng ta tháp mầm sống vĩnh cửu vào xác thịt của chúng ta.

Lý do được diễn tả cách rõ ràng. Bánh Thánh Thể không phải là một thứ bánh của trần thế. Đó là bánh từ trời xuống. Chứa đựng Đấng phát xuất từ thế giới của Thiên Chúa. Chúa Giêsu nói: Ta là bánh hằng sống từ trời xuống.

Qua trung gian bánh Thánh Thể, Chúa Kitô hiển thắng và Phục Sinh được ban cho chúng ta. Mình và Máu Ngài, được Chúa Thánh Thần biến đổi, đã được ban cho chúng ta. Những gì của Thiên Chúa đi vào lòng chúng ta, sự sống của Thiên Chúa được thông truyền cho chúng ta. Vậy nên nhờ bánh này, chúng ta đạt được khả năng sống đời đời.

Sự giàu sang lạ lùng! Sự phong phú lạ lùng của bánh Thánh Thể! Chúng ta phải coi chừng, đừng tầm thường hóa thứ bánh cao cả dường ấy.

 

32.Bánh Hằng Sống

    (Suy niệm của An Phong, OP)

 

Người Do thái đã phản đối Chúa Giêsu khi Người nói mình là Bánh Hằng Sống bởi trời, vì họ chỉ nhìn thấy nơi Đức Giêsu là con ông Giuse, một con người như biết bao nhiêu người khác. Đức Giêsu hiểu được sự cứng lòng ấy; Người khẳng định người ta cần phải được Thiên Chúa giáo huấn, dạy dỗ để có thể đón nhận “Đấng Chúa Cha sai đến” vì “không ai đến được với Tôi nếu Cha là Đấng sai Tôi không lôi kéo họ”; và ai được lãnh nhận Bánh Chúa Giêsu ban là chính Thịt của Người thì mới có thể được sống muôn đời.

 

Đức Giêsu Đấng Thiên Sai từ trời xuống để trở nên Ơn Cứu độ cho con người. Người là Lời Thiên Chúa gửi đến để giáo huấn nhân loại; “phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Chúa Cha thì sẽ đến với Tôi” và Người là Bánh để nuôi dưỡng sự sống của Thiên Chúa trong nhân loại, “Bánh Tôi ban chính là Thịt Tôi để cho thế gian được sống”.

 

Khi tham dự thánh lễ, chúng ta được mời gọi tham dự bàn tiệc Lời Chúa và Thánh Thể Chúa.

 

Đối với những người tin, tức là những người gắn bó với Đức Giêsu, thì Lời của Người hướng dẫn họ trong cuộc sống trần gian, giúp họ đạt đến ơn cứu độ của Thiên Chúa. Cuộc sống trần gian có biết bao điều mờ tối, lừa gạt, cám dỗ; nên Thiên Chúa muốn ban Lời của Người để “hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ”. Khi mở lòng ra lắng nghe Lời Chúa, để cho Lời Chúa chỉ dẫn những khi rối rắm. Gắn bó cuộc đời với Đức Giêsu, thì chúng ta bước theo đường lối của Thiên Chúa và tìm thấy bình an, hạnh phúc.

 

Đối với những người đón nhận Thánh Thể, Bánh mang lại sự sống đời đời, thì chính Đức Giêsu đến và biến đổi họ. Thánh Thể là nguồn nghị lực để chiến thắng cám dỗ của ích kỷ, là nguồn tình yêu để vuợt qua những gian nan trên hành trình sa mạc cuộc đời.

 

Dường như chúng ta vẫn chưa cởi mở và sẵn sàng đủ để lắng nghe Lời giáo huấn của Thiên Chúa? Dường như chúng ta chưa đón nhận Thánh Thể như một quà tặng của Tình yêu Thiên Chúa?

 

Lạy Chúa,

Trên con đường trần gian,

biết bao lần chúng con bị lầm lạc

vì chạy theo những loại “bánh hay hư nát”.

Trên con đường trần gian;

biết bao lần chúng con cảm thấy mệt mỏi và chán nản

vì những trò đời.

 

Lạy Chúa,

xin cho chúng con biết tìm đến Chúa,

là Lời Giáo huấn khôn ngoan

và là Bánh Hằng Sống đời đời.

 

33.Bánh Trường Sinh

     (Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường)

 

Con người hay lầm lẫn giữa điều đã biết và điều chưa biết. Có những điều không biết mà nghĩ là biết. Trái lại có những điều biết mà nghĩ là không biết. Chính những ’nghĩ là’ tạo nên nhiều trăn trở trong cuộc sống. Nguy hiểm hơn cả khi trăn trở đó liên quan đến vấn đề tâm linh, đức tin.

Nguy hiểm vì niềm tin tôn giáo định hướng cuộc đời. Định hướng liên quan đến tương lai, liên quan đến cách xử thế trong xã hội, liên quan đến việc cá nhân thực thi đức ái và lối sống đạo.

 

Từ chối nhận

Đám đông theo Đức Kitô, nghe Ngài nói về bánh trường sinh, họ vui mừng đón nhận và xin thêm bánh đó. Đức Kitô dẫn họ tiến thêm một bước nữa Ngài nói,

‘Tôi là bánh từ trời xuống’

Đám đông đặt vấn đề, viện lí lẽ từ chối. Làm sao ông này có thể làm được điều đó. Định kiến ngăn cản họ mở rộng tầm mắt.

Định kiến thứ nhất phát sinh do tư tưởng. Theo họ Thiên Chúa ở tận trời cao, mây thẳm, con người không thể vươn tới.

Thứ hai Chúa là Thần Linh. Thần linh không thể trông giống và sống chung với người phàm. Định kiến này chối bỏ Chúa Giáng Sinh nơi hang đá Belem. Đồng thời phản bác hình ảnh Chúa đồng hành với dân Người trong vườn địa đàng trước khi tội vào thế gian. Định kiến thứ hai ảnh hưởng bởi tội lỗi, ngăn cản con người nhận biết Chúa.

Đám đông nhận biết Đức Kitô làm bánh hoá ra nhiều nhưng không công nhận Ngài là Thiên Chúa giáng trần. Dùng sức mạnh tập thể thế quyền lấn át thần quyền. Ngày nay nó xuất hiện dưới hình thức không công nhận linh mục này, phản đối linh mục nọ. Dù nhận hay không thiên chức vẫn là thiên chức. Thiên chức không do con người ban mà do ơn thánh, ơn thiên triệu. Từ chối ơn thánh là chấp nhận sống như kẻ vô thần.

Kiến thức, hiểu biết xóm làng là định kiến thứ ba dẫn đến phán đoán sai lầm về Thiên Chúa. Đám đông đơn thuần lập luận biết rõ gia đình, thân thích. Làm sao có thể nói ông là Thiên Chúa.

 

Căn bệnh tự mãn

Chúa Kitô gặp rắc rối không phải với những người xa lạ. Ngài gặp rắc rối với những người tự nhận là biết Ngài, rõ gia đình dòng tộc, xuất xứ, gốc gác con cái nhà ai, sanh tại đâu. Cha mẹ làm nghề gì. Chính những hiểu biết trần thế này làm mờ con mắt đức tin, ngăn cảm việc nhận ra Đấng ban bánh trường sinh. Sai lầm do tự mãn gây ra. Bởi tin điều đã biết là chính xác, không tìm hiểu thêm, không chấp nhận thay đổi. Tự mãn trở thành định kiến như đã phân tích trên.

Dùng hiểu biết, kiến thức trần thế để giải thích sự kiện trên trời là một cạm bẫy kẻ sĩ thường mắc phải. Kiến thức sâu rộng trần thế không bảo đảm người đó có kiến thức, hiểu biết nước trời. Kiến thức nước trời không thể đo bằng hiểu biết trần thế.

Nhìn bằng con mắt đức tin sẽ giúp nhìn rõ hơn. Để có con mắt đức tin thì cần phải có lòng tin, dù là rất nhỏ. Thiếu lòng tin, không thể bắt đầu việc tìm hiểu lẽ đạo. Có nghe Chúa giảng cũng không hiểu. Ăn bánh phép lạ xong vẫn còn đói. Đọc Phúc Âm mong có thêm kiến thức hơn là giúp ích cho lòng tin. Đức tin là bước đầu tiên, quan trọng, nền tảng chính trong việc nhận biết thế giới thần thiêng.

 

Cửa tâm hồn

Kiến thức được ví như cánh cửa sổ của tâm hồn, giúp nhìn vào khung trời bao la. Điều trớ trêu là nếu không biết mở sẽ xảy ra tình trạng mở khung trời này, cùng lúc lại đóng, che lấp khung trời khác.

Cả cánh cửa lẫn mắt nhìn đều có giới hạn riêng, tầm nhìn thu hẹp của người nhìn. Ngăn trở lớn là cùng xem nhưng kết luận khác nhau. Cùng nhìn vào khung trời có kẻ nhìn sót, kẻ nhìn không rõ. Kẻ chú trọng điều này, người quan tâm đến vật nọ. Kết quả cùng nhìn một bức tranh, đọc chung sự kiện mà nhiều ý khác nhau. Tương tự như bức tranh thiên nhiên. Cùng nhìn vào thiên nhiên vũ trụ mà có kẻ chối bỏ Thiên Chúa, kẻ tin thờ Thiên Chúa.

 

Cường điệu

Hoàn toàn chối bỏ Thiên Chúa hay xác định biết rõ Thiên Chúa. Cả hai cách nói đều cường điệu. Thực tế cho thấy kiến thức hạn hẹp; trí khôn nông cạn; nhìn sự việc phiếm diện, ngăn cản, hoàn toàn chối bỏ hay biết rõ về Thiên Chúa. Chưa biết rõ chính ta sao có thể biết rõ Đấng tạo dựng nên ta. Không hiểu ta và bạn thân sao có thể hiểu rõ Đấng dựng nên ta. Vì thế mọi khẳng định biết rõ hay hoàn toàn chối bỏ Chúa đều giả dối, cường điệu. Chối bỏ Thiên Chúa chính là chối bỏ tình yêu. Không có tình yêu, không có sự sống. Khi tạo dựng con người, Chúa đặt vào tâm luật biết lành dữ. Tội làm cho việc phán đoán này ra lu mờ.

Tin vào Chúa được Lời Ngài hướng dẫn, dẫn đưa ta tiến trên con đường lành, đường nhân đức, đường dẫn đến sự sống trường sinh.

Chối bỏ Chúa ta tự chọn đi con đường ác, dẫn đến diệt vong. Chối bỏ Chúa vừa là mây mù ngăn cản nhận ra Chúa, là chướng ngại ngăn cản người khác đến cùng Chúa, vừa cản trở việc Chúa muốn thực hiện.

Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ. Vậy phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Chúa Cha, thì sẽ đến với tôi….. Thật, tôi bảo thật các ông, ai tin thì được sự sống đời đời. Tôi là bánh trường sinh (c.43).

 

34.Tâm điểm đức tin

    (Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường)

 

Phúc âm tuần này là phần hai của cuộc tranh luận giữa Đức Kitô và đại diện đám đông những người chống đối giáo huấn của Đức Kitô khi Ngài nói Ngài là bánh hằng sống từ trời xuống. Tuần trước chúng ta không biết đám đông là ai nhưng tuần này Phúc Âm ghi rõ đám đông là người Do Thái. Dân Do Thái thời đó là nhóm mãnh liệt chống đối Đức Kitô bằng cả tranh luận lẫn cố tình gài bẫy mong Đức Kitô một lúc nào đó vô tình không chuẩn bị sẽ sập bẫy họ gài ra.

 

Tuần trước Phúc âm nhấn mạnh đến vai trò của Đức Kitô là món quà Chúa Cha trao tặng nhân loại để ai đón nhận Ngài sẽ nhận được sự sống trường sinh. Phúc Âm tuần này cho biết thêm Đức Kitô chính là trung tâm điểm của niềm tin Kitô hữu. Qua giáo huấn của Đức Kitô con người nhận biết Đức Kitô là Con Thiên Chúa. Hai chủ đề trên là hai chủ đề riêng biệt nhưng chúng liên kết mật thiết với nhau. Sau khi nghe Đức Kitô tuyên bố Ngài đến từ trời nhóm chống đối Đức Kitô kịch liệt phản đối. Người Do Thái xì xầm phản đối, bởi vì Đức Kitô nói

 

‘Tôi là bánh từ trời xuống’. c. 42

Họ chống đối Đức Kitô viện cớ họ biết rõ gia phả Ngài. Họ coi Ngài là một người bình thường như những người khác trong xóm bởi họ biết Đức Kitô là con ông Giuse và bà Maria và thân thuộc của Ngài họ đều rõ nên họ không chấp nhận Ngài từ trời xuống. Mâu thuẫn lớn ở điểm người Do Thái nhận biết con người Giêsu trần thế bằng hiểu biết trần gian; trong khi Đức Kitô lại nói về khôn ngoan của niềm tin khi nhận biết con người Giêsu là Con Thiên Chúa. Đối với người Do Thái một khi đã sinh ra trong trần gian thì thuộc về trần gian và không thể nào khác hơn được. Đức Kitô nói rõ cho họ biết Đức tin Ngài ban tặng không thể dùng sự hiểu biết trần gian để nhận biết mà cần đến đặc sủng Chúa ban. Thực ra không phải hiểu biết trần gian ngăn cản họ nhận ra Con Thiên Chúa mà chính là lòng họ ra chai đá, không chấp nhận bất cứ thay đổi nào. Họ đòi hỏi đức Kitô làm thêm phép lạ. Đối với họ phép lạ chữa bệnh cho bao người và phép lạ hoá bánh ra nhiều chưa đủ để cho họ tin, họ muốn có thêm nữa. Vấn đề khác xảy ra là do so sánh. Họ so sánh manna tổ tiên họ đã ăn trong samạc với bánh hằng sống Đức Kitô hứa ban. Khi có so sánh thế nào cũng có chọn thứ này, lựa thứ nọ và bỏ thứ khác. Nếu chọn theo Đức Kitô người Do Thái phải bỏ truyền thống tổ tiên và đó là việc làm đòi hy sinh rất lớn. Vì thế họ chọn theo truyền thống tổ tiên và loại bỏ giáo huấn của Đức Kitô. Để giúp họ nhìn thấy cái sai lầm của họ Đức Kitô mặc khải thêm cho họ biết

 

Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy, và tôi, tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết. c.44

 

Loại bỏ giáo huấn của Đức Kitô không chỉ đơn thuần chối bỏ Ngài mà chính là chối bỏ Chúa Cha Đấng sai Ngài đến trong thế gian. Những ai đón nhận giáo huấn của Đức Kitô được hưởng hai thành quả của niềm tin. Thứ nhất người đó trở thành thành viên của đại gia đình Chúa nơi trần gian, nhận được của ăn ban sự sống trường sinh là chính Mình và Máu Thánh Đức Kitô. Thành quả thứ hai người đó nhận được khi hoàn thành cuộc lữ hành trần thế, họ sẽ không chết cô đơn một mình. Họ chết trong Đức Kitô. Những ai chết trong Đức Kitô sẽ được Ngài cho sống lại, hưởng vinh quang Phục Sinh của chính Đức Kitô. Được chính Đức Kitô hướng dẫn và đón nhận vào Thiên Quốc chung hưởng sự sống trường sinh Thiên Chúa dành riêng cho họ.

 

Tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết. c.44

Bánh trường sinh Đức Kitô ban chính là Mình và Máu Thánh Chúa. Ngày nay chúng ta hiểu giá bánh trường sinh Đức Kitô cao trọng ngoài dự đoán của con người. Giá đó là chính sự sống đời Ngài ban cho nhân loại bằng cách tự nguyện, vâng lời Chúa Cha, chết trên thập giá trở thành bánh nuôi sống tâm hồn. Hiến tế đó ngày nay được lập lại trên bàn thờ mỗi khi linh mục đọc kinh truyền phép trong thánh lễ hàng ngày. Chúng ta hãy cúi đầu cảm tạ và kính cẩn thờ lậy.

 

35.Chúa Nhật 19 Thường Niên

     (Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng” – Charles E. Miller)

 

NÓI THẲNG VỀ MỘT SỰ THẬT SỐNG ĐỘNG.

 

Đôi khi chúng ta cần nghe nói thẳng về một chân lý quan trọng, ví dụ như Thiên Chúa nhân lành; tội lỗi thì xấu xa, đơn giản là nhưng câu nói trực tiếp những gì thật sự là quan trọng trong đời sống làm cho chúng ta dừng lại hoặc làm chúng ta chú ý.

Trong hội đường Caphanaum Chúa Giêsu đã quyết định nói thẳng về bản chất của một sự thật cốt yếu. Ngài đã muốn cho những thích giả của Ngài chú ý. Ngài muốn cho chúng ta dừng lại để suy nghĩ về chân lý nơi những lời của Ngài.

Ngày hôm trước, Chúa Giêsu đã nuôi dưỡng đám đông dân chúng với năm chiếc bánh, Ngài đã trông đợi họ nhìn thấy phép lạ này như một dấu hiệu để Ngài trao ban cho họ một điều gì đó hơn nữa, một điều gì đó lớn hơn là bánh cho toàn thể thế giới. Ngài sẽ hiến tặng chính mình Ngài để làm của ăn thiêng liêng.

Những người lãnh đạo trong dân đã không hề chú ý tới những gì Chúa Giêsu đã hứa. Họ chỉ thấy Ngài là một người quá bình thường mặc dầu những dấu hiệu Ngài đã ban cho họ trong việc hoá bánh ra nhiều. Họ vẫn giữ ý kiến: “Ông này không phải là Giêsu con ông Giuse sao? Không phải chúng ta đã biết cha và mẹ của ông ấy sao?”

Chúa Giêsu đã nghe những lời bàn tán đồn thổi nhưng không hề giận về điều ấy và Ngài từ chối cúi mình, coi thường sự làm ngơ của họ. Ngài nhấn mạnh: “Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Hễ ai ăn bánh này sẽ được sống đời đời.” Tiếp đó với lời lẽ đơn giản trực tiếp, một tuyên bố chứa đựng một chân lý cốt yếu cho đức tin Công Giáo của chúng ta, một lời loan báo được thúc đẩy bằng một sự quan tâm đáng yêu của một Thiên Chúa nhân lành. Một lời tuyên xưng của giáo lý mà nhưng người nam và những người nữ qua muôn thế hệ đã hiến dâng mạng sống mình để tử đạo, để bảo vệ một lời hứa đã tiết lộ tình yêu tuyệt vời nơi trái tim của Đức Kitô. Chúa Giêsu nói: “Bánh mà Ta sẽ ban chính là thịt Ta để cho thế gian được sống”.

Không có lời nào thẳng thắn hơn. Không có điều gì diễn tả một cách rõ ràng hơn. Tất cả đã không phải là một sự hùng biện. Chúa Giêsu không nói bánh thì giống như là Thịt của Ngài, điều đó sẽ gợi lên nhắc nhở đến thịt của Ngài. Ngài nói một cách rất rõ ràng: “Bánh mà Ta sẽ ban chính là thịt Ta để cho thế gian được sống”.

Chúa Giêsu đã làm viên mãn lời hứa của Ngài vào đêm trước khi Ngài chịu nạn. Vì các môn đồ của Ngài và các môn đồ kế tiếp đã đi theo Ngài, đang theo Ngài và sẽ theo Ngài đến tận cùng thế giới, Ngài đã thiết lập hy tế Thánh nhân, mọi người của mọi chủng tộc, mọi nền văn hoá, đã được kêu gọi tới bàn của Chúa chúng ta. Hạnh phúc biết bao cho những người được mời đến, và phúc cho những ai đã đáp trả lời mời gọi đó trong đức tin. Bánh và rượu với những hình thức bên ngoài của Thánh Thể, có vẻ quá bình thường, đơn giản trong đôi mắt của nhiều người nhưng đối với những người có đức tin, họ nhìn thấy đây là một đặc ân rất lớn lao vĩ đại từ Thiên Chúa qua Con của Người.

Chúng ta cầu nguyện xin lương thực này, chúng ta không phải chỉ xin thực phẩm duy trì sự sống của chúng ta trên mặt đất này nhưng còn là của ăn trên trời, thức ăn mà sẽ dẫn chúng ta tới sự sống đời đời. Chúng ta không làm điều gì lầm lạc, chúng ta tiếp tục trung thành với đức tin Công Giáo của chúng ta, bánh mà Đức Kitô đã ban chính là Thịt và Máu của Người để cho thế gian được sống.

 

36.Có ai thấy Chúa Cha đâu?

    (Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB)

 

KHÔNG PHẢI LÀ ĐÃ CÓ AI THẤY CHÚA CHA ĐÂU

 

Câu chuyện bánh ăn vẫn chưa tới hồi kết nhưng lại ngày càng trở nên gay cấn hơn. Các người Do Thái bắt đầu cảm thấy bực bội khó chịu; họ xầm xì – phản đối (xem Xh 15:24; 16:12; 17:3), nhưng lần này không còn xoay quanh vấn đề bánh đó là thức ăn gì, hay người nào cho ăn, mà tập trung vào vấn nạn, người cho ăn bánh đó từ đâu mà đến; “tại sao bây giờ ông ta lại nói: “tôi từ trời xuống?’ Qua cuộc tranh luận về ăn bánh này, Đức Giêsu đã đưa nhóm thính giả Do Thái, vốn có rất ít thiện cảm với Người, đi tới một kết luận hết sức bất ngờ: “Không phải là đã có ai thấy Chúa Cha đâu, nhưng chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến, chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha. Thật tôi bảo thật các ông, ai tin thì được sự sống đời đời”.

 

Câu khảng định gây ngạc nhiên trên cho các thính giả Do Thái khi cho biết một điều chưa từng được nghe ai nói tới bao giờ, đó là bất cứ ai thấy được Chúa Cha thì người đó sẽ có sự sống đời đời. Điều này trước hết hoàn toàn trái ngược với quan niệm phổ thông của người Do Thái đương thời; họ cho rằng, Đức Chúa, Chúa các đạo binh là đấng quyền uy cao cả vô song tới nỗi không ai có thể nhìn thẳng mặt Ngài được, nếu không muốn chết (xem Xh 19:21). Ngay cả các thiên thần, trong quan điểm của họ, cũng phải hãi sợ lấy cánh che mặt mỗi lần ra trước Thánh Nhan (xem Is 6:1-3). Đến cả Mô-sê từ đỉnh núi Si-nai đi xuống, sau khi đã nhận lãnh các bia đá giới luật, mặt ông còn phản chiếu vinh quang Đức Chúa chói lọi tới độ dân chúng không dám nhìn trực diện, buộc ông phải lấy mảnh vải thưa che mặt mình lại (xem Xh 34:29-34). Thế đấy, làm sao một Đức Chúa đáng khiếp sợ như thế lại có thể trở thành nguồn cứu rỗi, và nhân vật đã nhìn thấy Đức Chúa, rồi từ Ngài mà đến, lại có thể ban sự sống chứ không phải là cái chết cho con người? Chính vì suy nghĩ như thế mà sau này, khi Phi-líp-phê đại diện cho các tông đồ và những kẻ tin khao khát được nhìn thấy Cha và lên tiếng: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện!” (Ga 14:8) thì đó đã là cả một lời tuyên xưng đức tin rất can trường và hiếm có. Nếu đối với các người môn đệ – những kẻ tin đã là như thế, thì đối với những ai không tin, đương nhiên việc ao ước được nhìn thấy Đức Chúa uy hùng để rồi phải chết là điều không thể. Do đó câu khảng định tiếp theo của Đức Giêsu lại càng chói tai, càng khó chấp nhận hơn đối với nhóm cử tọa đa nghi: “Tôi là bánh trường sinh, bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết.”

 

Khi đồng hóa việc ‘nhìn thấy Cha’ – là điều không ai dám làm, với việc ăn bánh và tin vào Người Con, Đức Giêsu đã làm một mời gọi vô cùng táo bạo, vượt quá hết mọi giới hạn chấp nhận của người đương thời. Nó đòi dân chúng nói chung, đặc biệt đám thính giả Do Thái nói riêng, phải có khả năng chuyển dịch từ quan niệm về một Thiên Chúa quyền uy cao cả, xa cách và đáng khiếp sợ, để chấp nhận diện mạo đối nghịch về một Thiên Chúa gần gũi, thấp hèn và từ nhân. Điều này cũng giống như đòi các tín đồ Do Thái nhiệt thành phải bỏ hẳn lối hiểu biết về (hay niềm tin vào) Đức Chúa oai hùng của Mô-sê và các tổ phụ, để đặt trọn niềm tin vào một Thiên Chúa Nhập Thể biểu hiện nơi con người ông Giêsu quá tầm thường này, “Ông này chẳng phải là ông Giêsu, con ông Giu-se đó sao? Cha mẹ ông chúng ta đều biết cả” (câu 42). Đơn giản họ không bao giờ có thể chấp nhận nổi điều này!

 

Đối với Kitô hữu chúng ta ngày nay, chính vì Mầu Nhiệm Thiên Chúa Nhập Thể đã dần trở thành một ‘công thức’ quen thuộc, cho nên việc chấp nhận lời mời gọi ‘ăn bánh trường sinh’ cũng không còn là điều gì quá chói tai. Tuy nhiên cũng như mãi mãi Thiên Chúa Nhập Thể vẫn là một mầu nhiệm khó nuốt trôi, thì việc ‘ăn bánh hằng sống’ với tất cả niềm tin sâu sắc cũng chẳng dễ dàng gì. Bao lâu ta còn đặt nặng việc tôn thờ một Thiên Chúa quyền uy cao cả, bấy lâu ta còn chưa thể khai thác được tất cả sự phong phú của Mầu Nhiệm Nhập Thể; bao lâu ta chưa thể thuyết phục được mình, rằng yếu tính quan trọng nhất của Thiên Chúa chính là sự từ bi nhân ái và hay xót thương, bao lâu ta còn chưa chịu chấp nhận “ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14:9) khi ngước nhìn lên Thập Giá, bấy lâu ta vẫn chưa thể bị thuyết phục rằng: “Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”. Thế đó, Thánh Thể luôn là biểu hiện của một niềm tin sâu sắc nhất (mầu nhiệm đức tin) chính là ở điểm này!

 

Niềm tin của tôi vào Thánh Thể hệ tại ở điều gì?

Lạy Chúa, bao lâu con còn chu chu chắm chắm tôn thờ sự hiện diện uy nghi cao cả của Chúa sau mỗi lần rước lễ, bấy lâu con chưa thể chân nhận Chúa chính là ‘bánh bởi trời’ nuôi sống con. Con phải tôn thờ Chúa, nhưng là tôn thờ một Thiên Chúa thật gần gũi, khiêm hạ và tự hiến, sẵn sàng hiến thân mình làm của ăn nuôi con. Xin cho con biết chuyển dịch cách hữu hiệu niềm tin của con từ việc quá quan tâm tới sự toàn năng cao cả của Chúa qua việc nhấn mạnh trên lòng nhân từ xót thương của Người, đặc biệt trong những lần con được diễm phúc tiến lên rước Chúa. Amen.

 

37.Bánh trường sinh

     (Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)

 

  1. Dẫn vào Thánh lễ

Anh chị em thân mến

Chúng ta là những khách lữ hành trên dương thế. Điểm tới của chúng ta là quê trời. Nhưng cuộc hành trình vừa dài lâu vừa vất vả. Chúa biết thế nên Ngài thương ban cho chúng ta thứ lương thực bồi dưỡng sức lực là chính Mình Ngài trong Bí Tích Thánh Thể.

 

Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy đến với Chúa, hãy sốt sắng rước Ngài vào lòng, để có sức tiếp tục cuộc hành trình của chúng ta.

 

  1. Gợi ý sám hối
  • Xin Chúa thứ tha cho những lần chúng con ngã lòng, chua chát và phiền trách Chúa.
  • Xin Chúa tha thứ vì những lần mệt mỏi chán chường chúng con đã không chạy đến tìm sức mạnh nơi Chúa.
  • Xin Chúa tha thứ vì những lần chúng con rước lễ mà không đủ đức tin.

 

III. Lời Chúa

  1. Bài đọc I (1 V 19,4-8)

Sau lần ngôn sứ Êlia giết các sư sãi baal, ông bị hoàng hậu Giêsabel truy nã gắt gao. Ông phải chạy trốn lên núi Horép. Nhưng dọc đường vì quá mệt ông đã nằm ỳ xuống đất. Chúa sai thiên thần mang đến cho ông một chiếc bánh và một vò nước. Sau khi ăn uống xong, Êlia lấy lại sức và đi một mạch lên đến núi Horép diện kiến Chúa.

 

  1. Đáp ca (Tv 33)

Thánh vịnh này của một tác giả đã từng gặp hoạn nạn, đã kêu xin Chúa và đã được Ngài cứu thoát. Một câu trong Thánh vịnh rất đúng với hoàn cảnh của ngôn sứ Êlia: “Kẻ nghèo này kêu lên và Chúa đã nhận lời, cứu cho khỏi mọi cơn nguy khốn”.

 

  1. Tin Mừng (Ga 6,41-51)

Hai ý tưởng then chốt của bài Tin Mừng này là “đến với” và “tin vào” Chúa: Việc “tin vào” Đức Giêsu, thể hiện bằng việc “đến với” Ngài là kết quả của sự hợp tác của hai phía:

  • Phía Thiên Chúa: Thiên Chúa ban ơn “lôi kéo” con người tin vào Đức Giêsu và đến với Ngài: “Không ai đến được với Ta nếu Cha Ta là Đấng sai Ta không lôi kéo kẻ ấy” (câu 44). Thực ra, Thiên Chúa luôn muốn “lôi kéo” con người đến với Đức Giêsu để con người được sống. Nhưng con người ít ra phải ngoan ngoãn để cho Thiên Chúa lôi kéo. Nhiều người Do Thái đã không ngoan ngoãn như vậy nên đã không đến được với Đức Giêsu.
  • Phía con người: phải “nghe lời giáo huấn” của Thiên Chúa.: “Ai nghe lời giáo huấn của Cha thì đến với Ta” (câu 45). Mà Thiên Chúa thì luôn giáo huấn con người: “Trong sách các ngôn sứ có chép rằng mọi người sẽ được Thiên Chúa giáo huấn” (câu 45). Câu nói này ngầm trích dẫn Is 54,13. Mà đại ý chương 54 sách Isaia là kinh nghiệm của dân Israel vào cuối thời lưu đày: họ đã thấy rằng Thiên Chúa luôn quyến luyến con người như một người chồng quyến luyến vợ. Đó chính là giáo huấn mà Thiên Chúa đã ban cho Israel qua dòng lịch sử. Như thế, “nghe lời giáo huấn của Thiên Chúa” nghĩa là ý thức rằng Thiên Chúa luôn yêu thương mình.

 

Tóm lại, việc “tin vào” Đức Giêsu và “đến với” Ngài là điều Thiên Chúa yêu thương luôn tạo điều kiện để con người thực hiện được dễ dàng. Chỉ cần ngoan ngoãn phó thác vào tình thương Thiên Chúa thì con người có thể làm được.

 

  1. Bài đọc II (Êp 4,30-32–5,2) (Chủ đề phụ)

Sau khi khuyên dạy các tín hữu phải cởi bỏ nếp sống cũ hồi còn là dân ngoại để mặc lấy nếp sống mới giống Đức Kitô (Chúa nhật 18), Thánh Phaolô giải thích rõ hơn về nếp sống mới: tha thứ cho những điều xấu người khác gây cho mình, và sống bác ái yêu thương. Có như thế kitô hữu mới trở thành hy lễ tựa hương thơm ngọt ngào dâng lên Thiên Chúa.

 

  1. Gợi ý giảng

* 1. Bánh hằng sống

Bài đọc thứ I của Thánh Lễ hôm nay được trích từ sách Các Vua và kể về cuộc hành trình gian khổ của Tiên tri Êlia: Vì ông đã tiêu diệt thứ đạo đầy mê tín dị đoan mà bà Hoàng Hậu Jésabel đem vào nước nên ông bị Bà này thù ghét tìm giết. Do đó ông phải chạy trốn và định trốn lên tận đỉnh núi Horep. Nhưng đường quá dài và nhiều gian nan nên ông mệt mỏi, chán nản bi quan nằm đại xuống đường phó mặc cho số mạng tới đâu thì tới. Lúc ấy Chúa sai Thiên Thần đem đến cho ông một chiếc bánh và một bình nước. Ăn uống xong, ông cảm thấy khoẻ khoắn và lạc quan trở lại, đi một mạch suốt 40 ngày đêm lên tận đỉnh núi Horép.

 

Thứ bánh thần diệu đã bổ sức cho tiên tri Êlia chỉ là hình bóng của Thứ Bánh mà Đức Giêsu sẽ ban cho loài người, tức là Mình Thánh Chúa. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu tuyên bố “Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời”. Thực vậy, mỗi lần chúng ta rước lễ là ta được ăn chính Mình Thánh Chúa, và của ăn đó đem lại cho người rước lễ biết bao ơn quý giá.

 

Nhiều người đã từng ở tù sau khi về nhà đã thuật lại rằng cuộc sống trong đó thật là cực khổ, tinh thần xuống dốc, đâm ra bi quan, chán đời. Nhưng đối với những người công giáo, nếu thỉnh thoảng được Rước Mình Thánh Chúa thì họ cảm thấy được an ủi rất nhiều, dù sức chịu đựng những sự cực khổ, tinh thần vững vàng và còn lạc quan vui vẻ giúp đỡ những anh em khác nữa. Trong hoàn cảnh khốn đốn như thế, người ta mới thấy rõ Mình Thánh Chúa thực là của ăn cần thiết cho tâm hồn mình.

 

Còn chúng ta, hoàn cảnh của chúng ta dễ dãi, có lẽ chúng ta không thấy được sự cần thiết của Mình Thánh Chúa. Cũng giống như người ăn nhiều quá nên không còn biết ngon nữa, chúng ta cũng thế: chúng ta có thể rước Mình Thánh Chúa hằng tuần, hằng ngày nếu quá quen và quên để ý đến những giá trị vô cùng cao quý của Mình Thánh Chúa.

 

Mình Thánh Chúa là biểu hiệu của một sự gần gũi rất thân thiết và rất sẵn sàng: nghĩa là trong bất cứ hoàn cảnh nào, chúng ta vẫn có thể rước lễ và được Chúa ở gần cạnh ta để an ủi, nâng đỡ, khích lệ ta. Trong cuộc đời chúng ta, có thể có những lúc chúng ta cảm thấy rất cô đơn, mọi người đều xa cách ta, kể cả những người thân thiết nhất cũng bỏ ta. Chỉ có Chúa là không xa ta, không bỏ ta,. Ta rước lễ là được Mình Thánh Chúa đến ở trong lòng ta, gần thật gần, thân thật thân, và Chúa sẽ an ủi nâng đỡ khích lệ ta.

 

Mình Thánh Chúa còn là biểu hiệu của một sự trao hiến trọn vẹn đầy yêu thương: Yêu thương là cho đi. Rước Lễ là một cuộc gặp gỡ giữa hai người yêu nhau trao quà tặng cho nhau. Đức Giêsu trao tặng chúng ta cái quý giá nhất là chính thân xác của Ngài. Còn chúng ta cũng trao cho Chúa những cái quý nhất của chúng ta: Những việc bác ái chúng ta đã làm được, những hy sinh chúng ta đã chịu và cả những tâm sự buồn phiền ray rứt đang dằn xé tâm can ta.

 

Mình Thánh Chúa còn là biểu hiệu của một sự hiện diện đầy quyền năng của một vị lãnh tụ của chúng ta. Đó là khám phá của một nhà trí thức Ấn Độ, ông Chidambaram. Là một người trí thức luôn đi tìm chân lý hoàn hảo nhất, ông khởi sự đi tìm trong nghề là báo, nhưng sau đó ông thấy rằng nghề báo cũng dầy dẫy những sự gian dối. Ông theo đạo Bàlamôn và là một tín đồ nhiệt thành, nhưng ông cũng không thoả mãn,. Ông sang Ấn giáo vì cho rằng Ấn giáo là thứ đạo Bàlamôn được cải tiến tốt đẹp hơn. Dù vậy ông cũng thất vọng. Cuối cùng ông gia nhập đạo Công giáo, ông thấy thoả mãn và trung thành với Đức tin công giáo cho đến hơi thở cuối cùng. Vậy cái gì trong Công giáo đã làm thoả mãn khát vong của ông? Thưa chính là Phép Thánh Thể. Ông đã nhận thấy rằng việc Đức Giêsu hiện diện thật sự trong Mình Thánh Chúa, và khi rước lễ chính Đức Giêsu đến ở thật sự trong lòng các tín hữu là một điều quý giá vô cùng mà không một tôn giáo nào trên khắp thế giới có được. Thần thánh của các tôn giáo kính vị viễn chi (nghĩa là kính nhưng mà phải ở xa xa). Còn trong đạo Công giáo, nhờ có bí tích Mình Thánh Chúa, Đức Giêsu ở thật gần với tín hữu của mình, thấu hiểu hết mọi tâm tư nguyện vọng của mình, thông cảm với mọi nỗi khó khăn của mình, và nâng đỡ thêm sức hướng dẫn mình trong từng chi tiết từng biến cố trong đời sống mình. Mình Thánh Chúa quả là một sáng kiến vô cùng thông minh của quyền phép Thiên Chúa và cũng là một ơn vô cùng cao quý cho con người.

 

Nếu mỗi lần chúng ta rước lễ mà chúng ta hiểu được, cảm được và sống được những tâm tình như vậy thì chắc chắn Mình Thánh Chúa sẽ trở thành một thứ lương thực bổ dưỡng cho linh hồn chúng ta, đúng như Lời Chúa phán trong bài Tin mừng hôm nay: Ta là bánh hằng sống bởi trời xuống, ai ăn bánh này thì sẽ được sống đời đời.

 

* 2. Bánh hằng sống

Trong kho tàng văn hóa Việt Nam có chuyện “Thoại Khanh Châu Tuấn”. Đó là tên của hai vợ chồng trẻ. Nhà họ nghèo, lại phải nuôi một người mẹ già yếu. Nhưng người vợ trẻ hy sinh chịu cực khổ làm lụng để cho chồng học hành đi thi, rồi đến ngày người chồng từ giã mẹ và vợ lên đường về kinh đô ứng thí. Rủi là trong lúc đó gia đình lâm cảnh đói rách rất thê thảm, người mẹ già đói quá sắp chết. Người vợ trẻ đã cam đảm lấy dao lóc thịt mình để nuôi mẹ chồng. Nhờ đó mà người mẹ già mù loà có thể sống được cho tới ngày con trai đổ đạt vinh quy về nhà.

 

Câu chuyện cổ tích tưởng tượng trên cũng cảm động như câu chuyện thực sự diễn ra hàng tuần, hàng ngày trong Thánh Lễ: Đức Giêsu lấy chính Thịt Máu Mình để nuôi sống linh hồn chúng ta: “Ta là bánh hằng sống”.

 

Nhưng phải thú nhận ngay rằng: Khi nghe câu chuyện Thoại Khanh Châu Tuấn ta thấy cảm động, còn khi nghe câu “Ta là bánh hằng sống” chúng ta thấy vẫn trơ trơ. Tại vì tai ta đã nghe câu đó quá thường rồi. Thực ra, đây không phải là một câu nói bóng bảy văn chương, mà là một sự thật: Mình Thánh Chúa thực là một thứ của ăn có sức bổ dưỡng thần diệu:

 

1/ Ngày xưa tiên tri Êlia bị bà hoàng hậu Giêzabel gian tà hung ác săn đuổi. Ông quá mệt mỏi đói khát, nằm vật xuống đất chỉ chờ chết đi. Nhưng Thiên Chúa sai một Thiên Thần đem lại cho ông một chiếc bánh nhỏ,. Ông ngồi dậy ăn vào và có sức đi suốt 40 ngày tới đỉnh núi Carmel hội kiến với Thiên Chúa. Đó chỉ là một hình bóng của Cựu Ước thôi, huống chi thực tại Rước Lễ của Tân Ước còn có sức bồi dưỡng đến mức nào!

 

2/ Tin Mừng cũng kể rằng có lần dân chúng tấp nập đón Đức Giêsu đi ngang qua những người bệnh tật cố sức chạm tới mình Ngài, rờ tới gấu áo Ngài, hay ít ra được bóng Ngài che phủ lên mình thì lập tức bao bệnh hoạn liền biến mất. Huống chi ngày nay chúng ta được Rước chính Mình Thánh Chúa vào kết hợp mật thiết với thịt máu ta, hoà tan trong thịt máu ta.

 

3/ Tục ngữ VN chúng ta có câu “Trời đánh tránh bữa ăn”: khi cùng dùng cơm chung với nhau một bàn, người ta phải dẹp bỏ mọi xích mích để cố hòa hợp đoàn kết với nhau. Bữa ăn thường còn thế, huống chi bữa ăn thánh của những người cùng là con cái Chúa và anh em với nhau.

 

Những so sánh nho nhỏ trên cho ta thấy rằng Mình Thánh Chúa thật là một thứ bánh hằng sống có thể thêm sức cho chúng ta trên con đường dương thế, có thể tẩy xoá mọi yếu đuối bệnh tật trong linh hồn chúng ta và có thể giúp chúng ta đoàn kết yêu thương nhau.

 

Nhưng thực tế là chúng ta đã rước lễ biết bao nhiêu lần mà vẫn chẳng thấy ích lợi bao nhiêu. Chính các tông đồ cũng vậy: Thánh Lễ đầu tiên do chính Đức Giêsu cử hành trong nhà Tiệc ly, tất cả 12 tông đồ đều rước lễ, nhưng sau đó đâu phải tất cả 12 đều được thánh hóa: Giuđa vội ra đi tính việc bán Chúa, Phêrô sau đó đã chối Chúa 3 lần, chỉ có Gioan là vẫn theo sát bên Chúa trên đường tử nạn.

 

Thực ra cũng chẳng có gì là khó hiểu: như một dĩa thức ăn thật bổ dưỡng, nhưng nếu người ta mà không tiêu hóa thì cũng vô ích thôi, có khi còn sinh ra trúng thực hay bội thực nữa. Nếu chúng ta rước lễ thường xuyên mà chẳng được ích lợi thì không phải tại Mình Thánh Chúa mà tại chính chúng ta. Vì thế cũng cần xét lại cách chúng ta rước lễ như thế nào. Xin đưa ra một vài mẫu gương để chúng ta cùng chiêm ngắm:

1/ Các tín hữu sơ khai gọi Thánh Lễ là tiệc bẻ bánh: Khi tới nhà thờ, mọi người đều cố gắng đem phần bánh của mình đến. Người nghèo đem ít, người giàu đem nhiều, kẻ túng thiếu có khi không mang gì hết. Chủ tế thu nhận tất cả rồi truyền phép biến bánh thành Mình Thánh Chúa. Sau đó mọi người chia đều nhau, ai có phần nấy, lại có một số phần để dành đem chia cho những người giả cả yếu đau không thể tới dự nghi lễ bẻ bánh. Người ta đã đến dự lễ với tấm lòng quảng đại, với trái tim yêu thương đùm bọc nhau. Kết quả là họ đạo trở thành một tổ ấm khiến lương dân phải trầm trồ khen ngợi “Kìa xem họ thương yêu nhau đến mức nào”.

 

2/ Tới thời Rôma bị bắt đạo, các tín hữu phải ẩn trốn trong các đường hầm ở ngoại ô gọi là những hang toại đạo. Họ cử hành Thánh Lễ trên mồ chôn các thánh tử đạo. Họ dâng lễ bằng chính những hy sinh gian khổ của họ đang chịu vì Chúa, và họ rước lễ như rước lấy nghị lực của Đấng cũng đã từng chịu nạn chịu chết như họ. Và kết quả là họ đã có một đức tin kiên vững, gian lao không sờn, chết chóc không nản, hận thù không giết chết trái tim yêu thương của họ. Ngày nay trong các hang toại đạo, du khách vẫn còn thấy vẽ những hình về Bí tích Thánh Thể như những đĩa bánh, những chùm nho, những con cá… và những câu tràn đầy yêu thương tha thứ tin tưởng như sau: “Bình an”, amor “tình yêu thương”, Christus vincit “Đức Kitô chiến thắng”…

 

  • Đường đời chúng ta như một cuộc lữ hành gian nan nhọc mệt.
  • Cuộc đời chúng ta như một cuộc chiến đấu cực khổ đau thương.
  • Cuộc sống chúng ta với người khác nhiều khi bực bội như hoả ngục.

 

Đức Giêsu muốn giúp chúng ta, nên Ngài đã hiến thân làm bánh hằng sống để ban nghị lực cho chúng ta có thể đi trọn đường dài, ban ơn nâng đỡ cho chúng ta chịu đựng những khổ đau, ban thêm tình thương để chúng ta sưởi ấm lòng mình và sưởi ấm lòng những kẻ sống với mình.

 

Nhưng chúng ta cũng phải cố gắng giúp chính chúng ta nữa bằng cách tham dự Thánh Lễ và rước lấy thứ Bánh Hằng Sống đó một cách sốt sắng. Rước Lễ sốt sắng là có dọn mình trước khi dự lễ, kết hợp sâu xa với Ngài đã ngự vào lòng ta, và sau đó cùng đồng hành với Ngài bước vào cuộc sống với tâm tình lạc quan, yêu thương, quảng đại.

 

* 3. Bí quyết trường sinh (Ga 6,41-51)

Tần Thủy Hoàng là vị vua Trung Quốc, sống trước Chúa Giáng Sinh khoảng 200 năm. Ông là người đã truyền xây Vạn Lý Trường Thành dài hơn 2.000 dặm. Đó là kiến trúc duy nhất trên trái đất, mà các phi hành gia có thể nhìn thấy từ ngoài không gian. Theo tạp chí National Geographic, Tần Thủy Hoàng rất sợ chết, ông muốn được trường sinh bất tử, nên tìm đủ mọi cách để được cải lão hoàn đồng. Một ngày kia, các chiêm tinh gia kể cho ông nghe về một hòn đảo thần tiên ở biển Đông, dân cư ở đấy đã khám phá ra bí quyết trường sinh.

 

Tần Thủy Hoàng liền phái một số tàu thuyền chất đầy châu báu lên đường, hy vọng đổi được bí quyết trường sinh. Nhưng dân chúng không đổi cho ông bí quyết trường sinh của họ.

 

Thế rồi ông lo xây nhà mồ như cung điện nguy nga rộng lớn, lấy châu ngọc làm tinh tú, lấy thủy tinh làm sông Ngân Hà, lấy vàng bạc lát tường và chôn sống hàng trăm cung nữ trong đó, để kiếp sau được sống như thần tiên. Nhưng kẻ tàn bạo ham sống ấy chỉ làm vua được hơn chục năm và sống trên năm mươi tuổi thì chết đi.

***

Trường sinh bất tử là ước mơ ngàn đời của con người. Cứ mỗi lần một người thân giã từ cõi thế, thì ước mơ được sống mãi lại càng dày vò con người dữ dội hơn. Nên không lạ gì khi Đức Giêsu nói về cuộc sống trường sinh thì mọi người tuôn đến như đi tìm kho báu.

 

Nhưng mầu nhiệm về “Sự sống đời đời” lại rất xa tầm trí mọn của đám dân chúng. Đức Giêsu không giúp họ thoát khỏi cái chết của thân xác, vì chính Người cũng vui lòng chết như mọi người. Nhưng Người cứu họ thoát khỏi cái chết của linh hồn: cái chết vĩnh viễn xa lìa Thiên Chúa và hoàn toàn ly biệt với tha nhân, cái chết đi vào trầm luân muôn kiếp, cái chết dẫn đến cõi tiêu diệt muôn đời.

 

Cuộc sống vĩnh cửu ấy, hôm nay Đức Giêsu đã mạc khải: “Ta là Bánh ban Sự Sống… Ai ăn Bánh này sẽ được sống muôn đời” (Ga.6,47). Vậy bí quyết trường sinh mà Tần Thủy Hoàng khó nhọc đi tìm kiếm tận các đảo thần tiên, lúc nào cũng hiện diện trước mặt chúng ta, trong mọi thánh đường Công giáo. Chính là Đức Giêsu nguồn mạch trường sinh.

 

Người đang hiện diện với chúng ta bằng thần trí Người: “Ở đâu có hai hoặc ba người tụ họp nhân danh Ta, Ta sẽ ở đó với họ” (Mt.18,20).

 

Người còn hiện diện với chúng ta qua Lời Chúa. Lời mà Người nói cách đây 2000 năm cũng chính là Lời Người đang nói với chúng ta trong tin mừng.

 

Người hiện diện với chúng ta qua các linh mục trong lúc giảng dạy và trong khi cử hành các Bí tích: “Ai nghe các con là nghe Ta” (Lc.10,16).

 

Đặc biệt Người hiện diện thực sự với chúng ta trong Bí tích Thánh Thể: “Ta là bánh hằng sống… Ai ăn bánh này sẽ được sống đời đời” (Ga.6,52).

 

Như vậy, “Sự sống đời đời” không phải là chuyện viễn vông xa vời, nhưng là một thực tại đang triển nở trong đời sống người tín hữu. Mỗi thánh lễ là một bàn tiệc nuôi dưỡng linh hồn đưa ta về chốn trường sinh.

***

Lạy Đức Giêsu, như Tấm Bánh Thánh xin cho tâm hồn chúng con nên trong trắng, cố xa tránh những ô uế cho dù nhỏ mọn để luôn xứng đáng với Chúa.

 

Xin cho tâm hồn chúng con nên khiêm hạ nhỏ bé, nhưng luôn bày tỏ một tình yêu lớn lao. Và cho tâm hồn chúng con luôn kết hợp với Chúa, để được Chúa dẫn vào cuộc sống muôn đời. Amen.   (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)

 

* 4. Mất tinh thần

Bài đọc I kể chuyện ngôn sứ Êlia. Ông đã từng can đảm dám một mình chống lại hoàng hậu Giêsabel và giết hết tất cả các sư sãi của bà này. Nhưng sau đó, bị bà này truy bắt, ông phải chạy vào sa mạc. Cuộc trốn chạy quá vất vả khiến ông chán nản không muốn tiếp tục nữa. Ông ngồi bẹp dưới gốc một cây kim tước. Ông còn xin Chúa cho ông chết đi cho rồi: “Lạy Chúa, đủ rồi. Bây giờ xin Chúa lấy mạng con đi, vì con chẳng hơn gì cha ông con”.

 

Tâm trạng Êlia lúc đó là mất tinh thần. Khi ta mất tinh thần thì ta mất nguồn sức mạnh lớn nhất, bởi vì tinh thần đối với con người cũng giống như đôi cánh đối với loài chim, và như bộ rễ đối với loài cây vậy.

 

Ngay cả những nhân vật anh hùng cũng có lúc cảm thấy mệt mõi, yếu đuối và thất vọng. Nhưng không phải vì thế mà họ không còn là anh hùng. Đúng hơn, những lúc đó cho thấy họ thực sự là người. Chính Đức Giêsu cũng từng trải qua những giây phút như thế trong vườn Cây Dầu.

 

Nhiều người không thể chấp nhận những giới hạn do thân phận làm người của mình. Họ muốn tỏ ra lúc nào cũng mạnh. Họ cho rằng họ sẽ bị mất mặt nếu để cho người ta thấy được sự yếu đuối và sợ hãi của mình. Nhưng sự thực không phải thế. Người ta sẽ cảm động và sẵn sàng giúp ta khi thấy ta cũng là người giống như họ. Như lời Picasso nói: “Lòng bạn sẽ tràn ngập cảm thông khi bạn nhận ra rằng trong mỗi người có cả một nguồn nước mắt”.

 

Có người còn cho rằng cảm giác yếu đuối đó không xứng với người có đức tin. Nhưng thực ra, yếu đuối đâu có gì ngược với đức tin. Vả lại làm sao ta có thể được giúp đỡ nếu ta không thấy mình cần được giúp đỡ?

 

Chúa sai một thiên thần mang đến cho Êlia bánh và nước. Nhờ thứ lương thực này, Êlia được bổ sức và đi một mạch đến núi Horép, núi của Chúa. Thực ra, tình trạng yếu đưối trước đây của Êlia không phải chỉ do thiếu lương thực mà do mất tinh thần. Bây giờ cũng thế, ông được hồi sức không phải chỉ vì có lương thực, mà còn do lấy lại được tinh thần: Ông được bảo đảm rằng Chúa luôn ở cùng ông. Chính sự bảo đảm này đã đem lại cho Êlia một nguồn sống mới và giục giã ông lên đường.

 

Chúng ta cũng đang hành trình lên núi Chúa, tức là sự sống đời đời. Nhiều lúc chúng ta cũng cảm thấy yếu đuối mệt mỏi. Cho nên chúng ta cũng cần được giúp đỡ; những sự giúp đỡ của anh chị em tín hữu trong cộng đoàn, và nhất là sự giúp đỡ của Chúa. Sự giúp đỡ của Chúa chính là ý thức có Chúa ở với ta và hằng yêu thương ta. Như Êlia, chúng ta cũng cần bánh. Bánh ban sức mạnh chính là Mình Thánh Chúa trong bí tích Thánh Thể. Bánh Thánh thể được gọi là Viaticum, “lương thực đi đường”. (Viết theo Flor McCarthy).

 

  1. Lời nguyện cho mọi người

Chủ tế: Anh chị em thân mến, Đức Giêsu đã nhắc đi nhắc lại rằng: “Tôi là bánh từ trời xuống… không ai thấy Chúa Cha, chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến, chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha”. Chúng ta hãy tin tưởng cầu xin với Người:

  1. Xin cho mọi người trong Hội thánh luôn tin tưởng và tuyên xưng rằng / Đức Giêsu Kitô là Đấng từ trời đến / là Con Chúa Cha ở trên trời, và là Thiên Chúa làm người / Đấng cứu độ duy nhất ở trần gian.
  2. Xin cho mọi nhà cầm quyền và mọi người theo các tôn giáo khác / được nhận biết Đức Giêsu Kitô là Đấng cứu độ mà Chúa Cha sai đến / để giải thoát và cứu độ tất cả mọi người.
  3. Xin cho mọi người chưa nhận biết ơn cứu độ của Đức Giêsu Kitô / được Chúa Cha lôi kéo đến với Người / để Người ban cho họ lương thực nuôi cả xác hồn.
  4. Xin cho anh chị giáo hữu trong xứ đạo chúng ta luôn siêng năng dự lễ và rước lễ / để lãnh nhận lương thực bởi trời / mà chu toàn bổn phận mình trong cuộc hành trình về Nước Chúa.

Chủ tế: Lạy Chúa chúng con cảm tạ Chúa là Cha yêu thương đã ban cho chúng con bánh từ trời xuống là Đức Giêsu Kitô. Xin cho chúng con luôn được nuôi dưỡng bằng Bánh bởi trời, để chúng con luôn có sự sống muôn đời. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô.

 

  1. Trong Thánh lễ
  • Trước kinh Lạy Cha: Khi chúng ta đọc “Xin Cha cho chúng con lương thực hằng ngày”, chúng ta đừng chỉ xin cơm bánh vật chất, nhưng hãy xin Chúa ban cho chúng ta chính bản thân Ngài, để Ngài đồng hành với chúng ta luôn mãi trong cuộc đời.
  • Trước lúc rước lễ: Ngày xưa ngôn sứ Êlia đã được ăn bánh Chúa ban, nhờ đó có sức lên núi Horép gặp Chúa. Chút nữa đây chúng ta sẽ được rước chính Mình Thánh Chúa. Xin cho thứ lương thực thần thiêng này bồi dưỡng sức khoẻ tinh thần cho chúng ta trong cuộc lữ hành dương thế.

 

VII. Giải tán

Chúng ta đã có Chúa trong lòng. Hãy lạc quan trở về cuộc sống và cùng sống với Chúa trong từng phút giây.

 

38.Lời hứa về Sự Sống

     (Suy niệm của Giuse Nguyễn Cao Luật, OP)

 

Có một thứ bánh khác

Tiếp tục diễn từ về Bánh trường sinh, vị Hoàng Tử sự sống mặc khải một mầu nhiệm thật khó tin: “Tôi là Bánh ban sự sống, bánh tiêu diệt sự chết.”

 

Lời loan báo này dựa trên một biến cố huy hoàng: năm chiếc bánh được hoá nên nhiều, làm cho cả đám đông được ăn no. Các thính giả coi biến cố này là một cử chỉ của một vị ngôn sứ, của một ông vua. Họ nghĩ rằng, cuối cùng, Đức Giêsu là vị thủ lãnh, chỉ nhờ quyền năng của lời, đã có thể nuôi đám đông đang bị đói, đồng thời hiệp nhất cả đám đông. Phải tôn Người làm vua, không chờ đợi gì cả. Nhưng Đức Giêsu đã từ chối, Người trốn đi một mình.

 

Sau đấy, Người đã tuyên bố chính Người là bánh trường sinh, và cố gắng giải thích điều lạ lùng này cho dân chúng. Quả thật, Đức Giêsu là bánh hằng sống từ trời xuống, quy tụ những kẻ theo Người thành một dân. Bánh này không chỉ là man-na Đức Chúa ban cho dân đang ở trong hoang địa thuộc giao ước cũ. Bánh này chính là Thiên Chúa tự hiến thành của ăn, của ăn đàng, tức là lương thực cho người đang hành trình. Thiên Chúa trở thành bánh cho con người: một mặc khải tuyệt vời, hoàn toàn vượt quá óc tưởng tượng của các thính giả.

 

“Tôi là bánh trường sinh.”

Lời tuyên bố không thể chấp nhận nổi. Để hiểu trọn vẹn ý nghĩa sâu xa của mặc khải này, người ta không thể tách rời diễn từ về bánh trường sinh với những điều Đức Giêsu thực hiện trong bữa tiệc Vượt Qua cuối cùng. Trong cả hai trình thuật này, có ba thực tại luôn đan kết với nhau như là những yếu tố của một mầu nhiệm duy nhất: bánh, đức tin và sự sống – Ăn, tin và chiến thắng sự chết.

 

Với cuộc phục sinh, Đức Ki-tô sẽ thực hiện việc hoá bánh ra nhiều đích thực: không chỉ là bánh ăn thông thường, nhưng là bánh ban sự sống. Từ nay, qua các buổi cử hành lễ tạ ơn, dấu chỉ này về cuộc phục sinh – tức là bánh ban sự sống luôn có tính hữu hiệu và có chiều kích phỗ quát. Nó không còn bị giới hạn trong không gian và thời gian. Hai mươi thế kỷ sau, một Charles de Foucauld trong sa mạc Tamanrasset, hay bất cứ một vị linh mục nào, cũng đều thực hiện cử chỉ kỳ diệu này, cử chỉ đem lại sự sống, bắt đầu từ lời và hành động Đức Giêsu đã thực hiện.

 

Quả thế, mổi thánh lễ vẫn là một lời khẳng định dứt khoát rằng quyền lực tử thần không thể là tiếng nói cuối cùng. Lời khẳng định này được nói lên khi các Ki-tô hữu đang cùng nhau chia sẻ tấm bánh và chén rượu là Mình và Máu Đức Ki-tô, mặc dù họ vẫn đang bị cầm giữ trong thân xác, vẫn đang bị cơn đói hành hạ và vẫn đang bị cái chết đe doạ. Từ giữa những bóng tối của cuộc đời, họ cử hành mầu nhiệm về bánh ban sự sống và nhờ đó họ có thể dần dần thoát ra khỏi quyền lực của sự chết.

 

Có lẽ các Ki-tô hữu cần suy gẫm câu nói của Bernanos: “Ki-tô giáo của chúng ta đặt nền tảng trên tình yêu… Chúng ta yêu quý sự sống, chúng ta tin vào sự sống. Chúng ta biết rằng sự sống ấy không lừa dối chúng ta, và các lời hứa về sự sống sẽ không phai tàn.”

 

Phải tin mới hiểu được

Đức Giêsu vừa tuyên bố Người là bánh ban sự sống và các địch thủ từ chối bước theo Người vào trong lãnh vực Người muốn đưa họ vào. Theo họ, Đức Giêsu chỉ là một người khoa trương: “Chúng tôi biết rõ ông ấy.” Tóm lại, họ muốn lôi Người vào trong những sắp xếp của họ. Theo họ, Đức Giêsu chỉ là con ông Giu-se. Thế thôi… chấm hết.

 

Thế nhưng, Đức Giêsu vẫn tiếp tục nhấn mạnh tính cách nghịch thường của những khẳng định Người đã nêu ra, đồng thời tố cáo quan niệm của các đối thủ. Quan niệm này chỉ là những suy nghĩ bình thường của con người, chứ không phải là quan điểm của Thiên Chúa. Đức Giêsu đề nghị họ phải thay đổi nhãn quan, thay đổi cách nhìn – có thể nói như thế – và đó là đức tin.

 

Biết bao lần người ta giản lược đức tin thành một chuổi những khẳng định cần được lặp lại mà không cần hiểu. Người ta tưởng rằng như thế là đủ và tự nhận mình thuộc về một nhóm ưu tuyển và do đó có quyền được thưởng. Người ta đâu biết rằng khi quan niệm như thế, họ đã biến đức tin thành một hành động mà không có sự tham dự của lý trí.

 

Theo Đức Ki-tô, đức tin là sức mạnh đem lại sự sống và mở ra những nhãn quan diệu kỳ. Đức tin không đề ra những câu trả lời trực tiếp cho những vấn đề của con người, nhưng làm thay đổi quan niệm, cách nhìn vấn đề của họ. Đức tin cho họ thoáng thấy một thứ ánh sáng mà họ sẽ không ngừng tiếp cận. Nhờ ánh sáng này, người tín hữu bước đi, khám phá và sống.

 

Như vậy, đức tin là ân huệ Thiên Chúa ban. Nó không đến do lý luận hay do nôỵ lực của ý muốn con người. Chỉ có thể hiểu được đức tin khi chấp nhận đó là kết quả của ân ban. Dĩ nhiên, nỗ lực và thiện chí của con người sẽ giúp phần nào tiến trình này, nhưng cuối cùng, đó là chấp nhận mở ra trước ánh sáng được bày tỏ cho mình.

 

Chỉ có đức tin như thế mới giúp hiểu Đức Giêsu là bánh ban sự sống đích thực. Đức tin ấy đưa con người tham dự cách trọn vẹn vào mầu nhiệm hiệp thông, vào cuộc trao đổi. Ai hiểu được điều này, người ấy đạt được sự sống vĩnh cửu, bởi vì họ hiểu được thực tại sâu xa của tình yêu, một tình yêu mà ngay cả đến sự chết cũng không tiêu diệt được. Nói thế, vì tình yêu chính là nền tảng của thực tại.

 

Để cho Thiên Chúa lôi kéo

Giữa Đức Giêsu và các thính giả, có một khoảng cách khá xa, hay nói đúng hơn, một sự hiểu lầm.

 

Trước khi tự nhận là bánh trường sinh, Đức Giêsu đã muốn chia sẻ hương vị bánh của con người: ba mươi năm chuẩn bị với những bữa ăn hằng ngày, những bữa ăn trong ngày tang chế cũng như trong những ngày vui; ba mươi năm để cố gắng giúp con người hiểu được đâu là cơn đói thực sự, đổng thời làm cho họ nhận ra của ăn chính yếu Người trao tặng cho họ. Ba mươi năm để rổi nghe được một nhận xét đầy mỉa mai: “Ông này chẳng phải là Giêsu, con ông Giu-se đó sao? Sao bây giờ ông ta lại nói: “Tôi từ trời xuống.””

 

Tâm hồn của người không tin, có lẽ cũng là của chúng ta, đó là chỉ nhận ra Đức Giêsu là người chia sẻ bánh của con người chứ không muốn đón nhận Người là Đấng qua tấm bánh, muốn chia sẻ cuộc sống của chính họ. Dường như chúng ta chỉ muốn lãnh nhận bánh từ tay Đức Giêsu, chứ không muốn đón nhận chính Người.

 

Đàng khác, chúng ta thường có thói quen giản lược hành trình tôn giáo vào những cố gắng của riêng mình. Chúng ta nghĩ rằng mình là người đưa ra sáng kiến, và chúng ta chỉ quan tâm đến việc chiếm lấy Thiên Chúa. Thực ra, chính Thiên Chúa lôi kéo chúng ta đến với Người qua Đức Giêsu. Thiên Chúa đến với chúng ta qua Con của Người. Đức Giêsu là Lời và là bánh từ trời xuống để chia sẻ cuộc sống với chúng ta trước khi chúng ta có sáng kiến về chuyện này. Qua Đức Giêsu, Đấng đã ăn bánh của con người trong ba mươi năm, Thiên Chúa dạy chúng ta biết rằng: có một thứ bánh để nuôi sống trong cuộc đời này, và có một thứ bánh ban sự sống vĩnh cửu. Một bên là bánh của người phàm, một bên là bánh của Thiên Chúa. Hai thứ bánh này khác nhau.

 

Qua sự nhập thể của Đức Giêsu và qua bí tích Thánh Thể, chúng ta có biết để Thiên Chúa lôi kéo và hướng dẫn? Chúng ta có tin Đức Giêsu là bánh từ trời xuống? Chúng ta có dám tin vào lời hứa ban sự sống của Đức Giêsu?

Lạy Chúa,

mặc dù Chúa rất xa chúng con,

nhưng nhờ tình yêu, chúng con vẫn gần với Chúa.

Không hề có phân ly

giữa chi thể với vị thủ lãnh nhiệm mầu!

Chúa cho mọi người được dự tiệc

khi cử hành lễ tạ ơn.

Chính Chúa đã nói rằng

con có thể ăn thịt là Mình Chúa.

Điều ấy đã được viết lại,

không phải tự ý con nghĩ ra.

Thế mà có lúc tại sao con nghi ngờ

trong khi Lời Chúa quá rõ ràng như thế?

Paul Claudel.

 

39.Bánh Trường Sinh

     (Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

 

Vào thế kỷ 16 có một nhà thám hiểm người Tây Ban Nha tên là Ponce de Léon. Sau khi Kha Luân Bố (Christophe Colomb) khám phá Mỹ Châu ít lâu, người ta đồn rằng ở Tân Thế Giới có một ngọn suối trường sinh, thế là Ponce de León liền sắm thuyền vượt biển sang Nam Mỹ đi tìm con suối huyền thoại đó.

 

Giống như Ponce de Léon, các bô lão trong phim Cocoon đã được cải lão hoàn đồng khi họ xuống tắm ở một hồ bơi đã được những người xa lạ từ một hành tinh khác bí mật sử dụng. Chính kinh nghiệm kỳ thú này khiến các cụ sẵn sàng nhận lời mời của các vị khách lạ đi theo họ về chốn hành tinh khác. Vì theo lời các vị khách này, một khi đến được hành tinh xa lạ kia, các bô lão sẽ mãi mãi được trường sinh.

 

Cũng thế, Tần Thuỷ Hoàng, một vị hoàng đế Trung Quốc thời xưa, người đã truyền xây Vạn Lý Trường Thành ở Trung Quốc. Với chiều dài hơn 2000 dặm (=3218 km), Vạn Lý Trường Thành này là kiến trúc nhân tạo duy nhất trên trái đất mà các phi hành gia có thể nhận ra từ phía ngoài không gian. Theo tờ tạp chí Địa Lý Quốc Gia (National Geographic), Tần Thuỷ Hoàng rất sợ chết. Một ngày nọ các chiêm tinh kể cho ông nghe về một hòn đảo thần tiên ở Biển Đông, dân cư ở đây đã khám phá ra bí quyết trường sinh. Thế là Tần Thuỷ Hoàng liền phái một tàu thuyền chất đầy châu báu lên đường đi tìm các dân cư của hòn đảo ấy, hy vọng có thể dùng những báu vật để trao đổi lấy bí quyết trường sinh của họ. Theo lời người ta kể, các tàu thuyền này đã tìm ra đảo thần tiên nhưng cư dân ở đây chẳng thèm đổi bí quyết trường sinh của họ để lấy những “tặng vật tầm thường” ấy của Hoàng Đế.

 

Thưa anh chị em,

Ba câu chuyện trên cho chúng ta thấy rằng: từ xa xưa, con người đã mơ ước được sống chẳng bao giờ chết, được trường sinh bất tử. Mỗi lần thấy một người thân chết đi thì niềm ước mơ bất tử này càng ám ảnh con người dữ dội hơn. Vì thế, chẳng lạ gì khi Chúa Giêsu xuất hiện ở Palestine và bắt đầu nói về cuộc sống trường sinh bất tử thì dân chúng liền đổ xô đến nghe Ngài nói. Đám dân Do Thái này rất chú tâm đến vấn đề này, vì kể từ thời Abraham và Môsê họ triền miên sống trong mờ mịt, chẳng hiểu tí gì về những điều xẩy đến cho những người chết. Họ tin rằng có một “thế giới của người chết” (Shéol), nhưng họ chẳng có khái niệm gì về thế giới ấy. Vì thế, họ sẵn sàng đón nhận bất cứ tia sáng nào Chúa Giêsu soi dọi vào mầu nhiệm này.

 

Trong Tin Mừng hôm nay, một trong những câu nói quan trong nhất của Chúa Giêsu về đời sống vĩnh cửu là: “Tôi là bánh trường sinh từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống đời đời. Và bánh Tôi ban tặng, chính là thịt Tôi đây, để cho thế gian được sống”. Chúa Giêsu mạc khải cho biết cuộc sống nơi trần gian này không phải là cuộc sống duy nhất và chết không phải là chấm hết. Còn các một cuộc sống trong tương lại không bao giờ chấm dứt, đó là cuộc sống vĩnh cửu, trường sinh.

 

Thế nên có lạ gì khi nhiều người Do Thái lắc đầu, bỉu môi, liếc xéo Chúa Giêsu khi nghe Ngài nói: “Tôi là bánh trường sinh từ trời xuống!” Có lạ gì khi họ xầm xì với nhau: “Anh này chẳng phải là anh chàng Giêsu, con trai ông Giuse đó sao? Bộ chúng ta không biết bố mẹ anh ta sao mà anh ta lại dám mạo nhận là từ trời xuống?” Và nếu chúng ta tiếp tục đọc hết chương 6 của Thánh sử Gioan, chúng ta sẽ thấy ngay cả các môn đệ của Chúa Giêsu cũng xầm xì với nhau: “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?” (6,60) “Từ lúc đó, nhiều môn đệ rút lui, không còn đi với Chúa Giêsu nữa” (6,60). Chỉ mãi đến khi Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại, nhiều người trong đám dân Do Thái này mới bắt đầu biết trân trọng những câu nói trên của Chúa Giêsu.

 

Và cũng chính vì tin nhận mầu nhiệm này mà chúng ta đã cùng nhau tập họp trong thánh đường ngày hôm nay. Chúng ta tập họp nhau để nghe Chúa Giêsu nói về cuộc sống vĩnh cửu, để được dưỡng nuôi bằng bánh trờng sinh, Mình Thánh Chúa Giêsu. Ngọn suối trường sinh mà Ponce de Léon đã khổ công lên đường đi Châu Mỹ để tìm kiếm, cuộc sống bất tử mà các bô lão trong phim Cocoon sẵn sàng ra đi để tìm kiếm ở một hành tinh khác, và bí quyết trường sinh mà Tần Thuỷ Hoàng đi đến tận các đảo thần tiên để truy lùng, hiện đang ở giữa chúng ta, ngay trong thánh đường này. Chúa Giêsu hiện diện với chúng ta trong bí tích ban phúc trường sinh khi Ngài nói: “Tôi là Bánh Hằng Sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống đời đời”. Nếu đã thấu hiểu toàn bộ mầu nhiệm này, chúng ta sẽ không còn ngạc nhiên hay xầm xì với nhau khi nghe Chúa Giêsu ngỏ lời với chúng ta hôm nay.

 

Anh chị em thân mến,

Vào thời ông Môsê, dân Do Thái ăn chán bánh manna từ trời rơi xuống, họ lẩm bẩm kêu trách Chúa. Rồi họ đòi ăn thịt, Chúa cho từng đàn chim cút bay sà xuống để họ bắt làm thịt ăn. Ăn chán rồi họ lại kêu trách Chúa và ông Môsê. Đến thời Chúa Giêsu, họ lại xầm xì với nhau vì không thể tin được Chúa Giêsu là Đấng từ trời xuống, như thứ bánh manna mới, đem lại sự sống đời đời. Ngày nay, lễ xong ra về, nhiều người Kitô hữu cũng lẩm bẩm, xầm xì với nhau: “Thánh lễ buồn tẻ! Hát dở ẹt! giảng chán phèo! Người ngồi bên cạnh khó chịu! Rồi lại xin tiền!”… Họ lại xầm xì với nhau. Chúng ta thường như thế đó. Trước Chúa Giêsu Thánh Thể, Đấng tự hiến cho chúng ta, chúng ta còn tìm đủ lý do từ chối cái chính yếu là chính Mình Ngài, chính tình yêu của Ngài, để chạy theo những chi tiết phụ thuộc mà đả kích, phê bình. Phải chăng chúng ta đã nghe chán rồi? Nên Lời Chúa chẳng còn đánh động lòng ta nữa? Phải chăng chúng ta đã ăn chán rồi, nên Bánh Thánh Thể được dọn ra trong Tiệc Thánh chẳng còn đem lại cho chúng ta niềm vui nội tâm nào nữa? Phải chăng chúng ta tôn thờ cá nhân cha này, thầy nọ, đến nỗi cộng đoàn anh em Kitô hữu chăng còn sức thúc đẩy ta dấn thân phục vụ linh động hơn nữa? Phải chăng chúng ta không nhìn ra chung quanh chúng ta biết bao anh em đang chờ chúng ta giúp đỡ, thay vì ngồi đó mà lẩm bẩm với nhau về những chuyện thứ yếu, không đâu?

 

Thiết tưởng chúng ta nên nghe lại lời Chúa bảo: “Anh em đừng xầm xì với nhau nữa!” Thiết tưởng mỗi Chúa Nhật, chúng ta nên suy niệm bài Tin Mừng, rồi đem Lời Chúa ra thực hành trong đời sống cụ thể, điều mà không một ai được chuẩn chước từ nhà thờ bước vào lòng đời. Bánh Trường Sinh phải được đem đến các môi trường sinh sống của Chúng ta, nơi chúng ta lao động, đấu tranh, nơi chúng ta cười, chúng ta khóc với người khác. Một khi lễ xong, anh chị em ra về, cửa nhà thờ đóng lại thì phải chăng là cả thế giới mênh mông với trăm ngàn khuôn mặt hợp thành gia đình của Chúa là điểm hẹn của anh chị em. Đời ta là thánh lễ nối dài. Chúng ta đã làm gì ở đó nhân danh đức tin của chúng ta?

 

Bao nhiêu câu hỏi được đặt ra cho chúng ta chung quanh Bánh Hằng Sống của Chúa Giêsu. Nhưng đó cũng là những lời mời gọi chúng ta sống trọn vẹn các chiều kích của Bánh Trường Sinh mà chúng ta lãnh nhận từ Bàn Tiệc của Chúa mỗi ngày Chuá Nhật.

 

40.Ai được Cha giáo hóa thì đến với Ta

    (Suy niệm của Noel Quesson)

 

Hồng y Niu-mân trước kia theo Anh giáo. Người là một chức sắc cao cấp, được trợ cấp hàng năm một ngân khoản rất lớn. Thế mà sau một thời gian lâu dài suy nghĩ, cuối cùng người đã quyết định xin trở lại Công giáo. Một bạn thân của Niu-mân khuyên:

– Bạn phải suy nghĩ cẩn thận, nếu cải giáo, bạn sẽ mất hết số lương bổng hàng năm.

Niu-mân hiên ngang trả lời:

– Ngân khoản trợ cấp và bổng lộc là gì, so với một lần tôi được rước lễ?

 

Có được tâm tình đó, hẳn Niu-mân phải được ơn Chúa soi sáng hướng dẫn. Thực vậy, thiếu ơn Chúa, chẳng những người ta không hiểu nổi mầu nhiệm Chúa Giêsu mà còn thấy khó chịu khi nghe Chúa nói. Bởi lẽ chỉ có Thiên Chúa mới hiểu được Thiên Chúa và có khả năng giúp con người hiểu biết Thiên Chúa mà thôi.

 

Chính Chúa Giêsu đã đem lại cho chúng ta những mạc khải sâu xa nhất về Thiên Chúa mà Cựu Ước chỉ nói tới rất mơ hồ. Chúa Giêsu giáng trần đã đem lại sự sống vĩnh cửu cho nhân loại, nhưng nếu không có Thiên Chúa trực tiếp soi sáng và dạy bảo, làm sao chúng ta hiểu nổi điều đó? Từ ngàn xưa, Thiên Chúa đã dùng các ngôn sứ và các biến cố lịch sử mà chuẩn bị tâm hồn con người đón nhận Chúa. Nhưng người Do Thái không thành tâm thiện chí tiếp thu lời Chúa dạy qua Kinh Thánh, nên khi nghe Chúa Giêsu nói về Người là “Bánh từ trời xuống”, họ liền tức bực nói: “Lẽ nào ông này có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn sao?”.

 

Những ai là người đã được Thiên Chúa giáo hóa? Đó là những mục tử vùng Bêlem, các đạo sĩ Đông phương, Simêon, Anna, Gioan Tẩy giả… Chúa Giêsu đã xếp những người này vào loại được Thiên Chúa giáo hóa, và cho họ biết Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế từ trời xuống, là Con Thiên Chúa thật. Người là Ngôi Lời, là lương thực nuôi sống linh hồn chúng ta, như cơm bánh nuôi thân xác ta vậy: “Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa nói ra” (Mt 4,4).

 

Ai đón nhận và thực thi lời Chúa, sẽ được sống vĩnh viễn. Còn ai không đón nhận sẽ chết muôn đời. Tin Mừng trong lễ hôm nay, Chúa nói về Thánh Thể, đồng thời cũng nhấn mạnh về Lời Chúa, cốt cho chúng ta dứt khoát lập trường, đón nhận Chúa hoặc từ chối Chúa, tin hoặc không tin Lời Chúa dạy. Chúa khẳng định Chúa là “Bánh hằng sống” không phải là hình ảnh hay ẩn dụ nhưng là bánh thật cho cuộc sống tâm linh của mọi tín hưũ.

 

Lạy Chúa, xin cho chúng con yêu mến đón nhận Lời Chúa hằng ngày để được Chúa giáo hóa. Lời Chúa là sự sống tâm hồn chúng con, là ánh sáng dẫn đưa chúng con đến cuộc sống muôn đời.

 

41.Chân lý và những hệ lụy

     (Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

 

Hằng năm cứ vào những Chúa Nhật cuối tháng 7 và đầu tháng 8, nhiều linh mục thấy oải vì Hội thánh dọn bàn tiệc Lời Chúa cứ xoáy mãi vào đề tài Thánh Thể. Dĩ nhiên, mầu nhiệm Thánh Thể là khôn dò và thật khó tát cạn, nhưng đó là trong đức tin, còn với sự hạn chế của con người thì khi nói mãi một vấn đề hẳn sẽ gây nhàm chán không chỉ cho thính giả mà cho cả người trình bày. Dẫu vậy, dựa trên những bài đọc Lời Chúa của Chúa Nhật XIX TN B, xin cùng xem xét đôi điều về chân lý và những hệ luỵ của nó.

 

  1. Là chân lý thì không thể chấp nhận tình trạng thoả hiệp hay nước đôi:

“Phải tôn thờ một Thiên Chúa duy nhất, ngoài Người ra không được có thần nào khác” (x.Dnl 6,4-7). Đây chính là lệnh truyền của Giavê cho dân được tuyển chọn, một lệnh truyền được lặp đi lặp lại nhiều lần nói lên tầm quan trọng của nó. Vào thời Vua Akhap cai trị đất nước, vua đã cưới nhiều bà vợ ngoại bang và hệ quả là vua quan, dân chúng đã bỏ Giavê để tôn thờ thần Baal, vị thần hoàng hậu Giêgiaben tôn thờ. Ngôn sứ Êlia đã khẳng khái lên án tình trạng này. Và Ngài đã dám thách thức 450 sư sãi Baal làm một cuộc đọ sức trên núi Cácmêlô để xem Giavê hay là Baal, ai là Thiên Chúa thật. Câu chuyện làm thịt bò rồi xin thần cho lữa từ trời xuống thiêu đốt của lễ thì chúng ta ít nhiều đã nghe. Dĩ nhiên Êlia đã thắng, vì chỉ có Giavê là Thiên Chúa thật mới cho lữa từ trời xuống thiêu huỷ lễ vật. Tuy nhiên ở đây chúng ta muốn nhắc với nhau lời cảnh tỉnh của Êlia với dân Chúa xưa khi họ vì theo hoàng hậu nên bỏ Giavê mà tôn thờ thần Baal: “Các ngươi đi hàng hai cho tới bao giờ? Nếu Đức Chúa là Thiên Chúa thì hãy theo Người; còn là Baal thì cứ theo nó!” (1V 18,21). Phải rõ ràng, không được lập lờ kiểu nước đôi khi phải đối diện với chân lý. Dân Do thái thời bấy giờ không bỏ Giavê nhưng lại tôn thờ thần Baal.

 

Sau khi đã cho dân chúng no nê bánh và cá, Chúa Giêsu cũng đã rõ ràng với đoàn dân theo Ngài: “Các người tìm ta chỉ vì cái bụng của các ngươi. Hãy ra sức làm việc vì của ăn đem lại sự sống đời đời” (Ga 6,27). Để sống thì cần phải có lương thực cơm bánh, nhưng hơn các loài vật, con người không nguyên chỉ sống bằng cơm canh cá thịt. Đây là một chân lý mà lắm khi chúng ta tránh né cách này hay cách khác. Cuộc đời con người không chấm dứt với cái chết thể lý, thế mà lắm khi chúng ta không dám đối diện với sự thật này. Tin thì vẫn cứ tin nhưng ta vẫn cứ hàng hai trong cách sống. Tin Chúa thì vẫn tin, bỏ đạo thì không không dám bỏ nhưng ta lại cứ sống như người không biết Chúa, không tin Chúa. Ta vẫn cứ bon chen cách tinh quái, hơn thua cách xảo quyệt như người đời. Một kiểu đi hàng hai như dân Do Thái thưở nào.

 

  1. Công bố chân lý nhiều khi phải chấp nhận sự lẻ loi: Nói lên sự thật về căn bệnh giả dối trong giáo dục nước nhà ta, nhà giáo Đỗ Việt Khoa đã từng cảm nghiệm sự cô đơn, lẻ loi. Elia mặc dù chiến thắng các sư sãi Baal cách oanh liệt trên núi Cácmêlô thế mà vẫn phải chịu cảnh đơn chiếc một mình. Trước sự truy diệt của hoàng hậu Giêgiaben, Ngài đã phải trốn chạy vào trong hoang địa. Vị ngôn sứ đã như thất vọng và thầm xin: “Lạy Chúa, đủ rồi! Xin cho con chết quách đi, vì con chẳng hơn gì cha ông của con”. Số phận của những người làm chứng cho chân lý rất lắm khi như vô vọng vì thấy công sức của mình thật như muối bỏ biển. Chúng ta đừng quên, nhà giáo Đỗ Việt Khoa khi mạnh dạn nói lên sự thật về chuyện gian dối trong thi cử ở Hà Tây cũng từng có tâm trạng này.

 

Khi trình bày sự thật về đám dân theo Ngài và về căn tính của chính mình, chắc hẳn Chúa Giêsu đã từng cảm nghiệm sự lẻ loi, cô đơn cách nào đó. Tin Mừng tường thuật khi nghe Chúa Giêsu giới thiệu Ngài chính là bánh ban sự sống, thịt Ngài thật là của ăn, máu Ngài là của uống đem lại sự sống trường sinh thì dân chúng đã bỏ Ngài mà đi, kể cả nhóm môn đệ, chỉ còn lại nhóm Mười Hai. Chúa Giêsu đã hỏi họ: “Còn chúng con, chúng con có bỏ Thầy mà đi không?” Đằng sau câu hỏi nay hẳn nhiên bàng bạc một nổi buồn cô đơn. Ôi, số phận của người rao truyền chân lý! Sợ phải một mình, sợ phải cô đơn, chắc chắn sẽ khó mạnh dạn nói lên sự thật, sẽ khó can đảm làm chứng cho chân lý.

 

  1. Bảo vệ chân lý thì không bao giờ đơn độc;

Vì chân lý là tuyệt đối nên luôn có người tiếp nối để bảo vệ, để rao truyền: Mây đen không thể che mãi được mặt trời, sự giả dối hay tội lỗi không thể nào phủ lấp được chân lý. Êlia những tưởng mình đơn độc trong cuộc chiến vì chân lý nhưng ông có ngờ đâu, vẫn còn đó 7000 người không hề bái lạy thần Baal. Nỗ lực bảo vệ chân lý của ngài ngôn sứ không hoài công vì sẽ có đó sứ ngôn Êlisêu tiếp bước Ngài, sẽ có đó Giêhu, con của Nimsi thay thế Akhap. Điều này thì Chúa Giêsu biết rõ hơn Êlia. Bánh sự sống, bánh ban sự sống đời đời mà Chúa Giêsu ban tặng sẽ mãi mãi ở với nhân loại qua nhóm Muời Hai và những người kế vị cũng như những người cộng tác. “Các con hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy” (Lc 22,19). Chính lời này nhắc nhở chúng ta rằng luôn có đó, luôn còn đó người rao truyền chân lý, ngưòi bảo vệ chân lý, vì chân lý thì bất diệt, chân lý thì không thể bị dập tắt.

 

Chỉ có chân lý mới giải thoát chúng ta (x.Ga 8,32). Chỉ có chân lý mới dẫn đưa ta đến sự sống đời đời. Cuộc đời con người không chỉ có ở đời này. Giêsu là Chân Lý. Lời Ngài là Chân lý và là sự sống. Thịt Máu Ngài là lương thực trường sinh. Đã tin thì xin đừng có đi nước đôi, xin đừng “bắt cá hai tay”, lập lững, nửa vời. Cũng xin hãy cầu nguyện cho những ai rao truyền chân lý, bảo vệ chân lý được kiên vững trong gian truân, bền chí trong khi gặp thất bại, nhất là nhẫn nại khi thấy mình lẻ loi.

 

Rao truyền chân lý, bảo vệ chân lý là một bổn phận của Kitô hữu. Thánh tông đồ dân ngoại đã thốt lên: “Vô phúc cho tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!” (1 Cor 9,16). Trước Thượng Hội Đồng Do Thái năm nào, Phêrô và Gioan đã khẳng khái rằng phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người ta vì các ngài không thể không nói lên sự thật mắt thấy, tai nghe (x.Cvtđ 4,18-20). Xin đừng viện cớ sự “khôn ngoan” để che giấu lối sống nửa với hay nước đôi.

 

42.Nguồn trợ lực đời ta

    (Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

 

Một hiện thực của cuộc đời: Không ai được ở mãi trên các tầng mây. Sau phút giây vinh quang, thành công, sốt sắng là một chuỗi ngày vất vả, truân chuyên lẫn nhàm chán của đời thường, và chưa kể đến biết bao trở ngại phải đương đầu và cả những thất bại phải chuốc lấy cách này cách khác. Thời kỳ sốt mến sau ngày chịu chức linh mục, giai đoạn thánh thiện sau ngày tuyên khấn trong Hội dòng, tháng ngày mặn nồng sau lễ hôn ước, khoảng thời gian sau khi nhận một nhiệm sở, một chức vụ…sao mà chẳng thể được lâu. Thế rồi ta phải hạ cánh với các cảnh ngộ cuộc đời dù chẳng mong và thường không như ý.

 

Cảnh ngộ của Ngôn sứ Êlia qua bài đọc thứ nhất của Chúa Nhật XIX TN B là một minh chứng. Trước mặt vua Akhap, một mình thách đấu với 450 ngôn sứ thần Baal trên núi Carmel, ngài Êlia thật can trường và đáng khâm phục. Êlia đã chiến thắng, khi cầu khẩn Thiên Chúa và được Người nhậm lời cho lửa từ trời xuống thiêu hủy lễ vật. Chỉ có một Thiên Chúa duy nhất chúng ta phải tôn thờ, ngoài Người ra, tất thảy đều là “sản phẩm do tay loài người làm nên”. Êlia hãnh diện về niềm tin của mình. Ngài phấn khởi về chiến công của mình.

 

Thế nhưng Êlia đã phải lập tức rời bỏ vinh quang của chiến thắng lẫy lừng ấy để chạy trốn khỏi sự truy diệt của hoàng hậu Giêgiaben. Chỉ mỗi một tiểu đồng cùng chung cảnh ngộ với ngài. Nhưng khi vào sa mạc, thì ngôn sứ Êlia chỉ còn một thân một mình. Một mình một thân trong cảnh tình của kẻ chiến bại giữa hoang mạc khô cằn. Êlia buồn bã, thất vọng, Ngài xin Chúa cất mạng sống mình đi: “Lạy Đức Chúa, đủ rồi! bây giờ, xin Chúa lấy mạng sống con đi, vì con chẳng hơn gì cha ông của con.” Thành công thì chốc lát, nhưng khó khăn, cảnh gập ghềnh thì ít thoảng qua. Cuộc đời làm con Chúa, cuộc đời người tông đồ không ít lần rơi vào cảnh “đêm tối của đức tin”. Tha nhân vẫn có đó mà ta như bước đi một mình. Như Êlia, đã đôi lần ta muốn thiếp ngủ đi.

 

Chúa lại đến đánh thức ta. “Chổi dậy mau, vì đường vẫn còn xa!”(x. 1V 19,7) Thiên Chúa không để một ai chịu thử thách quá sức mình. “Ơn Ta đủ cho con” (x.2 Cor 12,9). Nguồn trợ lực không phải ở dưới trần này mà là từ trên cao. Khi trao cho vị ngôn sứ bánh và nước, sứ thần muốn khẳng định với Êlia và với chúng ta rằng Chúa chính là nguồn sống đích thực đời ta, là năng lực giúp ta tiến bước trên cõi lữ thứ này.

 

Nguồn sống từ trời cao không còn là thứ bánh vật chất thưở nào cho dân đi trong hoang mạc 40 năm về đất hứa hay cho Êlia đủ sức tiếp bước trong 40 ngày để đến núi Horeb gặp Chúa. Nguồn sống ấy nay đã được tỏ bày cách minh nhiên là chính Đấng từ trời xuống, Giêsu Kitô. “ Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống” (Ga 6, 50-51). Chúa Kitô không ngại ngần tỏ bày một sự thật cho dù nó đi ngược với quan niệm thời bấy giờ. Người Do Thái vẫn hằng quan niệm ăn thịt ai, là xem người đó như kẻ thù (x.Tv 27,2; Dcr 11,9), và uống máu là một trọng tội đáng bị tru diệt (x.St 9,4; Lv 3,17; Dnl 12,23). Chắc chắn Chúa Giêsu biết rõ điều này, thế mà Người vẫn minh nhiên công bố thì ta đủ thấy tầm quan trọng của chân lý được tuyên.

 

Khi tuyên bố mình chính là bánh hằng sống, Chúa Giêsu khẳng định Người chính là nguồn sống của chúng ta. Ai muốn được sống, sống đời đời thì phải đón nhận Người, vì không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Người. (x.Ga 14,6). Người là lẽ sống, là nguồn sống của đời chúng ta. Người là nguồn trợ lực giúp chúng ta vững trước trước gian nan, khốn khó. “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11,28).

 

Thực tế đã có đó nhiều người vững vàng trong cảnh lao tù, khốn khó, nhờ sức mạnh của Thánh Thể Chúa. Đã có đó nhiều vị tông đồ lấy lại được sức mạnh mà kiên trì với sứ mệnh nhờ những phút giây hiện diện trước Thánh Thể. Cành nho chỉ có thể sinh trái, đơm hoa nhờ kết liền với thân nho. Không có Người thì chúng ta chẳng thể làm được sự gì tốt đẹp (x. Ga 15,1-8). Kitô hữu chúng ta ít nhiều đều xác tín và cảm nghiệm chân lý này ngay trong cuộc đời của mình.

 

Sau khi Chúa Kitô truyền hãy cầm lấy bánh mà ăn, hãy cầm lấy chén mà uống, thì Người đã truyền rằng hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy (x. 1Cor 11,23-25). Đón nhận Chúa Kitô là bánh hằng sống, là lương thực trường sinh, là nguồn trợ lực trong những cơn gian nan, khốn khó, cô đơn, thất vọng, để có thể tiếp tục hành trình dương thế, thì chính chúng ta cũng phải trở nên tấm bánh trao ban sự sống, nguồn trợ lực cho tha nhân. Thiết tưởng cũng thật cần thiết kiểm điểm xem sự hiện diện của chúng ta có đem lại sự bình an, sức sống, nguồn trợ lực cho những người mà chúng ta gặp gỡ hay đang chung sống với chúng ta như thế nào?

 

43.Sắp hàng lãnh bánh

 

Trong nạn đói năm Ất Dậu 1945, hằng triệu người miền Bắc lâm vào cảnh túng thiếu, đến nỗi củ chuối trong vườn cũng chẳng còn để mà ăn, khiến cho họ phải bỏ nhà cửa, làng mạc lên đường kiếm chút của ăn nuôi thân.

 

Tại một số giáo xứ may mắn, không bị nạn đói hoành hành, người ta tổ chức phát chẩn cho những kẻ bị đói. Mỗi ngày nhà chung thổi những nồi cơm lớn, rồi nắm thành những nắm nhỏ, được gọi là nắm cơm chim phân phát cho hằng trăm người đói lả. Đàn ông, đàn bà và trẻ nít đứng xếp hàng để chờ được nhận nắm cơm chim của mình.

 

Nhìn những kẻ sa cơ nhận phần ăn ít ỏi, chúng ta thấy có người thì cám ơn, có kẻ thì mắc cỡ giật lấy nắm cơm rồi lẩn mất. Có người ăn vội ăn vàng rồi ra đi, có kẻ cầm nắm cơm tới một bụi tre hay một khóm trúc rồi mới ăn. Có người chỉ ăn một nửa, còn một nửa thì gói lại để dành. Có người làm dấu trước khi ăn, nhưng cũng có kẻ không làm vì chắc hẳn họ là người ngoại…

 

Cách thức những người bất hạnh đến xin ăn phần nào giống như cách thức những người nghe và đón nhận lời Chúa trong đoạn Tin Mừng sáng hôm nay:

  • Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này thì sẽ được sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban chính là thịt Ta vì sự sống của thế gian.

 

Trong thời đại Chúa Giêsu cũng như trong thời đại chúng ta, có người đã lẩm bẩm:

  • Không thể được, ông ấy chẳng có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn và máu mình cho chúng ta uống. Họ quên rằng Đức Kitô là Thiên Chúa.

Có kẻ đón nhận bánh của Ngài, nhưng đức tin thì lại yếu ớt. Có người tuy nói rằng mình tin nhưng rồi việc làm của họ lại là một sự từ chối, cả dăm bảy năm họ không rước Chúa lấy được một lần, dù miệng lưỡi họ vẫn tự hào rằng tôi tin. Liệu chúng ta có thể tưởng tượng, một người đang đói lả mà lại đi từ chối nắm cơm, cho dù chỉ là một nắm cơm nhỏ bé, nắm cơm chim của nhà chung?

 

Có người đã rước lễ với lòng biết ơn vì tình thương mà Đức Kitô đã dành cho họ. Nhưng cũng có những kẻ chẳng đón nhận được bao nhiêu lợi ích khi họ tiến đến bàn tiệc Thánh Thể bởi vì họ thiếu chuẩn bị, thiếu ý thức, thiếu tình yêu.

 

Phần lớn nhân loại đang đói khát Đức Kitô, nhưng họ không biết cái gì hoặc ai sẽ làm cho họ thỏa mãn cơn đói khát ấy. Đức Kitô đã chuẩn bị phát chẩn. Đúng thế, phát chẩn chính thịt máu Ngài qua bí tích Thánh Thể làm của ăn đem lại sức mạnh và sự sống thiêng liêng cho mỗi người chúng ta.

 

Thế nhưng, chúng ta đã đón nhận của ăn cao cả ấy như thế nào?

 

44.Bánh hằng sống

 

“Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống”.

 

Đó là tư tưởng then chốt của Tin Mừng Chúa nhật hôm nay và cũng là đề tài tranh luận giữa người Do Thái và Chúa Giêsu.

Chúng ta biết, ngoài câu chuyện manna là bánh mà Thiên Chúa đã ban cho dân Do Thái làm lương thực nuôi họ 40 năm trong sa mạc trên đường về Đất Hứa, Kinh Thánh Cựu ước còn kể lại hai phép lạ về bánh: một phép lạ đã xảy ra với ngôn sứ Êlisa trong bài đọc một của ngày Chúa nhật cách đây hai tuần: có người đem đến dâng cho ngôn sứ Êlisa 20 chiếc bánh làm bằng lúa mạch và cốm đầu mùa. Ngôn sứ bảo dọn cho mọi người ăn, và 20 chiếc bánh đã cho 100 người ăn no mà còn dư. Phép lạ thứ hai kể lại trong bài đọc hôm nay: trên đường vào sa mạc tiến đến đỉnh núi Khôrếp để trốn bạo chúa A-cáp và hoàng hậu Dêdaben, ngôn sứ Êlia cảm thấy mệt mỏi, chán chường, thất vọng, chỉ cầu mong được chết đi cho xong, nhưng Thiên Chúa đã sai sứ thần đến ban bánh nướng cho ngôn sứ ăn hai lần, và theo Kinh Thánh, “nhờ sức của lương thực ấy, ông đã đi một hơi 40 đêm ngày tới núi của Thiên Chúa”.

Phép lạ trên đây thường được các giáo phụ coi như hình ảnh bánh hằng sống của Chúa Kitô, là thịt máu Đức Kitô ban để cho mọi người được sống. Đây chính là điều Chúa Giêsu giảng dạy người Do Thái trong bài Tin Mừng và cũng là tư tưởng then chốt của lời Chúa hôm nay: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống”. “Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”. Qua những lời này, chúng ta thấy rõ ràng Chúa Giêsu muốn mạc khải về phép Thánh Thể.

Trước hết, chúng ta thấy khi Chúa tuyên bố “Tôi sẽ ban bánh hằng sống” thì người Do Thái lý luận; ông ta không thể làm được điều đó, vì ông ta không thể hơn cha ông tổ tiên họ, các ngài đã ăn manna từ trời mà còn chết hết, thì làm sao bánh mà ông ta ban có thể làm cho họ sống bất diệt được? Lại nữa, ông ta nói xạo, ông ta không thể từ trời mà xuống được, vì họ đều biết nguồn gốc cha mẹ, anh chị em của Ngài, nhất là ông ta không thể lấy thịt mình cho họ ăn được.

Nhưng chúng ta thấy Chúa Giêsu không lùi bước trước những thái độ hoài nghi và những câu lẩm bẩm trách móc ấy. Ngài còn lặp đi lặp lại hai ba lần để khẳng định lời nói của Ngài. Rồi hình như sợ dân chúng chỉ hiểu theo nghĩa bóng, Ngài lại tuyên bố thêm: “Bánh tôi sẽ ban tặng chính là thịt tôi để cho thế gian được sống”. Từ đó trở đi Ngài chỉ dùng hai tiếng “thịt” và “máu” thay thế cho tiếng bánh, mãi đến khi gần kết thúc bài giảng và để cho tiền hậu đồng nhất, Ngài nhắc lại tiếng bánh lần chót: “Đây là bánh từ trời xuống, ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời”. Như vậy, chúng ta thấy rõ ràng qua những lời tuyên bố trên đây, Chúa Giêsu muốn mạc khải về phép Thánh Thể.

Để thấy rõ và dễ nhớ mạc khải của Chúa Giêsu, chúng ta có thể xếp lại thứ tự từng lời mạc khải của Chúa Giêsu: Trước hết, Chúa phán: “Ai tin vào tôi thì có sự sống đời đời”, rồi Chúa phán: “Tôi là bánh ban sự sống”, rồi Chúa phán: “Đây là bánh từ trời xuống, ai ăn bánh này thì khỏi phải chết”, rồi Chúa liên kết hai điều đó: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống, ai ăn bánh này sẽ sống muôn đời”, cuối cùng, Chúa kết luận: “Bánh tôi sẽ ban tặng chính là thịt tôi để nuôi sống thế gian”.

Với một lối diễn tả tư tưởng rõ ràng và khúc chiết như thế, không ai còn có thể hoài nghi hay hiểu sai được nữa. Đối với chúng ta ngày nay thì quá rõ ràng rồi: bánh và rượu trong phép Thánh thể chính là thịt và máu Chúa Kitô. Thực vậy, Mình Máu Chúa Kitô mà chúng ta đón nhận không phải là những kỷ niệm và những biểu hiện đơn giản hay những sự vật không còn sự sống. Trái lại, tất cả còn sống động, còn cuộn chảy, còn cảm giác. Đó là một lương thực còn sức sống, một thứ bánh có sức sống, một loại bánh mang lại sự sống thần linh, hay nói khác đi, đó là bánh bởi trời.

Như vậy, khi rước lễ, Chúa Kitô kết hiệp với tâm hồn chúng ta, đem lại cho chúng ta sức sống, thì đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải tỏ lộ sự kết hiệp đó bằng nếp sống xứng đáng. Người năng rước lễ thiết tưởng phải sống khác hẳn những người khác, miệng này đã nhận của ăn thần linh sao lại còn ham hố tìm kiếm của ăn khoái khẩu vô độ thế gian? Lưỡi kia là nơi thân xác một Thiên Chúa nằm nghỉ liệu còn dám nói những lời chua cay, độc dữ gây bất hòa, chia rẽ, ghen ghét và thù oán không? Hơn nữa, các ấn tượng, các tâm tình có được khi tiếp xúc với Chúa Kitô phải dần dần ghi trong ánh mắt, nụ cười, trong điệu bộ đi đứng, để rồi có thể nói được rằng tất cả thái độ của con người đó như phảng phất bóng dáng thần linh, hoặc ít ra thì cũng không bao giờ tỏ ra điều gì là tầm thường, hẹp hòi, ích kỷ, lạnh nhạt… Sống ngược lại là làm buồn lòng Chúa Kitô vô cùng.

 

Lạy Chúa Giêsu, đã có biết bao trường hợp thân xác Chúa không được tôn thờ xứng đáng, bởi vì có nhiều người rước Chúa với tâm hồn đầy tội nhẹ đáng kể mà họ không muốn sửa chữa; nhiều người khác đón Chúa vào lòng với thái độ hờ hững, máy móc, không chút chú tâm và cung kính. Nhưng Chúa vẫn không muốn ai nói rằng những tâm hồn như thế thì không xứng đáng, trái lại, Chúa muốn họ cứ đón nhận Chúa, vì như thế họ mới có được sức sống. Lạy Chúa, đó là thái độ, cách sống và hành động của chúng con, xin Chúa tha thứ và chúng con hứa sẽ cố gắng xứng đáng hơn, xin Chúa giúp chúng con.

 

45.Bánh trường sinh

 

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói: “Chẳng ai đến với Ta được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai Ta, không lôi kéo người ấy, và hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ”. Chúng ta đến được với Chúa Giêsu là nhờ được Thiên Chúa dạy bảo. Vì thế, chúng ta hãy ca tụng và cảm tạ Cha trên trời đã cho chúng ta được vào trong số những người được tuyển chọn. Chúng ta đừng để cho bất cứ điều gì lôi kéo chúng ta ra khỏi Chúa Giêsu. Ngược lại, chúng ta hãy nỗ lực để càng ngày càng sống gần gũi mật thiết với Chúa hơn. Sống như vậy là cách chúng ta biểu lộ lòng biết ơn đối với Chúa, trái với người Do Thái càm ràm và phản đối Chúa.

 

Chúa Giêsu dần dần biểu lộ rõ ràng bản thân của Người. Lúc đầu, Người nói: “Ta là bánh từ trời xuống”. Kế tiếp, Người nói thêm: “Ta là bánh hằng sống”. Rồi Người kết luận: “Bánh Ta sẽ ban tặng, chính là thịt Ta đây”. Tiến trình tiệm tiến, và người nghe được dẫn dắt để nhận ra bánh và thân thể của Đức Giêsu là một. Chúa Giêsu chính là bánh của chúng ta.

 

Chúa còn nói: “Ai tin thì được sự sống đời đời”. Tin cái gì? Tin Chúa Giêsu là bánh hằng sống. Ngày nay, nhiều Kitô hữu từ chối không chấp nhận Chúa Giêsu ban chính Người cho chúng ta qua hình bánh trong bí tích Thánh Thể. Nhiều người vẫn nói bánh chỉ là biểu tượng của thân xác Chúa Giêsu, chứ không thật sự là thịt của Chúa. Bản văn của Tin Mừng không nói gì đến biểu tượng. Chúa Giêsu nói rõ ràng: “Bánh Ta sẽ ban tặng, chính là Thịt Ta đây”. Nếu ai không tin vào lời này của Chúa Giêsu thì sẽ không có sự sống đời đời.

 

Hơn thế nữa, Chúa còn nói: “Ai ăn bánh này thì sẽ sống muôn đời” và “Ta sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết”, “Đây là bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết”. Những câu này cho thấy, bí tích Thánh thể là bảo đảm cho chúng ta được phục sinh và được sự sống đời đời. Vì thế, để được sự sống đời đời Chúa Giêsu đòi hỏi chúng ta hai điều là tin Người là bánh hằng sống và ăn bánh này, tức là ăn thịt của Người.

 

Bánh này có khác gì với manna? Quả thực, manna là bánh từ trời xuống. Nhưng dân Israel ăn manna và vẫn phải chết. Còn ai ăn bánh hằng sống là thịt của Chúa Giêsu thì sẽ được sự sống đời đời.

 

Những suy tư trên đây về bản văn Tin Mừng giúp chúng ta hiểu được điều mà Giáo hội Công giáo giảng dạy về bí tích thánh thể không phải là phát minh của các nhà thần học, nhưng là những lời được chép trong Kinh Thánh.

 

Lạy Chúa Giêsu, con tin Chúa ban cho con chính Chúa qua bí tích Thánh thể. Xin Chúa giúp con rước Chúa cách xứng đáng để con có được sự sống đời đời.

 

46.Bánh Hằng Sống

    (Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)

 

“Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống”. Đó là tư tưởng then chốt của Tin Mừng Chúa nhật hôm nay và cũng là đề tài tranh luận giữa người Do Thái và Chúa Giêsu.

 

Chúng ta biết, ngoài câu chuyện man-na là bánh mà Thiên Chúa đã ban cho dân Do Thái làm lương thực nuôi họ 40 năm trong sa mạc trên đường về Đất Hứa, Kinh Thánh Cựu Ước còn kể lại hai phép lạ về bánh: một phép lạ đã xảy ra với ngôn sứ Ê-li-sa trong bài đọc một của ngày Chúa nhật cách đây hai tuần: có người đem đến dâng cho ngôn sứ Ê-li-sa 20 chiếc bánh làm bằng lúa mạch và cốm đầu mùa. Ngôn sứ bảo dọn cho mọi người ăn, và 20 chiếc bánh đã cho 100 người ăn no mà còn dư. Phép lạ thứ hai kể lại trong bài đọc một hôm nay: trên đường vào sa mạc tiến đến đỉnh núi Khô-rếp để trốn bạo chúa A-cáp và hoàng hậu Dê-da-ben, ngôn sứ Ê-li-a cảm thấy mệt mỏi, chán chường, thất vọng, chỉ cầu mong được chết đi cho xong, nhưng Thiên Chúa đã sai sứ thần đến ban bánh nướng cho ngôn sứ ăn hai lần, và theo Kinh Thánh, “nhờ sức của lương thực ấy, ông đã đi một hơi 40 đêm ngày tới núi của Thiên Chúa”.

 

Phép lạ trên đây thường được các giáo phụ coi như hình ảnh bánh hằng sống của Chúa Ki-tô, là thịt máu Đức Ki-tô ban để cho mọi người được sống. Đây chính là điều Chúa Giêsu giảng dạy người Do Thái trong bài Tin Mừng và cũng là tư tưởng then chốt của lời Chúa hôm nay:“Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống”, “Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”. Qua những lời này, chúng ta thấy rõ ràng Chúa Giêsu muốn mạc khải về phép Thánh Thể.

 

Trước hết, chúng ta thấy khi Chúa tuyên bố “Tôi sẽ ban bánh hằng sống” thì người Do Thái lý luận: ông ta không thể làm được điều đó, vì ông ta không thể hơn cha ông tổ tiên họ, các ngài đã ăn man-na từ trời mà còn chết hết, thì làm sao bánh mà ông ta ban có thể làm cho họ sống bất diệt được? Lại nữa, ông ta nói xạo, ông ta không thể từ trời mà xuống được, vì họ đều biết nguồn gốc cha mẹ, anh chị em của Ngài, nhất là ông ta không thể lấy thịt mình cho họ ăn được.

 

Nhưng chúng ta thấy Chúa Giêsu không lùi bước trước những thái độ hoài nghi và những câu lẩm bẩm trách móc ấy, Ngài còn lặp đi lặp lại hai ba lần để khẳng định lời nói của Ngài. Rồi hình như sợ dân chúng chỉ hiểu theo nghĩa bóng, Ngài lại tuyên bố thêm: “Bánh tôi sẽ ban tặng chính là thịt tôi để cho thế gian được sống”. Từ đó trở đi Ngài chỉ dùng hai tiếng “thịt” và “máu” thay thế cho tiếng bánh, mãi đến khi gần kết thúc bài giảng và để cho tiền hậu đồng nhất, Ngài nhắc lại tiếng bánh lần chót: “Đây là bánh từ trời xuống, ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời”. Như vậy, chúng ta thấy rõ ràng qua những lời tuyên bố trên đây, Chúa Giêsu muốn mạc khải về phép Thánh Thể.

 

Để thấy rõ và dễ nhớ mạc khải của Chúa Giêsu, chúng ta có thể xếp lại thứ tự từng lời mạc khải của Chúa: Trước hết, Chúa phán: “Ai tin vào tôi thì có sự sống đời đời”, rồi Chúa phán: “Tôi là bánh ban sự sống”, rồi Chúa phán: “Đây là bánh từ trời xuống, ai ăn bánh này thì khỏi phải chết”, rồi Chúa liên kết hai điều đó: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống, ai ăn bánh này sẽ sống muôn đời”, cuối cùng, Chúa kết luận: “Bánh tôi sẽ ban tặng chính là thịt tôi để nuôi sống thế gian”.

 

Với một lối diễn tả tư tưởng rõ ràng và khúc chiết như thế, không ai còn có thể hoài nghi hay hiểu sai được nữa. Đối với chúng ta ngày nay thì quá rõ ràng rồi: bánh và rượu trong phép Thánh Thể chính là thịt và máu Chúa Ki-tô. Thực vậy, Mình Máu Chúa Ki-tô mà chúng ta đón nhận không phải là những kỷ niệm và những biểu hiện đơn giản hay những sự vật không còn sự sống, trái lại, tất cả còn sống động, còn cuộn chảy, còn cảm giác. Đó là một lương thực còn sức sống, một thứ bánh có sức sống, một loại bánh mang lại sự sống thần linh, hay nói khác đi, đó là bánh bởi trời.

 

Như vậy, khi rước lễ, Chúa Ki-tô kết hiệp với tâm hồn chúng ta, đem lại cho chúng ta sức sống, thì đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải tỏ lộ sự kết hiệp đó bằng nếp sống xứng đáng. Người năng rước lễ thiết tưởng phải sống khác hẳn những người khác, miệng này đã nhận của ăn thần linh sao lại còn ham hố tìm kiếm của ăn khoái khẩu vô độ thế gian? Lưỡi kia là nơi thân xác một Thiên Chúa nằm nghỉ liệu còn dám nói những lời chua cay, độc dữ gây bất hòa, chia rẽ, ghen ghét và thù oán không? Hơn nữa, các ấn tượng, các tâm tình có được khi tiếp xúc với Chúa Ki-tô phải dần dần ghi trong ánh mắt, nụ cười, trong điệu bộ đi đứng, để rồi có thể nói được rằng tất cả thái độ của con người đó như phảng phất bóng dáng thần linh, hoặc ít ra thì cũng không bao giờ tỏ ra điều gì là tầm thường, hẹp hòi, ích kỷ, lạnh nhạt… Sống ngược lại là làm buồn lòng Chúa Ki-tô vô cùng.

 

Lạy Chúa Giêsu, đã có biết bao trường hợp thân xác Chúa không được tôn thờ xứng đáng, bởi vì có nhiều người rước Chúa với tâm hồn đầy tội nhẹ đáng kể mà họ không muốn sửa chữa; nhiều người khác đón Chúa vào lòng với thái độ hờ hững, máy móc, không chút chú tâm và cung kính. Nhưng Chúa vẫn không muốn ai nói rằng những tâm hồn như thế thì không xứng đáng, trái lại, Chúa muốn họ cứ đón nhận Chúa, vì như thế họ mới có được sức sống. Lạy Chúa, đó là thái độ, cách sống và hành động của chúng con, xin Chúa tha thứ và chúng con hứa sẽ cố gắng xứng đáng hơn, xin Chúa giúp chúng con.

 

47.Bánh Hằng Sống

    (Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

 

Thiên Chúa đã nuôi dân Do Thái bằng mana xuyên suốt hành trình 40 năm trên đường về Đất Hứa. Thiên Chúa bồi bổ cho ngôn sứ Êlia bánh và nước trong cuộc đăng sơn Khôrep. Thiên Chúa ban Bánh Hằng Sống cho nhân loại đang lữ hành tiến về quê trời.

 

  1. Mana nuôi dân Chúa trong sa mạc

Trước bánh Thiên Chúa ban, con cái Israel liền hỏi nhau: “Man hu?”, nghĩa là: “Cái gì đây?”. Ông Môsê bảo họ: “Đó là bánh Đức Chúa ban cho anh em làm của ăn!”. Bánh Thiên Chúa ban, họ chỉ biết gọi là mana, một tên gọi dưới dạng câu hỏi. Vẫn còn đó khía cạnh mầu nhiệm cần được vén tỏ.

Theo “Từ điển Công Giáo”: Mana có gốc tiếng Hipri là (man hu – cái gì đây; x. Xh 16,15), là một loại thức ăn Thiên Chúa đã ban cho dân Israel trong sa mạc, trên hành trình về Đất Hứa. Mana rơi xuống quanh trại vào mỗi buổi sáng “giống như hạt ngò, màu trắng và mùi vị tựa bánh tráng tẩm mật ong” (Xh 16,31).

Điều quan trọng đối với Thánh Kinh không phải là bản chất thể lý, nhưng là giá trị tượng trưng của nó. Câu hỏi của con cái Israel “Man hu?” (Cái gì đây?) đã nói lên tích cách huyền nhiệm của nó. Mana tiêu biểu cho một ân huệ kỳ diệu của Thiên Chúa trong việc chăm sóc Dân Ngài.

Trong Tân ước Chúa Giêsu dùng Mana để chỉ “Bánh Bởi Trời”, “Bánh Trường Sinh” là chính Người, ban cho các tín hữu trong Bí Tích Thánh Thể” (Ga 6,32-35). (x.Từ điển Công giáo, trang 226).

 

  1. Bánh nuôi ngôn sứ Êlia lên núi Khôrep

Sau khi vua Salomon băng hà, đất nước Israel chia đôi: vương quốc Israel, phương Bắc, vương quốc Giuđa phương nam (1V 12). Tại Israel, vua Omri (885-874 tcn) đã lập một dòng vua mới và đặt kinh đô tại Samari. Con của Omri là vua Akháp (875 – 853 tcn) xây cất thành lũy và cung điện. Israel dưới thời Akháp khá thịnh vượng. Công việc thương mại tạo nên những tương quan thuận lợi với các nước lân bang, nhưng đồng thời cũng gây nên một tiêm nhiễm văn hóa và tôn giáo ngoại lai. Điển hình của việc suy đồi tôn giáo là cuộc hôn nhân của vua Akháp với Ideven, con gái vua Xiđôn (1V 16,29-34). Ideven du nhập đạo ngoại vào Israel, xây dựng đền thờ thần Baan tại Samari, tổ chức cộng đồng các Ngôn sứ thần Baan. Đạo Giavê bị bách hại. Chính trong hoàn cảnh đó, sách các Vua nói đến hoạt động của hai Ngôn sứ Êlia và Êlisê (1V17; 2V 13).

Ngay từ khi Israel đặt chân lên Canaan, tôn giáo Canaan và việc thờ thần Baan đã là mối ưu tư và nguy hiểm cho niềm tin vào Giavê. Mối nguy hiểm cũng như sự tiêm nhiễm đạo ngoại lai ấy ngày càng gia tăng qua sự phát triển kinh tế, tương quan thương mại với các dân tộc lân bang và đạt tới cao điểm vào thời Akháp. Đây không phải là việc từ bỏ đức tin truyền thống của cha ông vào Thiên Chúa Giavê, nhưng đúng hơn là sự pha trộn đạo Giavê với tôn giáo Canaan. Baan là vị thần của mưa gió, của sức mạnh thiên nhiên, của phú túc. Đối với dân, đây quả là vị thần lý tưởng cho cuộc sống chủ yếu là nông nghiệp thời bấy giờ. Êlia xuất hiện như vị anh hùng bảo vệ đạo Giavê, chống lại mọi pha trộn, mọi thỏa hiệp. Ông quả là người hùng của Thiên Chúa duy nhất và chân thật của Israel.

Cuộc so tài trên núi Carmen giữa Êlia và các ngôn sứ thần Baan được hoàng hậu Ideven bảo trợ, có mục đích cho dân nhận định rõ ai là Chúa thật tại Israel: Giavê hay Baan. Các ngôn sứ Baan làm mọi cách: kêu cầu, nhảy múa, rạch mình, nhưng không có hiệu quả. Êlia kêu cầu Thiên Chúa. Giavê trả lời bằng một phép lạ chứng tỏ Ngài là Chúa các năng lực thiên nhiên. Người chính là Thiên Chúa của toàn thể vũ trụ (1V 18,17 – 40).

Bài đọc 1 thuật lại cuộc hành trình của ngôn sứ Êlia trong sa mạc tiến đến núi Khôrép. Êlia chạy trốn trước sự trả thù bách hại của Ideven. Trên đường đi, Êlia đói lã và chán nản thất vọng. Sứ thần Chúa mang đến cho ông bánh và nước. “Ông dậy ăn bánh và uống nước. Rồi nhờ lương thực bổ dưỡng ấy, ông đi suốt 40 ngày, 40 đêm tới Khôrép là núi của Thiên Chúa”. Tại Khôrep, ông được gặp Đức Giavê. Ông lấy lại được niềm tin và tiếp tục sứ mệnh tái lập một Israel đích thực.

Bốn trăm năm đã trôi qua giữa ngôn sứ Môsê và ngôn sứ Êlia. Danh tiếng của hai vị được liên kết với đỉnh núi Khôrep, núi thánh của Đức Chúa. Hai nhận vật Cựu Ước danh tiếng lừng lẫy nầy sẽ cùng nhau tái xuất hiện trên đỉnh núi Tabor.

Các Giáo phụ nhìn 40 ngày hành trình của Êlia như gợi lại cuộc hành trình của Israel trong hoang địa tiến về đất hứa,40 ngày chay tịnh của Môisê (Xh 34,28), tiên trưng việc Chúa Giêsu ăn chay 40 đêm ngày trươc khi thi hành sứ vụ công khai. Các Giáo phụ cũng nhìn thấy nơi những chiếc bánh mà sứ thần trao cho Êlia là hình ảnh tiên báo phép Thánh Thể nuôi dưỡng tín hữu trên đường dương thế tiến về quê trời. Lương thực nuôi dưỡng Êlia trở thành biểu tượng cho của ăn đi đường cho Kitô hữu trong suốt cuộc hành trình trần gian. Các thế hệ Kitô hữu đã xem Êlia như võ sĩ vô địch về đức tin. Các đan viện, các dòng tu nhìn Êlia như vị tiền phong của mọi nổ lực từ bỏ nếp sống trần tục để đi vào trong thinh lặng và nội tâm, tìm kiếm Thiên Chúa. Đó là con đường đầy thử thách, nhưng chắc chắn sẽ gặp thần lương đi đường cho những ai có thiện chí.

 

  1. Bánh Hằng Sống nuôi tín hữu lữ hành về quê trời.

Chúa Giêsu Kitô là Bánh Hằng Sống, Bánh bởi Trời, Bánh ban sự sống cho cả nhân loại. Nhưng làm sao mà con người có thể lãnh hội được ngay mạc khải quan trọng ấy. Vì thế, đã có tiếng xầm xì to nhỏ: “Ông này chẳng phải là ông Giêsu, con ông Giuse đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: Tôi từ trời xuống?”. Người Do thái có đủ lý do để nghi ngờ những lời nói của Chúa Giêsu: Ngài đang sống ở giữa họ như một người giữa mọi người vậy mà Ngài bất ngờ tuyên bố mình từ trời xuống. Chúa Giêsu đòi hỏi họ hãy tin vì Ngài là Đấng ban sự sống và Ngài từ Chúa Cha mà đến. Ngài là Lời Hằng Sống của Thiên Chúa Cha. Gặp gỡ Ngài là gặp gỡ Thiên Chúa Hằng Sống. Chúa Giêsu khẳng định: “Tôi là Bánh Hằng Sống. Tổ tiên các ông đã ăn manna trong sa mạc nhưng đã chết. Còn bánh này là bánh từ trời xuống, ai ăn thì khỏi phải chết”. Chúa Giêsu tuyên bố: “Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”. Thánh Thể được mạc khải một cách minh nhiên ngay từ bây giờ với điểm nhấn trên hy tế cứu độ trong mầu nhiệm thập giá. Sự sống vĩnh cửu hàm chứa trong mầu nhiệm Thánh Thể.

Cho tới Bữa Tiệc Ly và Hy Tế Thập Giá, khi Chúa Kitô tự nguyện nộp mình, như hạt lúa bị nghiền nát để trở nên tấm bánh cứu độ cho tất cả nhân loại, người ta mới hiểu và tin vào lời mạc khải về Bánh Hằng Sống.

Từ bông lúa bị nghiền nát, từ chùm nho bị ép; nghĩa là từ cuộc khổ nạn và cái chết trên thập giá, Chúa Giêsu đã trở thành tấm bánh, thành ly rượu đem lại sự sống đời đời cho nhân loại.

Cuộc tử nạn của Chúa Giêsu chính là một hy lễ dâng lên Thiên Chúa Cha. Trong hy lễ này, Người vừa là tư tế vừa là lễ vật. Trên Thập giá, Chúa Giêsu đã đổ máu ra. Bằng cái chết cứu độ, Người đã thiết lập giao ước mới. Tự nguyện làm “Con Chiên Vượt Qua” bị sát tế, Chúa Giêsu đã lập phép Thánh Thể để lễ vật bị sát tế ấy là chính Người trở nên của ăn tâm linh nuôi dưỡng con người.

Chúa Giêsu ở giữa nhân loại trong Bí Tích Thánh Thể. Để trở nên nguồn sống tâm linh trong Thánh Thể, Chúa Giêsu đã đi qua Tử nạn và Thập giá.

Thánh Thể là Mình Chúa hy sinh bị nộp, bị giết vì chúng ta: “Đây là Mình Thầy hy sinh vì anh em”. Chén Máu của Chúa là Máu giao ước đổ ra, Máu của Đấng Cứu thế bị giết chết trên thập giá.

Thánh Thể, Tấm Bánh Chúa Kitô bẻ ra cho sự sống thế giới; Thánh Thể Mình Máu Chúa Kitô trao ban cho cả nhân loại; Thánh Thể tình yêu đã trở nên thực phẩm vun bồi sự sống cho hôm nay trên đường dương thế và cho mai sau trong hạnh phúc Nước Trời.

Trong cuộc hành trình tiến tới sự sống viên mãn với Thiên Chúa là Cha, chính Chúa Giêsu là lương thực bổ dưỡng con người.

Trong bài đọc 2, thánh Phaolô mời gọi các tín hữu hãy sống hoàn thiện theo mẫu gương của Ba Ngôi Thiên Chúa: sống theo Thánh Thần, bắt chước Thiên Chúa và thực hành đức ái như Đức Kitô. “Vậy anh em hãy bắt chước Thiên Chúa, vì anh em là con cái được Người yêu thương, và hãy sống trong tình bác ái, như đã yêu thương chúng ta, và vì chúng ta, đã tự nộp mình làm hiến lễ, làm hy lễ dâng lên Thiên Chúa tựa hương thơm ngào ngạt”. Những ai tin vào Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống, phải sống đức tin bằng đức ái.

Ai rước Mình Máu Chúa Kitô sẽ có sự sống Chúa Kitô. Chúa Kitô sống trong họ và họ được hiệp thông sống trong Người.

Ai nhận Mình Máu Chúa Kitô sẽ cùng tham dự một sự sống, nên trở thành anh em với nhau, sống đức ái và trở nên chứng nhân của Chúa Kitô.

 

Tạ ơn Chúa đã ban Bánh Hằng Sống, quà tặng tình yêu thần linh cho chúng con. Mỗi lần rước Bánh Thánh Thể với lòng sốt mến kính cẩn chúng con được cảm nến hương vị thiên đàng. Chúng con tạ ơn Chúa đã luôn nuôi dưỡng và dẫn đưa chúng con vào sự sống đời đời. Amen.

 

48.Bánh hằng sống

 

Steve Garwood là một nhà thầu tại tiểu bang South Carolina và là một thừa tác viên Thánh Thể của giáo xứ. Một hôm, sau Lễ Chúa Nhật ông mang Mình Thánh cho bệnh nhân. Trong khi bệnh nhân chuẩn bị, Steve đặt Mình Thánh Chúa đang được đựng trong một cái hộp nhỏ bằng vàng trên bàn thờ. Khi Steve đang quì và cúi đầu cầu nguyện thì bất chợt ông nhận ra rằng Chúa Giêsu đang ở bên. Sự nhận thức này đã làm cho ông thật sung sướng. Ông đã tả lại như sau:

 

“Máu đã dồn vào tai tôi, và tất cả những sợi tóc trên đầu tôi đều dựng đứng lên hết. Tôi đã cầu nguyện: ‘Lạy Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, xin hãy thương xót con, một kẻ tội lỗi. Ngài đang ở trước mặt con và Ngài hằng luôn chúc lành cho con’ (trích trong cuốn And You, Who Do You Say I Am?).

 

Câu truyện trên thích ứng với bài đọc Phúc Âm hôm nay vì nó nói lên niềm tin và lòng tôn kính đặc biệt nơi Chúa Giêsu Thánh Thể.

 

Thứ nhất, nó nhấn mạnh đến trung tâm mầu nhiệm của đức tin, đó là niềm tin mà người Công Giáo chúng ta tin rằng Chúa Kitô Phục Sinh đang sống với chúng ta cũng như Ngài đã sống trong thời xưa.

 

Giải thích rõ ràng hơn về mầu nhiệm này, Công Đồng Vaticanô II đã nói: “Chúa Kitô vẫn hằng luôn hiện diện trong Giáo Hội, nhất là trong những khi cử hành phụng vụ. Ngài hiện diện trong Thánh Lễ, trong con người linh mục… và nhất là trong phép Thánh Thể. Chúa Kitô hiện diện trong các bí tích bằng quyền năng của Ngài. Qua đó, khi một ai đó lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội chẳng hạn, thì chính là Chúa Giêsu rửa tội cho người đó. Chúa Giêsu còn hiện diện qua những lời Phúc Âm. Khi Giáo Hội tuyên bố Phúc Âm thì những lời đó chính là Chúa Giêsu phán. Sau hết, Ngài còn hiện diện khi Giáo Hội cầu nguyện và ca hát bởi chính Ngài đã hứa: “Ở đâu có hai ba người tụ lại cầu nguyện với Danh Ta, thì Ta ngự ở giữa họ” (Constitutin on the Sacred Liturgy).

 

Trong tất cả mọi cách, Chúa Giêsu hiện diện giữa chúng ta, Bí Tích Thánh Thể vẫn là cách đặc biệt nhất. Điều này được giải thích trong bài Phúc Âm hôm nay: “Ta là bánh ban sự sống… Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là Thịt Ta, để cho thế gian được sống.”

 

Và như thế, chúng ta thấy câu truyện của Steve Garwood nhấn mạnh mầu nhiệm chính yếu của đức tin, đó là Chúa Giêsu Phục Sinh ngự giữa chúng ta qua Bí Tích Thánh Thể một cách sống động như thời xưa.

 

Do đó, người Công Giáo có lòng tôn kính đặc biệt đối với Bí Tích Thánh Thể. Cũng giống như Tôma, người môn đệ đã quì gối xuống trước mặt Chúa Giêsu Phục Sinh và thốt lên: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa con!” (Gn 20:28) Nhiều khi, chúng ta cũng cần phải quì gối xuống một lát và nói với Chúa Giêsu Thánh Thể điều mà Tôma đã nói: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa con!”

 

Lạy Chúa, xin cho chúng con thêm niềm tin để chúng con có thể nhận ra Máu Thịt của Con Ngài trong tấm bánh mà chúng con sẽ cùng nhau cử hành một lát nữa đây.

 

49.Của ăn đường

    (Suy niệm của Lm. Vũ Xuân Hạnh)

 

Khi nói đến “Của Ăn Đường”, ta thường nghĩ đó là việc trao Mình Thánh Chúa cho người chuẩn bị từ giả cuộc đời. Mình Thánh Chúa hay Của Ăn Đường mà những anh chị em nhận lãnh lúc sắp ra đi, sẽ giúp họ thêm lòng yêu mến, thêm sức mạnh của đức tin, thêm nghị lực thiêng liêng để bước vào giờ phút cuối cùng của cuộc đời. Có lẽ suốt cả hành trình cuộc sống, không có lúc nào làm người ta lo âu và sợ hãi cho bằng giờ phút cuối cùng ấy. Chết là thử thách cuối cùng, nhưng lại là thử thách lớn của đời người. Chính vì là thử thách lớn, Của Ăn Đường càng trở nên cần thiết và quan trọng để người ra đi được tiếp sức, đủ nghị lực mà trở về nhà Cha.

Bởi thế, nói đến Của Ăn Đường, ta nghĩ đến giờ phút cuối của từng cuộc đời con người là đúng lắm. Giáo Hội vẫn hiểu như thế. Nhưng nếu chỉ dừng lại ở đấy thì thật là thiếu sót. Vì cả cuộc đời ta được ví như một người lữ hành, thì Của Ăn Đường đâu chỉ có ở giây phút cuối cùng, đâu phải chỉ là lúc gần đến đích. Đúng hơn, ý nghĩa của cụm từ Của Ăn Đường mà ta cần nhấn mạnh đó là: lương thực nuôi sống trên suốt chặng đường dài mà người lữ hành phải đi. Bởi thế, chỉ duy nhất có Mình Máu Thánh Chúa Kitô mới là Của Ăn trên mọi của ăn, cần thiết trên mọi điều cần thiết cho hành trình thiêng liêng của mỗi cuộc đời, của chính bạn và của chính tôi.

Ý niệm về Của Ăn Đường, đâu chỉ có trong thời Tân Ước. Từ ngàn xưa, khi mà dân riêng của Chúa lang thang bốn mươi năm trường trong sa mạc, làm bạn một cách bất đắc dĩ với không biết bao nhiêu khó khăn: gió, cát, sức nóng của ban ngày, cái lạnh cắt da của đêm thâu, đói, khát, rắn độc… thì của ăn đường đã xuất hiện: Manna và nước chảy từ đá giữa sa mạc khô đã nuôi sống dân trên hành trình chông gai của họ. Họ đã sống để tiến vào Đất Hứa, nơi mà họ có thể đặt nguồn hy vọng chan chứa nhưng cũng là niềm hy vọng duy nhất đưa họ vượt qua bao nhiêu gập gềnh, chông chênh, nhiều phen tưởng như quỵ ngã.

Chưa dừng lại ở đó. Ý niệm về Của Ăn Đường lặp lại trong sách Các Vua quyển thứ I. Bài đọc 1 hôm nay là đoạn trích cho thấy ý niệm về Của Ăn Đường ấy. Đó là câu chuyện liên quan đến tiên tri Êlia. Trong nỗi khốn cùng của cái đói, cái khát giữa cảnh cháy khô da người của sa mạc, cũng chính lúc ấy, là nỗi khổ của một kẻ chạy trốn vì hoàng hậu Giêgiaben đang tìm giết, dẫu là người rất can đảm, Êlia cũng đã phải thốt lên: “Lạy Đức Chúa, đủ rồi! Bây giờ xin Chúa lấy mạng sống con đi, vì con chẳng hơn gì cha ông của con” (1V 19, 4). Nhưng Thiên Chúa đã nhìn thấy ông. Người nhận ra tất cả những hoàn cảnh mà ông cam chịu. Người cứu ông. Ông đã nhận từ tay thiên thần của Thiên Chúa chiếc bánh lùi và bình nước uống. Bánh và nước – của ăn đường mà ông lãnh nhận đã tiếp sức cho ông, giúp ông đi hết chặng đường dài đến bốn mươi ngày, bốn mươi đêm. Bánh từ trời đã nuôi sống con người, đó cũng là sự biểu lộ của tình trời cao đối với người trần thế: Thiên Chúa đã yêu thương, mãi mãi vẫn một lòng yêu thương như thế.

Nếu ngày xưa dân Chúa lữ hành tiến về đất hứa, và cuộc lữ hành của tiên tri Êlia đều đã được nuôi dưỡng bởi của ăn đường đến từ trời cao, để tất cả cùng đi về đích bình an, thì trên đường lữ hành trần gian của người Kitô hữu hôm nay có phần giông giống những gì thuộc về ngày xưa ấy. Chỉ khác là hôm nay, những người Kitô hữu hy vọng trời cao, hướng về đất hứa, không phải chỉ là “đất chảy sữa và mật” mà thôi, nhưng là vùng đất vĩnh cửu. Vì lữ hành tiến về vĩnh cửu, người Kitô hữu cũng có Của Ăn Đường, không phải là manna và nước chảy từ đá, hay chiếc bánh lùi và bình nước của thiên thần, nhưng là lương thực vĩnh cửu, thần lương quý giá vô cùng: chính là Thịt Máu Chúa Kitô.

Chính Chúa Kitô đã mạc khải Mình Máu của Người là của ăn vĩnh cửu cho ta: “Ta là bánh bởi trời xuống, ai ăn bánh này thì khỏi chết. Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban chính là thịt Ta để cho thế gian được sống”. Đường về vĩnh cửu phải có Của Ăn Đường vĩnh cửu. Người trần thế tiến về vĩnh cửu phải có Đấng từ vĩnh cửu đến trần thế ban Thịt Máu mình làm Của Ăn Đường vĩnh cửu. Và như thế, Chúa Kitô: Của Ăn Đường quý giá, Nguồng Sống vĩnh cửu của chúng ta.

Là Của Ăn Đường quý giá, cần thiết cho mỗi Kitô hữu trên đường tiến về vĩnh cửu, vì thế Mình Thánh Chúa Kitô là nguồn sức mạnh, là tất cả sự sống đích thực của chúng ta. Bởi vậy, mỗi lần tham dự thánh lễ, bạn và tôi hãy chuẩn bị tâm hồn cẩn thận, hãy mở rộng lòng sẵn sàng đón Chính Chúa Kitô ngự đến trong hồn ta. Linh mục Phêrô Trần Thanh Sơn, trong bài “Thiên Chúa rất gần” (Chúa nhật 17 thường niên) đã từng mời gọi hãy siêng năng hiệp lễ bằng lời nhắc nhỡ khéo léo và tha thiết: “Thế nhưng, chúng ta vẫn thấy còn rất nhiều người ở giữa chúng ta, nhất là các bạn trẻ đi tham dự Thánh Lễ, nhưng lại chẳng cần Hiệp Lễ. Như vậy, chúng ta có khác gì một người đi tham dự một bữa tiệc, nhưng đến nơi, chúng ta chẳng chịu ăn, cứ ngồi nhìn người khác ăn, thì điều chắc chắn là sau đó, chúng ta phải mang bụng đói trở về nhà. Và nhiều lần “nhịn đói” như thế, chúng ta sẽ trở thành “suy dinh dưỡng”, và hậu quả tất yếu đối với những người “suy dinh dưỡng” là họ sẽ không đủ sức để làm bất cứ việc lành nào, và rất dễ mắc bệnh, tức là phạm tội khi bị các “vi trùng” tức là các cơn cám dỗ của ma quỷ tấn công”.

Và tôi chợt nghĩ, một người đói và suy dinh dưỡng, thiếu ơn Chúa, thiếu nguồn sức mạnh từ nơi Thiên Chúa, chắc chắn sẽ không đi hết con đường của mình, nếu không muốn nói là sẽ đổ quỵ và đổ quỵ một cách bi đát.

 

50.Chúa Nhật 19 Thường Niên

      Minh Họa Lời Chúa

 

CHÚA GIÊSU LÀ BÁNH HẰNG SỐNG TỪ TRỜI XUỐNG

 

  1. Cuộc sống trường sinh

Sau khi Kha Luân Bố khám phá Mỹ châu, một người Tây-ban-Nha tên là Ponce de Lion nghe đồn ở Tân thế giới có ngọn suối trường sinh. Ông liền sắm thuyền vượt biển sang Nam Mỹ tìm. Và trước Chúa Giáng Sinh khoảng 2000 năm, hoàng đế Trung Hoa tên Tần Thủy Hoàng muốn được trường sinh bất tử. Ông nghe các nhà chiêm tinh nói ở biển Đông có hòn đảo thần, dân ở đó khám phá ra bí quyết trường sinh. Ông liền phái một số tàu thuyền chở đầy châu báu đến đó đổi lấy bí quyết trường sinh, nhưng dân chúng ở đó không chịu đổi

***

Những câu chuyện trên muốn nói lên điều gì? Nói lên con người thời nào cũng muốn trường sinh bất tử. Đó là ước mơ ngàn đời của loài người. Mỗi lần thấy một người nằm xuống là ước mơ này cũng dày vò con người mãnh liệt hơn.

 

Trong Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu tự giới thiệu Người là “Bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời… Ai tin thì được sống đời đời” (Ga.6,50-51)

 

Chúa Giêsu mạc khải cho chúng ta cuộc sống nơi trần gian này không phải là cuộc sống duy nhất và chết không phải là hết. Còn có một cuộc sống mai hậu không bao giờ chấm dứt. Đó là cuộc sống trường sinh, cuộc sống vĩnh cửu.

 

Khi nghe Chúa Giêsu tuyên bố “Người là Bánh trường sinh từ trời xuống”. Dân Do thái không tin, họ xầm xì phản đối, vì họ chỉ nhận Người là con ông Giuse thợ mộc nghèo khó mà họ quen biết. Mãi đến khi họ thấy Người từ cõi chết sống lại, họ mới nhận ra Người là Con Thiên Chúa từ trời xuống cứu thoát họ khỏi chết, đem đến cho mọi người sự sống đời đời.

 

Chính vì tin nhận mầu nhiệm trường sinh này mà hôm nay chúng ta đến nhà thờ đây, để nghe Chúa Giêsu nói về cuộc sống vĩnh cửu, để được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa, nhất là bằng Mình Máu thánh Người là “Bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết’. (Ga.6,50).

 

Ngọn suối trường sinh mà Ponce de Lion người Tây-ban-Nha đã khổ công đi tìm kiếm, bí quyết sống vĩnh cửu mà Tần Thủy Hoàng cho người đến tận các đảo thần tiên đổi lấy hiện đang ở trước mặt chúng ta trong Bí tính Thánh Thể.

 

Muốn được trường sinh bất tử, muốn sống đời đời trong tương lai, mỗi người chúng ta chỉ cần đến rước lấy Mình Máu Thánh của Đấng là Bánh Hằng Sống từ trời xuống…

(Theo “Sunday Homilies”).

 

  1. Trường sinh bất tử

Chuyện thần thoạt Hy-lạp kể: Sivil là người phục vụ đền thờ, có nhiều công trạng. Khi được hỏi muốn được thưởng thế nào cho xứng với công khó của mình, bà trả lời:

– Xin cho tôi được trường sinh bất tử…

Thế là bà được toại nguyện. Tất cả người thân và bạn hữu bà đều chết hết, chỉ còn lại một mình bà. Nhưng dù không chết, thân bà ngày càng tàn tạ teo héo, bệnh tật ngày càng gia tang, nên bà không còn muốn được sống trường sinh nữa, chỉ muốn chết thôi.

***

Con người thời nào và ở đâu cũng muốn được trường sinh bất tử. Nhưng trường sinh bất tử mà phải triền miên đau khổ bệnh tật thì nào có ích lợi gì, thà chết còn hơn…

 

Cuộc sống trường sinh Chúa Giêsu nói trong Tin mừng hôm nay không phải ở cõi đời này. Nó chỉ đến với con người trong cuộc sống mai sau. Để được sống trường sinh con người phải lìa bỏ đời này. Muốn được sống muôn đời, họ phải trải qua đau khổ, bệnh tật, chết chóc. Tuy nhiên không vì hướng đến cuộc sống vĩnh viễn đó mà họ được xao nhãng cuộc sống hiện tại. Trái lại họ phải biết rằng: hạt giống vĩnh cửu được gieo vãi và nảy mầm tại cuộc sống đời này. Họ phải làm sao cho hạt giống đó trổ sinh tươi tốt bằng đời sống lương thiện, yêu thương bác ái. Đặc biệt đối với các Kitô hữu, họ còn cần phải vun trồng cuộc sống trường sinh đó bằng tin cậy mến Chúa, bằng lắng nghe và thực hành Lời Chúa, bằng lương thực thiêng liêng là Mình Máu Thánh Chúa Giêsu: “Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là Thịt Ta, để cho thế gian được sống” (Ga.6,51) (Theo “Phút cầu nguyện cuối ngày, tập I).

 

  1. Trên đường về quê

Lúc ông Theodore Roosevelt làm tổng thống Hoa Kỳ, một kỳ nghỉ hè ông sang Phi châu săn bắn hươu cao cổ để giải trí.

 

Lúc trở về Hoa Kỳ, ông cùng đi một chuyến tàu với nhà truyền giáo đã 40 năm hy sinh giảng đạo nơi vùng xa xôi hẻo lánh bên Phi châu. Khi tàu cập bến, nhà truyền giáo thấy cảnh các nhân vật trong chính phủ và dân chúng đứng sẵn trên bờ đón chào tổng thống đi săn về, không ai để ý đến ông. Ông lủi thủi một mình lên bờ, tủi phận nên phàn nàn với Chúa:

  • Chúa có thấy không? Ông tổng thống đi nghỉ hè săn bắn trở về mà người ta còn tiếp rước nồng hậu như thế. Còn con đã hy sinh phục vụ Chúa 40 năm trời trở về, không một người nghĩ đến con. Thật là bất công tủi hổ cho con quá! Phải biết vậy, con không đi giảng đạo làm gì.

Chúa liền thầm thỉ trong lòng ông:

  • Con chưa trở về quê hương thật của con mà

***

Có thể chúng ta cũng phàn nàn với Chúa như nhà truyền giáo đó. Chúng ta đã giảng đạo Chúa nhiều năm, chúng ta đã sống đạo Chúa nhiều ngày, nhưng cảm thấy mình chưa được Chúa thưởng công gì, mà lắm lúc còn phải khổ cực gian nan đủ thứ.

 

Câu Chúa trả lời cho nhà truyền giáo trong câu chuyện trên cũng là câu trả lời của Chúa cho mỗi người chúng ta: “Con ơi! Con chưa trở về Quê Hương thật của con. Ngày nào con trở về Quê Thật, con sẽ thấy Cha tiếp đó con nồng nhiệt thế nào!…

 

Thế gian này chỉ là nơi chúng ta sống tạm để lập công nghiệp, để chuẩn bị cho cuộc sống mai hậu trường sinh hạnh phúc. Chúng ta cứ cố gắng hết khả năng phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân, thay vì bận tâm lo lắng tích lũy cho bản thân, ganh tỵ với may mắn của kẻ khác.

 

Đặc biệt chúng ta là các Kitô hữu, chúng ta sẽ nhờ Thánh Thể Chúa Kitô mà đạt được cuộc sống trường sinh, như Lời Chúa Giêsu hứa với chúng ta trong Tin mừng hôm nay: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời” (Ga.6,51).

 

“Sự sống muôn đời mời gọi mỗi người chúng ta hãy sống thế nào, hành động ra sao, để đến giờ được Chúa gọi về Quê Hương Thật, chúng ta không lo sợ chi mà còn vững tâm an lòng đi vào cõi sống hạnh phúc trường sinh. Nhớ đến sự sống vĩnh cửu đời sau sẽ giúp mỗi người chúng ta sống trọn vẹn, sống tốt đẹp cuộc sống đời này. Sở dĩ nhiều người sống buông thả vô luân là vì họ không thường nghĩ gì đến sự sống đời đời của họ. Thánh Phaolô đã khóc lóc than phiền hạng người đó:

 

“Như tôi đã nói với anh em, và bây giờ tôi phải khóc mà nói lại, có nhiều người sống đối nghịch với thập giá Đức Kitô: chung cuộc là họ sẽ phải hư vong. Chúa họ thờ là cái bụng, và cái họ lấy làm vinh quang lại là cái đáng hổ thẹn. Họ là những người chỉ nghĩ đến những sự thế gian. Còn chúng ta, quê hương của chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu-Kitô từ trời đến cứu chúng ta”. (Pl.3,18-20) (Theo “Phút cầu nguyện cuối ngày”, tập I).

 

  1. Sống sung mãn từng giây phút

Ngụ ngôn Mông Cổ có câu chuyện sau: Một hôm con phượng hoàng hỏi con quạ:

  • Anh quạ ơi! Sao anh sống được 300 năm, còn chúng tôi chỉ sống được 33 năm tuổi?

Con quạ hỏi ngược lại:

  • Thế tại sao bạn chỉ uống máu tươi, còn chúng tôi phải sống bằng xác chết?

Con phượng hoàng nghĩ ngợi:

  • Hay là chúng tôi thử ăn xác chết như anh quạ xem sao! Coi có sống được lâu hơn không?

Thế là cả hai cùng bay lượn tìm mồi. Thấy con ngựa chết thúi, cả hai cùng lao mình xuống. Con quạ như trúng số độc đắc, nó ăn lấy ăn để cách ngon lành. Trong khi đó con phượng hoàng mổ một cái rồi dừng lại, nó rán thử một lần nữa, nhưng rồi lắc đầu bảo quạ:

  • Anh quạ ơi! Tôi không thể ăn nữa được, thà một lần uống máu tươi, còn hơn 300 năm ăn đồ hôi thúi!

***

Bài học của câu chuyện trên là: một khoảnh khắc sống sung mãn có giá trị hơn một cuộc sống kéo lê trong bùn nhơ hôi thối. Có những cuộc sống kéo lê trong bùn nhơ hôi thối của trụy lạc, của tham lam, ích kỷ, hận thù, nhưng cũng có những cuộc sống tuy ngắn ngủi, mà sung mãn của những người biết sống xả kỹ, hy sinh, lương thiện…

 

Một người Do thái viết cuốn sách tựa đề “Khôn ngoan” như sau: “Người đức nghĩa dầu chết sớm cũng tìm được an nghỉ. Tuổi thọ đáng kính đâu phải nhiều năm hay đo bằng số tuổi. Nhưng tuổi đời chính là sự khôn ngoan và một cuộc sống thọ là một cuộc sống không vết nhơ. Vì đẹp lòng Thiên Chúa, người đức nghĩa được Ngài yêu mến, bởi phải sống giữa những tội nhân nên được cất đi. Người ấy được cất đi kẻo sự dữ làm phôi phai trí khôn và quyến rũ tâm hồn. Bởi vì tật xấu làm mờ sự lành và đam mê quay cuống làm tiêu ma tinh thần chất phác”.

 

Thiên Chúa không để con người sống mãi trong cuộc sống tại thế, vì còn có một cuộc sống đáng quý hơn. Đó là cuộc sống vĩnh cửu. Có những giá trị cao cả gấp bội phần sự sống, sức khỏe và mọi thứ của cái trên thế giới, do đó giá trị của cuộc sống không phải là tuổi đời của cuộc sống, không phải là tuổi đời chồng chất, không phải là danh vọng hão huyền, mà là chính sự sống vĩnh cửu. Sống chính là dệt nên cuộc sống vĩnh cửu ấy qua từng khoảnh khắc trong cuộc sống tại thế. Và bí quyết dệt nên cuộc sống vĩnh cửu đó chính là nhận lãnh Thánh Thể Chúa Giêsu, như Lời Người đã xác quyết trong Tin mừng hôm nay: “Tôi là bánh trường sinh. Tổ tiên các ông đã ăn bánh man-na trong sa mạc nhưng đã chết. Còn bánh này là bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi chết” (Ga.6,48-50) (Trích “Chờ đợi Chúa”).

  1. Cuộc sống vĩnh cửu

Tại Phi luật Tân, cách thủ đô Manila chừng 200 cây số, có một trại tỵ nạn do quốc gia Hoa Kỳ tổ chức, nhằm chuẩn bị cho những người tỵ nạn Đông Dương chờ vào sống trong xã hội Mỹ.

 

Trại được tổ chức như một thành phố nhỏ: có trường học, chợ búa, đường xá, bưu điện… Tất cả cố gắng của người tỵ nạn đều được dồn vào hai mục địch: Đó là học Anh ngữ, và tập sống nếp sống một cách rất khít khao, để tạo cho người tỵ nạn cái cảm tưởng là họ đang sống trên đất Mỹ, nơi mà giờ rảnh được coi là xa xỉ.

***

Cứu cánh tối hậu của con người là sự sống vĩnh cửu. Do đó cuộc sống tạm bợ trên trần gian này chỉ có giá trị khi nó là một chuẩn bị để bước vào vĩnh cửu. Chúng ta hãy tập sống làm sao để mỗi giây phút, mỗi việc làm, mỗi cuộc gặp gỡ của chúng ta đều là một sinh hoạt trong cuộc sống vĩnh cửu.

 

Đặc biệt chúng ta chuẩn bị cho cuộc sống vĩnh cửu đó bằng cách năng dọn mình rước Chúa Giêsu vào tâm hồn chúng ta. Vì trong Tin mừng hôm nay, Người tự giới thiệu: Người là bánh ban cho chúng ta sự sống trường sinh: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời” (Ga.6,5).

 

Không ai trong chúng ta có thể tưởng tượng được cuộc sống đó như thế nào, chỉ biết rằng tình yêu là giá trị sẽ mãi mãi tồn tại ở đời sau. Và chỉ có tình yêu mới thắng được sự chết, và tất cả những gì trói buộc con người trong giới hạn của cuộc sống này. Hãy sống mỗi phút giây của cuộc sống này như hương vị ngọt ngào của mai hậu.  (Trích “Như lòng Chúa khoan dung”).

 

51.Bánh Hằng Sống

     (Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)

 

Nếu chúng ta gặp một người tuyên bố rằng: “Ta từ trời mà đến”, chúng ta nghĩ sao? Chúng ta có tin được không? Đứng trước những lời tuyên bố lạ thường của Chúa Giêsu, đám đông dân chúng không thể tin được, tất nhiên họ phản đối. Vì thế, họ xầm xì với nhau: “Ông này là con ông Giuse, tại sao ông ấy dám tuyên bố là Bánh bởi trời xuống?” Họ biết cha mẹ và dòng họ của Ngài. Có lẽ Chúa Giêsu muốn gây “sốc” để từ đó tạo ra một thắc mắc và sau đó giải quyết vấn đề.

Chúng ta cũng thế thôi. Chúng ta thường căn cứ vào “lý lịch”, hay căn cứ vào những gì mình đã biết, nhất là vào thời của chúng ta: phải có lý lịch mới được công nhận. Đó là căn bản.

Khi Ngài về Nadareth, quê hương của Ngài, không mấy ai tin Ngài, vì nơi đó lý lịch của Ngài quá rõ, không ai có thể chấp nhận sự thông thái của Ngài vì họ biết, Ngài chỉ là một anh thợ mộc dốt nát.

Lý lịch trở thành một rào cản không cho phép người ta đi xa hơn. Nó ràng buộc một con người trong khung cảnh nhỏ hẹp của họ. Ngài là con ông thợ mộc, thì suốt đời Ngài cũng chỉ là con ông thợ mộc mà thôi.

Điều này không gây trở ngại cho Chúa Giêsu. Ngài khẳng định: “Anh em biết tôi là con ông thợ mộc, nhưng không chỉ là con ông thợ mộc. Đó chỉ là lý lịch thôi. Tôi vượt xa hơn thế.”

Ngài tuyên bố những lời rất “khó nghe”: “Các ông đừng xầm xì nữa. Chẳng ai đến được với tôi nếu Chúa Cha, Đấng đã sai tôi không lôi kéo người ấy”.

“Không ai đến được với tôi”, tức là tôi không thuộc về mảnh đất này, môi trường này, tôi thuộc về nơi khác, tôi ở nơi Chúa Cha. Ngài muốn ám chỉ mối liên hệ sâu xa của Ngài với Chúa Cha. Chính Chúa Cha “kéo” chúng ta đến với Ngài chứ không phải chúng ta tự mình đến với Ngài. Ngài là Đấng Chúa Cha đã ghi dấu và sai đến, thì chính Chúa Cha cũng kéo chúng ta đến với Ngài.

Dân Do Thái thắc mắc về lý lịch của Ngài và không muốn vượt qua rào cản đó, vì họ không được Chúa Cha lôi kéo. Họ dừng lại ở những dữ kiện bên ngoài mà quên những yếu tố bên trong. Con người là một huyền nhiệm vì họ mang một thực tại siêu linh và một sự sống thiêng liêng mà con mắt phàm trần không thể nhìn thấy. Đánh giá một người dựa trên lý lịch là một sự thiển cận tai hại.

Ông Giêsu Nadareth, ông thợ mộc ấy không chỉ là ông thợ mộc. Nếu chúng ta dừng lại nơi những sự kiện vật chất, chúng ta sẽ không thể khám phá huyền nhiệm của Ngài.

Để trả lời cho những thắc mắc của người Do Thái, Chúa Giêsu mạc khải Chúa Cha. Nhiều lần, Ngài đã tự xưng mình là Con của Chúa Cha, nhất là trong những lần tranh luận với đám Pharisêu. Nhưng họ có hiểu đâu! Và họ lại ném đá Ngài.

Trong xã hội hôm nay, người ta chỉ căn cứ vào lý lịch để đánh giá một người. Trong Giáo Hội lắm khi cũng vậy, chúng ta đánh giá theo lý lịch. Lý lịch đôi khi cũng giúp chúng ta tìm hiểu về nhân cách hay nguồn gốc của một người, nhưng còn những yếu tố khác cũng quan trọng, giúp chúng ta khám phá ra tâm hồn của một người. Thường chúng ta dán nhãn cho một người và xếp hạng họ vào một loại nào đó mà quên rằng con người có thể biến đổi, chúng ta không nhìn thấy những hy sinh, chịu đựng của một người để sống tốt hơn. Chúng ta căn cứ vào những lỗi lầm của dĩ vãng mà không nhìn thấy những đổi mới nơi một người. Trong Giáo Hội mọi thời vẫn có những người như thánh Âutinh, những Charles de Foucauld, những Mađalêna … Những con người trở về từ rất xa. Cần cố gắng nhìn những hồng ân của Chúa nơi người khác.

Bè phái Pharisêu sai lầm và không thoát ra được khỏi sự lầm lạc của mình và họ đã đi đến sai lầm cuối cùng là đóng đinh Chúa Giêsu.

Chúa Giêsu vẫn không ngại tuyên bố, không úp mở về chính Ngài: Ngài là Đấng Chúa Cha đã ghi dấu và sai đến. Ngài là người đã “thấy Chúa Cha”. Con người duy nhất đã thấy Chúa Cha và mạc khải Người cho chúng ta. Và Ngài đòi hỏi phải tin vào Ngài mới có sự sống đời đời.

Chúng ta có tin không? Niềm tin của chúng ta được đánh giá bằng gì? Bằng một vài hành động đạo đức, bằng việc dự lễ, rước lễ và vài ba câu kinh hấp tấp?

Tin vào Chúa Giêsu chính là sống như Ngài đã sống, khiêm nhượng và hiền lành, yêu thương không tính toán, là sống trong tình yêu của Chúa Cha.

Tin là ăn lấy Ngài vì Ngài chính là Bánh Trường Sinh. Chỉ có Ngài mới làm cho sống. Ngài đã tuyên bố mạnh mẽ rõ ràng: “Tôi là Bánh từ trời xuống… Và Bánh tôi ban tặng chính là Thịt Tôi đây”.

Chỉ có Ngài mới dám tuyên bố những lời như thế mà không sợ bẽ mặt, vì Ngài nói và làm đúng như đã nói. Ngài là Thiên Chúa quyền năng đã đến trong trần gian. Con người của chúng ta hồ nghi vì chúng ta đã quá quen với những lời tuyên bố trống rỗng, chúng ta trở nên đa nghi. Người Do Thái xưa cũng đa nghi và họ không thể tin vào ai được vì có quá nhiều tiên tri giả.

Chúng ta vẫn có thể vững tin dù cho mọi người không dám tin. Chúng ta là những người đến sau, chúng ta có đủ bằng chứng để không thể hồ nghi. Đó là Chúa Giêsu đã chết và sống lại. Niềm tin của chúng ta được đặt trên sự sống lại vinh hiển của Ngài chứ không còn thắc mắc như dân Do Thái xưa kia nữa; nhưng chúng ta vững tin rằng, Ngài là Con Thiên Chúa hằng sống.

Hãy đến ăn lấy Ngài trong tin tưởng và hân hoan: “Phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa”. Bàn tiệc thiên quốc đang mời gọi mỗi Kitô hữu. Chúng ta hãy ăn lấy Bánh Tình Yêu để sống trong tình yêu và loan truyền Tình Yêu.

 

52.Bánh Hằng Sống

     (Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)

 

Đây là đoạn thứ ba trong chương 6 của Tin Mừng thánh Gioan, nói về Bánh Hằng Sống. Tin Mừng về Bánh Hằng Sống nầy đã được chuẩn bị bằng phép lạ Chúa hóa bánh ra nhiều để cho đoàn dân ăn no trong sa mạc.

 

Dân chúng hứng thú chạy theo Chúa và muốn tôn Ngài làm vua, vì họ cũng nghĩ rằng Ngài là vị tiên tri đã được nói đến trong Kinh Thánh.

 

Chúa dùng phép lạ nầy để cho dân chúng thấy, của ăn vật chất chỉ là tạm bợ, có một thứ của ăn mang lại sự sống trường tồn, của ăn quí giá ấy chính là  Ngài, là Bánh từ trời xuống: “Tôi là bánh từ trời xuống”.

 

Đứng trước những lời tuyên bố lạ thường ấy, dân chúng phản đối. Họ không thể chấp nhận được, vì họ biết rõ nguồn gốc, cha mẹ, bà con của Ngài. Và điều nầy cũng dễ hiểu thôi. Trong xóm chúng ta có ai đó nói là họ từ trời xuống, chúng ta có tin được không? Hay chúng ta cho người đó là khùng điên?

 

Đứng trước sự cứng tin của dân chúng, Chúa Giêsu không nhượng bộ. Ngài tiếp tục nói về nguồn gốc thần linh của Ngài, Ngài khẳng định bằng những lời lẽ minh bạch: “Chẳng ai đến được với tôi nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi không lôi kéo người ấy và tôi, tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết”.

 

Có ai dám nói những lời táo bạo như thế? Ngài là ai mà dám mời gọi mọi người đến với Ngài, và hơn nữa, ai đến với Ngài là do Chúa Cha lôi kéo? Chỉ có Thiên Chúa mới dám nói những lời táo bạo như thế? Những tiếng nói của con người bằng xương bằng thịt, mang một nội dung huyền bí vượt hẵn những thời gian và không gian: “Ta là bánh bởi trời xuống… Bánh Cha Ta ban cho thế gian…” Chúa nói những lời bí nhiệm để khơi lên trong chúng ta những thắc mắc, những nghi vấn, để đánh thức chúng ta, vì chúng ta dễ ngủ quên trong những đòi hỏi vật chất làm chúng ta quên đi những gì cần thiết và quan trọng hơn. Con người còn thắc mắc là còn hy vọng. Ngủ yên trong hưởng thụ là chìm vào hư vô.

 

Qua những lời nói khó hiểu của Ngài, Ngài tỏ lộ càng ngày càng rõ nét khuôn mặt thần linh của Ngài. Ngài nhắc đến Chúa Cha, Đấng đã sai Ngài. Như thế, Ngài khẳng định nguồn gốc thần linh của Ngài. Người Do Thái nhắc đến nguồn gốc nhân loại của Ngài, nhưng Ngài vẫn khẳng định: Cha Ngài là Đấng đã sai Ngài, là Đấng lôi kéo mọi người đến với Ngài… chỉ có Ngài thấy Chúa Cha…

 

Chúng ta thấy Ngài muốn chứng minh cho mọi người nguồn gốc và quyền uy thần linh của Ngài. Ngài là con người thật và là Thiên Chúa thật. Đối với người Do Thái thời bấy giờ, những lời đó thật khó chấp nhận, nhưng đối với chúng ta, những kẻ tin, những lời đó thật minh bạch cứng rắn. Chúng ta có cảm thấy vui mừng khi nghe những lời nầy không?

 

Những lời nầy chứng minh rằng đức tin của chúng ta thật vững chắc vì chúng ta không chỉ tin vào một con người mà tin vào Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa đến với chúng ta, chính Thiên Chúa nuôi dưỡng chúng ta bằng chính thịt máu Ngài…

 

Xưa kia tiên tri Êlia, hoàn toàn thất vọng về chính mình, thất vọng về Thiên Chúa, ông chỉ muốn chết đi cho rồi. Nhưng Chúa đã cho ông ăn bánh trong sa mạc và ông đã đi suốt con đường dài bốn mươi đêm ngày để đến núi của Chúa. Nay chúng ta ăn thịt Con Thiên Chúa. chúng ta sẽ đủ sức để đi suốt con đường dài trần thế để đến bến trường sinh.

 

Chúng ta là con người mù ngồi bên vệ đường của cuộc đời, những người què quặt ở bờ hồ Bêdatha, được nuôi dưỡng bằng thịt máu Con Thiên Chúa, chúng ta có thấy được tình yêu của Chúa không? Chúng ta có thấy hạnh phúc không? Nếu chúng ta biết được hồng ân của Chúa, chúng ta sẽ hạnh phúc biết bao!

 

Chúa Giêsu chỉ đòi hỏi một điều: tin vào Ngài, tin vào tình thương của Ngài. Tình thương đó được biểu lộ qua nhiều dấu hiệu và dấu hiệu rõ rệt nhất, thực tế nhất là tấm bánh bởi trời: “Bánh tôi sẽ ban tặng chính là tôi đây để cho thế gian được sống”. Dân Do Thái xưa chỉ nhận được một lời hứa, chúng ta được ăn bánh trường sinh đó hằng ngày. Lời hứa xưa kia hôm nay đã trở thành hiện thực. Thực tế đó là tình yêu. Chúa Giêsu yêu chúng ta đến nỗi trở thành bánh cho chúng ta ăn.

 

Không có gì ngăn cản được tình yêu của Chúa. Không phương tiện nào mà Tình Yêu không sử dụng được, không chối từ nào có thể làm nản chí Tình Yêu.

 

Chúa đòi buộc chúng ta tin vào Ngài, vì những điều Ngài nói và làm vượt xa tất cả những gì chúng ta có thể tưởng tượng. Vì thế Ngài luôn chạm trán với sự cứng tin. Những người thiện chí như Nicôđêmô cũng hoài nghi: “Làm sao người ta có thể trở vào trong bụng mẹ được…?” Người phụ nữ Samari cũng ngạc nhiên: “Làm sao ông múc nước được?”

 

Niềm tin của chúng ta dễ dàng hơn. Chúng ta thừa hưởng niềm tin của Giáo Hội, nhưng chúng ta có thực sự tin không?

Thánh Thể vẫn là “một thử thách cho niềm tin”, vì mặc dù chúng ta đã tin trong lý trí, Thánh Thể vẫn là một vấn nạn triền miên. Nhìn thấy Mình Thánh Chúa trên bàn thờ, chúng ta có thực sự tin rằng đó là Thiên Chúa, Chủ Tể của vũ trụ, là Thiên Chúa toàn năng không? Nhưng với đức tin trần trụi, chúng ta vẫn có thể tin và nhìn đó là Thiên Chúa Tình Yêu. Vì yêu thương chúng ta, Ngài đã mặc lấy thân phận nhỏ bé như thế đó. Chúng ta làm gì?

 

Ngài càng nhỏ bé, chúng ta càng dễ gần gũi Ngài hơn. Ăn lấy Ngài là điều Ngài ước mong. Chúng ta hãy làm cho Ngài toại nguyện. Tin vào Ngài, chiếm hữu lấy Ngài để Ngài chiếm hữu chúng ta. Ngài thuộc về chúng ta để chúng ta thuộc về Ngài. “Phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa”!

 

53.Nguồn sinh lực

 

Ngày kia, tiên tri Elia phải lìa bỏ kinh thành mà chạy trốn vì hoàng hậu Zézabel muốn tìm giết ông. Tiên tri vội vã lên đường, không kịp mang theo đồ ăn và thức uống, rồi chính ông cũng chẳng biết mình sẽ phải về đâu.

Sau nhiều ngày lang thang trong sa mạc cát nóng, vừa mệt mỏi lại vừa tuyệt vọng, ông bèn nằm dưới một bóng cây chờ chết và thiếp vào một giấc ngủ nặng nề.

Lúc sau có một thiên thần đánh thức ông, đưa cho ông bánh và nói:

– Nào hãy chỗi dậy, cầm lấy mà ăn vì đường còn xa.

Elia chỗi dậy, ăn bánh và cơ thể ông lấy lại được sức khỏe, ông trở nên một con người mới, hăm hở băng qua sa mạc, đi cho đến tận đỉnh Horb là núi thánh của Chúa.

Hình ảnh tiên tri Elia cũng chính là hình ảnh chúng ta. Và cuộc hành trình đầy gian khổ tiến lên núi thánh cũng chính là hình ảnh cuộc đời của mỗi người.

Thực vậy, sống trong cuộc đời, chúng ta đều gặp phải những đau khổ đắng cay, những đớn đau buồn phiền. Làm sao chúng ta có đủ sức chịu đựng nổi.

Hơn thế nữa, Thiên Chúa là Đấng yêu thương, Ngài mong muốn cho tất cả chúng ta đều được hưởng niềm hạnh phúc nước trời. Nhưng để xứng đáng với niềm hạnh phúc ấy, chúng ta phải trở nên thánh thiện.

Thế nhưng kinh nghiệm cho chúng ta hay, trở nên thánh không phải là một việc dễ dàng. Biết bao nhiêu lần chúng ta đã dốc quyết điều nọ điều kia, nhưng rồi chỉ trong vòng ba bảy hai mươi mốt ngày, chúng ta lại vội vã quên đi, để rồi vẫn chứng nào tật ấy, mèo vẫn hoàn mèo mà thôi.

Hay như lời thánh Phaolô đã diễn tả:

– Sự thiện tôi muốn thì tôi lại không làm, còn điều ác tôi không muốn thì tôi lại làm.

Trên đường tiến tới quê hương nước trời, chúng ta phải chống cự với biết bao nhiêu kẻ thù, chúng ta phải vượt qua biết bao nhiêu khó khăn.

Như tiên tri Elia đã lấy lại được sức khỏe do bánh mà sứ thần đem tới, thì chúng ta cũng có được một thứ bánh bởi trời, một thứ lương thực thần linh, bồi bổ cho tâm hồn đó là Mình Máu Thánh Chúa.

Ý thức được những lợi ích to lớn ấy, chúng ta hiểu được tại sao Chúa Giêsu đã truyền cho chúng ta phải rước lễ. Để cho chúng ta được sống và không phải chết, Chúa Giêsu đã phán:

– Hãy cầm lấy mà ăn, hãy cầm lấy mà uống…

Đồng thời Ngài cũng cảnh giác:

– Nếu các con không ăn thịt Ta và không uống máu Ta, các con sẽ không có sự sống.

Hơn thế nữa, Ngài còn hứa:

– Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì sẽ có được sự sống đời đời và Ta, Ta sẽ cho họ sống lại ngày sau hết.

Thế nhưng nhiều người trong chúng ta đã coi thường lệnh truyền của Chúa. Họ giống như những người được nhà vua mời tới tham dự tiệc cưới, nhưng đã viện lý do nọ lý do kia: nào là tôi mới mua nhà, nào là tôi mới tậu bò, nào là tôi mới cưới vợ… để rồi tất cả đã từ chối không đến tham dự. Họ có đủ thời giờ làm mọi việc, chỉ trừ có một việc là không đáp trả lời mời gọi của nhà vua.

Với chúng ta cũng thế. Bí tích Thánh Thể là một bàn tiệc, là một bữa ăn. Chúa Giêsu đã lên tiếng kêu mời chúng ta. Phải chăng chúng ta đã đắp tai ngoảnh mặt làm ngơ, không đếm xỉa gì tới lời mời gọi ấy, bởi vì có khi cả năm chúng ta không rước lễ lấy được một lần?

Để đáp trả tình thương của Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể, chúng ta hãy siêng năng tham dự thánh lễ và nhất là hãy sốt sắng rước lễ, mỗi khi có thể, vì việc rước lễ chính là một giới luật, chính là một lệnh truyền, chính là một lời mời gọi đầy yêu thương của Chúa.

 

54.Sống đời đời

 

Bài Tin Mừng tiếp tục kể lại bài giảng về bánh hằng sống của Chúa Giêsu. Qua bài giảng này Chúa Giêsu muốn mạc khải về phép Thánh Thể mà Ngài sẽ thiết lập. Chúng ta hãy ôn lại ít điều giáo lý về việc rước Chúa, tức là việc rước lễ, đem lại cho chúng ta rất nhiều ơn ích lớn lao, có thể tóm tắt trong bốn điều:

 

Thứ nhất, rước Chúa chúng ta được tăng thêm ơn thánh hóa. Khi chúng ta lãnh các bí tích Thêm sức, Giải tội, Xức dầu, Truyền chức thánh và Hôn phối, chúng ta cũng được tăng thêm ơn thánh hóa. Nhưng khi lãnh bí tích Thánh Thể chúng ta được tăng thêm ơn thánh hóa nhiều nhất, vì không phải chúng ta chỉ lãnh thêm ơn thánh mà là lãnh nhận chính Đấng ban ơn thánh, là chính nguồn mạch ơn phúc.

 

Thứ hai, rước Chúa làm chúng ta kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu và với các anh chị em tín hữu khác. Cũng như khi chúng ta ăn bất cứ thứ gì, thì của ăn đó được biến hóa và trở nên thịt máu vào chính con người chúng ta. Vậy khi ăn thịt Chúa, thì thịt Chúa sẽ trở nên thịt máu chúng ta. Chúng ta sẽ sống trong Chúa và Chúa sẽ sống trong chúng ta, như Chúa đã phán: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy”. Khi đó chúng ta có thể nói như thánh Phaolô: “Không phải tôi sống nữa mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi”. Không những chúng ta kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu mà chúng ta còn hiệp nhất với anh chị em tín hữu trong cả hoàn cầu nữa. Bởi vì chúng ta cùng chia sẻ một lương thực là cùng chia sẻ một sự sống, nên chúng ta hiệp thông và hiệp nhất với nhau, như thánh Phaolô đã nói: “Chúng ta ăn mình Chúa nên tất cả chúng ta đều là một”. Do đó, đã hiệp nhất với Chúa Giêsu thì cũng hiệp nhất với nhau.

 

Thứ ba, rước Chúa chúng ta được tha các tội nhẹ và bảo vệ chúng ta khỏi tội trọng. Hằng ngày chúng ta phạm nhiều tội nhẹ trong tư tưởng, ước muốn, lời nói, việc làm. Những tội này không những không ngăn trở chúng ta rước lễ, mà chính việc rước lễ sẽ tha các tội nhẹ cho chúng ta. Còn khi có tội trọng thì không được rước lễ. Nhưng chính việc rước lễ sẽ giúp chúng ta, sẽ gìn giữ chúng ta khỏi sa ngã phạm tội trọng, như Công Đồng Tridentinô đã nói: Việc rước Chúa là một liều thuốc gìn giữ chúng ta khỏi sa ngã phạm tội trọng”.

 

Thứ tư, rước Chúa ban cho chúng ta sự sống đời đời ngay khi chúng ta còn sống trên mặt đất này, Chúa Giêsu nói rõ: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời”. Chúa không nói người ấy “sẽ được sống muôn đời”. Chúa nhấn mạnh người ấy “được sống muôn đời”. Còn việc bảo đảm sẽ được sống lại sau này thì chính Chúa Giêsu đã khẳng định: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết”. Như vậy, phép Thánh Thể, sự phục sinh và cuộc sống vĩnh cửu có tương quan với nhau, nghĩa là bây giờ nhờ rước Chúa, chúng ta có đời sống ân sủng, sau khi chết, linh hồn chúng ta được hạnh phúc trường cửu, và ngày tận thế, thân xác chúng ta sẽ được đồng vinh hiển cùng với linh hồn.

 

Anh chị em có đọc được ở đâu hay tìm thấy nơi một tôn giáo nào khác có một đấng thần minh, dám nói như Chúa Giêsu đã nói hôm nay không: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời”?. Chúa Giêsu dám nói như thế, vì Ngài có nền tảng, vì Ngài là Thiên Chúa hằng sống, nên Ngài có quyền ban sự sống đời đời cho những ai tin Ngài. Ngài là lẽ sống của họ. Trong những thế kỷ đầu của Giáo Hội, dân ngoại bỡ ngỡ khi thấy người có đạo anh dũng chịu chết vì Chúa. Đâu là lý do của sự can đảm lạ lùng ấy? Thánh Si-pơ-ri-a-nô trả lời: “Chính nhờ Mình Thánh Chúa Giêsu gìn giữ mà người có đạo mới ra pháp trường một cách anh dũng như vậy”. Đời vua Tự Đức, tổ tiên chúng ta cũng không thua kém các vị tử đạo đầu tiên ở Rôma. Nhờ đâu? Nhờ rước Mình Thánh Chúa. Bằng chứng: trong một sắc lệnh cấm đạo của vua Tự Đức có một điều như sau: “Không được để cho người ta đem đến cho kẻ có đạo thứ bánh mầu nhiệm gì đó, vì thứ bánh ấy làm cho họ không sợ đau đớn và vui vẻ chịu chết”.

 

Quả thực, ăn thịt máu Chúa sẽ tìm được sức mạnh thánh hóa và can đảm. Thịt máu Chúa còn đem lại hiệu quả cuối cùng là sự sống lại và sự sống đời đời. Vì thế, nếu chúng ta đến dâng lễ mà chúng ta không rước Mình Thánh Chúa, thì cũng không khác gì đi ăn tiệc mà không ăn gì cả. Và như thế là chúng ta đã từ chối ân huệ lớn lao, như nhà vua kia mời dự tiệc cưới con mình mà bị từ chối, là năm trinh nữ khờ dại không vào phòng tiệc, là chôn giấu nén bạc chủ trao cho, là mất kho tàng và đá ngọc, là vứt hòn ngọc đi. Tóm lại. Mình Máu Chúa là của ăn không những nuôi dưỡng linh hồn mà còn tăng thêm niềm tin, lòng yêu mến và hy vọng, giúp chúng ta sống hào hùng, sống tốt đẹp ở đời này và bảo đảm cho chúng ta hạnh phúc đời sau. Vậy chúng ta hãy quí mến phép Thánh Thể và siêng năng rước lễ, để lãnh nhận những ơn ích và những hiệu quả cao quý ấy.

 

55.Dậy mà ăn, vì đường còn xa!

     (Suy niệm của Lm. Giuse Trịnh Ngọc Danh)

 

“Dậy mà ăn, vì ngươi còn phải đi đường xa”. Đó là lời thiên sứ của Thiên Chúa thúc dục ngôn sứ Êlia, sau khi ông đã được thiên sứ cung cấp bánh và nước cho ăn no sau cuộc vượt thoát khỏi hoàng hậu Ideven đang tìm giết ông; vì ông đã chiến thắng trong cuộc thách đố với 450 ngôn sứ của thần Baan. Ăn no, ông lại tiếp tục ngủ.Thiên sứ lại hiện ra, dục ông dậy mà ăn, vì đường lên núi Khôrếp, núi Thiên Chúa còn xa.

 

Lương thực cho Êlia

Ngôn sứ Êlia là người được Thiên Chúa sai đến với dân chúng để làm chứng cho họ nhận biết chỉ một mình Thiên Chúa là Đấng duy nhất họ phải tôn thờ, nhưng dân chúng không nghe; ông đã khiển trách toàn thể con cái Israen trên núi Cácmen: “Các ngươi nhảy khập khiểng cho tới bao giờ? Nếu Đức Chúa là Thiên Chúa, thì hãy theo Người; còn nếu là Baan, thì cứ theo nó!”(1V 18: 21); và ông đã mạnh dạn thách thức với 450 ngôn sứ của thần Baan trên núi Cácmen: cả hai bên cùng dâng hy lễ để chứng minh Đấng nào là Thiên Chúa chân thật. Thiên Chúa đã nhậm lời ông để cho dân chúng nhận ra Thiên Chúa là Đấng nào và ông đã giết chết 450 ngôn sứ của thần Baan; vì thế, hoàng hậu Ideven thề sẽ lấy mạng sống ông. Ông thất vọng, chán nản, buông xuôi. Ông trốn chạy và đã xin với Chúa: “Lạy Đức Chúa, đủ rồi! Bây giờ xin Chúa lấy mạng sống con đi, vì con cũng chẳng hơn gì cha ông của con”. Rồi ông nằm dưới cây kim tước mà ngủ thiếp đi”(1V. 19: 4). Được thiên sứ của Chúa cung cấp đồ ăn, đồ uống; nhưng ăn xong, ông lại nằm ngủ tiếp.

 

Một mình chống chọi với các thế lực tà thần làm ông trở nên yếu đuối, mệt mỏi, mất tinh thần, hoảng sợ vì làm ngôn sứ của Thiên Chúa. Ông trốn chạy để cứu mạng sống. Ông muốn bỏ cuộc: ăn no, ông lại ngủ tiếp!

 

Thiên sứ trở lại lần thư hai, đánh thức ông dậy và nói:“Dậy mà ăn, vì ngươi còn phải đi đường xa”. Và nhờ lương thực từ trời bổ dưỡng, ông đã đi suốt bốn mươi ngày, bốn mươi đêm tới Khôrếp, là núi của Thiên Chúa”(1V. 19: 7-8)

 

Lương thực cho chúng ta

Trên con đường hành trình đi về núi Thiên Chúa, Êlia chán nản, thất vọng: “Lạy Đức Chúa, đủ rồi! Bây giờ xin Chúa lấy mạng sống con đi, vì con cũng chẳng hơn gì cha ông của con”. Chúa Giêsu Nadarét bị đồng hương khinh bỉ, rồi lo buồn sầu não trước giờ tử nạn: “Lạy Cha, nếu có thể thì xin cho con khỏi uống chén này”. Và Hội Thánh hôm nay bị xoi mói, biêu rếu…Và chúng ta là dân Thiên Chúa đang hành trình trong đức tin về miền đất hứa của sự sống đời đời. Suốt cuộc hành trình ấy, chúng ta cũng không tránh khỏi những thất vọng, khó khăn, hoài nghi, chán nản, mất niềm tin khi gặp khó khăn, khốn khổ.Cũng có lúc, chúng ta dựa vào thế lực của trần thế hơn là dựa vào quyền năng của Thiên Chúa; nhưng Thiên Chúa không bỏ rơi con cái của Ngài.

 

Ngày xưa, cha ông chúng ta đã ăn manna trong hoang địa; tiên tri Êlia được Thiên sứ cho một thứ lương thực bồi dưỡng giúp ông đi suốt bốn mươi ngày đêm lên tới núi Thiên Chúa mà không mõi mệt. Và chúng ta ngày nay, vì “còn phải đi đường xa”, chúng ta sẽ ăn gì đây để có đủ sức mạnh tiến về núi Thiên Chúa?

 

Hôm nay, Chúa Giêsu giới thiệu cho chúng ta một thứ lương thực mới, không như manna mà cha ông chúng ta đã “ăn trong sa mạc nhưng đã chết”, nhưng là một thứ “bánh từ trời xuống để ai ăn thì khỏi phải chết”. Lương thực ấy, thứ bánh ấy chính là Thịt và Máu Chúa Kitô:“Tôi là bánh trường sinh. Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Bánh tôi ban tặng chính là thịt tôi đây. Ai không ăn thịt và uống máu Con Người, không có sự sống nơi mình. Ai ăn thìđược sống muôn đời và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết” “Dậy mà ăn, vì ngươi còn phải đi đường xa”. Đây cũng là lời Thiên Chúa thúc dục chúng ta trên con đường lữ hành về Nước Trời. Đường cònxa!

 

Qua bài Tin Mừng của thánh Gioan (Ga. 6: 41-51) vào ngày Chúa nhật 19 thường niên, năm B, Chúa Giêsu đã giới thiệu cho chúng ta về thân thế và sứ vụ của Ngài trong chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa: Người Con ở cùng Người Cha. Chắc chắn Người Con biết rõ về Người Cha, Người Con biết rõ rằng “Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ”; do đó, ai nghe và đón nhận giáo huấn Người Cha, thì sẽ đến với Người Con. Nếu Người Cha không lôi kéo người ấy, thì chẳng ai đến được với Người Con; và ai đến được với Người Con, thì Nguời Con sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết. Người Con từ trời xuống thế gian theo ý của Người Cha. Người Con tự hiến tế đã trở thành bánh trường sinh bằng chính thịt và máu mình. Ai tin, và ăn thứ bánh hằng sống Người Con ban cho sẽ được sống đời đời.

 

Chúa Giêsu là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình. Chỉ trong Ngài, con người mới thấy được Thiên Chúa như lời Ngài đã nói: “Không phải là đã có ai thấy Chúa Cha đâu, nhưng chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến, chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha”. Vì Chúa Giêsu và Chúa Cha là một; cho nên, nếu muốn được sống đời sống thần linh, chúng ta phải sống bằng chính sự sống của Chúa Giêsu, phải được nuôi dưỡng bằng chính Thịt và Máu Ngài: “Ai ăn thịt và uống máu tôi thì ở lại trong tôi và tôi ở lại trong người ấy như tôi sống nhờ Chúa Cha”.

 

Chúa Giêsu là “bánh từ trời xuống”, bánh được ban xuống cho con người để lôi kéo con người lên với Chúa Cha. Chúng ta tiếp nhận Thịt và Máu Chúa Giêsu là để được đón nhận tình yêu của Thiên Chúa, được sống kết hợp với Ngài.

 

Sẽ không được sống đời đời, sẽ không có sự sống đích thực, sẽ không được sống lại trong ngày sau hết, nếu không ăn thịt và uống máu Con Người: “Ai không ăn thịt và uống máu Con Người, không có sự sống nơi mình. Ai ăn thì được sống muôn đời và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết.” Và sẽ không đến được với Con Người, nếu không đón nhận giáo huấn của Chúa Cha, không tin vào Con Người, không tin vào tình yêu Thiên Chúa: “Vậy phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Chúa Cha, thì sẽ đến với tôi”. Và “ý của Cha tôi là tất cả những ai thấy Người Con và tin vào Người Con thì được sống muôn đời và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết. Thật, tôi bảo thật các ông, ai tin thì được sự sống đời đời”.

 

Thiên Chúa mà chúng ta quy tụ nhân danh Chúa Giêsu Kitô không chỉ là đích đến của cuộc hành trình về Nhà Cha mà Ngài còn là người bạn đồng hành, là một lương thực cần thiết trên con đường lữ hành ấy. Điều kiện đến với Người Con để được sống đời đời là tin và phó thác vào Thiên Chúa và tuân giữ các giới răn của Ngài, là tin và sám hối theo Tin Mừng

 

Thiên Chúa tạo dựng con người theo hình ảnh của Ngài, cho con người làm con cái của Ngài. Ngài muốn con người được sống hạnh phúc. Ngài ban cho con người tự do; nhưng vì có tự do, con người đã đánh mất vị thế làm con, đánh mất cuộc sống hạnh phúc trong vườn Địa đàng. Thay vì lên án, hủy diệt con người đã bất trung bội phản, nhưng vì yêu thương, Ngài đã không bỏ mặc những ai tin tưởng nơi Ngài, đã làm mọi cách để lôi kéo con người khỏi vòng bủa vây của sự diệt vong, khỏi sự lôi kéo của thần chết.

 

Thiên Chúa vẫn luôn tín trung với tình yêu của Ngài. Với những người tin tưởng và phó thác vào Ngài, Ngài chẳng bao giờ bỏ rơi họ như dụ ngôn về con chiên lạc và dụ ngôn người con hoang đàng.

 

Trong cuộc hành trình tiến về núi Thiên Chúa, có những lúc, những giai đoạn chúng ta sẽ gặp những khó khăn, chán nản, thất vọng, cô đơn như trường hợp của ngôn sứ Elia. Nhưng những ai tin tưởng phó thác vào tình yêu Thiên Chúa, Ngài sẽ luôn quan phòng và không để họ thoát khỏi tình yêu của Ngài.

 

Chúng ta đã có một thứ lương thực trường sinh cho cuộc hành trình đi về với Chúa Cha: Đó là Thịt máu Chúa Kitô trong phép Thánh Thể. Khi đón nhận Bánh Hằng Sống là lãnh nhận tình yêu của Thiên Chúa và từ đó lan toả sang cho tha nhân để đưa mọi người về với Ngài. Tin và thực hành những điều Thiên Chúa dạy là bước khởi đầu dẫn chúng ta vào Nước Trời. Chúng ta chính thức trở thành công dân Nươc Trời khi chúng ta sát nhập với Chúa Kitô, khi chúng ta ăn “ bánh hằng sống từ trời xuống” là chính Chúa Kitô. Ngài là nguyên lý sự sống đích thực và là trung tâm thu hút mọi người tìm về.

 

Chỉ có sức sống thần linh mới làm cho con người được sống đích thực cuộc sống của mình. “Dậy mà ăn, vì ngươi còn phải đi đường xa”.

 

56.Chúa Nhật 19 Thường Niên

     (Suy niệm của Lm. Gioan Phan Tiến Dũng)

 

Thánh vịnh 33 trong Đáp ca hôm nay mời gọi: “Các bạn hãy nếm thử và hãy nhìn coi, cho biết Chúa thiện hảo nhường bao”.  ACE rất thân mến, trong hoàn cảnh đau thương hiện nay, liệu rằng ai trong chúng ta có thể nhận ra và thưa lên với Chúa tâm tình tạ ơn chúc tụng như Thánh vịnh dạy hay không? Phải chăng, những điều mà mắt chúng ta đang thấy, tai chúng ta đang nghe và lòng trí chúng ta đang cảm nghiệm được, toàn là những  điều tang thương, bệnh tật, đau khổ, đói nghèo…Có dấu chỉ tốt lành nào để cho ACE có thể cảm nếm và thân thưa lên với Chúa: “Chúa thiện hảo nhường bao; phúc đức ai tìm nương tựa ở nơi Người”. Do đó, Lời Chúa hôm nay như soi sáng, hướng dẫn để chúng ta ý thức, vững tin hơn vào tình thương và ơn thánh Chúa ngay trong cuộc sống hiện tại.

 

Bài đọc một trong sách các Vua, tường thuật lại hành trình của Ngôn sứ Êlia, 40 ngày đêm trong sa mạc để tiến về Núi Horep theo như Chúa dạy. Khi chỉ mới bắt đầu được một ngày, ông đã cảm thấy kiệt sức, ông đã muốn Chúa cho ông chết đi: “Lạy Chúa, đã đủ rồi, xin cất mạng sống con đi: vì con chẳng hơn gì các tổ phụ con”. Thế nhưng, Chúa đã sai Thiên Thần đến để nâng đỡ hộ phù, ban cho ông có bánh ăn và nước uống, nhờ đó, ông đã đến được núi thánh của Thiên Chúa. Thật đúng vậy, sức của con người quá mỏng manh, đầy giới hạn, khi phải chứng kiến bao nghịch cảnh tang thương, khó khăn và thử thách. Nếu không có ơn Chúa, thì không ai có thể. Thú thật, giờ đây khi nhìn lại, dẫu phải trải qua biết bao thăng trầm, nếu không được ơn Chúa phù trì che chở-dưỡng nuôi, liệu rằng chúng ta có thể sống và tồn tại cho tới giờ này. Do đó, hơn bao giờ hết, tâm tình của chúng ta lúc này đây phải là: “Hãy nhìn về Chúa để các bạn vui tươi, và các bạn khỏi hổ ngươi bẽ mặt. Kìa người đau khổ cầu cứu và Chúa đã nghe, và Người đã cứu họ khỏi mọi điều tai nạn”.

 

Bài đọc hai trong thư của Thánh Phaolô gởi tín hữu Êphêsô mời gọi chúng ta, một khi ý thức được về thân phận yếu đuối của mình, đặc biệt hơn, khi đã cảm nếm được ơn thánh của Chúa, khi đã sống trong mối tương quan mật thiết với Chúa Giêsu, chúng ta hãy chia sẻ và làm lan tỏa những ơn thánh mà chúng ta đã lãnh nhận từ Chúa cho ACE mình. Ơn thánh đó là gì? Đó chính là lòng khoan dung, sự tha thứ mà Chúa Giêsu Kitô đã ban cho chúng ta dẫu rằng mình là những con người yếu đuối tội lỗi. “Anh em hãy loại ra khỏi anh em mọi thứ gay gắt, tức giận, nóng nảy, chửi rủa, cùng mọi thứ độc ác. Anh em hãy ăn ở hiền hậu với nhau, hãy thương xót và tha thứ cho nhau, như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Ðức Kitô”. Thật ra, ai trong chúng ta cũng muốn làm và trở nên những người sống đẹp lòng Chúa như Thánh Phaolô dạy, thế nhưng, trong thực tế, thì lại khác, thật là khó. Tại sao lại khó? Vì chúng ta đã chưa tin vào Chúa Giêsu là Thiên Chúa thật, là Đấng ban ơn cứu độ, và Đấng nuôi dưỡng cho chúng ta.

 

Tin mừng theo Thánh Gioan hôm nay minh chứng cho chúng ta thấy bản chất cứng lòng, khó tin của con người vào Thiên Chúa qua những dấu Ngài đã làm. Dẫu rằng dân chúng đã chứng kiến việc Chúa Giêsu làm phép lạ bánh cá hóa ra nhiều để nuôi dân chúng. Thế nhưng, khi Chúa mời gọi họ hãy tin vào Ngài vì Ngài là Bánh Trường Sinh Đích Thực, Ngài là Bánh Từ Trời: “Ta là bánh hằng sống bởi trời mà xuống”. Thì dân chúng đã kêu la, phản đối, tẩy chay Chúa Giêsu. Tại sao vậy? Vì họ đã biết rõ tông tích nguồn gốc của Ngài xuất phát từ đâu. “Chớ thì ông này chẳng phải là Giêsu, con ông Giuse sao? Chúng ta đều biết rõ cha mẹ của ông. Vậy làm sao ông lại nói: Ta bởi trời mà xuống”? Với Người Do Thái, họ ý thức, họ tự hào và tin rằng Chúa đã nuôi sống tổ tiên cha ông họ trong sa mạc bằng Manna. Thế nhưng, với họ, không thể nào chấp nhận và tin vào ông Giêsu lại có thể là Bánh Trường Sinh cho họ được. “Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống”. Dẫu biết rằng, với người Do Thái, họ chưa hiểu về việc Chúa Giêsu nói về Bánh và Thịt của Ngài chính là Bí Tích Thánh Thể.

 

Còn với mỗi người chúng ta hiện nay, để chấp nhận Chúa là Thiên Chúa của chúng ta, để tin vào Chúa Giêsu là Đấng ban cho chúng ta Bánh Trường Sinh, ban cho chúng ta ơn cứu độ đời đời; liệu rằng đây có phải là điều khó tin, hay chúng ta còn hoài nghi? Lúc này đây, hơn bao giờ hết, khi chúng ta đang gặp những khó khăn thử thách, khi chúng ta cảm thấy dường như mình đang bị kiệt sức và muốn bỏ cuộc; hãy nhớ rằng Thiên Chúa vẫn đang đồng hành, diện diện, ban ơn nâng đỡ, cứu chữa và nuôi sống chúng ta. Chỉ có chúng ta yếu đuối mới bỏ Chúa, chỉ có chúng ta cứng lòng mới không tin, không mở lòng và chấp nhận để cho Chúa ban ơn biến đổi và cứu sống chúng ta.

 

Lạy Chúa, dẫu muôn vàn nghịch cảnh, xin cho chúng con biết vững tin và tín thác nơi Ngài. Lạy Chúa, chỉ có Ngài là sức mạnh, là Đấng dưỡng nuôi và là nguồn ơn cứu sống của chúng con. Amen.

 

57.Lương thực

 

Êlia là vị ngôn sứ lớn nhất trong Cựu ước. Đến nỗi người ta đã nghĩ rằng ông sẽ trở lại để loan báo thời đại của Đấng Mêsia. Tuy nhiên, trong bài đọc 1, chúng ta thấy ông yếu đuối, kiệt sức, hoảng sợ. Ông đau đớn, mệt mỏi vì làm ngôn sứ của Thiên Chúa. Ông bỏ chạy để cứu mạng sống mình. Ông muốn bỏ cuộc. Ông bắt đầu nghi ngờ chính mình: “Tôi không tốt hơn cha ông tôi”.

 

Điều gì đã làm cho ông xuống tinh thần như thế? Ông đã theo đuổi một cuộc chiến đấu ác liệt chống việc thờ ngẫu tượng đang bùng lên trong thời kỳ ấy. Điều này đưa ông đến xung đột với hoàng hậu độc ác I-da-ven. Bà này muốn giết ông. Vì thế ông phải chạy trốn trong sa mạc, ở đó ông sấp mình xin Thiên Chúa lấy mạng sống của ông để mọi phiền muộn chấm dứt.

 

Ông đã mất hết tinh thần. Khi chúng ta mất hết tinh thần, chúng ta đánh mất sức mạnh cao cả. Tinh thần của chúng ta ví như đôi cánh của chim và gốc rễ của cây cối.

 

Cả bậc vĩ nhân cũng biết đến những thời kỳ yếu đuối, rã rời và thất vọng. Họ cảm thấy đời sống quá khó khăn đến nỗi họ không thể đương đầu với bất cứ điều gì nữa. Họ không vì thế mà kém vĩ đại. Dẫu sao, họ cũng chứng tỏ rằng họ rất con người và do đó có giới hạn. Chính Đức Giêsu biết điều đó một giờ trong vườn Giệtsimani.

 

Nhiều người không thích chấp nhận những giới hạn của mình trong nhân tính. Họ muốn tỏ ra lúc nào cũng mạnh mẽ. Họ nghĩ họ sẽ mất mặt trước những người khác nếu họ tỏ ra yếu đuối và sợ hãi. Nhưng, thật ra, trường hợp ngược lại mới phải. Người ta sẽ cảm động và sẵn sàng giúp đỡ khi họ thấy rằng chúng ta là con người giống họ. Hình như Picasso có nói: “Lòng trắc ẩn sẽ thắng bạn, khi bạn thấy nơi mỗi người dòng suối lệ”.

 

Vẫn còn có người cảm thấy rằng cảm nhận như thế là không xứng đáng với một người có đức tin vào Thiên Chúa. Nhưng sự yếu đuối không phải là không phù hợp với đức tin. Mặt khác, làm thế nào chúng ta có thể được giúp đỡ nếu chúng ta không thú nhận chúng ta cần? Sự nhận biết mình là bước đầu của sự cải hóa.

 

Thiên Chúa đã sai một “thiên thần” mang thức ăn, và thức uống cho Êlia. Hầu như “thiên thần” không ai khác hơn là người thị đồng (nô bộc) đã đi theo ông đến bìa sa mạc. Với sức mạnh mà lương thực ấy mang lại, Êlia đã đi hết con đường đến núi Khô-rếp, núi của Thiên Chúa. Như thể vấn đề tiên quyết của ông không phải do thiếu lương thực sinh ra (dù trong thời gian ấy có nạn đói) vì thế sức mạnh mới của ông không chỉ do lương thực mà do sự bảo đảm Thiên Chúa ở cùng ông. Chính sự bảo đảm này thổi vào ông sự sống mới và cho ông nhiệt tình để đi tiếp.

 

Chúng ta cũng đang hành trình tiến về núi của Thiên Chúa, nơi có sự sống đời đời. Chúng ta cũng sẽ cảm nghiệm những lúc yếu đuối trong cuộc lữ hành ấy. Chúng ta cần sự giúp đỡ mà ở hàng đầu là sự giúp đỡ của con người. Một cách lý tưởng điều này sẽ có hiệu lực qua cộng đoàn Kitô hữu. Và dĩ nhiên chúng ta cần sự giúp đỡ đến từ Thiên Chúa. Quả là một sự nâng đỡ đặc biệt khi chúng ta cảm nhận Thiên Chúa hiện diện với chúng ta và yêu thương chúng ta. Và chúng ta cần bánh cho cuộc hành trình của mình. Tuy nhiên bánh bình thường sẽ không đủ. Chúng ta cần bánh mà Đức Giêsu ban cho – Bánh Thánh Thể.

 

Thánh Thể còn được gọi là Viaticum có nghĩa là bánh hay thức ăn đi đường giống như khẩu phần của người chiến sĩ. Tuy nhiên, qua nhiều năm tháng Viaticum chỉ còn được áp dụng trong một ý nghĩa rất hẹp, và để chỉ sự rước lễ dành cho một người sắp chết. Vì thế nó chỉ được xem như bánh dành cho giai đoạn cuối cùng của cuộc hành trình trên trần gian của người Kitô hữu. Nhưng Thánh Thể có ý nghĩa nâng đỡ chúng ta suốt cuộc hành trình ấy.

 

Nhờ vào sức mạnh của lương thực mà Đức Giêsu ban cho chúng ta trong Thánh Thể, chúng ta sẽ đi trọn con đường dẫn đến Nước Chúa vĩnh cửu. Và dọc đường, chúng ta có đặc ân làm một thiên thần của Thiên Chúa cho một người khác đang cảm thấy xuống tinh thần. Đó chỉ là loại tình yêu và nâng đỡ mà bạn hy vọng cho người cùng ngồi ăn với bạn.

 

58.Giúp đỡ

 

Êlia là một ngôn sứ lớn nhất của Cựu ước. Ông chống lại và đánh bại các ngôn sứ của thần Ba-an tại núi Cát minh. Điều này khiến ông bị hoàng hậu thờ ngẫu tượng I-da-ven căm thù và muốn cho người giết ông. Vì thế ông chạy trốn vào sa mạc, ở đó ông phủ phục và xin Thiên Chúa cất mạng sống ông đi. Và rồi mọi ưu phiền của ông cũng chấm dứt.

Thiên Chúa nghe lời cầu nguyện của Êlia và đã đáp lại, nhưng không phải theo cách Êlia mong muốn. Thiên Chúa sai một thiên thần đem đến cho ông lương thực và nước uống. Và khi được lương thực “từ trời” xuống làm cho mạnh mẻ, ông có thể tiếp tục cuộc hành trình lên núi Khô-rếp, ngọn núi của Thiên Chúa.

Về sự việc này, có thể không theo cách nói siêu nhiên mà giải thích theo cách tự nhiên. Thiên thần nuôi sống Êlia có lẽ chính là người nô bộc của ngôn sứ mà ông đã để lại phía sau một khoảng cách. Nhưng dù giải thích cách nào thì cũng đều là sự chăm sóc của Thiên Chúa đối với ngôn sứ của Người. Cách hoạt động thông thường của Thiên Chúa là qua những con người làm trung gian.

 

Có một câu chuyện để minh họa điều này. Có một cơn lũ tồi tệ và hầm rượu của nhà Tôma đã ngập nước. Một người chạy Canô đến và nói: “Ông có muốn tôi chở đến chỗ an toàn không?” “Không” Tôma nói “Tôi tin vào Thiên Chúa, Người sẽ cứu tôi”.

Nước tiếp tục dâng lên và ngập đến sàn nhà. Tôma phải lên lầu. Một người chèo một chiếc xuồng máy đi ngang qua và đề nghị đưa ông đến một chỗ an toàn, nhưng Tôma nói “Tôi tin vào Thiên Chúa, Người sẽ cứu tôi”.

Nước vẫn lên cao và Tôma phải trèo lên mái nhà. Một máy bay trực thăng đi ngang qua và phi công đề nghị đưa ông đến chỗ an toàn, nhưng Tôma nói: “Tôi tin vào Thiên Chúa và Người sẽ cứu tôi”.

Nhưng nước vẫn cứ dâng lên và ông bị cuốn trôi. Khi lên trời ông giận dữ nói với Thiên Chúa: “Con đã tin Chúa thế mà Chúa vẫn để con chết chìm”. Nhưng Thiên Chúa đáp lại: “Không chỉ một lần nhưng là ba lần, Ta cho người đến giúp con, nhưng lần nào, con cũng từ chối”.

 

Chúng ta thường không nhận ra sự giúp đỡ của Thiên Chúa khi nó đến. Lời cầu nguyện được đáp ứng không phải trong việc Thiên Chúa làm, nhưng trong việc Thiên Chúa giúp chúng ta tự làm, hoặc cho người khác giúp chúng ta. Chúng ta sẽ chờ đợi vô ích một Thiên Chúa từ trời xuống. Nhưng Thiên Chúa sai một thiên thần con người đến. Mọi người chúng ta đều có kinh nghiệm về tác vụ của những thiên thần như thế.

Và chúng ta cũng có những cơ hội để đóng vai một thiên thần đến với một người trong cảnh khốn khổ. Đôi khi để làm một việc gì đó, cung cấp một thứ phục vụ cơ bản nào đó như nấu một món ăn. Những lần khác để nói một lời động viên, hoặc chỉ để đem lại sự có mặt an ủi và người ta không còn chịu đau khổ một mình trong cảnh cô đơn.

Nhiều người đi qua một thời kỳ tồi tệ. Chỉ cần có sự chăm sóc của một thiên thần con người đủ giúp họ vượt qua thời kỳ ấy. Sau cùng “thiên thần” mà Thiên Chúa sai đến với chúng ta là Con của Người, Đức Giêsu. Đức Giêsu luôn ở bên cạnh chúng ta và cho chúng ta, không phải thứ bánh thông thường, mà là “bánh sự sống”. Nhờ sức mạnh bánh đó mang lại, chúng ta sẽ đi trọn con đường lên núi Thiên Chúa có tên gọi là sự sống đời đời.

 

59.Thoát ly

 

Êlia, vị ngôn sứ dùng cả cuộc đời mình để chiến đấu chống lại sự thờ ngẫu tượng đang lan rộng trong thời kỳ đó. Điều này dẫn ông đến chỗ xung đột với hoàng hậu I-da-ven là người muốn giết ông. Vì thế ông đã chạy trốn vào trong sa mạc để thoát nạn. Nhưng ở đó ông bị nỗi phiền muộn dày vò. Ông đã cho đi tất cả, giờ đây ông cảm thấy mình kiệt sức. Vì thế ông phủ phục xuống đất và xin Thiên Chúa cất mạng sống ông đi. Và rồi mọi phiền muộn sẽ không còn nữa.

Êlia có lẽ là vị ngôn sứ lớn nhất trong Cựu ước. Tuy nhiên ở đây, chúng ta thấy ông yếu đuối, kiệt sức, hoảng sợ và chỉ muốn chết. Thay vì sửng sốt khó chịu bởi việc đó, chúng ta không nên bận tâm. Êlia là một vĩ nhân. Nhưng sự cao cả vĩ đại không thể được phong tặng, người ta phải thực hiện nó. Và khi thực hiện sự cao cả, vĩ đại, người ta không tránh khỏi những khó khăn, trái lại còn phải đương đầu và vượt qua chúng. Nhưng cả bậc vĩ nhân cũng biết đến những lúc yếu đuối, sợ hãi, hồ nghi như tất cả chúng ta.

Êlia đã chạy trốn khỏi những gì đuổi theo ông. Nhưng thay vì đáp ứng mong ước của ông. Thiên Chúa đã sai một thiên thần mang lương thực và nước uống đến cho ông. Biến cố này không hẳn là một sự kiện siêu nhiên. “Thiên thần” có lẽ là người tôi tớ của ngôn sứ và ông đã để lại phía sau không xa. Dù gì, đó cũng là một cách diễn tả sự chăm sóc mà Thiên Chúa đã dành cho Êlia. Trong bất cứ tình huống nào, được lương thực từ trời làm mạnh sức, Êlia có thể tiếp tục lên đường đến núi Khô-rếp, núi của Thiên Chúa.

Ở núi Khô-rếp ông đã có một kinh nghiệm về Thiên Chúa. Mục đích của kinh nghiệm này không phải để khuyến khích ông đào tẩu, thoát ly, nhưng để an ủi và làm ông thêm mạnh mẽ để có thể trở về và đối đầu với tình trạng lộn xộn và nguy hiểm ông đã để lại phía sau. Và đó chính xác là điều ông đã làm.

Cầu nguyện và tôn giáo không có nghĩa là một sự đào tẩu khỏi đời sống nhưng để được giúp đỡ đối đầu với nó. Chúng ta thường xuyên quay về đời sống cầu nguyện và các bí tích từ cuộc hành trình tìm kiếm Thiên Chúa mỗi ngày và trong nỗ lực sống đời Kitô hữu. Tuy nhiên không phải để trốn tránh và đào tẩu, nhưng để được tái tạo và đổi mới lòng can đảm và năng lực, ngõ hầu chúng ta có thể lại dấn thân vào cuộc hành trình.

Tôn giáo là để an ủi chúng ta trong những lúc phiền muộn và những khi đau buồn. Nhưng nếu tôn giáo không làm hơn thế, thì trong trường hợp ấy, tôn giáo không bao hàm nguy cơ và sự căng thẳng. Nó phải đem lại một điều gì để nâng chúng ta lên, một lý do tốt để chúng ta thêm mạnh mẽ. Tôn giáo phải thách thức và kéo căng chúng ta khỏi những giới hạn của mình và vượt qua chúng, để sau đó chúng ta có những tiêu chuẩn phán đoán chính mình.

Có một tôn giáo của lòng sùng tín và một tôn giáo của sự cam kết. Đức tin có thể là cây nạng hoặc một đôi cánh.

Đời sống Kitô hữu không nhắm đến đào tẩu thoát ly, những quan điểm mềm yếu, sự an ủi. Nó nhắm đến điều trái ngược với những điều đó. Thiên Chúa yêu thương chúng ta, mong mỏi điều tốt nhất cho chúng ta, Người không mong chờ điều gì thấp kém hơn.

Thiên Chúa cho chúng ta một lương thực đặc biệt nuôi dưỡng chúng ta. Lương thực mà Êlia nhận được, giúp ông có thể tiến lên núi của Thiên Chúa. Lương thực mà Đức Giêsu ban cho chúng ta trong thánh lễ có thể cho chúng ta năng lực tiến lên trên con đường đến Nước trời vĩnh cửu.

 

60.Bánh sự sống đến từ trời

     (Suy niệm của Lm. Gioan Trần Khả)

 

Khát Trường Sinh

Ai trong chúng ta cũng muốn mình sống lâu và trẻ hoài. Nếu có cách gì làm cho mình khoẻ, trẻ và sống lâu thì chúng ta không ngại thử ngay.

 

Vào thế kỷ thứ 16 khi Kha Luân Bố tìm ra miền đất mới thì có tin đồn rằng miền đất mới có suối nước thần nếu ai tắm và uống nước đó sẽ trẻ trung hoài. Ponce de Leon đã quyết định đóng tầu đi thám hiểm đến miền đất mới để tìm giòng suối trẻ trung đó.

 

Hoàng Đế Chin của Trung Hoa, người xây Vạn Lý Trường Thành cũng rất sợ già và sợ chết. Một hôm người cận thần tâu trình rằng ở bên Biển Đông có hòn đảo địa đàng. Người dân trên đảo đã khám phá ra bí mật của sự sống trường sinh. Hoàng Đế liền cho lệnh chất vàng bạc châu báu lên tầu và khởi hành đi về Biển Đông để trao đổi lấy thuốc thần trường sinh.

 

Những ai coi phim tầu cũng rất quen thuộc với giấc mơ đi về miền núi xa xôi hoang vắng nào đó để tìm cho đuợc củ sâm ngàn năm. Củ sâm đó có sức làm cho người ta phục hồi sức sống, tăng thêm tuổi thọ, sống lâu không chết.

 

Trẻ trung và sống lâu hạnh phúc là giấc mơ của con người ở mọi thời đại. Con nguời luôn luôn mong muốn sống mãi sống hoài. Nếu bị bệnh là lo tìm thày chạy thuốc. Nếu có khiếm khuyết về dung mạo hay hình dáng thì lo tìm cách sửa trị hoặc che đậy đi. Nhưng xưa nay chưa có ai thực hiện được hoài bão sống trường sinh như thế. Chỉ có một người hứa với chúng ta bí mật sống trường sinh và người đó đã thực hiện được. Vị đó là chính Đức Giêsu Kitô.

 

Bánh Sự Sống Từ Trời

Đức Giêsu đã qủa quyết với những người theo Ngài: “Ta là Bánh Hằng Sống bởi trời xuống… Ai tin vào ta thì có sự sống đời đời. Ta là bánh ban sự sống… Ai ăn bánh này thì khỏi chết, nhưng sẽ sống đời đời. Bánh ta ban là chính thịt ta để cho thế gian được sống” (Gio. 6:41-52).

 

Ponce de Leon đã vất vả thám hiểm tới miền đất mới để tìm giòng suối nước có sức làm trẻ trung, nhưng chẳng thấy. Hoàng đế Chin đến hòn đảo ở biển đông với vàng bạc châu báu để tìm đổi lấy bí mật trường sinh, nhưng chẳng có. Nhiều người tìm uống các dược chất để hy vọng có sức khỏe lâu bền, nhưng rồi cũng chết. Mỗi người chúng ta hôm nay cũng đến thánh đường này để nghe lời Chúa về sự sống đời đời, và để được ăn bánh trường sinh Đức Giêsu hứa ban. Chúng ta không phải vất vả trèo non lội suối hay đi đâu xa để tìm kiếm thuốc trường sinh. Chúng ta không phải bỏ tiền mua dược phẩm để được sống trường sinh. Đức Giêsu Con Thiên Chúa hằng sống, Ngài là suối nước trường sinh đang hiện diện với chúng ta nơi đây, và chúng ta có thể tiếp nhận Ngài miễn phí. Tiếp nhận Ngài là chúng ta tiếp nhận sự sống đời đời. Tiếp nhận Ngài là chúng ta được bổ sức cho tinh thần sống.

 

Elia Được Dưỡng Sức

Elia trong bài đọc thứ nhất, đã cảm thấy mệt mỏi và chán nản. Nhưng trong lúc buồn chán đó Thiên Thần của Chúa đã đến đánh thức ông dạy để được nuôi dưõng bằng bánh bởi trời. Ông đã nghe lời của Thiên Thần Chúa, chỗi dạy ăn bánh, và ông đã được bồi dưỡng có đủ sức tiếp tục cuộc hành trình đi về núi thánh của Thiên Chúa. Giống như Elia, nhiều lần trong cuộc hành trình đức tin, chúng ta cũng cảm thấy mệt mỏi và yếu đuối vì những cám dỗ và tội lỗi, vì những nặng nợ vất vả trần thế. Chúng ta cần lắng nghe Thánh Thần của Thiên Chúa qua Giáo Hội thức tỉnh chúng ta. Chúng ta cần chỗi dạy để nghe lời Chúa, và được bổ dưỡng bằng của ăn hằng sống là Mình và Máu Thánh Chúa để chúng ta có đủ sức cho cuộc hành trình đức tin. Chính lúc chúng ta thấy mệt mỏi vì phải thức khuya dạy sớm, làm việc nhiều giờ, vì vất vả lo lắng trong cuộc sống, là lúc chúng ta cần thức tỉnh, và chỗi dậy, để tiếp nhận của ăn hằng sống. Của ăn có khả năng nuôi dưỡng sức mạnh và bổ dưỡng tinh thần cho chúng ta trên con đường đi về núi Thánh.

 

Dấu Có Sự Sống

Thêm vào đó, nguyên việc tin tưởng và tiếp nhận Đức Kitô là Bánh Sự Sống từ trời chưa đủ bảo đảm cho chúng ta có sự sống đời đời trong mình. Tiếp rước Mình và Máu Đức Kitô, chúng ta cần phải trở nên giống như Ngài. Chúng ta cần phải cố gắng sống như lời khuyên dạy của Thánh Phaolô trong bài đọc 2: “Anh em hãy loại ra khỏi anh em tính gay gắt, tức giận, nóng nảy, dức lác, chửi rủa, cùng mọi thứ độc ác… Anh em hảy ăn ở hiền hậu, thương xót và tha thứ cho nhau.” Thanh trang tâm hồn chúng ta bằng những nhân đức ấy; rồi biết lắng nghe lời của Thiên Chúa và thường xuyên đến thánh đường tiếp nhận Mình và Máu Chúa Kitô cách sốt sắng là chúng ta có sự sống trường sinh trong mình ngay từ bây giờ. Sự sống đó chúng ta có thể cảm nghiệm được và những người chung quanh chúng ta cũng có thể nhận thấy nơi chúng ta.

 

61.Chúa Nhật 19 Thường Niên

     (Suy niệm của PM. Cao Huy Hoàng)

 

LƯƠNG THỰC TRÊN ĐƯỜNG LỮ HÀNH

 

Bánh và Nước

Từ Ai Cập về Đất Hứa, dân Chúa đã trải qua 40 năm trên hành trình sa mạc. Họ nản lòng vì nóng cháy, đói khát, vất vả. Họ muốn quay lại Ai Cập. Nhưng Thiên Chúa đã ban bánh Manna từ trời rơi xuống cho họ ăn và nước từ tảng đá hóa cương chảy ra cho họ uống.(x Đệ Nhị Luật 8, 2-3, 14b-16a).

 

Tiên tri Elia tìm đến núi Horeb còn gọi là Núi của Thiên Chúa để trốn thoát sự truy lùng của Vua Ai cập. Ông phải mất 40 ngày đêm đói khát trong hoang địa đến độ kiệt sức và nản chí nói “Đủ rồi đó Chúa ơi! Chúa cất mạng tôi đi”. Nhưng Thiên Chúa đã sai thiên thần mang bánh và nước đến cho ông để ông đủ sức tiến về núi Thánh (x I Rg 19:7)

 

Những người ăn Manna và cả Elia ăn bánh của các Thiên thần, thảy đều đã chết. Đúng như lời Chúa Giê-su nói hôm nay: “Ta là bánh từ trời xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn, và họ đã chết. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời.” (Ga 6, 58)

 

Thịt và Máu

 

Bánh và Nước của Cựu Ước là hình ảnh tiên báo Chúa sẽ ban loại Bánh và Nước mới trong Tân Ước, chính là Thịt và Máu của Chúa Giê-su, như chính Chúa đã nói: “Ta là Bánh Hằng sống từ trời xuống, ai ăn Bánh này sẽ không phải chết, nhưng được sống đời đời . Vì Bánh Ta sẽ ban chính là Thịt Ta để cho thế gian được sống” (Jn 6:51-52).

 

Trong bữa tiệc ly, Chúa Giê-su đã thực hiện điều Ngài đã nói trên đây, khi Ngài cầm tấm bánh, nâng chén rượu đọc lời chúc tụng và trao cho các tông đồ: “Hãy cầm lấy mà ăn, vì nầy là Mình ta, sẽ bị nộp vì các con” “Hãy cầm lấy mà uống vì nầy là Máu ta, Máu giao ước mới, giao ước vĩnh cửu, sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được tha tội”

 

Ngay sau đó, Ngài còn ủy thác cho các tông đồ “Các con hãy làm việc nầy mà nhớ đến Ta”. Đó là lễ phong chức linh mục đầu tiên trong Hội Thánh Công Giáo.

 

Như vậy, ngay sau lời truyền phép của Linh Mục, bánh và rượu đã trở nên Thịt và Máu của Chúa Giê-su cho chúng ta ăn và uống để được sống đời đời.

 

Sự Sống Đời Đời

Nếu Manna đã nuôi dân tiến về Đất Hứa, thì Mình Thánh Máu Thánh Chúa là của ăn của uống cho chúng ta đủ sức tiến về quê trời, về sự sống đời đời. Sự sống đời đời ấy, chính là cung lòng yêu thương của Ba Ngôi Thiên Chúa. Ấy vậy, mà chúng ta vẫn gọi Mình Thánh Máu Thánh Chúa là “của ăn đàng”, của ăn trên đường đi. Và khi rước lấy Mình Thánh Máu Thánh Chúa, có thể nói, chúng ta rước lấy cả Ba Ngôi Thiên Chúa ngự trị trong lòng.

 

Nếu nhờ Bánh Thiên Thần mà Elia đã đủ sức vượt khỏi sự truy lùng của Vua Ai-cập, thì những ai yêu mến và siêng năng rước lễ cũng đủ sức thắng vượt những cơn cám dỗ, những sự truy lùng của sa tan, của tội lỗi, để xứng đáng hưởng sự sống đời đời.

 

Sự sống đời đời mà chúng ta nhận lãnh nơi Mình Thánh Máu Thánh Chúa Giê-su, không chỉ là sự sống sau cái chết phần xác, nhưng còn là sự sống trong linh hồn ta ngay lúc nầy, khi còn sống trên dương thế. Đó còn là sự sống đầy tình bác ái huynh đệ của con cái Thiên Chúa mà Thánh Phao-lô giải thích rằng: cùng ăn một tấm bánh, cùng uống chung ly rượu, chúng ta cùng trong một thân thể của Chúa Giê-su Kitô. “Bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể”. (x.1cor 10, 16-17)

 

Lương thực trên đường lữ hành

Theo Thánh Phao-lô, cùng ăn một tấm bánh, cùng uống chung ly rượu, cùng sống trong một thứ “Lương Thực trền đường lữ hành về Quê Trời”, mà từ nhà đạo thường gọi là “Của Ăn Đàng”, chúng ta sống trong cùng một “thân thể”. Vậy nếu Mình Máu Thánh Chúa Giê-su đã trở nên của ăn đàng cho bạn, cho tôi, và trở nên mối dây hiệp nhất tôi bạn và mọi người trong cùng một nguồn sống, thì thiết nghĩ, bạn và tôi cũng phải trở nên “của ăn đàng” cho mọi người.

 

Tình yêu thương nhau, lòng bác ái, sự khiêm tốn phục vụ anh em là tấm bánh bẻ ra cho đời, là hình ảnh sự sống đời đời đang sống động trong cuộc đời dương thế

 

Những cố gắng hy sinh của cha mẹ đến độ gầy hư đi, hao mòn đi để bảo đảm cho con cái sự sống phần xác, chắc chắn sẽ mang một ý nghĩa thánh thiện, ý nghĩa hy tế, nếu những hy sinh ấy kết hiệp ước muốn của Chúa Giê-su là chia sẻ của ăn đàng cho nhau, chia sẻ tình yêu cho nhau.

 

Một chiếc bánh, một chén cháo, một tô hủ tiếu, một viên thuốc, một viên gạch, một tấm áo, một tấm chăn, một vài trăm ngàn đều… có thể có giá trị thánh thiện, và thiết tưởng, chỉ có giá trị thánh thiện khi ta cho đi với sự thôi thúc tự bên trong của Tình Yêu Chúa Giê-su Thánh Thể: Tình yêu đòi dâng hiến, đòi cho đi vì hạnh phúc của người khác.

 

Thánh Thể Chúa Giê-su, của ăn thiêng liêng, của ăn đàng cho linh hồn, đã cụ thể sống động thành những của ăn phần xác, thành cơm bánh, thành áo mặc, thành nhà cửa, thành thuốc men, thành những nhu cầu thiết yếu cho cuộc sống con người, thành những của lễ dâng trong thánh lễ thường ngày mà bạn và tôi đang cử hành trên hành trình dương thế.

 

Thánh Phaolô còn cụ thể tấm bánh bẻ ra ấy bằng một đời sống yêu thương, hiền hòa: “Anh em hãy loại ra khỏi anh em mọi thứ gay gắt, tức giận, nóng nảy, dức lác, chửi rủa, cùng mọi thứ độc ác. Anh em hãy ăn ở hiền hậu với nhau, hãy thương xót và tha thứ cho nhau, như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Đức Kitô” (Ep 4, 30) và “hãy sống trong tình thương, như Đức Kitô đã yêu thương chúng ta và phó Mình làm của dâng và lễ tế thơm tho ngọt ngào dâng lên Thiên Chúa vì chúng ta”. (Ep 5, 2)

 

Lạy Chúa Giê-su, chúng con tạ ơn Chúa đã ban Thịt và Máu Chúa cho linh hồn chúng con được sống và sống đời đời. Xin cho chúng con biết sống trước đời sống phục sinh ngay trên dương gian này bằng việc vui lòng trở nên tấm bánh bẻ ra cho mọi người được sống, bằng tình yêu thương, bác ái và hiệp nhất huynh đệ trong Chúa. Amen.

 

62.Đường lên Núi Chúa

    (Suy niệm của Như Hạ, OP)

 

Đời là một cuộc hành trình lên núi Chúa. Trên bước đường trần gian, nhiều biến cố dồn dập đến với con người. Biết bao người đã không leo đến đỉnh núi … Chính vì thế, Đức Giêsu đã mạc khải con đường sáng dẫn đến nguồn sống cho toàn thể nhân loại.

Đức Giêsu đã đi vào một trần gian đầy những con người thiển cận. “Chúa họ thờ là cái bụng.” (Pl 3:19) Đi từ nhu cầu cấp thiết và căn bản nhất, Đức Giêsu muốn mạc khải về chính bản thân: “Tôi là bánh từ trời xuống,” (Ga 6:41) để đem lại sự sống vĩnh cửu. Quả thực, “Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời.” (Ga 6:51) Nói khác, để lên “núi của Thiên Chúa,” (1 V 19:8) phải có một thứ lương thực mang lại sự sống đời đời.

Chính nguồn gốc và năng lực bánh ấy đã trở thành vấn đề cho “người Do thái xầm xì phản đối,” (Ga 6:41) vì họ không tin Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Đức tin này vượt quá nhận thức về thực tại và nguồn gốc tầm thường của Người. Dân Do thái đã từng xầm xì trước khi đón nhận nước và manna trong sa mạc (x. Xh 15:24; 16:2,7,12). “Xầm xì là một điển hình về ‘lòng bất tín.'” (The New Jerome Biblical Commentary 1990:962) Những đầu óc bảo thủ không thể thoát khỏi sức chi phối của những nếp suy nghĩ và phong tục thời đại. Nói khác, đó là phản ứng của con người tự nhiên.

Rõ ràng đức tin không phải là thái độ tự nhiên. “Không phải con người, nhưng Thiên Chúa mới đóng vai tích cực nhất trong công cuộc cứu độ.” (Life Application Study Bible 1991:1888) Không được Thiên Chúa giúp đỡ và soi sáng, không ai có thể tin vào Đức Giêsu Kitô. Nhờ Thánh linh thúc đẩy, con người có thể đi đến một lựa chọn quyết liệt trước ngưỡng cửa vĩnh cửu. Thánh linh là sức lôi hút của Chúa Cha. Chính Đức Giêsu quả quyết: “Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy.” (Ga 6:44) Thánh Phaolô là môt trường hợp điển hình. Ông đã từng chống đối quyết liệt niềm tin vào Đức Giêsu. Thế nhưng, ông đã không chống cưỡng nổi sức lôi hút ấy khi dấn thân theo Chúa.

Trên hành trình về nhà Cha, nhiều người cũng đang bị lôi hút mãnh liệt. Trước hết, họ “được Thiên Chúa dạy dỗ”(Is 54:13; Gr 31:34) để có thể đặt tất cả niềm tin vào Đức Giêsu Kitô. Những tia nắng dọi thấu con tim đó sẽ làm bừng lên cả một mùa hồng ân. Thế nhưng, ân sủng Thiên Chúa không bao giờ là một sức mạnh giết chết tự do. Chính ở niềm tin, con người chứng tỏ mức độ tự do cao cả nhất. Thực tế, không phải cứ biết là tin. Đức Giêsu chứng minh: “Phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Chúa Cha, thì sẽ đến với tôi.” (Ga 6:45) Có nhiều người chỉ nghe những gì muốn nghe, đón nhận những gì hợp sở thích và quyền lợi riêng. Họ “thuộc về đất và nói những chuyện dưới đất.” (Ga 3:31)

Trái lại, “chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến, chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha” (Ga 6:46) mới có thể mạc khải về sự sống huyền nhiệm và tình yêu sâu thẳm nơi Thiên Chúa. Đạt tới đỉnh cao ấy, con người phải trải qua một hành trình rất dài, dài hơn “cuộc hành trình lên núi Khôrếp” (1 V 19:4) của ngôn sứ Êlia trong sa mạc. Làm sao đạt tới đích, nếu không có lương thực? Thực tế, không có một thứ lương thực trần gian nào có thể giúp con người đi đến cùng đường. Kinh nghiệm lịch sử Do thái đã cho Đức Giêsu thấy: “Tổ tiên các ông đã ăn manna trong sa mạc, nhưng đã chết.” (Ga 6:49)

Không có bánh trường sinh là chính Đức Giêsu (Ga 6:48), làm sao lên núi Chúa? Không những “ai ăn (bánh này) thì khỏi phải chết” (Ga 6:50), mà còn “được sống muôn đời” (Ga 6:51) trong Nhà Chúa. Bởi vậy, Đức Giêsu trở thành lương thực vô cùng cần thiết. Người còn nói rõ: “Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống” (Ga 6:51) mà hoàn thành cuộc hành trình về Nhà Cha. Muốn được thế, Đức Giêsu “đã tự nộp mình làm hiến lễ, làm hy lễ dâng lên Thiên Chúa tựa hương thơm ngào ngạt,” (Ep 5:2) và trở thành “bánh hằng sống” (Ga 6:51) bổ dưỡng muôn dân trên đường lên núi Chúa. Khác hẳn với bánh nuôi sống ngôn sứ Êlia, “bánh hằng sống” có khả năng làm cho tín hữu “sống lại trong ngày sau hết.” (Ga 6:44)

Như thế “bánh hằng sống” vừa là của ăn đàng vừa giúp tín hữu đạt tới hạnh phúc sau cùng. Trên hành trình trần gian, nhờ “bánh hằng sống”, người tín hữu có khả năng “bắt chước Thiên Chúa” (Ep 5:1) để “sống trong tình bác ái.” (Ep 5:2) Nói khác, nhờ “bánh hằng sống”, các tín hữu hiệp nhất với nhau. Thật thế, “bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể.” (1 Cr 10:17)

Hiệp nhất lớn nhất tỏ lộ trong lời cầu nguyện trong Thánh thể. Thật vậy, “cầu nguyện đem lại niềm hi vọng, niềm vui và ánh sáng, nhờ chân thành cậy dựa vào Thiên Chúa và thánh ý đầy tình yêu của Người. Đây là sức mạnh lời cầu nguyện, nguyên nhân sinh ra sự sống và ơn cứu độ.” (ĐGH Gioan Phaolô II: Zenit 9/7/03) Chính lời cầu nguyện trước Thánh Thể giúp tín hữu liên kết với Chúa Cha và “có thể đón nhận tất cả tình yêu cứu độ và trọn vẹn sự sống của Người.” (ĐGH Gioan Phaolô II: Zenit 9/7/03) Không được “bánh hằng sống” ấy bổ dưỡng, không thể có sức mạnh vượt qua những cơn đau buồn và sẽ “lâm vào cảnh cô độc và chết chóc, vì Chúa là nguồn sống.” (ĐGH Gioan Phaolô II: Zenit 9/7/03) Bởi đấy, “bánh hằng sống” là một mối lợi lớn nhất giúp người lữ hành trần gian thoát khỏi cơn đói khát và đủ sức đi trọn đường lên núi Chúa.

 

63.Một Chúa Kitô đến trong xác thịt

     (Suy niệm của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL)

 

Trong bài Phúc Âm tuần trước, Thánh Ký Gioan cho chúng ta thấy Chúa Giêsu bắt đầu tỏ cho chúng ta biết ý nghĩa siêu nhiên thực sự của bánh ăn cũng như của việc ăn bánh: Bánh Sự Sống đây chính là bản thân Người, và việc ăn bánh đây, trên hết và trước hết, là tin vào Người. Tuần này, tiếp tục cùng đoạn 6 của Phúc Âm Thánh Gioan, Chúa Giêsu đã mạc khải hơn nữa về Bánh Sự Sống: “Bánh Tôi sẽ ban chính là thịt của Tôi cho thế gian được sự sống”, một lời minh định làm thính giả hết sức thắc mắc và đầy kinh hoàng, thậm chí trong cả thành phần môn đệ của Người, như bài Phúc Aâm hai tuần nữa cho thấy. Thật vậy, tất cả những điều Người mạc khải ở bài Phúc Aâm Chúa Nhật tuần trước và tuần này cũng như tuần sau đều là một mầu nhiệm, mầu nhiệm thần linh vượt tầm mức hiểu biết tự nhiên của con người, một mầu nhiệm chỉ có đức tin mới thấu triệt, một mầu nhiệm chỉ có chính Đấng mạc khải mới làm cho con người chấp nhận dù không hiểu. Đó là lý do Chúa Giêsu đã khẳng định “không ai đến được với Tôi nếu Cha Tôi không cho phép”.

 

Đúng thế, một đàng con người trần gian hữu hình và hữu hạn không thể nào thấu triệt được Thiên Chúa, đúng như Ngài là, nếu chính Ngài không tỏ mình Ngài ra cho họ biết. Thế nhưng, chính lúc Ngài tỏ tất cả bản thân của Ngài ra qua Con Người Giêsu Nazarét thì nhân loại, qua dân Do Thái, cũng không thể nào hiểu nổi: Làm sao Thiên Chúa có thể trở thành một con người? Thiên Chúa thực sự cần phải hóa thành nhục thể vô cùng thấp hèn hay sao? Con Người Lịch Sử Giêsu Nazarét quả thực là Thiên Chúa hay sao? Đó là lý do trong bài Phúc Aâm Chúa Nhật tuần này dân chúng đã đặt vấn đề về nguồn gốc của Đấng công khai tuyên nhận: “Tôi là bánh từ trời xuống”, ở chỗ, trước mắt họ Đấng ấy chỉ là một con người như họ, đã từng sống với họ, một con người có cha mẹ anh chị em họ hàng họ đều quen biết, thế mà họ lại nghe Người phán Người từ trời mà xuống.

 

Nếu trước thời điểm và biến cố Lời Nhập Thể con người tự bản chất hướng về tín ngưỡng có khuynh hướng đa thần và tôn thờ ngẫu tượng thế nào, thì sau khi “ánh sáng thật chiếu soi hết mọi người đến trong thế gian” (Jn 1:9), con người càng ngày càng bớt mê tín dị đoan, càng bớt đa thần như vậy. Tuy nhiên, sau khi “Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta” (Jn 1:14), một hiện tượng tôn giáo khác đã xuất hiện, trực tiếp liên quan đến Kitô giáo và thuộc nội bộ Kitô giáo, đó là, con người càng văn minh khoa học lại càng trở thành vô thần, lại càng trở nên thành phần phản kitô, anti-christ, tức là thành phần không chấp nhận Chúa Kitô đến trong xác thịt (x 2Jn 7; 1Jn 4:2), hay không chấp nhận Con Người Giêsu là Đức Kitô. Hiện tượng này hiện nay đã quá hiển nhiên ở thế giới Tây Phương, thế giới Kitô giáo, một thế giới đã từng truyền bá đức tin, truyền bá hạt giống Kitô giáo khắp nơi trên thế giới, nhất là vào thời kỳ tân thế giới cuối thế kỷ 16, lại là một thế giới đang phủ nhận căn tính Kitô giáo của mình, đang sống như không hề có Thiên Chúa. Họ chẳng những hạ bệ Thiên Chúa xuống, bằng cách dẹp bỏ lề luật tự nhiên và luân lý của Ngài, như việc hợp thức hóa vấn đề ly dị và phá thai, mà còn thay thế Ngài bằng các thứ ngẫu tượng hiện đại là chủ nghĩa duy nhân bản và duy thực dụng, chủ nghĩa chỉ biết pro choice theo quyền làm người vô lối của mình, chỉ biết cá nhân và hưởng thụ, như việc cho phép hôn nhân đồng tính phái và việc thực hiện các phương pháp tạo sinh ngoại nhiên (cấy thai, cloning v.v.).

 

Tất cả những khoản luật này hay các khoản tương tự đã không nói lên khuynh hướng con người chỉ công nhận một “Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt.16:16), chứ không chấp nhận một “Con Người” khổ nạn và tử nạn rồi mới phục sinh (xem Mtù. 20:18-19; 16:21). Tức con người thiên về khoa học thực nghiệm và kỹ thuật tiện ích ngày nay chỉ giải quyết mọi sự, bao gồm cả lãnh vực lương tâm và luân lý, căn cứ vào những cái lợi thực tế mà thôi, hễ có lợi là tốt, mà tốt thì cần phải làm và được phép làm, có quyền làm, dù có phản trái với lương tâm hay nguyên tắc luân lý phổ quát đi nữa. Chân lý của con người ngày nay là phán đoán chủ quan của họ, và sự thiện của họ là lợi lộc hiện sinh của họ. Nghĩa là con người thuộc “triều đại của Satan” ngày nay muốn thay thế Thiên Chúa trong việc “biết lành biết dữ” (Gen.3:5), tức muốn tự mình định đoạt tất cả mọi sự theo ý riêng của mình, cái gì họ nghĩ lành là lành, như ly dị, phá thai, hôn nhân đồng tính, tạo sinh ngoại nhiên v.v., nên có quyền làm; và cái gì họ cho dữ là dữ, như thai nhi tàn tật, bệnh nhân bất trị v.v., nên cần phải giết đi!

 

Thế nhưng, với lý luận sắc bén và thực tế như thế, nhất là lối lý luận này lại được chính quyền hợp thức hóa, được nhiều người theo như thế, làm sao Kitô hữu chúng ta có thể nhận ra những sai lầm của “triều đại Satan”, tức có thể nhận diện và điểm mặt thành phần phản kitô này, một thành phần mà Thánh Kinh Tân Ước đã nhận định “chúng từ hàng ngũ của chúng ta mà ra” (1Jn.2:19). Chính vì thành phần này, cũng Thánh Kinh Tân Ước nhận định, là thành phần “gian xảo” (2Jn.7), mà Chúa Giêsu đã cảnh giác các môn đệ trong những ngày cuối thời, “lừa đảo nhiều người” (Mt.24:5,11), thậm chí lừa đảo “cả thành phần được chọn” (Mt.24:24). Ngay thánh Phêrô, sống ở kề bên và sống ngay trước một “Đức Kitô” (Mt.16:16) thực sự, như ngài được ơn Chúa tuyên xưng (xem Mt.16:17), mà còn trở thành “Satan” (Mt.16:23), tức còn khuynh hướng phản kitô, chưa hoàn toàn công nhận Đức Giêsu Kitô đến trong xác thể, huống chi chúng ta đã sống xa Người cả gần 2000 năm, chưa hề được “nghe bằng tai, thấy bằng mắt, sờ bằng tay” (1Jn.1:1), như các tông đồ là chứng nhân tiên khởi của Kitô giáo chúng ta.

 

Bởi thế, căn cứ vào lời Chúa Giêsu trách cứ thánh Phêrô trong việc thánh nhân “không phán đoán theo Thiên Chúa mà chỉ theo loài người” (Mt.16:23), tức chỉ theo phán đoán tự nhiên của mình hướng về những gì tốt lành chủ quan, chứ “không chấp nhận” (Jn.1:12) mạc khải của Thiên Chúa, một mạc khải được trọn vẹn thể hiện nơi “Lời đã hóa thành nhục thể” (Jn.1:14) là Đức Giêsu Kitô đã đến trong xác thịt, chúng ta có thể kết luận để lột trần bộ mặt phản kitô nơi chính bản thân mình cũng như trong việc giao tiếp xã hội. Sau đây là 4 dấu hiệu cho thấy đâu là thành phần kitô giả hay tinh thần kitô giả, thành phần không chấp nhận Chúa Kitô đến trong xác thịt, được thể hiện hay bộc lộ qua những dấu hiệu, thứ nhất, tỏ ra không tôn phục con người đại diện Người trên trần gian; thứ hai, tỏ ra không tôn kính bí tích Thánh Thể; thứ ba, tỏ ra không tôn sùng Mẹ Maria là Vị đã thụ thai và hạ sinh Người; thứ bốn, tỏ ra không tôn trọng thành phần anh em hèn mọn của Người trong xã hội loài người, hay ghê tởm thánh giá đau khổ Chúa gửi đến cho.

 

Dấu hiệu thứ nhất: những ai không tuân phục quyền bính Giáo Hội và Đức Thánh Cha nói riêng, đều là phản kitô, vì Giáo Hội là thân thể của Chúa Kitô và vị đại diện của Người trên trần gian là đầu của thân thể này, không tuân phục Giáo Hội và Đức Thánh Cha là không công nhận Đức Giêsu Kitô đã đến trong xác thể.

 

Dấu hiệu thứ hai có thể nhận diện thành phần phản kitô là họ không tin hay coi thường Bí Tích Thánh Thể, một thực tại thần linh mà Đức Giêsu Kitô còn đang hiện diện bằng cả thần tính cũng như nhân tính của Người nói chung và Mình Máu Thánh Người nói riêng; không tin hay tôn sùng Thánh Thể là dấu chứng tỏ phản kitô, thành phần không công nhận Đức Giêsu Kitô đã đến trong xác thịt.

 

Dấu hiệu thứ ba cũng không kém phần vững chắc để nhận ra thành phần phản kitô là họ không nhận biết Mẹ Maria, thậm chí còn chỉ trích và chống đối việc tôn sùng Mẹ, vì như thế là họ tỏ ra cũng không công nhận Đức Giêsu Kitô đã đến trong xác thịt, tức đã được sinh ra bởi Mẹ Maria.

 

Dấu hiệu thứ bốn để nhận ra thành phần phản kitô là lòng thù hằn thánh giá của họ, ở chỗ không phải họ chỉ sợ hãi và tránh né thánh giá theo tính tự nhiên như mọi con người bình thường, mà còn dùng thủ đoạn bất chính để tiêu diệt thánh giá nữa, bằng cách không được như ý là ly dị, là phá thai, là giết người nhân đạo v.v.; mà thánh giá là đường lối duy nhất Lời nhập thể đã dùng để cứu rỗi nhân loại, do đó, “trở thành những kẻ thù của thánh giá Đức Kitô” (Phil.3:18) như thế tức là không công nhận Đức Giêsu Kitô đã đến trong xác thịt.

 

Nếu “Thiên Chúa là Thần Linh” (Jn 4:24) thực sự làm người nơi “Lời đã hóa thành nhục thể” (Jn 1:14), và Lời Nhập Thể thực sự là Bánh Sự Sống từ trời xuống, là Mạc Khải Thần Linh, thì quả thực, đúng như Người đã khẳng định: “Bánh Tôi sẽ ban chính là thịt Tôi cho thế gian được sống”. Vì qua xác thịt của Người, một Thánh Thể Vượt Qua, thế gian đã được cứu độ, một Giáo Hội đã được hạ sinh, một nhân loại sẽ được canh tân “trong Thần Linh và chân lý” (Jn 4:24).

 

64.Chúa Nhật 19 Thường Niên

     (Suy niệm của Lm. Xuân Hy Vọng)

 

‘MANNA’ HẰNG SỐNG

Trên cuộc lữ hành dương thế này, không ai trong chúng ta đánh giá thấp sự thiết yếu, cần kíp của lương thực, nước uống, và các vật phẩm cần thiết cho cuộc sống thể lý của chúng ta. Tuy nhiên, đã là con người, chúng ta cũng cần được nuôi dưỡng về mặt tinh thần, tình cảm, tâm linh, tâm lý, v.v… nữa đấy!

 

Trong đoạn trần thuật hôm nay, Chúa Giê-su công bố “Ta là Bánh từ trời xuống” (x. Ga 6, 41), “Ta là Bánh Trường Sinh” (x. Ga 6, 48), và “Ta là Bánh Hằng Sống từ trời xuống” (x. Ga 6, 51) để nuôi sống chúng ta, để đồng hành và trợ lực cho chúng ta ‘chạy hết cuộc đua trần thế này’, hầu lãnh được mũ triều thiên vinh hiển, đó là: Sự sống đời đời – sống mãi bên Thiên Chúa.

 

Kính thưa ông bà, anh chị em thân mến!

Đã là người Công Giáo, chúng ta biết rõ tầm quan trọng của Thánh lễ, Bí tích Thánh Thể, cũng như tin vào ân sủng và sức mạnh của việc lãnh nhận chính Mình Máu Thánh Chúa – Bánh Hằng Sống. Thiết nghĩ, có lẽ vì hoàn cảnh, cuộc sống và trạng huống của xã hội Nhật Bản, nên dường như thói quen tốt đẹp của người giáo dân Việt Nam chúng ta dần dần mai một, lạnh nhạt đi; đặc biệt, con cháu của chúng ta được sinh ra, giáo dưỡng, hấp thụ lối suy nghĩ có thể nói là ‘cấp tiến’ hay ‘tiến bộ’ hơn ông bà, cha mẹ, những bậc chăm lo giáo dục cũng như hướng dẫn đời sống thiêng liêng, nên chúng dần dần rời xa niềm xác tín vào việc tham dự Bàn Tiệc Thánh, hăng say chạy đến lãnh nhận chính suối nguồn sự sống từ Bí tích Thánh Thể – bí tích Tình yêu. Từ việc lơ là, sao nhãn này dẫn đến nỗi lãnh cảm, lãnh đạm với Thánh Lễ và bí tích Thánh Thể. Quá nhiều lần, không ít trong chúng ta thốt lên rằng: “với cương vị, trách nhiệm của một người cha, người mẹ, người giáo dưỡng, chúng ta phải làm gì đây để con cháu chúng ta đến gần với Chúa, hiệp thông Thánh lễ và lãnh nhận Bí tích Thánh Thể?” hoặc đôi lần trong ý nghĩ, tư tưởng, chúng ta đành ‘bỏ cuộc vì bất lực trước sự khô cứng, dửng dưng của chúng’, v.v…

 

Dẫu cho thực thế có bi quan như vậy đi chăng nữa, chúng ta cũng nên giữ mãi những gì là tốt đẹp, những thói quen tốt lành, đời sống đạo đức bình dân, giản dị này như thánh Phao-lô khuyên dạy các tín hữu giáo đoàn The-xa-lô-ni-ca: “Hãy cân nhắc mọi sự: điều gì tốt thì giữ; còn điều xấu dưới bất cứ hình thức nào thì lánh cho xa” (x. 1Tx 5, 21 – 22). Và nhất là giữ cho tâm hồn luôn được bình an, trong sạch; lòng nhiệt huyết sống chứng tá, làm gương trong mọi trạng huống của cuộc sống. Mỗi lần đến với Thánh lễ và lãnh nhận bí tích Thánh thể, xin cho mỗi người chúng ta luôn biết ‘sắp xếp’ tâm tư, ước vọng, đam mê của mình lại cho ngăn nắp, chuẩn bị cho xứng đáng khi rước Mình Máu Chúa – lãnh nhận chính Sự sống thần linh của Thiên Chúa. Hơn nữa, nếu ý thức con người tội lỗi, yếu hèn, bất xứng của ta thì hãy chạy đến bí tích Hoà giải; nơi đó xin Chúa thánh hoá, rửa sạch tâm hồn bợn nhơ của ta, để rồi chúng ta xứng đáng rước Chúa vào ‘căn nhà ấm áp, sạch trong’ của ta. Mặc khác, khi được kết hiệp nên một với Chúa qua việc lãnh nhận bí tích Thánh thể, chúng ta được ý thức hơn về ân sủng lớn lao ấy như các bài đọc trong ngày hôm nay diễn tả ý nghĩa và đặc sủng mà chúng ta có thể múc lấy nơi chính bí tích Tình yêu – bí tích Thánh Thể, đó là:

 

Được trợ lực, được nâng đỡ trên cuộc hành trình tiến về Nước Trời dù bao lo toan, mệt nhoài của cuộc sống trần thế có thể khiến chúng ta ‘ngủ mê’ hoặc ‘quỵ ngã’ (x. Cuộc hành trình 40 đêm ngày của tiên tri Ê-li-ah trong bài đọc 1 trích từ sách Các Vua quyển thứ nhất, chương 19, câu 4-8);

 

Thứ đến, được thánh hoá, được biến đổi thành những người biết ăn ở hiền hậu, thương xót, tha thứ cho tha nhân, dẫu rằng những đam mê, tham, sân, si, ai, ái, hỉ, nộ khiến ‘cái tôi’ của chúng ta trở nên to tướng, ngán đường cản trở những gì lành thánh tốt đẹp của ta được biểu lộ; hay những thứ gay gắt, tức giận, nóng nảy, dức lác, chửi rủa, độc ác dần dần được ‘nhỏ lại’ để hoa quả của niềm vui, sự bình an, lòng bác ái, v.v…chớm nở, đơm hoa kết trái dồi dào qua tư tưởng, hành động, lời nói, việc làm của chúng ta (x. Ep 4, 30 – 5, 2);

 

Sau cùng, ơn thánh từ Thiên Chúa luôn luôn vượt xa, vươn lên trên lòng mong mỏi của con người chúng ta, đó là: ơn được sự sống đời đời. Một ơn huệ cao quý hơn tất cả các hiệu ứng của sự trông mong, niềm khát khao tận cùng của con người: được sống mãi bên Chúa (x. Ga 6, 41-52).

 

Ngẫm suy, nhìn lại cuộc sống của chính mình, chúng ta không khỏi không buồn trước việc biết bao lần chúng ta lãnh đạm, hay lãnh nhận Mình Máu Thánh Chúa một cách máy móc, thói quen, ‘không hồn’, hay tệ hơn nữa, chúng ta rước lấy bí tích Thánh thể một cách bất xứng! Hơn nữa, mỗi khi chúng ta đón nhận chính sự sống Thần linh của Chúa, chúng ta lại chưa tin nhận, chưa dám đồng hành với Ngài trên cuộc lữ hành đức tin nơi dương thế này! Chúng ta lãnh nhận bí tích Thánh thể như thể một ‘rô-bốt’ và rồi thời gian cứ trôi, ‘rô-bốt’ cứ mãi là ‘rô-bốt’; nghĩa là: đời sống chúng ta chẳng hề thay đổi theo lời mời gọi của Chúa, chưa vâng theo sự trợ lực của ơn Người như Đức Giáo Hoàng đương kim đáng kính của chúng ta chia sẻ “người Ki-tô hữu không biết dấn thân, khiêm tốn cúi xuống ‘rửa chân’ cho tha nhân, mỗi khi lãnh nhận bí tích Thánh thể, thì họ chưa hiểu gì về ý nghĩa thâm sâu của việc rước Mình Máu Thánh Chúa”.

 

Lạy Chúa, nguyện xin cho mỗi người chúng con ý thức hơn về ơn thông phần vào sự sống thần linh của Chúa qua việc lãnh nhận Bí tích Thánh thể mỗi ngày. Amen!

***

MỘT ĐIỀU KỲ DIỆU TRONG ĐỜI

“Sống trong đời sống, cần có một tấm lòng! Để làm gì em biết không? Để gió cuốn đi…”. Đây là lời bài hát ‘Để Gió Cuốn Đi’ của cố nhạc sỹ Trịnh Công Sơn. Tuy ông không phải là người Ki-tô hữu, nhưng với triết lý sống thâm thuý của ông đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng chúng ta. Sống giữa cuộc đời này, chúng ta cần một tấm lòng để rồi nhờ những làn gió thoảng đưa đến với anh chị em, để rồi tấm lòng ấy được chia san không ngơi nghỉ. Nhưng trên thực tế, ôi thay, với cỗ máy xã hội quay không ngớt, không dừng lại để chờ đợi ai, chúng ta thường cần ‘một đóng tiền’ chứ không cần ‘một tấm lòng’, để gió bụi thổi tứ phía, hầu đạt được những gì mình tham vọng.

 

Và rồi theo lối suy nghĩ, cách sống này, chúng ta dễ dàng quỵ ngã và thốt lên như tiên tri Ê-li-a trong bài đọc I rằng: “Lạy Chúa đã đủ rồi, xin cất mạng sống con đi…” (x. V 19, 4). Trên cuộc hành trình lữ khách trần ai này, chúng ta thường than thở, thở than, ôi chao sao cuộc đời đầy những nỗi ưu phiền, niềm vui thì chẳng được bao, mà sầu vương thì nhiều vô lối! Đường đời thì xa tít tắp đầy chông gai, lộ trình thì dài ngoằn nghèo, đơn thân độc mã ra đi! Tuy nhiên, chính khi đối diện với bản thân, chúng ta càng thấy rõ những yếu đuối của chính mình; chúng ta càng nhận ra sự trợ lực của Bí tích Thánh Thể, sự đồng hành của Chúa và anh chị em trong mỗi giây phút sống, làm việc và sinh hoạt của ta. Chúng ta được đánh thức sau những cơn mê dài, sau những giấc ngủ triền miên trong sự quên lãng ân tình Chúa đã hứa ban, và con tim khép kín trước anh chị em, “hãy chỗi dậy mà ăn: vì đường ngươi phải đi còn xa” (x. V 19, 7). Đường đời làm chứng tá cho Chúa Phục Sinh còn xa thật, nhưng yên lòng an tâm vì có Chúa ở cùng. Người hằng kết hiệp và muốn trở nên một với ta, để qua tư tưởng, cách nhìn, cử chỉ, lời nói, ánh mắt, biểu lộ tâm tư, hành động, v.v… tất cả đều toát lên con người Ki-tô như Thánh Phao-lô quả quyết sự hiện diện thâm sâu của Chúa Ki-tô qua Ngài “…không phải tôi sống nữa, mà là chính Chúa Ki-tô đang sống trong tôi” (Gl 2, 20).

 

Hơn thế, sự sống nhân linh không chỉ dừng lại tại dương thế này, mà được chung hưởng phần sự sống đời đời. Khi lãnh nhận Thánh Thể, chúng ta được tháp nhập vào sự sống thần linh của Chúa Ki-tô, và được thừa hưởng sự sống vô hạn của chính Thiên Chúa nữa. Sự sống ấy không phụ thuộc vào không gian, thời gian, khung cảnh, nơi chốn; mà sự sống ấy được diễn tả qua sự đồng hình đồng dạng với Đấng đã trao ban sự sống thiêng liêng cho ta. Như thế, chúng ta luôn được sống trong Người – Đấng là nguồn sự sống vĩnh cửu, “Ta là bánh ban sự sống…Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ sống đời đời” (x. Ga 6, 48. 51)

 

Thật không còn ngôn từ nào có thể diễn tả được niềm vui vượt xa trí hiểu của chúng ta. Một Thiên Chúa đầy quyền năng, là nguồn cội của sự sống mà lại muốn hiến trao, chia san sự sống thiên tính ấy cho con người yếu hèn như chúng ta! Thế nhưng, Người cũng mong mỏi chúng ta khi thông phần vào sự sống ấy, chúng ta cũng hãy trở nên như Người, Đấng đã ban Mình và Máu Người cho ta như Thánh Phao-lô khuyên nhủ giáo đoàn Ê-phê-sô và chúng ta: “hãy sống trong tình thương, như Đức Ki-tô đã yêu thương chúng ta” (Ep 5, 2). Một khi chúng ta để Chúa hành động qua con người ta, thì ‘cái tôi’ to tướng của ta sẽ nhỏ bé lại, và lòng vị tha sẽ được lớn lên qua những hành vi, cử chỉ sống hiền lành, tử tế, thương xót, đồng cảm, thứ tha, v.v…Dĩ nhiên, như vậy thì mọi thái độ gay gắt, tức giận, hiềm tị, nóng nảy, dức lác, chửi rủa, v.v…sẽ nhỏ lại và được san bằng. Trong một bài yết kiến chung, Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô kính yêu của chúng ta có nói rằng: “Nếu sau khi chúng ta rước lễ, mà chúng ta không dám ra đi ‘rửa chân’ cho anh chị em mình, thì chúng ta chẳng hiểu được ý nghĩa sâu xa của việc rước lễ”. Thật vậy, qua bí tích Thánh Thể, chính Chúa Ki-tô trở nên một với ta, Người ban sức sống, nhiệt huyết, dũng khí cho ta, hầu ta dám ra khỏi con người của ta, một con người có xu hướng co cụm, chỉ biết bám víu hay hì hục trong ‘chăn ấm nệm êm’ của riêng mình, để hăng say phục vụ, chia san, đồng hành với anh chị em bằng cử chỉ khiêm hạ, đơn sơ, đó là biết ‘rửa chân cho nhau’.

 

Chúng con cảm tạ Chúa hết lòng, hết tâm trí mọn hèn của con vì ‘phép lạ’ của Bí tích Thánh Thể, một điều kỳ lạ vượt trên trí hiểu con người, nhưng lại rất gần gũi với con người chúng con. Xin cho chúng con biết ra đi phục vụ, yêu thương, tha thứ mỗi lần chúng con lãnh nhận sức mạnh thần thiêng, sức sống vĩnh cửu từ bí tích Tình yêu. Amen.

 

65.Chúa Nhật 19 Thường Niên

   (Suy niệm Chú giải Lời Chúa của Lm. Inhaxiô Hồ Thông)

 

Diễn từ về Bánh Hằng Sống tiếp tục ngự trị Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XIX này.

 

1V 19: 4-8

Bài Đọc I thuật lại một trong những chuyện tích tâm linh rất phong phú về cuộc đời của ngôn sứ Ê-li-a. Bị trục xuất khỏi vương quốc miền Bắc, đơn độc và chán nản trong sa mạc, ngôn sứ Ê-li-a được thần lương bồi dưỡng lấy lại sức lực và thẳng tiến đến núi thánh của Đức Chúa.

Ep 4: 30-5: 2

Trong thư gởi tín hữu Ê-phê-xô, thánh Phao-lô đưa ra cho các Ki-tô hữu mẫu gương hoàn thiện theo Ba Ngôi Thiên Chúa: sống theo Thần Khí, bắt chước Chúa Cha, thực hành đức ái như Đức Giê-su.

Ga 6: 41-51

Tin Mừng tiếp tục giới thiệu diễn từ về Bánh Hằng Sống, trong đó Chúa Giê-su công bố Ngài là Bánh Hằng Sống từ trời xuống, nguồn sống đời đời cho nhân loại.

 

BÀI ĐỌC I (1V 19: 4-8)

Đây là một trong những chuyện tích tâm linh rất phong phú về cuộc đời của ngôn sứ Ê-li-a, vị ngôn sứ sống vào thế kỷ thứ chín trước Công Nguyên trong vương quốc phương Bắc, vào thời vua A-kháp trị vì (874-853 B.C.).

 

  1. Bối cảnh lịch sử:

Vua A-kháp chẳng những kết hôn với công chúa I-de-ven ngoại giáo, lại còn khuyến khích phụng thờ thần Ba-an. Vua lập một bàn thờ để kính thần Ba-an trong đền thờ mà vua đã xây dựng tại thành đô Sa-ma-ri. Hoàng hậu I-de-ven không những nhiệt thành truyền bá việc tôn thờ thần Ba-an trong vương quốc Ít-ra-en miền Bắc, nhưng còn cho các ngôn sứ của thần Ba-an ở trong dinh thự của bà ở thành đô Sa-ma-ri.

 

Ngôn sứ Ê-li-a kịch liệt chống lại việc thờ thần ngoại giáo nầy. Ông đã đạt được một chiến thắng vang dội của Thiên Chúa Ít-ra-en trên thần Ba-an ở trên núi Các-men. Trong một cuộc thách đố, hy lễ và khẩn nguyện mà các ngôn sứ của thần Ba-an dâng lên cho thần Ba-an để xin thần cho mưa xuống vào thời kỳ hạn hán, chẳng đem lại kết quả gì; trái lại, hy lễ và khẩn nguyện mà ngôn sứ Ê-li-a dâng lên Đức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, được nhậm lời ngay lập tức. Do đó, dân chúng nỗi giận giết chết các ngôn sứ của thần Ba-an. Khi nghe biết, hoàng hậu I-de-ven nổi cơn thịnh nộ ra lệnh giết ngôn sứ Ê-li-a, vì thế ông phải trốn chạy để bảo vệ mạng sống mình.

 

  1. Cuộc hành trình lên núi thánh.

Ngôn sứ Ê-li-a lên đường hướng về sa mạc, với ý định đến núi Kho-rếp (cũng còn được gọi là núi Xi-nai). Ông muốn đi lại lộ trình mà trước đây ông Mô-sê đã đi để tôi luyện niềm tin của mình ở nơi mà Đức Chúa đã tỏ mình ra. Sau một ngày đường trong sa mạc, vị ngôn sứ kiệt sức và chán nản muốn bỏ cuộc, vì vậy ông cầu xin Chúa: “Lạy Chúa, đủ rồi! Bây giờ xin Chúa lấy mạng sống con đi, vì con chẳng hơn gì cha ông của con” (19: 4). Lời khẩn nguyện của ông ám chỉ đến những người Do thái phải chết trong sa mạc mà không được nhìn thấy Đất Hứa vì họ đã nghi ngờ.

 

Vị ngôn sứ vốn nổi tiếng là người nhiệt thành bất khuất của Đức Chúa đã phải chán nản ngã lòng đến như vậy. Thình lình một thiên sứ xuất hiện gọi vị ngôn sứ: “Dậy mà ăn!” (19: 5). Ông đưa mắt nhìn thấy một chiếc bánh nướng và một hũ nước đặt sẳn bên cạnh ông. Đồ ăn thức uống này thật sự rất quý trong sa mạc hoang vu và nóng cháy nầy.

 

Nhưng phải can thiệp đến lần thứ hai vị thiên sứ mới có thể lay chuyển vị ngôn sứ. Cuối cùng, nhờ thần lương tiếp sức, vị ngôn sứ lại tiếp tục cuộc hành trình của mình. Ông đi một mạch suốt bốn mươi ngày đêm tới núi Kho-rếp, núi của Thiên Chúa. “Bốn mươi” là con số biểu tượng, đặc biệt gắn liền với kỷ niệm bốn mươi năm dân Do thái hành trình trong sa mạc trên đường về Đất Hứa; cũng là bốn mươi ngày ông Mô-sê ăn chay cầu nguyện trước khi lãnh nhận hai tấm bia Lề Luật. Vị ngôn sứ đã đạt đến đích cuộc hành hương, nhưng sứ mạng của ông chưa hoàn tất. Ông sẽ phải trở về Sa-ma-ri và tiếp tục sứ vụ ngôn sứ của mình.

 

Bốn trăm năm đã trôi qua giữa ông Mô-sê và ngôn sứ Ê-li-a. Danh tiếng của hai vị được liên kết với đỉnh núi Khô-rếp, núi thánh của Đức Chúa. Hai nhận vật Cựu Ước danh tiếng lừng lẫy nầy sẽ cùng nhau tái xuất hiện trên đỉnh núi Biến Hình (Mt 17: 3).

 

BÀI ĐỌC II (Ep 4: 30-32-5: 2).

Chúng ta tiếp tục đọc phần thứ hai thư gởi tín hữu Ê-phê-xô, phần luân lý và khuyên bảo. Nét đặc trưng của đoạn trích hôm nay chính là lời kêu gọi các tín hữu sống hoàn thiện theo mẫu gương Ba Ngôi Thiên Chúa: sống theo Thánh Thần, bắt chước Chúa Cha và thực hành đức ái như Đức Ki tô.

 

  1. Sống theo Thần Khí (4: 30-31):

Người tín hữu đã lãnh nhận ấn tín của Chúa Thánh Thần vào ngày chịu phép Rửa Tội, “để chờ ngày cứu chuộc” (hoặc sau khi qua đời hay vào ngày Đức Ki-tô quang lâm, thánh nhân không xác định). Trong khi chờ đợi, điều quan trọng là sống làm sao đừng làm phiền lòng Chúa Thánh Thần.

Thánh Phao-lô không ngại gợi lên những cách sống làm phiền lòng Thánh Thần. Trong Cựu Ước, Thiên Chúa đã thất vọng trước những bất tín của dân Ngài, điều nầy thường được diễn tả bằng cơn thịnh nộ hơn sự phiền lòng. Tuy nhiên, sự phiền lòng nầy cũng được gợi lên nhiều lần. Quả thật, ngôn sứ I-sai-a đệ tam, vị ngôn sứ của thời hậu lưu đày, đã minh nhiên kể ra điều nầy bằng những từ ngữ báo trước những từ ngữ của thánh Phao-lô. Trong lời khẩn nguyện thống thiết, vị ngôn sứ nhắc lại những ân huệ mà con cái Ít-ra-en đã nhận được trong suốt lịch sử của mình: “Nhưng chính họ đã nổi loạn, đã làm phiền thần khí thánh của Người” (Is 63: 10). Truyền thống Do thái không quên lời nói táo bạo nầy, như Sách Khôn Ngoan nói về Chúa Thánh Thần: “Thần khí thánh là thầy dạy dỗ, luôn tránh thói lọc lừa, rời xa những lý luận ngu dốt, và ghê tởm những chuyện bất công” (Kn 1: 5).

 

  1. Bắt chước Chúa Cha (4: 32-5: 1):

Thánh Phao-lô rất hiếm khi khuyên bảo các tín hữu bắt chước Chúa Cha, bởi vì thánh nhân đặt ưu tiên cho việc bắt chước Đức Ki-tô. Chúng ta lưu ý rằng lời kêu mời bắt chước Chúa Cha nầy được dẫn trước bởi việc tha thứ cho nhau: “Biết tha thứ cho nhau” (4: 32), điều này rõ ràng ám chỉ đến kinh Lạy Cha: “Xin tha tội cho chúng con như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con” (Mt 6: 12).

 

  1. Thực hành đức ái như Đức Ki-tô (5: 2):

Lời kêu gọi sống hoàn thiện theo mẫu gương Ba Ngôi Thiên Chúa được hoàn tất ở nơi lời khuyên khẩn thiết: “Hãy sống trong tình bác ái, như Đức Ki-tô đã yêu thương chúng ta” (5: 2). Lời mời gọi “tha thứ cho nhau” đã dẫn vào lời khuyên bắt chước Chúa Cha như thế nào, thì lời mời gọi “yêu thương nhau” dẫn vào lời khuyên bắt chước Đức Ki-tô cũng như vậy. Tình yêu của Chúa Con đối với nhân loại đã được bày tỏ tuyệt mức qua việc “tự hiến mình làm của lễ thơm tho dâng lên Thiên Chúa”. Thánh Phao-lô lập lại diễn ngữ mà Cựu Ước dùng cho hy tế toàn thiêu, theo đó tế vật được hoàn toàn hỏa tế trên bàn thờ. Đức Ki tô là tế vật hoàn hảo, tận hiến chính bản thân mình.

 

TIN MỪNG (Ga 6: 41-51)

Chúng ta tiếp tục đọc diễn từ của Đức Giê-su về Bánh Hằng Sống. Trong đoạn trích hôm nay, hướng nhắm của bản văn vẫn là Bánh Hằng Sống, nhưng đề tài trung tâm là đức tin: Đức Giê-su đòi hỏi những người nghe Ngài hãy tin vào Ngài, Đấng ban sự sống vì Ngài từ Chúa Cha mà đến.

 

Thế nhưng, thánh ký nhấn mạnh ngay “tin” không phải là một chuyện dễ dàng: “Người Do thái xầm xì phản đối”. Danh xưng: “người Do thái”, mang nét nghĩa tiêu cực trong Tin Mừng thứ tư, danh xưng này chỉ rõ những người Do thái cứng lòng tin; trong khi danh xưng “người  Ít-ra-en” được dành riêng cho những ai tin vào Đức Giê-su (x. Ga 1: 47). Việc thay đổi danh xưng ở đây rất có ý nghĩa. Theo cách nầy, tác giả loan báo cho chúng ta rằng cuộc tranh luận sắp diễn ra được định vị theo cùng một tuyến phát triển như những cuộc tranh luận đã được tường thuật trước đây (nhất là cuộc tranh luận của chương 5).

 

  1. Vấn đề đức tin:

“Ông nầy chẳng phải là ông Giê-su, con ông Giu-se đó sao? Cha mẹ ông ta chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: Tôi từ trời xuống?” (6: 42). Người Do thái có đủ lý do để nghi ngờ những lời nói của Đức Giê-su: Ngài sống ở giữa họ như một người giữa mọi người, bất ngờ tuyên bố mình từ trời xuống. Chúng ta gặp thấy những suy nghĩ tương tự và biết bao những suy nghĩ khác nữa đến từ những người mà thánh Gioan nhắm đến trong thư thứ nhất của mình. Về phương diện lịch sử, nhiều thế hệ sau nầy nẩy sinh những nghi ngờ như thế.

Đức Giê-su trả lời: “Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy đến với tôi” (6: 44a). Đức tin là một ân ban đến từ Chúa Cha, nhưng cũng đòi hỏi mỗi người phải mở rộng lòng ra mà đón nhận. Đức Giê-su ngầm quở trách những người nghe Ngài không có được một tâm thế sẵn sàng như thế. Có những dấu chỉ mà họ phải biết đọc ra, những thành kiến mà họ phải cởi bỏ, và tiên vàn phải lắng nghe Chúa Cha. Đức Giê-su sẽ khai triển khía cạnh đức tin nầy, nhưng trước hết Ngài muốn tăng cường độ nhạy bén của những người nghe Ngài và thậm chí khơi lên ở nơi họ tính hiếu kỳ: “Và tôi, tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết” (6: 44b), để chuẩn bị tâm trí họ đón nhận những mặc khải mà Ngài sắp ban.

 

Dường như những thính giả của Ngài là những người Biệt Phái, những người chấp nhận thân xác sống lại; trái với những người Xa-đốc, những người từ chối thân xác sống lại. Đức Giê-su tự đặt mình trên lập trường của những người tin vào thân xác sống lại nầy mà tranh luận. Vì thế, Ngài khẳng định rằng chính Ngài nắm giữ quyền cho các vong nhân được sống lại. Cựu Ước đã thiết lập rồi mối liên hệ giữa bàn tiệc Thiên Chúa thiết đãi muôn dân và sự phục sinh, nhất là Is 25: 6-8: “Ngày ấy trên núi nầy, Đức Chúa các đạo binh sẽ đãi muôn dân một bữa tiệc… Trên núi nầy, Người sẽ xé bỏ chiếc khăn tang che phủ muôn dân, và tấm màn trùm lên muôn nước. Người sẽ vĩnh viễn tiêu diệt tử thần. Đức Chúa là Chúa Thượng sẽ lau khô dòng lệ trên khuôn mặt mọi người”. Ở nơi các sấm ngôn, lời loan báo bàn tiệc cánh chung nhiều lần liên kết với bàn tiệc thiên sai. Đây là điều Đức Giê-su xem ra ám chỉ ở đây.

 

  1. “Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ”:

Khi trích dẫn sấm ngôn của I-sai-a đệ nhị vào thời thiên sai, “hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ” (Is 54: 13), Đức Giê-su muốn thính giả của Ngài hiểu rằng thời điểm nầy đã đến, lời hứa đã được ứng nghiệm ở nơi sự hiện diện cùa Ngài. Khi công bố: “Không phải là đã có ai thấy Chúa Cha đâu, nhưng chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến. chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha” (6: 46), Đức Giê-su khẳng định nguồn gốc thần linh và giáo huấn siêu việt của Ngài. Ở nơi khác, Đức Giê-su cũng khẳng định như vậy: “Sự sống đời đời đó là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Đức Giê-su Ki tô” (Ga 17: 3). Đức Giê-su có chủ ý trích dẫn sấm ngôn I-sai-a, vì sấm ngôn nầy mời gọi dự phần vào bàn tiệc Thiên Chúa thiết đãi cho muôn dân. Ở nơi bàn tiệc thiên sai, Thiên Chúa phục vụ con người không chỉ với Lời Thiên Chúa, lời ban sự sống, nhưng còn với thần lương làm no thỏa mọi ước nguyện của con người.

 

  1. Từ Lời Hằng Sống đến Thánh Thể:

Những người nghe Ngài là những người Do thái thông thạo Kinh Thánh. Bánh man-na tiên báo bánh hằng sống mà Đức Giê-su ban, bánh từ trời xuống đem lại sự sống đời đời. Đức Giê-su tác động vào tâm trí của họ để họ có thể mở lòng ra mà đón nhận mạc khải của Ngài.

 

Để làm rõ ra lời khẳng định của Ngài, Đức Giê-su so sánh tính hiệu quả của bánh man-na mà tổ tiên của họ đã ăn với bánh mà Ngài ban khi tuyên bố: “Tôi là bánh trường sinh. Tổ tiên các ông đã ăn man-na trong sa mạc, nhưng đã chết. Còn bánh nầy là bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết” (6: 48-50). Lần nầy, không rào trước đón sau, Ngài tuyên bố không úp mở: “Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống” (6: 51). Thánh Thể được khai mở một cách minh nhiên ngay từ thời điểm này với điểm nhấn trên hy tế.

 

66.Chúa Nhật 19 Thường Niên

    (Suy niệm của Martin Vũ Thái Hiệp, OP)

 

HÃY ĐẾN DỰ BÀN TIỆC THÁNH,

NGƯỜI SẼ BỒI DƯỠNG CHO

 

Kính thưa cộng đoàn!

Trình thuật Tin Mừng theo thánh Gioan hôm nay thuật lại giáo huấn của Chúa Giêsu về mầu nhiệm của Bí Tích Thánh Thể. Đây là một mầu nhiệm cao cả vượt quá trí hiểu của con người khiến dân chúng không dễ dàng đón nhận. Trước sự cứng lòng tin của họ, Đức Giêsu không nản lòng. Ngài kiên trì cắt nghĩa Thánh Kinh cho họ và trích dẫn hình ảnh bánh Manna trong Cựu Ước, để liên hệ đến Manna mới từ trời xuống là chính thịt và máu Người.

 

Lần mò tìm về lịch sử, theo tiếng Do Thái, từ Man-na có nguồn gốc là từ Man hu (có nghĩa là: cái gì vậy?). Vì suốt bốn mươi năm trong sa mạc, mỗi sáng Thiên Chúa cho một lớp sương phủ quanh trại. Rồi khi sương tan đi thì trên mặt hoang địa, có một thứ gì mịn màng, nho nhỏ như sương muối phủ mặt đất. Thấy thế, con cái Israel hỏi nhau: “Man hu? ” Nghĩa là: “Cái gì vậy? ” (x. Xh 16, 13-15). Rồi về sau dân Israel gọi bánh ấy là Man-na.

 

Có một nét gì đó tương đồng ở đây. Cũng thế, Bí Tích Thánh Thể là một mầu nhiệm cực linh. Hẳn rằng chúng ta sẽ chẳng hiểu cho đủ mầu nhiệm ấy nếu Thiên Chúa không mặc khải cho. Lặng quì trước Thánh Thể, chúng ta cũng đã bao lần hỏi Chúa: Man hu, cái gì vậy?

 

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, con biết mắt phàm làm sao thấy được mầu nhiệm thanh cao. Vậy xin Chúa vén mở bức màn che khuất mà mặc khải cho chúng con hiểu thấu Thánh Thể tình yêu của Ngài, để lòng tin của con được thêm kiên vững. Xin tỏ cho trí hiểu non nớt của con biết máu thịt thực sự của Ngài trong Thánh Thể Chúa để lòng con thêm hớn hở vui mừng mỗi khi được đón Chúa ngự vào tâm hồn.

 

Lại nói về dân Israel, năm xưa dân Israel than trách với ông Môsê và Aharon vì ngày nào họ cũng chỉ được ăn một thứ bánh Man-na nhàm chán. Lúc này, họ hồi tưởng và ao ước được ăn thịt, cá, rồi cọng hành cọng tỏi… ở Ai Cập dù có phải làm nô lệ trong kiếp tù đày gian khổ. (x. Ds 11,4-6)

 

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, nhân loại ngày nay cũng vậy. Người ta chán ngán việc đi lễ hằng ngày và chỉ được rước Thánh Thể Chúa dưới hình bánh miến đơn điệu. Lúc này, người ta lại thèm muốn những lạc thú trong cõi hồng trần giả dối, những cái hiện thực thấy được. Nếu năm xưa dân Israel muốn được ăn thịt hơn bánh Man-na Chúa ban, thì giờ đây nhân loại cũng hám danh, thèm lợi, thèm đi dự tiệc cưới, sinh nhật… hơn là đi tham dự thánh lễ và được hiệp thông trong tình yêu của Bí Tích Thánh Thể. Quả thực, trái cấm nào cũng ngọt ngào và đường dẫn đến địa ngục bao giờ cũng bằng phẳng và thênh thang.

 

Hôm nay, Chúa Giêsu mặc khải rằng Ngài là Bánh Trường Sinh từ trời xuống. Và ai ăn Bánh ấy sẽ được sống muôn đời. Quả thực, cái gì bởi đất mà ra thì thuộc về đất là cõi phù du tạm bợ. Ví như tiền tài, danh vọng, hay thậm chí là cả thân xác của chúng ta cũng có ngày sẽ trở về cát bụi, là nơi nó đã xuất phát ra. Trái lại, cái gì bởi trời mà ra thì thuộc về trời, là vĩnh cửu và viên mãn. Bất cứ cái gì bởi trời thì tốt đẹp.

 

Quả vậy, Đức Giêsu là bánh bởi trời, Ngài đã trở nên như nguồn lương thực vĩnh cửu nuôi dưỡng ta, cho ta được trường sinh và dồi dào luôn mãi. Mỗi ngày, chúng ta được Giáo hội mời gọi đến tham dự bàn tiệc thánh. Và nơi đây Giáo hội tái diễn lại việc Chúa Giêsu lập Bí Tích Thánh Thể tình yêu.

 

Như dân Israel năm xưa trong sa mạc khát cháy được Chúa ban Man-na cho no thỏa, thì ngày hôm nay, lòng trí khô héo cằn cỗi của chúng ta cũng được chan chứa niềm phấn khởi vui mừng nhờ được Thánh Thể Chúa nuôi dưỡng. Cảm tạ Thiên Chúa đã thương ban cho chúng con được đến dự Bàn Tiệc Thánh mỗi ngày, để hồn chúng con được no thỏa và được hạnh phúc viên mãn khi đón nhận chính thân thể thực sự của Đức Giêsu Kitô.

 

Lạy Chúa, xin Ngài thương thứ tha cho bao lần con hờ hững trước Thánh Thể Ngài. Xin cho con không cố hiểu để yêu, nhưng là luôn cố yêu để hiểu biết mầu nhiệm Thánh Thể hơn nữa. Xin ban cho chúng con thấy được tầm quan trọng của Bí Tích Thánh Thể và cảm nghiệm được tình yêu chan chứa của Ngài; ngõ hầu chúng con càng được rước Chúa vào lòng, chúng con lại càng thêm yêu mến và khát khao Ngài hơn.

 

67.Chúa Nhật 19 Thường Niên

    (Suy niệm của JKN)

 

ĐỨC GIÊSU LÀ BÁNH HẰNG SỐNG TỪ TRỜI XUỐNG

 

Câu hỏi gợi ý:

  1. Tại sao người Do-thái phản đối câu nói của Đức Giêsu: “Tôi là bánh từ trời xuống”. Họ đã hiểu câu đó theo nghĩa tâm linh hay vật chất? Các câu diễn tả chân lý thâm sâu trong Kinh Thánh thường phải hiểu theo nghĩa nào?
  2. Phải hiểu những từ “ăn thịt”, “uống máu” Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay theo nghĩa nào? Có thể dùng thể chất với cách ăn uống thể chất để nuôi dưỡng và phát triển tâm linh không?
  3. Trong đời sống Kitô hữu, phải “ăn thịt”, “uống máu” Đức Giêsu theo nghĩa tâm linh như thế nào?

 

Suy tư gợi ý:

  1. Tiền kiến sai lầm về những thực tại siêu việt (do hiểu Kinh Thánh theo nghĩa vật chất)

Chúng ta hiện nay biết Đức Giêsu là một con người siêu việt, là thần thánh, vì Ngài là Con Thiên Chúa, cũng là Thiên Chúa. Nhưng những người Do-thái xưa lại thấy Đức Giêsu là một con người rất tầm thường, vì Ngài xuất thân từ gia đình nghèo khó, lại kém học thức… “Ông này chẳng phải là ông Giêsu, con ông Giuse đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: “Tôi từ trời xuống?”“ Đối với họ, và cả chúng ta nếu ở vào trường hợp của họ, thật khó mà chấp nhận Ngài là một ngôn sứ, nói gì đến chuyện chấp nhận Ngài là Con Thiên Chúa. Lý do khiến họ không chấp nhận không phải là phi lý. Theo lẽ thường, họ không chấp nhận thì hữu lý hơn là chấp nhận. Họ hiểu Thánh Kinh hoàn toàn theo nghĩa đen: một người từ trời xuống có nghĩa là một người thật sự “từ trời xuống” hiểu theo nghĩa vật chất, chứ không phải là một người sinh ra từ bụng mẹ. Họ hiểu “trời” theo nghĩa vật chất là bầu trời, không trung. Chính vì thế, họ không hiểu được chân lý thâm sâu trong câu nói ấy của Đức Giêsu. Họ không ngờ được con người từ trời xuống lại chẳng có vẻ “từ trời xuống” (theo nghĩa vật chất) một chút nào.

 

Những câu nói lên những chân lý quan trọng trong Thánh Kinh đều cần phải hiểu theo nghĩa tâm linh hơn theo nghĩa vật chất. Trong lịch sử, Giáo Hội Công giáo đã bị “hố” nhiều lần vì hiểu Kinh Thánh theo nghĩa vật chất, để rồi về sau phải chỉnh lại cách hiểu của mình theo nghĩa tâm linh. Chẳng hạn việc hiểu trình tự sáng tạo vũ trụ và con người trong sách Sáng thế ký, việc hiểu câu Kinh Thánh Gs 10,12 đến nỗi đi đến việc kết án Côpécnic và Galilê…

 

Trong bài Tin Mừng hôm nay, ta lại gặp nhiều lần từ ngữ “từ trời xuống”: có từ được áp dụng vào Đức Giêsu, có từ được áp dụng vào bánh trường sinh. Nếu trong áp dụng trước người ta hiểu theo nghĩa vật chất thì bị sai lầm, ắt trong áp dụng sau việc hiểu theo nghĩa vật chất cũng rất có thể dẫn đến sai lầm. Điều quan trọng là chúng ta phải dựa vào sự kiện, vào thực nghiệm tâm linh trong thực tế đời sống, để biết hiểu theo cách nào là đúng. Chẳng hạn hai câu: “Tổ tiên các ông đã ăn manna trong sa mạc, nhưng đã chết. Còn bánh này là bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết”. Chữ “chết” trong câu trước – ứng với việc ăn manna – buộc phải hiểu theo nghĩa vật chất, nghĩa là chết về thể xác. Còn chữ “chết” trong câu sau – ứng với việc ăn “bánh từ trời xuống” – buộc phải hiểu theo nghĩa tâm linh, vì không có ý nói đến cái chết thể chất, bởi chưa ai ở trần gian này thoát chết về thể chất cả, kể cả Đức Giêsu.

 

Tương tự, những câu trong bài Tin Mừng hôm nay như: “Tôi là bánh trường sinh”, “ai ăn thì khỏi phải chết”, “bánh hằng sống từ trời xuống”, “ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời”, “bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây”, sẽ thật là ngộ nghĩnh và phi lý nếu hiểu theo nghĩa vật chất, nhưng sẽ trở nên hữu lý và đúng với thực nghiệm tâm linh khi hiểu theo nghĩa tâm linh. Những câu này chính là những chân lý quan trọng trong Kitô giáo mà mọi Kitô hữu cần áp dụng trong đời sống tâm linh để đời sống nội tâm được nuôi dưỡng và phát triển mạnh mẽ.

 

  1. Đức Giêsu là “bánh hằng sống từ trời xuống”
  2. a) Cần phải hiểu câu này theo nghĩa tâm linh

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu tuyên bố: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời”. Chắc chắn, đối với chúng ta, những người Kitô hữu, lời Ngài nói ắt phải là chân lý. Và đây là một chân lý quan trọng đem lại sự sống và phát triển tâm linh cho chúng ta. Vì thế, chúng ta phải triệt để áp dụng chân lý này vào đời sống. Chắc hẳn không ai trong chúng ta hiểu câu nói này theo kiểu các yêu tinh trong truyện Tôn Ngộ Không hiểu về thịt của Đường Tăng Tam Tạng. Chúng quyết tâm bắt cho được Đường Tăng để ăn thịt, với niềm tin tưởng rằng ăn thịt ông thì sẽ được sống lâu, thậm chí sẽ không chết. Tôi nghĩ: giả như có ai giết Đức Giêsu để ăn thịt Ngài (theo kiểu các yêu tinh ăn thịt Đường Tăng) thì người ấy vẫn chết như thường, và về mặt tâm linh thì cũng chẳng được ích lợi gì. Vì câu nói “thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống” của Đức Giêsu không thể hiểu theo nghĩa vật chất. “Thịt” và “máu” ở đây không phải là thịt và máu huyết vật chất, “của ăn” và “của uống” ở đây cũng không phải là của ăn và của uống vật chất. Tất cả những từ trên đều phải hiểu theo nghĩa tâm linh. Và nếu hiểu theo nghĩa tâm linh, thì Đức Giêsu chính là lương thực đem lại sự sống và sự phát triển tâm linh thật sự.

 

Hiện nay, không ai có thể gặp hay tiếp xúc với Đức Giêsu bằng xương bằng thịt như các tông đồ ngày xưa cả. Nhưng Đức Giêsu vẫn luôn hiện diện thật sự trong tâm hồn ta (x. Ga 14:17.20.23.26). Sự hiện diện của Ngài hiện nay không phải là một sự hiện diện tại thế, mang tính vật chất, mà là sự hiện diện mang tính tâm linh. Điều ấy người Kitô hữu nào cũng biết và cũng tin như thế. Vấn đề còn lại mang tính thực hành là: làm sao để Ngài thật sự nuôi dưỡng và phát triển đời sống tâm linh của ta?

 

  1. b) “Ăn thịt” và “uống máu” Đức Giêsu thế nào?

Trước hết phải hiểu đúng các từ “ăn” và “uống”, “thịt” và “máu” theo nghĩa tâm linh là gì. Ăn và uống vật gì là được nuôi dưỡng, được trở nên mạnh mẽ bởi chính vật ấy. Thịt và máu một người nói lên chính bản thân hay bản chất người ấy. Ăn thịt và uống máu Đức Giêsu hiểu theo nghĩa tâm linh là được bổ dưỡng, được trở nên mạnh mẽ bởi chính bản chất Đức Giêsu. Bản chất của Đức Giêsu là gì? Hiểu và thường xuyên ý thức bản chất của Đức Giêsu là gì là điều cốt yếu và hết sức quan trọng để có thể “ăn” và “uống” Ngài. Trước tiên, Ngài chính là Thiên Chúa, là thần linh. Ngoài ra, Ngài còn là nguồn sống, nguồn tình yêu, nguồn sức mạnh, nguồn trí tuệ, nguồn của tất cả mọi sự thiện hảo trên trời dưới đất. “Ăn” và “uống” Ngài chính là làm cho bản chất của Ngài thấm nhập vào bản chất của ta, làm cho ta càng ngày càng trở nên Ngài, nói cụ thể hơn là giống y như Ngài, trở nên một với Ngài. Nghĩa là ta cũng trở nên thần linh, trở nên nguồn sự sống, nguồn tình yêu, nguồn sức mạnh, nguồn trí tuệ, nguồn của tất cả mọi sự thiện hảo. Để rồi cuối cùng trở nên đúng như Ngài đã mô tả: “Ai uống nước tôi cho (“nước” ở đây chính là bản thân Ngài) sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên đem lại sự sống đời đời” (Ga 4,14). Lúc đó ta sẽ không còn khao khát một thứ gì nữa, nghĩa là được thỏa mãn mọi bề, được tràn đầy hạnh phúc, vì Ngài đã là tất cả rồi. Và mọi người sẽ thấy ở nơi ta một nguồn mạch tràn đầy sức sống, tình thương, khôn ngoan, can đảm, nghị lực… luôn luôn “vọt lên”. Nhờ đó, chẳng những chính bản thân ta tràn đầy hạnh phúc, mà ta còn làm cho tất cả những người chung quanh ta hạnh phúc bằng sự dấn thân phục vụ không mệt mỏi của ta nữa.

 

Tôi muốn nhắc lại điều quan trọng này là: muốn cho bản chất của Ngài thấm nhập vào bản chất của ta, tức là ta “ăn” Ngài, thì không cách gì hữu hiệu hơn là thường xuyên ý thức về bản chất của Ngài và sự hiện diện thường hằng của bản chất ấy trong bản thân ta. Ý thức thường xuyên ấy là điều kiện tối cần thiết để bản chất của Ngài dần dần thấm sang bản chất của ta. Tương tự như hai bình liền nhau, cách nhau bởi một vách xốp: nước trong bình này từ từ thấm và chảy sang bình kia. Ý thức thường xuyên ấy làm cho vách ấy trở nên xốp để nước có thể thấm và chảy qua. Đó là cách tôi hiểu đoạn Tin Mừng trên. Tôi hoàn toàn không bài bác những cách hiểu khác. Nhưng quả thật đời sống tâm linh tôi chỉ thật sự thay đổi và khởi sắc lên từ khi tôi hiểu và áp dụng bài Tin Mừng hôm nay theo cách này. Đó là thực nghiệm tâm linh của tôi mà tôi muốn chia sẻ với mọi người, để ai muốn thì cứ thử hiểu theo cách này xem. Tôi tin tưởng và hy vọng người ấy sẽ được biến đổi.

 

Cầu Nguyện

Lạy Cha, Đức Giêsu đang hiện diện trong con chính là nguồn sống, nguồn tình yêu, nguồn trí tuệ, nguồn thiện hảo… vô biên của toàn thể vũ trụ. Nguồn ấy đang hiện diện trong con với tất cả năng lực của một nguồn lực vô tận. Năng lực đa dạng trong nguồn ấy sẵn sàng tràn sang bản thân con với điều kiện con ý thức được bản chất và sự hiện diện của nguồn ấy trong con. Xin cho con thường xuyên ý thức được như vậy, để càng ngày con càng trở nên giống như Ngài, cũng là giống như Cha.

 

68.Chúa Nhật 19 Thường Niên

     (Suy niệm của Lm. GB Phạm Hồng Thái)

 

Khi Chúa Giêsu cho một người mù bẩm sinh được sáng con mắt thì Chúa tuyên bố: “Ta là ánh sáng thế gian (Ga 9,5)”, và khi cho Lazarô chết 4 ngày được sống lại, Chúa Giêsu  nói: “Ta là sự sống lại và là sự sống (Ga 11, 25)”; còn hôm nay sau phép lạ Hóa bánh ra nhiều nuôi hơn 5000 người ăn no, thì Giêsu tuyên bố: “Ta là Bánh hằng sống từ trời xuống”.

 

Những thính giả Do thái nghe Chúa đã tỏ ra nghi ngờ, họ nói: “Chớ thì ông này chẳng phải là Giêsu, con ông Giuse sao? Chúng ta đều biết rõ cha mẹ của ông. Vậy làm sao ông lại nói: “Ta bởi trời mà xuống”. Đáp lại thắc mắc này, Chúa Giêsu nói: “Không ai dến được với Ta nếu Cha Ta không lôi kéo kẻ ấy…” Như vậy để có thể chấp nhận Chúa Giêsu  là Bánh Hằng Sống từ trời xuống, con người cần phải được Chúa Cha lôi kéo tức là phải có đức tin và đức tin là ân huệ Thiên Chúa ban cho những ai biết mở rộng lòng đón nhận lời giáo huấn của Chúa Giêsu. Chính nhờ lòng tin đó, Chúa Giêsu sẽ đem lại cho ta sự sống lại trong ngày sau hết và cuộc sống đời đời nữa

 

Người Do thái tự hào vì tổ tiên của họ được ăn Manna trong sa mạc nhưng Manna làm sao có thể so sánh được với Bánh Hằng Sống. Chúa Giêsu nói lên sự thật là tổ tiên họ ăn manna và đã chết; còn Chúa Giêsu là Bánh Hằng Sống từ trời xuống để ai ăn Bánh này, sẽ sống đời đời, rồi Chúa Giêsu  còn mặc khải thêm: “Và Bánh Ta sẽ ban chính là Thịt Ta để cho thế gian được sống”

 

Thịt Chúa nói đây hướng ta về Bánh Thánh Thể và tất nhiên cũng hướng về Hi tế của Chúa Giêsu trên cây Thánh giá. Chúa Giêsu dâng hiến Thân mình làm của lễ hiến tế để cứu chuộc chúng ta. Thịt và Máu là chính con người Chúa Giêsu. Tin Mừng Thánh Gioan thì dùng chữ Thịt còn Tin mừng nhất lãm thì dùng chữ Mình: “Này là Mình Thầy sẽ bị nộp vì các con”(Mt 26,26 & Lc 22,19)

 

Như vậy khi đón nhận Chúa Giêsu là Bánh Hằng Sống từ trời xuống tất nhiên chúng ta sẽ lắng nghe lời giáo huấn của Chúa Giêsu và Rước Mình và Máu Chúa trong bí tích Thánh Thể

 

Tiên tri Êlia cảm thấy mỏi mệt chán nản vì lòng trung thành với Chúa mà ông phải chạy trốn sự bách hại của hoàng hậu Isabel. Ông nằm dưới gốc cây tùng và xin Chúa cho chết đi cho rồi, nhưng Thiên Chúa sai thiên thần đem đến cho ông chiếc Bánh lùi và một bình nước rồi sau hai lần ăn Bánh và uống nước này ông được phục hồi sức khỏe tinh thần và thể xác, nhờ vậy mà ông đi một mạch 40 ngày tới núi Horeb là núi của Chúa. Bánh và Nước tiên tri Êlia ăn uống đem lại cho ông sức mạnh để đi tới núi Horeb tượng trưng cho Bí tích Thánh Thể: Mình và Máu Chúa trở nên lương thực thiêng liêng cho người tín hữu được đủ sức lực đi trên con đường lữ hành về Nhà Cha trên trời

 

Vậy để cho Bánh Hằng Sống là Thánh thể Chúa phát huy sức mạnh cho tâm hồn chúng ta thì chúng ta phải Rước lễ với lòng tin  mạnh mẽ như người đàn bà tin rằng chỉ cần chạm đến gấu áo Chúa thì bà được khỏi bệnh, thì nếu ta được đụng chạm đến Mình Thánh Chúa mà có lòng tin thì chúng ta cũng sẽ được ơn phúc như vậy

 

Tôi rất ấn tượng với bức hình Đức hồng y F.X. Nguyễn văn Thuận dâng lễ trong tù. Ngài mặc chiếc áo may ô có vài ba chỗ rách. Ngài quì gối ngay trên nền nhà tù, hai tay dơ lên và trong lòng bàn tay có 3 giọt rượu lễ và một giọt nước, Ngài đọc thuộc lòng kinh nguyện Thánh Thể… và Ngài cho biết nhờ Thánh lễ dâng trong tù, Ngài cảm nghiệm được niềm vui và sự an ủi lớn lao. Đức Hồng Y cũng cho biết: “Thánh Thể Chúa đã biến đổi anh em tù nhân cách lạ lùng. Nhiều người công giáo trở lại sống đạo đức hơn; nhiều anh em không Công giáo, Phật giáo tìm  hiểu Phúc âm và lãnh nhận phép Thánh tẩy trong trại cải tạo, hoặc sau lúc được tự do… Không có gì cưỡng lại được tình yêu Chúa Giêsu. Những ơn trọng này do Chúa Giêsu Thánh Thể chứ không do loài người” (5 chiếc bánh và 2 con Cá tr. 70 – 71)

 

Câu chuyện: Ông Chidam Baram là một nhà trí thức Ấn độ. Ông đi tìm chân lí. Đầu tiên ông làm báo, ông nhận thấy làng báo có đầy dẫy sự gian dối, tiếp đến ông theo đạo Bà la môn nhưng cũng không được thỏa mãn, rồi ông chuyển sang Ấn giáo, ông cũng thất vọng sau cùng ông cải đạo sang Công giáo và giữ đạo này cho tới chết. Ông cho biết đạo Công giáo có bí tích Thánh Thể và khi Rước lễ, thì Chúa Giêsu đi vào tâm hồn con người: điều này không tôn giáo nào có được như vậy vì đối với các vị thần ở các tôn giáo, ta phải “kính nhi viễn chi” tức là kính nhưng phải ở xa còn Thánh thể Chúa thì  ở gần và ở trong ta nữa đó là sáng kiến tuyệt vời của Chúa Giêsu  và là ơn huệ Thiên Chúa ban cho ta

 

Chúng ta tin kính Chúa Giêsu là Bánh Hằng sống từ trời xuống đồng thời đón nhận Bánh Thánh Thể và Bánh Lời Chúa với lòng yêu mến để Chúa thực hiện lời hứa là làm cho ta được sống lại trong ngày sau hết và được sự sống đời đời. Amen

 

69.Chúa Nhật 19 Thường Niên

    (Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê)

 

HÃY PHÓ THÁC ĐƯỜNG ĐỜI CHO CHÚA,

NGƯỜI LO CHO ANH EM

 

Kính thưa quý anh chị em,

Gánh nặng cuộc đời là sự lo lắng, sợ hãi. Nó nhập cuộc khi một người được sinh ra và đeo đuổi họ cho đến chết. Nó không nặng như một khối vật chất, nhưng có sức nghiền nát con người. Nó không tàn phá như một bạo bệnh, nhưng gặm nhấm sé nát tâm can, đẩy con người vào tuyệt vọng. Nó mở tử huyệt chôn chặt cuộc đời trước cả cái chết thể lý.

Thật khủng khiết! Ai sẽ cứu chúng ta khỏi tình trạng “lo lắng, sợ hãi” này ?

Tác giả Dale Carnegie, viết cuốn sách: “How To Stop Worrying And Start Living” (bản dịch việt ngữ: Quẳng gánh lo đi và vui sống). Quyển sách trở thánh cẩm nang và giúp hàng triệu người tìm được sự an bình, vô tư, vui sống, giữa cảnh đời đầy dẫy bất ổn và đổi thay.

Dầu vậy, lo lắng, sợ hãi vẫn còn đó, nó như những cái vòi bạch tuộc khổng lồ luôn cuốn lấy, nhấn chìm chúng ta bất cứ lúc nào.

Dịch bệnh Covid-19 tàn phá khắp nơi. Chúng ta chưa mắc bệnh, nhưng lo lắng, sợ hãi, thì đã tấn công chúng ta trước rồi.

Đối diện với lo lắng, sợ hãi, Lời Chúa đến trấn an, gieo niềm hy vọng, xua tan dần bóng tối sợ hãi, giúp con người tìm lại niềm an bình, vui tươi, hạnh phúc, ngay giữa những bất ổn bủa vây.

Phụng vụ Lời Chúa hôm nay khai mở con đường sự sống, thông ngõ cụt, cởi bế tắc cuộc đời, làm cho lòng người phấn khởi, vui tươi, chan chứa niềm hy vọng được sống.

Bài đọc I kể câu chuyện Ngôn sứ Ê-li-a trên đường trốn chạy, tìm về núi của Thiên Chúa. Ê-li-a lo sợ bị bắt, bị sát hại bởi quân lính nhà vua. Ông lo lắng vì đường xa dặm thẳm, bởi thú dữ, trộm cắp sát hại, bởi nắng thiêu, bởi đói khát hành hạ. Và vì quá lo sợ, ông đã xin cho được chết.

Ngược lại, Chúa luôn dõi bước chân ông. Ngài lo lắng cho ông, hơn cả chính vị ngôn sứ lo lắng cho mình. Ê-li-a nằm xuống, nhưng đã được đánh thức dậy, được bổ sức bằng bánh và nước lần thứ nhất, rồi lần thứ hai. Với bánh ăn no đủ, Ê-li-a đủ sức đi suốt bốn mươi đêm ngày tới núi Horeb của Thiên Chúa.

Bốn mươi là con số tượng trưng chỉ hành trình đạt tới đích của đời người lữ hành. Dân Chúa phải mất bốn mươi năm đi trong sa mạc để tới đất Chúa hứa. Chúa Giê-su ăn chay cầu nguyện trong hoang địa bốn mươi đêm ngày, để thi hành sứ vụ Chúa Cha ủy thác, kết thúc bằng cuộc tử nạn và phục sinh. Bốn mươi ngày chay thánh hàng năm tượng trưng cho cuộc đời kitô hữu chết đi cho con người cũ, tái sinh trong đời sống mới bởi nước và Chúa Thánh Thần, để được sống muôn đời.

Do vậy, hành trình vào sự sống thật luôn luôn phải để Thiên Chúa lo liệu theo cách thức Chúa muốn, khi và nơi Chúa muốn.

Người khôn ngoan, theo Tin Mừng, là sẵn sàng trút tất cả gánh lo vào tay Chúa, để Chúa lo cho. Đó là kẻ có đức tin và sống đức tin mãnh liệt, ngay trong những điều khó hiểu và đôi khi cảm thấy nghịch lý.

Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy Chúa Giê-su yêu cầu dân chúng chấm dứt xì xầm xoay quanh mạc khải “bánh hằng sống/thịt máu Chúa” có nguồn gốc từ trời, để ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời.

Giê-su không đến để trấn áp, dẹp yên dư luận, nhưng muốn con người phải biết bình tâm, biện phân thần khí, nhận ra thánh ý Chúa muốn cứu độ thế gian trong “Con Một” được sai đến từ “Trời”.

Tuyên xưng Giê-su là Chúa nhất thiết phải do Thánh Thần, Đấng đã làm những việc kỳ diệu nơi Đức Giê-su Kitô: nhập thể làm người cách nhiệm mầu, thực hiện những dấu lạ điềm thiêng, đã sống lại từ cõi chết và đang ngự bên hữu Chúa Cha… Đó là cách thức Cha lôi kéo con người đến với Chúa Giê-su.

Các Tông Đồ, vì được Cha lôi kéo, sẵn sàng bỏ mọi sự theo Chúa đến tận thập giá, luôn thâm tín vững vàng rằng: “Bỏ Thầy con biết theo ai, Thầy mới có lời ban sự sống đời đời” (Jn 6, 68), nên được hưởng trọn vẹn thành quả đức tin là sự sống đời đời và đang khi chờ đợi ngày Chúa đến, thì được Mình Máu thánh Chúa nuôi dưỡng như bảo chứng sự sống muôn đời.

Noi gương các Tông Đồ, chúng ta phải làm gì để nuôi dưỡng đức tin đã lãnh nhận trong bí tích rửa tội ?

Thánh Phao-lô, trong bài đọc II, khuyên nhủ chúng ta: hãy luôn nhớ đến bảo chứng Thánh Thần đã niêm ấn trong tâm hồn ngày chịu phép rửa tội và nhất quyết sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.

Cụ thể, đừng làm phiền lòng Thánh Thần, bởi những việc làm gian ác: chua cay, gắt gỏng, nóng nảy, giận hờn, la lối thóa mạ, ghen tương, ganh tị, bất công và những việc làm gian ác đại loại như thế.

Phao-lô cũng chỉ ra nhưng nhân đức phát xuất từ Thánh Thần: lòng từ tâm, nhân ái, biết chạnh lòng xót thương, và biết tha thứ cho nhau các thật lòng.

Gương mẫu của đời kitô hữu trọn lành là bắt chước Chúa trong mọi sự, nên đồng hình đồng dạng, đạt tới tầm vóc viên mãn của Chúa Giê-su.

Thực hiện tốt những điều đó, anh chị em làm phải, Thiên Chúa tình yêu sẽ ở cùng chúng ta luôn mãi.

Đời có Chúa là được hưởng niềm vui, hạnh phúc sung mãn. Đời có Chúa là được trút gánh nặng “lo lắng, sợ hãi” cho Người, vì biết chắc rằng: Ngài lo thay cho chúng ta.

Ước gì được như vậy! Amen.

 

70.Chúa Nhật 19 Thường Niên

(Suy niệm của Jaime L. Waters – Chuyển ngữ: ĐCV Sao Biển)

 

HỌC CÁCH YÊU THƯƠNG CỦA CHÚA

 

Cả bài đọc một và bài Tin mừng hôm nay đều nhắc nhở chúng ta tìm cách gặp gỡ Thiên Chúa. Bài đọc hai nói về những cách thức bắt chước Thiên Chúa để bồi dưỡng mối tương quan của chúng ta với Chúa và với nhau.

 

Trong bài đọc một trích sách các Vua quyển thứ nhất, ngôn sứ Êlia được an toàn nơi hoang địa trong thời gian cai trị của Nữ hoàng Ideven và Vua Akháp. Những người lãnh đạo này có thái độ thù nghịch với các ngôn sứ của Israel, đặc biệt là Ideven khi bà cổ võ việc tôn thờ các thần xứ Canaan. Trong khi chạy trốn để bảo toàn mạng sống, Êlia đã than vãn về hoàn cảnh của mình và mong muốn được chết, nhưng một sứ thần thuyết phục ông nên chăm lo bản thân và chuẩn bị tiếp tục cuộc hành trình của mình. Hoàn cảnh đáng thương của Êlia và cách Thiên Chúa đáp ứng cho chúng ta một ví dụ về cách ứng phó với sự thù nghịch mà chúng ta gặp phải trong cuộc sống, cũng như cách tìm kiếm nơi nương tựa và chống trả sự bách hại. Cuối cùng, hành trình của Êlia đã đưa ông thoát khỏi cảnh đau khổ và dẫn ông đến một cuộc gặp gỡ đầy ấn tượng với Chúa tại núi Khôrép.

 

Tin mừng hôm nay cũng nói về cuộc gặp gỡ thần linh. Một lần nữa, Đức Giêsu nói về mình như tấm bánh nuôi dưỡng và duy trì sự sống. Song song với câu chuyện dân Israel phàn nàn với Môsê trong sa mạc, thì hôm nay chúng ta nghe dân chúng phàn nàn và xầm xì về Đức Giêsu. Đức Giêsu nhắc họ nhớ rằng Ngài đã được Chúa Cha trên trời sai đến và việc gặp gỡ Ngài sẽ dẫn đưa đến sự sống đời đời.

 

Bài đọc hai nhắc nhở chúng ta trở nên giống Chúa trong suy nghĩ và hành động. Nguyên tắc này thường được gọi là bắt chước Thiên Chúa (imitatio Dei), nghĩa là hướng dẫn các tín hữu xem Thiên Chúa như là một mẫu gương về cung cách sống. Khái niệm này được xây dựng dựa trên ý tưởng con người được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa (imago Dei). Thư gửi tín hữu Êphêsô đưa ra những ví dụ về những việc nên tránh và nên làm. “Đừng bao giờ chua cay gắt gỏng, nóng nảy giận hờn, hay la lối thoá mạ, và hãy loại trừ mọi hành vi gian ác. Trái lại, phải đối xử tốt với nhau, phải có lòng thương xót và biết tha thứ cho nhau, như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Đức Kitô.”

 

Tiếp đến, các tín hữu được nhắc nhở rằng tình yêu thương mà Thiên Chúa dành cho nhân loại chính là khuôn mẫu để chúng ta nên yêu thương nhau. Đoạn văn này (5,1-2) vô cùng quan trọng trong lúc này cũng như mọi lúc. Cụ thể, những câu này đòi hỏi chúng ta phải xem cái chết tự hiến của Đức Kitô không chỉ như một hành động cứu rỗi mà còn như một mẫu gương cho chúng ta. Tình yêu và sự hy sinh của Đức Kitô được nêu gương nơi thập giá, và chúng ta bị thách đố để đón nhận và nhận ra giáo huấn này trong cuộc sống của mình. Làm sao chúng ta có thể sống vị tha và hy sinh cho nhau? Câu trả lời đơn giản là hãy đối xử với nhau bằng nhân phẩm và sự kính trọng cùng với việc lên án sự thù ghét. Đây là những điều kiện để thực sự bắt chước Thiên Chúa, nhận ra rằng khi gặp gỡ người khác chúng ta cảm nghiệm họ là hình ảnh của Thiên Chúa.

 

71.Bánh Ban Sự Sống

    (Suy niệm của Tu sĩ Nguyễn Minh Tân)

 

Kính thưa cộng đoàn!

Trong cuộc sống không phải lúc nào cũng êm xuôi như nước chảy một chiều; có lúc vui nhưng cũng không vắng những nổi buồn, khi thành công nhưng đôi khi thất bại, có lúc hăng say nhưng đôi khi chán trường…, phải chăng “đời là bể khổ?”. Ai trong chúng ta chẳng đã một lần cảm nhận được những ngày mệt nhọc, buồn rầu chán nản? trước mặt như có một khoảng trống không, sau lưng chồng chất cả một dĩ vãng nặng nề?

 

Bủa vây con suốt ngày ngần ấy thứ

Dồn dập tư bề như nước bao la

Cận thân Chúa khiến lìa xa

Chung quanh bầu bạn chỉ là bóng đêm.

 

Đó cũng là trường hợp của nhà tiên tri E-li-a mà chúng ta vừa nghe qua bài đọc một. Ông cảm thấy cô đơn mệt mỏi, bởi vì nhìn xung quanh, ông thấy dân chúng, dân của Thiên Chúa, càng ngày càng đi sâu vào con đường tội lổi. Chỉ còn lại một mình, lẻ loi trơ trọi. Ông tự hỏi: chiến đấu, hăm dọa làm gì, khi mà Thiên Chúa cứ để cho mụ đàn bà tên là Gêzabel, vợ vua Achal làm mưa làm gió!, trong lúc buồn rầu, ông lên đường vào sa mạc, vừa đi vừa nói: “Lạy Chúa! đã đủ rồi, xin cất mạng sống con đi, vì con chẳng hơn gì cha ông chúng con”, mệt mỏi quá, ngồi nghỉ dưới gốc cây tùng và ngủ thiếp đi. Chúa biết, không gì làm ích cho vị tông đồ, thần kinh căng thẳng, cho bằng một giấc ngủ, và Chúa đã để cho ông có một giấc ngủ dài. Sau đó Chúa lại dọn cho một bữa ăn, nhờ bữa ăn đó mà ông có sức. Rồi Chúa dạy ông hãy đi lên núi Khô-rếp, núi thánh, nơi mà xưa kia Mô-sê đã được gặp gỡ Chúa và trở về với bộ mặt sáng chói.

 

Thưa cộng đoàn!

Đời sống của người tín hữu cũng là một chuyến đi lâu dài và vất vả. Câu chuyện tiên tri E-li-a là tiền ảnh một vị tông đồ khác là Phao-lô: “Anh em hãy đi, hãy chạy trong lòng mến”. Trong thư gửi Ê-phê-sô mà chúng ta vừa nghe qua bài đọc hai, Ngài dạy phải bắt chước Thiên Chúa, gương mẫu của chúng ta: “Anh em hãy sống trong tình bác ái. như Đức Ki-tô đã yêu thương chúng ta, đã tự nộp mình làm hiến lễ, làm hy lễ dâng lên Thiên Chúa tự hương thơm ngào ngạt”. Qua đây Thánh Phao-lô muốn ám chỉ rằng cuộc sống của chúng ta cũng như của Chúa Giêsu là một cuộc “đăng sơn”. Vậy! anh em chúng ta hãy để lại dưới chân núi những: chua cay, gắt gỏng, nóng nảy, giận hờn, thóa mạ…, để rồi cùng nhau hít thở bầu không khí trong mát trên đỉnh cao sơn: “Anh em hãy ăn ở hiền hậu với nhau, hãy thương xót và tha thứ cho nhau, như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Đức Ki-tô”. Tình yêu là làn gió mát, là sức mạnh để chúng ta tiến bước.

 

Thưa cộng đoàn!

Chắc chúng ta còn nhớ bài Tin Mừng của Chúa Nhật tuần trước, đó là phần đầu của bài giảng về Bánh Hằng Sống của Đức Giêsu; Người đã phân biệt hai thứ bánh: bánh vật chất nuôi thân xác tức là manna trong Cựu Ước, bánh thiêng liêng nuôi hồn tức Thánh Thể Chúa Ki-tô trong Tân Ước, và bài Tin Mừng hôm nay tiếp nối bài Tin Mừng Chúa Nhật vừa qua, đồng thời cũng là phần thứ hai của bài giảng về Bánh Hằng Sống. Trong phần này Chúa Giêsu nói đến việc Người ban “Mình” làm Bánh Hằng Sống và kêu gọi người ta ăn bánh đó.

 

“Ta là Bánh Hằng Sống từ trời xuống, ai ăn Bánh này sẽ sống đời đời”

Ở đây chúng ta thấy Chúa Giêsu đưa dần đến mầu ngiệm “bánh ban sự sống”. Thế nhưng dân chúng không chịu mở tai để nghe, mở trí để hiểu. Họ cứ khư khư xoay quanh những đòi hỏi vật chất, không khác gì cha ông họ kêu trách trong sa mạc ngày xưa. Họ nói: “Ông này chẳng phải là ông Giêsu, con ông Giu-se đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả; sao bây giờ ông ta lại nó: “Tôi là Bánh Hằng Sống từ trời xuống”. Thật vậy, Bánh Hằng Sống: đây là cách ám chỉ một con người sống, vì bánh tự nó không bao giờ có sự sống. Chúa Giêsu tự xưng là Bánh Hằng Sống vì Người là Thiên Chúa hằng sống, là Đấng phục sinh luôn mãi. Vì thế, chúng ta được lôi kéo đến cùng Người thì được thông phần vào mầu nhiệm của Người và cuối cùng được dẫn đến sự sống vinh quang.

 

Thưa cộng đoàn!

Nguồn gốc, nhân vị, quyền năng của Chúa Giêsu là một mầu nhiệm; “Ngài bởi đâu mà đến?”. Thưa: chỉ có đức tin, một ân huệ của Chúa Cha, mới có thể trả lời cho chúng ta biết. Chúa Giêsu đã bác bỏ những luận điệu quá tự nhiên ấy, Ngài còn khẳng định rằng: “Ta là đường là sự thật và là sự sống, không ai đến được với Ta, nếu Cha là Đấng sai Ta không lôi kéo kẻ ấy, và Ta, Ta sẽ cho họ sống lại ngày sau hết”. Thật vậy, chỉ có Thiên Chúa mới có thể mạc khải cho chúng ta Chúa Giêsu. Thánh kinh là con đường dẫn chúng ta đến với con Thiên Chúa; nhất là đến tột điểm hôm nay dưới hình ảnh Ngài là Bánh Hằng Sống. Để kết thúc bài giảng Chúa đã khẳng định rõ ràng, không úp mở: “Bánh Ta ban chính là Thịt Ta, để cho thế gian được sống!”.

 

Xin cộng đoàn nhớ điều này: Phép Thánh Thể chính là biểu hiện và cũng là sự thật, tình thương của Ngài đã hiến mình vì chúng ta dưới hình bánh rượu. Như E-li-a buồn rầu, chán nản, Chúa đã dọn cho một bữa ăn để có sức đi lên núi Chúa; thì nay Chúa cũng dọn cho chúng ta, chính Thịt và Máu của Người để bồi dưỡng linh hồn và thể xác chúng ta qua Bí Tích Thánh Thể.

 

Thưa cộng đoàn!

Chúa đã hiến ban Thịt mình cho thế gian được sống; vì thế chúng ta hãy quảng đại hiến ban chính cuộc sống cũng như tài năng, sức khỏe, bổn phận, vật chất…, để tạo nên sự nhẹ nhàng, thoải mái, niềm vui và hạnh phúc cho những người xung quanh chúng ta. Có một điều mà người kitô hữu không thể sao lãng đó là: chúng ta đã tin vào Chúa Giêsu, nhưng đức tin của chúng ta chỉ có sự sống khi chúng ta không có thái độ thờ ơ nguội lạnh với phép Thánh Thể, nhưng là sốt sắng và mến yêu tha thiết, vì phép Thánh Thể là nguồn ban sinh lực sự sống đời đời cho chúng ta.

 

72.Tôi là Bánh Ban Sự Sống

     (Chú giải và suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)

 

1.- Ngữ cảnh

Cũng như trong việc chữa lành người bất toại ở Ga 5, sang Ga 6, Đức Giêsu lấy sáng kiến nuôi đám đông (6,4-13). Và đám đông nhìn nhận việc nhân bánh ra lạ lùng là dấu chứng tỏ Đức Giêsu là vị ngôn sứ và vua của thời cánh chung mà dân con Israel hằng mong đợi (6,14-15). Kế đó, việc Đức Giêsu trên mặt biển sôi sục (6,16-19) và lời “Thầy đây (egô eimi, “Tôi là”)” để trấn an nhưng mang tính mạc khải cho các môn đệ đang sợ hãi (6,20; x. Xh 3,14) cho thấy thần tính của Người. Bài diễn từ kế đó cũng tập trung vào bản thân Đức Kitô (6,22-59). Trước tiên Đức Giêsu tỏ ra chính Người là “bánh ban sự sống” (6,35.48), là mạc khải của Thiên Chúa nhằm ban sự sống cho loài người, là bánh ban sự sống do Thiên Chúa Cha ban từ trời cho họ (6,32-33). Để được thứ bánh ban sự sống vĩnh cửu này, người ta phải tin vào Đức Giêsu, là Đấng Chúa Cha sai phái (6,29.35.40.47), và ăn thịt cùng uống máu Người (6,53.54.57.58).

 

Chính Bài diễn từ về Bánh ban sự sống có thể phân chia như sau:

1) Chuyển tiếp vào Bài Diễn từ (6,22-24);

2) Mở đầu Bài Diễn từ (6,25-34);

3) Chính Bài Diễn từ (6,35-50.51-59);

4) Phản ứng lại với Bài Diễn từ (6,60-71).

 

2.- Bố cục

Bản văn có thể được chia thành bốn phần:

1) Người Do Thái xầm xì (6,41-42);

2) Đức Giêsu kêu gọi tin vào Người (6,43-47);

3) Đức Giêsu mời gọi đón nhận Người là bánh trường sinh (6,48-50);

4) Bánh trường sinh chính là thịt Đức Giêsu (6,51).

 

3.- Vài điểm chú giải

– Tôi là (42): Kiểu nói “Tôi là” trong TM IV được liên kết với tên của Thiên Chúa (x. Xh 3,14). Trong tư tưởng Sê-mít, tên của một người cho thấy tính cách của người ấy. Như thế, khi đồng hóa chính mình với tên Thiên Chúa, Đức Giêsu mạc khải bản tính của Thiên Chúa và làm cho người ta biết Thiên Chúa. Những lời nói của Đức Giêsu thông ban ơn cứu độ của Thiên Chúa, là nguồn mạch tối hậu ban sự sống và ánh sáng cho Dân Người. Công thức “Tôi là” được sử dụng cách tuyệt đối trong 6,20; 8,24.28.58; 13,19; 18,5.6.8; đó là cách Đức Giêsu mạc khải về bản thân và uy quyền của Người. Một cách thường xuyên hơn, công thức này được sử dụng phối hợp với một ẩn dụ. Có 7 lần công thức “Tôi là” được dùng theo kiểu ẩn dụ để nói rõ rằng Đức Giêsu là một món quà Thiên Chúa ban cho loài người để có sự sống đích thực và ánh sáng, hoặc là ơn cứu độ được Thiên Chúa ban cho nhân loại (6,35; 8,12; 10,7.9; 10,11; 11,25; 14,6; 15,1).

– Ông này (42): “Cái ông này”, tính từ houtos diễn tả sự khinh thường (6,52; 7,15; 3,16).

– lôi kéo (44): Động từ helkyein với nghĩa “kéo ra ngoài, rút ra, mang ra ngoài bằng sức mạnh”, thường được dùng để chỉ việc di chuyển một khối nặng, như một chiếc thuyền, một cái xe.

– sách các ngôn sứ (45): Số phức này có lẽ là một cách tổng-quát-hóa, vì ở đây chỉ có một câu trích Is 54,13.

– thịt (51): Sarx đúng là từ ngữ dịch từ bơsar (A-ram; bâsâr, Híp-ri). Nhưng từ ngữ này không chỉ có nghĩa là “thịt” (cơ bắp…), mà cũng có thể có nghĩa là toàn thân thể và thậm chí tất cả con người, với đặc điểm là có tương quan với những người chung quanh (x. 1,14). Hy-ngữ có khả năng diễn tả tốt hơn các sắc thái này. Trong Do Thái giáo sau này, người ta chọn dịch từ Híp-ri bâsâr-thân thể bằng từ sôma, cho dù trong Tân Ước, đôi khi người ta dùng cả hai từ sarx và sôma như nhau. Nhưng đối với bí tích Thánh Thể, từ sôma đã trở thành từ cổ điển, ngoại trừ trong một vài tác phẩm sau thời các Tông Đồ, do ảnh hưởng Ga 6, các tác giả đã dùng từ sarx (chẳng hạn thánh Inhaxiô và thánh Giustinô). Phần tác giả TM IV, tại sao ông vẫn giữ lại danh từ “thịt” mặc dù đã có một từ ngữ riêng cho Bí tích Thánh Thể? Đó là vì “thịt” có nghĩa rộng hơn là sôma-thân thể; vả lại trong TM IV, sôma là cái thi hài, là thân thể chết. Làm thế nào một thi hài có thể đưa lại sự sống? Ngược lại “thịt” vừa chỉ toàn thể con người vừa chỉ thân xác, nên một danh từ hai nghĩa này rất lý tưởng để vừa gợi tới cái chết trên thập giá vừa nhắc tới Bí tích Thánh Thể.

 

4.- Ý nghĩa của bản văn

Đến đây, bên trong đám đông, bắt đầu xuất hiện những nhân vât đặc biệt. Nhóm đầu tiên là nhóm những người Do Thái. Chẳng lẽ tất cả những người làm thành “đám đông” lại không phải là Do Thái cả sao? Thế mà bên trong đám đông, tác giả Ga lại phân biệt ra một nhóm riêng gọi là “người Do Thái”, và ngài coi đây là những người càm ràm (“xầm xì”) và không tin.

 

* Người Do Thái xầm xì (41-42)

Phản ứng xầm xì của người Do Thái ở đây tương tự kiểu vấn nạn dân làng Nadarét đã nêu ra cho Đức Giêsu trong TM Mc (6,1-6). Phản ứng này còn khiến chúng ta nhớ lại quãng lịch sử xa hơn ngày trước: Trong sa mạc Sinai, con cái Israel đã xầm xì để bày tỏ sự ngờ vực đối với Môsê: họ không tin vào sứ mạng của ông là do Thiên Chúa trao và khả năng của ông là cung cấp bánh và nước cho họ (Xh 16,2-3; 17,3). Vẫn đi theo chiều hướng của tổ tiên, người Do Thái hôm nay xầm xì để nói lên sự hoài nghi của họ về tư cách và khả năng của Đức Giêsu.

 

Họ nhắc lại hai khẳng định của Đức Giêsu (c. 41): Người là bánh và Người từ trời xuống; đặc biệt họ nhấn mạnh tới điểm thứ hai. “Cái ông này” (giọng khinh thường), ta biết rõ gốc gác, thế mà ông ta lại cho rằng mình có một sứ mạng và một xuất xứ thần linh (x. 7,27)! Quả thật, theo niềm tin dân gian Do Thái, Đấng Mêsia phải xuất hiện thình lình, mà không ai biết Người từ đâu đến. Dựa trên niềm tin này, người Do Thái nghĩ rằng họ hoàn toàn có cơ sở để bác bỏ các khẳng định của Đức Giêsu.

 

* Đức Giêsu kêu gọi tin vào Người (43-47)

Đức Giêsu liền can thiệp, nhưng Người không bao giờ trả lời câu hỏi về nguồn gốc của Người trên bình diện nhân loại. Đứng tại quan điểm thần học, Người cho biết “Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy” (c. 44). Người được Thiên Chúa sai đến (c. 44) và Người đến từ Thiên Chúa (c. 46), do đó Người có thể cho rằng Người từ trời xuống. Nếu người Do Thái thôi xầm xì, và để cho lòng họ mở ra với hoạt động của Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lôi kéo họ đến với Đức Giêsu. Đây chính là lúc lời ngôn sứ Isaia (54,13) được thể hiện: “Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ”. Việc dạy dỗ này có một phương diện bề ngoài, theo nghĩa là nó được cụ-thể-hóa bởi chính Đức Giêsu đang đi lại giữa họ, và có một phương diện bên trong, theo nghĩa là Thiên Chúa hành động trong tim họ. Điều này cũng ứng nghiệm lời ngôn sứ Gr (31,33). Sự thôi thúc bên trong này do bởi Chúa Cha sẽ làm cho họ có khả năng tin vào Người Con và như thế có sự sống đời đời.

 

* Đức Giêsu mời gọi đón nhận Người là bánh trường sinh (48-50)

Các câu 48-50 là một đoạn theo cách hành văn đóng khung, vì các câu này nhắc lại phần mở của Bài diễn từ: Câu 48 cùng với c. 35 làm thành một câu đóng khung; cc. 49-50 nhắc lại các đề tài của cc. 31-33. Đám đông đã nêu ra cho Đức Giêsu gương của các tổ tiên họ đã ăn man-na trong sa mạc, nhưng Đức Giêsu cho thấy rằng việc này đã không cứu được các tổ tiên họ khỏi chết. Kế đó, Người lại nhắc lại ý câu trích Kinh Thánh ở c. 31 (“Người đã cho họ ăn bánh bởi trời”), Người nói rằng bánh đến thật sự từ trời là một thứ bánh không để cho người ta phải chết.

 

* Bánh trường sinh chính là thịt Đức Giêsu (51)

Sau đó, Đức Giêsu chuyển sang một đề tài mới: bây giờ vấn đề không còn phải là tin vào Người để được sống đời đời nữa, mà là ăn thịt và uống máu Người (cc. 51.54). Lâu nay các tác giả vẫn coi đây là một gợi ý về Bí tích Thánh Thể, nhưng ta có thể thấy nghĩa gần là Đức Giêsu nêu bật giá trị của cái chết của Người trên thập giá. Bởi vì chính là trong tư cách Con Người mà Đức Giêsu ban sự sống đời đời và Người lại trở thành Con Người đúng vào lúc cuối đời, vào Giờ của Người. Chính vì nhắm nối dài gợi ý về cái chết trên thập giá, tác giả dùng từ “thịt” (sarx), thay vì dùng từ “thân thể” (sôma). Bởi vì ý nghĩa căn bản và cũng là từ nguồn của thịt mà Con Người sẽ ban không phải là Bí tích Thánh Thể mà là ân ban “chính mình” trong cái chết trên thập giá. Vậy tại Caphácnaum, khi nói đến “thịt để cho thế gian được sống”, là Đức Giêsu muốn nói là “bản thân Người (chịu sát tế) để cho thế gian được sống”.

 

+ Kết luận

Điều mà không một thứ bánh nào có thể cung cấp và không một lời hứa nào của con người có thể đạt tới, cho dù có xác tín đến đâu, Đức Giêsu có thể ban tặng. Người mạnh hơn cái chết và Người muốn đưa chúng ta đi qua bên kia cái chết. Phần chúng ta, điều này có nghĩa là chúng ta phải chạy đến với Người để có sự sống đời đời, cũng như chúng ta vẫn chạy đến với bánh trần thế, để có sự sống trần thế. Nhưng điều này cũng có nghĩa là các biên giới của cái chết đã bị đánh đổ. Cũng như trong bánh, chúng ta tìm được phương thế để tránh thoát cái chết và tiếp tục ở lại trong sự sống trần thế, thì cũng thế Đức Giêsu giúp chúng ta thắng vượt sự chết và đi vào sự sống vĩnh cửu. Vì bánh giữ cho tôi sống, tôi phải ăn bánh, chứ không chỉ nói suông về bánh; vì Đức Giêsu là bánh ban sự sống vĩnh cửu, tôi phải đón nhận Người, tin vào Người và “ăn thịt” của Người, chứ không chỉ bằng lòng với việc biết điều gì đó về Người hoặc nói về Người, dù sâu sắc.

 

5.- Gợi ý suy niệm

  1. Đức Giêsu đã thật sự cho đám đông được ăn no; nhưng biến cố này không có ý nghĩa tự nó, nó quy về một thực tại khác. Sự kiện Đức Giêsu có thể ban bánh và cho no thỏa về phương diện trần thế phải chứng minh rằng Người chính là bánh ban sự sống đời đời. Ở bên Người, chúng ta không được tìm cơm bánh vật chất; trái lại chúng ta phải nhận biết Người có thể và Người muốn ban cho chúng ta điều vô cùng to lớn hơn. Điều mà chúng ta đang tìm kiếm nơi Đức Giêsu và chúng ta phải nhận được từ nơi Người, có thể được tóm trong câu này: “Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ” (Ga 6,35; x. 6,48.51).

 

  1. Đức Giêsu đã ra sức soi sáng chúng ta và quy hướng sự chú ý của chúng ta vào ân ban cốt yếu của Người. Lương thực ban cho đám đông chỉ là một dấu chỉ. Chúng ta coi thường dấu chỉ này, nếu chúng ta dừng lại với các mối quan tâm tức thời và chờ đợi Người ban cho cơm bánh và sức khỏe; thật ra Người muốn ban nhiều hơn thế nữa. Khi nói “Tôi là bánh hằng sống”, Đức Giêsu đặt mình vào trong mạc khải của Thiên Chúa mà Môsê đã được thông dự vào khi được Thiên Chúa kêu gọi. Vào dịp đó, Thiên Chúa đã mạc khải tên của Ngài: “Ta là Đấng Ta là” (Xh 3,14). Thiên Chúa được xác định chủ yếu bằng sự kiện là Ngài hiện diện vì Dân Ngai. Khi tự giới thiệu mình như thế, Đức Giêsu nói rằng Thiên Chúa đang hiện diện nơi Người vì loài người và quan tâm đến chúng ta, đến đời sống chúng ta. Đức Giêsu hiện thân là hình thái mới và vĩnh viễn của sự hiện diện đầy uy lực và năng động của Thiên Chúa, không chỉ nhắm ban sự che chở và hướng dẫn, mà còn nhắm có sự hiệp thông riêng tư về sự sống. Đức Giêsu không chỉ muốn ban bánh, mà còn ban sự hiệp thông vĩnh cửu riêng tư về sự sống với Thiên Chúa.

 

  1. Chúng ta lệ thuộc cơm bánh, để đảm bảo được sự sống của chúng ta. Không có sức lực đến từ cơm bánh, chúng ta không thể sống và làm được gì. Điều này không tùy thuộc ý chí chúng ta; nó là như thế. Do bản tính tự nhiên, chúng ta phải nhờ cơm bánh. Có cơm bánh, cũng có khả năng của cơm bánh là duy trì sự sống cho chúng ta. Nhưng đây chỉ là một khả năng giới hạn, vì cuối cùng chúng ta vẫn phải chết. Với công thức “Tôi là bánh hằng sống”, Đức Giêsu khẳng định rằng tương quan giữa bản thân Người với loài người cũng cùng một kiểu như tương quan giữa bánh và chúng ta. Đích thân Người, với tất cả những gì thuộc về Người, có thể ban cho chúng ta những gì bánh đưa lại cho chúng ta, nhưng không chỉ nhằm sự sống giới hạn, mà là sự sống vĩnh cửu vô biên.

 

  1. Dây liên kết duy nhất đích thật với Đức Kitô là tin vào Người. Tôi tin vào Người khi tôi ký thác tất cả lòng trí tôi nơi Người, xác tín vào lời Người nói, xây dựng mọi sự dựa trên Người, nhắm mọi sự theo Người, liên kết đời tôi vào Người. Đức tin không phải là một xác tín về trí thức và một đoan chắc rằng một lời khẳng định hay một sự kiện nào đó là thật; đức tin là một thái độ chắc chắn và tin tưởng tỏ ra với Đức Giêsu, với ý thức trọn vẹn rằng Người là ai và với sự nhận biết đầy đủ về chân tính của Người. Đức tin là tương quan và dây liên kết người với người. Niềm tin vào Đức Giêsu đưa lại sự sống đời đời (6,47).

 

73.Chúa Nhật 19 Thường Niên

    (Chú giải mục vụ của Alain Marchabour)

 

Sự cứng lòng không chịu tin:

Thấy mà không tin (c. 36)

Xầm xì (c. 41)

Chẳng phải là ông Giêsu, con ông Giuse đó sao? (c. 42)

 

Làm sao ông ta có thể nói?

Mặc khải:

Chẳng ai đến với Tôi được nếu Chúa Cha không lôi kéo người ấy (c. 44).

Tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết

Không ai thấy Chúa Cha. Chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha (c.46).

 

Được dẫn nhập cách trịnh trọng một lần nữa bằng “Thật, Tôi bảo thật các ông”, sự mặc khải được nhấn mạnh hơn, bằng cách tập trung vào Chúa Giêsu. Việc người Do Thái soi chiếu với bánh manna dẫn đưa bài diễn từ của Chúa Giêsu đến “Bánh bởi trời”. Cũng như người Do Thái đã lãnh nhận bánh manna làm dấu chỉ của Lời và của sự mặc khải, thì Chúa Giêsu, bánh từ trời xuống, tỏ mình như sự mặc khải chung cuộc cho loài người. Có nhiều từ được lặp lại trong phần thứ ba (cc. 47-52). Như được chứng tỏ khi đem so sánh các câu 33 và 51-52:

 

Bánh Thiên Chúa ban (c. 33) đó là:

Đấng từ trời xuống và đem lại sự sống cho thế gian.

Tôi là (c. 51)

Bánh từ trời xuống

Bánh Tôi sẽ ban tặng…

Là để cho thế gian được sống

 

Trong bối cảnh lịch sử của Chúa Giêsu thì rõ ràng diễn từ về bánh trường sinh này không thể trực tiếp chỉ Thánh Thể, không thể nào hiểu được trước khi có bữa ăn sau cùng, sự chết và sống lại của Chúa Giêsu. Như vậy đúng là sự mặc khải, tiêu biểu bằng con người Chúa Giêsu. Tuy nhiên được viết sau Phục Sinh, với những lời lẽ ghi lại cụ thể từ việc cử hành Thánh Thể, thì rõ ràng toàn bộ chương 6 là một diễn từ gợi lên cùng một lúc Đức tin và Thánh Thể trở nên nổi bật, trong khi chính đức tin vào Chúa Giêsu, Đấng mạc khải, chiếm ưu thế cho đến bấy giờ. Cựu ước sẵn sàng soi sáng lời với lương thực: Như Amôt: “Đây Thiên Chúa phán: Kìa, thời kỳ ấy là khi ta khiến lãnh thổ đói kém, không vì đói khát nước, nhưng bởi đói nghe lời Thiên Chúa” (Am 8,11). Cách nói về lương thực cũng gợi nhớ đến sự khôn ngoan trong Cựu ước: “Ai ăn vào càng đói, uống càng khát”, sự Khôn ngoan tự tán dương (Kn 24,21). Có thể xem thêm Cn 9,5.

 

Sự sống mà Chúa Giêsu cho là ân ban ngay lập tức và là lời hứa được sống lại trong ngày sau hết. Sự cánh chung ngay lập tức và bảo chứng sự sống đời đời được trao ban nhờ đức tin vào Chúa Giêsu.

 

Ân ý của biến cố Xuất hành biến hóa trong các từ được dùng để diễn tả sự đối nghịch của người Do Thái: “họ xầm xì” (ở đây nên dịch là “càu nhàu” c.41) như tổ tiên họ đã làm trong sa mạc (Xh 16,2.7; 17,3). Họ phản ứng “theo xác thịt”: làm sao “con ông Giuse” (c.42). Con Người bằng thịt bằng máu, có thể nhận mình là Con của Chúa Cha?

 

Thật, Tôi bảo thật các ông (cc. 47-52)

Mặc khải: (cc. 47-51)

Sự cứng lòng không chịu tin:

Người Do Thái tranh luận sôi nổi với nhau: Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được (c,52)?

 

Sự mặc khải tiến dần theo cách thức Sêmit, theo hình xoắn ốc được lặp lại bằng cách đào sâu suy nghĩ. Các câu 33 và 51 song song nhau: vẫn là đức tin vào Chúa Giêsu trổi vượt hơn hết, Người là Đấng cho mình là Lời của Thiên Chúa từ trời xuống. Tuy nhiên trong 51, thình lình sự chết được nhắc đến, như nguồn mạch sự sống, được xác định: “Bánh Tôi sẽ ban tặng, chính là thịt Tôi đây, để cho thế gian được sống.” Từ “thịt” làm liên tưởng đến lời tựa 1,14: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm”. Chính là sự nhập thể, nhưng ở đây được diễn tả theo cách: sự chết của Chúa Giêsu như nguồn mạch sự sống cho mọi người.

 

Ngôi Lời đã trở nên người phàm (1,14)

Thịt đã trở nên bánh (6,51)

Có sự liên tục giữa sự nhập thể, sự chết trên thập giá và bí tích Thánh Thể. Chính trong câu này mà sự mặc khải tỏ hiện cho mọi người, cùng với nguy cơ bị từ khước: ở đây người Do Thái “tranh luận”, tím kiếm lý lẽ (“làm sao”) thay vì sẵn sàng đón nhận mầu nhiệm.

 

74.Chú giải của Noel Quesson

 

BÁNH HẰNG SỐNG

Người Do Thái liền xầm xì phản đối, bởi vì Đức Giêsu đã nói: “Tôi là bánh từ trời xuống”.

 

Họ nói: “ông này chẳng phải là ông Giêsu, con ông Giuse đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả sao bây giờ ông ta lại nói: “Tôi từ trời xuống?”

Theo truyền thống thiêng liêng qua mọi thời đại, chúng ta có thể nghĩ rằng không có một chi tiết nào trong Thánh Kinh là vô ích hay tầm thường. Nếu những “thính giả đầu tiên” của Đức Giêsu đã “phản đối” khi họ nghe nói về “Thánh Lễ” chắc điều này phải có ý nghĩa. Không phải chỉ có ngày nay con người mới khước từ Mầu nhiệm Trung tâm của đức tin. Sự khước từ hiện nay của nhiều người trẻ cũng như người trưởng thành không phải là một chuyện mới mẻ: việc này đã bắt đầu từ thời Đức Giêsu, khi chính Người đã giảng giải và dạy giáo lý! Trước hết chúng ta hãy khiêm tốn nhận biết lời xác quyết của Đức Giêsu thật to lớn. Chúng ta nên nhìn nhận rằng người, không tin không phải là một kẻ bất bình thường. Họ sống theo “lý trí” của con người một cách hoàn toàn tự nhiên. Điều này càng nhấn mạnh đến tính cách đặc biệt của đức tin; đức tin không chỉ giới hạn vào những quan điểm hợp lý mà thôi. “Ta là bánh hằng sống từ trời xuống”. Đây là cao vọng chưa từng thấy của một người thợ mộc thấp bé ở làng bên cạnh, mà người ta biết rõ cha mẹ. Đức Gỉêsu đã phản ứng thế nào, hôm đó (và hôm nay) trước sự khước từ “bánh bởi trời”?

 

Đức Giêsu bảo họ: “Các ông đừng có xầm xì với nhau! Chẳng ai đến với Tôi được, nếu Chúa Cha, là Đấng đã sai Tôi, không lôi kéo người ấy. và Tôi, Tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết. Xưa có lời chép trong sách các ngôn sứ: Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ”.

Ngay từ đầu, Đức Giêsu đã đứng trên một bình diện khác với lý trí của con người. Đó là điều mà chúng ta thường gọi là “ân sủng” hay nói cách khác, đó là sáng kiến của Thiên Chúa. Đức Giêsu nói, cần phải có sự soi sáng bên trong của Thiên Chúa là đức tin, để thấu ‘hiểu được những việc của Thiên Chúa, để “đến với Đức Gíêsu”. Chỉ có Chúa mới có thể nói về Chúa. Đấng siêu việt không phải là một thực tại nhỏ bé nằm trong tầm hiểu của bộ óc con người hay của máy móc khoa học: Thiên Chúa là Đấng hoàn toàn khác, vượt cao hơn tất cả. Hãy để cho Chúa dạy bảo chúng ta. Phải đón nhận “Lời Chúa”, lời từ một nơi khác đến với chúng ta.

 

Có lẽ chúng ta chưa nghe Đức Giêsu nói cách đầy đủ. Hỡi bạn trẻ, bạn cho rằng Thánh lễ “chẳng có gì hấp dẫn”, bạn hãy ra khỏi chân trời nhỏ bé của bạn, hãy bước vào cuộc phiêu lưu. Trước tiên, Thánh lễ không bao giờ là một hiện tượng văn hóa, xã hội hay mỹ thuật. Thánh lễ là mầu nhiệm của “sự hiện diện”, tiếng Hêbrơ gọi là “Shekinnar” có nghĩa là “sự cư ngụ thực sự” của Thiên Chúa siêu việt trên địa cầu của chúng ta.

 

Bạn tìm cái gì khi bạn đi dự lễ? Nhạc “bình ca” hay nhạc “tân thời”? Chỗ nương tựa để bạn bảo thủ cương vị của mình cách an toàn, hay hứng khởi giúp bạn dấn thân đổi mới? Những bầu khí đó không phải là vô ích. Nhưng Đức Giêsu nói với chúng ta rằng Chúa là Đấng chúng ta phải tìm kiếm. Đến với Đức Giêsu là một “hồng phúc của Thiên Chúa”. Một thứ ân sủng: “Bạn hãy đưa tay ra, hỡi người anh em, hãy mở rộng bàn tay hãy đón nhận Man-na, đón nhận lời Chúa”.

 

Vậy phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Cha, thì sẽ đến với Tôi.

Đức Giêsu có một tư tưởng rất tinh tế. Không, lao vào một cuộc tranh cãi thần học nào, không bút chiến. Người khẳng định:

  • Vai trò ưu tiên của “ân sủng”, một sáng kiến của Chúa mà chúng ta phải nhận lãnh.
  • Vai trò cốt yếu của tự do, đặc chất của con người, luôn đòi hỏi một nỗ lực.

Chính Chúa Cha “lôi kéo”, “dạy bảo” và “đề nghị”. Nhưng con người có thể “lắng nghe” và đáp lại hay bịt kín lỗ tai và từ chối.

 

Chỉ có những kẻ nào ưng thuận “lắng nghe lời dạy của Chúa Cha” mới có thể bước vào mầu nhiệm “Bánh hằng sống”. Nhưng ta sẽ sai lầm nếu chỉ hiểu câu nói của Đức Giêsu theo nghĩa hẹp. Vì thế Đức Giêsu đã nói: “Có một số người được Chúa Cha lôi kéo đến đón nhận ân sủng”. Người vừa nhấn mạnh: “Tất cả họ đều được Thiên Chúa dạy dỗ”. Do đó sự khác biệt trong thái độ, chính là sự khác biệt trong cách lắng nghe. Về phía Chúa, ân sủng được ban cho tất cả mọi người. Nhưng về phía con người tự do, họ có thể chối từ Thiên Chúa. “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón tiếp” (Ga 1,11).

 

Lạy Chúa chúng con đang chờ đón Chúa. Này, đây đôi tay chúng con đang giang rộng…

 

Không phải là đã có ai thấy Chúa Cha đâu, nhưng chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha.

Một cách rõ ràng, Đức Giêsu muốn mang đến cho chúng ta một cái gì khác hơn là một ý thức hệ, một thứ luân lý, mỹ thuật hay chính, trị. “Ngôi vị Thiên Chúa” đã đột nhập trong lịch sử nhân loại: Người khẳng định, Người từ Thiên Chúa mà đến, và là “Đấng duy nhất” biết rõ về Thiên Chúa. Người là sự hiện diện đích thực của Thiên Chúa trong thế giới chúng ta. Vậy chúng ta chớ ngạc nhiên khi thấy Thánh lễ thật kỳ diệu lạ lùng. Đó là nơi gặp gỡ của Đấng vô hình, của Đấng tuyệt đối, của Thiên Chúa. Đó là cuộc phiêu lưu tuyệt vời đòi phải vượt qua những quan điểm thông thường nhân loại, Thánh lễ là một “lỗ hổng”… một sự mở rộng nhiệm mầu u nới bức tường lý trí hay lý luận của chúng ta: Thánh lễ có thể đưa chúng ta vào lãnh vực rất bí ẩn của Thiên Chúa.

 

Không ai đã thấy Thiên Chúa bao giờ.

Đức Giêsu không dè giữ lời nói. Người đặt hàng rào chắn rất cao. Vượt qua được khó khăn đó, để gặp gỡ Chúa, thành tích của ta thật là hiển hách. Văn sĩ Peguy nói: Bí tích Thánh Thể, Bánh hằng sống, không phải là những chuyện tầm thường ngang tầm tay chúng ta. Phải tìm kiếm vượt trên những gì hữu hình. Không ai đã thầy bao giờ. Vậy để thấy rõ hơn có lẽ chúng ta sẽ nhắm hẳn mắt lại, tránh mọi sự chia trí trong thế giới hữu hình, để tập trung vào cái vô hình.

 

Ai tin thì được sự sống đời đời. Tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết.

Đây là những lời nói lạ kỳ, hầu như không chấp nhận được khi ta biết rằng những lời này đã được một người có vẻ như mọi người, nói lên vào một ngày kia, bên bờ một hồ nhỏ tại Ca-phác-na-um trên hành tinh chúng ta. Sự việc Thiên Chúa đột nhập trong con người, đã gây ra ngạc nhiên biết bao. Ngạc nhiên như việc “sáng tạo đầu tiên từ hư không”.

 

Chúng ta hãy để ý thì hiện tại: “Họ có sự sống đời đời” và thì tương lai: “Tôi sẽ cho người ấy sống lại”.

 

Tôi là bánh trường sinh.

Ở đây chúng ta gặp lại sự khẳng định mạnh mẽ của Thánh kinh, định nghĩa Thiên Chúa như là “Đấng hiện hữu YAHVEH”. Đó là 4 chữ không xóa nhòa được, chỉ có 4 phụ âm (vì tiếng Hêbrơ chỉ viết có phụ âm) mà không một người Do Thái nào dám đọc 4 chữ này, người Do Thái thay thế 4 chữ này bằng Adonai, (Đức Chúa). Còn Chúa Giêsu thì dám nói: “Tôi hiện hữu”, “Tôi là Bánh hằng sống”.

 

Tổ tiên các ông đã ăn manna trong sa mạc, nhưng đã chết. Còn bánh này là bánh từ trời xuống để ai ăn thì khỏi phải chết. Tôi là Bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời.

Ở đây chỉ đặt vấn đề “sự sống”. Sau khi đã nói về “Bánh ban sự sống” (o artos tès zoès) bây giờ Đức Giêsu nói về “Bánh hằng sống” (o artos ozôn). Cuốn sách đầu tiên của Bộ Kinh Thánh (Sáng Thế 3,22) khẳng định con người (‘Ađam’ trong tiếng Hêbrơ) đã được tạo nên để sống vĩnh cửu do “cây hằng sống” mà con người có thể ăn những trái thần thiêng của cây này. Và cuốn sách mạc khải cuối cùng (Khải Huyền) khẳng định khi việc sáng tạo chấm dứt, sẽ không có sự chết nữa. “Ta sẽ cho kẻ chiến thắng ăn cây hằng sống trong vườn của Thiên Chúa”. Đó là sự lặp lại và là sự thành công trong chương trình ban đầu của Thiên Chúa.

 

Do đó Chúa Giêsu đã khẳng định với những nông dân Galilê thời xưa, cũng như với chúng ta ngày nay rằng, sự “bất tử”, sự sống không chết “này nhờ đức tin” đã được ban cho những người, không còn phải ăn “cây hằng sống”, nữa mà là “bánh hằng sống”: Là chính Đức Giêsu. Ta có thể thắc mắc, những kẻ rước Mình Thánh Đức Giêsu cũng đã chết như mọi người? Nhưng rõ ràng ta không còn ở trong phạm vi nhân loại nữa nghĩa là trong lãnh vực các sự vật “hữu hình”: Không ai đã thấy cái “vô hình” không ai có thể chứng minh là không có một “sự sống” vô hình. Điều đó không thuộc lãnh vực “lý trí”. Nhưng tại sao chúng ta không để cho “Chúa Cha dạy bảo”? Tại sao chúng ta lại không tin Người?

 

Từ chối sự “dâng hiến” siêu việt này, là đánh mất ngay từ bây giờ sự sống vô hình, là tự phó mình cho hư không, cho tính hữu hạn thuộc bản chất tự nhiên của con người: “Cái gì bởi xác thịt mà sinh ra thì là xác thịt” (Ga 3,6). Tại sao Thiên Chúa lại không can thiệp để “ban cho” chúng ta sự sống, tuyệt đối vĩnh cửu của Người?

 

Lạy Chúa này đây tay chúng con đang giơ cao để đón nhận hồng ân đó.

 

Và bánh Tôi sẽ ban tặng chính là thịt Tôi để cho thế gian được sống.

An sủng của Thiên Chúa, tự nó là vô hình, nhưng đã trở nên hữu hình trong Chúa Giêsu Kitô. Tinh yêu của Thiên Chúa, phi thường, nhưng ẩn dấu, đã tự tỏ lộ ra và trở nên “cảm thấy được”; đó là Chúa Giêsu bị đóng đinh, là Thịt và Máu của Người đã được hiến tế. Ngôi Lời Thiên Chúa đã không chỉ nói với chúng ta bằng lời mà còn bằng hành động: “Trao hiến thịt mình, phó nộp thân mình, đó là dấu chỉ tình yêu trọn vẹn.

 

Chúng ta hãy đón nhận Ngôi Lời Thiên Chúa đang ban Thịt Máu Người cho chúng ta và trở nên sự sống cho chúng ta.

 

75.Chú giải của Fiches Dominicales

 

BÁNH HẰNG SỐNG TỪ TRỜI XUỐNG

 

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI

  1. Bỏ qua “những lời sầm xì phản đối”

Hôm nay chúng ta vẫn tiếp tục tìm hiểu bài ‘diễn từ về Bánh hằng sống” đã khởi sự được đọc từ Chúa nhật trước. Đức Giêsu vừa long trọng khẳng định: “Tôi là bánh từ trời xuống”. Manna là của ăn tạm bợ, mau hư nát phải gợi lên cho con cái lsrael một cơn đói khác: đói Lời Chúa, một thứ lương thực duy nhất có khả năng làm cho lòng người được no đầy phỉ chí. Còn trổi vượt hơn manna kỳ diệu, Đức Giêsu tự xưng là “Bánh Trường sinh là mạc khải quyết định, nên nghe Người là được mời dùng bữa, hấp thụ lời Người trở thành lương thực đem lại kết quả là sự sống. Chúa nói tiếp: “Ai đến với tôi không hề phải đói, ai tin vào tôi chẳng khát bao giờ”.

 

Lời tuyên bố này vì có tính cách thúc ép họ phải xác định lập trường đối với Đức Giêsu, nên khiến cho quan hệ đôi bên trở nên tồi tệ: từ ngộ nhận này đến ngộ nhận khác đánh dấu hồi đầu của cuộc đối thoại, người ta đi tới thái độ không hiểu và chống đối.

 

Những điềm báo trước sự đổ vỡ này được Tin Mừng Gioan mô tả trong ba nét sau:

  • Trước tiên đã có sự thay đổi từ vựng. Trước đây, thánh sử dùng những từ “đám đông” hoặc “dân chúng” để chỉ đám người Galilê. Chúa nói: Từ nay, Ngài sẽ nói là những người Do Thái, hiểu nơi này trong Tin Mừng Gioan không có ý chỉ dân Do Thái chút nào, mà được hiểu là những chức sắc tôn giáo ở Giêrusalem, họ là những người đã có lập trường chống đối Đức Giêsu. Kiểu nói đó, hiểu rộng ra cũng ám chỉ tất cả những kẻ đã từ chối tiếp nhận Chúa.
  • Thứ đến là việc lặp đi lặp lại hai động từ “xầm xì phăn đối” để nêu bật những phản ứng tiêu cực trong bụng dạ họ thay cho những thỉnh cầu tỏ tường và trực tiếp lúc ban đầu. Những động từ này rõ ràng mang âm hưởng Kinh Thánh vì gợi cho người ta nhớ đến thái độ phản loạn của con cái Israel trong hành trình ở sa mạc.

 

  1. Léon-dufour giải thích: “Trung thành với câu chuyện về manna trong sa mạc được làm nên cho cả chương sách, thánh sử với những thính giả của Đức Giêsu lúc này như thế hệ của những người trong sa mạc xưa: “họ xì xầm, phản đối”, những khác nào cha ông họ xưa tỏ ra cứng đầu cứng cổ, bị cơn đói dày vò, đã buông lời kêu trách ông Môsê vì đã dẫn đưa họ ra khỏi đất Ai Cập. Mối liên hệ giữa hai bản văn là sự thiếu lòng tin (…) Trong sa mạc khi những người Do Thái xì xầm phăn đối ông Môsê, ông đã trả lời rằng không phải họ đã phản đối ông, mà chính là đã phản đối Đức Giavê vậy”. Có thể là Gioan thích dùng động từ “xì xầm phản đối” hơn bất cứ động từ nào khác, vì từ ấy thích hợp hơn để gợi ý rằng từ chối tin vào Đức Giêsu chính là từ chối đi theo chương trình của chính Thiên Chúa vậy. Ở 6,35-40, Đức Giêsu đã nhấn mạnh đến việc Người được “Chúa Cha sai đến và người hoàn toàn làm trọn ý Cha Người” (“Lecture de l’evangile selon Jean”; cuốn 11, trang 152).

 

Sau cùng có vấn nạn gay gắt họ đưa ra: “Ông này chẳng phải là ông Giêsu, con ông Giuse đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả. Sao bây giờ ông ta lại nói: Tôi từ trời xuống”. Họ nghĩ bụng: “Quả thực, có thể nhìn nhận cái gốc gác thần linh ông ta đòi, nơi một kẻ mà người ta biết rõ cả gia đình, nghề nghiệp và địa vị xã hội được chăng?”

 

  1. Tiếp đến lòng tin vào Đức Giêsu, Đấng Thiên Chúa sai đến.

Không những không nhẹ giọng, Đức Giêsu còn lên tiếng mạnh mẽ quả quyết rằng Người từ Thiên Chúa mà đến, rằng chỉ mình Người đã thấy Chúa Cha. Tin Đức Kitô là tuyên xưng Người có nguồn gốc từ trời, không căn cứ vào những vẻ bề ngoài, không nệ vào những gì ta biết được về liên hệ gia đình và xã hội của Người. Tin chính là khởi đi từ dấu chỉ để học cho biết nhận ra và hết lòng tin cậy vào Đấng Chúa Cha sai đến. Và đó hẳn không phải là chuyện con người một mình tiến hành; chỉ những ai được Chúa Cha lôi kéo mới đến được với Đức Kitô thôi: “Chẳng ai đến với tôi được, nếu không được Chúa Cha, là Đấng đã sai tôi, lôi kéo người ấy”.

 

Dựa vào những lời hứa và hình ảnh tiên báo của Cựu Ước, Đức Giêsu liền tuyên bố rằng những lời hứa và hình ảnh ấy nay đang ứng nghiệm nơi bản thân Người.

 

Vị ngôn sứ xưa đã loan báo rằng Thiên Chúa sẽ tỏ mình ra cho toàn thể dân Người: “Mọi người sẽ được chính Thiên Chúa dạy dỗ” (ls 54,13 và 11,8 hoặc Giê 31,34). Chính bây giờ là lúc Đức Giêsu khẳng định – lời hứa ấy được ứng nghiệm. Người còn nói với họ: Chính bây giờ là lúc Chúa Cha kêu gọi các ông và lôi kéo các ông đấy, bởi lẽ lời dạy dỗ của Tôi là lời dạy dỗ của Chúa Cha; người mà các ông chỉ muốn coi là “con ông Giuse” chính là mạc khải trọn vẹn của Thiên Chúa đã được các ngôn sứ loan báo trước.

 

Manna, lương thực lạ lùng đấy, nhưng tạm bợ, đã không thể giữ cho lớp người ở sa mạc khỏi phải chết. Còn Đức Giêsu, vì Người bởi Thiên Chúa mà đến, mới thực là “bánh hằng sống”, bánh đem lại phúc trường sinh: “Tổ tiên các ông đã ăn manna trong sa mạc, nhưng đã chết. Còn bánh này là bánh từ trời xuống, ai ăn thì khỏi phải chết”.

 

Ở câu 51: “Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây để cho thế gian được sống”, Đức Giêsu loan báo cái chết của Người là ân huệ, một ân huệ nguồn sống. Đây là câu chuyển tiếp sang phần hai của “Diễn từ về Bánh hằng sống” chúng ta sẽ đọc vào Chúa nhật tới.

 

A.Marchadour muốn lưu ý ta rằng: “Trong bối cảnh lịch sử rõ ràng là bài diễn từ về bánh hằng sống này không thể trực tiếp ngụ ý nói về bí tích Thánh Thể, càng không thể hiểu được là bữa ăn sau hết, cái chết và sự phục sinh của Đức Giêsu. Vậy ta nên coi đây là mặc khải về chính bản thân con người Đức Giêsu. Nhưng vì được viết sau Phục sinh, cùng với những từ ngữ mang âm sắc mạnh mẽ của việc cử hành Thánh Thể, thì rõ ràng là toàn bộ chương 6 là một bài diễn từ gợi lại cùng một lúc lòng tin và bí tích Thánh Thể với một tỉ lệ đảo ngược: từ câu 51-52 trở đi, nốt chủ âm là bí tích Thánh Thể (51/71), còn từ đầu chương cho đến câu 51, thì lòng tin vào Đức Giêsu Đấng Mạc Khải chính là nốt chủ âm thứ nhất (1/51) vậy. (Sđd, trang 107)

 

BÀI ĐỌC THÊM

  1. “Sâu thẳm lòng tin” (Đức Cha L.Daloz, trong ‘Nous avons vu sa Gloire’, Desclée de Brouwer, trang 85-86).

Những lời Chúa nói gây nên trong đám đông một cuộc tranh luận sôi nổi. Như Cộng đồng Israel trong sa mạc, vì sợ chết đói, nên đã xầm xì phản đối hai ông Môsê và Aaron thế nào, thì những người Do Thái, như Tin Mừng cho biết, cũng bắt đầu xầm xì phản đối Đức Giêsu như vậy. Lời quả quyết của Người có vẻ lố bịch: ông này chẳng phải là ông Giêsu, con ông Giuse đó sao? Cha mẹ ông ta chúng ta đều biết cả. Vấn đề nhân tính của Đức Giêsu được họ đặt ra rất gay gắt. Con người này, người ta biết rõ gia đình của ông, thế mà ông ấy lại quả quyết mình từ trời xuống! Đó là cái nút thắt của mầu nhiệm mà sau này các Công đồng và các nhà thần học sẽ cố gắng tập trung nghiên cứu, mầu nhiệm Nhập Thể của Ngôi Con vừa là Thiên Chúa thật vừa là người thật. Vào thời điểm Tin Mừng Gioan được viết ra, các tín hữu đã suy niệm mầu nhiệm này rồi, nên không lạ gì mầu nhiệm ấy đã được trình bày cho chúng ta một cách khá rõ ràng.

 

Đây là một vấn đề luôn có tính thời sự. Cả chúng ta cũng phải đối diện với mầu nhiệm này nữa, nếu ta muốn tiếp nhận Đức Giêsu đúng như chân tính của Người: vừa gần gũi vừa khiến ta ngỡ ngàng, vừa dễ hiểu vừa nhiệm mầu. Để được như vậy, thì ta cần phải để cho Chúa Cha lôi kéo, để Người nói với con tim ta: “Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi không lôi kéo người ấy”. Đức Giêsu vừa rất gần gũi, rất người, mà cũng xa cách biết bao. Để nhận biết Người cho đúng, ta phải “đến với Người”. Trong con người Giêsu ấy mà ta tưởng là đã nắm được lý lịch, ta sẽ khám phá ra Đấng đã thấy Chúa Cha, Đấng có quyền cho mọi người sống lại trong ngày sau hết. Đức tin ngay từ bây giờ đưa ta đi vào cuộc sống đời đời: “Thật, tôi bảo thật các ông ai tin thì được sự sống đời đời”. Đây chính là một giai đoạn mà ta phải quyết định. Đằng sau vẻ ồ ạt bên ngoài của đám đông theo Đức Giêsu vì Người đã thỏa mãn nhu cầu cơm bánh của họ, đằng sau ngay cả vẻ tán đồng của các môn đệ vì đã nhìn thấy qua các dấu chỉ của Người, vinh quang Chúa tỏ hiện, thì bước sau cùng tiến đến lòng tin vẫn là ngoan ngoãn để Chúa Cha lôi kéo. Những con mắt thịt của ta chỉ có thể trông thấy những cái bên ngoài; còn trực giác của ta chỉ có thể làm cho ta cảm nghiệm được mầu nhiệm. Việc tuyên xưng niềm tiến chỉ nảy ra trong lòng và tràn trên môi miệng ta nấu Thiên Chúa rọi sáng cho con mắt tâm hồn của ta và ta được ánh sáng hướng dẫn. Ta có lòng tin sâu thẳm khi trong mật thiết sâu xa và huyền nhiệm Chúa đến gần gũi ta và ta tự do dâng hiến toàn thân và dấn thân cho Người

 

  1. “Chúng ta có tránh khỏi sầm xì không”. (H.Vulliez, trong “Dieu si proche, Năm B”, Desclée de Brouwer, tr. 137).

Khi những tiếng xầm xì, nhỏ to nổi lên từ một đám đông, thật đáng buồn. Những lời xầm xì nham hiểm, tệ hơn những lời phản đối mạnh mẽ! Không có gì đáng sợ và có sức phá hoại hơn thái độ khinh thị ngạo mạn này. Khi lang thang trong sa mạc, dân Do Thái đã luyến tiếc “những củ hành và miếng thịt” của Ai Cập mà quên đi kiếp nô lệ phũ phàng đã phải chịu. Họ bắt đầu xầm xì phản đối ông Môsê và Aaron.

 

Thực ra chính là họ đứng lên chống lại chính Thiên Chúa. Trong cả bộ Kinh Thánh, từ “xầm xì phản đối” đều có một ý nghĩa đạo đức nhất định. Đó sẽ là sự biểu lộ thái độ ngoan cố chối từ kế hoạch Chúa muốn cho con người. Như ta thấy biểu lộ trong phần đầu chương 6, Tin Mừng Gioan: những người lãnh đạo Do Thái giáo chối từ “bánh hằng sống”. Xa hơn (Ga 6,61) ta thấy thái độ chối từ của chính các môn đệ. Những lời xầm xì thường là thái độ chối từ chưa dám đem niêm yết công khai vậy.

 

Liệu chúng ta có tránh khỏi thái độ xầm xì không?

 

76.Chúa Nhật 19 Thường Niên

    (Gợi ý bài giảng của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt)

 

CHÚ GIẢI CHI TIẾT

“Làm sao bấy giờ ông ấy dám bảo: Ta đã từ trời mà xuống?”

Điều Chúa Giêsu vừa nói về nguồn gốc thiên giới của Người xem ra quá phóng đại. Làm sao một kẻ mà thiên hạ biết rõ họ hàng lại dám gán cho mình một nguồn gốc thiên giới. Những ý nghĩ này giúp chúng ta biết các dư luận phổ biến lúc ấy về Chúa Giêsu. Dĩ nhiên đây không phải là quan niệm của thánh sử và người ta cũng chẳng lấy được gì từ đó để chống lại tín điều về sự sinh hạ đồng trinh của Chúa Giêsu. Và cũng không có gì cho phép giả thiết là thánh Giuse lúc đó còn sống. Gioan chẳng nói đến điều đó bao giờ. Có lẽ là thánh Giuse đã chết trước khi Chúa Giêsu bắt đầu cuộc đời công khai.

 

“Các ngươi đừng kêu ca với nhau tranh luận chỉ tổ vô ích; chỉ có hoạt động của Chúa Cha mới hướng dẫn những kẻ tin Ngài đến với Đấng có mặc khải viên mãn (3,21). “Đấng ấy đã thấy Chúa Cha” (xem 1,18).

Với câu này, Gioan loại trừ mọi lối giải thích sai lạc có thể có về câu trích dẫn (16,45 chết thảy chúng sẽ là môn sinh của Thiên Chúa), chính nhờ Chúa Giêsu, Đấng duy nhất biết Chúa Cha cách trực tiếp và hoàn toàn, mà lời hứa trên sẽ được thực hiện.

 

KẾT LUẬN

Khi nói về thịt (sarx) Người sẽ bị nộp để ban sự sống cho thế gian, rồi xa hơn về máu Người, Chúa Giêsu mặc nhiên loan báo Người sắp bị sát tế thành hy lễ, và các tín hữu của Người sẽ có thể tham dự vào hy tế ấy bằng cách ăn thịt của Tế vật, hầu nhờ đó lãnh nhận sự sống thần linh. Việc thịt Người sẽ trở nên phong phú sự sống và việc Chúa Giêsu sẽ đích thân trao ban nó, rõ rệt bao hàm điều này là: qua cái chết hy tế, Người sẽ tìm lại sự sống bằng sự Phục sinh. Khi để thịt Người, thân xác Người (và đồng thời cả bản thân vinh hiển Người) dưới hình thức bánh để các kẻ tin Người ăn uống, Chúa Giêsu một ngày nào đó sẽ cho thấy rõ ràng Người thật là bánh bởi trời, của ăn thiêng liêng cho nhân loại.

 

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

  1. Trong Tin Mừng Gioan, Chúa Giêsu nhiều lần nói “Ta là”: “Ta là” ánh sáng, mục tử tốt lành, cửa chiên, sự sống lại và sự sống, đường, sự thật và sự sống, cây nho thật. Dưới mắt người Do thái, các danh xưng này có giá trị như những hồng ân của Thiên Chúa. Chúa Giêsu quả quyết Người chính là ân huệ thực sự và chung quyết của Thiên Chúa hôm nay.

 

  1. Khi phán bảo: “Bánh sự sống chính là Ta”, Chúa Giêsu biết rằng Người sẽ gây ra thắc mắc, sự cứng tin và cả thái độ công phẫn. Thật vậy, cách nói “Ta là” lúc bàn về sự sống, ánh sáng… gợi lên trong não trạng của các thính giả Người một ý niệm về tuyệt đối. Thiên Chúa mới có quyền bảo “Ta là”. Con người chỉ có thể nói: Tôi là kẻ này người nọ, nhưng không được bảo: Ta là bánh, là ánh sáng, là chân lý, là sự sống. Thế mà Chúa Giêsu đã làm vậy. Một xác quyết ntlư thế gây nên sự công phẫn hay đức tin. Chúng ta may mắn thuộc về những kẻ đáp lại bằng đức tin.

 

  1. Diễn từ bánh sự sống thu hút chúng ta nhờ những lời quả quyết mạnh mẽ và đồng thời để chúng ta phân vân trước nỗi cô đơn mà Chúa Giêsu tạo ra quanh người qua những xác quyết đó. Ta tự hỏi tính cách đích thực của cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu với người Do thái đã là gì. Một điều chắc chắn là người Do thái không thể nâng mình lên bình diện mà Chúa Giêsu đang ở và từ đó Người đang nói. Chúa Giêsu đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều. Người Do thái lưu ý tới Người lập tức, nhưng không phải để theo vị sứ giả của Thiên Chúa, mà là để hắt lây Người hầu thỏa mãn những khát vọng trần tục của họ. Khuynh hướng sâu xa của họ ngược lại với khuynh hướng Chúa Giêsu. Họ muốn kéo Chúa Giêsu vào trong lãnh vực thế trần với họ; còn Chúa Giêsu. Người cố gắng đỡ nâng họ lên bình diện của Thiên Chúa. Trong vấn đề này, Chúa Kitô không có ngoại giao. Người xác quyết mình là ai, cho dù người Do thái chỉ muốn thấy trong người kẻ mà họ biết rõ cả cha lẫn mẹ.

 

  1. Như tổ tiên của họ ngày xưa trong sa mạc, người Do thái kêu ca phàn nàn. Đây là một thái độ phức tạp, nhưng chủ yếu phát xuất từ một sự từ chối không tin, một sự bất lực đương đầu với số mệnh, và từ một nhu cầu muốn an thân này đó. Đấy là phản ứng hết sức nhân loại. Chúng ta chấp nhận đi theo Thiên Chúa bao lâu Ngài còn phục vụ hạnh phúc chúng ta, còn phục vụ quan niệm hạnh phúc của chúng ta; nhưng khi Ngài hay Giêsu, Đấng Ngài sai đến, muốn cắt đứt chúng ta khỏi những cái hiển nhiên thường nhật, khỏi lòng ham muốn tiện nghi và thỏa mãn của chúng ta, thì chúng ta chống chọi, phản kháng. Bấy giờ các “dấu chỉ” Thiên Chúa đã thực hiện trong đời chúng ta không còn giá trị gì nữa; chúng ta làm như chẳng có gì đã xảy ra; chúng ta dấy nẩy và trở lại dùng ân huệ của Thiên Chúa để chống lại Ngài (x. Ds 11,4-6), chúng ta gây gổ với Ngài và bịa ra nhiều cớ để khỏi tin; chúng ta quả là những người có tà ý.

 

  1. “Không ai có thể đến với Ta, nếu Cha, Đấng đã sai Ta, không lôi kéo nó”. Phải hiểu cho đúng lời này của Chúa Giêsu. Nó chẳng có nghĩa là Thiên Chúa chỉ lôi kéo một số người và bỏ rơi những kẻ khác. Thiên Chúa muốn cứu rỗi tất cả mọi người. Ngài không chọn lựa cách tiên thiên, ngay từ đầu, một phần nhân loại để cứu rỗi và bỏ rơi phần khác. Ngài đặt trong lòng mỗi con người một bản năng quy hướng họ về định mệnh hạnh phúc mà vì đó họ được tạo ra. Bản năng thiêng liêng này có nhiều hình thái và chỉ mình Thiên Chúa biết lúc nào nó thức dậy trong tâm thức mỗi người. Hãy nhớ rằng mỗi một con người, cho dù chỉ hiện hữu trong chốc lát thôi, cũng được kêu gọi để trở thành con Thiên Chúa.

 

  1. “Phàm ai nghe và học nơi Cha thì sẽ đến với Ta”. Hãy lưu ý: Chúa Giêsu không nói ở thì quá khứ mà là hiện tại. Không phải đã nghe lời giáo huấn của Cha, đã được Ngài giảng dạy và đã đến với Chúa Giêsu, thì sau đó đạt mục đích. Đây là một thực tại hiện tại mà ta phải củng cố gia tăng thêm không ngừng. Mỗi ngày cần phải đặt mình vào tình trạng lắng nghe giáo huấn của Chúa Cha, học hỏi Ngài và đến với Chúa Giêsu. việc Chúa Giêsu đến trong cuộc sống của chúng ta là một thực tại luôn luôn tác động bên trong chúng ta không ngừng không dứt. Cũng vậy, việc chúng ta tiến về Chúa Giêsu việc chúng ta tin vào Người và gắn bó với Người, cũng là một sự tiến triển sống động ngày càng hơn. Tìm đâu năng lực nội tại để luôn tiến về Chúa Giêsu Kitô như thế? Tìm trong bánh sự sống, Thánh Thể.

 

77.Chú giải của William Barclay

 

SỰ THẤT BẠI CỦA NGƯỜI DO THÁI

Điểm quan trọng ở đây là các lý do khiến người Do Thái chối bỏ Chúa Giêsu, mà chối bỏ Ngài là họ chối bỏ cả sự sống đời đời.

 

  1. Họ xét theo các giá trị của loài người và theo các tiêu chuẩn bên ngoài.

Họ phản ứng trước lời tự xưng của Chúa, nêu ra sự kiện Ngài là con nhà thợ mộc, họ biết Ngài sống ở Nadaret. Làm sao họ hiểu được một người thợ mộc tầm thuờng lại có thể trở thành một sứ giả đặc biệt của Thiên Chúa được. Họ chối bỏ Chúa Giêsu vì đã xem xét Ngài bằng các giá trị của loài người, của xã hội và bằng tiêu chuẩn thế gian.

 

T.E.Lawrence là bạn thân của thi sĩ Thomas Hardy. Thời gian ông phục vụ trong Không Lực Hoàng Gia Anh với tư cách thợ máy, ông vẫn mặc thường mặc quân phục thợ máy khi đến thăm vợ chồng Hardy. Một lần tại nhà thi sĩ, ông gặp bà Thị Trưởng Dorchester. Không biết anh thợ máy cùng có mặt hôm ấy là ai, bà tỏ vẻ khó chịu quay sang bà Hardy, nói bằng tiếng Pháp, bà than phiền, “Từ thuở cha sinh mẹ đẻ đến nay, tôi chưa hề ngồi uống trà với một tên lính quèn như thế này”. Không ai nói năng gì. Một lúc sau, Lawrence nói với bà bằng tiếng Pháp “Xin lỗi bà, tôi có thể là thông dịch viên cho bà, vì bà Hardy không biết tiếng Pháp”. Một mệnh phụ phu nhân rởm đời và bất nhã đã nhầm lẫn tai hại chỉ vì xét người theo bề ngoài, theo tiêu chuẩn xã hội. Đó cũng là nhầm lẫn của dân Do Thái đối với Chúa Giêsu. Chúng ta phải thận trọng, đừng bao giờ xem thường một sứ điệp của Thiên Chúa vì chúng ta khinh dể hay chẳng đếm xỉa gì đến vị sứ giả. Không ai từ chối tấm ngân phiếu 1.000 Anh kim, chỉ vì nó được bỏ vào một phong bì không phù hợp với tiêu chuẩn về giấy tờ của hạng người quý phái. Thiên Chúa có nhiều sứ giả khác nhau. Sứ điệp quan trọng nhất của Ngài đến từ một người thợ mộc xứ Galilê, mà cũng chính vì thế nên người Do Thái đã xem thường.

 

  1. Người Do Thái than phiền và cãi nhau. Họ mải lý luận và bị lôi cuốn vào đó, đến nỗi chẳng để ý đến quyết định của Thiên Chúa.

Họ nóng nảy muốn cho ai nấy biết họ nghĩ gì về vấn đề ấy, nhưng chẳng cần biết Thiên Chúa đã nghĩ gì. Trong một hội nghị hay hội đồng, khi ai nấy đều muốn bắt buộc người bên cạnh phải chấp nhận ý kiến của mình, tốt hơn hết chúng ta nên yên lặng cầu xin Thiên Chúa xem Ngài nghĩ gì và muốn chúng ta làm gì. Dù chúng ta có nghĩ gì đi nữa cũng chẳng quan trọng, những gì Thiên Chúa nghĩ mới thật quan trọng, vậy mà chúng ta lại rất ít chịu khó để tìm biết Ngài nghĩ gì!

 

  1. Người Do Thái lắng nghe, nhưng không chịu học hỏi.

Có nhiều cách nghe: có lối nghe của nhà phê bình, lối nghe của người thù ghét, lối nghe của cấp trên, có lối nghe dửng dưng, lối nghe của người đành chịu vì chưa có cơ hội để nói. Cách nghe thích hợp duy nhất là lắng nghe để học hỏi, không có cách nào khác hơn để được nghe Thiên Chúa.

 

  1. Người Do Thái chống lại sự lôi kéo của Thiên Chúa.

Chỉ những người được Thiên Chúa kéo lại với Chúa Giêsu mới tiếp nhận Ngài. Từ mà Gioan dùng mô tả động tác kéo rất thú vị, đó là chữ được dùng trong bản dịch Do Thái sang Hy Lạp. Khi Giêrêmia nghe tiếng Thiên Chúa phán: “Ta đã lấy sự nhân từ mà kéo ngươi đến” (Gr 31,3), nhưng điều thú vị trong từ này (Belkuein) là có ý nói về một sức kháng cự. Đó là chữ dùng mô tả sự “kéo một tay lưới nặng vào bờ hồ” (Ga 21,6.11). Đó cũng là chữ dùng chỉ việc Phaolô và Sila bị kéo đến các quan tòa tại Philipphê (Cv 16,19). Đó cũng là chữ chỉ việc rút gươm ra khỏi dây thắt lưng hay khỏi vỏ (Ga 18,10). Nó luôn luôn ngụ ý kháng cự lại. Thiên Chúa lôi cuốn người ta đến, thế nhưng sức kháng cự của con người có thể làm thất bại sự lôi kéo của Thiên Chúa.

 

Chúa Giêsu là bánh sự sống. Như thế chúng ta hiểu Chúa là nhu cầu thiết yếu cho đời sống, vậy khước từ lời mời gọi và mệnh lệnh của Chúa Giêsu là đánh mất sự sống và phải chết. Người Pharisêu nói: “Thế hệ ở trong sa mạc chẳng có phần gì ở đời sống mai sau”. Trong câu chuyện xưa của sách Dân số, sau khi nghe các thám tử báo cáo, số người hèn nhát, từ chối mạo hiểm đi vào Đất Hứa đều bị kết án phải lưu lạc trong sa mạc cho đến chết. Vì họ không chấp nhận sự hướng dẫn của Thiên Chúa, nên cánh cửa vào Đất Hứa đã đóng vĩnh viễn. Khước từ đề nghị của Chúa là từ chối phần thiết yếu cho đời sống, do đó mất luôn sự sống đời này lẫn đời sau. Trong khi đó, tiếp nhận đề nghị của Chúa Giêsu là tìm được sự sống, một sự sống đích thực ở đời này và vinh hiển ở đời sau.

 

78.Chúa Nhật 19 Thường Niên

(Suy niệm của Đức Ông James M. Reinert – Đan Quang Tâm dịch)

 

ĐƯỢC CỨU THOÁT KHÔNG PHẢI BẰNG MỘT CÔNG THỨC NHƯNG NHỜ MỘT CON NGƯỜI.

 

Một lần nữa, như ta đã nghe trong Chúa nhật tuần trước, một sứ điệp với lời hứa sẽ được dưỡng nuôi trong cuộc hành trình phía trước. Điều này đặc biệt rõ rệt trong đoạn văn trong Sách Các Vua quyển thứ nhất. Trong sứ điệp này, ta nghe câu truyện về Ngôn sứ Êlia hành trình trong sa mạc. Điều quan trọng là xem thấy bối cảnh câu truyện diễn ra.

 

Êlia trên đường đến Khôrếp – “núi của Đức Chúa”. Chính trong cái hang ở đó Thiên Chúa đã tự mặc khải cho vị Ngôn sứ, không phải trong gió, trong một trận động đất hoặc ngọn lửa mà trong một “tiếng thì thầm”. Trước đó, trước khi lên đường, Êlia chứng minh cho Vua dân Israel và mọi người thờ thần ngoại, kể cả các thầy cúng Baal, rằng chỉ có một Thiên Chúa chân thực duy nhất, không phải chỉ ở Israel nhưng mà trong khắp cả thế giới.

 

Bây giờ, ta trở lại sứ điệp ngày hôm nay, Êlia đang chạy thục mạng. Tuy nhiên, ông không cô đơn. Thiên Chúa ở với ông, dưỡng nuôi ông trong cuộc hành trình.

 

Trong Thư Thánh Phaolô gửi các Tín hữu Êphêxô, ta nghe một bài khuyến thiện hãy noi gương Thiên Chúa – hãy sống bằng tình yêu. Thánh Phaolô khích lệ cộng đoàn Kitô hữu tại Êphêxô hãy hướng đến một sự thánh thiện mới bởi tặng ân đức tin mà họ đã lĩnh nhận.

 

“Niềm tin vào Thiên Chúa và vào Đức Giêsu Kitô soi sáng cho những nguyên tắc luân lý là “nền tảng duy nhất và không thể thay thế được của sự ổn định và an bình, của trật tự nội tâm và ngoại giới, trật tự riêng và chung, mà chỉ nền tảng đó mới có thể làm nảy sinh và bảo đảm sự thịnh vượng của các quốc gia”. Đời sống trong xã hội phải dựa trên nền tảng kế hoạch của Thiên Chúa vì “chiều kích thần học cần thiết cho việc giải thích lẫn việc giải quyết những vấn đề hiện nay trong xã hội loài người”. Trước sự hiện diện của những hình thức bóc lột và bất công xã hội trầm trọng, có “một nhận thức ngày càng rộng khắp và nhạy bén hơn về nhu cầu đổi mới triệt để cá nhân và xã hội để có thể bảo đảm công lý, tình liên đới, sự trung thực và cởi mở. Chắc chắn, có cả một con đường dài và khó khăn phía trước; việc đem lại một sự đổi mới như thế đòi hỏi nỗ lực to lớn, đặc biệt khi xét đến số lượng và tính trầm trọng của những nguyên nhân làm phát sinh và làm trầm trọng thêm những tình huống bất công đang hiện diện trong thế giới ngày nay. Nhưng, như lịch sử và kinh nghiệm cá nhân cho thấy, không khó để khám phá ra tại đáy của những tình huống này các nguyên nhân gọi cho đúng là về ‘văn hoá’, gắn kết với những cách nhìn nào đó về con người, xã hội và thế giới. Quả vậy, tại tâm điểm của vấn đề văn hoá, chúng ta tìm thấy nhận thức luân lý, đến lượt mình, nhận thức này được đâm rễ và hoàn thành trong nhận thức tôn giáo”. Về “vấn đề xã hội”, chúng ta không được để mình bị quyến rũ bởi “niềm mong ước ngây thơ rằng đối diện với những thử thách lớn lao của thời đại chúng ta, ta sẽ tìm thấy một công thức thần kỳ nào đó. Không, chúng ta sẽ không được cứu thoát bằng một công thức nhưng nhờ một Con Người, và sự bảo đảm mà Con Người đó ban cho chúng ta: Thầy ở với anh em! Vì thế, vấn đề không phải là phát minh ra một ‘chương trình mới’. Chương trình có sẵn rồi: đó là kế hoạch được tìm thấy trong Tin Mừng và trong Truyền Thống sống động, mãi mãi sẽ như vậy. Cuối cùng, chương trình đó có tâm điểm là chính Đức Kitô, Đấng phải được nhận biết, được yêu thương và được noi theo, để trong Người, chúng ta có thể sống đời sống của Ba Ngôi, và cùng với Người, chúng ta biến đổi lịch sử cho đến khi lịch sử hoàn thành nơi Giêrusalem trên trời” (Sách Tóm lược HTXHCG, 577).

 

Đức Giêsu tiếp tục bài đã được gọi là “diễn từ Bánh Hằng sống”. Người bảo đám đông rằng “Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy”. Người nói điều này khi một vài người trong đám đông phản đối việc Đức Giêsu nhận mình là “bánh từ trời xuống”.

 

Một lần nữa, biến cố này xảy ra trong bối cảnh Đức Giêsu hóa bánh và cá ra nhiều để nuôi đám đông. Lại vẫn giống như những người Israel trong Cựu Ước, có sự thiếu hiểu biết. Không những thế, có cả sự thiếu sẵn sàng để cho phép tặng ân đức tin được vào trong tâm hồn và tâm trí của họ.

 

Trong đoạn văn, Đức Giêsu đưa ra một số lời hứa mà đã trở thành một bộ phận chính yếu trong đức tin của chúng ta. Người bảo họ rằng Người sẽ cho những người tin sống lại trong ngày sau hết. Người đoan chắc với họ rằng họ có thể đến với Người nếu họ nghe tiếng Chúa Cha và học được từ lời đó. Sau cùng Người hứa rằng những ai tin, những ai được gọi, những ai được thông phần vào việc ăn “bánh hằng sống từ trời xuống” sẽ sống muôn đời.

 

Đây là lời hứa của chúng ta và niềm hy vọng của chúng ta. Ta hãy cầu nguyện cho ta được nghe tiếng của Chúa Cha và được đến gần Đức Kiô hơn, Đấng là bánh hằng sống và chia sẻ sự sống của Người với chúng ta.

 

79.Manna mới trên đường về quê trời

     (Suy niệm của Lm. Đan Vinh)

 

  1. HỌC LỜI CHÚA

Ý CHÍNH:

Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã khẳng định Người từ trời mà đến. Điều này làm cho dân chúng xầm xì phản đối vì họ nghĩ rằng họ quá biết rõ về gia thế của Người. Nhưng dù vậy, Đức Giêsu vẫn quả quyết: Người từ nơi Chúa Cha mà đến, và sẽ ban Thịt Máu mình làm lương thực đi dường, để ai năng lãnh nhận bí tích này sẽ được kết hiệp mật thiết với Người, được sống nhờ Người và sẽ vè được quê trời hưởng hạnh phúc đời đời.

 

CHÚ THÍCH:

– C 41-42: + Người Do Thái xầm xì phản đối bởi vì Đức Giêsu đã nói: “Tôi là Bánh từ trời xuống”: Người Do Thái đây ám chỉ dân chúng đi theo Đức Giêsu từ hoang địa về thành Ca-phác-na-um. Họ xầm xì bàn tán vì Người đã tuyên bố mình là Bánh từ trời mà đến. + Ông này chẳng phải là Giêsu, con của ông Giu-se đó sao?….: Dân Do thái nghĩ rằng họ đã quá biết rõ về Người và về cha mẹ của Người.

 

– C 43-44: + Các ông đừng có xầm xì với nhau: Đức Giêsu biết đám đông đang bàn tán để phản đối lời Người vừa nói, vì họ chỉ nghĩ về nhân tính của Người. + Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha không lôi kéo…: Người cho họ biết đức tin là một hồng ân do Thiên Chúa ban cho. + Và tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết: Ai tin vào Đức Giêsu thì sẽ được Người cho sống lại vào ngày tận thế và sẽ được sống mãi mãi.

 

– C 45-46: + “Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ”: Câu này lược tóm lời tuyên sấm của I-sai-a: “Con cái ngươi, Đức Chúa đều dạy dỗ” (x. Is 54,13), và lời sấm của Giê-rê-mi-a: “Ta sẽ ghi vào lòng dạ chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng Lề Luật của Ta. Chúng sẽ không còn phải dạy bảo nhau, kẻ này nói với người kia: Hãy học cho biết Đức Chúa. Vì hết thảy chúng, từ người nhỏ đến người lớn, sẽ biết Ta” (Gr 31,33-34). +Phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Chúa Cha, thì sẽ đến với tôi: Tuy mọi người đều được Thiên Chúa kêu gọi và dạy bảo, nhưng chỉ ai nghe và đón nhận lởi giáo huấn của Chúa Cha thì mới có thể tin Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai. + Không phải là đã có ai thấy Chúa Cha đâu, nhưng chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến, chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha: “Thiên Chúa là Thần Khí”, là Đấng thiêng liêng vô cùng (x. Ga 4,24). “Không ai đã thấy Thiên Chúa bao giờ, nhưng Con Một là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết” (Ga 1,18). Thời Xuất hành, dù được thường xuyên đàm đạo với Đức Chúa, nhưng Mô-sê cũng chỉ thấy được sau lưng của Đức Chúa chứ không nhìn thấy tôn nhan Ngài (x. Xh 33,23). Nhưng Đức Giêsu, Đấng từ nơi Chúa Cha mà đến, đã xem thấy Chúa Cha và có thể mặc khải Ngài cho chúng ta.

 

– C 47-51: + “Ai tin thì được sự sống đời đời”: Ai tin vào Đức Giêsu thì sẽ không phải chết trong tội nữa, nhưng sẽ được Người ban sự sống đời đời, như lời thánh Phao-lô: “Cũng như vì một người duy nhất đã sa ngã (là A-đam), mà mọi người bị Thiên Chúa kết án, thì nhờ một người duy nhất (là Đức Giêsu), đã thực hiện lẽ công chính, mọi người cũng được Thiên Chúa làm cho nên công chính, nghĩa là được sống” (Rm 5,18). + “Tôi là Bánh Trường Sinh”: Đức Giêsu tự ví mình là “Bánh Trường Sinh” hay “Bánh Hằng Sống”, ám chỉ bí tích Thánh thể mà Người sẽ lập sau này. “Hằng sống” là một đặc tính của Thiên Chúa (x. Mt 16,16), và của Chúa Ki-tô Phục Sinh (x. Rm 6,9). + Tổ tiên các ông đã ăn man-na trong sa mạc, nhưng đã chết: Man-na là lương thực Đức Chúa ban cho dân Ít-ra-en trong thời Xuất Hành, là thứ đồ ăn dễ bị hư nát (x. Xh 16,19-21). Dù dân Ít-ra-en đã ăn man-na, nhưng họ vẫn phải chết do tội đã phạm (x. Tv 78,29-31) và không được sống đời đời (x. Ga 6,58). + Còn Bánh này là Bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết: Đức Giêsu mới là Bánh từ trời thực sự, và ai ăn Bánh này sẽ “không phải chết” (x. Ga 6,50), nhưng “được sống muôn đời” (x Ga 6,51.54), “được ở trong Người” (x Ga 6,56), “được sống nhờ Chúa Cha” (x. Ga 6,57), “được sống và được sống dồi dào” (x. Ga 10,10). + “Bánh Tôi sẽ ban tặng chính là Thịt Tôi đây, để cho thế gian được sống”: Nói câu này, Đức Giêsu đã liên kết 5 chiếc bánh trong phép lạ nhân bánh ra nhiều (x. Ga 6,9) và bánh không men trong bữa tiệc Chiên Vượt Qua, với Thịt Mình của Người trong Bí tích Thánh thể (x. Mt 26,26). Từ của ăn nuôi sống thể xác, được Đức Giêsu biến thành Bánh Hằng Sống đem lại sự sống đời đời (x. Ga 6,48), thành Thân Mình chịu khổ nạn và được Phục sinh của Người (x. Ga 6,51), và thành của ăn thần thiêng nuôi dưỡng đức tin (x. Ga 6,51.63), giúp các tín hữu tiến về Nước Trời để được sống đời đời (x. Ga 6,58).

 

HỎI:

1) Dân Do thái xàm xì phản đối Đức Giêsu về câu nói nào của Người? Tại sao?

2) Đức Giêsu dạy đức tin có bởi đâu?

3) Ai tin vào Đức Giêsu thì sẽ được gì?

4) Câu “Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ” tòm lược tuyên sấm của hai ngôn sứ nào và 2 lời đó như thế nào?

5) Thiên Chúa thiêng liêng được mệnh danh là gì? Ai mới thấy được Thiên Chúa và mặc khải Ngài cho chúng ta?

6) Ai tin vào Đức Giêsu sẽ được hưởng ơn gì? Thánh Phao-lô đã so sánh giữa A-đam với Đức Giêsu thế nào?

7) Khi ví mình là Bánh Trường Sinh, Đức Giêsu muốn ám chỉ về bí tích nào Người sẽ lập sau này?

8) Man-na la lương thực được Đức Chúa ban cho dân Ít-ra-en thời kỳ nào và có hiệu lực đem lại sự sống đời đời không?

9) Đức Giêsu là Bánh Hằng Sống từ đâu mà đến và ai ăn Bánh này sẽ được những ơn ích thiêng liêng nào?

10) Đức Giêsu hứa sẽ thiết lập bí tích Thánh Thể như thế nào? Với mục đích gì?

 

  1. SỐNG LỜI CHÚA:
  2. LỜI CHÚA: Chúa phán: “Tôi là Bánh Hằng Sống từ trời xuống. ai ăn Bánh này sẽ được sống muôn đời” (Ga 6,51).- “Chẳng ai đến với Tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai Tôi không lôi kéo người ấy” (Ga 6,44).-

 

  1. CÂU CHUYỆN: Cải giáo nhờ tin vào Bí tích Thánh Thể:

Hồng y Niu-Mân (Newman) trước kia đã từng giữ chức vụ Tổng Giám Mục Anh Giáo với bổng lộc hằng năm khá lớn. Dù thuộc tầng lớp quí tộc và thuộc hàng chức sắc cao cấp của Anh Giáo như vậy, nhưng ngài vẫn luôn bị lương tâm dày vò về đức tin không sao lý giải được. Rồi đến một ngày, sau khi đã suy nghĩ so sánh, tìm hiểu kỹ lưỡng sự khác biệt đức tín giữa Anh Giáo và Công Giáo, cuối cùng ngài đã quyết định từ bỏ mọi chức vụ cao cấp và các đặc quyền đặc lợi để cải giáo theo đạo Công Giáo. Biết được ý định của Niu-mân, bạn bè thân thích đã đến xin ngài nghĩ lại. Họ nói: “Trước khi quyết định, xin ngài hãy cân nhắc cẩn thận. Vì nếu ngài cải giáo thì không những bị mất tất cả các chức danh và địa vị tinh thần, mà ngay cả lương bổng vật chất hằng năm cũng không được hưởng nữa!” Nhưng Niu-mân đã thẳng thắn trả lời: “Tiếc thì tôi cũng tiếc thật. Nhưng tôi đã suy nghĩ kỹ rồi. Chức vụ, quyền hành và bổng lộc vật chất tuy đáng quí, nhưng có đáng là gì nếu đem so với những điều tôi nhận được khi tôi trở nên thành viên của Hội Thánh Công Giáo và Tông Truyền. Tôi sẽ được lãnh nhận ơn Chúa Thánh Thần qua các phép bí tích, nhất là được ăn tiệc Thánh Thể. Đó mới thực là Bánh đem lại phúc trường sinh”. Sở dĩ Niu-mân có suy nghĩ sáng suốt và quyết tâm cao như vậy, là do ngài đã nghe theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Thực vậy, nếu không có ơn Thánh Thần, thì người ta sẽ không hiểu nổi các chân lý đức tin, nhất là giáo huấn về bí tích Thánh Thể, như đám đông dân Do Thái và phần đông các môn đệ trong Tin Mừng hôm nay đã không chấp nhận.

 

  1. SUY NIỆM:

Trên đường về với Chúa, người ta cần có lương thực bổ sức như sau:

 

+ Man-na nuôi dân Do Thái trong thời kỳ Xuất Hành: Dân Ít-ra-en dưới sự lãnh đạo của Mô-sê đã từ Ai Cập tiến về miền đất Ca-na-an do Đức Chúa đã hứa ban cho Ap-ra-ham và con cháu ông (x. St 12,5-7). Trong suốt thời gian lưu lạc trong sa mạc, dân Ít-ra-en không có bánh ăn nước uống như ở Ai Cập, nhưng họ đã được Đức Chúa nuôi dưỡng bằng man-na từ trời rơi xuống (x Xh 16,15) và bằng nước từ tảng đá chảy ra (x Xh 17). Nhờ đó họ đã đủ sức để vượt qua sa mạc suốt bốn mươi năm để về tới Đất Hứa.

 

+ Bánh và nước bổ sức cho Ngôn Sứ Êlia về tới núi Chúa: Sau khi ra tay tiêu diệt 450 sãi bụt Ba-an trên núi Các-men (x. 1 V 18,20-40), ngôn sứ Ê-li-a đã bị hoàng hậu I-de-ven sai quân truy đuổi, nên ông phải chạy đến Núi Khô-rép để nhờ Đức Chúa bảo vệ. Trong cuộc trốn chạy, có lúc ông bị đói khát mệt mỏi và tuyệt vọng đã chỉ muốn được chết đi cho xong. Nhưng lúc thiếp ngủ dưới một gốc cây, ông đã được một thiên sứ đánh thức và mang cho ông bánh ăn nước uống. Nhờ được ăn bánh uống nước này mà Ê-li-a đã hồi phục sức khỏe để tiếp tục cuộc hành trình lên Núi Thánh của Đức Chúa (x. 1 V 19,1-8).

 

+ Thánh Thể: Manna mới trên đường xuất hành về trời: Manna xưa là hình ảnh tiền trưng của Bí Tích Thánh Thể do Đức Giêsu thiết lập. Người đã tự hiến làm lương thực thiêng liêng ban sự sống đời đời cho thế gian khi nói: “Tôi là Bánh Hằng Sống từ trời mà xuống. Bánh tôi sẽ ban chính là Thịt tôi để cho thế gian được sống” (Ga 6,48.51). Lương thực đó còn là Lời Chúa như Đức Giêsu đã nói: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi Lời miệng Thiên Chúa phán ra” (Đnl 8,3; Mt 4,4). Chính Lời của Thiên Chúa đã nhập thể làm người và ở cùng chúng ta (x Ga 1,14), trở thành con đường duy nhất nối liền giữa đất với trời: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,6).

 

+ Đón nhận Bánh Thánh Thể để được hưởng ơn cứu độ: Ngày nay Hội Thánh cử hành bí tích Thánh Thể để tưởng niệm sự chết và phục sinh của Người và mời gọi mọi người năng lãnh nhận để được tham phần hưởng hạnh phúc đời đời như Đức Giêsu dạy trong Tin Mừng hôm nay: “Tôi là Bánh Hằng Sống từ trời xuống. Ai ăn Bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là Thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”.

 

  1. THẢO LUẬN:
  2. Bạn sẽ tham dự thánh lễ thế nào để đón nhận được sự sống đời đời do Chúa hứa ban?
  3. Sau thánh lễ, bạn cần làm gì để đem Chúa đi giới thiệu cho tha nhân, nhất là cho những người nghèo hèn, bệnh tật và bị bỏ rơi… được chia sẻ niềm vui ơn cứu độ là được sống đời đời?

 

  1. NGUYỆN CẦU

Lạy Chúa Giêsu. Mỗi lần dự lễ là con được Chúa mời ăn Lời Chúa và Thánh Thể do Chúa khoản đãi. Khi lên rước lễ là con được đón nhận cả nhân tính và thần tính của Chúa. Xin giúp con siêng năng tham dự thánh lễ mỗi ngày để được Lời Chúa giáo huấn và được Mình Thánh Chúa dưỡng nuôi. Xin cho con biết mở rộng vòng tay đón nhận hết mọi người sống chung trong một mái nhà, cùng một khu xóm, cùng làm việc trong cơ quan hay nhà náy… Xin cho con biết chấp nhận không những người thân thương và cả những người đối xử không tốt với con. Xin giúp con được ơn Thánh Thần biến đổi ngày một nên con thảo đẹp lòng Chúa Cha, nên môn đệ sống khiêm tốn quảng đại phục vụ tha nhân, và tích cực chia sẻ niềm vui ơn cứu độ cho mọi người.

  1. Hiệp cùng Mẹ Maria.

Đ. Xin Chúa nhậm lời chúng con.

 

80.Lương thực trường tồn

     (Suy niệm của Huệ Minh)

 

Tin Mừng Ga 6: 41-51: Câu nói quan trong nhất của Chúa Giêsu về đời sống vĩnh cửu là: “Tôi là bánh trường sinh từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống đời đời. Và bánh Tôi ban tặng, chính là thịt Tôi đây, để cho thế gian được sống”.

Ta là bánh ban sự sống. Qua trang Tin Mừng vừa nghe, ta bắt gặp Chúa Giêsu đã ban phát và nuôi sống dân chúng ngay khi Ngài còn ở giữa họ, không phải từ những tấm bánh cho bao nhiêu ngàn người ăn để rồi họ cũng chết như tổ tiên họ. Nhưng Ngài đã ban chính mình Ngài cho dân chúng, qua tất cả những phép lạ như một quà tặng cho nhân loại.

Xưa kia, Thiên Chúa nói qua trung gian các tổ phụ và các tiên tri. Và nay, Chúa Giêsu là Lời của Thiên Chúa trực tiếp nói với nhân loại. Lời Người ban sự sống cho Ladarô, cho con trai bà góa thành Naim. Lời Người tha thứ tội lỗi cho Mađalêna, cho người phụ nữ ngoại tình, cho Giakêu. Lời Người hoán cải người phụ nữ xứ Samaria. Người đưa tất cả những người tội lỗi trở về con đường sự sống. Lời Người đã giúp cho bao thế hệ tìm thấy lẽ sống. Lời Người ban cho họ một sự sống mới, tươi trẻ, phong phú, dồi dào hơn. Chính vì thế, thánh Phêrô đã lên tiếng tuyên xưng: “Lạy Thầy, bỏ Thầy chúng con biết đi theo ai. Chỉ Thầy mới có những Lời ban sự sống đời đời”.

Chính Chúa Giêsu đã đem lại cho chúng ta những mạc khải sâu xa nhất về Thiên Chúa mà Cựu Ước chỉ nói tới rất mơ hồ. Chúa Giêsu giáng trần đã đem lại sự sống vĩnh cửu cho nhân loại, nhưng nếu không có Thiên Chúa trực tiếp soi sáng và dạy bảo, làm sao chúng ta hiểu nổi điều đó? Từ ngàn xưa, Thiên Chúa đã dùng các ngôn sứ và các biến cố lịch sử mà chuẩn bị tâm hồn con người đón nhận Chúa. Nhưng người Do Thái không thành tâm thiện chí tiếp thu lời Chúa dạy qua Kinh Thánh, nên khi nghe Chúa Giêsu nói về Người là “Bánh từ trời xuống”, họ liền tức bực nói: “Lẽ nào ông này có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn sao?”.

Câu nói quan trong nhất của Chúa Giêsu về đời sống vĩnh cửu là: “Tôi là bánh trường sinh từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống đời đời. Và bánh Tôi ban tặng, chính là thịt Tôi đây, để cho thế gian được sống”. Chúa Giêsu mạc khải cho biết cuộc sống nơi trần gian này không phải là cuộc sống duy nhất và chết không phải là chấm hết. Còn các một cuộc sống trong tương lại không bao giờ chấm dứt, đó là cuộc sống vĩnh cửu, trường sinh.

Lời Thiên Chúa là Lời Ban Sự Sống. Chính Đức Giêsu đã khẳng định điều này khi Người trả lời ma quỉ cám dỗ: “Người ta sống không nguyên bởi bánh. Nhưng còn bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra”. Thật vậy, chính Lời Chúa làm cho sự sống xuất hiện. Nhờ Lời quyền năng của Thiên Chúa, vũ trụ được tạo thành. Lời Chúa là lẽ sống của Đức Giêsu, nên trọn đời Người luôn đi tìm thực hiện thánh ý Chúa Cha: “Lương thực của Thầy là làm theo ý Đấng sai Thầy”.

Ngài ban chính mình Ngài qua tình thương mà con người thấy được ở lời nói và hành động của Ngài. Ngài đã ban chính mình Ngài qua cái chết trên thập giá như một dấu chứng cho tình yêu, cho chân lý và cho chương trình cứu độ của Ngài. Ngài đã ban tất cả những gì cao quí nhất, cả đến mạng sống cho mọi người, như thế Ngài đã trở nên bánh ban sự sống cho chúng ta. Tình thương, lời Chúa và cuộc sống của Ngài vẫn luôn luôn là nguồn sống cho chúng ta, là động lực cho muôn người nối gót Ngài đi cải tạo thế giới bằng tình thương. Chính vì thế mà những ai sống trong Ngài, tin vào Ngài thì đã có sự sống đời đời. Lẽ tất nhiên, Chúa còn hứa ban chính mình Ngài trong Bí tích Thánh Thể.

Cuộc đời dương thế của Chúa Giêsu là chứng minh Ngài từ Thiên Chúa mà đến. Ngài đến để giới thiệu một Thiên Chúa yêu thương. Ngài đi gieo vãi yêu thương. Ngài đi nối kết tình người. Ngài đi xoa dịu đau thương. Ngài sống một cuộc đời thanh thoát không lệ thuộc của cải danh vọng trần gian. Ngài không bẻ gãy cây lau bị dập. Ngài không kết án ai. Ngài luôn bao dung tha thứ. Ngài đã từng tha thứ cho cả kẻ gây nên nhục hình cho Ngài. Đỉnh cao của dấu hiệu yêu thương ấy là chết cho người mình thương.

Cuộc đời Ngài ví tựa tấm bánh bẻ ra cho muôn người. Tấm bánh mang lại hạnh phúc cho nhiều người. Tấm bánh làm vui lòng trẻ thơ cũng như người già. Tấm bánh hòa tan cho muôn người. Kẻ thấp hèn cũng như người giầu sang. Tấm bánh thêm sức mạnh cho mọi người. Kẻ no đầy cũng như người khát. Tấm bánh nối kết tình mọi người. Vì “bánh ngọt bẻ đôi” sẽ là nhịp cầu thân ái cho người với người gần nhau hơn. Tấm bánh đời Ngài ban cho thế gian để cho thế gian được sống và sống dồi dào. “Và ai ăn bánh này sẽ không phải chết bao giờ”. Đó là tấm bánh phục sinh. Bánh cải từ hoàn sinh. Bánh trao ban sự sống đời này và cả đời sau.

 

Chúa Giêsu như tấm bánh đem lại sự sống. Ngài là Đấng bị ăn.

Thật vậy, trong bữa tiệc ly Ngài đã phán: Các con hãy cầm lấy mà ăn, vì này là mình Ta. Thế nhưng, chúng ta không phải được kết hiệp với Ngài qua Bí tích Thánh Thể, mà còn một cách khác Ngài đã muốn chúng ta dùng để được kết hiệp thực sự với Ngài: Ai yêu mến Ta thì hãy giữ lời Ta. Lời Chúa là bánh ban sự sống cũng có giá trị ngang hàng với bàn tiệc Thánh Thể. Chúa là tấm bánh được ban để cho chúng ta ăn.

Và khi chúng ta ăn, chúng ta cũng phải trở thành bánh thịt ngon, để anh em chúng ta có thể ăn. Chúng ta sống bằng tình thương, bằng lời Chúa và bằng chính cuộc sống của Ngài thế nào, thì mọi người chung quanh chúng ta cũng được sống bằng tình thương, bằng lời nói và bằng chính cuộc sống tín hữu của chúng ta như vậy.

Trong tất cả mọi cách, Chúa Giêsu hiện diện giữa chúng ta, Bí Tích Thánh Thể vẫn là cách đặc biệt nhất. Điều này được giải thích trong bài Phúc Âm hôm nay: “Ta là bánh ban sự sống… Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là Thịt Ta, để cho thế gian được sống.”

Quả thế, ai nào đó ăn thịt máu Chúa sẽ tìm được sức mạnh thánh hóa và can đảm. Thịt máu Chúa còn đem lại hiệu quả cuối cùng là sự sống lại và sự sống đời đời. Vì thế, nếu chúng ta đến dâng lễ mà chúng ta không rước Mình Thánh Chúa, thì cũng không khác gì đi ăn tiệc mà không ăn gì cả. Và như thế là chúng ta đã từ chối ân huệ lớn lao, như nhà vua kia mời dự tiệc cưới con mình mà bị từ chối, là năm trinh nữ khờ dại không vào phòng tiệc, là chôn giấu nén bạc chủ trao cho, là mất kho tàng và đá ngọc, là vứt hòn ngọc đi.

Tóm lại. Mình Máu Chúa là của ăn không những nuôi dưỡng linh hồn mà còn tăng thêm niềm tin, lòng yêu mến và hy vọng, giúp chúng ta sống hào hùng, sống tốt đẹp ở đời này và bảo đảm cho chúng ta hạnh phúc đời sau. Vậy chúng ta hãy quí mến phép Thánh Thể và siêng năng rước lễ, để lãnh nhận những ơn ích và những hiệu quả cao quý ấy.

Ai đón nhận và thực thi lời Chúa, sẽ được sống vĩnh viễn. Còn ai không đón nhận sẽ chết muôn đời. Tin Mừng trong lễ hôm nay, Chúa nói về Thánh Thể, đồng thời cũng nhấn mạnh về Lời Chúa, cốt cho chúng ta dứt khoát lập trường, đón nhận Chúa hoặc từ chối Chúa, tin hoặc không tin Lời Chúa dạy. Chúa khẳng định Chúa là “Bánh hằng sống” không phải là hình ảnh hay ẩn dụ nhưng là bánh thật cho cuộc sống tâm linh của mọi tín hữu.

 

81.Suy niệm các ngày trong tuần 19 TN

     (Suy niệm của Huệ Minh)

 

THỨ HAI – Mt 17:22-27

Vượt lên bổn phận

Trang Tin Mừng hôm nay chia làm hai phần rõ rệt, phần đầu chỉ gồm hai câu vắn gọn, Thánh sử Matthêu nêu bật nội dung tiên báo về cuộc thương khó lần thứ hai của Chúa Giêsu, phần cuối gồm bốn câu Chúa Giêsu hé mở một chút về danh phận thiên tính của Ngài qua việc nộp sưu thuế cho đền thờ theo luật Do Thái.

Thường tình trong đời sống xã hội, ai cũng thích nghe và thích loan báo tin vui, tin thành công, tin chiến thắng, cho những người thân tín của mình. Nhưng với Chúa Giêsu thì đoạn Tin Mừng Mt 17, 22-23 này lại đi ngược cái lẽ thường tình ấy. Một lần nữa Ngài lại loan báo về cuộc khổ nạn và Phục Sinh của Ngài cho các môn đệ, khi họ sum họp. Ngài tiên báo thời điểm đã gần kề “Con Người sắp bị nộp vào tay người đời”. Đối tượng là người đời, là người thuộc ve trần gian, về thế giới của bóng đêm, tội lỗi và sự dữ. Người đời sẽ làm gì Ngài? “ Họ sẽ giết chết Người”. Đấy là cách con người đối xử với một người mà họ thọ ơn. Người đến chữa lành bệnh tật, xua trừ ma quỉ, cho người chết sống lại… nhưng họ lại biết ơn bằng cách “ giết chết”.

Và rồi đến đây, ta không thể hiểu mầu nhiệm của Tình Yêu Thiên Chúa. Một Tình Yêu vượt trên mọi hiểu biết, một Tình Yêu có kích thước dài, rộng, cao, sâu (Ep 3,18-19) “ ngày thứ ba Người sẽ chỗi dậy”.

Đây chính là tiền Tin Mừng Phục Sinh. Chúa Giêsu loan báo Tin Mừng Phục Sinh ngay khi Ngài vẫn sống trong kiếp con người. Chúng ta thấy thái độ các môn đệ rất buồn phiền khi nghe hung tin này. Đó là lẽ thường tình, không ai muốn thua thiệt, thất bại hay chết chóc. Nhưng Con Thiên Chúa đã chọn Thập giá làm đường dẫn tới vinh quang.

Ca-phac-na-um là một thành miền Galilê. Khi Đức Giêsu và các môn đệ đến thành này thì gặp những người thu thuế cho đền thờ. Đây là thuế hàng năm mà mỗi người Do thái đến tuổi, phải đóng thuế cho việc chi tiêu trong Đền thờ. Mỗi người sẽ phải nộp hai quan. Lúc này, Chúa Giêsu là người có danh tiếng và uy thế trong vùng, nên người Do Thái quan tâm và để ý xem Ngài có nộp thuế cho đền thờ không ? có chống lại những qui tắc của đền thờ không ?.

Các nhân viên thu thuế đền thờ có vẻ ì xèo đánh tiếng hỏi ông Phê-rô: “Thầy các ông không nộp thuế sao?” Chẳng biết vì nể hay sợ “tai tiếng” ông đáp: “Có chứ!” Ông về đến nhà Đức Giê-su liền hỏi đón mà chất vấn luôn: “Anh Si-môn, anh nghĩ sao ? Vua chúa trần gian bắt ai đóng sưu nộp thuế ? Con cái mình hay người ngoài?” Ông Phêrô đáp: “Thưa, người ngoài.” Đức Giê-su liền bảo: “Vậy thì con cái được miễn”. Ông hiểu vậy là không phải nộp, nhưng “để khỏi làm gai mắt họ”, Ngài chỉ cho ông tìm cách xoay sở để nộp thuế đền thờ đầy đủ cho cả Thầy và trò. Đức Giê-su chính là Con Thiên Chúa, là chủ đền thờ, không cần phải nộp thuế, người nhà với nhau cả mà!

Nhưng ta thấy Chúa Giêsu đã vượt lên trên bổn phận, không nại vào luật lệ để tránh né, nhưng trong khiêm hạ và tuân thủ như một người Do-thái bình thường. Ngài xuống thế nhập thể để sống trọn kiếp người trong trần gian với tất cả hệ lụy của nó.“Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa. Nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế (Pl 2, 6-7).

Họ hỏi ông Phêrô “Thầy các ông không nộp thuế sao? (c .24 ). Ông Phêrô đáp ngay: Có chứ. Điều này Phêrô khẳng định và xác định mạnh mẽ về danh phận con người của Đức Giêsu. Ngài là người Do Thái, tuân giữ luật Môsê và nộp thuế đó là chuyện đương nhiên. Phêrô cho rằng ý nghĩ của mình đúng, nên ông trả lời chắc chắn như vậy.

Ông không hỏi Chúa Giêsu xem ý Ngài thế nào và ông cũng không trả lời với những người đã hỏi ông: vì sao họ không hỏi trực tiếp Chúa Giêsu. Ông tin vào trực giác, vào cảm nhận của mình về Thầy mình. Đó là một con người sống trong đất nước Do Thái, sinh trưởng trong phong tục, văn hoá và mang trong mình dòng máu Do Thái, thì ắt hẳn chuyện nộp thuế là chắc chắn rồi.

Nhưng khi về tới nhà, Đức Giêsu hỏi đón ông. Ngài cất lời gợi mở cho ông về thiên tính của Ngài “Anh nghĩ sao ? Vua chúa trần gian bắt ai nộp thuế ? Con cái hay người ngoài ?. Một câu hỏi chỉ là để xác định cho rõ. Một câu hỏi mà ta thấy ai có trí khôn cũng có thể trả lời được. Và Phêrô thưa chỉ có người ngoài nộp thuế mà thôi. Chúa Giêsu nhấn mạnh làm cho rõ hơn: Vậy con cái được miễn ( c.26). Ở đây Chúa Giêsu giới thiệu mình là Con Thiên Chúa, không cần phải nộp thuế cho đền thờ, nơi Thiên Chúa ngự trị, nơi con người dâng lễ vật lên Thiên Chúa.

Và Đức Giêsu nói tiếp: “Nhưng để khỏi làm gai mắt họ…”. Nếu Đức Giêsu không nộp thuế theo lập luận Ngài là Con Thiên Chúa, thì người Do Thái sẽ cho Ngài là nói phạm thượng khi tự cho mình là Thiên Chúa. Đây chưa phải là lúc, là giờ mà Ngài bày tỏ chân tính của mình như Ngài ở trước toà Philatô. Lúc ấy Ngài nhận và tự xưng là Đấng Mêsia, là Vua (Lc 23,3) hoặc Ngài đã tuyên xưng mình là Đức Kitô, là Con Thiên Chúa khi vị Thượng tế hỏi Ngài, đến độ ông ta phải xé áo mình ra vì cho rằng đó là lời nói phạm thượng (Mc 14,61-64). Vì chưa đến giờ Ngài về cùng Cha, nên Ngài nói tiếp… Anh ra biển thả câu… bắt cá… lấy bốn quan nộp thuế cho phần Thầy và phần anh. Tình tiết này khiến chúng ta thấy lý thú khi đọc.

Vì sao Chúa Giêsu không lấy tiền trong túi để nộp thuế? Tại sao con cá có đồng tiền quan lại là con cá câu trước nhất? Qua những vấn đề được đặt ra chúng ta thấy Chúa Giêsu đang tỏ lộ dần thiên tính của Ngài. Ngài như biết trước vận mệnh, những điều xảy ra trong tương lai. Ngài chứng tỏ mình có khả năng trên mọi vật, mọi sự kiện. Tất cả như đang tiến hành theo kế hoạch của Ngài. Ngài là Đấng điều khiển dòng lịch sử này. Ngài là chủ thế giới muôn loài, là chủ lịch sử.

Chúa Giêsu về với phận làm con trong kiếp nhân sinh. Ngài bình thản báo cho môn đệ biết con đường phía trước. Ngài chủ động đi trên con đường này bằng tất cả tự do của người con thảo hiếu với Chúa Cha mặc dù Ngài có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống mình (x. Ga 10, 18).

Trong tư cách là con người, là công dân, Đức Giêsu sử dụng tự do với ý thức vì, với và cho người khác. Ngài dùng tự do của mình để đón nhận quy luật trần gian và tuân thủ việc đóng thuế nhằm tránh gây cớ vấp phạm cho người khác. Cho hay, tự do của Chúa Giêsu là tự do của một người con luôn hướng về Cha mình với tất cả lòng thảo hiếu và vâng phục, sẵn sàng làm tất cả để tỏ lộ tình yêu dành cho Cha, để làm vui lòng Cha.

Ta thấy một hiện thực đau khổ là ngày nay con người đang loại dần Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống của họ. Đã nhiều lần ta con thầm trách người Do Thái sao kém lòng tin, nghi ngờ về quyền năng và Tình Yêu của Chúa. Nhưng, bây giờ chúng ta lại bước trên những lối đi ấy. Và ta cũng thường chối từ, đang gạt Thiên Chúa ra khỏi đời mình, ra khỏi quỹ đạo vũ trụ vì cho rằng con người đang làm chù thời gian bằng chất dược liệu trường sinh bất tử; con người đang làm chủ vũ trụ bằng cách thay trời làm mưa, làm nắng. Con người đang muốn thống trị thiên nhiên, thống trị địa cầu. Nhưng chính những lúc khoa học tiến bộ lên tới đỉnh cao thì con người lại cảm thấy hụt hẫng, trống vắng và cô đơn lạ lùng. Xin cho mỗi người chúng ta biết nhận ra một điều: Chỉ có Thiên Chúa mới lấp đầy những khao khát về chân, thiện, mỹ mà thôi.

***

THỨ NĂM – Mt 18:21-19

Tha thứ đến cùng

Ai trong chúng ta cũng ước muốn một cuộc sống an bình, hạnh phúc và được mọi người yêu mến. Chúng ta cũng được phú bẩm bản năng yêu thương và tha thứ. Có tha thứ là có yêu thương và ngược lại. Tin Mừng hôm nay cho ta thấy nỗi khắc khoải của Phêrô cũng chính là cái tự nhiên trong mỗi con người chúng ta: “Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải đến bảy lần không?”. Định mức cho việc tha thứ thường được chúng ta tính toán rất “sòng phẳng”.

Qua trang Tin Mừng hôm nay Đức Giêsu từ chối giới hạn tha thứ đến bẩy lần do ông Phêrô đề nghị với Người, nhưng Người dạy môn đệ phải tha bảy mươi lần bảy, nghĩa là phải tha thứ luôn luôn. Ba lý do phải luôn tha thứ: Một là vì chúng ta đã được Thiên Chúa tha thứ các lỗi phạm của ta cách vô điều kiện. Hai là vì số nợ của anh em đối với chúng ta chẳng đáng là gì so với số tội nợ ta mắc với Thiên Chúa. Ba là nếu ta đòi anh em tính sổ trả nợ sòng phẳng, thì Thiên Chúa cũng sẽ tính sổ nợ sòng phẳng đối với chúng ta.

Khi Phêrô hỏi Đức Giêsu: “Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không?” Ðức Giêsu đáp: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy.” (c. 21.22) Đồng thời Đức Giêsu nêu lên một dụ ngôn để cho chúng ta hiểu nguyên do: Vì Thiên Chúa yêu thương chúng ta trước, dù chúng ta là những con nợ ‘khủng’ của Người; nhưng Người đã tha nợ cho chúng ta chỉ duy với một điều kiện duy nhất là chúng ta cũng phải biết tha nợ cho người anh em mình.

Đức Giêsu đòi chúng ta một sự tha thứ không giới hạn – không phải tha bảy lần, nhưng là bảy mươi lần bảy – Sự tha thứ không giới hạn mặc nhiên biểu lộ tấm lòng bao dung của trái tim yêu thương không giới hạn – một tình yêu chân thực sẵn sàng hiến mạng cho người anh em: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của kẻ hiến mạng sống vì bạn hữu của mình.” (Ga 15,13) Đức Kitô khi hiến mình, chịu chết treo thập tự bởi sự ghét ghen, bất trung, phản bội của con người, vẫn thốt lên: “Lạy Cha, xin tha thứ cho họ, vì họ lầm không biết.” (x. Lc 23,34)

Khuynh hướng trong mỗi con người chúng ta là luôn luôn hướng về mình, ít khi chúng ta nhận ra cái sai của mình. Khi mình xúc phạm đến người khác thì ta ít thấy, cũng có khi thấy nhưng ta cố tình lấp liếm hay giả bộ làm ngơ; nhưng khi người khác xúc phạm đến mình thì mình lại lu loa tính toán. Ta thường là thấy lỗi của người khác, thấy mình thiệt thòi, thấy mình bị sỉ nhục, làm mất danh dự…hơn là lỗi của mình đối với người khác.

Chúng ta thường không dễ dàng vượt thắng sự yếu đuối của mình, không dám nhận sự thua thiệt về mình. Lòng hận thù khiến chúng ta dần xa cách người khác, nó như một tảng đá đè nặng lên cuộc sống của chúng ta. Mang sự hờn giận trong lòng khiến cuộc sống của ta trở nên nặng nề, lúc nào ta cũng phải bận tâm đến lời nói, hành động của người khác. Chúng ta được mời gọi sống tình yêu thương tha thứ như Đức Giêsu. Sự tha thứ làm cho ta thoát khỏi bóng tối của những cảm xúc cay đắng trong lòng. Tha thứ làm cho con người ta dễ dàng đồng cảm với người khác; tha thứ cũng làm cho ta không còn chai sạn trong tâm hồn.

Ngày nay do ảnh hưởng văn hóa xấu của phim ảnh, game nặng mùi tính dục hay bạo lực mà đã có biết bao thảm họa của tội ác; Cộng thêm do ảnh hưởng bởi môi trường giáo dục không lành mạnh của gia đình, xã hội: người ta chỉ có một đến hai con nên nhiều bậc phụ huynh đã biến những đứa con trở thành ‘ông vua’ hoặc ‘nữ hoàng’ trong gia đình, quen thói được nuông chiều chỉ biết lãnh nhận mà không biết cho đi nên đã trở thành những con người dị dạng, mất quân bình trong cuộc sống xã hội; đó là những con người ích kỷ, không có khả năng yêu thương chân thực; họ chỉ quen được cung phụng mà không được dạy cho biết phục vụ; chỉ nghĩ đến lợi ích bản thân mà không quan tâm đến lợi ích tha nhân.

Vì thế, nếu không được cảm hóa, biến đổi từ Tin mừng, họ dễ thối chí, gãy đổ khi phải đương đầu với những thử thách, hay khi gặp thất bại trong công danh, sự nghiệp, tình duyên, hoặc sẽ là những con người chai lỳ, độc ác khi mọi điều không như sở nguyện. Vì vậy mà hàng ngày báo, mạng loan tin cho chúng ta biết bao vụ án đã xảy ra: con giết cha, trò giết thầy và người ta thanh toán nhau một cách vô nhân tính, kể cả những đôi bạn trẻ yêu nhau tha thiết; hay có những trường hợp con cái mắng chửi cha mẹ, làm hại cha mẹ khi chúng không được đáp ứng như ý muốn, hoặc có những trường hợp tự tử vì thất bại, thất vọng…. Ích kỷ không thể bao dung tha thứ cho người khác, họ cũng không bao dung tha thứ cho chính bản thân mình.

Trước một Thiên Chúa – Đấng giàu sang vô cùng, tốt lành vô cùng và yêu thương vô cùng, tôi ý thức bản thân mình bất toàn, yếu đuối và vô cùng nhỏ bé. Chiêm ngưỡng, nhận thức được vô vàng ân huệ, điều kỳ diệu Chúa đã làm, tôi như một người đầy tớ mắc nợ cả trăm vạn lượng. Ngay từ khi được dệt thành bào thai trong dạ mẹ tôi đã là người mắc nợ, cho đến khi mở mắt chào đời, được hít thở dưỡng khí, được chăm chút nâng niu từng miếng ăn, giấc ngủ, rồi tập lẫy, tập bò, tập đi, tập nói cùng với sự săn sóc của mẹ cha, người thân… đồng thời vũ trụ, thiên nhiên như bữa tiệc phong phú, tràn trề Thiên Chúa dọn sẵn cho tôi thưởng thức để tôi được phát triển, được lớn lên, được mở mang trí não, thành nhân nhờ kho tàng khôn ngoan của nhân loại. Như thế tôi chẳng phải là một con nợ ư? Tất cả Chúa ban cho tôi để tôi hoàn thiện con người mình, hoàn thiện sứ mệnh của mình ở trần gian, để tôi sinh lợi; nhưng lắm khi tôi phung phí, tôi sử dụng không đúng….Tôi đã phạm muôn lầm lỗi, tôi mắc nợ Thiên Chúa, mắc nợ con người – mắc nợ chồng chất – món nợ tình yêu.

Nhưng Thiên Chúa vẫn yêu thương tôi, vẫn tha thứ cho tôi hết lần này đến lần khác. Còn tôi, tại sao tôi lại khắt khe với người anh em? Tại sao tôi không thể tha thứ cho người anh em? Tại sao tôi cứ mãi ôm mối hận trong lòng và bắt người anh em phải trả giá những lỗi lầm của họ vì họ đã ‘gây nên tội’ có khi là cố ý, nhưng lắm khi chỉ vì vô tình. “Ôi lạy Chúa! Nếu như Chúa cứ chấp tội nào ai chịu nổi được ư.” Con không muốn Chúa chấp tội con bởi vì ‘con mỏng dòn, yếu đuối’ và có rất nhiều lý do để biện minh cho mình; nhưng con không muốn tìm lý do để biện minh cho người anh em. Con xin Chúa thương con, nhưng con không thể yêu thương người anh em mà Chúa đã muốn con phải yêu thương như chính mình.

Tha thứ đưa chúng ta tới hành động yêu thương. Tha thứ là biết bỏ đi quá khứ nhưng cũng có nghĩa là không lặp đi lặp lại một lỗi lầm, không cố tìm cách biện minh cho mình. Chúng ta học tha thứ cho mình lẫn tha thứ cho người khác. Không tha thứ cho mình, ta khó tha thứ cho người khác; ta cũng hay biện hộ cho chính mình và lên án người khác. Sự tha thứ làm tan đi nhu cầu chứng tỏ rằng ta đúng, gột bỏ sự phẫn nộ mà ta cảm nhận, đôi khi chỉ là trong tưởng tượng. Nếu không tha thứ và biết tha thứ thì quá trình giải thoát khỏi gánh nặng này sẽ không thể bắt đầu hay có tiến triển. Không biết tha thứ ta khó cảm nghiệm được tình thương yêu của Thiên Chúa dành cho ta, ta khó cảm nghiệm được sự tha thứ của người khác khi ta biết mình có lỗi.

Người ta thường định nghĩa yêu là hiến thân, là hy sinh, là quên mình, là cho đi cách vô vị lợi….Nhưng người ta quên rằng tha thứ có vị trí rất cao trong tình yêu – yêu vô điều kiện, tha thứ vô điều kiện. Và bởi vì người ta quên mất yêu là tha thứ nên có biết bao mối tình trở thành ghen, hận, thù khi bị người yêu quay lưng phản bội, hay hướng đến một đối tượng tình yêu mới. Nơi mạc khải Kinh Thánh, Thiên Chúa đòi chúng ta phải yêu thương hết mọi người.

***

THỨ SÁU – Mt 19:3-12

Cố gắng và hy sinh để bảo vệ hôn nhân của mình

Người Pharisiêu hỏi Chúa Giêsu điều luật liên quan đến bậc sống hôn nhân, có ý để thử Chúa Giêsu. Chúa Giêsu cho họ thấy có nhiều bậc sống, và có những chọn lựa bậc sống khác nhau. Rồi Ngài trả lời cho những người Pharisiêu câu trả lời kiên quyết rõ ràng cho bậc sống hôn nhân mà họ đã thắc mắc. Đây là những thái độ mà những người Pharisiêu thường mắc phải. Họ không những giữ luật kiểu vụ luật, mà tệ hơn họ dùng luật để bắt bẻ người khác.

Những người Pharisêu đến gần Chúa Giêsu để thử Ngài “Thưa Thầy, có được phép rẫy vợ mình vì bất cứ lý do nào không?” Biệt phái biết vấn đề này gay go nên tìm cách gài bẫy Chúa Giêsu. Ngài trả lời thế nào thì cũng bị kết án: hoặc quá rộng rãi hoặc quá hẹp.

Chúa Giêsu trả lời bằng cách trích đoạn sách Sáng Thế (St 1,27-2,24). Đó chính là những lời thiết lập định chế đơn hôn và vĩnh hôn. Như thế dứt khoát là không được ly dị, bởi vì “Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp loài người không được phân ly.”

Người Pharisêu trích sách Đệ Nhị Luật (24, 1) để biện minh cho việc được phép ly dị đúng theo Luật Môsê (c. 7). Còn Đức Giêsu lại trích sách Sáng Thế (2, 24) để nhấn mạnh cho sự hiệp nhất vĩnh viễn giữa đôi vợ chồng. “Cả hai thành một xương một thịt” không chỉ về mặt thân xác, mà còn trở nên một lòng, một ý, một ước mơ, một hành động. Ngài khẳng định điều này đã có từ thuở ban đầu (cc. 4. 8) và nằm trong ý định nguyên thủy của Thiên Chúa. Việc Môsê cho phép ly dị chỉ là một nhượng bộ tạm thời (c. 8). Đức Giêsu đến để hoàn chỉnh Luật Môsê và khai mở ý muốn trọn vẹn của Thiên Chúa về hôn nhân.

Chúa Giêsu nhận định về câu Đnl đó: Bản chất của nó không phải là lời thiết lập luật nhưng chỉ là lời cho phép chuẩn miễn trong hoàn cảnh người dân còn lòng chai dạ đá, nghĩa là chưa nhận rõ ý Thiên Chúa. Như thế trong quá khứ, nếu cho phép ly dị thì chỉ là chuẩn miễn thôi. Sự chuẩn miễn không hủy bỏ được định chế hôn nhân.

Rồi Ngài lập lại nguyên tắc hôn nhân bất khả ly: “Ngoại trừ trường hợp hôn nhân bất hợp pháp, ai rẫy vợ mình mà lấy vợ khác là phạm tội ngoại tình.”

Ta có cảm tưởng những người Biệt Phái, Pharisiêu và Luật Sĩ là những người lẽ ra phải hiểu đúng luật để hướng dẫn người khác. Nhưng dường như họ luôn luôn giữ luật lệch với chuẩn mực của Chúa. Đang khi Chúa nhắc đến nội tâm, thì họ lại giữ luật hình thức bên ngoài “như những mồ mả tô vôi”. Đang khi Chúa nhấn mạnh đến luật bác ái là giềng mối cho mọi lề luật, thì họ lại sử dụng luật để bắt bẻ và xét nét làm chết nghẹt yêu thương – bác ái.

Bậc sống độc thân hoặc lập gia đình, không phải thuần túy tùy thuộc ý định con người, nhưng là một ơn ban đến từ Thiên Chúa. Nếu không tin có Thiên Chúa và bị ảnh hưởng của tinh thần thế tục, con người sẽ không hiểu giá trị cũng như không thể sống trọn vẹn ơn gọi độc thân hoặc lập gia đình. “Ai có thể hiểu được thì hiểu,” ơn ban của Thiên Chúa tùy thuộc tự do của con người. Con người thời nay đã lạm dụng tự do để quyết định những điều nghịch lại chương trình của Thiên Chúa. Con người đã trần tục hóa cả bậc độc thân lẫn bậc hôn nhân và gia đình. Tất cả đều được phép, kể cả việc hai người cùng phái tính được luật pháp cho phép sống với nhau như vợ chồng, để rồi tình thương của cha mẹ đối với con cái trong trường hợp này cũng bị hạ thấp.

Hôm nay, Chúa Giêsu trả lời cho Pharisiêu một thái độ tiên quyết trong bậc sống hôn nhân. Đối với Chúa không được phép sống và giữ luật của Chúa cách nửa vời. Chúa nói: “Người ta sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt… Vì, sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly”.

Hơn nữa, ta thấy Chúa còn nói thêm: “Ngoại trừ trường hợp hôn nhân bất hợp pháp, ai rẫy vợ mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình”. Hôn nhân công giáo đã được Chúa liên kết và chúc phúc. Chúa cũng đòi hỏi người sống bậc hôn nhân sự trung thành với nhau. Vì hình ảnh tinh tuyền trong hôn nhân cũng chính là hình ảnh về Chúa Giêsu và Hội Thánh của Người.

Trong cuộc sống hôm nay, nhiều người bị cuốn theo lối sống của thời đại: sống vội, yêu vội. Hôn nhân đôi khi là sự toan tính, đổi chác hay tìm sự thỏa mãn xác thịt…Tất cả những điều đó làm mất đi ý nghĩa của hôn nhân. Vì thế, người ta thường dễ dàng ly thân, thậm chí ly dị, kể cả đối với người có niềm tin kitô giáo.

Để sống trọn ơn gọi hôn nhân, không có con đường nào khác là chạy đến với Chúa là nguồn mạch của tình yêu, và thực thi ý muốn ban đầu của Thiên Chúa khi tạo dựng con người: “sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly”. Điều này đòi hỏi nhiều cố gắng và hy sinh, nhưng đó là bí quyết để đời sống hôn nhân nên trọn hảo.

Người Kitô hữu chúng ta đừng để mình bị cám dỗ chạy theo tâm thức trần tục. Giải pháp cho vấn đề không phải là luật lệ do con người đặt ra, nhưng là tình thương, là trở về với Thiên Chúa và chương trình nguyên thủy của Ngài khi tạo dựng con người. Ðiều này đòi hỏi nhiều cố gắng hy sinh, nhưng đó là bí quyết để con người sống trọn ơn gọi của mình và đạt hạnh phúc vĩnh cửu. Chúng ta đừng sợ cố gắng hy sinh, bởi vì Thiên Chúa sẽ trợ giúp chúng ta, nếu chúng ta mở rộng tâm hồn đón nhận Ngài và để Ngài hướng dẫn cuộc đời chúng ta.

***

THỨ BẢY – Mt 19:13-15

Trở nên như trẻ thơ

Trang Tin Mừng hôm nay đã họa lại cảnh Chúa Giêsu và các trẻ em. Đang khi danh tiếng của Thầy Giêsu nổi bật, Thầy trở thành nhân vật quan trọng trong mắt mọi người. Vì thế, việc để các trẻ em đến quấy rầy, làm mất thời gian của Thầy là điều các môn đệ không thể chấp nhận được! Với suy nghĩ đó, các môn đệ đã ngăn cản các trẻ nhỏ đến gần Đức Giêsu, nhưng Chúa Giêsu lại phản ứng ngược lại: “Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Trời thuộc về những ai giống như chúng.”

Chúa Giêsu muốn các môn đệ thấu hiểu điều kiện thiết yếu để thuộc về Nước Thiên Chúa và được cứu độ, Chúa đã nói với các ông: “Thầy bảo thật anh em: nếu anh em không trở lại mà nên như trẻ em, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời. Vậy ai tự hạ, coi mình như em nhỏ này, người ấy sẽ là người lớn nhất Nước Trời”.

Ta nên nhớ chi tiết đặt tay và cầu nguyện cho một người là nghi thức tôn giáo quen thuộc trong Do Thái giáo thời Chúa Giêsu. Những vị lãnh đạo tôn giáo và các Rabbi thường đặt tay và cầu nguyện cho những ai đến xin được chúc lành, họ cũng đặt tay trên trẻ nhỏ và cầu nguyện cho chúng, mặc dù do phong tục người Do Thái thời đó, những trẻ nhỏ không có địa vị, không có giá trị gì, chỉ khi nào trẻ đến tuổi 12, nó mới được nhìn nhận có chỗ đứng trong cộng đoàn. Các môn đệ Chúa Giêsu lúc đó chưa thay đổi tâm thức, họ còn ngăn cản không cho người ta đem các trẻ nhỏ đến với Chúa.

Các tông đồ la rầy các trẻ em đang khi Chúa Giêsu giảng dạy dân chúng có lẽ do chúng đùa nghịch, hò la, nói năng gây ồn ào làm mất bầu khí trang nghiêm. Trẻ em thường rất vô tư, đơn sơ, hồn nhiên, ngay thẳng và không hề tính toán. Tận dụng cơ hội ấy, Chúa Giêsu mời gọi mọi người hãy trở nên giống trẻ thơ. Chúa không đòi người lớn trở lại làm trẻ em vì đó là điều bất khả kháng nhưng mời gọi họ mang lấy tinh thần đơn sơ, hiền lành, tín thác như trẻ em. Chúng ta còn có thể học đòi nơi các trẻ em một điều khác nữa: luôn tìm đặt câu hỏi khi không hiểu.

Một đứa trẻ thường nêu vấn đề của em cho cha mẹ, anh chị và những người lớn hơn mà chúng tin là biết được câu trả lời. Trong cuộc sống, tại sao chúng ta lại không hỏi Chúa về những gì đang xảy đến cho bản thân và những người xung quanh? Thiên Chúa là “Đấng thấu suốt những gì kín đáo” (Mt 6, 4) chắc chắn sẽ cho chúng ta câu trả lời thoả đáng. Điều quan trọng là chúng ta có đủ can đảm, tự tin và sẵn sàng vâng nghe điều Chúa chỉ dạy.

Nước Thiên Chúa là một hồng ân ban một cách nhưng không, phải đón nhận với lòng đơn sơ, biết ơn và cảm phục của các trẻ thơ. Quan sát tâm hồn và cách hiện diện của các trẻ em chúng ta dễ nhận ra rằng:

Trẻ em thì không quan tâm gì về thứ hạng. Chúng chẳng cần biết đến những người quanh chúng ai lớn hơn – ai nhỏ hơn, ai lớn nhất – ai nhỏ nhất.

Trẻ em thì tin trọn vẹn và nhanh chóng. Khi chúng ta nói với đứa trẻ rằng chúng ta sẽ làm điều gì đó cho nó, và nó sẽ hy vọng cho đến khi thấy được điều chúng ta nói là thật.

Trẻ em chỉ nói những gì có ý nghĩa với chúng. Chúng thường có thói quen nói chính xác những gì chúng nghĩ. Không có vấn đề xấu hổ hoặc sợ xúc phạm khi chúng phải nói. Và chúng không nói có ẩn ý bao giờ.

Trẻ em có một tâm hồn vui tươi. Chúng cười một cách tự do ngay cả khi chỉ có một mình. Chúng cũng dễ quên và không bao giờ để bụng hoặc nhắc hoài về một lỗi lầm của một ai đó gây ra cho chúng.

Trẻ em biết làm thế nào để có niềm vui. Hãy xem chúng chơi với những thứ rất thường như lá cây, que kem, hay tờ giấy. Chúng dạy chúng ta rằng, niềm vui có thể được tìm ngay trong những điều đơn giản nhất.

Ta đang sống trong một thế giới mà con người dường như không còn nghe thấy và đang làm điều ngược lại với câu nói “Hãy để trẻ nhỏ đến cùng Ta” của chúa Giêsu. Thật vậy,“để trẻ nhỏ” đến với mình nghe có vẻ xa xỉ với những ông bố và những bà mẹ đang đành tâm chối bỏ món quà tặng cao quý mà Thiên Chúa tặng ban cho họ.

Thay vì chăm sóc bảo vệ cho sinh linh nhỏ bé trong bào thai thì họ lại tìm mọi cách để ngăn chặn sự sống và không cho một con người được quyền cất tiếng khóc chào đời. Cũng như từ xưa đến nay đã có không ít người biến những trẻ thơ thành nạn nhân của họ như khinh miệt, bóc lột sức lao động, bạo hành, và nhất là lạm dụng các em về tinh thần cũng như thể xác…rồi đẩy các em vào bước đường cùng không còn chỗ trong xã hội và thậm chí ngay trong gia đình thân yêu của mình. Các em không có được một tình thương yêu, sự chăm sóc giáo dục cũng như cho các em tất cả những quyền lợi mà các em có quyền hưởng. Họ chẳng bao giờ “để trẻ nhỏ” có cơ hội đến gần họ mà yêu thương chúng như Chúa Giêsu.

Với trang Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nêu gương cho chúng ta về cách sống hiền lành, khiêm tốn đón nhận mọi người. Chúa cũng dạy chúng ta hãy nên như trẻ thơ để dễ đến với Chúa. Chúng ta tự hỏi, đều gì ngăn cản chúng ta chưa đến với Chúa trong tâm tình của trẻ thơ ? Chúng ta hãy sống Lời Chúa như trẻ thơ, hãy đặt trọn niềm tin nơi Chúa và thân thưa cùng Ngài với lời Thánh Vịnh 130: “Lòng con chẳng dám tự cao, mắt con chẳng dám tự hào Chúa ơi… Như trẻ thơ nép mình lòng mẹ, trong con, hồn lặng lẽ an vui” (Tv 130).

Chỉ những ai có tấm lòng như Chúa Giêsu mới cảm nhận được giá trị cao quý của sự sống và những phẩm chất tốt đẹp nơi tâm hồn những trẻ thơ. Do đó, Những đức tính của trẻ thơ đang rất cần thiết cho con người thời nay bởi vì có rất nhiều người đang sống trong lo âu sợ hãi, gian dối lừa lọc, chạy theo những đam mê lạc thú, không còn biết tin tưởng vào ai cũng như không tin có sự hiện diện của Thiên Chúa để cậy trông vào Ngài.

Hãy để các trẻ nhỏ đến với Chúa Giêsu, đừng ngăn cản chúng. Xin Chúa giúp chúng ta chu toàn trách nhiệm cao cả này, với ý thức rằng ân sủng và chúc lành của Chúa là kho tàng quí giá mà chúng ta có thể trao lại cho con cái chúng ta. Ước gì đời sống của mỗi Kitô hữu chúng ta cũng đơn sơ trong sáng như trẻ nhỏ, để đáng được Chúa đặt tay và chúc lành cho chúng ta mỗi ngày.

=> Tài liệu dạng Word, xin nhấn vào đây để tải về máy