Suy niệm CHÚA NHẬT 13 THƯỜNG NIÊN – B
Lời Chúa: Kn 1,13-15;2,23-24; 2Cr 8,7.9.13-15; Mc 5,21-43
MỤC LỤC
- Đụng đến áo.
- Cảm nghiệm về Chúa.
- Hãy bám vào Chúa.
- Đừng tuyệt vọng …..
- Khẽ chạm vào Chúa Giêsu.
- Đức tin.
- Này bé, Chỗi dậy đi!
- Đừng sợ! Hãy cứ tin.
- Đức tin.
- Đừng sợ.
- Đức Kitô là nguồn sống.
- Sống chết trong tay Chúa.
- Chúa Nhật 13 Thường Niên.
- Sống đức tin.
- Đức tin mang ơn chữa lành.
- Chúa Nhật 13 Thường Niên.
- Lời kêu xin.
- Hệ lụy tất yếu.
- Nhận ra phép lạ mỗi ngày.
- Chúa Nhật 13 Thường Niên.
- Chúa Giêsu là Đấng Ban Sự Sống.
- Chúa Nhật 13 Thường Niên.
- Thiên Chúa quan tâm..
- Gặp gỡ.
- Cộng tác với ơn Chúa.
- Làm phiền Thầy chi nữa!
- Chúa là chủ tế sự sống.
- Chỗi dậy nhờ Đức Giêsu.
- Chúa Nhật 13 Thường Niên.
- Bệnh nạn và niềm tin.
- Thiên Chúa quan tâm..
- “Ai Chạm Đến Ta?”
- Bàn tay thi ân.
- Sức mạnh niềm tin.
- Lòng tin của con đã cứu con.
- Mắt nhìn tay chạm..
- Niềm tin thắp sáng hy vọng.
- Chúa Nhật 13 Thường Niên.
- Tin và sờ.
- Lòng tin.
- Chúa Nhật 13 Thường Niên.
- Chúa Nhật 13 Thường Niên.
- Hãy chỗi dậy.
- “Ai chạm đến Ta?”
- Đừng sợ, chỉ hãy tin.
- Căn nguyên ‘sinh lão bệnh tử’
- Chúa Nhật 13 Thường Niên.
- Cái “sờ” của niềm tin.
- Suy niệm của Charles E. Miller
- Giữa lòng dân Chúa.
- Chúa Nhật 13 Thường Niên.
- Hai phép lạ về sự sống.
- Đức tin cứu sống.
- Chúa Giêsu tiếp tục làm phép lạ.
- Kẻ ăn trộm phép lạ.
- Nguồn sống.
- Đời sống.
- Thầy thuốc tối cao.
- Chúa Nhật 13 Thường Niên.
- Cộng tác viên không phải bù nhìn.
- Chúa là Sự Sống.
- Sống lại
- Đức tin.
- Mạnh mẽ.
- Đau khổ.
- Sống đức tin.
- Sờ vào áo.
- Chữa lành.
- Quyền năng.
- Đức tin.
- Lề luật
- Sống đạo.
- Gặp gỡ.
- Chỉ cần tin thôi
- Ngài đã toàn thắng sự chết
- Chúa Nhật 13 Thường Niên.
- Sự chết.
- Trỗi dậy đi!
- Chúa Nhật 13 Thường Niên.
- Chúa Nhật 13 Thường Niên.
- Chú giải của Noel Quesson.
- Chúa Nhật 13 Thường Niên.
- Suy niệm của Nha Trang.
- Chú giải của William Barclay.
- Đừng sợ, hãy vững tin!
- Cần phải có niềm tin mạnh mẽ.
- Chúa Nhật 13 Thường Niên.
- Chúa Nhật 13 Thường Niên.
- Chúa Nhật 13 Thường Niên.
**************************
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Giữa đám đông chen lấn chung quanh Đức Giêsu, có những người đụng vào áo Ngài. Nhưng chỉ có một cái đụng cố ý, đụng lén như sợ bị bắt quả tang. Đó là cái đụng của một người phụ nữ, mười hai năm mắc bệnh băng huyết, mười hai năm tìm thầy chạy thuốc mà không khỏi, mười hai năm bị coi là ô nhơ: không được đụng đến người khác, không được tham dự nghi lễ ở Đền thờ. Người phụ nữ đụng vào áo Đức Giêsu bằng tay và bằng lòng tin, một lòng tin đơn sơ mà mạnh mẽ. “Dầu tôi chỉ đụng vào áo Ngài, tôi sẽ được khỏi.” Cái đụng của lòng tin đã cứu bà khỏi bệnh.
Trong đời sống Kitô hữu, chúng ta đã nhiều lần đụng vào Chúa. Đụng đến Lời Ngài, đụng đến Mình Máu Thánh Ngài. Đụng bằng tay, bằng miệng, bằng rung động của trái tim. Có những lần đụng chạm hời hợt vì thói quen, không để lại một âm vang nào, không đem lại một biến đổi nào trong cuộc sống. Nhưng cũng có lần, như người phụ nữ, ta run rẩy đụng vào Ngài, dù biết mình ô nhơ tội lỗi. Hay nói đúng hơn, vì biết mình ô nhơ tội lỗi mà ta cả dám đụng vào Ngài. Đụng vào Đấng Thánh để được nên trong sạch. Chúng ta cần đụng đến Đức Giêsu mỗi ngày và chúng ta cũng cần được Ngài đụng đến.
Ông trưởng hội đường xin Ngài đặt tay trên con mình. Ngài đã cầm tay cô bé để kéo cô ra khỏi cái chết. Như con gái của ông trưởng hội đường, chúng ta cần được Chúa cầm tay và bảo: “Hãy chỗi dậy.” Chỗi dậy khỏi bệnh tật và cái chết. Chỗi dậy và đi lại, ăn uống như người bình thường. Chỗi dậy và sống vui tươi, tự do như con cái Thiên Chúa.
Hai phép lạ xảy ra nhờ có lòng tin. Đức Giêsu xác nhận lòng tin vững vàng của người phụ nữ: “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con” (c.34). Ngài nâng đỡ lòng tin đang chao đao của Gia-ia: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi” (c.36). Cần có lòng tin khi đụng chạm Chúa Giêsu. Cần nhạy cảm để nhận ra cái đụng nhẹ của Ngài.
Khi đụng vào Thân Mình Ngài nơi bí tích Thánh Thể, ta được mời gọi đụng đến nỗi khổ của anh em, là những chi thể của Nhiệm Thể Ngài. Khi đụng đến Lời Chúa nơi những trang Tin Mừng, ta được mời gọi chạm đến Lời Chúa nơi mọi biến cố. Chỉ cần để Chúa đụng đến bạn một lần thôi, đời bạn sẽ hoàn toàn đổi mới.
Gợi Ý Chia Sẻ
– Có khi nào bạn được đánh động bởi một câu Lời Chúa không? Có câu nào đã gây nên một âm vang lâu dài trong đời bạn.
– Việc rước lễ có giúp bạn sống vui tươi và can đảm không? Bạn thấy mình phải chuẩn bị thế nào cho cuộc gặp gỡ này, khi Chúa đụng vào bạn và bạn đụng vào Chúa?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, Dân làng Nazareth đã không tin Chúa vì Chúa chỉ là một ông thợ thủ công. Các môn đệ đã không tin Chúa khi thấy Chúa chịu treo trên thập tự. Nhiều kẻ đã không tin Chúa là Thiên Chúa chỉ vì Chúa sống như một con người. Cũng có lúc chúng con không tin Chúa hiện diện dưới hình bánh mong manh, nơi một linh mục yếu đuối trong một Hội Thánh còn nhiều bất toàn. Dường như Chúa thích ẩn mình nơi những gì thế gian chê bỏ, để chúng con tập nhận ra Ngài bằng con mắt đức tin. Xin thêm đức tin cho chúng con để khiêm tốn thấy Ngài tỏ mình thật bình thường giữa lòng cuộc sống.
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Hai người hưởng phép lạ hôm nay đều được đụng chạm đến Chúa.
Người đàn bà bị bệnh băng huyết lén lút sờ vào gấu áo Người. Vừa đụng chạm vào áo Người, lập tức bà thấy có biến chuyển: bệnh tật bao năm hành hạ bà, làm cho bà tốn biết bao công sức tiền của chạy chữa tưởng như vô vọng, nay bỗng tiêu tan trong phút chốc.
Em bé không đụng chạm đến Chúa vì em đã chết. Nhưng chính Chúa đụng chạm đến em. Chúa cầm tay dắt em chỗi dậy. Cuộc tiếp xúc với Chúa đã gây nên những biến đổi mãnh liệt nơi thân xác. Căn bệnh bị xua trừ. Thân xác khỏe mạnh lại. Người phụ nữ được sinh hoạt bình thường với xã hội. Thần chết bị trục xuất. Sự sống trở lại. Em bé được giải thoát khỏi thế giới tử thần, trở về với thế giới sự sống.
Nhưng những biến đổi trong tâm hồn còn mãnh liệt hơn. Khi Đức Giêsu gọi người phụ nữ đến để khen ngợi và khích lệ chị, tâm hồn chị hẳn phải rộn ràng hạnh phúc. Với thái độ khoan dung nhân hậu, Đức Giêsu đã biến đổi sâu xa tâm hồn chị. Từ mặc cảm là người ô uế, bị xã hội khai trừ, chị thấy mình được đối xử một cách trân trọng. Từ thân phận một người lén lút như kẻ ăn trộm phép lạ, chị trở thành người được Đức Giêsu công khai khen ngợi. Từ một người xa lạ, chị trở thành người thân thiết của Đức Giêsu. Chắc chắn, chị sẽ chẳng bao giờ quên được những lời nói và thái độ của Đức Giêsu. Những lời nói, những thái độ ấy đã đem lại cho chị niềm tin, niềm bình an và lòng tự tín. Còn em bé, khi trở lại sự sống, người đầu tiên mà em nhìn thấy là Đức Giêsu. Hơi ấm đầu tiên em cảm nhận được từ bàn tay Người đã làm em thấy yên tâm. Ánh mắt hiền từ của Người cho em niềm tin yêu phó thác. Và thái độ của Người thật như một người cha hiền. Việc đầu tiên Người bảo mọi người là cho em bé ăn. Thật là một sự quan tâm ân cần. Ơn lớn nhất Người ban là trả lại sự sống cho em bé. Em đã được cứu thoát khỏi bàn tay tử thần. Nhưng chính ánh mắt, cử chỉ và lời nói đầy tình yêu thương đã ghi khắc trong tâm hồn em bé một hình ảnh rất đẹp và rất sâu đậm về Người. Trọn đời em sẽ ghi nhớ mãi hình ảnh Người. Trọn đời em sẽ biết ơn Người. Trọn đời em sẽ sống xứng đáng với tình yêu thương mà em đã cảm nhận được. Người phụ nữ và em bé đã được Đức Giêsu thương yêu vì họ đã có những phẩm chất đáng quí.
Phẩm chất thứ nhất mà họ có, đó là đức tin mạnh mẽ. Ông trưởng hội đường tin tưởng mãnh liệt nên đã đến tìm Đức Giêsu. Hội đường Do Thái vốn không ủng hộ Đức Giêsu, trái lại còn chống đối và tìm cách giết Người. Thế mà ông trưởng hội đường này vẫn đến cầu cứu Người, chứng tỏ lòng tin của ông mãnh liệt biết bao. Chính Đức Giêsu đã bảo ông: “Chỉ cần tin thôi!”. Còn người phụ nữ tuy sợ hãi không dám nói với Người, nhưng với lòng tin tưởng mãnh liệt đã sờ vào gấu áo Người. Đức Giêsu đã khen ngợi đức tin của họ: “Lòng tin của con đã chữa con”. Đức tin mãnh liệt như thế đã xứng đáng được Chúa thưởng công.
Phẩm chất thứ hai mà họ có, đó là đức khiêm nhường thẳm sâu. Sự khiêm nhường được biểu lộ không những qua sự nhận biết thân phận thiếu thốn, bất lực của bản thân, mà còn diễn tả qua thái độ bên ngoài. “Vừa thấy Đức Giêsu, ông sụp lạy dưới chân Người”. Sau khi bị phát giác, người phụ nữ cũng đến phủ phục dưới chân Người và tỏ bày tất cả mọi sự. Chính thái độ khiêm nhường ấy đã được Chúa thương.
Hằng ngày có nhiều lần ta đụng chạm đến Chúa hoặc Chúa đụng chạm đến ta. Ta đụng chạm đến Chúa trong khi đọc Sách Thánh. Ta đụng chạm đến Chúa khi ta rước Mình Thánh Chúa. Ta đụng chạm tới Chúa khi ta lãnh nhận các bí tích. Ta đụng chạm đến Chúa khi ta tiếp xúc với tha nhân, đặc biệt những anh em bệnh tật, nghèo túng, bị bỏ rơi. Nhưng những đụng chạm ấy dường như chẳng để lại dấu ấn nào trong ta. Điển hình là khi ta rước Mình Thánh Chúa. Ta trực tiếp đụng đến Chúa. Thế nhưng vì ta đã đụng đến Chúa cách hời hợt, máy móc, theo thói quen, thiếu lòng tin, thiếu tình yêu, nên đời sống ta chưa biến đổi. Hôm nay, ta hãy noi gương ông trưởng hội đường và người phụ nữ bị bệnh băng huyết, đến với Chúa bằng một đức tin mãnh liệt và bằng sự khiêm nhường thẳm sâu. Với đức tin và sự khiêm nhường, ta sẽ cảm nghiệm được Chúa. Chỉ cần một lần nếm cảm được tình yêu Chúa, được thấy ánh mắt nhân từ của Chúa, được lắng nghe những lời êm dịu, khích lệ của Chúa, ta sẽ chẳng còn muốn làm gì khác hơn là đền đáp tình yêu thương của Chúa.
Lạy Chúa, xin hãy ban cho con một đức tin mạnh mẽ và một lòng khiêm nhường thẳm sâu. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Có khi nào bạn được đánh động bởi một câu Lời Chúa không? Có câu nào đã gây nên một âm vang lâu dài trong đời bạn?
2. Việc rước lễ có giúp bạn sống vui tươi và can đảm không? Bạn thấy mình phải chuẩn bị thế nào cho cuộc gặp gỡ này, khi Chúa đụng vào bạn và bạn đụng vào Chúa?
3. Có lần nào bạn đã cảm nghiệm được Chúa đụng chạm vào bạn chưa?
(Suy niệm của Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
Tôi mới nghe tin một người quen bị ung thư. Tôi liền điện thoại hỏi thăm. Người bạn đó bảo: bác sĩ tây y – đông y đều bó tay rồi. Bây giờ trong người đau nhức lắm. Tôi chỉ mong ra đi sớm cho khỏi chịu sự đau đớn này. Tôi nói với người bạn: còn nước còn tát. Còn một hơi thở cũng đừng bỏ cuộc. Là người ky-tô hữu chúng ta còn có một phương dược diệu kỳ là cậy dựa vào quyền năng Chúa. Hãy cầu nguyện và bám chặt vào Ngài.
Dầu thế nào đi nữa, sinh bệnh lão tử là lẽ thường tình. Con người dường như bất lực với lẽ thường tình ấy. Dù Tần Thủy Hoàng có thuốc linh đan trường sinh rồi cũng chết. Dù văn minh khoa học tiến bộ rồi cũng bất lực trước những bệnh tật khổ đau của con người. Sự bế tắc trong sinh tử cho thấy con người không thể dựa vào khả năng của mình để thoát khỏi dòng sinh mệnh ấy. Con người đành ngậm ngùi tiếc thương cho nhau khi gặp hoạn nạn gian nan. Chúng ta vẫn thường nghe bác sĩ nói nhỏ với bệnh nhân hoặc người nhà bệnh nhân: “tôi rất tiếc vì không có thể làm gì hơn được nữa!”
Xem ra chỉ có Thiên Chúa mới có quyền trên mọi bệnh tật. Chỉ có Ngài mới cầm quyền sinh tử cho con người. Ông hội trưởng trong tin mừng thánh Marco có lẽ đã từng “vái tứ phương” để tìm thầy chạy thuốc cho đứa con cưng của mình. Nhưng đã hoàn toàn thất bại. Chỉ khi ông gặp được Chúa, đặt niềm tin nơi Chúa. Con gái ông mới được cứu. Niềm tin vào Chúa đã được bù đắp bằng ơn lành Chúa ban theo ý ông xin.
Thế nhưng, đôi khi chúng ta không khỏi thắc mắc băn khoăn. Tại sao Chúa nhận lời người này mà lại không nhận lời người kia? Tại sao giữa dòng đời có người vui và có người buồn? Có người khoẻ mạnh. Có người ốm đau. Có những người cả cuộc đời sống trong lụa là gấm vóc. Có những người lại cơ cực lầm than. Có người được yêu thương, có người bị khinh chê ruồng bỏ. Có người hạnh phúc, có người bất hạnh.
Phải chăng Thiên Chúa yêu thương người này và ghét bỏ người kia? Chắc chắn là không. Vì Thiên Chúa là Cha nhân từ. Ngài yêu thương mọi loài mà Ngài đã tạo dựng nên. Hoa cỏ đồng nội. Muôn thú muôn loài đều được Ngài chăm sóc huống chi con người. Sự dữ không phải do Thiên Chúa mang đến. Sự dữ là thế lực thù nghịch với Thiên Chúa. Ma qủy luôn tìm cách phá hủy công trình của Chúa. Trong đó công trình vĩ đại nhất mà Thiên Chúa đã làm nên, đó là tạo dựng con người giống hình ảnh Thiên Chúa. Chính vì điểm này mà Thiên Chúa luôn đòi hỏi con người dùng tự do để quy phục Thiên Chúa thay vì quay lưng lại với Ngài. Con người có tự do để hành xử. Theo Chúa để chống lại sự dữ, để sống vâng phục theo thánh ý Chúa. Khi con người sử dụng tự do để sống theo thánh ý Chúa là lúc con người chấp nhận những thử thách khó khăn trong cuộc đời, với một niềm tin vào Thiên Chúa tình yêu, Ngài sẽ không bao giờ bỏ rơi những ai trung tín theo Ngài.
Cuộc đời vẫn thường có những trái ngang. Dòng đời không thiếu những bất trắc xảy ra, khiến chúng ta dễ thất vọng về những gì đang diễn ra trong cuộc đời. Hãy tin tưởng vào Thiên Chúa. Hãy chạy đến cùng Thiên Chúa. Ngài sẽ không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Ngài sẽ làm những điều tốt đẹp nhất cho dân Ngài.
Ước gì chúng ta có đủ đức tin để chạy đến kêu cầu Chúa chữa lành khi gặp những tai ương hoạn nạn. Xin cho chúng ta luôn tín thác vào Chúa dẫu cuộc đời vẫn còn đó những phong ba gió bụi cuộc đời. Amen.
(Suy niệm của Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
Điều cao qúy nhất của con người không phải là của cải vật chất, là danh vọng, địa vị mà là tự do. Tự do để đi lại. Tự do để hành động mà không bị một thế lực nào khống chế hay kềm kẹp. Thế nên, có tự do là có hạnh phúc, ngược lại là đau khổ và bất hạnh.
Con người có thể mất tự do bởi đau ốm bệnh tật. Con người cũng có thể mất tự do bởi những đam mê tội lỗi. Đau ốm bệnh tật giam hãm con người phần xác. Đam mê tội lỗi giam hãm con người phần hồn. Tất cả đều làm cho con người đau khổ và thất vọng. Có những người đau khổ vì đau lâu ốm dài. Có những người đau khổ vì tai nạn hay mắc những căn bệnh hiểm nghèo. Có những người đau khổ vì lỡ nghiện ngập hay sa chân lỡ bước mà không thể tử bỏ và làm lại cuộc đời được. Tất cả những ai đang sống trong tình trạng này đều mong muốn được giải thoát, được cứu chữa. Họ đều cảm thấy mình bất lực với sự dữ đang hoành hành thân xác và tâm hồn mình. Họ cần một phép lạ có thể biến đổi tình trạng của họ nên tốt hơn.
Đó cũng là tâm trạng của ông Hội trưởng có con gái bị bệnh và của người phụ nữ bị bệnh băng huyết trong bài tin mừng hôm nay. Ông hội trưởng có lẽ đã từng đi “vái tứ phương” để tìm thầy chạy thuốc cho đứa con cưng của mình. Người phụ nữ có lẽ đã đi đến đường cùng, nên đánh liều xông thẳng vào Chúa, chỉ mong được chạm vào Chúa, với hy vọng nho nhỏ là được lành bệnh. Họ đã được toại nguyện. Người phụ nữ cảm thấy nhẹ mình. Không còn khổ sở vì căn bệnh đã kéo dài suốt 12 năm. Ông hội trưởng cảm thấy hạnh phúc vì đứa con đã ngồi dạy, ăn uống bình thường. Có lẽ họ rất vui vì được Chúa nhận lời họ. Niềm tin của họ vào Chúa đã được bù đắp bằng ơn lành Chúa ban cho họ. Họ đã được giải thoát khỏi đau khổ bằng sức mạnh và quyền năng của Chúa.
Thế nhưng, đôi khi chúng ta không khỏi thắc mắc băn khoăn. Tại sao Chúa nhận lời người này mà lại không nhận lời người kia? Tại sao giữa dòng đời có người vui và có người buồn? Có người khoẻ mạnh. Có người ốm đau. Có nhũng người cả cuộc đời sống trong lụa là gấm vóc. Có những người lại cơ cực lầm than. Có người được yêu thương, có người bị khinh chê ruồng bỏ. Có người hạnh phúc, có người bất hạnh. Phải chăng Thiên Chúa yêu thương ngừơi này và ghét bỏ người kia? Chắc chắn là không. Vì Thiên Chúa là Cha nhân từ. Ngài yêu thương mọi loài mà Ngài đã tạo dựng nên. Hoa cỏ đồng nội . Muôn thú muôn loài đều được Ngài chăm sóc huống chi con người. Sự dữ không phải do Thiên Chúa mang đến. Sự dữ là thế lực thù nghịch với Thiên Chúa. Ma qủy luôn tìm cách phá hủy công trình của Chúa. Trong đó công trình vĩ đại nhất mà Thiên Chúa đã làm nên, đó là tạo dựng con người giống hình ảnh Thiên Chúa. Chính vì điểm này mà Thiên Chúa luôn đòi hỏi con người dùng tự do để quy phục Thiên Chúa thay vì quay lưng lại với Ngài. Con người có tự do để hành xử. Theo Chúa để chống lại sự dữ, để sống vâng phục theo thánh ý Chúa. Khi con người sự dụng tự do để sống theo thánh ý Chúa là lúc con người chấp nhận những thử thách khó khăn trong cuộc đời, với một niềm tin vào Thiên Chúa tình yêu, Ngài sẽ không bao giờ bỏ rơi những ai trung tín theo Ngài.
Người ta kể rằng: có một thiếu phụ sống rất bi quan. Cô cảm thấy dường như Chúa đã bỏ rơi mình. Một lần kia, thiếu phụ đang đi trên đường và gặp một linh mục, sau câu chào hỏi, linh mục đã nói với thiếu phụ rằng: Cô có dám buông tay cho đứa bé rớt xuống đất không? Thiếu phụ nhìn linh mục với sự ngạc nhiên, không hiểu sao ngài lại nói như thế?
Linh mục nói tiếp: Nếu có ai trả cho cô một số tiền lớn để buông đứa bé cho rơi xuống đất, cô có chịu không? Thiếu phụ trả lời: Dù ai có cho tiền nhiều như sao trên trời tôi cũng không đời nào buông con tôi rơi xuống cách đau đớn như vậy.
Lúc ấy, linh mục ôn tồn bảo: Thiên Chúa là người cha nhân lành, Ngài sẽ không bao giờ để con cái Ngài rơi xuống hố thẳm của đau khổ đâu. Nghe lời đó, thiếu phụ bừng tỉnh, và dường như cô không còn bi quan trong cuộc sống nữa.
Cuộc đời vẫn thường có những trái ngang. Dòng đời không thiếu những bất trắc xảy ra, khiến chúng ta dễ thất vọng về những gì chúng ta đang có. Hãy tin tưởng vào Thiên Chúa. Hãy chạy đến cùng Thiên Chúa. Ngài sẽ không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Ngài sẽ làm những điều tốt đẹp nhất cho dân Ngài.
Nguyện xin Thiên Chúa luôn nâng đỡ trợ giúp chúng ta vượt qua khó khăn, thử thách và ban cho chúng ta một đức tin vững vàng, để chúng ta luôn tin rằng: Thiên Chúa là người Cha đầy nhân ái, bao dung, Ngài sẽ làm những điều tốt đẹp nhất cho cuộc đời của chúng ta. Amen.
(Suy niệm của PM. Cao Huy Hoàng)
“Tôi mà sờ vào được áo choàng của Người thôi, là sẽ được cứu chữa” (Mc 5,28)
Đó là xác tín của “người đàn bà bị băng huyết 12 năm khổ sở vì chạy thầy chạy thuốc, đến tán gia bại sản”. Và bà đã thực hiện điều bà đã xác tín.
Cái khẽ chạm của người đàn bà bị băng huyết, chỉ nơi gấu áo choàng của Chúa Giêsu, cũng đủ làm cho Người phát hiện một năng lực đang tiêu hao, đang xuất phát. Vì cái khẽ chạm ấy bắt nguồn từ một ước muốn ngay lành và niềm tin mãnh liệt.
Ước muốn ngay lành
Ước muốn ngay lành là ước muốn được trở nên tinh tuyền, không còn ô uế, không còn phải xấu hổ vì sự ô uế của mình trước mặt thiên hạ. Thánh Marcô cho biết “bao năm chạy thầy chạy thuốc đến tán gia bại sản” đủ cho thấy ước muốn ấy, đã đến mức thành khẩn biết bao! Một ước muốn ngay lành. Một khao khát chính đáng. Ước muốn sống động của một con người khôn ngoan không chấp nhận đầu hàng trước số phận nghiệt ngã. Khao khát cháy bỏng nhưng tế nhị biết người biết ta trong quan hệ tương giao vừa đủ. Bởi bà biết mình là ai, bà biết mình cần gì. Bà cũng biết Đức Giêsu là ai, và bà biết tránh cho Đức Giêsu khỏi bị lây nhiễm cái ô uế oan nghiệt của cuộc đời. Bà biết nghĩ đến Chúa Giêsu, biết giữ gìn cho danh giá Con Thiên Chúa. Từ ước muốn ngay lành và khôn ngoan của bà, đã điều phối mọi cử chỉ, theo với niềm tin mãnh liệt.
Niềm tin mãnh liệt
Niềm tin mãnh liệt là một khẳng định “có một không hai”- không ai khác ngoài Chúa Giêsu mới có thể cứu chữa bà: “Tôi mà sờ vào được áo choàng của Người thôi, là sẽ được cứu chữa”. Niềm tin ấy đơn sơ mộc mạc, không cầu kỳ, không vênh vang, nhưng âm thầm lặng lẽ. Niềm tin của người đau khổ. Niềm tin của người bé nhỏ, thấp kém. Niềm tin mãnh liệt nhưng thể hiện khiêm tốn: “bà lách qua đám đông, tiến đến phía sau Người và sờ vào áo choàng của Người”. Giữa một đám đông chen lấn như thế, thì việc đụng chạm vào Chúa Giêsu là điều không tránh khỏi. Có biết bao nhiêu cái chạm vào Chúa Giêsu , nhưng chỉ có cái khẽ chạm phát xuất từ niềm tin và khao khát hoàn thiện của bà băng huyết ấy, mới có sức làm tiêu hao năng lực Chúa Giêsu mà thôi, mới có sức lôi kéo sự sống, sự toàn thiện của Chúa Giêsu về làm sự sống, sự toàn thiện cho mình.
Còn chúng ta? Trong số những người chen lấn, đụng chạm vào Chúa Giêsu có cả tôi và bạn đấy chứ? Có cả chúng ta? Có cả những người đương thời, đương chung sống với chúng ta đấy chứ? Có cả những người mang danh là tín hữu, có cả những người vô thần… Nhưng có năng lực nào đã xuất phát từ Đức Giêsu về phía chúng ta không? Sự sống và sự toàn thiện của Ngài sao không xuất phát ra để chúng ta khỏi trầm mình trong bóng tối sự chết, trong cõi mê lầm, lung lạc?
Hẳn là vì chúng ta đang chen lấn, đụng chạm vào Chúa Giêsu để ghi tên vào danh sách những người đi theo Chúa Giêsu mà không hề có một ước muốn hoàn thiện, một đức tin được chữa lành. Hoặc có người đang đụng chạm vào Chúa Giêsu như một xúc phạm để làm cho danh giá của Ngài bị vùi dập trước mặt người đời.
Nếu chúng ta không thực sự khẽ chạm vào Chúa Giêsu với niềm tin mãnh liệt để chính mình được nên toàn thiện với Ngài, thì việc rao giảng về Chúa Giêsu Kitô, việc dạy giáo lý về Chúa Giêsu Kitô, cũng không khác gì việc truyền bá một mớ vốn liếng kiến thức của các kinh sư ngày ấy. Càng không thể lay chuyển hay mời gọi ai đến chạm vào Chúa Giêsu khi căn bệnh trầm kha trong đời mình chưa chữa khỏi: căn bệnh “không ước muốn hoàn thiện”.
Sự cần thiết của ước muốn hoàn thiện…
Ôi sự cần thiết của ước muốn hoàn thiện đang trở nên cấp bách dường nào trong tình thế, trong môi trường truyền giáo của chúng ta hôm nay.
Chúng ta đang sống trong một đất nước xã hội chủ nghĩa với những người cộng sản vô thần. Họ đang mang căn bệnh trầm kha “không ước muốn hoàn thiện” theo ý của Thiên Chúa. Và tư tưởng ấy, căn bệnh ấy, đang là một chủ trương cuốn hút nhiều người sa đà theo cách sống hoàn thiện vật chất “ăn ngon, mặc đẹp” là đủ ý nghĩa cuộc đời!
Thách thức mới trong thời đại chúng ta là chúng ta phải thực sự trở nên toàn thiện nhờ múc lấy năng lực của Chúa Giêsu mới có thể thực hiện ước mơ biến đổi não trạng của những người vô thần. Họ là bà con, là anh em, là đồng bào của chúng ta. Họ cũng được sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Việt Nam thân yêu thắm đẫm máu các thánh Tử Vì Đạo. Họ cũng là những công trình thượng đẳng của Thiên Chúa. Tiếc là, họ không tin nhận Thiên Chúa. Và vì không có «đấng trên đầu trên cổ» nên họ đã sa vào bao lầm lạc. Người công giáo Việt Nam, không xem họ là kẻ thù. Kẻ thù chính yếu là những lầm lạc của satan trong lòng họ. «Kẻ thù ta đâu có phải là người. Giết người đi thì ta ở với ai. Kẻ thù ta tên nó là gian ác…» (Phạm Duy).
Trong những ngày nầy, có thể đang có những giằng xé tận thâm tâm của những người cộng sản nắm giữ vận mạng đất nước, về sự tồn vong của tổ quốc của dân tộc Việt nam! Người công giáo Việt Nam khắp nơi đang thắp nến cầu nguyện công khai, đang âm thầm cầu nguyện nơi các nhà thờ, các gia đình, cầu cho giới lãnh đạo khôn ngoan nhận ra con đường phải đi, việc phải làm vì lợi ích chung cho dân tộc; cầu cho họ «có ước muốn hoàn thiện» để sửa chữa khẩn cấp những chủ trương có thể nguy hại cho vận mệnh đất nước. Việc đạo đức ấy, chính là việc làm phát xuất từ Ước Muốn Hoàn Thiện và Đức Tin Mãnh Liệt của «bà băng huyết 12 năm khổ sở chạy thầy chạy thuốc đến tán gia bại sản». Việc đạo đức ấy chính là việc khẽ chạm vào gấu áo Chúa Giêsu, với lòng tin Ngài sẽ tuôn sức sống nơi Ngài xuống cho mình và cho cả cộng đồng dân tộc
Và việc cần làm ngay là mỗi người phải nhận ra mình đang lâm trọng bệnh, cần có ước muốn hoàn thiện nhờ lòng tin mãnh liệt vào Chúa Giêsu, Đấng duy nhất có thể, không chỉ cứu chữa mà còn tuôn tràn sức sống, sự toàn thiện của Ngài để chúng ta có sức chu toàn ơn gọi yêu thương và giới thiệu Chúa cho mọi người. Một cái khẽ chạm vào chân lý, sẽ ngộ ra ngay mình lầm lạc bấy nay…
Lạy Chúa Giêsu, không cần phải báo cáo, Chúa cũng đang biết có bao nhiêu người Việt Nam đang thành tâm khẽ chạm vào gấu áo Ngài… Xin tuôn tràn sức sống của Chúa cho chúng con. Amen.
Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay đã ghi lại hai mẫu gương đức tin sáng chói.
Trước hết là ông Giairô,
Ông đến với Chúa để van nài Ngài: Lạy Thầy, đứa con tôi sắp chết, xin Ngài hãy tới. Khi người ta báo tin đứa bé đã chết, Chúa Giêsu liền bảo ông: Đừng sợ, nhưng hãy tin. Tiếp đến là người đàn bà mắc bệnh loạn huyết. Bà từ phía sau, đến gần Chúa và tự nhủ: Nếu tôi chạm tới gấu áo Ngài thì tôi sẽ được khỏi. Ước gì mỗi khi lên rước lễ, chúng ta cũng có được một đức tin như thế, khi miệng lưỡi chúng ta chạm tới Mình Máu Thánh Chúa.
Qua đức tin, Phúc Âm cũng dạy cho chúng ta một bài học về đức cậy. Thực vậy, đứa con gái đã chết và người ta cười nhạo Chúa. Thế nhưng Ngài điềm nhiên nói: Đứa bé không chết đâu, nó ngủ đấy. Cũng vậy, khi thân xác Lagiarô bắt đầu rữa thối, nhưng Ngài muốn cho ông ta được sống lại, thì liền nói: Bạn Lagiarô của Ta đang ngủ.
Thực vậy, Đức Kitô, qua cái chết và sống lại, đã giải phóng chúng ta khỏi cái chết. đôn đốc tin vào Đức Kitô cũng có nghĩa là hy vọng Ngài sẽ cho chúng ta được sống lại. Thế nhưng tin có khó hay không? Cha Thomas có viết như sau: Vấn đề gai góc ngày hôm nay, không phải là vấn đề Giáo Hội có bị lung lay chăng, nhưng là vấn đề đức tin của chúng ta hôm nay gặp quá nhiều chướng ngại, nào là văn minh vật chất, nào là óc thực nghiệm và duy khoa học, sợ dấn thân và thích yên ổn. Trong khi đức tin đòi hỏi chúng ta phải dấn thân, phải phó thác, phải hy sinh. Tin đồng nghĩa với bị quên lãng, bị bách hại và phải chấp nhận hy sinh. Tóm lại, tin là phải sống chính thân phận của Đức Kitô, là Thiên Chúa Ngài đã hạ mình xuống, mặc thân phận tôi đòi, đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá. Là Thiên Chúa Ngài đã chấp nhận thân phận tội nhân, để con người tội lỗi chúng ta được gọi là con Thiên Chúa.
Ngoài ra, tin còn là hiệp thông với Giáo Hội bởi vì Giáo Hội gắn liền với Đức Kitô, cùng thao thức với Giáo Hội trước những vấn đề của thế giới hôm nay. Cùng đau khổ vì những chống đối, những sai phạm và những khinh khi của kẻ khác đối với truyền thống xã hội.
Vậy niềm tin đem lại ích gì? Tôi xin thưa đó là sự an bình đích thực cho tâm hồn. Trong một cuộc động đất kinh hoàng, mọi người đều lo sợ, tuy nhiên có bà cụ vẫn bình tĩnh chăm sóc cho những nạn nhân, mặc dầu nhà cửa của bà cũng đã bị sụp đổ. Người ta hỏi thì bà trả lời: Tôi chẳng bao giờ phải sợ hãi vì tôi tin rằng Thiên Chúa là Cha tôi và Ngài có thể lay chuyển cả trời lẫn đất với tình yêu thương của Ngài.
Chính vì thế, chúng ta hãy kêu lên như các tông đồ ngày xưa: Lạy Chúa, xin hãy củng cố niềm tin bé nhỏ của chúng con.
(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)
Thánh Máccô tường thuật một loạt các phép lạ của Chúa Giêsu; và hôm nay, Giáo Hội mời gọi chúng ta dừng lại nơi hai phép lạ cả thể này, hai phép lạ mang nhiều ý nghĩa: một người được lành bệnh nan y và một người chết sống lại.
Chúa Giêsu vẫn là con người của đám đông. Ngài thuộc về họ. Đi đến đâu cũng bị bao vây. Đang lúc bận bịu với đám đông, một ông trưởng Hội Đường đến gặp. Thánh Máccô ghi rõ thái độ của ông: ông sụp lạy dưới chân Ngài. Một ông trưởng Hội Đường, một người danh giá trước mặt dân chúng, thế mà ông quì sụp xuống dưới chân Ngài. Thật khiêm tốn và khẩn thiết! Vì ông đã đến đường cùng và ông nhìn Chúa Giêsu như một Đấng có thể giúp ông vượt qua cơn ngặt nghèo. Ông chỉ có một đứa con gái duy nhất. Giàu có như ông, chắc không thiếu gì thầy thuốc, nhưng tình trạng của con ông gần như tuyệt vọng. Ông chỉ còn cậy trông vào “ông Giêsu” mà ông đã từng nghe nói tới.
Chúa Giêsu nhận lời ông ngay và cùng đi với ông. Đám đông vẫn đi theo, chen lấn. Nhưng dọc đường, một người đàn bà bị băng huyết đã đến, âm thầm lách qua đám đông, sờ vào áo Ngài. Bà nghĩ rằng: nếu có thể động vào áo Ngài chắc bà sẽ khỏi bệnh. Tình trạng của bà cũng gần như tuyệt vọng. Bà đã chạy thầy chạy thuốc suốt bao nhiêu năm, nhưng bệnh tình càng ngày càng trầm trọng hơn. Chỉ còn một tia hy vọng cuối cùng là “ông Giêsu.”
Tại sao bà không đi đến với Ngài trực tiếp xin Ngài chữa cho?
Theo luật Do thái, những bệnh như bà là những bệnh ô uế, không được phép ra khỏi nhà và đụng vào ai người ấy bị ô uế. Làm sao bà có thể đường đột đến xin Ngài chữa bệnh? Vì thế bà lén lút lách qua đám đông để tìm cách chạm vào áo Ngài thôi. Niềm tin của bà mang một chút mê tín, nhưng là một niềm tin thành thật và mãnh liệt.
Bà đã thành công. Bà đã động được áo Ngài và bà đã được lành bệnh. Nhưng Chúa Giêsu biết mọi sự, Ngài dừng lại và hỏi: “Ai đã động vào áo Ta?” Các môn đệ bảo: “Thầy xem người ta chen lấn Thầy thế này mà Thầy còn hỏi ai động vào Thầy!” Chúa Giêsu khẳng định: “Có người động vào Ta”. Có điều gì quan trọng đã xảy ra khiến Ngài chú ý. Ngài rảo mắt tìm quanh. Người đàn bà run lên vì thấy mình bị bại lộ. Mình là một người ô uế! Mình đã làm một điều trái Luật! Bà quì xuống dưới chân Ngài và thú tội. Nhưng trái với ý nghĩ của bà, không những không bị quở trách và đuổi xua, bà lại nghe một lời dịu ngọt, đầy an ủi: “Nầy con, lòng tin của con đã cứu lấy con.. Hãy về và khỏi hẳn bệnh”. Chúng ta nghĩ, người đàn bà đó sẽ vui mừng như thế nào! Đó là phần thưởng của niềm tin chân thật.
Chúng ta vào tòa giải tội. Có những người sợ sệt, run rẫy, nhưng khi đã xưng thú tội lỗi đã nhận được sự bình an đến nỗi reo lên: “Ô! Tôi nhẹ như cất cả một khối sắt trong tâm hồn! Hồng ân của lòng tin thành thật là sự bình an. Chúa Giêsu vẫn chờ đón chúng ta khi chúng ta gần như thất vọng. Ông Giai-ia và bà băng huyết đã đi đến mức tuyệt vọng như thế và đã không hối tiếc. Chúa Giêsu muốn cho mọi người thấy lòng tin của người đàn bà băng huyết và hồng ân Ngài ban tặng. Ngài có thể làm như không hay biết, nhưng Ngài muốn cho mọi người thấy kết quả của lòng tin.
Ngài tiếp tục đi tiếp về nhà ông Giai-ia, nhưng một biến cố mới xảy đến. Người nhà ông trưởng Hội đường cho hay: “Em bé đã qua đời, đừng phiền Thầy nữa”. Chúng ta nghĩ ông Giai-ia sẽ như thế nào khi nghe tin đó? Tất cả niềm hy vọng của ông phụt tắt. Ông òa lên khóc. Chúa Giêsu bảo: “Đừng sợ. Tin thôi!” Và Ngài tiếp tục cuộc hành trình. Giữa bao nhiêu thử thách cam go của cuộc sống, nhiều khi chúng ta nản lòng, mất phương hướng. Chúa Giêsu chỉ bảo chúng ta một điều: tin thôi.
Chúng ta dám tin, Chúa dám làm. Nhưng ngược lại, nếu chúng ta kém tin, Chúa không thể hoạt động. Điều kiện tiên quyết để Chúa hành động chính là niềm tin của chúng ta. Ngay khi chúng ta ở trong những tình trạng bế tắc nhứt, Chúa vẫn chờ đợi chúng ta tin vào Ngài: “Thầy đây! Đừng sợ!”
Đến nhà ông Giaia, người ta đang khóc lóc ồn ào và đợi ông về để quấn khăn liệm cho em bé. Chúa Giêsu bước vào, Ngài nói ngay: “Sao lại khóc ồn ào như thế? Em bé nầy có chết đâu, nó ngủ đó”. Ai cũng cười nhạo Ngài, và cho Ngài là một tên “xạo” nào đó. Đứa bé đã chết cóng rồi mà ông nói nó ngủ! Thật là buồn cười! Chúa Giêsu làm như cố tình để cho người ta nhạo cười để rồi Ngài cho họ thấy uy quyền của Thiên Chúa.
Ngài bảo mọi người ra khỏi nhà, trả lại sự yên tĩnh cho căn nhà. Ngài chỉ cho ba môn đệ là Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo vào nhà và đến trước nơi em bé đang nằm. Ngài cầm tay em bé và gọi: “Em bé, dậy đi con”. Thế là em bé ngồi dậy…như vừa tỉnh giấc. Những người cười nhạo đâu rồi? Giờ nầy họ mới sáng mắt ra và ngỡ ngàng.
Lòng tin của ông trưởng Hội đường được ân thưởng. Chúng ta thử tưởng tượng nỗi vui mừng của ông và gia nhân của ông. Niềm vui đột ngột đến nỗi không ai có thể hiểu được. Nếu chúng ta có mặt ở đó, chúng ta sẽ nghĩ sao? Có thể nói, chúng ta cũng như những người đang có mặt đó thôi. Ngỡ ngàng và thán phục. Chưa từng thấy ai làm được một việc cả thể như thế! Vậy ông Giêsu nầy là ai? Sao ông có thể làm được một việc kỳ diệu như thế? Nó là kết quả của niềm tin và lòng khiêm tốn. Chúa Giêsu thường nói đến niềm tin và đòi buộc những người đến với Ngài một niềm tin không sứt mẻ. Anh mù ở Giêrikhô, bà góa Xyrô-Phênixi có đứa con gái bị quỉ ám, người đàn ông có đứa con trai bị quỉ ám…đều là những người đã tin vào Chúa vô điều kiện.
Chính Ngài cũng bảo chúng ta: “Nếu đức tin chúng con bằng hạt cải thôi, chúng con cũng có thể chuyển núi dời non”. Thế nhưng chúng ta có ai đã làm được? Tại sao? Chúa nói sai hay sao? Không! Chỉ vì chúng ta kém tin. Niềm tin của chúng ta còn quá xanh xao, không đủ sức mang lại hiệu quả. Chúng ta luôn tưởng rằng chúng ta đã tin vững vàng, nhưng trong thực tế, cần phải xét lại…
Chúng ta đã cố gắng rất nhiều, đã dùng mọi phương tiện tối tân, đã đổ bao công sức để truyền giáo, kết quả như thế nào? Chẳng được bao nhiêu như các môn đệ xưa chài lưới suốt đêm mà không được con cá nào. Vì người ta cứng tin hay vì chính chúng ta cũng không tin? Hay chúng ta chỉ làm việc mà không cần đến Chúa? Chúng ta chỉ tin vào khả năng và phương tiện của chúng ta?
Khi chúng ta nhận thấy được rằng chúng ta không là gì cả, chúng ta hoàn toàn bất lực; Lúc ấy, chúng ta mới chạy đến sấp mình dưới chân Chúa để nói rằng: xin Thầy đến giúp chúng con, vì chúng con không thể làm gì mà không có Thầy. Đa số chúng ta đều mang một thứ bệnh không ai chữa được là bệnh tự phụ. Ai cũng muốn cho cái tôi nổi cộm lên, và như thế, Chúa Giêsu nhỏ lại. Chúng ta che lấp Chúa vì chúng ta lớn quá, che cả mặt trời.
Chúa Giêsu ngược lại, Ngài trở nên nhỏ bé, đến nỗi người ta không thấy Ngài mà chỉ thấy ông thợ mộc Nadaret, con ông Giuse. Ngài nhỏ bé đến nỗi chỉ còn là một tấm bánh và chúng ta nuốt vào trong mình mà không hay. Chúng ta khác Chúa như thế làm sao chúng ta làm công việc của Ngài được? Người đàn bà mắc bệnh băng huyết, và ông trưởng Hội đường đã dạy chúng ta bài học về sự khiêm tốn. Chúa Giêsu cũng dạy chúng ta một bài học duy nhất đó thôi: “Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhượng”. Sự khôn ngoan nằm trong sự khiêm tốn. Thành công vĩ đại không phải là làm những việc to tác mà làm việc cho Chúa tôi, không cầu vinh, không ham mê kết quả thấy được. Chính Chúa mới làm cho con người khỏi bệnh hay sống lại. Chính Chúa mới cầm tay chúng ta kéo chúng ta đứng dậy và cho chúng ta ăn, như em bé kia.
Nầy đây, bàn tiệc của Chúa đang chờ chúng ta đến tham dự. Hãy đến với niềm tin chân thành và khiêm tốn, chúng ta sẽ thấy được quyền năng của Đấng là sự thật và là sự sống.
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)
Tin Mừng Mc 5: 21-24.35-43 Tin khi đời sống yên ổn, thuận buồm xuôi gió thì chưa phải là một đức tin đích thực. Đức tin phải được tôi luyện trong đau khổ. Trong gian nan thử thách mà vẫn kiên trì, thì đức tin ấy mới có thể làm nên những phép lạ.
Chúa Giêsu nói với ông Trưởng Hội Đường: “Đừng sợ, hãy cứ tin”. Câu chuyện trong Tin Mừng cho chúng ta biết đôi điều về ông Trưởng Hội Đường này. Ông là Chủ Tịch Ban Quản Trị Hội Đường và là Chủ Tịch Hội Đồng Kỳ Mục và có trách nhiệm điều hành mọi công việc trong Hội Đường. Ông có trách nhiệm trong việc chỉ đạo các buổi hội họp, có trách nhiệm phân phối công việc và xem xét mọi việc thực hiện cho đúng như luật định. Ông là nhân vật quan trọng trong cộng đồng, nhưng khi con gái ông ngã bệnh, ông nghĩ ngay đến Chúa Giêsu.
Ông đã quên đi các thành kiến. Trước kia có thể ông đã coi Chúa Giêsu như một người xa lạ, một người giảng tà giáo, bị các hội đường cấm cửa, một người mà bất luận người nào coi trọng chính thống giáo cũng phải xa tránh. Ông quên đi vị thế của mình. Ông là Trưởng Hội Đường đầy quyền lực thế mà lại đến hạ mình dưới chân Đức Giêsu.
Còn một điều lạ lùng nữa là ông đã đích thân đến với Chúa Giêsu chứ không sai người nhà đi. Có lẽ sở dĩ ông ta phải đi vì không còn ai chịu đi. Người nhà ông đều tỏ ra nghi ngờ và bảo ông rằng đừng đi tìm ông Giêsu làm gì cho mất công. Theo tinh thần câu chuyện, nếu ông không đi tìm Chúa Giêsu để xin Ngài giúp đỡ, họ còn hài lòng hơn, nhưng ông đã bất chấp dư luận và thách đố cả những lời khuyên bảo của người nhà khi ông ta đến kêu cầu Chúa Giêsu.
Ông đã đến với Chúa Giêsu và Chúa Giêsu cùng đi với ông … nhưng đang khi đi đường thì có người nhà đến báo: “Con gái ông chết rồi, còn làm phiền Thầy làm chi nữa!” Nhưng Chúa Giêsu bảo ông: “Đừng sợ, hãy cứ tin”…chính nhờ lòng tin mà ông đã được một điều ngoài cả sự mong ước của mình.
“Đừng sợ, hãy cứ tin”… thế là đứa bé được sống lại. Một người chết rồi mà Chúa còn cho sống lại, phương chi làm cho một người bệnh, dù bệnh nặng như người phụ nữ bị loạn huyết 12 năm thì có gì là khó đối với Chúa Giêsu.
Chúng ta trở lại diễn tiến của câu chuyện: Theo luật Do Thái, người nào mắc chứng bệnh này thì đương nhiên bị liệt vào hàng ô uế, cho nên không được vào Đền Thờ, không được tham dự các lễ nghi phụng tự, và cũng không được đụng tới ai vì hễ ai mà bị người ô uế đụng phải thì cũng trở thành người ô uế luôn.
Trong đau khổ, bà đã nảy ra một ý tưởng táo bạo là tìm cách đụng vào gấu áo Đức Giêsu. Ý định này táo bạo ở chỗ là việc đó trái lề luật, và cũng chẳng ai chịu cho bà ta đụng vào mình vì sợ bị lây nhiễm sự ô uế, vì thế mà bà ta phải làm một cách lén lút. Dù vậy Đức Giêsu vẫn biết.
Khi Đức Giêsu hỏi “Ai đã đụng đến ta?” thì bà ta sợ hãi vì thấy việc làm của mình đã bị bại lộ. Nhưng bà ta ngạc nhiên hết sức vì Đức Giêsu không hề quở trách, trái lại đã chữa bà khỏi bệnh, và còn an ủi bà “con hãy đi bình an”.
Chúa chỉ cần đức tin. Đức tin của ông Trưởng Hội Đường: “Đừng sợ, hãy cứ tin”. Chúa chỉ cần đức tin, một đức tin vững mạnh của người phụ nữ bị bệnh loạn huyết: “Hỡi con, đức tin của con đã chữa con, hãy về bình an”.
Qua thái độ của người phụ nữ bị bệnh loạn huyết và của ông Trưởng Hội Đường Giairô, ta thử nhìn lại đức tin của chúng ta xem như thế nào. Tin khi đời sống yên ổn, thuận buồm xuôi gió thì chưa phải là một đức tin đích thực. Đức tin phải được tôi luyện trong đau khổ. Trong gian nan thử thách mà vẫn kiên trì, thì đức tin ấy mới có thể làm nên những phép lạ.
Cuộc đời của chúng ta không bao giờ hết đau khổ. Chúng ta có thể cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa ngay trong đau khổ. Sự hiện diện của Thiên Chúa không nhất thiết lấy đi đau khổ, nhưng là cho chúng ta một năng lực để chuyển hoá đau khổ như ông Francois Mauriac đã phát biểu:”Ngài đến không phải để cất đi sự đau khổ mà để hiện diện với đau khổ”. Nghĩa là Thiên Chúa đến ban đức tin cho chúng ta để chúng ta biết chịu đựng đau khổ, biết chuyển hoá đau khổ, biến nó thành phương tiện để đạt tới ơn cứu độ. Bằng không thì chúng ta chịu đau khổ một cách vô ích và những đau khổ trở nên vô nghĩa.
Những ai không có đức tin thì gặp nhiều bất lợi trước đau khổ. Họ chịu đựng đau khổ gấp ba lần: họ phải chịu đựng bệnh tật, họ phải chịu đựng sự vô nghĩa của bệnh tật và phải chịu đựng đau khổ vì cuộc sống của họ bị ngưng trệ. Trái lại, đối với những người có đức tin thì đau khổ lại là một cơ hội để đức tin lớn mạnh và trưởng thành hơn.
Trường hợp của người phụ nữ bị loạn huyết và của ông Trưởng Hội Đường, cả hai hầu như bị dồn vào đường cùng, nhưng đường cùng có thể làm chúng ta tuyệt vọng nhưng đường cùng cũng có thể là một cơ hội làm cho đức tin của chúng ta nên mạnh mẽ như trong bài Tin Mừng hôm nay: Chúa chỉ cần đức tin, đức tin của ông Trưởng Hội Đường: “Đừng sợ, hãy cứ tin”. Chúa chỉ cần đức tin, một đức tin vững mạnh của người phụ nữ bị bệnh loạn huyết: “Hỡi con, đức tin của con đã chữa con, hãy về bình an”. Amen.
Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay được chia thành hai màn nhưng cùng chung một khung cảnh, đó là bên bờ hồ với đông đảo dân chúng.
Màn thứ nhất đó là ông chủ hội đường đến, phủ phục dưới chân Chúa mà van xin: Lạy Thầy, con bé nhà tôi gần chết xin Ngài đến đặt tay lên cháu để cháu được qua khỏi và được sống. Trước một nguy cơ đang đe doạ nghiêm trọng sự sống của con gái ông, ông đã khước từ hy vọng vào loài người để chỉ trọn vẹn tin vào Đức Kitô. Thế nhưng, cái tin đau đớn về cái chết của cô bé ập xuống trên đầu ông. Tức khắc Chúa Giêsu an ủi ông: Đừng sợ, chỉ cần tin mà thôi. Điều ông xin lúc mới gặp Chúa Giêsu thì bây giờ đã bị vượt qua. Có lẽ nhờ đó mà ông có được một niềm tin lớn hơn, đúng như Chúa Giêsu đã mời ông thực hiện. Ngài đem ba môn đệ thân tình nhất cùng với cha mẹ cô bé ra riêng mà nói với họ: Con bé không chết đâu, nó ngủ đấy, trong khi đó đám đông cười nhạo Ngài. Là người Kitô hữu hôm nay chúng ta hiểu được ý nghĩa sâu xa của câu nói đó. Khi Chúa Giêsu đến thì cái chết không còn là cái chết, mà đó chỉ là giấc ngủ. Xuyên qua niềm tin của Giairô, chúng ta thấy thấp thoáng niềm tin của ông vào Đấng sẽ làm cho kẻ chết sống lại.
Đang khi Chúa Giêsu gặp ông Giairô thì một người đàn bà đến từ phía sau và lén động tới gấu áo của Ngài. Lén, là bởi vì bà ta đang trong tình trạng ô uế, vì bị băng huyết. Ở đây, chúng ta thấy nổi bật lên hai nét: Một thứ tín ngưỡng tin vào sức mạnh thể lý nào đó của người làm phép lạ và quyền năng của Đức Kitô trước thất bại của các lương y khác. Hai ghi nhận đó được diễn tả trong câu: Tức khắc máu cầm lại và bà cảm thấy trong mình đã được khỏi bệnh. Đó là niềm tin dưới dạng thức sơ khai của người đàn bà được một thứ tính toán vụ lợi hướng dẫn, nhưng cuối cùng đã được toại nguyện, với cái giá phải trả là chạm mặt với Đức Kitô. Nhưng đó mới là màn một, còn màn hai thì như thế nào.
Màn hai này mang lại cho câu chuyện một tầm vóc khác xa những gì đã diễn ra trước đó. Bởi vì Đức Kitô muốn con người đã lén động đến Ngài vượt ra khỏi cảnh vô danh. Ngài bắt bà ta phải tự giới thiệu công khai và cùng bà ta đi vào một quan hệ cá nhân, một cuộc trực diện có thể soi sang chúng ta. Khi đó, bà ấy đã trình bày sự thật và khi nhấn mạnh tới niềm tin của bà, Chúa Giêsu cho bà ta lui về bình an: Này con, đức tin của con đã chữa con, con hãy đi bình an và khỏi bệnh. Từ một niềm tin sơ khai, người đàn bà đã bước sang một niềm tin trọn vẹn, mang sâu đậm một mối quan hệ của bà với Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế. Và ông Giairô đã trông thấy điều đó khi ông đứng cạnh Chúa Giêsu, cho nên chúng ta dễ hiểu tại sao chính ông cũng đã đạt được đức tin trọn vẹn như chúng ta vừa mới chứng kiến ở trên.
Hãy tự hỏi xem coi long chai đá của chúng ta có thể đi từ sợ sệt đến đức tin, có thể vượt qua mọi e dè để từ từ khai mở cho một đức tin đầy tin tưởng hay không?
Sợ hãi có lẽ là tâm trạng chung của con người, ngày xưa cũng như hôm nay. Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, chúng ta thấy: Trong khi các môn đệ và Chúa Giêsu vượt biển, thì bỗng dưng cuồng phong nổi lên, sóng gió ập vào đến nỗi thuyền đầy nước và sắp chìm. Các môn đệ ra sức chèo chống và tát nước, còn Chúa Giêsu vẫn đang ngủ say. Các ông sợ hãi đánh thức Ngài dậy. Chỉ với một lời đầy quyền năng: Hãy im đi, hãy lặng đi. Lập tức sóng liền yên, biển liền lặng và các ông đem thuyền vào bến bình an.
Với chúng ta cũng vậy, cuộc đời người Kitô hữu nói riêng, hay Giáo Hội nói chung, vẫn không thiếu những sóng to và gió lớn. Nó làm cho con thuyền cuộc đời chúng ta bị chao đảo và dường như muốn chìm xuống đáy nước. Trong những giờ phút đen tối, chúng ta hãy nhớ lại lời Chúa Giêsu: Đừng sợ.
Đây cũng là lời Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, Đấng kế vị thánh Phêrô, đã lặp lại để động viên chúng ta, ngay từ những ngày đầu lãnh nhận sứ vụ thay mặt Chúa ở trần gian. Và từ đó, Đức Thánh Cha đã không mệt mỏi lặp lại lời này. Nó có giá trị trấn an thế giới đang sẵn sàng bước vào ngàn năm thứ ba.
Tại sao lại đừng sợ? Vì bên trên chiến tranh, tàn khốc, bên trên những xung khắc kinh tế và xã hội, bên trên tính bất khoan dung và sự nghèo đói mà nhân loại đang phải gánh chịu, còn có Tin Mừng mang lại sự sống và sự bình an. Đó chính là nguồn hy vọng cho thế giới ngày mai. Tuy nhiên bản thân chúng ta cần phải làm gì để không còn sợ hãi?
Trước hết chúng ta phải biết làm chủ cảm xúc của mình. Thực vậy, cây cỏ tuỳ vào thời tiết để sinh trưởng, nhưng chúng ta thì khác, chúng ta phải tạo ra thời tiết chung quanh chúng ta. Trong giao tiếp hằng ngày, nếu chúng ta chỉ đem đến mưa bão, gió lạnh và bóng tối, thì những người chung quanh chúng ta cũng sẽ đáp trả lại bằng những mưa bão, gió lạnh và bóng tối. Trái lại, nếu chúng ta đem đến cho họ niềm vui, tiếng cười, lòng hăng say và ánh nắng rực rỡ, thì sọ sẽ phản ứng với niềm vui mừng và hy vọng chan chứa. Cái thời tiết chúng ta đã tạo ra sẽ mang đến cho chúng ta một mùa gặt sung mãn. Gieo gì thì gặt nấy. Nếu chúng ta gieo rắc sự bình an, thì chúng ta cũng sẽ gặt lấy được sự bình an và chúng ta sẽ không còn phải sợ hãi.
Tiếp đến, chúng ta phải xây dựng cuộc đời chúng ta trên nền tảng đức tin. Bởi vì đức tin luôn chiến thắng sợ hãi, đức tin là một sức mạnh mà nỗi sợ hãi không thể nào chống đỡ được. Nếu cõi lòng chúng ta chất đầy niềm tin, thì chắc chắn sẽ không còn chỗ cho sợ hãi nữa. Và như thế, chúng ta chỉ còn một nỗi lo sợ duy nhất đó là lo sợ không mến Chúa và yêu người cho đủ mà thôi.
(Suy niệm của Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
- DẪN NHẬP
Sách Thánh dạy chúng ta:”Thiên Chúa đã tạo dựng con người giống hình ảnh Ngài” để con người được tham dự vào sự sống vĩnh cửu, nhưng chương trình ấy đã bị phá vỡ bởi tội lỗi con người, và từ đó sự chết đã nhập vào thế gian, khiến con người phải chết (Kn 1,13-15). Ngoài ra, con người còn phải chịu nhiều đau khổ như bệnh tật, thiên tai, hận thù, chiến tranh, chém giết nhau… Chúng rình rập chúng ta như săn đuổi con mồi, hòng chộp bắt chúng ta, đánh qụy chúng ta và sớm đẩy chúng ta xuống mồ.
Nhưng sách Khôn ngoan hôm nay dạy chúng ta:”Thiên Chúa không tạo dựng sự chết, chẳng vui mừng khi kẻ sống phải chết”(Kn 1,13). Ngài muốn cứu sống chúng ta, đem lại hạnh phúc và bình an cho chúng ta. Vì thế, nếu chúng ta biết tin tưởng và kêu cầu Ngài thì được Ngài cứu sống (Đáp ca:Tv 29).
Chúa sẽ nghe lời chúng ta kêu cầu nhưng đòi hỏi chúng ta phải đặt hết niềm tin vào Ngài và cộng tác với ơn Ngài theo gương người đàn bà băng huyết và ông trưởng hội đường Giairô trong bài Tin mừng hôm nay. Ngoài ra, chúng ta cần có thái độ tích cực và khôn ngoan trước những đau khổ, trước những gian nan thử thách mà Chúa gửi đến cho chúng ta:”Ông đừng sợ, hãy vững tin”(Mc 5,36).
- TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: Kn 1,13-15; 2,23-24.
Sách Khôn ngoan được soạn vào khoảng thế kỷ I trước công nguyên. Tác giả là một người rất ư lạc quan. Dưới con mắt của ông, Tạo hoá mong muốn mọi sự tồn tại và danh dự của Ngài không cho phép cái chết thắng sự sống. Mọi sự có lẽ sẽ hài hoà nếu tội lỗi không xen vào chương trình sáng tạo để làm nó bị lạc hướng và dẫn nó đến cái chết, bởi vì con người được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa, để cho loài người được sống vĩnh viễn.
Để giải quyết vấn đề do cái chết đặt ra, tác giả bèn liên kết cái chết thể xác với cái chết tinh thần: sở dĩ có sự chết là do tội lỗi mà ra. Tuy nhiên, cái chết thể xác nằm trong viễn tượng Phục sinh, vì nó sẽ khai mở tới sự sống đời đời.
+ Bài đọc 2: 2Cr 8,7-9.13-15.
Lúc ấy cộng đoàn Giêrusalem đang gặp nạn đói, thánh Phaolô đang tổ chức một cuộc lạc quyên để giúp đỡ cộng đoàn này. Để thuyết phục tín hữu tích cực tham gia đóng góp, Ngài đã đưa ra gương sáng của Đức Giêsu Kitô, Đấng giầu sang vô cùng, đã tự ý trở nên nghèo khó để làm cho loài người được nên giầu có.
Cuộc lạc quyên này sẽ chứng tỏ sự bình đẳng giữa người Do thái và Hy lạp: người Do thái đã chia sẻ cho người Hy lạp những đặc ân tinh thần, thì cũng là điều bình thường khi người Hy lạp chia sẻ cho người Do thái những may mắn của họ về vật chất trong lúc này. Như thế, sự dư dả của người này bù đáp sự thiếu thốn của người kia. Có như thế,”Kẻ được nhiều cũng không dư, mà kẻ có ít thì cũng không thiếu”.
+ Bài Tin mừng: Mc 5,21-43.
Thánh Marcô thuật lại cho chúng ta hai phép lạ có liên quan đến nhau: phép lạ làm cho con gái ông trưởng hội đường Giairô sống lại và phép lạ làm cho người đàn bà bị băng huyết đã 12 năm được khỏi. Hai phép lạ này gợi cho chúng ta hai điều:
- Trước hết, hai phép lạ này mạc khải cho chúng ta về lòng nhân hậu của Đức Kitô, khiến không bao giờ cho Ngài được dửng dưng trước đau khổ của người khác. Đồng thời cũng hé mở cho chúng ta về quyền năng phát xuất từ Đức Giêsu: Ngài có thể làm cho khỏi bệnh dễ dàng, nhất là làm cho kẻ chết sống lại.
- Những phép lạ này đòi hỏi đức tin nơi người muốn kêu xin. Đức tin cần thiết biết bao:”Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi”(Mc 5,36). Đức tin của ông Giairô và người đàn bà băng huyết rất lớn: đặt hết tin tưởng vào Đức Kitô. Ngài dùng quyền năng cứu chữa và ban sự sống Ngài mang trong mình cho những ai, dù bề ngoài thất bại cách nào đi nữa, xin thì sẽ được như ý.
- THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Sống trong niềm tin và hy vọng.
- TIN THÌ ĐƯỢC SỐNG.
Bài đọc 1 hôm nay nhắc cho chúng ta tư tưởng lạc quan về cuộc sống. Khi tạo dựng con người, Thiên Chúa đã tạo dựng con người giống hình ảnh Ngài, để con người được tham dự vào sự sống vĩnh cửu, được hạnh phúc đời đời, nhưng con người đã phá vỡ kế hoạch của Thiên Chúa vì phạm tội. Tuy nhiên, Thiên Chúa giầu lòng thương xót sẽ nhận lời những ai thành khẩn kêu xin Ngài (Đáp ca:Tv 29). Tư tưởng này được minh chứng bằng hai phép lạ dưới đây:
- Chữa người đàn bà băng huyết.
Bỏ địa hạt Cêsarê, Đức Giêsu lại trở về Capharnaum. Thấy Ngài trở lại, dân chúng đến đón Ngài rất đông để được nghe giảng và xin phép lạ. Trong số đó, ông trưởng hội đường Giairô có đứa con gái bệnh nặng gần chết. Ông đến xin Ngài đến chữa cho con ông. Ngài nhận lời đi ngay.
Đang trên đường đi đến nhà ông Giairô thì dọc đường có một người đàn bà bị bệnh băng huyết đã 12 năm, không dám đến gần Ngài một cách công khai vì luật lệ cấm ky, vì bệnh băng huyết là một thứ bệnh nhơ nhớp, bệnh nhân không được công khai giao thiệp với dân chúng. Bà lén lút đến đàng sau Đức Giêsu với ý nghĩ rằng miễn sao chạm được vào gấu áo Ngài là khỏi bệnh ngay. Bà đã sờ vào được gấu áo Chúa nên bà cảm thấy lập tức trong mình đã được khỏi bệnh. Đức Giêsu biết rõ sự việc đã xẩy ra và hỏi xem ai đã động đến gấu áo Ngài? Bà thành thật thú nhận việc đã làm, Đức Giêsu đã yên ủi và khích lệ bà:”Hỡi con, đức tin của con đã chữa con”.
- Cứu sống con gái ông Giairô.
Vừa chữa bệnh cho một người đàn bà bị băng huyết, Đức Giêsu vừa tiếp tục đi tới nhà ông Giairô. Tình cờ người nhà ông đến báo tin con ông đã chết rồi, đừng phiền đến Thầy nữa. Nhưng Đức Giêsu khích lệ ông:”Đừng sợ, hãy cứ tin”.
Quang cảnh nhà đứa bé thật nhộn nhịp: tiếng khóc của thân nhân cũng như của những người khóc mướn, tiếng trống tiếng kèn , cùng với lời báo tin của người nhà cũng như thái độ cười nhạo của những người chung quanh không tin vào quyền năng của Đức Giêsu cho thấy cô bé đã chết thật. Nhưng ở đây Đức Giêsu lại bảo:”Cô bé không chết đâu, nó ngủ đấy”. Ngài nói thế là vì Ngài muốn tỏ ra rằng Ngài làm cho kẻ chết sống lại dễ dàng như người ngủ thức dậy, để người khó tin được dễ hiểu.
Trước mặt 5 nhân chứng là cha mẹ cô bé và 3 môn đệ là Phêrô, Giacôbê và Gioan, Đức Giêsu cầm lấy tay cô bé và nói:”Hỡi em bé, Ta truyền cho em hãy chỗi dậy”. Và em bé chỗi dậy mạnh khỏe. Ở đây Đức Giêsu tỏ ra có quyền trên sự chết và sự sống. Ngài làm chủ của kẻ sống và kẻ chết.
- THIÊN CHÚA MUỐN ĐỨC TIN CỦA CHÚNG TA.
- Phép lạ và đức tin.
Tất cả các phép lạ Đức Giêsu làm đều có ý khơi dậy lòng tin cho người ta. Không ai có thể chối cãi được những phép lạ Ngài đã làm như chữa bệnh, trừ qủi, dẹp yên sóng gió, làm cho kẻ chết sống lại… Vì những phép lạ này làm công khai trước mặt nhiều người và làm ngay tức khắc nên mọi người phải công nhận. Khi chữa bệnh xong, Đức Giêsu hay nói với bệnh nhân:”Đức tin của con đã chữa con”.
Còn những nơi người ta không tin Ngài thì Ngài không làm phép lạ, như trường hợp ở quê hương Ngài vì “gần chùa gọi bụt bằng anh”; còn đối với những luật sĩ và liệt phái chống đối Ngài thì Ngài cũng không làm phép lạ cho họ. Họ không thật lòng xin Ngài làm phép lạ mà chỉ thách thức Ngài thôi. Nếu không tin, không kêu xin Ngài thì làm gì có phép lạ?
Người đàn bà bị băng huyết này không dám công khai trực tiếp xin Chúa chữa bệnh cho bà, nhưng bà tự nhủ:”Tôi chỉ cần sờ vào gấu áo Ngài thì tôi sẽ được khỏi”. Nghĩ thế và bà đã dám làm, bất chấp luật lệ cấm đoán phiền phức và khắt khe. Điều đó chứng tỏ bà đã có đức tin vững mạnh, và thúc đẩy Chúa làm phép lạ. Kết quả là bà đã được như ý khi Chúa nói với bà:”Đức tin của con đã chữa con”.
Trường hợp ông trưởng hội đường Giairô cũng thế. Ông là một người có địa vị và thế giá trong dân. Điều này nói lên việc ông làm có ý thức và có thế giá. Thái độ khiêm nhường của ông trước mặt Đức Giêsu diễn tả niềm tin sâu xa của ông, ông đã qùy mọp xuống dưới chân Chúa và khẩn khoản van xin:”Con bé nhà tôi gần chết rồi, xin Ngài đến đặt tay lên cháu, để nó được cứu chữa và được sống”. Như vậy ông này phải tin Đức Giêsu là ai, có quyền phép thế nào ông ta mới có cử chỉ và thái độ khiêm nhường và kêu xin như thế. Qua thái độ tin tưởng và lời cầu xin ấy, ông đã được toại nguyện.
- Phép lạ có còn hợp thời không?
Đứng trước những dữ kiện “phép lạ” Chúa làm mà Tin mừng kể lại, (1/3 của Tin mừng Marcô) chúng ta thấy ngày nay có hai khuynh hướng trái ngược nhau. Một số khoa học gia cho rằng phép lạ chỉ gây rắc rối cho đức tin, dần dần khoa học sẽ giải quyết nhiều bệnh lý. Trái lại, ngày nay, phong trào Thánh Linh đang phát triển mạnh làm cho người ta tin tưởng rằng trong một cộng đoàn có Chúa Thánh Thần hoạt động, phép lạ không còn là một sự phi thường. Kinh nghiệm bản thân và sự quan sát khách quan đã minh chứng điều đó (Theo Sr Briege Mckenna, O.S.C, Des Miracles d’Aujourd’hui).
Sống trong không khí thực nghiệm và duy vật, người ngày nay, cả trong Kitô hữu, có khi là cả tu sĩ hay giáo sĩ, có khuynh hướng muốn phủ nhận phép lạ và chối bỏ các điều mầu nhiệm của đạo.
– Đối với phép lạ, họ cho là nghịch công lệ tự nhiên, trái với sự bất di dịch của Thiên Chúa. Không nghịch, không trái gì hết. Tin phép lạ là tin Thiên Chúa có thể làm được những việc mà không loài thọ tạo nào tự sức mình có thể làm được. Ta hãy nghe nhà văn hào J.J Rousseau nói:”Thiên Chúa có làm được phép lạ không? Nghĩa là Ngài có thể làm khác với các định luật Ngài lập không? Câu hỏi ấy mà có ý đặt ra thực, thì quả là ngạo mạn, nếu không là vô lý. Đối với kẻ trả lời rằng không, thì phạt nó còn là quá hân hạnh cho nó, hạng ấy cứ giam vào ngục là xong”.
– Đối với các mầu nhiệm, họ bảo người tin có mầu nhiệm nghĩa là tin cái không hiểu được, là mê tín. Không phải là mê tín. Tin mầu nhiệm chỉ là công nhận rằng sự thông minh của Thiên Chúa vượt hẳn trí khôn ta. Ông Charles Nicolle, một bác học có hạng, khi trở lại Công giáo nói:”May mà còn có những mầu nhiệm của tôn giáo! Nếu không, thì thật là khả nghi, vì tôi sợ rằng đó chỉ là sản phẩm giả tạo của trí óc loài người. Mầu nhiệm của tôn giáo làm tôi an tâm. Nó là biểu hiệu của Thiên Chúa” (Trần văn Khả, Phúc âm Chúa nhật năm B, tr 151-152).
Truyện: Phải chăng là phép lạ?
Trong chương trình “The Extraordinary” có kể câu chuyện lạ, xẩy ra tại Melbourne, Australia vào năm 1987. Buổi sáng đẹp trời, một bà bẹ chở đứa con gái 7 tuổi đến trường. Đang lúc mẹ con trò chuyện vui vẻ, bất chợt một chiếc xe trọng tải đâm thẳng vào hông xe, nơi em bé ngồi. Em bé bị ngất xỉu. Sau khi cứu sống, hội đồng bác sĩ cho biết là em sẽ không bao giờ có thể đi lại được nữa! Em sống, nhưng mất nhiều khả năng tri giác và cảm xúc. Thật là tin buồn cho người mẹ. Tuy nhiên bà ngoại vẫn điềm tĩnh và có linh cảm rằng cháu của bà sẽ được ơn đặc biệt. Bà thường đến bệnh viện thăm và giúp cháu đọc kinh và cầu nguyện. Những ai thấy bệnh trạng của em bé đều thương hại cho em. Nhiều người ngạc nhiên là trên khuôn mặt của em luôn hiện lên sự bình an từ trong tâm hồn và niềm vui siêu nhiên. Sau khi rời bệnh viện, dần dần em đi học lại và theo kịp các bạn cùng lớp (Hà ngọc Đoài).
Câu chuyện em bé hôm nay và con gái ông trưởng hội đường hôm xưa cũng tương tự. Xưa và nay cũng chỉ là một Thiên Chúa. Ngài luôn tươi trẻ với thời gian và luôn gần gũi trong không gian để an ủi và nâng đỗ những ai tìm đến Ngài.
III. ĐỨC TIN VÀ HÀNH ĐỘNG.
- Phải cộng tác với Chúa.
Thánh Giacôbê đã khẳng định về sự cần thiết của việc làm song song với đức tin:”Đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết. Đàng khác, có người sẽ bảo: “Bạn, bạn có đức tin; còn tôi, tôi có hành động. Bạn thử cho tôi thấy thế nào là tin mà không có hành động, còn tôi, tôi sẽ hành động để cho bạn thấy thế nào là tin”(Gc 2,17-18).
Tin là cộng tác với ơn Chúa, và muốn sống đời đời cũng phải đồng hành với Chúa như người đàn bà băng huyết, bà nghĩ mình phải làm cái gì đó chứ không chỉ tin suông, nên bà đã đến với Chúa chớ không chờ Chúa đến với mình.
Ông Giairô cũng vậy, ông tin Đức Giêsu có thể cứu sống con ông, ông vội vã đến với Chúa. Cả hai đều tin tưởng vào Chúa và nỗ lực cộng tác với Ngài. Vì thế, chúng ta không thể cứ thụ động chờ Chúa làm phép lạ, nhưng hãy xử dụng hết những phương tiện Chúa ban, còn phần kia tùy Chúa định liệu.
Truyện: Hãy tự cứu mình trước
Câu chuyện xẩy ra vào mùa thu, có một vùng quê bị một trận lụt dữ dội tàn phá, khiến cho một bà già bị kẹt trong căn nhà bà. Đang khi bà ta đứng tựa cửa sổ nhà bếp nhìn ra thì một chiếc thuyền xuất hiện, người lái thuyền bảo bà:”Hãy leo lên thuyền để thoát nạn”. Bà lão đáp lại:”Không, cám ơn, tôi tin vào Chúa, Ngài sẽ cứu tôi”. Người lái thuyền lắc đầu rồi bỏ đi.
Ngày hôm sau, cơn lụt dâng cao đến tầng hai của căn nhà. Đang lúc bà lão đứng tựa cửa sổ tầng hai ngắm nhìn con nước thì một chiếc thuyền khác lại xuất hiện. Người lái thuyền bảo bà: ”Hãy lên thuyền để thoát nạn”. Bà già đáp lại: ”Không, cảm ơn, tôi tin vào Chúa. Ngài sẽ cứu tôi”. Người lái thuyền lắc đầu rồi bỏ đi.
Ngày kế tiếp cơn nước dâng lên tận nóc nhà. Đang khi bà lão ngồi trên nóc nhà nhìn con nước dâng, một chiếc trực thăng lại hiện ra. Viên phi công dùng loa gọi vọng xuống:”Tôi sẽ thả một chiếc thang dây cho bà, hãy leo lên và bà sẽ thoát nạn”. Bà già lại nói:”Không, cảm ơn, tôi tin vào Chúa, Ngài sẽ cứu thoát tôi”. Viên phi công nhìn bà lắc đầu, rồi bỏ đi.
Ngày sau đó, cơn lụt nhận chìm ngôi nhà và bà lão bị chết đuối. Khi được đưa về trời, bà ta nói với thánh Phêrô:”Trước khi vào đây, tôi xin được phàn nàn một điều. Tôi đã tin chắc Chúa sẽ cứu tôi thoát khỏi trận lụt, thế mà Ngài lại để tôi bị chết chìm”. Thánh Phêrô bối rối nhìn bà lão đoạn lên tiếng:”Tôi chả hiểu Chúa có thể làm thêm điều gì được cho bà nữa, vì Ngài đã gửi tới cho bà những hai chiếc thuyền và một chiếc trực thăng rồi còn gì” (M. Link, Giảng lễ Chúa nhật, năm B, tr 254-255)?
Bà lão trong trận lụt này quá lầm lẫn. Bà quên rằng Chúa thường hoạt động trong đời sống chúng ta xuyên qua những phương tiện bình thường. Bà quên rằng chúng ta phải làm hết phận vụ mình và hợp tác với Chúa bằng cách xử dụng những phương tiện bình thường Ngài ban cho ta. Nói cách khác, chúng ta không thể ngồi thụ động chờ Chúa làm phép lạ, mà phải dùng tất cả mọi phương tiện thông thường Chúa ban để tự giúp mình trước đã.
Tục ngữ Việt nam đã nói lên chân lý này:”Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”: con người phải bắt đầu làm đã, còn thành bại thế nào thì sẽ do Trời định liệu. Nhưng về phía Trời thì chắc chắn:”Thiên thượng bất phụ hảo tâm nhân”, Trời sẽ giúp cho những ai biết cố gắng dùng mọi phương tiện Chúa đã ban cho, đúng như tục ngữ Pháp có câu: Aide-toi, le Ciel t’aidera: anh hãy tự giúp mình trước, Trời sẽ giúp mình sau.
- Xét lại đức tin của mình.
Qua thái độ của người đàn bà băng huyết và của ông trưởng hội đường Giairô, ta thử xét lại đức tin của chúng ta xem sao: Tin khi đời sống bình an, thuận buồm xuôi gió thì chưa hẳn là đức tin thật, nó phải được tôi luyện trong đau khổ, trong khó khăn, trong gian nan thử thách mà vẫn kiên trì, thì đức tin ấy mới có thể làm nên phép lạ.
Hay nói đúng hơn, lúc ấy Thiên Chúa mới trợ giúp, mới cứu chữa, vì khi đó chúng ta không tin vào sức riêng mình mà tin vào Chúa, thì Chúa phải thực hiện thôi. Như Abraham xưa, như Phêrô đi trên mặt biển, như người đàn bà và ông Giairô trong bài Tin mừng hôm nay, chúng ta hãy tin tưởng.
Cuộc đời của chúng ta không bao giờ hết đau khổ. Chúng ta có thể cảm nghiệm tình yêu của Thiên Chúa cả trong đau khổ. Sự hiện diện của Thiên Chúa không nhất thiết lấy đi đau khổ, nhưng cho chúng ta năng lực chuyển hoá đau khổ. Chúng ta cần Thiên Chúa giúp đỡ để linh hồn chúng ta không bị thu hẹp vào sự thụ động hoàn toàn, gần giống như những đồ vật, bị tác động nhưng không bao giờ hoạt động.
Thấu hiểu chân lý này, ông Francois Mauriac đã phát biểu: ”Ngài đến không phải để cất sự đau khổ mà để hiện diện với đau khổ”. Như vậy nghĩa là Ngài đến ban đức tin cho chúng ta để chúng ta biết chịu đựng đau khổ, biết chuyển hoá đau khổ, biến nó thành phương tiện để đạt tới ơn cứu độ. Bằng không thì chúng ta chịu đau khổ một cách vô ích và những đau khổ trở nên vô nghĩa.
Những ai không có đức tin thì gặp nhiều bất lợi trước đau khổ. Họ chịu đựng đau khổ gấp ba lần: họ chịu đựng bệnh tật, họ chịu đựng sự vô nghĩa của bệnh tật (vì đối với họ, bệnh tật chỉ là phiền toái, kết quả của một số phận mù quáng) và họ chịu đựng đau khổ vì cuộc sống của họ bị ngưng trệ. Họ coi bệnh tật của họ như một việc phải chịu đựng thay vì một việc phải sống. Đời sống của họ như bị giữ chặt lại vì họ chờ đợi thụ động cho đến khi mọi việc trở lại bình thường để họ có thể bắt đầu cuộc sống trở lại.
Mặt khác, các bệnh nhân có đức tin ở trong một tình thế tốt hơn. Dù đức tin không giải thoát họ khỏi bệnh tật, hoặc làm giảm bớt đau khổ do bệnh tật gây ra, người có đức tin tiếp tục sống một cách mãnh liệt như trước đây, có khi còn mãnh liệt hơn. Họ có thể tìm thấy Thiên Chúa trong bệnh tật cũng như trong lúc khỏe mạnh, và bệnh tật của họ có thể sinh ra kinh nghiệm có lợi là họ sẽ xin Chúa chữa lành cho bệnh tật ấy (Flor McCarthy).
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm – ViKiNi)
Tin mừng Chúa nhật 12 đến Chúa nhật 13 như một cuốn phim sống động quay lại cảnh con thuyền các môn đệ gần chìm đắm trong bão biểm đêm tối, đến cảnh người dân ngoại sống dưới ách xiềng xích, cùm kẹp khốn khổ của quỷ dữ giữa mồ mả, đồi núi, hoang dại. Để cứu họ, Đức Giêsu đã dẹp tan bão tố, xua đuổi ác quỷ chui đầu xô đẩy đàn heo lối hai ngàn con xồng xộc chạy theo dốc núi chênh vênh nhào xuống biển chết ngộp.
Sau đó, Đức Giêsu đã lên thuyền trở về với đám đông dân chúng đầy thiện cảm đang chờ đón Ngài bên bờ biển Galilê. Mới lên bờ, ông trưởng hội đường đến sấp mình dưới chân Ngài, tha thiết kêu xin Ngài cứu chữa đứa con gái mười hai tuổi gần chết. Ngài chẳng nói một lời, chỉ vội vàng đi với ông và dân chúng chen nhau kéo theo Ngài. Họ đụng cả vào Ngài.
Tự nhiên, Ngài quay lại hỏi đám đông: “Ai đã sờ vào áo Ta?”. Môn đệ chỉ thấy đám đông chen nhau đụng vào Ngài, còn Ngài thấu suốt tâm tư mọi người. Người phụ nữ như thấy Ngài trực tiếp hỏi mình, sợ run lên, đến sấp mình trước mặt Ngài. Ngài đã ôn tồn nhắn nhủ: “Này con, lòng tin của con đã cứu con, hãy đi bằng an và lành hẳn tật nguyền của con”.
Quá sung sướng, người phụ nữ đã mạnh dạn khai báo hết nỗi lòng đau khổ vì bệnh băng huyết. Suốt 12 năm chạy đủ mọi thầy, mọi thuốc, sạch bách tiền của mà tật bệnh vẫn còn.
Đang lúc đó, người nhà ông hội trưởng nhắn tin con ông đã chết rồi! Như sét đánh ngang tai, ông sợ quá. Đức Giêsu đã trấn an ông: “Đừng sợ, hãy tin”. Ông tin dù mọi người khóc lóc, kêu ầm ĩ, có kẻ còn nhạo cười Ngài. Trước cái chết, loài người chỉ biết khóc than hay cười ra nước mắt vì quá bất lực, quá đau đớn và lặng lẽ cúi đầu!
Thánh Phêrô đã chứng kiến từ đầu đến cuối những phép lạ đó và khi đi rao giảng Tin mừng, ngài đã kể rành mạch mọi chi tiết, kể rõ cả tên ông trưởng hội đường là Giairô và đứa con gái 12 tuổi. Chắc chắn ông Giairô và con gái ông vẫn còn sống để làm chứng cho lời Phêrô giảng. Phêrô muốn cho mọi người thấy Chúa Giêsu là Chúa biển cả trời đất, Chúa thống trị quỷ thần và là Chúa nắm giữ sự sống chết của loài người.
Sự sống, sự chết của mỗi người chúng ta đều thuộc quyền Đức Giêsu, cho nên Phaolô đã quyết tâm thực hiện: “Đối với tôi, sống là chính Đức Kitô” (Phil. 1, 21). Lý do là: “Ngài đã chết thay cho tất cả mọi người, hầu kẻ sống không sống cho chính mình, mà sống cho Đấng đã chết và sống lại cho họ” (2Cr. 5, 15).
Thánh Xiprianô đã mạnh mẽ trả lời tổng trấn Galêriô khi ông ra lệnh: “Các hoàng đế đã truyền cho ngươi phải tế thần”.
Xiprianô đáp: Tôi không tế.
Galêriô nói: Hãy suy nghĩ kỹ đi, hãy tuân lệnh đi.
Xiprianô đáp: Thần là quỷ ma giả dối, chỉ có Thiên Chúa là Đấng chân thật, sáng tạo vạn vật. Đó là chân lý, không cần suy nghĩ nữa.
Galêriô nói: Ngươi phải chịu án trảm quyết.
Xiprianô đáp: Xin ngợi khen Chúa.
Vì tin Chúa nắm sự sống chết, nên người sống cho Chúa, coi cái chết nhẹ như lông hồng, như một giấc ngủ. Chính Chúa Giêsu đã bảo cha đứa trẻ: “Con bé không chết, nó ngủ”. Sau này, khi nghe tin Lagiarô chết, Ngài cũng nói: “Lagiarô, người thân của Ta ngủ, Ta đi đánh thức ông dậy”.
Đối với kẻ không nắm được sự sống chết, thì chết là tận diệt, nên phải khóc than, gào thét. Đối với Chúa, sự chết thật là một giấc ngủ. Để được chết an lành như vậy thánh Vinh sơn Phaolô đã tập coi giấc ngủ mỗi đêm là việc lặp đi lặp lại của cái chết thực sự, và thức dậy là dấu của sự sống lại trong ánh sáng của Đức Kitô.
Lạy Chúa Giêsu, cái chết của Chúa trên thập giá đau đớn đến cùng cực, nhưng vì yêu thương cứu độ loài người chúng con, Chúa đã coi cái chết đó như một giấc ngủ thật nhẹ nhàng, bình an, trong sáng. Xin cho con biết hy sinh, tập chết đi những ích kỷ, kiêu căng vì mến Chúa yêu người để đến giờ chết con được an nghỉ êm ái trong Chúa muôn đời. Amen.
(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển, S.S.P.)
TIN THÌ ĐƯỢC CHỮA LÀNH VÀ ĐƯỢC SỐNG
Tin Mừng Mc 5: 21-24.35-43 Khi tin tưởng vào Ngài, chúng ta sẽ nhận ra Chúa không thờ ơ trước lời kêu cầu đầy lòng tin của người bệnh và không ngừng quan phòng cho chúng ta: “Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng…
Mang trong mình kiếp con người từ khi sinh ra đến lúc chết đi, ai cũng trải qua những giai đoạn như: sinh, bệnh, lão, tử. Tuy nhiên, trong 4 cái khổ ấy, đệ nhị khổ là thứ khổ dai dẳng nhất.
Khổ về mặt thể lý, con người đã cảm thấy ngán ngẩn. Nhưng cái khổ tâm lý, khổ tinh thần, người đối diện với nó sẽ cảm thấy day rứt khôn nguôi!
Hôm nay, Tin Mừng thuật lại hai phép lạ Đức Giêsu đã làm. Một phép lạ chữa lành bệnh tật. Một phép lạ cứu sống. Phép lạ chữa lành bệnh tật, Ngài đã chữa lành cả thể bệnh lẫn tâm bệnh. Phép lạ cứu sống, Ngài thể hiện uy quyền nhờ lòng tin của người kêu xin.
Qua mạc khải được gợi hứng từ chính bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta cùng nhau tìm hiểu thêm những phép lạ khác Đức Giêsu đã làm để thấy được sứ mạng chính yếu của Đức Giêsu ngang qua những phép lạ ấy.
- Thực thi phép lạ để cứu chuộc
Các sách Tin Mừng ghi lại Đức Giêsu đã làm rất nhiều phép lạ liên quan đến việc chữa lành, chẳng hạn như: chữa hai người bị quỷ ám (x. Mt 8, 29-34; Mc 5,1-20; Lc 8, 26-39); chữa nhạc mẫu ông Phêrô khỏi sốt (x. Mt 8, 14-15; Mc 1, 29-31; Lc 4, 38-39); chữa lành người bại liệt (x. Mt 9,1-8; Mc 2,1-12; Lc 5,17-26); chữa 10 người phong cùi được lành (x. Lc 17, 11-19); chữa hai người mù (x. Mt 9, 27-31); chữa người câm bị quỷ ám (x. Mt 9,32-34); chữa con gái người đàn bà Canaan cũng bị quỷ ám (x. Mt 15,21-28; Mc 7,24-30); chữa nhiều bệnh nhân tại bờ Biển Hồ Galilê (Mt 15,29-31); chữa rất nhiều người ốm đau và mắc đủ thứ bệnh cũng như loại trừ ma quỷ (x. Mt 8,16-17; Mc 1,32-34; Lc 4,40-41); và rồi ngay trước lúc bị bắt, Ngài đã chữa lành tai bị đứt của đầy tớ thầy thượng tế (x. Mt 26,47-55; Mc 14,43-49; Lc 22,47-51; Ga 18,3-11).
Qua một số phép lạ đã liệt kê ở trên, chúng ta thấy có điểm chung, đó là tin thì được lành và được sống.
Điều này cũng được Tin Mừng thánh Máccô ghi lại hôm nay thật rõ:
Phép lạ thứ nhất, Máccô kể lại giữa một đám người ô hợp, họ chen lấn, xô đẩy và à uôm. Vì thế, việc đụng chạm tới Đức Giêsu là chuyện bình thường. Tuy nhiên, có một cái đụng rất ấn tượng khiến Máccô không thể bỏ qua, bởi vì cái đụng này được Đức Giêsu để ý và nhắc tới. Ngài nói: “Ai đã đụng đến ta?”. Cái đụng ấy chính là cái đụng của một phụ nữ bị coi là ô uế suốt nhiều năm. Trong những năm ấy, người phụ nữ Dothái này đã phải tủi nhục, đắng cay và nhiều khi đặt ra cho mình những câu hỏi tại sao? Tại sao? Chính câu hỏi trong đầu và tâm khảm của chị phụ nữ này đã làm cho nàng không còn câu nệ vào luật lệ, bất chấp mọi thứ cấm cản và đã chạy thẳng tới nơi Đức Giêsu và đụng chạm vào Ngài.
12 năm mắc căn bệnh băng huyết. 12 năm đối diện với nhiều tủi nhục. 12 năm tìm thầy chạy thuốc. 12 năm bị cấm không được đụng chạm tới người khác. 12 năm không được đến đền thờ…. Càng đau khổ, tủi nhục bao nhiêu, người phụ nữ này lại càng tăng thêm lòng can đảm bấy nhiêu. Vì thế, bà ta đã quyết tâm và tin tưởng rằng: “Dầu tôi chỉ đụng vào áo Ngài, tôi sẽ được khỏi”. Bà tin thì bà được. Vì thế, Tức khắc, bà cảm thấy lành bệnh vì máu trong người đã cầm lại. Cái đụng của lòng tin đã cứu bà khỏi cả bệnh thể xác lẫn tinh thần.
Phép lạ thứ hai, thánh sử Máccô nhấn mạnh đến đức tin của người liên hệ và đề cao tinh thần liên đới giữ người cha và cô con gái xấu số. Từ một người trưởng Hội Đường, không quen biết gì đến Đức Giêsu, chỉ nghe người ta nói về Ngài. Từ một người giàu có và quyền thế trong dân, lẽ ra ông bám víu vào thế gian để đảm bảo cho con gái ông khỏi lưỡi hái tử thần. Tuy nhiên, những thứ vật chất và quyền hành trần thế đã không làm cho điều ông mong muốn được thành hiện thực, vì thế, ông đã can đảm, dốc hết lòng tin vào Đấng xa lạ chưa một lần gặp mà chỉ nghe đồn thổi về Ngài. Nhưng khi gặp, ông đã quỳ mọp dưới chân và năn nỉ Ngài đến chữa lành bệnh tật cho con gái ông.
Gặp được Đức Giêsu, ông giống như cá gặp nước, bởi vì từ lòng dạ xót thương, Đức Giêsu đã an ủi ông: “Đừng sợ, cứ tin“. Nói xong, Ngài đã đích thân tới tận nơi để an ủi những người còn sống: “Sao lại náo động và khóc lóc như vậy? Đứa bé có chết đâu, nó ngủ đấy!” và ngay lập tức, Ngài tiến lại gần đứa trẻ và nói: “Này bé, Thầy truyền cho con: chỗi dậy đi!”
Hai phép lạ khởi đi từ lòng tin. Hai phép lạ kết tụ ở sự sống được trao ban.
Sự sống thể lý nơi người đàn bà mất dần bởi chứng loạn kinh tới 12 năm. Khi chữa lành, Đức Giêsu đã trả lại cho bà sự sống sung mãn thủa ban đầu.
Còn đứa trẻ con ông trưởng Hội Đường thì sự sống đã tắt, nhưng Đức Giêsu đã làm cho sự sống ấy được hồi sinh.
Như vậy, phép lạ có được là do lòng tin từ phía con người và do quyền năng của Thiên Chúa cũng như lòng xót thương của Ngài đúng như lời Kinh Thánh đã chép: “Không phải lá cây, chẳng phải thuốc đắp đã chữa họ lành, nhưng chính Lời Ngài chữa lành tất cả” (Kn 16,12).
- Niềm hy vọng của chúng ta
Lược qua những phép lạ trong cuộc đời sứ vụ Đấng Cứu Thế, nhất là hai phép lạ được thánh Máccô nhắc tới trong bài Tin Mừng hôm nay đã đem lại cho chúng ta bài học quý giá, đó là:
Nếu sự giàu có, quyền hành của ông trưởng Hội Đường đã không thể tự cứu con của mình khỏi chết, hay sự bất lực không thể diễn tả nổi của người phụ nữ đã tìm thầy chạy thuốc suốt 12 năm, tốn biết bao tiền, mất biết bao công sức… đã dẫn đến một đức tin trưởng thành và can trường vào sự hiện diện của Đấng có thể cứu chữa cả xác và hồn.
Thì đức tin của mỗi chúng ta cũng vậy. Nhiều lúc, mỗi người cũng cảm thấy trống trải khi bám víu vào sự giàu có hay quyền cao chức trọng hoặc cậy vào những khả năng của con người mà phớt lờ Thiên Chúa, Vị Thầy Thuốc tuyệt hảo của cuộc sống để bám víu vào nỗ lực trần gian. Những lúc như thế, ấy là chúng ta đã bị phai nhạt đức tin và không xác tín vào Thiên Chúa nữa. Noi gương người đàn bà và ông trưởng Hội Đường, chúng ta hãy tin tưởng tuyệt đối vào quyền năng của Thiên Chúa, Ngài sẽ ra tay cứu chữa và trao ban cho chúng ta sự sống thần linh. Nói cách khác, bí quyết được chữa lành chính là đức tin. Chìa khóa này sẽ mở được cánh cửa của lòng thương xót Chúa để ta được đắm chìm trong ân sủng và chính sự sống thần linh của Thiên Chúa.
Khi tin tưởng vào Ngài, chúng ta sẽ nhận ra Chúa không thờ ơ trước lời kêu cầu đầy lòng tin của người bệnh và không ngừng quan phòng cho chúng ta: “Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. […] Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng mọc lên thế nào mà rút ra bài học: chúng không làm lụng, không kéo sợi; thế mà, Thầy bảo cho anh em biết: ngay cả vua Salômôn, dù vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy.Vậy nếu hoa cỏ ngoài đồng, nay còn, mai đã quẳng vào lò, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em!” (x. Mt 6, 25-30).
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa giải thoát chúng con khỏi những căn bệnh thể lý đang dằn vặt thể xác chúng con, đồng thời, xin Chúa cũng chữa lành những căn bệnh tự kiêu, tự mãn, tự ti, tự phụ của chúng con, để thân xác và tâm hồn chúng con được lành mạnh. Amen.
Thiên Chúa là sự sống và tình thương. Tình thương của Người là tình thương cứu vớt, đem lại cho con người được sự sống, tham dự sự sống của cộng đoàn và tham dự vào sự sống thần linh của Thiên Chúa. Chỉ nơi Ngài, mới có tình thương và sự sống tuyệt đối.
Khi muốn xin ai hay thỉnh cầu điều gì, thì chúng ta tin tưởng vào người chúng ta đang đặt niềm tin. Người phụ nữ mắc bệnh băng huyết và người cha có đứa con gái bị bệnh nặng gần chết đã làm như thế. Cả hai đã tin Chúa Giêsu nên đến xin Ngài cứu chữa. Chính vì có lòng tin mạnh mẽ mà cả hai đã được hưởng phép lạ của Chúa Giêsu. Nhưng làm sao chúng ta thấy được hay biết được lòng tin của họ? Vì nó đã được biểu lộ ra qua thái độ, cử chỉ, lời nói và hành động của họ.
Người phụ nữ này không dám công khai trực tiếp xin Chúa chữa bệnh cho bà trước mặt mọi người. Bà tự nhủ: “Tôi mà sờ được vào áo choàng của Người thôi, là sẽ được cứu chữa” (Mc 5, 28). Bà thật khiêm tốn, có thể so sánh với người đàn bà xứ Canaan, hoặc như người trộm lành. Vì thế, bất chấp tất cả những luật lệ phiền phức và nghiêm ngặt, bà lén đến sau lưng Chúa, để thực hiện ý định “rút ơn Chúa”, và kết quả bà đã được toại nguyện. Bà đã thể hiện đức tin một cách sâu sắc, như chính Chúa đã xác nhận và thưởng công cho lòng tin của bà: “Lòng tin của con đã cứu chữa con” (Mc 5, 34).
Tuy nhiên, theo quan niệm của người Do Thái thì máu huyết tượng trưng cho sự sống. Người phụ nữ bị băng huyết có nghĩa là sự sống nơi chị mất dần đi, tiêu hao di nên có thể coi chị là người đã chết. Nhất là trong hoàn cảnh của bà, đau khổ không chỉ vì bệnh kéo dài, tiền mất tật mang mà bà còn đau khổ về tinh thần vì tập quán tôn giáo xã hội lúc đó coi những người mắc những thứ bệnh này cũng giống như bệnh cùi là những người bị ô uế, đáng bị cộng đoàn khai trừ. Có thể nói người phụ nữ này đã chết hai lần, cả về mặt sự sống thể xác lẫn về mặt đời sống tinh thần. Chị đã được Chúa Giêsu chữa lành bệnh tật, hay đúng hơn chị đã được cứu thoát và Ngài đã đem đến cho chị sự sống mới sự sống dồi dào, chị được sát nhập vào đời sống cộng đoàn tôn giáo.
Trường hợp của ông trưởng hội đường Giaia cũng thế. Ông đã thể hiện lòng tin của ông vào Chúa Giêsu. Qua cử chỉ, thái độ và lời nói của ông: Khi đến trước mặt Chúa Giêsu, ông đã quỳ sụp xuống dưới chân Chúa và khẩn khoản van xin: “Con bé nhà tôi gần chết rồi. Xin Ngài đến đặt tay lên cháu, để nó được cứu chữa và được sống” (Mc 5, 23). Ông cầu cứu Chúa Giêsu vì ông yin rằng Ngài có thể cứu sống con ông khỏi chết. Phải tin Chúa Giêsu là ai, phải tin Chúa có quyền phép thế nào ông ta mới có cử chỉ, thái độ và lời kêu xin như thế. Ông không hồ nghi, ông tin chắc chắn sự việc sẽ xảy ra như thế, nếu Chúa muốn, vì Ngài là Chúa sự sống và sự sống lại. Ngài động đến đâu thì sức mạnh và sự sống lan tràn tới đó. Nhận thấy lòng tin mạnh mẽ của ông, Chúa đi tới nhà ông và cho con gái ông sống lại.
Trong cả hai phép lạ, chúng ta thấy nổi bật lên một yếu tố, đó là lòng tin. Người phụ nữ bệnh băng huyết khi đã nghe nói về quyền phép của Chúa Giêsu thì chị tin mãnh liệt vào Ngài, bà tin Ngài có thể chữa chị khỏi bệnh, chính vì thế nên chị nghĩ trong lòng rằng: “Nếu tôi sờ vào được áo choàng của Thầy, thì tôi sẽ được khỏi bệnh”. Chính vì tin mà bà vượt qua hàng rào kỳ thị tôn giáo kia, chị vượt qua mọi nếp suy nghĩ và quan niệm của tôn giáo Do Thái lúc bấy giờ để mạnh dạn đến chạm tay vào gấu áo Chúa Giêsu. Chính vì quyền năng đó mà Chúa đã không từ chối chữa lành cho chị. Bên cạnh đó, lòng tin của ông Giaia cũng là yếu tố quan trọng để Chúa Giêsu làm cho con gái ông sống lại. Hai phép lạ trên cho chúng ta thấy Chúa Giêsu có quyền năng trên bệnh tật. Điều này chứng tỏ Ngài chính là Thiên Chúa thật, là vị Cứu Tinh, là Đấng cứu độ con người.
Hai phép lạ này còn loan báo cho chúng ta một sứ điệp tình thương, sứ điệp thời đại mới, thời đại cứu độ mà các tiên tri đã loan báo. Thời đại của Chúa Giêsu Kitô. Trước hết, Thiên Chúa là sự sống, Ngài là chủ sự sống. Ngài ban phát sự sống cho con người và muôn loài muôn vật. Riêng đối với con người, Ngài không chỉ là chủ sự sống đời sống vật chất mà còn là chủ đời sống ân sủng, đời sống làm con cái Chúa. Để thực hiện chương trình cứu độ, Thiên Chúa đã hiến dâng cho loài người tất cả, kể cả Người con yêu dấu, con một của Ngài là Đức Giêsu Kitô.
Suy gẫm về bài phúc âm này, chúng ta nhận thấy: Chúa Giêsu đã bộc lộ thiên tính của Ngài, thực hiện chương trình cứu độ của Thiên Chúa là ban sự sống, là cứu chữa, những gì đã hư mất, là tìm đến những người đau ốm cần thầy thuốc. Ngài luôn quan tâm mọi nhu cầu cụ thể của con người. Ngài quan tâm đến nỗi thống khổ về tinh thần lẫn vật chất của nhân loại. Tất cả nỗi khổ đau của nhân loại đều được Chúa Giêsu cảm thông, chia sẻ và cứu vớt. Chính vì mang trong lòng trái tim yêu thương của Thiên Chúa, nguồn sống từ nơi Chúa Cha nên Ngài đã không khước từ và mau mắn cứu chữa hết người này đến người kia, bình phục cho người này, hồi sinh cho kẻ khác, đem lại phẩm giá và sự tôn trọng cho những ai đang bị loại trừ. Đối với Chúa Giêsu, Ngài không hề loại trừ một ai vì tất cả mọi người đều thuộc về gia đình Thiên Chúa. Điều duy nhất Ngài đòi hỏi chúng ta có tin nơi quyền năng và tình thương của Thiên Chúa hay không?
Niềm tin, lòng tin hay đức tin thì không thể nhìn thấy, bởi vì nó không phải là vật chất, nó là một cái gì có thật, nhưng thuộc về thần linh. Người ta không thể thấy được nó nhưng người ta có thể biết nó có nhờ khi nó biểu lộ qua hành động bên ngoài. Cũng như không ai nhìn thấy lòng tin của ông Giaia và của người đàn bà băng huyết, nhưng qua thái độ, lời nói và cử chỉ của họ đã biểu lộ lòng tin của họ. Cũng vậy, chúng ta có đức tin hay không, chẳng ai biết, nhưng khi thấy chúng ta đi lễ, thấy chúng ta đi vào nhà thờ nghiêm trang, người ta có thể biết được chúng ta là người có đức tin. Như thế, một điều chúng ta có thể ghi nhận là: đức tin chỉ ở trong lòng thôi thì chưa đủ mà còn phải biểu lộ ra bên ngoài nữa. Vì thế, chúng ta cần phải có một đức tin mạnh mẽ như ông Giaia, hiên ngang mà không hổ thẹn, vững chắc chứ không hồ nghi. Đàng khác, chúng ta cũng cần có một đức tin kín đáo nhưng dẻo dai như lòng tin của người phụ nữ trên đây, bà có một thái độ khẩn khoản khiêm nhường và đầy tin tưởng trong tâm hồn, thế là đủ. Chúa cũng đang chờ đợi ở chúng ta những tâm tình như thế.
Chúng ta tin Thiên Chúa là chủ sự sống, là nguồn gốc sẽ dẫn chúng ta đến thái độ là biết tôn trọng sự sống, bảo vệ và phát huy sự sống. Không đơn thuần là sự sống thể xác, tinh thần mà còn quan tâm đến sự sống thần linh. Không chỉ quan tâm sự sống nơi bản thân mình mà còn quan tâm đến nhu cầu, lợi ích sự sống nơi tha nhân nữa. Thế nhưng xung quanh chúng ta có rất nhiều sự sống con người đang bị xâm phạm, bị chà đạp, cách này hay cách khác. Biết bao nhiêu trẻ em không có quyền được sinh ra, không có được những điều kiện thiết yếu về mặt vật chất, tinh thần để sống một cuộc sống cho ra người.
Con Thiên Chúa đã xuống thế làm người để con người được sống và sống dồi dào. Nhưng sự sống mà chúng ta đón nhận từ nơi Chúa sẽ không trọn vẹn nếu chúng ta chưa thật sự chia sẻ sự sống ấy cho tha nhân chung quanh chúng ta. Bao lâu nhiều người anh em chung quanh chúng ta chưa được sống xứng đáng vơi nhân phẩm con người, bao lâu niềm vui và quyền được sống như một con người vẫn còn bị khước từ nơi nhiều người đang sống bên cạnh chúng ta thì có lẽ chính chúng ta cũng không thể nào hưởng được một cách dồi dào sự sống mà Chúa Giêsu mang lại cho chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết trân trọng đức tin, sự sống mà Chúa đã ban, để chúng con luôn tin tưởng mạnh mẽ và quyết liệt, bền bĩ và phó thác vào Chúa, vì chúng con được dựng nên bởi tình thương và sự sống của Chúa. Xin cho chúng con biết quý trọng sự sống của mình, của tha nhân và không ngừng phát huy sự sống ấy bằng cách sống yêu thương và giúp đỡ nhau tiến tới sự hoàn thiện như Chúa muốn. Amen.
(Suy niệm của Lm Trần Bình Trọng)
Trong thời cận đại và hiện tại, với những phát minh tân kì về khoa học, y khoa và kĩ thuật, loài người chứng kiến những việc chữa trị bệnh tật với những cuộc giải phẫu thành công ngoài sức tưởng tượng.
Mặc dầu thế, có những bệnh tật mà y học tân tiến cũng đành bó tay. Lại có những trường hợp khác mà người ta được khỏi bệnh thì y học cũng không cắt nghĩa được tại sao, mà chỉ thấy rằng người ta được khỏi bệnh mà không phải do cách chữa trị của bác sĩ, cũng không phải do thuốc chữa. Tại Lộ Ðức, có toán bác sĩ quốc tế gồm cà người không công giáo đã khám nghiệm, cứu xét và đi đến kết luận rằng có những bệnh nhân được khỏi bệnh một cách ngoại thường.
Phúc âm hôm nay ghi lại một dấu chỉ về quyền năng của Thiên Chúa được thực hiện cho người có đức tin quả quyết và vững mạnh. Ðó là người đàn bà mắc bệnh xuất huyết đã mười hai năm. Bà ta tốn nhiều tiền của đi tìm thầy chạy thuốc mà bệnh tình vẫn không thuyên giảm. Do đó bà ao ước muốn được gặp Ðức Giêsu để xin Người một ân huệ là cho bà được khỏi bệnh. Không may là phong tục người Do thái thời bấy giờ không cho phép đàn ông nói chuyện với đàn bà nơi công cộng. Cũng theo phong tục Do thái thì người đàn bà không được chạm đến người đàn ông nơi công chúng giống như quan niệm: Nam nữ thụ thụ bất thân của Khổng giáo xưa bên Trung Hoa, có ảnh hưởng sang Viêt Nam vậy.
Còn theo luật Lêvi thì khi người đàn bà trong lúc có kinh nguyệt mà đụng chạm đến ai hay ai đụng chạm đến người đàn bà có kinh thì người đó sẽ ra ô uế (Lv 15:19-28). Thời đó chắc người ta chưa chế tạo băng vệ sinh cho các bà dùng khi có kinh nguyệt. Như vậy bệnh xuất huyết kéo dài mười hai năm của ngưởi đàn bà trong Phúc âm gây ra cả một vấn đề bất tiện và khó khăn cho việc giữ vệ sinh như thế nào! Do đó ước muốn được chửa khỏi càng phải gia tăng cường độ vì bà có thể sợ người đời chê bai là hôi hám khi huyết dính vào quần áo. Vậy thì bà ta phải hành xử thế nào trong trường hợp này để đối diện với Ðức Giêsu?
Ðể tránh việc lỗi luật, bà ta chỉ dám động đến gấu áo của Ðức Giêsu mà thôi. Bà tin rằng chỉ cần động đến gấu áo của Người thì bà cũng được khỏi bệnh. Nếu nhóm người Pharisêu hay bới lông tìm vết có tố cáo bà là đụng đến Đức Giêsu, thì bà có thể cãi hoặc nhờ luật sư cãi phăng đi, là bà đâu có đụng đến thân thể của Đức Giêsu đâu, mà chỉ đụng đến gấu áo của Người mà thôi. Quả thật, đức tin của bà đã cứu chữa bà. Ðức Giêsu đã cảm thấy sức chữa trị xuất phát từ thân mình Người. Người quan tâm đến bà, mà không sợ dư luận quần chúng, nên mới hỏi thử: Ai đã động đến tôi (Mc 5:31). Ðức Giêsu đòi bà phải đối diện với thực chất của việc bà làm. Sau khi bà kể tất cả sự thật, Chúa liền chữa bà khỏi bệnh và còn cho bà được bình an (Mc 5:34).
Ðức tin còn đem đến phép lạ cho người chết sống lại. Viên trưởng hội đường Do thái trong Phúc âm hôm nay cũng đã bầy tỏ đức tin vào quyền năng Ðức Giêsu trong khi nhiều nhà lãnh đạo Do thái nghi ngờ và bất tín Người. Ông bất chấp những nhà lãnh đạo Do thái khác nghĩ thế nào về ông khi ông đến xin Ðức Giêsu một ân huệ. Ông chỉ xin Ðức Giêsu đặt tay trên con gái ông đang hấp hối cho được sống lại. Ðức tin của ông khiến Ðức Giêsu làm phép lạ phục hồi sự sống cho con gái ông: Này bé, Thầy truyền cho con: chỗi dậy đi (Mc 5:41).
Phép lạ vẫn xẩy ra hằng ngày trong thời đại ta đang sống. Chỉ cần dùng con mắt đức tin là ta có thể nhận ra và chứng kiến phép lạ. Hằng ngày ta còn có cơ hội để bầy tỏ đức tin vào quyền năng Chúa, xin Người cứu chữa. Ðiều mà ta cần có là lời cầu xin. Phong trào Thánh linh trong Giáo hội đời nay đã giúp khơi dậy ước muốn cầu nguyện, không hẳn là cầu nguyện xin cho được khỏi bệnh, mà còn cầu nguyện để tạ tội, tạ ơn và ca tụng Thiên Chúa. Và lời cầu nguyện của ta phải đi đôi với đức tin, vì nếu cầu nguyện mà không có đức tin, thì lời cầu nguyện của ta chưa chắc gì được Chúa trả lời. Bằng chứng được ghi lại trong Phúc âm là khi người Pharisêu xin Ðức Giêsu một dấu lạ, Người từ chối việc làm phép lạ vì họ không có lòng tin (Mc 6:5,6) hay chỉ muốn thử Người (Mc 8:11-12). Trái lại ta thấy đức tin của người đàn bà loạn huyết và của viên trưởng hội đường là một đức tin quả quyết, vững mạnh, đơn sơ, chân thành và khiêm tốn. Phúc âm ghi lại: Ông ta sụp xuống dưới chân Người (Mc 5:22); còn bà đến phủ phục trước mặt Người (Mc 5:33). Là người, ta cũng cảm thấy khó từ chối khi có ai kêu cầu đến ta một cách khẩn khoản và khiêm tốn như vậy.
Bất cứ khi nào Chúa làm phép lạ đều do người ta xin với lòng tin. Nếu không có đức tin, sẽ không có phép lạ, cũng không được ơn chữa lành. Tất cả những người được thụ hưởng phép lạ của Chúa đều có một điểm giống nhau là họ được thúc đẩy bởi lòng tin vào quyền năng và lòng thương xót của Chúa.
Ðôi khi ta có thể có thái độ như người Pharisêu, nghĩa là ta ngồi đó há miệng chờ ho, đợi cho Chúa làm phép lạ, trước khi ta có thể đặt tin tưởng vào Chúa. Còn Chúa thì lại muốn ta bầy tỏ niềm tin trước đã, trước khi Người hành động. Chúa biết nhu cầu thiếu thốn của mỗi người. Tuy nhiên nếu ta đóng cửa nhà tâm hồn, thì Chúa cũng đành chịu, vì Chúa đã ban cho loài người được tự do lựa chọn và Chúa tôn trọng tự do của loài người.
Nói như vậy không có nghĩa là khi mắc bệnh, người tín hữu không cần đi bác sĩ, không cần uống thuốc chữa trị. Việc đi bác sĩ hay vào nhà thương nếu cần, ta vẫn tiến hành, nhưng đồng thời ta cũng vẫn cầu xin cho được ơn khỏi bệnh. Cách thế Chúa chữa trị bệnh tật loài người thông thường là dùng bác sĩ và thuốc men để chữa trị. Ðôi khi Chúa không cần dùng đến bác sĩ hay thuốc chữa, nhưng là chữa trực tiếp. Cách thế chữa trị đó được gọi là phép lạ. Có một vài giáo phái Kitô giáo chủ trương không đi bác sĩ và uống thuốc. Họ cho rằng đi bác sĩ và uống thuốc là làm giảm lòng tin vào quyền năng của Chúa. Họ không biết rằng Chúa cũng dùng bác sĩ và thuốc men để chữa trị bệnh tật loài người. Như vậy không có việc xung khắc giữa việc đi bác sĩ, uống thuốc và lời cầu nguyện cho được khỏi bệnh. Cả hai phương pháp: đi bác sĩ/uống thuốc và cầu nguyện cho được khỏi bệnh đều bổ túc cho nhau để phục hồi sức khoẻ.
Tuy nhiên có những trường hợp người ta vừa đi bác sĩ, vừa uống thuốc, vừa cầu nguyện với đầy lòng tin tưởng mà bệnh vẫn không được khỏi. Như vậy thì phải giải thích thế nào? Thưa rằng khi Ðức Giêsu còn tại thế, Người có chữa bệnh tật của một số ít người, nhưng mục đích chính của việc Ðức Giêsu xuống thế là để chữa bệnh tật linh hồn của loài người. Ðược chữa trị khỏi bệnh tật phần xác là một niềm vui và là một hồng ân, ta cần tạ ơn Chúa. Tuy nhiên ta cũng phải nhận thức rằng mỗi người phải đi qua tiến trình của kiếp sống con người: sinh, lão, bệnh, tử, để ta có thể chấp nhận những giai đoạn cuối của cuộc đời. Trước khi Ðức Giêsu xuống thế cứu chuộc, thì tác giả sách Khôn ngoan đã nhận ra vì tội ganh tị của quỉ dữ, mà sự chết về phần linh hồn đã lọt vào thế gian (Kn 1:24). Do đó Ðức Giêsu đến để phục hồi sự sống cho hồn thiêng loài người.
Lời cầu nguyện xin cho được ơn giải thoát khỏi bệnh tật đau khổ:
Lậy Chúa Giêsu nhân lành hay thương xót!
Cũng như Chúa đã chữa trị bệnh tật
của người đàn bà loạn huyết
và cho con gái viên trưởng hội đường được sống lại
vì họ bầy tỏ lòng tin xác tín vào Chúa.
Xin Chúa cũng chữa trị bệnh tật của những người
kêu cầu đến Chúa, gồm cả chính con
với tất cả lòng chân thành, khiêm tốn và tin tưởng
để chúng con được tự do phụng thờ Chúa
với lòng an vui thanh thoả. Amen.
(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
ĐỨC TIN MẠNH MẼ NHỜ HÀNH ĐỘNG
Một lần kia, trong cuộc phỏng vấn trên truyền hình, Mẹ Têrêxa Calcutta phải đối diện với một phóng viên không mấy thiện cảm đối với Giáo Hội. Mẹ Têrêxa nói với ông: “Tôi nghĩ rằng ông nên có đức tin”. Người phóng viên hỏi: “Tôi phải làm gì để có đức tin?” Mẹ Têrêxa đáp: “Ông hãy cầu nguyện”. Ông chống chế: “Tôi không biết và không thể cầu nguyện”. Mẹ Têrêxa dịu dàng nói: “Tôi sẽ cầu nguyện cho ông. Nhưng về phần ông, ông hãy cố gắng mỉm cười với những người chung quanh ông. Vì một nụ cười có thể đánh động được tâm hồn người khác. Một nụ cười có thể cho chúng ta cảm nghiệm được Thiên Chúa hiện diện trong cuộc sống chúng ta”.
Đúng thế, những hành động cụ thể thường hùng hồn hơn, có khả năng thuyết phục hơn những lời nói suông. Trong bài Tin Mừng, người phụ nữ bị hoại huyết được chữa lành hoàn toàn do lòng thương xót Chúa. Người phụ nữ bệnh hoạn này theo luật Môisê, là một người ô uế, không được ra trước công chúng. Ấy thế mà hôm nay dám ra trước đám đông, lách qua đám đông rồi tiến đến gần Chúa Giêsu. Vì quá tin vào Chúa, bà ta đã biểu lộ đức tin của mình, dù có khó khắn cách mấy, bao lâu đến mấy, bất chấp luật cấm phiền phức và khắt khe, người ta xua đuổi khinh chế bà đến với Chúa Giêsu và chỉ cần chạm đến Chúa là chắc chắn được khỏi bệnh. Đức tin của bà quá sống động, cực kỳ vững mạnh cho nên Chúa Giêsu đã xác nhận và ban thưởng cho bà: “Lòng tin của con đã cứu chữa con”.
Rồi đến ông Gia-ia có đứa con gái mắc bệnh nặng thập tử nhất sinh, ông đến xin Chúa cứu chữa con ông. Lòng tin mạnh mẽ của ông được bộc lộ ra qua tất cả con người ông, nghĩa là qua các cử chỉ cũng như lời yêu cầu của ông. Thực vậy, khi đến trước mặt Chúa, ông quì sụp dưới chân Chúa, đây là một cử chỉ dành riêng cho Thiên Chúa trong Cựu ước, cử chỉ này chứng tỏ ông tin và nhận ra Chúa là Đấng Thiên Sai. Cử chỉ thứ hai là ông xin Chúa đến đặt tay trên cháu, để nó được cứu thoát và được sống. Nhận thấy lòng tin mạnh mẽ của ông, Chúa đi tới nhà ông và cho con gái ông sống lại.
Chúng ta hôm nay đã có đức tin, chúng ta đã tin Chúa Giêsu nhờ Phép Rửa Tội. Điều quan trọng là sống lòng tin như thế nào trong cuộc sống hôm nay. Khi vui và hạnh phúc hay khi gặp thử thách, hoạn nạn, đau khổ tinh thần hay thể xác thì sao đây?
Niềm tin, lòng tin hay đức tin thì không thể nhìn thấy, bởi vì nó không phải là vật chất nhưng nó là một cái gì đó có thật, nhưng thuộc về tinh thần. Người ta không thể thấy được nó nhưng người ta có thể biết nó có nhờ khi nó biểu lộ qua hành động bên ngoài. Cũng như không ai nhìn thấy lòng tin của ông Gia-ia và của người đàn bà băng huyết, nhưng qua thái độ, lời nói và cử chỉ của họ đã biểu lộ lòng tin của họ. Cũng vậy, chúng ta có đức tin hay không, chẳng ai biết, nhưng khi thấy chúng ta đi lễ, thấy chúng ta đi vào nhà thờ nghiêm trang, người ta có thể biết được chúng ta là người có đức tin. Như thế, một điều chúng ta có thể ghi nhận là: đức tin chỉ ở trong lòng thôi thì chưa đủ mà còn phải biểu lộ ra bên ngoài bằng hành động. Cho nên, Thánh Giacôbê nói: “Ai bảo rằng mình có đức tin mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích lợi gì? Đức tin có thể cứu người ấy được chăng? đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết” (Gc 2,14.17). Còn thần học gia Arialdo Beni nói rằng: “Đức tin thật sự là đức tin dấn thân. Nó được thể hiện trong chiều kích qui Thiên Chúa và qui tha nhân. Chính trong cuộc sống thực tiễn và trong tương quan với tha nhân mà đức tin trở thành sống động”.
Vì thế, chúng ta cần phải thể hiện đức tin mạnh mẽ qua những hành động như ông Gia-ia vàngười phụ nữ hiên ngang mà không hổ thẹn, vững chắc chứ không hồ nghi, dẻo dai và can đảm nhưng đầy tin tưởng trong tâm hồn, thế là đủ. Chúa cũng đang chờ đợi ở chúng ta những tâm tình như thế trong từng biến cố, hoàn cảnh trong cuộc sống. Đó là cách thẩm định đức tin của chúng ta. Niềm tin ấy, như Mẹ Têrêxa Calcutta đã nói: “Phải được biểu lộ và nuôi dưỡng, dù chỉ bằng một nụ cười hay một ánh mắt cảm thông”.
Cho nên, trong bài đọc 2 Thánh Phaolô dạy chúng ta phải trổi vượt về mọi mặt: về đức tin, lời giảng, sự hiểu biết, lòng nhiệt thành trong mọi lãnh vực, và về lòng bác ái. Ước gì, Lời Chúa hôm nay xin cho mỗi người chúng ta luôn thể hiện đức tin của mình một cách mạnh mẽ qua việc sống thương người: Cho kẻ đói ăn. Cho kẻ khát uống. Cho kẻ rách rưới ăn mặc. Viếng kẻ liệt cùng kẻ tù rạc. Chôn xác kẻ chết. Rồi, lấy lời lành mà khuyên người. Mở dậy kẻ mê muội. Yên ủi kẻ âu lo. Răn bảo kẻ có tội. Tha kẻ dể ta. Nhịn kẻ mất lòng ta. Cầu cho kẻ sống và kẻ chết. Amen.
Đoạn Tin mừng sáng hôm nay cho chúng ta thấy các tông đồ đang ở vào một tình thế tuyệt vọng. Lời van xin của họ dường như bị sóng biển vùi lấp:
– Lạy Thầy, xin cứu chúng con.
Chúa Giêsu rất có thể lên tiếng trách cứ các ông:
– Bộ các con không hiểu rằng bao lâu Thầy còn ở với các con, thì không một tai ương hoạn nạn nào có thể xảy ra.
Thế nhưng lời van xin ấy lại rất bình thường và gần gũi với bản tính của chúng ta. Lời van xin xuất phát từ trái tim của một tạo vật nhỏ bé, như muốn xác quyết rằng: Vấn đề thật vô phương cứu chữa, chỉ mình Chúa mới có thể giúp đỡ.
Thế nhưng ngày hôm nay, liệu chúng ta có còn tìm thấy những lời van xin đầy tin tưởng và hy vọng như thế hay không? Nếu chúng ta hỏi những người lính chiến rằng: Vào những lúc nguy hiểm có bao giờ các bạn đã nghĩ tới Chúa và xin Ngài giúp đỡ hay không. Hầu như tất cả đều trả lời rằng không.
Nếu chúng ta hỏi những người lái xe rằng khi xảy ra tai nạn có bao giờ các bạn nghĩ tới đời sau và xin Chúa phù trợ hay không. Hầu như tất cả đều trả lời rằng không.
Chiếc tàu Dora với một ngàn bảy trăm hành khách, chẳng may gặp nạn và chìm dần xuống biển, người ta đã ghi nhận được một cảnh tượng thật trái ngược trong thời điểm hoảng hốt đó. Các cô thì lo giữ lấy đôi giày của mình. Các bà thì lo giữ lấy những bộ áo của mình. Các ông thì lo giữ lấy ví tiền của mình. Chỉ có một em bé năm tuổi là đã quỳ gối cầu nguyện.
Ngay cả bản thân chúng ta cũng thế. Mỗi khi gặp phải tai ương hoạn nạn, chúng ta vùng vẫy, chúng ta kêu gào, chúng ta làm mọi cách để thoát khỏi tai ương hoạn nạn ấy, nhưng lại không biết mở miệng kêu xin: “Lạy Chúa, xin Chúa cứu giúp con kẻo con chết mất. Chỉ mình Chúa mới có thể bảo đảm cho con được an toàn”.
Chúng ta cũng giống như dân ngoại. Chẳng tìm thấy hướng đi cũng như ánh sáng cho cuộc đời chúng ta. Ngày xưa mỗi khi mất mùa đói kém giặc giã xảy ra, người ta kêu cầu Chúa: “Lạy Chúa xin giúp đỡ con”.
Người ta tổ chức những cuộc rước kiệu, những cuộc hành hương để kêu cầu Chúa. Còn chúng ta ngày hôm nay thì sao? Ngày hôm nay, người ta có rất nhiều phương tiện, chẳng hạn như thuốc trụ sinh, công ty bảo bảo hiểm, và người ta cảm thấy không còn cần đến sự trợ giúp của Chúa nữa. Và tệ hơn nữa, người ta muốn trục xuất Thiên Chúa ra khỏi những sinh hoạt cá nhân và xã hội. Người ta muốn thay trời vắt đất làm mưa. Người ta sống như không còn sự hiện diện của Ngài nữa.
Từ những điều vừa trình bày chúng ta đi tới kết luận: Bao lâu Chúa Giêsu còn ở trong chúng ta thì không một tai nạn nào có thể xảy ra. Tuy nhiên con người thời nay lại không hiểu là như thế. Do đó, vấn đề cần phải đặt ra cho mỗi người, đó là Chúa Giêsu có thực ở trong thuyền đời chúng ta hay không. Tôi đã phản ứng và hành động như thế nào trong những hoàn cảnh đen tối. Tôi có biết hướng tới Chúa và xin Ngài giúp đỡ hay không? Đó là những câu hỏi mà mỗi người chúng ta phải tự tìm lấy lời giải đáp.
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Cái gì cũng có hệ lụy riêng. Có khởi đầu thì có kết thúc; có sinh thì có tử; có tội thì bị phạt; có công thì được thưởng; có nguyên nhân thì có kết quả hoặc hậu quả, gọi là quy luật nhân quả. Và còn nhiều hệ lụy khác. Đó là những hệ lụy tất yếu của cuộc sống.
Thiên Chúa là Chúa của sự sống, Ngài chỉ có những ước muốn thánh thiện, và trao ban mọi điều tốt lành cho mọi người: “Thiên Chúa không làm ra cái chết, chẳng vui gì khi sinh mạng tiêu vong” (Kn 1:13). Tại sao? “Vì Ngài đã sáng tạo muôn loài cho chúng hiện hữu, mọi loài thọ tạo trên thế giới đều hữu ích cho sinh linh, chẳng loài nào mang độc chất huỷ hoại. Âm phủ không thống trị địa cầu” (Kn 1:14). Thật vậy, “đức công chính trường sinh bất tử” (Kn 1:13-15).
Ngài tốt lành nên Ngài cũng muốn chia sẻ những điều đó cho chúng ta: “Thiên Chúa đã sáng tạo con người cho họ được trường tồn bất diệt. Họ được Ngài dựng nên làm hình ảnh của bản tính Ngài” (Kn 2:23). Người ta tạo ra cái kia hay vật nọ, nhưng không ai làm ra cái gì giống mình. Vậy mà Thiên Chúa đã tạo nên chúng ta giống hình ảnh Ngài, và còn phú cho bản chất thiện hảo: Nhân chi sơ tính bổn thiện. Sinh ra ai cũng tốt lành, “nhưng chính vì quỷ dữ ganh tị mà cái chết đã xâm nhập thế gian” (Kn 2:24a), và chắc chắn rằng “những ai về phe nó đều phải nếm mùi cái chết” (Kn 2:24b). Chúng ta đã lây nhiễm điều xấu, càng sống lâu càng tội nhiều, thế nên chúng ta luôn được “cảnh báo” bằng sự chết, vậy mà vẫn không ai sợ. Phàm nhân quá bướng bỉnh và ngang tàng. Chưa thấy quan tài chưa đổ lệ!
Dù vậy, Thiên Chúa vẫn muốn chúng ta cải tà quy chánh, trở nên những người thực sự tốt lành: “Hãy hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5:48). Nhưng chúng ta vẫn cố chấp, ngang nhiên nghe lời xúi giục của ba thù (xác thịt, thế gian, ma quỷ) mà phạm tội. Chính chúng ta là “đại thù đệ nhất” của chính mình. Vậy mà Thiên Chúa vẫn xót thương, không nỡ làm ngơ, nên Ngài lại sai Con Một Giêsu nhập thể và chịu chết để cứu độ chúng ta. Còn hạnh phúc nào hơn! Vì thế, chúng ta phải thành tâm thân thưa: “Lạy Chúa, con xin tán dương Ngài, vì đã thương cứu vớt, không để quân thù đắc chí nhạo cười con” (Tv 30:2).
“Ngài đã kéo chúng ta lên từ âm phủ, tưởng đã xuống mồ mà Ngài thương cứu sống” (Tv 30:4). Tác giả Thánh vịnh cảm nghiệm như vậy nên kêu gọi: “Hỡi những kẻ tín trung, hãy đàn ca mừng Chúa, cảm tạ thánh danh Ngài” (Tv 30: (Tv 30:5). Không cảm tạ Ngài sao được, vì Ngài quá tốt lành, vượt ngoài tầm hiểu của phàm nhân chúng ta: “Ngài nổi giận, giận trong giây lát, nhưng yêu thương, thương suốt cả đời. Lệ có rơi khi màn đêm buông xuống, hừng đông về đã vọng tiếng hò reo” (Tv 30:6). Không vì lòng thương xót của Thiên Chúa thì chúng ta đừng hòng được gì. Vả lại, chính Chúa Giêsu đã dạy chúng ta tôn sùng Thánh Tâm Ngài van xin Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Ngài đã “bật đèn xanh”, thế nên chúng ta đừng cố chấp và cũng đừng ngần ngại cầu xin: “Lạy Chúa, xin lắng nghe và xót thương con, lạy Chúa, xin phù trì nâng đỡ” (Tv 30:11). Khúc ai ca được Chúa đổi thành vũ điệu hoan ca, và cởi áo sô mà mặc cho chúng ta lễ phục huy hoàng. Vì thế, chúng ta không thể nín lặng mà không ca ngợi Ngài: “Lạy Chúa là Thiên Chúa con thờ, xin tạ ơn Ngài mãi mãi ngàn thu” (Tv 30:13), đồng thời loan truyền hồng ân thương xót ấy cho mọi người cùng nhận biết.
Kinh nghiệm đầy mình, Thánh Phaolô khuyên: “Cũng như anh em từng trổi vượt về mọi mặt: về đức tin, lời giảng, sự hiểu biết, lòng nhiệt thành trong mọi lãnh vực, và về lòng bác ái mà anh em đã học được nơi chúng tôi, anh em cũng phải trổi vượt về lòng quảng đại” (2 Cr 8:7). Tốt về lĩnh vực này thì cũng cần tốt về lĩnh vực kia. Có “máu xấu” này cũng dễ “nhiễm” thói xấu khác. Mắc bệnh này rồi sẽ dễ mắc bệnh khác. Người tốt càng thêm tốt, người xấu càng thêm xấu. Cũng là hệ lụy tất yếu vậy. Cuộc sống đã và đang cho thấy ai mê đắm cái gì thì sẽ chết vì chính cái đó. Sinh nghề, tử nghiệp. Để cứu vãn, không gì hơn là phải tin theo Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, Đấng đã có lòng quảng đại vô cùng. Thánh Phaolô giải thích: “Ngài vốn giàu sang phú quý nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giàu có” (2 Cr 8:9). Thật lạ!
Thánh Phaolô nói cặn kẽ hơn: “Vấn đề không phải là bắt anh em sống eo hẹp để cho người khác bớt nghèo khổ. Điều cần thiết là phải có sự đồng đều. Trong hoàn cảnh hiện tại, anh em có được dư giả, là để giúp đỡ những người đang lâm cảnh túng thiếu, để rồi khi được dư giả, họ cũng sẽ giúp đỡ anh em, lúc anh em lâm cảnh túng thiếu. Như thế, sẽ có sự đồng đều” (2 Cr 8:13-14), y như lời đã chép: “Kẻ được nhiều thì không dư, mà người được ít thì không thiếu” (2 Cr 8:15). Đó mới là yêu thương thực sự, yêu thương triệt để, không yêu thương bằng lời nói suông mà bằng cả hành động. Hành động mới đủ sức thuyết phục và “nói” to hơn ngôn ngữ. Thiên Chúa rất thực tế khi Ngài đặt vấn đề: “Có người nào trong anh em, khi con mình xin cái bánh, mà lại cho nó hòn đá?” (Mt 7:9).
Chúa Giêsu thực tế trong từng lời nói, cử chỉ và hành động. Thánh sử Máccô kể rất tỉ mỉ, rõ ràng, dễ tửng tượng ra các diễn biến từng chi tiết: Một lần nọ, Đức Giêsu xuống thuyền trở sang bờ bên kia Biển Hồ. Một đám rất đông tụ lại quanh Ngài. Chợt có một ông trưởng hội đường tên là Gia-ia đi tới. Vừa thấy Đức Giêsu, ông ta sụp xuống dưới chân Ngài và khẩn khoản nài xin: “Con bé nhà tôi gần chết rồi. Xin Ngài đến đặt tay lên cháu, để nó được cứu thoát và được sống” (Mc 5:23). Chúa Giêsu đang vội, không rảnh, nhưng Ngài không do dự, không chần chừ, mà liền đi theo ông.
Khi đó, đám đông chen lấn đi theo xem sự thể ra sao. Trong đám đông đó có một bà kia bị băng huyết đã 12 năm, bao phen khổ sở vì chạy thầy chạy thuốc đã nhiều đến tán gia bại sản mà vẫn tiền mất tật mang, lại còn thêm nặng là khác. Bà nghe đồn về Đức Giêsu, bà cố lách qua đám đông, tiến đến phía sau Ngài, và sờ vào áo của Ngài, vì bà tự nhủ: “Tôi mà sờ được vào áo Ngài thôi, là sẽ được cứu” (Mc 5:28). Lạ thay, máu cầm lại tức khắc, và bà cảm thấy trong mình đã được khỏi ngay chứng băng huyết. Lúc đó, Đức Giêsu thấy có một năng lực tự nơi mình phát ra, Ngài liền quay lại giữa đám đông mà hỏi: “Ai đã sờ vào áo tôi?” (Mc 5:30).
Nghe Thầy mình hỏi vậy, chắc là các môn đệ nghĩ Thầy mình quá lẩm cẩm và ngây ngô hết sức, nên họ thưa: “Thầy coi, đám đông chen lấn Thầy như thế mà Thầy còn hỏi: Ai đã sờ vào tôi?” (Mc 5:31). Hỏi thế thì… “bó tay”. Nhưng Đức Giêsu vẫn ngó quanh để nhìn người phụ nữ đã làm điều đó khiến bà này sợ phát run lên vì biết cái gì đã xảy đến cho mình. Biết không thể giấu được, bà đến phủ phục trước mặt Ngài và nói hết sự thật với Ngài. Ngài nhẹ lời: “Này bà, lòng tin của bà đã cứu chữa bà. Bà hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh” (Mc 5:34). Mắc chứng nan y mà được khỏi hẳn. Bà ta sướng rơn, sướng như người về từ cõi chết!
Chúa Giêsu luôn đề cao đức tin. Ngài không nói Ngài chữa lành mà chính niềm tin của chúng ta khả dĩ chữa lành chúng ta – cả tâm bệnh và thể bệnh.
Đang lúc đó, có mấy người từ nhà ông trưởng hội đường đến bảo: “Con gái ông chết rồi, làm phiền Thầy chi nữa?” (Mc 5:35). Nghe vậy, Đức Giêsu liền trấn an ông trưởng hội đường: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi” (Mc 5:36). Một lần nữa, Chúa Giêsu lại nhấn mạnh đức tin. Rồi Ngài không cho ai đi theo mình trừ ông Phêrô, ông Giacôbê và em ông này là ông Gioan. Đến nhà ông trưởng hội đường, Đức Giêsu thấy người ta khóc lóc, kêu la ầm ĩ. Ngài bước vào nhà và bảo họ: “Sao lại náo động và khóc lóc như vậy? Đứa bé có chết đâu, nó ngủ đấy!” (Mc 5:39). Chết mà bảo ngủ. Quái lạ! Ông Giêsu này “tâm thần” chắc! Thế nên người ta xầm xì chế nhạo Ngài.
Ngài bắt họ ra ngoài hết, rồi dẫn cha mẹ đứa trẻ và những kẻ cùng đi với Ngài vào nơi nó đang nằm. Ngài cầm lấy tay nó và nói: “Ta-li-tha kum”, nghĩa là: “Này bé, Thầy truyền cho con: trỗi dậy đi!” (Mc 5:41). Lập tức con bé đứng dậy và đi lại được. Ai nấy đều kinh ngạc sững sờ. Họ câm họng, hết dám xào xáo. Đức Giêsu không trách họ mà chỉ nghiêm cấm họ không được để một ai biết việc ấy. Ngài còn thực tế đến nỗi bảo người nhà cho con bé ăn.
Lạy Chúa, chúng con thật đắc tội với Ngài ngay từ những ý nghĩ hão huyền của chúng con. Cúi xin Ngài thương xót mà đại lượng ân xá. Xin Chúa mở lòng trí chúng con để chúng con cũng biết sống thực tế như Ngài, biết sẵn sàng hành động theo Ý Ngài và biết cương quyết khước từ những gì trái Ý Ngài. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’ – Radio Veritas Asia)
Ngày 17/9/1961, máy bay chở ông Đavít Hamacon, Tổng thư ký Liên hiệp quốc, đã ngộ nạn trên không phận nước Congo, Phi Châu. Ông Hamacon không chỉ là người hoạt động cho hòa bình và là một nhà chính trị lỗi lạc, ông còn là một nhà tu đức có chiều sâu. Sau khi ông qua đời, tại căn phòng của ông ở Nữu Ước, người ta đã tìm được tập tài liệu đánh máy, ghi lại những suy tư và cầu nguyện hằng ngày của ông. Trong tập tài liệu này người ta đọc thấy những dòng như sau: “Thiên Chúa sẽ không chết, ngày mà chúng ta không còn tin ở thần linh nào nữa. Nhưng chính chúng ta sẽ chết, ngày nào cuộc sống của chúng ta không còn thấm nhập bởi ánh sáng của phép lạ không ngừng xảy ra, phép lạ mà lý trí chúng ta không biết từ đâu tới”.
Cái chết mà ông Đavít Hamacon nói trên đây chính là cái chết của tinh thần con người. Khi tinh thần con người không còn vượt qua khỏi chính mình để đi vào chiêm niệm, nghĩa là đi vào thế giới ở bên ngoài khả năng nắm bắt của lý trí, thì đó là lúc nó trở nên cằn cỗi và chết dần chết mòn.
Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta đi vào thế giới ấy, thế giới của những câu hỏi “tại sao”, mà lý trí con người không thể lý giải được. Phép lạ một người đàn bà bị băng huyết được chữa lành nhờ chỉ chạm đến áo của Chúa Giêsu, và phép lạ một em bé gái chết được Chúa Giêsu cho sống lại; cả hai phép lạ đều phát xuất từ lòng tin của con người. Ông trưởng hội đường đã biểu lộ lòng tin bằng cách lặn lội tìm đến với Chúa Giêsu xin Ngài tới đặt tay trên con gái của ông; người đàn bà băng huyết tin một cách mãnh liệt nơi sức mạnh phát xuất từ con người Chúa Giêsu. Nơi ông trưởng hội đường, lòng tin được tuyên xưng tỏ tường; nơi người đàn bà băng huyết, niềm tin rụt rè kín đáo. Nhưng dù tỏ tường hay kín đáo, chính lòng tin đã giúp cho phép lạ xảy ra, như Chúa Giêsu đã nói với người đàn bà: “Lòng tin của con đã cứu chữa con”.
Niềm tin làm cho con người được sống, điều này vẫn thường xảy ra trong đời sống con người. Tất cả những thành công trong cuộc sống đều nhờ ở niềm tin, nhưng niềm tin tôn giáo thì quan trọng hơn, bởi vì chính sự sống tinh thần và tâm linh mới là điều cần thiết cho con người đạt được thành công. Có tất cả, nhưng thiếu đời sống tâm linh, con người vẫn như sống dở. Sống sung mãn, sống dồi dào, chính là sống nội tâm. Chỉ có một đời sống nội tâm sung mãn mới giúp con người thấy được, cảm nhận được những gì mà giác quan và lý trí không thể đạt được.
Cuộc sống vốn là một phép lạ, từng hơi thở con người là một phép lạ, mỗi ngày là một phép lạ, mỗi phút giây là một phép lạ. Chỉ có đôi mắt nội tâm mới cho con người cảm nhận được phép lạ triền miên ấy. Sống đích thực, sống dồi dào, là biết chiêm ngưỡng để đón nhận phép lạ từng ngày ấy.
Nguyện xin Chúa ban cho cuộc sống chúng ta luôn được thấm nhập bởi ánh sáng của phép lạ triền miên ấy.
(Suy niệm của Peter Feldmeier – Lm. GB. Văn Hào SDB, chuyển ngữ)
CON CHIÊN NHỎ BÉ, HÃY CHỖI DẬY
“Thiên Chúa không làm ra cái chết, chẳng vui gì khi sinh mạng tiêu vong” (Kn 1,13)
Trong giáo xứ tôi coi sóc trước đây, có một phụ nữ tên Irish đã trải qua một cơn ác mộng khủng khiếp: Con trai của chị vừa mới chết lúc tuổi đời còn rất trẻ. Chồng của chị cũng đã mất vài năm trước. Khi cậu con trai chết cách đột ngột, tâm hồn chị tan nát, và chị nói rằng trên đời này chẳng còn điều gì tồi tệ hơn thế.
Sau đám tang vài tuần, tôi gặp chị. Chị suy sụp và tuyệt vọng hoàn toàn. Khoảng một tháng sau, tôi không thấy chị đến nhà thờ nữa, và tôi lại phải đến thăm chị. Chị ta bực bội, tâm hồn rối bời và cảm thấy rất bất mãn với chính Thiên Chúa. Chị ta khó chịu và nói với tôi: “Cha xem, tôi đã cho Thiên Chúa rất nhiều. Suốt 50 năm, tuần nào tôi cũng đến nhà thờ, tôi đọc kinh cầu nguyện với Chúa mỗi ngày. Tôi gửi con cái vào học tại các trường công giáo. Thế nhưng, tôi nhận lại được những gì? Đứa con trai tôi đã chết một cách tức tưởi. Đó là điều Thiên Chúa đã tặng cho tôi một cách ác độc. Tôi nói với Chúa rằng sao Ngài lại dã tâm như thế, và tôi hoàn toàn thất vọng về Ngài.”
Lúc đó, có lẽ không cần tôi phải biện minh cho Thiên Chúa để bảo vệ Ngài. Chính Ngài có thể làm điều này. Tôi chỉ thinh lặng lắng nghe và để đồng cảm với nỗi đau của người phụ nữ khốn khổ kia. Nhưng tôi vẫn suy nghĩ mãi một điều: Tại sao Thiên Chúa vẫn để cho cái chết xảy ra? Tại sao Thiên Chúa đã dựng nên vũ trụ và con người chúng ta, lại để cho cái chết tự do tung hoành? Cái chết đến với chúng ta mang chở ý nghĩa gì?.. Câu trả lời giản đơn theo khoa học, thì tất cả vật thể đều sẽ tiêu tan hay biến đổi, và thân xác con người cũng không thoát khỏi định luật vật lý đó. Nhưng câu trả lời theo thần học được nhắc tới trong chính bài đọc thứ nhất của phụng vụ hôm nay, trích từ sách Khôn ngoan. Tác giả viết “ Thiên Chúa không làm ra cái chết, chẳng vui gì khi sinh mạng tiêu vong… Thiên Chúa đã sáng tạo con người cho họ được trường sinh bất tử. Họ được dựng nên làm hình ảnh của bản tính Ngài” (Kn 1,14; 2,23).
Vậy thì cái chết đến từ đâu? Phần cuối của bài đọc hôm nay đưa ra câu trả lời rất rõ ràng: “Chính vì quỷ dữ ganh tị mà cái chết đã xâm nhập thế gian, và ai về phe nó đều phải nếm mùi cái chết” (Kn 2,24). Thánh Phaolô đã đồng hóa quỷ dữ với con rắn mà sách khởi nguyên phác vẽ. Nó chính là căn nguyên gây nên cái chết, hay nói cách khác sự chết là hậu quả của tội Adam (Rm 5,12). Nhưng chúng ta đừng nên phóng tưởng và nghĩ rằng nếu nguyên tổ không sa ngã, thì sự chết đã không xảy ra. Định luật thiên nhiên luôn còn đó và vẫn mãi chi phối thân xác con người. Tác giả sách Khôn ngoan cũng xác nhận điều này, và còn minh giải thêm rằng ngay cả người công chính cũng sẽ phải chết. Thiên Chúa có là Thiên Chúa của sự sống hay không, thì sự chết vẫn luôn phủ trùm trên thân phận mọi người chúng ta.
Nhưng, sách Khôn ngoan xem cái chết của người công chính chỉ như là một khúc dạo đầu ngắn ngủi, đưa dẫn vào giai đoạn phục sinh vinh quang. Đó là lúc chúng ta được nghỉ ngơi an bình trong tay Chúa. Khi ấy, người công chính sẽ sống một cách sung mãn và ngập tràn hạnh phúc như thuở ban đầu lúc mới được tạo thành. “Linh hồn những người công chính ở trong tay Chúa, và chẳng cực hình nào động tới được nữa… Họ đang hưởng an bình. Khi đến giờ được Thiên Chúa viếng thăm, họ sẽ rực sáng như tia lửa… và Đức Chúa sẽ là vua của họ đến muôn đời (Kn 3,2.8).
Thánh giáo phụ Irênê đã viết: “Vinh quang của Thiên Chúa là con người chúng ta được sống”. Thiên Chúa tạo nên sự sống. Ngài luôn muốn chúng ta sống và sống dồi dào, cho dù chính Đức Giêsu đã phải nếm trải khổ đau và kinh qua cái chết. Bài Tin mừng hôm nay cũng gợi mở cho chúng ta chân lý này.
Ông Giairô đã khấn xin Đức Giêsu đến nhà ông để chữa lành cho cô con gái đang ốm nặng sắp chết. Trên đường đi đến nhà ông, một phụ nữ bị bệnh loạn huyết suốt 12 năm đã sờ chạm đến áo của Chúa và bà đã được khỏi bệnh. Rõ ràng, Đấng Thánh của thiên Chúa (Mc 1,24) không bị nhiễm uế khi có người bệnh đụng đến mình, không giống như luật Moise đã viết (Lv 12,4). Ngài nói với người phụ nữ: “Lòng tin của con đã cứu con”. Vào thời điểm đó, cô con gái ông Giairô cũng đã tắt thở và không qua khỏi cơn nguy kịch. Đức Giêsu liền khơi dậy một niềm tin giống như đức tin của người phụ nữ nói ở trên. Ngài đến bên giường, cầm lấy tay đứa bé và nói “Talithakoum”. Marcô sử dụng hạn từ Aram này để nói lên sự thân thiết và lòng thương cảm sâu xa từ sâu tận đáy lòng của Đức Giêsu. “Talithakoum” có nghĩa là “Hỡi con chiên nhỏ bé, hãy trỗi dậy”. Đức Giêsu ám thị rằng Ngài như người chăn chiên nhân lành luôn phủ bóng yêu thương trên tất cả đàn chiên mà Ngài dẫn dắt. Vi mục tử tốt lành ấy muốn các con chiên của mình được sống và sống dồi dào.
Người phụ nữ bị bệnh loạn huyết và cả cô con gái ông Giairô sau này chắc chắn cũng đã chết, giống như tất cả mọi người chúng ta. Điều này xảy ra không phải vì Đức Giêsu đã thất bại trong việc chữa lành, hay Ngài chỉ tạm đình hoãn cái chết nơi cô gái, và cái chết là điều chắc chắn sẽ đến, không ai có thể trốn thoát. Nhìn sâu hơn, chúng ta sẽ nhận ra rằng, cả hai phép lạ trên nhằm khải thị một chân lý. Đó là Đức Giêsu muốn vén mở cho chúng ta một chân trời mới, một hoạch định mới trong vương quốc cánh chung sau cùng. Trong vương quốc đó, chúng ta sẽ được sống và sẽ sống mãi vì được kết hợp nên một với Thiên Chúa, đấng hằng sống và không bao giờ chết.
Những phép lạ được trình thuật hôm nay công bố cho dân chúng thời xưa cũng như cho chúng ta ngày hôm nay biết rằng Thiên Chúa luôn đồng hành với chúng ta trong những bầm dập và khổ đau của phận người. Ngài sánh bước cùng chúng ta với một con tim thương cảm sâu xa. Ngài bảo đảm cho chúng ta rằng cái chết không phải là một dấu chấm kết tận, kết thúc lịch sử cuộc sống con người một cách vô nghĩa. Bởi vì, Thiên Chúa mãi luôn là Thiên Chúa của sự sống. Trong Ngài, chúng ta sẽ không bao giờ phải chết.
21. Chúa Giêsu là Đấng Ban Sự Sống
Thiên Chúa là chủ sự sống. Ngài đã tạo dựng nên chúng ta và có quyền trên sự sống của chúng ta. Khi con người đánh mất sự sống đời đời, chính Chúa Giêsu đã đến để cứu con người khỏi sự chết bằng sự hy sinh trên thập giá, mang lại sự sống đời đời cho loài người.
Trong bài tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu tỏ mình là Đấng ban sự sống, Đấng cứu chữa bệnh tật để con người được sự sống tròn đầy cho loài người chúng ta.
- Chúa Giêsu chữa bà bị băng huyết 12 năm:
Trên đường đi chữa bệnh cho em bé, có người phụ nữ bị xuất huyết 12 năm. Bà đã chịu cực khổ và chạy thuốc nhiều năm nhưng bệnh không thuyên giảm mà tiếp tục tăng nặng hơn, khiến bà lúc nào cũng ở trong tình trạng ô uế, phải tránh xa mọi người, sự sống của bà đang cạn kiệt dần dần. Nhờ chạm vào Chúa Giêsu là nguồn sống với niềm tin chân thật, sức mạnh từ Chúa đã chữa lành bà, đem lại cho bà sức sống mới.
- Chúa Giêsu cho bé gái hồi sinh:
Khi nghe biết con gái ông trưởng hội đường hấp hối, Chúa Giêsu liền đi với ông, nhưng dọc đường, người nhà báo là con ông đã chết. Gia đình ông định bỏ cuộc nhưng Chúa Giêsu đã củng cố lòng tin của họ. Ngài không để đám đông đi theo nhưng cùng với 3 tông đồ thân tín đi đến nhà ông. Chúa Giêsu là Đấng có quyền trên sự sống nên Ngài không ngại đến nhà ông và ban sự sống cho em bé dù em đã tắt thở.
- Chúa Giêsu tự mình sống lại:
Chúa Giêsu là chủ sự sống, từng ban sự sống chp người khác, dù là người đang bệnh hay đã chết nhiều ngày như Lazarô. Thế nên, khi Ngài cho đi mạng sống mình để cứu chuộc nhân loại như Chúa Cha đã định thì Ngài cũng có quyền chỗi dậy để chúng ta nắm chắc sự sống lại mai sau trên nước Ngài hiển trị.
Chúa Giêsu là sự sống, chúng ta là môn đệ của Ngài phải là những sứ giả đem Tin mừng sự sống đến cho mọi người. Ai gặp khó khăn trong cuộc sống như nghèo khó về vật chất hay tinh thần thì chúng ta phải giúp đỡ họ: bằng lời an ủi, khích lệ cho những ai gặp khó khăn tinh thần; bằng cơm bánh, của cải vật chất cho những ai gặp cảnh túng thiếu. Đó cũng là những gì mà thánh Phêrô trong Bài đọc II nhắn nhủ các tín hữu Corintô: anh em trổi vượt người khác về lòng tin, về hùng biện, sự hiểu biết, thì cũng phải trổi vượt trong việc phúc đức theo gương Chúa Giêsu. Ngài giàu sang đã trở nên thân phận nghèo khó vì chúng ta để nhờ đó, chúng ta trở nên giàu có, từ thân phân nô lệ trở nên con cái thiên Chúa. Vậy chúng ta cũng phải biết giúp đỡ nhau, đem Sự Sống là Đức Kitô ngự trong chúng ta cho thế giới được tràn đầy bình an đời này và nhất là hạnh phúc đời sau.
Lạy Chúa Giêsu là nguồn sức sống của chúng con, xin cho chúng con được đầy tràn sức sống của Chúa để chúng con trở nên những chứng nhân rao truyền sự sống của Chúa trên khắp địa cầu và nhiều người được ơn cứu độ.
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
BÍ QUYẾT THẦN DIỆU ĐỂ ĐẠT ĐƯỢC ĐIỀU MONG ƯỚC
Có một ông vua rất đỗi giàu sang và vô cùng quảng đại. Nhà vua có một kho tàng đầy ắp những báu vật mọi người hằng mơ ước. Nhà vua tuyên bố với thần dân rằng bất cứ ai muốn lấy bất cứ thứ gì trong kho tàng vô tận của vua thì cứ lấy, miễn là phải dùng một loại chìa khoá rất đặc biệt mới mở được kho tàng. Chìa khoá ấy, vua cũng chỉ cho biết là đang nằm trong tầm tay mọi người. Tiếc thay, người ta không biết đó là chìa khoá thần kỳ và chưa mấy ai đem ra sử dụng.
Khi nghe tin nầy, nhiều người nao nức hỏi: Vị vua đại lượng đó là ai? Kho tàng nằm ở đâu? Chìa khoá nào mở được kho tàng, xin mau mau cho biết.
Đức vua đó chính là Thiên Chúa quyền năng. Kho tàng của Người là vô vàn phúc lộc không bao giờ vơi cạn. Chìa khoá để mở kho tàng ấy là lòng tin. Ai có lòng tin mạnh mẽ, người đó có thể mở được cửa kho tàng và chiếm lấy những gì mình muốn. Ai không có lòng tin, thì đành bó tay và chẳng thu lượm được gì.
Hai sự kiện thánh sử Mác-cô thuật lại trong Tin Mừng hôm nay minh chứng cho chân lý nầy:
– Trường hợp người phụ nữ bị bệnh băng huyết
Một người phụ nữ bị băng huyết đã mười hai năm, đã lắm phen tìm thầy chạy thuốc nhưng bệnh của bà vẫn vô phương cứu chữa. Nay gặp Chúa Giêsu, bà mừng như người sắp chết đuối vớ được tấm phao.
Vì luật cấm những người mang thứ bệnh nhơ uế như bà tiếp cận với người khác (Lv 15,25) nên bà không dám công khai gặp Chúa Giêsu, chỉ len lén tiến lại phía sau lưng Người, tự nhủ lòng rằng: “mình chỉ cần sờ được vào áo Người thôi là sẽ được cứu”. Và điều nhiệm mầu đã xảy ra: bà vừa đụng vào áo Chúa Giêsu thì tức khắc huyết cầm lại và bà được chữa lành.
Chúa Giêsu biết có một năng lượng từ mình xuất ra nên quay lại tìm hiểu và khi người phụ nữ thú nhận việc bà vừa làm, Chúa Giêsu bảo: “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh.”
Chính Chúa Giêsu xác nhận lòng tin là chìa khoá thần kỳ mở ra cho người đàn bà kho tàng chứa đựng điều mà bà khao khát: được chữa lành chứng bệnh nan y.
– Trường hợp ông trưởng hội đường
Đang cùng Chúa Giêsu tiến vội về nhà để nhờ Chúa cứu chữa đứa con gái đang hấp hối, thì người nhà của ông trưởng hội đường chạy đến báo cho ông biết rằng con gái ông chết rồi, đừng phiền Chúa đến nhà làm gì mất công.
Nghe vậy, Chúa Giêsu động viên ông ta: “ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi”. Tin là được. Thế rồi, nhờ lòng tin, con gái ông đã được cứu sống.
Một lần nữa, Tin Mừng chứng tỏ cho thấy lòng tin là chìa khoá đem lại ân sủng nhiệm mầu: đứa con gái thân yêu chết rồi nay được cứu sống!
Còn nhiều sự kiện khác được ghi lại trong Tin Mừng chứng tỏ cho thấy phải có lòng tin thì mới đạt được điều mong muốn và không có lòng tin thì chẳng được gì (Mt 13, 58). Lòng tin có thể chuyển núi dời non. Với lòng tin, người ta làm được tất cả như lời Chúa Giêsu dạy: “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi nầy: “rời khỏi đây, qua bên kia!” nó cũng sẽ chuyển qua, và sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được” (xem thêm: Mt 17, 19-20; Mt 15, 28; Mt 21, 21-22)
Quả vậy, điểm lại những khuôn mặt đạt được thành công lớn lao trên thế giới, ta thấy rằng nguyên nhân chính giúp họ thành đạt là nhờ mạnh tin. Vững tin rằng mình sẽ làm được thì sẽ được như ý.
Như thế, lòng tin là bí quyết để thành công trên đường đời, và cũng là chìa khoá mở vào kho tàng ân sủng của Thiên Chúa.
Lạy Chúa, lòng tin của chúng con còn yếu kém nên chẳng thu hoạch được gì. Xin ban thêm lòng tin để chúng con có thể mở được kho tàng ân sủng của Chúa.
(Suy niệm của Lm. Quốc Toản, CMC)
Một giáo sư đại học tự xưng mình là vô thần. Một hôm ông tuyên bố trước mặt các sinh viên rằng ông sẽ chứng minh được là không có Thiên Chúa. Ông chế diễu: “Này Chúa, nếu Chúa thật sự hiện hữu thì tôi muốn Chúa đánh ngã tôi văng khỏi bục giảng này. Tôi cho Chúa đúng 15 phút.”
Cả phòng yên lặng, và mười phút trôi qua, ông lại ngạo mạn: “Tôi đang ở đây, và tôi đang chờ đợi.” Một anh lính mới giải ngũ rời khỏi chỗ ngồi đi lên gặp vị giáo sư và tặng ông một cú đấm thật mạnh vào mặt, khiến ông văng khỏi bục giảng, ngã xuống bất tỉnh. Sau đó, anh lính bình tĩnh về chỗ ngồi.
Vị giáo sư dần dần tỉnh lại, nhìn anh lính và hạch hỏi: “Có chuyện gì với anh vậy? Tại sao anh lại đánh tôi?” Anh lính trả lời: “Thiên Chúa đang quá bận rộn, nên ngài gửi tôi tới.” (God is too busy, so He sent me).
Thiên Chúa của chúng ta là Đấng như thế nào? Phải chăng Ngài tạo dựng vũ trụ và rồi thoải mái ngồi chơi xơi nước không để ý chuyện thế gian hay vẫn tiếp tục quan tâm đến cuộc sống của các thụ tạo? Phải chăng Ngài quá bận rộn chăm sóc những nhân vật quan trọng và vì thế không còn đủ thời giờ để săn sóc quan tâm đến những người tầm thường bé nhỏ?
Qua hình ảnh nhân loại của Chúa Giêsu, tin mừng hôm nay đã trình bày khuôn mặt sống động của một Thiên Chúa luôn yêu thương quan tâm: Đám đông dân chúng đã đang tụ họp lắng nghe Chúa giảng dạy. Đây là dịp tốt thuận lợi để truyền bá giáo lý, nên chắc hẳn Chúa đã chuẩn bị cẩn thận bài nói chuyện. Đang chia sẻ, bỗng dưng chương trình của Chúa bị xáo trộn, khi ông Giairô trưởng hội đường, đến cắt ngang bài nói chuyện và xin Chúa chữa con gái ông sắp chết. Nhìn thấy nỗi khổ của người cha, Chúa đã sẵn lòng hy sinh bỏ chương trình kế hoạch riêng của Chúa để đáp ứng nhu cầu của người cần cứu giúp. Không thấy tin mừng ghi lại Chúa phàn nàn kêu ca vì phải cắt ngang bỏ dở chương trình.
Rồi trên đường đi, Chúa cảm thấy có người đụng chạm, người đó là một người đàn bà bị bệnh loạn huyết. Thật dễ hiểu nếu Chúa có trở nên bất nhẫn với bà: “Tại sao bà lại làm phiền tôi chứ? Bà không thấy rằng tôi đang phải cứu giúp con ông trưởng hội đường khỏi chết sao? Bà và chuyện của bà có thể đợi được mà?”
Nhưng thay vì bất nhẫn hay trách móc, Chúa Giêsu đã nhận thấy người đàn bà cũng đáng thương, và tuy dù bệnh tật của bà không quan trọng bằng chuyện đứa con sắp chết của ông Giairô nhưng cũng là điều thật quan trọng đối với bà. Với lòng thương cảm, Chúa bảo bà: “Này con, đức tin của con đã chữa con, hãy về bình an và được khỏi bệnh.”
Qua đoạn tin mừng hôm nay, chúng ta thấy được hình ảnh của một Thiên Chúa yêu thương quan tâm. Có người bảo: “Ngài không quá bận để điều khiển vũ trụ. Ngài có thời giờ cho những nhân vật quan trọng có tên tuổi như ông Giairô trưởng hội đường, nhưng Ngài cũng có thời giờ cho người tầm thường bé nhỏ như người đàn bà không tên tuổi bị bệnh loạn huyết. Ngài có thời giờ cho Đức Giáo Hoàng, cho các vị lãnh đạo, cho những người quan trọng, và Ngài cũng có thời giờ cho những người tầm thường như chúng ta.”
Kiểm điểm lại cuộc sống, có lẽ chúng ta cần phải khiêm nhường xin ơn tha thứ vì rất có thể nhiều lần chúng ta không quá bận như Thiên Chúa nhưng đã không dành thời giờ cho anh chị em khi họ cần đến sự giúp đỡ của chúng ta. Hơn nữa, thay vì ân cần lắng nghe theo dõi đáp ứng những nhu cầu của anh chị em, chúng ta đã nhẫn tâm nhắm mắt bịt tai xua đuổi. Có lẽ còn lâu lắm và không biết đến bao giờ chúng ta mới học được ở nơi Chúa bài học cảm thông nâng đỡ, và được nên giống Chúa?
Nếu ngày hôm xưa Chúa đã có thời giờ cho dân chúng, đáp ứng những nhu cầu của họ, thì ngày hôm nay Ngài cũng có thời giờ cho mỗi người chúng ta. Điều quan trọng là chúng ta có đi đến với Chúa, và kêu xin Người giúp đỡ?
Nếu Chúa đã có thời giờ cho chúng ta, phải chăng chúng ta cũng có thời giờ cho anh chị em chúng ta? Chúa và anh chị em đang chờ đợi câu trả lời của mỗi người chúng ta.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
“Nếu tôi chạm vào gấu áo của Nguời thì tôi sẽ được khỏi bệnh” (Mc 5, 28). Sự đụng chạm này đã linh nghiệm. Người phụ nữ được chữa lành khỏi bệnh băng huyết. Sức khoẻ của bà được phục hồi. “Người cầm lấy tay em bé và nói: Talithakum …lập tức em bé đứng dậy và đi lại được” (Mc 5,41-42). Cái cầm tay này đã linh nghiệm. Em bé đã được hồi sinh. Ôi, có những cái đụng chạm tuyệt vời, những cái đụng chạm làm phát sinh điều tốt đẹp. “ Thầy coi, đám đông chen lấn Thầy như thế mà Thầy còn hỏi: Ai đã chạm đến Ta?” (c. 31). Quả thật, trong một ngày, một tuần… không biết bao lần ta đụng chạm, tiếp xúc với tha nhân cách này hay cách khác. Có nhiều cái đụng chạm, tiếp xúc hoá thành sự gặp gỡ và phát sinh hiệu quả tốt đẹp nhưng cũng có nhiều cái đụng chạm, tiếp xúc trở nên sự đụng độ và gây ra hậu quả chẳng hay. Khi sinh thời, rất nhiều người đã tiếp xúc với Chúa Giêsu và họ đã hưởng nhận biết bao ơn lành. Tuy nhiên cũng không ít người tiếp xúc với Chúa mà kết quả xem ra xấu xa và tồi tệ hơn chẳng hạn như phần lớn các luật sĩ, biệt phái… Có thể khẳng định cái yếu tố khiến cho những sự tiếp xúc phát sinh những kết quả trái ngược như thế, đó là ý hướng, thái độ của người tiếp xúc: tin tưởng hay hoài nghi vì đố kỵ.
“Này bà, lòng tin bà đã cứu chữa bà. Bà hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh”. “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi” (Mc 5,34.36). Những lời của Chúa Giêsu nói với người phụ nữ bị băng huyết và với ông trưởng hội đường qua bài Tin Mừng hôm nay khiến ta liên tưởng đến lòng tin. Thật vậy, đọc Tin Mừng ta phải chân nhận rằng chính do bởi lòng tin của người ta mà Chúa Giêsu đã làm phép lạ để chữa lành bệnh tật, xua trừ ma quỷ hay phục sinh kẻ chết… Hình như chỉ mỗi một lần Chúa biểu dương uy quyền để củng cố đức tin người ta như phép lạ hoá nước thành rượu tại Cana. Tuy nhiên xét cho cùng, phép lạ ấy cũng được xuất phát từ lòng tin của Mẹ Maria. Mẹ đã vững tin nên dù nghe câu trả lời như từ chối của Chúa Giêsu thì Mẹ vẫn biểu gia nhân: “ Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (Ga 2,5). Niềm tin làm phát sinh nhiều hiệu quả tốt đẹp lạ thường. Niềm tin giúp ta vượt qua nhiều trở ngại, khó khăn. Niềm tin có sức chữa lành tật bệnh và khiến ta vui sống. Quả thật nếu không có lòng tin ở nhau thì ta thật khó mà tồn tại và phát triển. Chúa Giêsu đã từng nói với các môn đồ: Nếu các con có lòng tin bằng hạt cải thì các con có thể lấp biển, dời non. Điều kiện có vẻ như tiên quyết mà Chúa Giêsu đòi hỏi ở những ai muốn Người thi ân giáng phúc đó là tin vào Người.
Tin Mừng còn dẫn chứng cho ta hay rằng những người không tin vào Chúa Giêsu có thể nói là các Thượng tế, luật sĩ và biệt phái. Dĩ nhiên không phải là tất cả nhưng hầu như đại đa số trong họ. Một trong những nguyên cớ khiến họ không tin vào Chúa Giêsu đó là lòng ganh tương đố kỵ. Bài đọc thứ nhất, sách Khôn ngoan nói rõ: “Chính vì quỷ dữ ganh tị mà cái chết đã xâm nhập thế gian. Những ai về phe nó đều phải nếm mùi cái chết” (Kn 2,24). Vì lòng ganh tương đố kỵ mà nhiều người đang lãnh đạo Do Thái giáo thời bấy giờ dù có tiếp xúc với Chúa thì cả “những cái họ đang có cũng sẽ bị lấy mất”.
Ganh đua và ganh tị xem ra gần giống nhau ở đích nhắm. Cả hai đều không muốn kẻ khác hơn mình. Trong khi người ganh đua thì tìm cách học hỏi, nỗ lực rèn luyện…để vươn lên cho hơn người thì kẻ ganh tị chỉ loay hoay tìm cách hạn chế, hạ bệ kẻ khác để họ phải thua mình. Dĩ nhiên, kẻ ganh tị sẽ không trừ một thủ đoạn nào. Đặc biệt khi kẻ ganh tị lại lợi thế hơn nhờ chức quyền, địa vị thì thủ đoạn sẽ tinh vi và nhiều khi đi đến chỗ bất nhân cách trắng trợn nếu không muốn gọi là vô liêm sỉ. Như lời tác giả sách Khôn ngoan thì đằng sau kẻ ganh tị luôn có bóng dáng của Thần Dữ và hậu quả là “sự chết” cho cả người bị ganh tị lẫn kẻ ganh tương đố kỵ.
Mẹ Hội Thánh, đặc biệt từ sau Công Đồng Vaticanô II luôn cổ võ con cái mình tích cực gặp gỡ, đối thoại với thế giới, với anh em khác đạo và với cả anh em vô thần. (x.MV 92; TG 12). Ai cũng mong cuộc gặp gỡ, đối thoại giữa ta và tha nhân mang lại kết quả. Thánh Công Đồng dạy ta cần phải khiêm tốn lắng nghe trong chân thành và sẵn sàng đón nhận những khác biệt chính đáng của tha nhân. Để có được thái độ này tiên vàn ta phải có lòng tin vào tha nhân. Tin vào thiện ý và thiện chí của nhau là tiên đề của mọi cuộc tiếp xúc hay đối thoại.
Chúa Giêsu đã làm guơng cho ta về thái độ này. Ngoại trừ một số người mà Chúa Giêsu đã biết rõ lòng dạ chai đá của họ, thì để khơi gợi lòng tin nơi những người mà Người gặp gỡ, Người thường đi bước trước bằng cách tin vào họ. Chính nhờ tin vào một chút thiện hảo nơi tấm lòng thiếu phụ Samaria bên bờ giếng Giacop, Chúa Giêsu đã đốt lên niềm tin của chị. Tin Mừng thứ tư đặc biệt nhấn mạnh đến chủ đề lòng tin. Những bài tường thuật về công việc của Chúa Giêsu cũng như những bài diễn từ khá dài của Người thường xoay quanh chủ đề lòng tin. Mặc dù thấy rõ sự cứng lòng tin của nhiều người Do Thái thế mà Chúa Giêsu vẫn không ngừng rao giảng và dùng việc làm để minh chứng cũng đủ cho ta thấy Chúa luôn hy vọng, tin tưởng. Chúa ban ơn tha thứ vì Người tin ở ta. Chúa không ngần ngại sửa dạy cả những người có chức có quyền thời bấy giờ vì Người tin tưởng sẽ có ngày họ đổi thay.
Giữa Hội Thánh và Chính Quyền các cấp, giữa ta và anh chị em lương dân hay khác đạo, giữa ta với ta, bậc bề trên và người bề dưới trong đạo, điều lý tưởng là có sự tiếp xúc chứ không phải đụng độ, có sự đối thoại chứ không phải đối đầu. Để lý tưởng này được hiện thực, thiết nghĩ cần phải có lòng tin vào nhau. Những người biệt phái, tư tế, luật sĩ thời Chúa Giêsu, họ thiếu lòng tin thường là do bởi lòng ganh tị. Họ ganh tị vì không muốn cái anh thợ mộc Giêsu này hơn mình hay qua mặt mình.
Lòng tin thường phát xuất từ tình yêu. Hiện thực cuộc sống cho ta thấy điều này: tình yêu đến trước rồi đôi nam nữ dần tin nhau chứ không phải vì họ tin nhau trước rồi họ mới yêu nhau. Để xây dựng lòng tin, trước hết ta hãy có một chút tình. Ta hãy đi bước trước trong việc yêu thương như Chúa Giêsu yêu thương. Nguời không chỉ chăm sóc các môn đệ mà còn tìm mọi cách để cho các ông sinh hoa kết trái và tạo điều kiện để các ông “làm được nhiều việc lớn lao hơn cả những việc Người làm” (x.Ga 14,11-12).
Nếu như Chính Quyền không sợ Hội Thánh gây ảnh hưởng hay ngược lại, nếu như các tôn giáo không sợ nhau chiêu mộ tín đồ, nếu như bề trên không sợ bề dưới tài giỏi hơn mình và nếu… thì sự tiếp xúc, đối thoại chắc chắn sẽ hiện thực. Khi đã có lòng tin ở thiện ý và thiện chí của nhau thì sự gặp gỡ sẽ ở trong tầm tay chúng ta và kết quả là nhiều điều tốt đẹp sẽ diễn ra trước mắt chúng ta..
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’ – Thiên Phúc)
Chuyện kể rằng một bà già bị đau răng, bà đã làm Tuần chin ngày để kính thánh Antôn, vì người ta nói: Thánh Antôn “chuyên trách” về bệnh này. Hết tuần chín ngày bà vẫn còn đau. Lúc đó một vị linh mục đến thăm. Bà liền hỏi:
- Xin cha nói cho con biết: có phải thánh Antôn chuyên trách bệnh đau răng không?
Vị linh mục nói:
- Bà hãy nghe tôi: Đây là địa chỉ của nha sĩ. Hãy đến đó và nói là tôi giới thiệu, họ sẽ làm không công cho bà.
Bà già la lên:
- Trời đất ơi, một ông linh mục vô thần.
Thánh Antôn tự nhủ:
- Kể ra cũng đau lòng, để nhận lời cầu nguyện của bà, chính ta đã gởi đến cho bà vị linh mục này. Thế mà!
***
Nếu bà già trong câu chuyện suy niệm bài Tin Mừng hôm nay, chắc bà sẽ không làm cho thánh Antôn phải thất vọng. Người phụ nữ xuất huyết trong bài Tin Mừng và bà già đau răng trong câu chuyện trên, cả hai đều tin tưởng vào Chúa. Nhưng niềm tin của họ có sự khác biệt rất lớn. Người phụ nữ xuất huyết nghĩ mình phải làm điều gì đó chứ không chỉ tin suông. Bà đến với Chúa chứ không chờ Chúa đến với mình. Bà già đau răng thì cầu nguyện rồi chờ phép lạ. Bà không chịu làm gì nữa. Ông Giairô cũng tin rằng Chúa có thể cứu sống con gái ông. Ông làm hết sức mình. Con gái ông hấp hối không thể đến với Chúa được, nên ông đã xin Chúa đến chữa cho con gái ông.
Cộng tác với ơn Chúa là điều kiện để Chúa ban ơn. Chúng ta không thể chỉ thụ động chờ Chúa làm phép lạ, nhưng hãy sử dụng hết những phương tiện bình thường Chúa ban. Phần còn lại tùy Chúa định liệu cho ta. Thánh Ignatio de Loyola đã cho chúng ta lời khuyên bất hủ này: “Hãy làm như thể mọi việc tùy thuộc chúng ta, và hãy cầu nguyện như thể mọi việc tùy thuộc Thiên Chúa”. Mc Kenzie nói: “Khi ta cố gắng làm những gì có thể, Thiên Chúa sẽ làm những điều ta không thể”.
Thiên Chúa ban cho chúng ta quyền tự do, Người không thể thúc ép, nhưng để chúng ta toàn quyền sử dụng tự do của mình. Thiên Chúa không đối xử với chúng ta như những con bù nhìn, nhưng luôn coi trọng chúng ta như những cộng tác viên của Người. Trong các phép lạ Chúa làm, Người đều cần sự cộng tác của con người.
- Trong tiệc cưới Cana, Chúa chỉ làm phép lạ khi người ta đã “múc nước đổ đầy các chum” (Ga 2,7).
- Trong phép lạ về bánh, Người chỉ làm cho bánh hóa nhiều khi “có 5 chiếc bánh và 2 con cá” (Mc 6,35-43).
- Khi chữa mắt cho người mù, Người chỉ thoa bùn vào mắt anh, còn phần anh phải đi rửa ở hồ Silôê mới được sáng mắt (Ga 9,1-40).
Thiên Chúa muốn chúng ta sử dụng hết các khả năng của mình, và Người sẵn sàng can thiệp khi cần. Ngạn ngữ Tây phương có câu: “Hãy tự giúp mình trước rồi Trời sẽ giúp sau”.
***
Lạy Chúa, Chúa yêu thương chúng con với trái tim của người cha người mẹ, Chúa để chúng con hoàn toàn tự do đáp lại tình yêu Chúa. Xin cho chúng con luôn biết sống ngoan ngùy, thảo hiếu, đẹp lòng Chúa. Xin dạy chúng con biết cộng tác với ơn Chúa, để được Chúa ban ơn trợ giúp trong những cơn gian nan khốn khó. Amen.
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB)
Hai phép lạ lồng vào nhau được Tin Mừng Mác-cô tường thuật nêu lên một vấn nạn mà từ lâu nay tôi vẫn lởn vởn trong đầu: tôi có thật sự tin vào Chúa không, và thế nào là một niềm tin đích thực vào Chúa?
Hai phép lạ Đức Giêsu thực hiện rõ ràng là do lòng tin của các nhân vật trong cuộc: Ông trưởng hội đường Gia-i-a và người đàn bà bị băng huyết đã mười hai năm chắc chắn đã tin vào sức mạnh chữa lành của Thầy Giêsu, khi họ đồng loạt khẩn khoản nài xin Người thi thố quyền phép, tuy với những cách thức rất khác nhau – một người ‘sụp xuống dưới chân Người và khẩn khoản nài xin’, trong khi người kia rón rén ‘đến phía sau Người để sờ vào áo của Người’. Trong cả hai trường hợp Đức Giêsu đều xác định: “Lòng tin của con đã cứu chữa con… Chỉ cần ông tin thôi”. Thế nhưng toàn bộ câu chuyện hình như lại cho thấy một điều gì khác thâm sâu hơn; Đức Giêsu đòi bất cứ niềm tin nào đặt nơi Người, cho dầu tự nó đã là rất vững chãi đi nữa, vẫn còn phải được kèm theo một yếu tố không thể thiếu, đó là phó thác cậy trông dứt khoát và không lay chuyển! Người đàn bà có tin nhưng còn không dám, còn rụt rè và run sợ… gia đình ông trưởng hội đường tin đấy, nhưng còn ngại ngùng ‘làm phiền Thầy chi nữa!’ Rõ ràng tín thác cậy trông đã thiếu trong cả hai trường hợp.
Đối với Đức Giêsu, tin vào quyền năng của Thiên Chúa mà thôi là chưa đủ, nói cách khác, Người chờ đợi nơi Kitô hữu của Tân Ước một thái độ tin tưởng phó thác rất độc đáo, không hề tìm thấy nơi bất cứ một tôn giáo nào khác. Các Kitô hữu chúng ta đều biết, mục đích chính Đức Giêsu đến trần gian chắc chắn không nhằm biểu lộ quyền năng hùng mạnh của Thiên Chúa. Để làm được điều này Cựu Ước đã quá đủ; ‘Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh’ (Lc 1:51) qua không biết bao nhiêu là biến cố oai hùng, nhất là các can thiệp khủng khiếp trong biến cố Xuất Hành giải thoát dân riêng. Ngay cả khi Người thực hiện các phép lạ vĩ đại, Người vẫn cho thấy rằng biểu lộ quyền năng Thiên Chúa chỉ là điều rất thứ yếu. Mục tiêu chính của các phép lạ vẫn luôn là, như Người không ngừng khảng định rằng ‘Thiên Chúa yêu thương trần gian’. Chính vì thế mà, đối với người dàn bà rón rén ‘lách qua đám đông, tiến đến phía sau Người, và sờ vào áo của Người’, cho dầu lòng tin của bà có mạnh thật đấy, ‘Tôi mà sờ được vào áo Người thôi, là sẽ được cứu’, nhưng Đức Giêsu vẫn muốn bà nhận ra: có một ‘năng lực tự nơi mình phát ra’ mà chưa ai từng nhận biết, đó là tình yêu xót thương của Thiên Chúa, một tình yêu phải mang đến cho bà tin tưởng và bình an, chứ không phải e dè sợ hãi. “Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh”. Cũng vậy trường hợp ông trưởng hội đường (tương tự như cô Mát-ta trong chương 11 Phúc Âm Gio-an); chắc chắn ông đã tin vào quyền năng của Thiên Chúa, nhưng ông vẫn có phần ngại ngùng rằng yêu cầu của ông đi quá xa, “Con gái ông chết rồi, còn làm phiền thầy chi nữa!” Ngại ngùng đó chứng tỏ ông không hiểu gì về lòng nhân lành thương xót của Đấng mà Đức Giêsu công bố là ‘Cha anh em, Đấng ngự trên trời, lại không ban những của tốt lành cho anh em sao?’ Người phải chấn an ông: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi”, nhưng phải là niềm tin hoàn toàn phò thác và tin tưởng sâu xa nhất.
Tin không chút sợ hãi chắc chắn không phải là một niềm tin bình thường. Niềm tin đó không chỉ dựa vào quyền năng vô biên của Thiên Chúa, mà quan trọng hơn, phải đặt trên tin tưởng vô hạn đặt cơ sở trên chính sự nhân lành của Thiên Chúa tới độ tín thác không chút e dè. Sự tin tưởng của người lính vào tài bầy binh bố trận của vị tướng cầm quân tài giỏi có thể là rất vững chắc, nhưng không thể nào sánh được với sự phó thác của em bé trong vòng tay âu yếm của mẹ nó; một đàng là tin tưởng đặt nền móng trên nắm bắt được sức mạnh của quyền lực, đàng khác là phó thác dựa trên cảm nghiệm được yêu thương. Niềm tin Kitô hữu, kể từ thời các Tông Đồ, không còn đặt nền tảng trên biến cố oai hùng như Xuất Hành qua Biển Đỏ, nhưng là trên cử hành Hiến Tế thập giá. Vì thế niềm tin này, để trưởng thành và vững chãi, sẽ không cần cầu xin một dấu lạ (xem Mt 12:38), nhưng cần cảm nghiệm được tình yêu của Đấng đã ‘chết cho người mình yêu’. Nói cách khác, ánh sáng đức tin Kitô hữu không giãi sáng từ trí óc nhưng từ con tim (hãy ngắm nhìn bức ảnh ‘Lòng Thương Xót Chúa’). Và do đó câu tuyên xưng đức tin đúng đắn nhất của mọi Kitô hữu sẽ không còn là ‘tôi tin kính một Thiên Chúa toàn năng!’ (I believe in God almighty), nhưng phải là ‘Con tín thác nơi Chúa’ (Jesus, I trust in you), vì chỉ mình Người mới là Đấng không những quyền phép, nhưng trên hết là từ nhân.
Tôi thiết nghĩ cốt lõi của phong trào ‘Lòng Thương Xót’ hệ tại ở việc biến đổi thâm sâu trong đức tin của mỗi Kitô hữu chúng ta.
Lạy Chúa Từ Nhân, như thánh nữ Tê-rê-xa Hài Đồng, con xin Chúa cho con được nếm cảm sự an bình thư thái ‘như bé thơ trong vòng tay mẹ hiền’. Xin cho con một đức tin không vương chút âu lo sợ hãi, bất chấp những yếu hèn vô tận của con người mỏng dòn. Xin cho con luôn biết chiêm ngắm Thập Giá như nguồn cậy trông phó thác duy nhất đời con, bây giờ và nhất là trong giờ lâm tử. Amen.
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
- Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Chúng ta rất sợ sự chết, chúng ta đau buồn khi một người thân phải chết, và chúng ta sợ hãi khi nghĩ đến ngày chúng ta chết. Tuy nhiên, đức tin dạy chúng ta rằng Thiên Chúa tạo dựng chúng ta là để cho chúng ta được sống, và đàng sau cái chết thể xác là một cuộc sống vĩnh cửu.
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy chăm chú lắng nghe Lời Chúa để củng cố niềm tin của chúng ta, đồng thời hãy sốt sắng cầu xin Chúa cho chúng ta biết sống ở đời này như thế nào để sau đó được sống hạnh phúc muôn đời với Chúa.
- Gợi ý sám hối
- Chúng ta quá lo lắng cho cuộc sống thể xác mà không chăm lo cuộc sống linh hồn.
- Nhiều khi đức tin của chúng ta bị lung lay khi chứng kiến bệnh tật và cái chết của những người thân.
- Chúng ta sớm quên những người thân đã qua đời.
III. Lời Chúa
- Bài đọc I (Kn 1,13-15; 2,23-24)
Sách Khôn ngoan được soạn khoảng thế kỷ thứ I trước công nguyên. Đây là một sưu tập những tư tưởng khôn ngoan của các bậc hiền triết của nhiều thế hệ.
Trích đoạn sách Khôn ngoan này chứa đựng chân lý nền tảng về sự sống và sự chết:
– Thiên Chúa tạo dựng loài người giống hình ảnh Ngài, để cho loài người được sống vĩnh viễn.
– Nhưng sở dĩ có sự chết là vì tội lỗi.
- Đáp ca (Tv 29)
Tv này ca tụng Thiên Chúa như là chủ tể của sự sống. Những ai vì tội lỗi mà bị đẩy đến ngưỡng cửa sự chết nhưng biết kêu cầu Ngài thì sẽ được Ngài cứu sốnhg.
- Tin Mừng (Mc 5,21-43)
Trích đoạn này gồm hai phép lạ, và cả hai đều liên quan đến sự sống:
Người phụ nữ bị bệnh loạn huyết đang mất dần sự sống: máu là nguyên lý sự sống, mà bà này đã bị mất máu liên tục 12 năm, nghĩa là sức sống đang dần dần rời xa bà. Vì thế khi Đức Giêsu làm cho bà hết bệnh, là Ngài trả lại sức sống cho bà.
Đứa con gái ông Giairô thì đã chết, sự sống đã hoàn toàn rời khỏi nó. Nhưng Đức Giêsu đã làm cho nó sống lại.
Cả hai trường hợp được cứu sống đều nhờ đức tin: đức tin của người phụ nữ loạn huyết và đức tin của ông Giairô.
Trong đoạn Tin Mừng này, chúng ta còn nghe một lời giáo huấn rất ý nghĩa của Đức Giêsu: Cái chết thể xác chỉ là một giấc ngủ.
- Bài đọc II (2 Cr 8,7.9.13-15)
Mục đích của Phaolô khi viết đoạn thư này cho tín hữu Côrintô là nhằm lạc quyên giúp cho giáo đoàn Giêrusalem đang bị nạn đói.
Phaolô đưa những lý do động viên họ quảng đại bố thí:
– Hãy noi gương quảng đại của Đức Giêsu: dù giàu sang, Ngài đã tự ý trở thành nghèo khó để làm cho loài người được giàu có.
– Tín hữu phải biết chia xẻ cho nhau để ai nấy đều có mức sống đồng đều với nhau: sự dư dả của người này bù đắp sự túng thiếu của người kia. Có như thế, “Kẻ được nhiều thì cũng không dư, mà kẻ có ít thì cũng không thiếu”.
- Gợi ý giảng
* 1. Đức tin nối lại nhịp cầu đã gãy
Giả sử như chúng ta đã đi hết nửa đoạn đường, sắp bước chân qua cầu để sang bờ bên kia đi tiếp đoạn đường còn lại, thì bỗng chiếc cầu sụp đổ rơi tòm xuống sông. Khi đó chúng ta làm thế nào? Chắc là muốn quay trở về đoạn đường cũ.
Người đàn bà mắc bệnh loạn huyết và Ông Giakêu cũng lâm vào một tình cảnh khó xử như vậy:
– Loạn huyết là một chứng bệnh dơ dáy. Người Do thái không chỉ thấy nó dơ dáy về mặt thể lý mà còn coi nó là một thứ ô uế luân lý. Cho nên có luật cấm những kẻ mắc bệnh đó không được đụng chạm tới người khác, chạm tới ai thì người ấy kể như bị lây ô uế đó. Người phụ nữ bị bệnh loạn huyết này cũng không dám cất tiếng kêu xin Đức Giêsu vì sợ người ta biết mình bệnh và xua đuổi mình. Bà định im lặng rờ vào mình Đức Giêsu. Nhưng vậy là phạm luật thánh, là có tội: thật là khó xử.
– Còn ông Giairô thì xin Chúa đến chữa trị cho con gái mình đang bệnh nặng. Đức Giêsu đã chấp thuận, nhưng khi hai người đang trên đường về nhà ông thì ông được tin con gái đã chết. Vậy là hết, vô phương cứu chữa nữa!
Cả bà loạn huyết và ông Giairô đều như sắp bước qua cầu thì chiếc cầu sụp gãy. Thế nhưng họ không quay trở lại bỏ dở đoạn đường. Họ vẫn cố gắng tiến bước:
– Bà loạn huyết không dám rờ vào mình Đức Giêsu thì rờ vào cái tua áo của Ngài vậy.
– Còn ông Giairô thì trong lúc chới với đó đã nghe Đức Giêsu an ủi “Đừng sợ, cứ tin”. Và kết quả là bà kia dứt bệnh, Con gái ông Giairô sống lại. Đức tin của họ đã nối lại nhịp cầu gãy.
Trên đây là 2 trường hợp giúp chúng ta hiểu bản chất của đức tin và sức mạnh của đức tin.
– Tin vào những chuyện dễ dàng, tin khi cuộc sống bình an xuôi thuận thì chưa hẳn là đức tin, đó chỉ là một chuyện đương nhiên thôi.
– Đức tin, một nhân đức căn bản của đạo, phải là vẫn cứ tin vào những chuyện khó khăn vượt quá sức loài người, vẫn cứ tin khi cuộc đời gặp lúc cheo leo. Đức tin vững vàng như vậy có thể làm nên những phép lạ, bởi vì trước một hoàn cảnh quá khó khăn, trong lúc đời sống quá gian nan, nếu ta vẫn tin thì không phải là ta tin vào sức riêng của ta nữa, mà là tin vào sức Chúa, và Chúa thì có thể là được hết mọi sự.
– Như Abraham đã 90 tuổi mới có được một đứa con trai, nhưng vâng lệnh Chúa ông đưa con lên núi sát tế và lòng đau như cắt mà vẫn tin rằng Chúa sẽ thực hiện lời hứa làm cho ông thành tổ phụ một dân đông đảo. Ông vẫn tin và quả thực Chúa đã làm ông thành tổ phụ những người tin.
– Như Phêrô dám bước đi trên mặt nước biển, và ông đã đi được bao lâu ông còn tin vào Chúa. Nhưng khi ông bắt đầu hoài nghi thì cũng là lúc ông bắt đầu chìm xuống.
Chúng ta là những tín hữu, nghĩa là những kẻ tin Chúa. Bấy lâu nay chúng ta vẫn tin Chúa. Nhưng có lẽ bấy lâu nay tin Chúa là điều dễ dàng đối với ta, tin Chúa ta được bình an, tin Chúa đời ta thoải mái, gia đình ta yên vui, việc làm của ta xuôi chảy.
– Có một người mẹ kia có một đứa con nhỏ rất dễ thương, vừa biết nói chuyện dã học đọc kinh, hát thánh ca. Rồi nó lâm bệnh, người mẹ cầu nguyện hết sức, nhưng nó vẫn chết. Từ đó người mẹ không còn cầu nguyện nữa, hình như chị đã hết tin.
– Chúng ta cũng đã từng dự những đám táng: khi chiếc quan tài được hạ huyệt, người ta khởi sự lấp đất lại và trong lúc đó cũng khởi sự đọc kinh Tin Kính “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại”. Biết bao người đã vừa đọc câu đó mà nước mắt ròng ròng.
– Cũng có một ông kia từ ngày gia đình làm ăn sa sút đã đem tượng Chúa quăng ra ngoài sân và từ đó không còn giữ đạo.
– Và biết bao người đã thành thật thú nhận cùng cha giải tội: “con đã ngã lòng rồi!” Cũng như có biết bao người những khi buồn khổ đời không cầu nguyện
Chúng ta hãy cầu xin Chúa thật nhiều cho những người đáng thương kể trên. Và cầu xin cho chính chúng ta được một đức tin vững chắc để không phải chỉ tin Chúa ngày hôm nay khi đời ta còn bình an, vui vẻ. Nhưng vẫn còn đủ sức để tin nếu mai ngày chúng ta rơi vào một hoàn cảnh khó khăn thử thách. Xin Chúa giúp chúng con vẫn cứ tin luôn, tin rằng chúa luôn thương yêu chúng con. Xin Chúa giúp chúng con vẫn cứ tin luôn cho dù gặp bao gian nguy.
* 2. Đừng sợ
Đức Giêsu nói với ông Giairô: “Đừng sợ. Chỉ cần tin thôi!”
Ông Giairô đã đi tìm Đức Giêsu khi con gái ông hấp hối. Khi mời được Ngài theo ông về nhà thì lòng ông tràn trề hy vọng, nhưng có lẽ cũng hồi hộp lo âu vì không biết về tới có còn kịp không. Đang lúc gấp như vậy thì kẹt chuyện người đàn bà loạn huyết khiến cuộc hành trình bị tạm dừng. Chắc ông Giairô sốt ruột thêm. Cuối cùng thì chuyện người đàn bà ấy cũng giải quyết xong và Đức Giêsu tiếp tục cùng ông về nhà. Hy vọng lại sáng lên. Đột nhiên, người nhà chạy đến báo tin: “Con gái ông chết rồi. Làm phiền Thầy chi nữa”. Tất cả hy vọng chợt tắt! Thế là hết. Còn làm gì được nữa. Tiếp tục dẫn Đức Giêsu về nhà chỉ là làm phiền Ngài thêm thôi. Chắc lúc đó Ông Giairô định nói lời cám ơn Đức Giêsu để mau về nhà lo chuyện mai táng cho con gái.
Nhưng, đúng lúc đó, Đức Giêsu nói một câu rất là khích lệ: “Đừng sợ. Chỉ cần tin thôi”. Nhờ câu này, Giairô tiếp tục đưa Đức Giêsu về nhà. Và sau đó là phép lạ. Sau nay nghĩ lại, Ông Giairô hẳn là rất vui mừng vì khi đó ông đã không tuyệt vọng.
Xin Chúa hãy thường xuyên nói vào tai con “Đừng sợ, Chỉ cần tin thôi”. Con rất cần nghe lời động viên đó, vì rất nhiều lần con thấy không còn làm gì hơn được nữa nên muốn buông xuôi bỏ cuộc.
* 3. Hình thức lề luật
– Bài Tin mừng hôm nay thuật lại 2 việc làm của Đức Giêsu. Những việc này không chỉ nhằm chứng tỏ quyền năng của Chúa trên bệnh hoạn và sự chết, mà còn cho chúng ta thấy thái độ và lập trường của Chúa đối với những luật lệ khắc khe và khô cứng của đạo Do thái thời đó.
– Trước hết là việc Chúa chữa cho một người đàn bà mắc bệnh loạn huyết. Theo luật Do thái, người nào mắc chứng bệnh này thì đương nhiên bị liệt vào hàng dơ dáy, ô uế, cho nên không được vào Đền thờ, không được tham dự các lễ nghi phượng tự, và cũng không được đụng tới ai vì hễ ai mà bị người ô uế đụng phải thì cũng trở thành người ô uế luôn. Khỏi cần nói nhiều, chúng ta cũng hiểu bà này đau khổ như thế nào. Trong cơn đau khổ, bà đã nảy ra một ý tưởng táo bạo là tìm cách đụng vào gấu áo Đức Giêsu. Ý định này táo bạo ở chỗ là việc đó trái lề luật, và cũng chẳng ai chịu cho bà ta đụng vào mình đâu vì sợ bị lây nhiễm sự ô uế. Vì thế mà bà này phải làm một cách lén lút. Dù vậy Đức Giêsu vẫn biết. Khi Đức Giêsu hỏi “Ai đã đụng đến ta?” thì bà ta sợ hãi vì thấy việc làm của mình đã bị bại lộ. Nhưng bà ta ngạc nhiên hết sức vì Đức Giêsu chẳng hề quở trách bà một lời nào, trái lại còn làm cho bà khỏi bệnh, và còn an ủi bà “Con hãy đi bình an”.
– Sang câu chuyện của ông Giairô. Ông là Trưởng Hội Đường, nghĩa là một viên chức tôn giáo, một người có trách nhiệm bảo vệ luật đạo. Trước đó ông đã đến xin Đức Giêsu đến nhà ông chữa trị cho con gái ông sắp chết. Đang khi Đức Giêsu cùng đi với ông về nhà thì xảy ra câu chuyện của người đàn bà mắc bệnh loạn huyết mà ta vừa nói ở trên. Bà này đã đụng vào Đức Giêsu nên theo luật thì Đức Giêsu đã trở thành người ô uế. Nếu Đức Giêsu mà vào nhà ông thì cũng theo luật đó, tới phiên nhà ông cũng bị lây nhiễm ô uế luôn. Và việc đó sẽ gây hậu quả to lớn bởi vì như ta đã biết, ông là Trưởng Hội đường, nếu ông không giữ luật mà còn để nhà ông bị Đức Giêsu làm thành ô uế thì có thể ông mất chức luôn. Đang lúc đó thì lại xảy thêm một diễn tiến nữa: Người nhà ông chạy đến cho hay là con gái ông đã chết rồi, đừng làm phiền Đức Giêsu nữa. Trước những sự kiện dồn dập như thế, ông Giairô không còn ý định mời Đức Giêsu về nhà mình nữa. Nhưng Đức Giêsu bảo ông: “Đừng sợ gì cả (nghĩa là: Ông đừng sợ làm phiền tôi, cũng đừng sợ bị lây ô uế), điều cần nhất là lòng tin”. Giairô đã tin Chúa, không còn ngại sợ gì nữa, mời Chúa về nhà, Đức Giêsu cầm lấy tay đưa đứa bé đã chết và truyền cho nó sống lại. Thêm một chi tiết đáng lưu ý: Theo luật thì xác chết cũng là một thứ ô uế, ai đụng tới xác chết thì sẽ bị nhiễm ô uế. Nhưng ta đã thấy, một lần nữa Đức Giêsu đã tỏ ra bất chấp…
– Sau khi nghe giải thích 2 việc làm táo bạo của Đức Giêsu, chúng ta nghĩ sao về Chúa? Có phải Ngài chủ trương phá bỏ tất cả mọi lề luật không? Chắc chắn là không, bởi vì Ngài đã từng tuyên bố rõ: “Các ngươi tưởng là Ta đến để huỷ bỏ lề luật ư? Không, Ta không phá bỏ mà ta làm cho trọn lề luật. Ta nói thật: cho dù trời đất có qua đi, nhưng không một chấm một phết nào của lề luật sẽ qua đi, cho đến khi tất cả được nên trọn”. Nghĩa là những việc là của Đức Giêsu, thoạt xem thì có vẻ như chống đối lề luật, thực chất là nhằm làm cho lề luật được kiện toàn. Thời đó, người ta chỉ giữ luật theo cái hình thức, Đức Giêsu muốn cho cái hình thức ấy có thêm cái tinh thần, chính đó mới là cái cốt tuỷ của lề luật, đó mới là điều quan trọng. Có lần Đức Giêsu đã nói thẳng với bọn luật sĩ và biệt phái chỉ biết chăm lo giữ cái hình thức khô cứng của lề luật mà không để ý gì đến tinh thần lề luật. Chúa nói rằng: “Các ngươi chỉ là những cái mồ mã. Bên ngoài thì sơn phết đẹp đẽ, nhưng bên trong thì chứa toàn những sự thối tha”. Khi bàn về sự tinh sạch và ô uế, Đức Giêsu đã khẳng định rằng tinh sạch hay ô uế thật là do lòng người chứ không do hình thức bên ngoài. Ngài nói: “Cái gì làm cho người ta ra ô uế? Không phải những cái từ bên ngoài vào (như đồ ăn, thức uống chẳng hạn), mà là cái từ bên trong bài tiết ra”.
– Như vậy, lập trường của Đức Giêsu rất rõ ràng: Điều quan trọng cốt lõi của mọi khoản lề luật chính là cái tinh thần của nó. Kẻ nào chỉ bo bo lo giữ cái hình thức bề ngoài mà quên cái tinh thần cốt lỗi của lề luật thì cũng như những cái mồ mã tô vôi bề ngoài thì đẹp nhưng bề trong thì xấu xa hôi thối.
Bây giờ chúng ta đã hiểu ý Chúa rồi. Chúng ta sẽ sống làm sao?
- Thứ nhất là việc dự lễ: Bên các nước tiến bộ, ngày nay có một vấn đề được đặt ra, khá ngộ nghỉnh: người ta hỏi có được phép ngồi ở nhà dự Thánh Lễ được truyền qua màn ảnh vô tuyến truyền hình, khỏi cần đi đến nhà thờ được không? Giáo hội đã trả lời dứt khoát là không được. Bởi vì dự lễ kiểu đó chỉ là một hình thức cho có cho rồi, chẳng có một chút tâm tình tôn thờ, yêu mến, kết hợp với Thánh Thể. Chuyện bên Tây thì vậy, nhưng bên ta cũng có chuyện tương tự như vậy: Nhiều người đi dự lễ nhưng không muốn vào nhà thờ cho dù trong nhà thờ vẫn còn chỗ. Họ đứng ở ngoài, miễn sao là có hướng vào nhà thờ, mắt nhìn về phía bàn thờ. Vậy thì có khác gì xem lễ qua Tivi đâu? chỉ là hình thức, chẳng có tâm tình.
- Thứ hai là luật thánh hóa ngày Chúa nhật: Điều răn thứ ba dạy ta phải thánh hóa ngày Chúa nhật. Nhiều người nghĩ rằng thánh hóa ngày Chúa nhật chỉ là đi xem lễ. Từ quan niệm đó, ai mà có dự lễ gọi thì kể là xong hết bổn phận. Còn ai lỡ kẹt chuyện gì đó không đi xem lễ được thì cũng kể như mình đã lỡ, thôi đành vậy. Chúng ta hiểu điều răn thứ ba như vậy là hời hột quá, chỉ phớt qua một hình thức bề ngoài là dự lễ thôi. Thực ra điều răn này dạy ta phải thánh hóa ngày Chúa nhật. Thánh hóa là làm cho ngày đó nên thánh thiện. Mà muốn làm cho ngày đó nên thánh thiện thì dự lễ chỉ là một việc, ngoài ra còn dành nhiều thời giờ của ngày đó để làm những việc Chúa muốn, như đọc kinh cầu nguyện nhiều hơn, làm thêm những việc lành, lưu ý đến kẻ khác hơn bằng cách dùng ngày nghỉ đó để tới lui thăm viếng, truyện trò, an ủi nhau, giúp đỡ nhau v.v…
- Thứ ba là việc sống đạo giữa đời: Mọi lề luật được đặt ra không phải chỉ là để cho có “hình thức, mà để giúp cho con người có thể sống đạo tốt hơn. Nhưng sống đạo là gì? Không phải chỉ là chu toàn một số hình thức đạo đức như đọc kinh, dự lễ, chịu các bí tích. Sống còn là làm việc, là làm ăn buôn bán, giao tế, biết xử sự tốt, trước những và chạm, khó khăn xảy ra hàng ngày. Giáo Hội thường nói “Sống đạo giữa đời”. HĐGMVN còn nói rõ hơn: sống đạo là “Sống Tin mừng giữa lòng dân tộc”. Cho nên chỉ mới có đọc kinh xưng tội, dự lễ thì chưa phải là sống đạo, mà chỉ là giữ một số hình thức của luật đạo thôi. Khi nào chúng ta biết để ý làm ăn theo lương tâm của người Kitô hữu, cư xử với mọi hạng người theo tinh thần bác ái của Tin mừng thì mới đúng là chúng ta sống đạo thật sự.
10 điều luật Chúa và 6 điều luật Hội Thánh ai trong chúng ta cũng thuộc lòng từ nhỏ. Hình thức bề ngoài của những luật đó là đọc kinh, dự lễ, xưng tội, ăn chay v.v…. Nhưng tinh thần của chúng là “10 điều răn ấy tóm về 2 điều này thôi: mến Chúa và yêu người”. Chúng ta hãy cố gắng đem tinh thần yêu thương ấy vào tất cả mọi sinh hoạt của chúng ta, không những chỉ có các sinh hoạt ở nhà thờ mà còn các sinh hoạt làm ăn, buôn bán, giao tế, buồn vui sướng khổ hằng ngày nữa. Đó mới thực sự là sống đạo giữa đời.
* 4. Cộng tác với ơn Chúa
Chuyện kể rằng một bà già bị đau răng, bà đã làm Tuần chín ngày để kính thánh Antôn, vì người ta nói: Thánh Antôn “chuyên trách” về bệnh này.
Hết tuần chín ngày bà vẫn còn đau. Lúc đó một vị linh mục đến thăm. Bà liền hỏi:
– Xin Cha nói cho con biết: có phải thánh Antôn chuyên trách bệnh đau răng không?
Vị linh mục nói:
– Bà hãy nghe tôi: Đây là địa chỉ của nha sĩ. Hãy đến đó và nói là tôi giới thiệu, họ sẽ làm không công cho bà.
Bà già la lên:
– Trời đất ơi, một ông linh mục vô thần.
Thánh Antôn tự nhủ:
– Kể ra cũng đau lòng, để nhận lời cầu nguyện của bà, chính ta đã gởi cho bà vị linh mục này. Thế mà!
***
Nếu bà già trong câu chuyện suy niệm bài Tin mừng hôm nay, chắc bà sẽ không làm cho thánh Antôn phải thất vọng. Người phụ nữ xuất huyết trong bài Tin mừng và bà già đau răng trong câu chuyện trên, cả hai đều tin tưởng vào Chúa. Nhưng niềm tin của họ có sự khác biệt rất lớn. Người phụ nữ xuất huyết nghĩ mình phải làm điều gì đó chứ không chỉ tin suông. Bà đến với Chúa chứ không chờ Chúa đến với mình. Bà già đau răng thì cầu nguyện rồi chờ phép lạ. Bà không chịu làm gì nữa.
Ông Giairô cũng tin rằng Chúa có thể cứu sống con gái ông. Ông đã làm hết sức mình. Con gái ông hấp hối không thể đến với Chúa được, nên ông đã xin Chúa đến chữa cho con gái ông.
Cộng tác với ơn Chúa là điều kiện để Chúa ban ơn. Chúng ta không thể chỉ thụ động chờ Chúa làm phép lạ, nhưng hãy sử dụng hết những phương tiện bình thường Chúa ban. Phần còn lại tùy Chúa định liệu cho ta. Thánh Ignatio de Loyola đã cho chúng ta lời khuyên bất hủ này: “Hãy làm như thể mọi việc tùy thuộc chúng ta và hãy cầu nguyện như thể mọi việc tùy thuộc Thiên Chúa”. Mc.Kenzie nói: “Khi ta cố gắng làm những gì có thể, Thiên Chúa sẽ làm những điều ta không thể”.
Thiên Chúa ban cho chúng ta quyền tự do, Người không thúc ép, nhưng để chúng ta toàn quyền sử dụng tự do của mình. Thiên Chúa không đối xử với chúng ta như những con bù nhìn, nhưng luôn coi trọng chúng ta như những cộng tác viên của Người.
Trong các phép lạ Chúa làm, Người đều cần sự cộng tác của con người.
– Trong tiệc cưới Cana, Chúa chỉ làm phép lạ khi người ta đã “múc nước đổ đầy các chum” (Ga.2,7)
– Trong phép lạ về bánh, Người chỉ làm cho bánh hóa nhiều khi “có 5 chiếc bánh và 2 con cá” (Mc.6,35-43).
– Khi chữa mắt cho người mù, Người chỉ thoa bùn vào mắt anh, còn phần anh phải đi rửa ở hồ Silôê mới được sáng mắt (Ga.9,1-40).
Thiên Chúa muốn chúng ta sử dụng hết các khả năng của mình, và Người sẵn sàng can thiệp khi cần. Ngạn ngữ Tây phương có câu: “Hãy tự giúp mình trước rồi Trời sẽ giúp sau”.
***
Lạy Chúa, Chúa yêu thương chúng con với trái tim của người cha người mẹ. Chúa để chúng con hoàn toàn tự do đáp lại tình yêu Chúa. Xin cho chúng con luôn biết sống ngoan nguỳ, thảo hiếu, đẹp lòng Chúa. Xin dạy chúng con biết cộng tác với ơn Chúa, để được Chúa ban ơn trợ giúp trong những cơn gian nan khốn khó. Amen. (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)
* 5. Chuyện minh họa
a/ Một bà cụ năng đến nhà thờ cầu nguyện. Một cậu bé lấy làm ngạc nhiên liền theo dõi. Cậu nấp sau bàn thờ nghe bà cầu nguyện lớn tiếng: “Lạy Chúa, con đã già và sống đủ. Bất cứ lúc nào Ngài gọi, con sẵn sàng.”
Bà cầu nguyện suốt ba ngày vẫn những lời ấy. Ngày thứ tư, sau khi bà cầu nguyện, cậu bé giả giọng nói vọng ra từ sau bàn thờ: “Ta đã nghe lời cầu xin của con, Ta sẽ đến đón con lúc chín giờ sáng mai.”
Bà về nhà, không sao ngủ được vì lo lắng về điều đã nghe. Bà không chấp nhận nổi những gì bà đã cầu nguyện.
b/ Bà De Gaulle cho gọi một nhân viên mai táng đến, bảo tìm nơi an nghỉ cuối cùng cho người chồng quá cố. Người này thân hành chở bà đến một sườn đồi, trước mặt là một thung lũng tuyệt đẹp. Ông nói: “Đây là nơi an nghỉ rất xứng đáng với người chồng vĩ đại của bà, và cũng chỉ tốn 200.000 francs”. Trong lúc bà còn đang phân vân, ông ta nói tiếp: “Ông nhà thật đáng hưởng sự ưu đãi đó”. Bà đáp: “Nhưng ông chỉ cần nơi ấy 3 ngày thôi mà!”
- Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Đức Giêsu có thể chữa mọi bệnh tật và làm cho kẻ chết sống lại nữa. Chúng ta hãy tin tưởng và cầu xin Người:
- Lạy Đức Giêsu / Chúa luôn ở với Hội thánh mọi ngày cho đến tận thế / Xin cho giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân trong Hội thánh / luôn tin tưởng và duy trì sự hiệp thông với Chúa trong mọi nơi mọi lúc.
- Lạy Đức Giêsu, nhiều nhà cầm quyền trên thế giới không tin có Chúa, không tin quyền năng của Chúa, mà còn chế giễu công việc của Chúa / Xin giúp họ thoát khỏi lầm lạc và tìm ra sự thật về Chúa.
- Lạy Đức Giêsu, Chúa vẫn có mặt ở khắp nơi trên thế giới / nhưng còn rất nhiều người chưa nhận biết Chúa và chưa tin tưởng Chúa / xin Chúa tỏ quyền năng Chúa cho họ / để họ tìm đến với Chúa.
- Lạy Đức Giêsu, anh chị em giáo hữu trong họ đạo chúng con đã được biết Chúa và biết quyền năng của Chúa / Xin giúp chúng con được đức tin mạnh mẽ hơn / để chúng con giới thiệu Chúa cho mọi người.
Chủ tế: Lạy Chúa, Chúa đã sai Đức Kitô đến cứu thoát chúng con khỏi tội lỗi và chết đời đời, xin cho chúng con biết tin tưởng và chạy đến với Người, mỗi khi gặp bệnh tật và sự chết đe dọa. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô…
- Trong Thánh lễ
Trước kinh Lạy Cha: Theo chủ đề của Lời Chúa hôm nay, trong Kinh lạy Cha sau đây, chúng ta hãy xin Thiên Chúa là Cha giúp chúng ta luôn vâng theo ý Ngài trong lúc mạnh khoẻ cũng như khi bệnh tật, lúc còn sống cũng như khi sắp chết.
Sau kinh Lạy Cha: “Lạy Cha, xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, nhất là sự dữ phải chết muôn đời…”
Trước lúc rước lễ: Đức Giêsu đã phán “Ta là bánh hằng sống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời”. Chúng ta hãy chuẩn bị tâm hồn cho sốt sắng để rước lấy bánh hằng sống ấy. “Đây Chiên Thiên Chúa#”
VII. Giải tán
Anh em hãy ra đi, và bằng cách sống của mình mà loan báo cho mọi người biết rằng ngoài cuộc sống thể xác này còn có cuộc sống muôn đời đang chờ đợi chúng ta.
(Suy niệm của Lm. An Phong)
Tin mừng hôm nay trình thuật câu chuyện Chúa Giêsu làm cho con gái của ông trưởng hội đường Giairô được “chỗi dậy” (Mc 5,40), cùng với việc người đàn bà bị bệnh xuất huyết 12 năm được khỏi bệnh sau khi chạm đến áo Người. Qua hai trình thuật này, chúng ta nhận thấy đức tin là một gặp gỡ, tương giao cá vị, và đem lại ơn giải thoát cho con người.
- Đứa trẻ 12 tuổi, con gái của ông Giairô đã “chết” (Mc 5,35). Nhưng đối với Đức Giêsu, “đứa bé không chết đâu, nó đang ngủ đó” (Mc 5,39) (Thực ra, đứa bé đã chết). Lời này của Đức Giêsu tiên báo việc Người sắp sửa làm, đó là một phép lạ. Như thế, phép lạ là một hồng ân Thiên Chúa khôi phục con người, làm cho họ chỗi dậy, làm cho họ sống, đồng thời đem lại niềm vui và hạnh phúc. Ngày nay, Chúa Giêsu vẫn đang làm chỗi dậy những tâm hồn “đã chết”.
- Người đàn bà được chữa lành trong Tin mừng hôm nay cho thấy một quan niệm đã có vào thời bấy giờ là “năng lực chữa bệnh xuất phát từ nội lực”. Bà đã chạm đến Đức Giêsu, và bà nghĩ, chỉ cần chạm đến Người là bà được khỏi bệnh hoàn toàn. Nhưng Chúa Giêsu nhận biết có sức mạnh đã xuất phát tự mình… và “hỡi con, đức tin của con đã chữa con, hãy về bình an và được khỏi bệnh”. Người đã ban cho bà một sự bình an bên trong, Người đã cứu bà, cho bà thấy Thiên Chúa yêu thương bà, bà thật là quý báu đối với Thiên Chúa, và đời sống của bà có một ý nghĩa lớn lao. Như thế, khi chữa bệnh, Chúa Giêsu muốn cứu vớt con người tự bên trong, muốn giải thoát họ khỏi “run sợ”.
Cả hai phép lạ chữa bệnh hôm nay đều cho thấy Đức Giêsu là đấng chiến thắng sự chết và tội lỗi. Đứa bé đã chết được chỗi dậy, người đàn bà bị bệnh xuất huyết 12 năm – bệnh này là dấu hiệu của tội lỗi – được hồi phục. Đồng thời cũng cho thấy: nhờ đức tin, con người được cứu độ. Sau khi mọi hy vọng, biện pháp chữa trị của con người đã trở nên vô hiệu quả, thì chỉ còn niềm tin mới có khả năng “cứu độ”. Ông Giairô đã tin vào Chúa Giêsu khi con gái ông đang hấp hối, còn người đàn ba, sau 12 năm chữa trị, hầu như đã hoàn toàn tuyệt vọng. Hẳn là vào thời điểm gay go này, khi đứa con sắp chết, ông Giairô chỉ còn niềm hy vọng duy nhất vào Chúa Giêsu? Người đàn bà cũng vậy. Nhưng tất cả đã thay đổi nhờ sự hiện diện của Chúa Giêsu. Người đã đem lại niềm vui và bình an cho những ai tuyệt vọng mà vẫn một lòng cậy trông.
Đức Giêsu hẳn đã nói với mỗi người chúng ta: “Nếu bạn có đức tin bằng hạt cải, thì bạn có thể nói với ngọn núi này ‘hãy di chuyển từ đây đến kia’, nó sẽ di chuyển” (Mt 17,20). Lời này gây cho chúng ta một sự ngạc nhiên. Thực vậy, đây không phải là một lời phóng đại, nhưng là một sự thực được chứng minh qua cuộc đời các vị Thánh. Các vị Thánh là những người đã tin và các ngài đã làm được nhiều điều kỳ diệu. Hẳn là Mẹ Têrêsa Calcutta đã chẳng hề nghĩ đến những giải thưởng cuộc đời ban tặng Mẹ, nhưng Mẹ đã có được những điều đó nhờ đức tin?
Liệu chúng ta có “dám tin vào những lời đầy thách thức” này không? Nhưng chúng ta biết rõ Thiên Chúa là tình yêu, Người sẽ không bỏ rơi những ai trông cậy, tin tưởng vào Người, nhất là những người đang gặp khó khăn và tuyệt vọng. Hãy mở toang cánh cửa tâm hồn cho Thiên Chúa hành động. Hãy tin, dù mọi sự chưa rõ ràng. Hãy chờ đợi Thiên Chúa hành động “ đúng lúc, kịp thời”, nhưng với đức tin.
Lạy Chúa,
Hoa trái của đức tin là cầu nguyện.
Để đức tin có thể triển nở,
xin cho chúng con biết cầu nguyện.
Xin cho chúng con biết tin tưởng và cậy trông,
ngay cả trong những lúc tuyệt vọng.
Lạy Thiên Chúa là Cha,
xin dạy cho chúng con biết
sống là sống trong niềm tin,
niềm cậy trông và tình yêu.
TIN TƯỞNG VÀO CHÚA KHI GẶP ĐAU KHỔ
Trong thông điệp Spe Salvi của Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI, số 36, ngài đã nói đến đau khổ là thành phần của cuộc sống con người. Đối với những đau khổ thể lý, con người đã thực hiện được các tiến bộ đáng kể. Nhưng các khổ đau tinh thần lại gia tăng rất nhiều trong những thập niên vừa qua. Đứng trước hiện trạng như vậy, Đức Giáo Hoàng đã kêu gọi con người phải làm hết sức để vượt thắng đau khổ. Thế nhưng, ngài cũng nhấn mạnh việc loại bỏ hoàn toàn đau khổ ra khỏi thế gian này nằm ngoài tầm tay của con người, vì không ai có đủ khả năng khai trừ quyền lực của sự dữ, của tội lỗi vốn là nguồn gốc của đau khổ. Do đó, Đức Giáo Hoàng đã kêu gọi con người hãy đặt trọn niềm tin tưởng vào Thiên Chúa trước sự đau khổ của con người, bởi vì chỉ có một mình Thiên Chúa mới có thể chữa lành được những đau khổ của nhân loại.
Những lời kêu gọi chúng ta của Đức Giáo cũng là lời mời gọi trong bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Thánh Maccô đã cho chúng ta thấy hình ảnh người đàn bà bị bệnh băng huyết và ông trưởng Hội Đường tên là Giairô đã đến với Chúa Giêsu trong sự tuyệt vọng vì phải chịu những đau khổ về thể xác và tinh thần mà họ không thể kêu cầu với ai để cứu giúp họ.
Người đàn bà đã đến với Chúa Giêsu trong sự tuyệt vọng, vì đã 12 năm bà phải chịu đau khổ vì một chứng bệnh mà đã nhiều lần chữa trị đều vô hiệu trong đôi bàn tay của nhiều bác sĩ. Bà cũng đã trả tiền chữa trị cho đến những đồng bạc cuối cùng, bà đã tận dụng hết mọi khả năng chữa trị của con người, nhưng cũng không thể chữa lành bệnh cho bà. Tuy bà phải chịu nhiều đau khổ về thể xác như vậy, nhưng có lẽ không bằng sự đau khổ về tinh thần mà bà phải chịu khi sống trong xã hội, khi sống với những người xung quanh. Đối với người Do Thái, một người đàn bà bị bệnh băng huyết bị coi là ô uế và bị cấm đụng đến người khác, vì ai đụng chạm đến bà cũng sẽ trở nên ô uế. Cho nên, nỗi đau khổ của bà là một tình trạng cô độc vì bị mọi người xa lánh, bà không thể đến được với ai và cũng không ai dám đến với bà để có thể an ủi và cảm thông với sự đau khổ mà bà phải chịu trong một thời gian dài như vậy.
Đồng thời, cùng với sự đau khổ của người đàn bà bị băng huyết này, thì sự đau khổ của ông trưởng Hội Đường cũng không kém, ông rất đau khổ vì đứa con gái của ông đang trong cơn thập tử nhất sinh. Và khi ông đến kêu cầu Chúa Giêsu thì người nhà cho ông biết là con ông đã chết, do đó, sự đau khổ của ông đã tăng lên gấp bội vì phải vĩnh viễn mất đi đứa con yêu quý của mình.
Thế nhưng, trong sự đau khổ lớn lao như vậy, họ không thể kêu cầu đến bất cứ ai được nữa, không còn ai có thể giúp đỡ họ khi mà nhu cầu của họ vượt quá khả năng của con người, thì họ đã đặt trọn niềm tin tưởng vào Chúa và Chúa đã chữa lành cho họ. “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh”.
Đau khổ là một thực tế mà không ai trong chúng ta trốn tránh được, không ai mà không có đau khổ trong cuộc đời của mình. Hay nói khác hơn, mỗi người đều mang trong lòng mình một nỗi đau, nỗi đau muôn hình vạn dạng, anh chị em đau vì chồng, khổ vì con, anh chị em đau đớn trong thân xác mà khổ sở trong tâm hồn. Đó là một thực tế chúng ta không thể phủ nhận được. Và việc loại trừ đau khổ này nằm ngoài tầm tay của chúng ta và không ai có đủ khả năng để khai trừ sự đau khổ này ngoài Thiên Chúa như chúng ta thấy trong bài Tin Mừng ngày hôm nay, cũng như lời của Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI đã viết trong thông điệp Spe Salvi.
Khi nói về vấn đề này, có một hình ảnh mà chúng ta cần phải noi gương trong cuộc sống của mình, đó là Đức cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận, trong suốt 13 năm giam cầm trong một tình trạng đau khổ về thân xác và tinh thần hầu như tuyệt vọng. Mặc dầu ngài chẳng có tội lỗi gì, một người hiền lành, đạo đức, cả cuộc đời yêu thương, phục vụ người khác mà cuối cùng phải vào nhà tù. Cái hình ảnh đó cho chúng ta thấy một thực tế, đó là không phải mình cố gắng sống đạo đức, sống yêu thương, sống tốt lành mà cuộc đời của mình không có đau khổ, có khi còn phải chịu đau khổ nhiều hơn người khác nữa. Thế mà Đức cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận vẫn đặt trọn niềm tin tưởng vào Thiên Chúa. Chính vì vậy, khi mà Đức Giáo Hoàng nói về Đức cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận trong thông điệp Spe Salvi ở số 32, ngài viết như sau: “Nếu không còn ai nghe tôi nữa, thì vẫn còn có Chúa lắng nghe tôi. Nếu tôi không còn có thể nói chuyện với ai, nếu tôi không còn có thể kêu cầu đến bất cứ người nào, tôi vẫn luôn có thể thưa chuyện với Chúa. Nếu không còn ai giúp đỡ, khi nhu cầu hay mong đợi vượt quá khả năng hy vọng của con người, thì Thiên Chúa vẫn có thể giúp đỡ tôi”.
Chúng ta có thể dùng những lời này làm châm ngôn để an ủi cho mỗi người chúng ta mỗi khi gặp đau khổ, lúc nào cảm thấy cô đơn quá, không ai hiểu mình, không ai nghe mình, không ai thông cảm với mình, thì đừng quên là vẫn còn có Chúa. Hơn nữa, ngay cả khi chúng ta phạm tội, cũng là một sự đau khổ trong tâm hồn của mình, mà không ai có thể chữa lành được cho chúng ta, thì chúng ta hãy mau mắn chạy đến Tòa Giải Tội, nơi đó, Chúa luôn chờ đợi chúng ta, lắng nghe chúng ta và chữa lành cho chúng ta khỏi mọi tội lỗi và đem lại sự bình an trong tâm hồn chúng ta.
Đau khổ là một yếu tố không thể tránh khỏi của nhân loại. Mặc dù con đường đau khổ có thể dẫn chúng ta đến sự tuyệt vọng trong đời sống. Thế nhưng, với niềm tin của chúng ta, chúng ta hãy đặt trọn niềm tin tưởng vào Thiên Chúa, vì chỉ mình Chúa mới có thể giải thoát chúng ta khỏi mọi đau khổ.
Lạy Chúa, trong chương trình quan phòng cứu độ của Ngài, con tin rằng đau khổ không nhận chìm con, nhưng mời gọi con tỉnh thức trong sự cậy trông và tin tưởng. Đau khổ nhắc nhở con thân phận và kiếp sống mỏng manh của mình, để con không quá bám vào bất cứ điều gì hay bất cứ người nào mà chỉ hy vọng vào một mình Chúa mà thôi. Xin ban cho chúng con sức mạnh của lòng yêu mến Chúa để chúng con luôn bình tâm trong mọi nổi khổ đau của cuộc đời mình. Amen.
(Suy niệm của Lm. Thu Băng, CRM)
Nói đến bệnh, có người cho đó là do hậu quả của tội lỗi. Chẳng hạn như: Ăn kẹo sún răng – Uống rượu sinh đau bao tử – Ăn nhiều bội thực – Hút thuốc ho lao…. Không phải thế, nhưng tại vì con bệnh đã có sẵn trong mình, khi gặp được môi trường thích hợp thì nó phát triển thêm. Thực ra đau khổ, bệnh, chết… là một vấn đề nan giải. Tất cả nhắc ta nhớ đến sự yếu hèn, mỏng manh của cuộc sống. Nhắc đến sự mất quân bình của thế giới, nhắc ta hướng lòng tìm sự đẹp đẽ hơn ở nơi Chúa.
Bệnh Lao hiện nay có khoảng từ 10 đến 30 triệu người mắc và mỗi năm chết tới 2 triệu người. Bệnh cùi hơn một triệu. Đó là những bệnh nan y khó trị nhất.
Bài Phúc âm nói đến bệnh loạn huyết người đàn bà chịu 36 năm là một điển hình, nhưng thời Ngài cũng còn bệnh cùi, hủi, đui, điếc, què, liệt, quỉ ám, chết…. mà không vị lang cao tay nào trị được. Còn Chúa Giêsu ngài chữa được hết, nhưng không bằng thuốc mả bằng niềm tin “Tin sao được vậy”. Ngài đã làm vì thương họ.
Đáp lại chúng ta có vì thương Chúa mà hiếu kính Chúa cho trọn đạo làm con? Có trọn nghĩa vụ kẻ thụ ân không? Có tôn nhận Chúa là Chúa và là Cha nhân hiền không? Hãy cảm tạ, hiếu kính, tôn nhận Chúa thực trong tâm hồn và trong hành động đáp đền.
Chuyện kể rằng: ông vua kia sinh được người con, ông gửi hoàng tử đi ngoại quốc từ nhỏ để học hành. Sau nhiều năm chiến tranh không liên lạc được và cũng chẳng còn biết con ở đâu. Khi chết vua trối lại cho các cận thần là ông truyền ngôi cho con ở ngoại quốc. Sau ít ngày vua cha chết, bỗng từ 3 nước có ba người con về khóc cha. Các vị cận thần không biết ai là con để truyền ngôi cho. Các vị liền lấy một tấm hình của vua cha vẽ một vòng tròn đen vào đúng trái tim rồi cho ba người nhận làm con bắn với chủ đích: “Ai bắn trung tim vua cha thì người ấy là con, sẽ được nối nghiệp vua cha và chiếm trọn gia tài”.
Người thứ nhất dương cung bắn trật. Người thứ hai cũng trật luôn. Người thứ ba dương cung lên nhìn ngắm nhiều lần, nhưng rồi ại buông xuống. Lần cuối cùng chàng ném cung xuống đất rồi òa lên khóc và nói rằng: “Thà rằng tôi mất quyền làm vua, mất của cải chứ không chịu bắn cha tôi”.
Mặc dù người con lạc mất, nhưng tâm tình vẫn nhớ đến đấng sinh thành. Người con dù biết làm vua là nối dõi tông đường, nhưng thà mất quyền làm vua và danh vọng để giữ được chữ hiếu, không mưốn giết chết lương tâm và sự thật của mình.
Chúng ta cũng được Chúa thương gấp bội như câu chuyện trên, nhưng chúng ta xét lại thấy mình phản bội quá nhiều, yêu chiều ý riêng quá lớn, đam mê đủ thứ, có nhiều khi còn liều lĩnh cả trong luân thường đạo lý…. bắn Chúa đúng tim đem để mình làm chúa, không giống người con thứ ba chút nào. Chúng ta hãy sửa lại, hãy chạy đến với Chúa như viên bách quan biết mình chẳng đáng đón Chúa, hay như bà bị bệnh chỉ cần đụng đến áo Ngài. Chớ gì tấm gương sống động ấy giúp chúng ta suy nghĩ và sống xứng đáng con Chúa, đáng lãnh nhận mão vương nghĩa tử chân thật.
(Suy niệm của Lm. Louis M. Nhiên, CRM)
Một giáo sư đại học tự xưng mình là vô thần. Một hôm ông tuyên bố trước mặt các sinh viên rằng ông sẽ chứng minh được là không có Thiên Chúa. Ông chế diễu: “Này Chúa, nếu Chúa thật sự hiện hữu thì tôi muốn Chúa đánh ngã tôi văng khỏi bục giảng này. Tôi cho Chúa đúng 15 phút.”
Cả phòng yên lặng, và mười phút trôi qua, ông lại ngạo mạn: “Tôi đang ở đây, và tôi đang chờ đợi.” Một anh lính mới giải ngũ rời khỏi chỗ ngồi đi lên gặp vị giáo sư và tặng ông một cú đấm thật mạnh vào mặt, khiến ông văng khỏi bục giảng, ngã xuống bất tỉnh. Sau đó, anh lính bình tĩnh về chỗ ngồi.
Vị giáo sư dần dần tỉnh lại, nhìn anh lính và hạch hỏi: “Có chuyện gì với anh vậy? Tại sao anh lại đánh tôi?” Anh lính trả lời: “Thiên Chúa đang quá bận rộn, nên ngài gửi tôi tới.” (God is too busy, so He sent me).
Thiên Chúa của chúng ta là Đấng như thế nào? Phải chăng Ngài tạo dựng vũ trụ và rồi thoải mái ngồi chơi xơi nước không để ý chuyện thế gian hay vẫn tiếp tục quan tâm đến cuộc sống của các thụ tạo? Phải chăng Ngài quá bận rộn chăm sóc những nhân vật quan trọng và vì thế không còn đủ thời giờ để săn sóc quan tâm đến những người tầm thường bé nhỏ?
Qua hình ảnh nhân loại của Chúa Giêsu, tin mừng hôm nay đã trình bày khuôn mặt sống động của một Thiên Chúa luôn yêu thương quan tâm:
Đám đông dân chúng đã đang tụ họp lắng nghe Chúa giảng dạy. Đây là dịp tốt thuận lợi để truyền bá giáo lý, nên chắc hẳn Chúa đã chuẩn bị cẩn thận bài nói chuyện. Đang chia sẻ, bỗng dưng chương trình của Chúa bị xáo trộn, khi ông Giairô trưởng hội đường, đến cắt ngang bài nói chuyện và xin Chúa chữa con gái ông sắp chết. Nhìn thấy nỗi khổ của người cha, Chúa đã sẵn lòng hy sinh bỏ chương trình kế hoạch riêng của Chúa để đáp ứng nhu cầu của người cần cứu giúp. Không thấy tin mừng ghi lại Chúa phàn nàn kêu ca vì phải cắt ngang bỏ dở chương trình.
Rồi trên đường đi, Chúa cảm thấy có người đụng chạm, người đó là một người đàn bà bị bệnh loạn huyết. Thật dễ hiểu nếu Chúa có trở nên bất nhẫn với bà: “Tại sao bà lại làm phiền tôi chứ? Bà không thấy rằng tôi đang phải cứu giúp con ông trưởng hội đường khỏi chết sao? Bà và chuyện của bà có thể đợi được mà?”
Nhưng thay vì bất nhẫn hay trách móc, Chúa Giêsu đã nhận thấy người đàn bà cũng đáng thương, và tuy dù bệnh tật của bà không quan trọng bằng chuyện đứa con sắp chết của ông Giairô nhưng cũng là điều thật quan trọng đối với bà. Với lòng thương cảm, Chúa bảo bà: “Này con, đức tin của con đã chữa con, hãy về bình an và được khỏi bệnh.”
Qua đoạn tin mừng hôm nay, chúng ta thấy được hình ảnh của một Thiên Chúa yêu thương quan tâm. Có người bảo: “Ngài không quá bận để điều khiển vũ trụ. Ngài có thời giờ cho những nhân vật quan trọng có tên tuổi như ông Giairô trưởng hội đường, nhưng Ngài cũng có thời giờ cho người tầm thường bé nhỏ như người đàn bà không tên tuổi bị bệnh loạn huyết. Ngài có thời giờ cho Đức Giáo Hoàng, cho các vị lãnh đạo, cho những người quan trọng, và Ngài cũng có thời giờ cho những người tầm thường như chúng ta.”
Kiểm điểm lại cuộc sống, có lẽ chúng ta cần phải khiêm nhường xin ơn tha thứ vì rất có thể nhiều lần chúng ta không quá bận như Thiên Chúa nhưng đã không dành thời giờ cho anh chị em khi họ cần đến sự giúp đỡ của chúng ta. Hơn nữa, thay vì ân cần lắng nghe theo dõi đáp ứng những nhu cầu của anh chị em, chúng ta đã nhẫn tâm nhắm mắt bịt tai xua đuổi. Có lẽ còn lâu lắm và không biết đến bao giờ chúng ta mới học được ở nơi Chúa bài học cảm thông nâng đỡ, và được nên giống Chúa?
Nếu ngày hôm xưa Chúa đã có thời giờ cho dân chúng, đáp ứng những nhu cầu của họ, thì ngày hôm nay Ngài cũng có thời giờ cho mỗi người chúng ta. Điều quan trọng là chúng ta có đi đến với Chúa, và kêu xin Người giúp đỡ?
Nếu Chúa đã có thời giờ cho chúng ta, phải chăng chúng ta cũng có thời giờ cho anh chị em chúng ta? Chúa và anh chị em đang chờ đợi câu trả lời của mỗi người chúng ta.
(Suy niệm của Lm. Quốc Toản, CRM)
“Không ai có thế đến với tha nhân nếu chính mình không sẵn sàng chạm đến thân thể của họ. Nếu bạn không sẵn sàng chạm đến một người vô gia cư, một người say rượu hoặc một người thật dơ bẩn, thì chính bạn không sẵn sàng phục vụ cho những người đó.” (Nhà Tâm Lý Học Charles Gerkin, Đại Học Emory) Một cử chỉ chạm, một cái ôm và những cử chỉ êm dịu trực tiếp đụng đến thân thể của tha nhân bày tỏ tình yêu thương và chấp nhận họ cách mãnh liệt hơn những lời nói ngọt ngào có thể đem lại được. Cử chỉ chạm là con đường hai chiều: nó ảnh hưởng đến người thụ động cũng như người chủ động.
Trong cuộc sống, chúng ta, ai cũng đã từng đóng vai chủ động và thụ động; nghĩa là ta đã từng chạm đến người khác cũng như được người khác chạm đến. Tôi nhớ lại những lần viếng thăm nhà dưỡng lão cũng như những tháng làm Tuyên Úy trong nhà thương. Mỗi khi đến thăm những người cô đơn cũng như bệnh nhân, họ đều muốn nắm tay tôi khi nói chuyện. Có những lần tôi cầm tay họ cho đến hơn một tiếng mà họ vẫn chưa muốn buông thả. Qua đó, tôi nhận thấy rằng một cử chỉ nhỏ mọn như cầm tay hoặc xoa nhẹ trên vai đều mang lại cho người được chạm cũng như chính tôi một sự bình an, niềm vui và sức sống mới.
Trong Tin Mừng hôm nay, Thánh Marcô cũng tả lại hai cử chỉ chạm. Trước hết, người đàn bà bị bệnh xuất huyết hành hạ 12 năm chạm đến Chúa Giêsu. Kế đến là Chúa Giêsu chạm đến em bé gái 12 tuổi. Cả hai cái chạm đều mang lại sự sống và niềm vui cho người chạm cũng như người được chạm. Người đàn bà bệnh đã 12 năm chạm đến Chúa và được chữa lành. Em bé 12 tuổi được Chúa chạm đến được hồi phục sự sống. Trong hai câu truyện, Marcô có đề cập đến một chi tiết giống nhau mà ta cần chú ý, đó là chi tiết 12 năm. Theo phong tục thời đó, tuổi 12 là tuổi được lập gia đình. Cô bé đã chết trước khi được trở nên một người vợ và người mẹ. Người đàn bà bị bệnh hành hạ làm cho không thể sinh con. Cả hai đều có khả năng cộng tác với Chúa để mang sự sống vào thế gian, nhưng một người bị bệnh hành hạ và một người bị cướp mất chính sự sống. Nhưng, nhờ hai cử chỉ đụng chạm, Chúa Giêsu đã không chỉ cứu hai người nữ này khỏi chết, nhưng đã hồi phục chọ họ khả năng sinh con, một khả năng ban sự sống. Ta cũng nên nhớ là không phải ai chạm đến Chúa cũng được khỏi. Đám đông chạm đến Chúa nhưng không gì xảy ra. Ngược lại, người đàn bà chạm đến Chúa đã mang lại một phép lạ. Điều khác biệt giữa hai cái chạm là mức độ ĐỨC TIN. Người đàn bà tin mạnh nên được khỏi và đám đông chỉ chạm đến Chúa vì hiếu kỳ nên không gì xảy ra.
Trong cuộc sống hằng ngày, ta chạm đến nhiều người cũng như được nhiều người chạm đến ta. Nhưng, thử hỏi ta chạm đến tha nhân bằng cách nào? Cử chỉ chạm của ta đem lại cho họ một niềm vui, sự bình an và an ủi hay chỉ là một cái chạm thông thường? Đặc biệt hơn nữa, nếu Chúa Giêsu xuất hiện, đi ngang qua và ta có cơ hội để chạm đến gấu áo của Ngài, ta sẽ chạm đến Ngài với một thái độ hiếu kỳ như đám đông hay với một ĐỨC TIN, như của người đàn bà trong Tin Mừng, là mình sẽ được biến đổi? Thật sự, Chúa Giêsu đang hiện diện giữa chúng ta và chúng ta có cơ hội không chỉ chạm đến gấu áo Ngài, nhưng là chính thân thể Ngài. Đây chính là đặc ân ta được hưởng mỗi khi dự Lễ và rước Chúa vào lòng. Chúng ta đã rước Chúa với thái độ nào?
Xin Lời Chúa hôm nay giúp ta ý thức được đặc ân này và tham dự Thánh Lễ chăm chỉ, dọn mình sốt sàng để rước Chúa vào lòng. Nguyện xin Mẹ Maria, người đã không chỉ được chạm đến Chúa nhưng còn được mang chính Chúa trong lòng, giúp ta luôn biết đặt hết tâm hồn và tấm lòng vào những lời ta đọc trước khi rước Chúa, “Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con, nhưng xin Chúa phán một lời thì linh hồn con sẽ lành mạnh”.
(Suy niệm của Lm. Minh Vận, CRM)
Sau đệ nhị thế chiến, giáo dân thành phố Franfurt tại nước Đức đang trùng tu lại ngôi Thánh Đường đã bị tàn phá vì bom đạn chiến tranh. Tượng Chúa Chuộc Tội vĩ đại tại chính điện cũng là một công trình nghệ thuật cần phải sửa chữa. Người ta tìm được hết các phần của pho tượng đó, trừ ra hai bàn tay không sao thấy được. Sau nhiều phiên họp bàn tính có nên thuê thợ làm lại hai bàn tay giống hệt như cũ không? Toàn thể giáo dân đều đồng thanh quyết định: Cứ để tượng Chúa không có hai bàn tay; nhưng ở dưới pho tượng đó đề một hàng chữ lớn như sau: “Chúa Kitô không có hai bàn tay, ngoài hai bàn tay của chúng ta”.
- THIÊN CHÚA HẰNG THI ÂN GIÁNG PHÚC
Chúa là Cha Nhân Từ hằng thương yêu săn sóc và thi ân giáng phúc cho chúng ta. Chúa đã tạo dựng nên chúng ta như một thụ tạo đặc biệt tốt lành giống hình ảnh Chúa, được thông phần hữu thể và bản tính Chúa, có hồn thiêng bất tử, không nhiễm nọc độc sự chết, để rồi được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu Chúa hứa ban trên Nước Hằng Sống. Nhưng vì ác quỉ ghen tương, cám dỗ nguyên tổ loài người phản nghịch, bất tuân lệnh Chúa, sa phạm giới răn Người, nên sự chết đã nhập vào trần gian.
Tình thương của Chúa vô cùng rộng lượng, hằng tha thứ mọi tội lỗi của loài người đã xúc phạm đến Chúa. Để thể hiện tình yêu thương tha thứ đó cách hữu hiệu và cân xứng với trọng tội ngỗ nghịch phạm đến Đấng cao cả vô cùng, Ngôi Hai Thiên Chúa đã nhập thể xuống thế làm người, sống kiếp sống phàm nhân như chúng ta, lãnh chịu mọi định luật tự nhiên của con người, để cảm thông chia sẻ mọi nỗi thống khổ, rủi ro bất trắc, khó khăn nghịch cảnh, vất vả như chúng ta. Hơn nữa, Người còn gánh lấy mọi tội lỗi của chúng ta bằng cách lãnh nhận bản án bất công tử hình ô nhục trên Thập Giá, để đền tạ phép công bình Thiên Chúa, cứu chuộc chúng ta.
- GIÁO THUYẾT BÁC ÁI THI ÂN
Thánh Phaolô trong thư gởi Giáo Đoàn Corintho đã nhắc lại cho chúng ta mẫu gương của Chúa: “Anh chị em đã biết lòng quảng đại của Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta; mặc dù giầu sang, Người đã trở thành thân phận nghèo khó, để nhờ sự nghèo khó cùng cực của Người, anh chị em được nên giầu có” (2 Cor 8:9).
Qua gương mẫu cao cả đó, thánh nhân khuyến khích chúng ta, những người được dư giả bù đắp cho những người thiếu thốn, những người giầu có sung túc chia sẻ cho những người nghèo túng, những người khỏe mạnh nâng đỡ những người yếu đuối, những người thông thái khôn ngoan nâng đỡ những kẻ dốt nát quê mùa.
Giáo thuyết bác ái Thánh Tông Đồ dạy chúng ta đây, không chỉ dừng lại nơi những của cải vật chất ở đời này, mà ngài còn khuyên dục chúng ta chia sẻ lòng tin tưởng, sự hiểu biết Thiên Chúa và những ơn phúc chúng ta đã nhận lãnh bởi Chúa cho kẻ khác, để họ cũng được thông phần hạnh phúc của con cái Chúa như chúng ta nữa.
III. HẠNH PHÚC CỦA TÔI LÀ THI ÂN
Trong bài Tin Mừng hôm nay, nhắc lại một vài ơn phúc trong muôn phần, Chúa Cứu Thế đã thực hiện trong cuộc đời công khai truyền bá Tin Mừng lúc sinh thời trên trần gian. Đi tới đâu, Chúa cũng rộng tay thi ân giáng phúc cho nhân loại, Thánh Sử tường thuật biết bao phép lạ Ngài đã thực hiện, để cứu giúp những người cùng khổ nghèo nàn, những kẻ mù lòa, què quặt, câm điếc và mọi thứ bệnh tật… Nhất là Ngài luôn động lòng trắc ẩn thương cảm đến số phận đời đời của tất cả những ai chưa được Ánh Sáng Đức Tin chiếu soi; những kẻ bơ vơ như đoàn chiên không người chăn dắt, những kẻ còn ngồi trong bóng tối sự chết, trong sự tin vơ thờ quấy, trong mê tín dị đoan và tất cả những ai còn bị tội lỗi và quyền lực hỏa ngục cầm buộc.
Kết Luận
Việc làm và quyết định của người Giáo Dân thành phố Franfurt nước Đức trong câu truyện trên đây có một ý nghĩa sâu xa. Họ để cho tượng Chúa Chuộc Tội thiếu hai bàn tay với hàng chữ: “Chúa Kitô không có hai bàn tay, ngoài hai bàn tay của chúng ta”, là có chủ ý để nhắc nhở cho họ rằng: Chúa cần dùng hai bàn tay của họ để Ngài tiếp tục sứ mạng Cứu Thế, thi ân giáng phúc cho nhân loại.
Vậy, chúng ta đã thực thi lòng Bái Ái như giáo lý Chúa dạy, như lòng Chúa khát mong và như mẫu gương Chúa đã thực hiện chưa?
– Chúng ta đã chia sẻ cơm bánh, áo quần cho người túng quẫn chưa?
– Chúng ta đã an ủi những người sầu buồn, nản chí thất vọng chưa?
– Chúng ta có thương cảm và cầu nguyện cho những ai chưa nhận biết Chúa để họ cũng được diễm phúc trở nên con cái Chúa như chúng ta chưa?
Một tổng thống có những cuộc thăm viếng thường xuyên những người lính tại một bệnh viện. Ông đi từ phòng này tới phòng khác, khích lệ và cảm thông với những bệnh nhân. Ông đến cạnh một anh lính trẻ đang hấp hối và hỏi: “Này bạn, tôi có thể giúp gì cho bạn?” Anh nhìn lên và diễn tả điều ao ước: “Ngài sẽ viết thư cho mẹ tôi giúp tôi được không?”
Ông đồng ý: “Tôi sẽ viết” và yêu cầu lấy giấy bút. Ông ngồi cạnh giường và viết những gì anh đọc cho. Viết xong, ông quay lại nói: “Tôi sẽ gởi thư này ngay sau khi rời khỏi văn phòng. Và bây giờ còn điều gì khác tôi có thể làm không?” Anh ngước nhìn, ngập ngừng, và cuối cùng buộc miệng: “Ngài có thể ở lại với tôi? Tôi muốn ngài nắm tay tôi”. Ông nắm tay anh cho đến khi anh chết vài giờ sau đó.
Trong truyện người bệnh dám đòi điều kiện với vị tổng thổng. Nhưng trong bài Tin Mừng hôm nay người đàn bà bị băng huyết đã mười hai năm không dám mở miệng xin Đức Giêsu mà chỉ lén “sờ vào áo của Người”. Còn ông Giaia thì đỡ hơn không phải e dè như người đàn bà bị băng huyết. Vì băng huyết là một chứng bệnh dơ dáy. Người Do thái không chỉ thấy nó dơ về mặt thể lý mà còn coi nó là một thứ ô uế luân lý. Cho nên có luật cấm những kẻ mắc bệnh đó không được đụng chạm tới người khác, chạm tới ai thì người ấy kể như bị lây ô uế đó. Người phụ nữ bị bệnh loạn huyết này cũng không dám cất tiếng kêu xin Đức Giêsu vì sợ người ta biết mình bệnh và xua đuổi mình. Bà định im lặng rờ vào mình Đức Giêsu. Nhưng vậy là phạm luật thánh, là có tội: thật là khó xử. Còn ông Giairô thì xin Chúa đến chữa trị cho con gái mình đang bệnh nặng. Đức Giêsu đã chấp thuận, nhưng khi hai người đang trên đường về nhà ông thì ông được tin con gái đã chết. Cả hai mới bắt đầu nhen nhúm hy vọng thì lề luật khắc khe đó như ngăn cản sự sống của hai con ngưòi khốn khổ này. Nhưng cuối cùng thì rào cảng đó đã bị phá bỏ nhờ tình yêu Đức Giêsu và đức tin của người bệnh.
- Tình yêu với người bất hạnh
Tin Mừng Đức Giêsu rao giảng cho tất cả mọi người nhưng Ngài đặc biệt quan tâm đến những người nghèo khổ, bệnh tật. Đôi lúc tự chúng thất vọng như bị Chúa bỏ rơi, có thể đó là những lúc chúng ta chưa cảm nhận được tình yêu Chúa, chứ ơn Ngài luôn đổ tràn và tình thương Người không bao giờ chấm dứt. Cũng tương tự, như người đàn bà bị loạn huyết và ông Giai-rô hôm nay chắc chắn khi Đức Giêsu chưa chữa lành bệnh thì họ vẫn chưa thấy được tình Chúa yêu. Họ đã gặp được Chúa mà họ vẫn còn chưa hoàn toàn tin, bằng chứng là những người xung quanh “chế nhạo Người” mà ông Giai-rô là chủ nhà mà lại không có một lời biện minh, vì ông ta chưa cảm nhận đủ tình yêu mà Thiên Chúa dành cho gia đình ông nên ông không đủ can đảm để làm chứng.
Có câu chuyện kể rằng: Một người vô thần ngày nọ đứng giữa công trường, ngửa mặt thách Chúa trong 5 phút, xem có dám giết ông không. 5 phút trôi qua, chẳng có chuyện gì xảy ra. Anh ngạo nghễ ăn nói xúc phạm đến Chúa. Chợt một bà già hỏi:
– Này ông, ông có đứa con nào không?
– Ồ, sao bà lại hỏi thế?
– Nếu một đứa con anh cầm con dao đưa cho anh bảo anh giết nó, anh có làm không?
– Không, tôi thương chúng lắm.
– Chúa cũng vậy, Ngài thương anh lắm, đâu nỡ giết anh.
Cuối cùng chúng ta nhận ra rằng tình thương Thiên Chúa dành cho chúng ta luôn bao la nhưng nhận được bao nhiêu tùy ở mỗi người.
- Đức tin
Người được biệt danh là “cha của những kẻ tin” là Abraham, khi đã lớn tuổi mới có được một đứa con trai, nhưng vâng lệnh Chúa ông đưa con lên núi sát tế và lòng đau như cắt mà vẫn tin rằng Chúa sẽ thực hiện lời hứa làm cho ông thành tổ phụ một dân đông đảo. Ông vẫn tin và quả thực Chúa đã làm ông thành tổ phụ những người tin. Và mẫu gương thứ hai là Phêrô khi tin ông dám bước đi trên mặt nước biển, Nhưng khi bắt đầu hoài nghi thì cũng là lúc ông bắt đầu chìm xuống. Khi có đức tin thì con người sẽ được múc lấy nguồn năng lực từ Đức Giêsu như chính người đàn bà bị bệnh hôm nay, chính nhờ đức mà bà đã được nhận nguồn năng lực từ Đức Giêsu “Ngay lúc đó, Đức Giê-su thấy có một năng lực tự nơi mình phát ra”. Thì ngày hôm nay, đức tin chính là điều kiện cần và đủ để chúng ta được sống và sống dồi dào, vì chính Đức Giêsu đã khẳng định “Ta là sự sống lại và sự sống. Ai tin vào Ta, cho dầu có chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Ta, sẽ không chết bao giờ”.
Lạy Chúa, Xin giúp chúng con vững tin vào Chúa, và biết chạy đến với Chúa xin Ngài chữa con lành chứng bệnh phần hồn và phần xác. Amen.
35. Lòng tin của con đã cứu con
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc)
- Thân phận con người
Đức Giêsu thực hiện hai phép lạ: phép lạ chữa bệnh và phép lạ làm cho sống lại. Hai phép lạ này liên quan đến hai nghịch cảnh của đời sống con người, trong đó có những người thân yêu của chúng ta và có khi, có cả chúng ta nữa.
- Người cha có đứa con gái mới 12 tuổi đã chết. Sự bất hạnh của em bé, nhưng cũng là nỗi đau của bố, của mẹ, của cả nhà. Theo sách Tin Mừng của thánh Mát-thêu, em bé đã chết rồi, còn theo thánh Mác-cô và thánh Luca, lúc người bố đến kêu xin Đức Giêsu, thì em bé chưa chết; nhưng lúc Ngài đang trên đường tới nhà, cháu bé mới chết. Chi tiết này làm bật lên nỗi đau của người bố và của cả gia đình là một nỗi đau kéo dài.
- Người phụ nữ, có lẽ đã lớn tuổi, mang một thứ bệnh kín đáo trong người đã 12 năm. Có những thứ bệnh ai cũng biết, nhưng cũng có những thứ bệnh chỉ có một mình biết, kéo dài, nỗi đau triền miên.
Hai nghịch cảnh của hai lứa tuổi nói cho chúng ta thật nhiều về thân phận và những vấn đề muôn thủa của con người: bệnh tật và cuối cùng là cái chết, có thể xẩy ra ở bất cứ lứa tuổi nào; bệnh tật và sự chết làm bật lên sự liên đới của nhiều người; bệnh tật và sự chết tất yếu đặt ra con con người vấn đề Thiên Chúa và buộc phải lựa chọn tin hay không tin. Và Lời Chúa cũng mặc khải cho chúng ta biết cách Thiên Chúa, ngang qua Đức Giêsu-Kitô, liên đới với đau khổ và cả sự chết thuộc về thân phận con người như thế nào.
- Lòng tin
- Để được chữa lành, Chúa cần lòng tin và chỉ cần lòng tin mà thôi. Lòng tin của người phụ nữ thật đơn sơ, nhưng mạnh mẽ: “tôi chỉ cần đụng được vào áo của Người thôi, là sẽ được cứu”. Ở những nơi hành hương, người ta vẫn thể hiện lòng tin bằng cách đụng vào các bức tượng hay thánh tích.
Nhưng để được chữa lành thực sự, nghĩa là trọn vẹn, chúng ta được mời gọi đi vào tương quan mãi mãi với một ngôi vị, Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa. Và đó chính là điều mà người phụ nữ được ban tặng, vượt xa nhu cầu chữa bệnh của bà. Được khỏe là một nhu cầu quan trọng, nhưng điều này vẫn chưa giải quyết được hết những vấn đề liên quan đến “sự sống” của một con người. Đời sống con người cần sức khỏe, nhưng khỏe thôi vẫn chưa đủ. Hơn nữa, xét cho cùng, người ta đâu có khỏe được mãi, và có rất nhiều phận người, sinh ra đã tật nguyền. Hơn nữa, Đức Giêsu còn nói: “lòng tin của con đã cứu con”. “Cứu” ở đây vượt xa vô hạn phép lạ hết bệnh.
- Cái chết của đứa con, nhưng lòng tin lại là lòng tin của người cha: “con gái tôi mới chết, nhưng xin Ngài đến đặt tay trên cháu, là nó sẽ sống”. Lòng tin của bố cứu được con mình. Điều kì diệu này được ghi lại khắp nơi trong các Tin Mừng. Chính vì thế mà chúng ta được mời gọi cầu nguyện cho nhau, cho người sống và kẻ chết. Vì Chúa cũng yêu thương những người chúng ta thương yêu trong Chúa.
Đức Giêsu không quan tâm đến tiếng tăm của mình, nhưng quan tâm đến sức khỏe và sự sống của em bé: “Họ chế nhạo Người. Nhưng Người bắt họ ra ngoài hết, rồi dẫn cha mẹ đứa trẻ và những kẻ cùng đi với Người, vào nơi nó đang nằm” (c. 40). Sau này trong cuộc Thương Khó, Ngài sẵn sàng mang vào mình cái chết đau đớn và sỉ nhục tận cùng, để hiện diện, cảm thông với mọi đau khổ và mọi cách chết của con người, để bày tỏ lòng thương xót và dẫn chúng ta vào niềm Hi Vọng. Biến cố cá biệt, nhưng đem lại cho nhân loại chúng ta niềm hi vọng thật lớn: tất cả người chết sẽ sống lại, nếu Đấng Phục Sinh “cầm lấy tay”.
- Niềm hi vọng
Cách Đức Giêsu đến với mỗi người mỗi khác. Với người phụ nữ, bà cố để đụng được vào gấu áo của Đức Giêsu; nhưng với em bé, Ngài đến tận nơi: “Người đi vào, cầm lấy tay em bé, nó liền trỗi dậy”. Đó chính cũng là cách Chúa ban ơn cứu độ cho từng người, luôn luôn đích thân và duy nhất. Bởi lẽ người ta không thể công thức hóa ơn cứu độ, lề luật hóa lòng tốt của Thiên Chúa được.
Đức Giêsu quan tâm đến sự sống của mỗi người, của cả loài người. Những gì Ngài làm, thật lạ lùng, nhưng cũng thật giới hạn. Vì người phụ nữ cũng sẽ bệnh lại và chết; em bé lớn lên và cũng qua đi. Nhưng đó là những dấu chỉ làm cho chúng ta hướng tới và đặt hi vọng nơi ơn huệ còn lạ lùng hơn: đó ơn huệ sự sống vô hạn trong Chúa và cùng nhau, mà Đức Giêsu Kitô chết và phục sinh hứa ban cho chúng ta.
Chính niềm hi vọng đặt nơi ngôi vị của Đức Kitô phục sinh, làm cho chúng ta bình an và can đảm đảm nhận hôm nay phận người của mình và thân phận của cả những người khác nữa, nhất là những người thân yêu của chúng ta trong Gia Đình và trong ơn gọi dâng hiến.
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Khoa Toàn)
Người sống, khi phải nói về người đã chết, thường uất nghẹn và nước mắt chạy vòng quanh. Nghẹn ngào hơn khi đối tượng là một người thân mình hằng yêu dấu. Và lại càng tưởng chừng như không thể khi nói về người mẹ đã đứt ruột xé lòng chắt chiu nuôi nấng mình lớn khôn giờ không còn nữa…
Tôi đã làm điều tưởng chừng như không thể kia cách đây non hơn một tuần. Lệ tuôn trào làm nghẹn lại từng chữ từng lời. Mà chữ và lời cũng gần như vô nghĩa khi nói về nỗi đau sâu thẳm nhất trong mọi nỗi khổ đau này.
Đau đớn vì cái chết đã muôn đời miên viễn cách ngăn người ở bên này và kẻ ở bên kia. Chết! Nghe sao quá hãi hùng! Sao quá tang thương! Và sự hãi hùng tang thương càng tăng thêm cường độ khi chung quanh đầy những màu tang tím. Khi chỉ nghĩ đến khoảng không gian cách ly hiện tại mà quên bẵng đi một đời kiếp thiêng liêng hội ngộ tương lai. Khi niềm tin chỉ giới hạn đến những vật chất hữu hình và không thể đưa mắt nhìn sâu nhìn xa đến những gì tinh thần bao la vô tận.
Và thường khi phải cần đến một bàn tay chạm đến để niềm tin vào đời sống mai sau được muôn đời bừng lên thắp sáng. Như Beethoven một ngày nọ đến thăm một thiếu phụ kia đang gập cúi người nức nở khóc bên cạnh xác chồng. Cảm thông với nỗi đau đớn của người goá phụ tuổi còn đang xuân và nhan sắc còn hồng, Beethoven đến trước đàn dương cầm và thiên tài âm nhạc bậc nhất cổ kim kia đã đan tay chuyễn ngón tấu lên một nhạc khúc Phục Sinh rồi lẳng lặng ra về trước đôi mắt quá đỗi kinh ngạc của người thiếu phụ buồn. Và sự sững sờ kinh ngạc kia cũng chính là sự kinh ngạc sững sờ của các môn đệ Chúa trên thuyền giữa biển khơi cuồng nộ sóng.
Như những thương nhân vượt biển, “họ đã nhìn thấy những kỳ công của Chúa nơi chỗ thâm uyên”. Hạt giống đức tin chỉ có thể nẩy lộc đâm chồi khi tâm trí thấu hiểu vũ trụ Chúa tạo dựng cho con người và vì con người; khi không còn biên giới giữa bên này và bên kia sự chết vì “Thiên Chúa không tạo dựng sự chết” và vì “công chính thì vĩnh cửu và bất tử.”
Hal Lindsey đã viết là “con người chỉ có thể sống bốn mươi ngày không cần ăn, ba ngày không cần nước, tám phút không cần không khí, nhưng chỉ một giây thôi nếu không tin yêu và hy vọng.”
Đã chết khi không tin không hy vọng; khi không còn kinh ngạc khi không biết sững sờ và nhất là khi không chu toàn sứ vụ cai quản làm chủ vạn vật mà Thiên Chúa tín cẩn trao ban. Cũng không còn sống nữa khi tâm trí chỉ nghĩ đến mình mà quên bẵng tha nhân. Đức tin cần đôi mắt giương to nhìn thế giới. Và cần thật cần đôi tay chạm đến những tâm hồn đang ngóng chờ một chút hơi ấm thương yêu.
Như đôi mắt khẩn cầu của người cha cho đứa con gái vừa trút hơi thở cuối. Như đôi bàn tay yếu đuối khăng khiu của người đàn bà kinh niên bệnh hoạn. Đời sống đức tin đã biểu hiện vẹn toàn trong khoé mắt người cha. Trên đầu từng ngón tay người mẹ.
Johann Wolfgang von Goethe cảm thấy như đã chết khi mỗi ngày không nhìn một hình ảnh đẹp, ngâm một đoạn thơ hay hoặc nói vài lời có ý nghĩa. Chẳng còn gì chua xót và đau đớn hơn khi tiến dần về cái chết mà đôi mắt vẫn không buồn mở và đôi tay vẫn khư khư không sờ không chạm. Đến tận cùng thế giới. Và đến mỗi tha nhân…
37. Niềm tin thắp sáng hy vọng
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay được cả ba tác giả trong Tin Mừng Nhất Lãm kể lại. Tuy nhiên, Máccô kể dài hơn, gồm 23 câu, do vậy nhiều tình tiết hơn, cảm động hơn khiến chúng ta bị cuốn hút một cách tự nhiên từ đầu đến cuối câu chuyện. Máccô đã lồng hai câu chuyện vào với nhau một cách khéo léo, tài tình, nhưng ý nghĩa vẫn là một: Đức Giêsu ban tặng sự sống cho những ai vững tin và biết cộng tác với Ơn Thánh.
- Chúa ban sự sống, con người có lòng tin.
Phép lạ thứ nhất, Máccô kể rằng, giữa đám đông chen lấn chung quanh Đức Giêsu, có những người đụng vào áo Người. Nhưng chỉ có một cái đụng cố ý, đụng lén như sợ bị bắt quả tang. Đó là cái đụng của một người phụ nữ, bất chấp lệnh cấm theo lề luật Do thái. Mười hai năm mắc bệnh băng huyết. Mười hai năm tìm thầy chạy thuốc mà không khỏi. Mười hai năm bị coi là ô nhơ, không được đụng đến người khác, không được tham dự nghi lễ ở Đền thờ. Người phụ nữ thận trọng và đầy can đảm đã đụng vào áo Đức Giêsu bằng tay và bằng lòng tin, một lòng tin đơn sơ mà mạnh mẽ “Dầu tôi chỉ đụng vào áo Ngài, tôi sẽ được khỏi.”. Tức khắc, bà cảm thấy lành bệnh vì máu trong người đã cầm lại. Cái đụng của lòng tin đã cứu bà khỏi bệnh.
Phép lạ thứ hai, Máccô kể, ông Giairô đến xin Đức Giêsu chữa lành cho con gái ông đã mười hai tuổi. Ông là viên chức trưởng hội đường. Tình yêu của người cha đối với đứa con gái đã làm cho ông can đảm. Ông sẵn sàng tin cậy vào một người xa lạ. Ông tín nhiệm vào một người từ nơi khác đến. Ông chỉ mới nghe danh tiếng về người ấy. Ông đến gặp Chúa và “phủ phục dưới chân Đức Giêsu và năn nỉ”. Đức Giêsu đã chấp thuận, nhưng khi hai người đang trên đường về nhà ông thì được tin con gái đã chết. Vậy là hết, vô phương cứu chữa nữa! Đức Giêsu động viên ông “Đừng sợ, cứ tin”. Khi đến nhà, thấy đông đảo bà con xóm làng đến, Người nói: “Sao lại náo động và khóc lóc như vậy? Đứa bé có chết đâu, nó ngủ đấy!” Cô bé đã chết rồi, nhưng đối với Đức Giêsu, cái chết chẳng có tính chung cuộc mà chỉ là một giấc ngủ thôi. Người có quyền năng đưa kẻ chết ra khỏi giấc ngủ ấy. Với cử chỉ đơn sơ cầm tay đứa bé và nói “Talithakum”, nghĩa là “Này bé, Thầy truyền cho con: chỗi dậy đi!” Đức Giêsu đã khiến cho đứa bé đứng dậy và đi lại được. Người còn bảo họ cho đứa bé ăn để chứng thực là nó đã sống lại thật.
Hai phép lạ đều liên quan đến sự sống. Người phụ nữ bị bệnh loạn huyết đang mất dần sự sống: máu là nguyên lý sự sống, mà bà này đã bị mất máu liên tục mười hai năm, nghĩa là sức sống đang dần dần rời xa bà. Vì thế khi Đức Giêsu làm cho bà hết bệnh, là Người trả lại sức sống cho bà. Đứa con gái ông Giairô thì đã chết, sự sống đã hoàn toàn rời khỏi nó. Nhưng Đức Giêsu đã làm cho nó sống lại.
Hai phép lạ xảy ra nhờ có lòng tin. Đức Giêsu xác nhận lòng tin vững vàng của người phụ nữ: “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con”. Ngài nâng đỡ lòng tin đang chao đao của Giarô: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi”.
Tin vào những chuyện dễ dàng, tin khi cuộc sống bình an xuôi thuận thì chưa hẳn là đức tin. Đó chỉ là một chuyện đương nhiên thôi. Đức tin là một nhân đức căn bản của Đạo. Phải là vẫn cứ tin vào những chuyện khó khăn vượt quá sức loài người. Vẫn cứ tin khi cuộc đời gặp lúc cheo leo. Đức tin vững vàng như vậy có thể làm nên những phép lạ. Bởi lẽ, trước một hoàn cảnh quá khó khăn, trong lúc đời sống quá gian nan, nếu ta vẫn tin thì không phải là ta tin vào sức riêng của ta nữa, mà là tin vào sức Chúa, và Chúa quyền năng làm được mọi sự.
– Như Abraham đã 90 tuổi mới có được một đứa con trai. Vâng lệnh Chúa, ông đưa con yêu quý lên núi sát tế mà lòng đau như cắt. Ông tin rằng, Chúa sẽ thực hiện lời hứa ban cho ông thành tổ phụ một dân đông đảo. Ông vẫn tin và Chúa đã làm ông thành tổ phụ những người tin.
– Như Phêrô dám bước đi trên mặt nước. Ông đã đi khi vững tin vào Chúa. Nhưng khi bắt đầu hoài nghi thì cũng là lúc ông bắt đầu chìm xuống.
Đức Giêsu bày tỏ quyền năng trên thiên nhiên, trên ma quỷ, trên bệnh tật và trên sự chết, vì Người là Đấng ban sự sống. Tin vào Người, chúng ta luôn có được sự sống dồi dào.
- Cộng tác với ơn Chúa
Chuyện kể rằng một bà già bị đau răng, bà đã làm Tuần chín ngày để kính thánh Antôn, vì người ta nói: Thánh Antôn “chuyên trách” về bệnh này.
Hết tuần chín ngày bà vẫn còn đau. Lúc đó một vị linh mục đến thăm. Bà liền hỏi:
– Xin Cha nói cho con biết: có phải thánh Antôn chuyên trách bệnh đau răng không?
Vị linh mục nói:
– Bà hãy nghe tôi: Đây là địa chỉ của nha sĩ. Hãy đến đó và nói là tôi giới thiệu, họ sẽ làm không công cho bà.
Bà già la lên:
– Trời đất ơi, một ông linh mục vô thần.
Thánh Antôn tự nhủ:
– Kể ra cũng đau lòng, để nhận lời cầu nguyện của bà, chính ta đã gởi cho bà vị linh mục này. Thế mà!
Người phụ nữ xuất huyết và bà già đau răng đều tin tưởng vào Chúa. Nhưng niềm tin của họ có sự khác biệt rất lớn. Người phụ nữ xuất huyết nghĩ mình phải làm điều gì đó chứ không chỉ tin suông. Bà đến với Chúa chứ không chờ Chúa đến với mình. Bà già đau răng thì cầu nguyện rồi chờ phép lạ. Bà không chịu làm gì nữa.
Ông Giairô cũng tin rằng Chúa có thể cứu sống con gái ông. Ông đã làm hết sức mình. Con gái ông hấp hối không thể đến với Chúa được, nên ông đã xin Chúa đến chữa cho con gái ông.
Cộng tác với ơn Chúa là điều kiện để Chúa ban ơn. Chúng ta không thể chỉ thụ động chờ Chúa làm phép lạ, nhưng hãy sử dụng hết những phương tiện bình thường Chúa ban. Phần còn lại tùy Chúa định liệu cho ta. Thánh Ignatio de Loyola đã cho chúng ta lời khuyên bất hủ này: “Hãy làm như thể mọi việc tùy thuộc chúng ta và hãy cầu nguyện như thể mọi việc tùy thuộc Thiên Chúa”. Mc.Kenzie nói: “Khi ta cố gắng làm những gì có thể, Thiên Chúa sẽ làm những điều ta không thể”.
Thiên Chúa ban cho chúng ta quyền tự do, Người không thúc ép, nhưng để chúng ta toàn quyền sử dụng tự do của mình. Thiên Chúa không đối xử với chúng ta như những con bù nhìn, nhưng luôn coi trọng chúng ta như những cộng tác viên của Người.
Trong các phép lạ Chúa làm, Người đều cần sự cộng tác của con người. Trong tiệc cưới Cana, Chúa chỉ làm phép lạ khi người ta đã “múc nước đổ đầy các chum” (Ga 2,7)
Trong phép lạ về bánh, Người chỉ làm cho bánh hóa nhiều khi “có 5 chiếc bánh và 2 con cá” (Mc 6,35-43).
Khi chữa mắt cho người mù, Người chỉ thoa bùn vào mắt anh, còn phần anh phải đi rửa ở hồ Silôê mới được sáng mắt (Ga 9,1-40).
Thiên Chúa muốn chúng ta sử dụng hết các khả năng của mình, và Người sẵn sàng can thiệp khi cần. Cộng tác với Ơn Chúa bằng lòng tin là con đường của hy vọng.
- Niềm tin thắp sáng hy vọng
Các phép lạ Đức Giêsu đã làm thường là điểm giao tiếp giữa quyền năng đầy tình yêu của Thiên Chúa và niềm tin của con người. Thiên Chúa giàu lòng xót thương nên ở đâu có niềm tin, ở đó có phép lạ. Chúa nói với người phụ nữ: “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con”; và nói với ông trưởng hội đường: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi”.
Đức tin là vị thuốc thần đem lại hạnh phúc cho nhân loại. Đức tin là bí quyết đem lại hy vọng cho nơi nào không còn gì để hy vọng! Sau khi mọi hy vọng, mọi biện pháp chữa trị của con người đã trở nên vô hiệu quả, thì chỉ còn niềm tin mới có khả năng “cứu độ”. Đức Giêsu đã đem lại niềm vui và bình an cho những ai tuyệt vọng mà vẫn một lòng cậy trông. Có lần Đức Giêsu đã nói: “Nếu bạn có đức tin bằng hạt cải, thì bạn có thể nói với ngọn núi này ‘hãy di chuyển từ đây đến kia’, nó sẽ di chuyển” (Mt 17,20). Đây không phải là một lời phóng đại, nhưng là một sự thực được chứng minh qua cuộc đời các vị Thánh. Các vị Thánh là những người đã tin và các ngài đã làm được nhiều điều kỳ diệu.
Một lần kia, trong cuộc phỏng vấn trên truyền hình, Mẹ Têrêxa phải đối diện với một phóng viên không mấy thiện cảm đối với Giáo Hội.
Mẹ Têrêxa nói với ông: Tôi nghĩ rằng ông nên có đức tin.
Người phóng viên hỏi: Tôi phải làm gì để có đức tin?.
Mẹ Têrêxa đáp: Ông hãy cầu nguyện.
Ông chống chế: Tôi không biết và không thể cầu nguyện.
Mẹ Têrêxa dịu dàng nói: Tôi sẽ cầu nguyện cho ông. Nhưng về phần ông, ông hãy cố gắng mỉm cười với những người chung quanh ông. Một nụ cười có thể đánh động được tâm hồn người khác. Một nụ cười có thể cho chúng ta cảm nghiệm được Thiên Chúa hiện diện trong cuộc sống chúng ta.
Đức tin thắp sáng niềm hy vọng và trổ sinh hoa trái bằng việc làm.
(Suy niệm chú giải Lời Chúa của Lm. Inhaxiô Hồ Thông)
Chủ đề Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XIII Thường Niên năm B đó là: “Thiên Chúa không làm ra sự chết, nhưng ban sự sống”.
Kn 1: 13-15; 2: 23-25.
Trong Bài Đọc I, tác giả sách Khôn Ngoan cho thấy rằng Thiên Chúa đã không làm ra sự chết; Ngài đã sáng tạo con người theo hình ảnh của Ngài để họ được trường tồn bất diệt.
2Cr 8: 7, 9, 13-15
Trong đoạn trích thư thứ hai gởi tín hữu Cô-rin-tô, thánh Phao-lô nhắc nhở rằng Đức Ki-tô đã quảng đại ban chính mạng sống của Ngài để giải thoát muôn người, vì thế, người Ki-tô hữu phải biết chia sẻ với anh chị em nghèo khổ với tấm lòng quảng đại và tình huynh đệ.
Mc 5: 21-43
Trong Tin Mừng hôm nay, thánh Mác-cô kể cho chúng ta hai câu chuyện phép lạ trong một bài trình thuật, qua đó cho thấy Đức Giê-su không chỉ có quyền năng chữa lành bệnh hoạn tật nguyền khi cho một người đàn bà bị bệnh nan y được lành; nhưng trên hết, Ngài còn nắm giữ quyền ban sự sống, tiêu diệt sự chết khi cho một cô bé đã thật sự chết được sống lại.
BÀI ĐỌC I (Kn 1: 13-15; 2: 23-25)
Sách Khôn Ngoan là tác phẩm muộn thời nhất của bộ Cựu Ước. Sách được biên soạn vào giữa thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên, ở A-lê-xan-ri-a, trong môi trường Do thái chịu ảnh hưởng văn hóa Hy lạp. Vào thời đại nầy, thành phố A-lê-xan-ri-a là thủ đô của văn hóa Hy lạp, nhưng cũng là thành phố lớn nhất của Do thái Hải Ngoại (người ta ước lượng khoảng vài trăm ngàn người Do thái sinh sống ở thành phố nầy).
Chúng ta không biết tên tuổi của tác giả sách Khôn Ngoan. Ông viết tác phẩm của mình bằng tiếng tiếng Hy lạp cho đồng bào Do thái Hải Ngoại của ông, họ không còn biết tiếng Hy bá nữa. Sách Khôn Ngoan đã được soạn thảo trong bối cảnh văn hóa Hy-lạp có sức lôi cuốn người Do thái và làm cho nhiều người lung lay niềm tin truyền thống của dân tộc mình. Tác giả đã muốn ngăn ngừa những nguy cơ bội giáo. Ông cực lực công kích ngoại giáo và tội thờ ngẫu tượng.
Tác giả là một con người đạo hạnh, rất gắn bó với truyền thống Do Thái giáo. Tuy nhiên, tư tưởng thần học của ông tiếp xúc với triết lý Hy-lạp. Việc tiếp xúc nầy rất có lợi: ngôn từ mà ông sử dụng trong sách Khôn Ngoan thì thâm thúy hơn, suy luận sâu sắc hơn, rộng mở với siêu hình học hơn so với các sách minh triết trước đó (sách Gióp, Châm Ngôn, Giảng Viên, Huấn Ca). Thánh Phao-lô và thánh Gioan sẽ gặp thấy ở nơi tác phẩm nầy những trực giác cho Ki-tô học của mình.
Tác giả mượn vài tư tưởng của văn hóa Hy lạp như quan niệm về sự bất tử của linh hồn. Nhưng tác giả không chấp nhận quan niệm về con người của văn hóa Hy lạp: ông tháp nhập viễn cảnh nầy vào trong chiều sâu tư tưởng Do Thái giáo truyền thống.
- Thiên Chúa không làm ra cái chết.
Tác giả khẳng định:
“Thiên Chúa không làm ra cái chết,
chẳng vui gì khi sinh mạng tiêu vong (1: 13)
Tác giả còn quả quyết xa hơn nữa:
“Quả thế, Thiên Chúa đã sáng tạo con người
cho họ được trường tồn bất diệt (2: 23).
Đây là lần đầu tiên trong Cựu Ước xuất hiện lời khẳng định về cuộc sống sau cái chết trong mối thân tình với Thiên Chúa. Thật ra, niềm hy vọng về cuộc sống bên kia nấm mồ đã được phát biểu nhiều lần, nhất là các Thánh Vịnh, trong đó Thánh Vịnh Tv 16 nổi tiếng hơn cả: “Vì Chúa chẳng đành bỏ mặc con trong cõi âm ty, không để kẻ hiếu trung này hư nát trong phần mộ. Chúa dạy con biết đường về cõi sống: trước Thánh Nhan, ôi vui sướng tràn trề, ở bên Ngài, hoan lạc chẳng hề vơi!” (Tv 16: 10-11).
Niềm hy vọng nầy là tiếng kêu vang lên của người vô tội, họ xin Thiên Chúa xét xử ngõ hầu người công chính không cùng chịu chung số phận với quân vô đạo. Nhưng vào thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên, tác giả sách Khôn Ngoan nêu lên niềm tin vào cuộc sống mai hậu nầy với một niềm xác tín thanh thản. Vấn đề thưởng phạt đã làm bận lòng các nhà ưu tú Ít-ra-en từ lâu, nay đã gặp thấy giải pháp. Trong phần thứ nhất của tác phẩm, tác giả sách Khôn Ngoan đối lập cách sống của quân vô đạo với cách sống của những người công chính ở dưới thế, cũng như số phận khác nhau giữa họ sau khi chết. Người công chính chỉ chịu một cái chết bên ngoài, số phận của họ thì bất tử. Quân vô đạo phải chịu cả cái chết thể lý lẫn cái chết thần thiêng, nghĩa là không được hưởng niềm hoan lạc trong Thánh Nhan Thiên Chúa.
- Quan niệm về con người theo Kinh Thánh:
Tác giả sách Khôn Ngoan không đơn giản chuyển quan niệm Hy lạp về sự bất tử của linh hồn sang tư tưởng Do thái, vì quan niệm về con người của hai nền văn hóa nầy rất khác nhau.
Trước tiên, chúng ta hãy ghi nhận rằng có vài điểm tương đồng về cuộc sống bên kia cái chết giữa quan niệm Do thái và quan niệm Hy lạp. Theo quan niệm Do thái cũng như Hy lạp, những vong nhân sống trong cõi âm ty buồn phiền tăm tối mà người Do thái gọi là “shéol” và người Hy lạp gọi là “hadès”. Cả hai đều có chung một niềm tin với các dân tộc khác theo đó đất đã sinh ra con người và sẽ tiếp nhận con người vào trong lòng đất sau khi chết.
Trong huyền thoại Hy lạp, vài vị anh hùng ưu việt đạt đến một cuộc sống tốt hơn, được cất lên bên cạnh các thần linh như Ménelas và Héraclès, hay được mang vào Đảo Hạnh Phúc, như Achille, trong sử thi Homère. Cũng vậy, trong truyền thống Kinh Thánh, ông Kha-nốc (St 5: 24), ngôn sứ Ê-li-a (2V 2: 11) là những người được cất lên trời và đang sống. Trong tư tưởng Hy lạp, vào thế kỷ thứ năm trước Công Nguyên, hiền nhân Socrate khẳng định công khai sự bất tử của linh hồn và cuộc sống trường cửu bên cạnh các thần linh. Platon sẽ khai triển những bằng chứng về sự bất tử của linh hồn trong tác phẩm Phédon. Tuy nhiên, theo quan niệm “nhị nguyên” của Platon, linh hồn khác với thân xác: linh hồn bất tử trong thân xác hư hoại.
Quan niệm Do thái về linh hồn thì rất khác. Con người được tạo thành một thực thể duy nhất gồm cả linh hồn lẫn thân xác. Linh hồn là nguyên lý sự sống. Nguồn sống nầy đến từ hơi thở của Thiên Chúa. Nếu Thiên Chúa rút lại hơi thở của Ngài, con người chết. Quan niệm Hy-lạp về sự bất tử của linh hồn không làm thay đổi, nhưng củng cố quan niệm của Kinh Thánh về con người. Sách Khôn Ngoan viết: “Linh hồn người công chính ở trong tay Thiên Chúa và chẳng cực hình nào động tới được nữa” (3: 1). Ở đây, linh hồn đón nhận phẩm chất, nhân cách và có khả năng thấy Thiên Chúa.
Người Do thái có cơ hội thuận tiện đạt tới quan niệm về “sự sống lại của thân xác” trước khi mở lòng ra trước quan niệm về sự bất tử của linh hồn. Như vậy, những nhà tư tưởng của người Do thái có thể cưỡng kháng lại nhị nguyên thuyết của người Hy-lạp. Thân xác, do bàn tay của Thiên Chúa tạo nên, không thể bị khinh chê được, nhưng duy trì chiều kích cao cả của nó: cuộc sáng tạo nguyên thủy là tốt đẹp.
- Cái nhìn lạc quan về con người.
Tác giả sách Khôn Ngoan có một cái nhìn rất lạc quan về sự hiện hữu của con người khi viết: “Vì Người đã sáng tạo muôn loài cho chúng hiện hữu, mọi loài thọ tạo trên thế giới đều hữu ích cho sinh linh, chẳng loài nào mang độc chất hủy hoại” (1: 14a)
Tư tưởng lạc quan nầy quy chiếu về câu chuyện đầu tiên của sách Sáng Thế: “Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp”. Đây là điệp khúc được lập đi lập lại sau mỗi hành vi sáng tạo trong suốt “sáu ngày tạo dựng”. Niềm lạc quan của tác giả còn đi xa hơn nữa khi được diễn tả ở nơi lời khẳng định táo bạo này: “Âm phủ không thống trị địa cầu”. Quả vậy, đức công chính thì trường sinh bất tử” (1: 14b-15).
Dù sức mạnh của sự dữ và sự chết xem ra hoành hành trên cõi thế và thường chiến thắng, nhưng người công chính đánh bại sự chết vì họ được bảo đảm một cuộc sống trường sinh bất tử. Tác giả hoàn tất sự chứng minh của mình bởi hai lập luận quan trọng như sau: Lập luận thứ nhất dựa trên chuyện tích thứ nhất của sách Sáng Thế: “Thiên Chúa phán: Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta” (St 1: 26). Sách Khôn Ngoan khẳng định: “Quả thế, Thiên Chúa đã sáng tạo con người cho họ được trường tồn bất diệt. Họ được Người dựng nên làm hình ảnh của bản tính Người” (2: 23). Rõ ràng ở đây lập luận của tác giả về sự bất tử của cả linh hồn lẫn thân xác (tính toàn vẹn của con người) chủ yếu dựa trên Kinh Thánh, vì thế không chịu ảnh hưởng của văn hóa Hy-lạp theo đó chỉ có linh hồn là bất tử. Lập luận thứ hai ám chỉ đến chuyện tích thứ hai của sách Sáng Thế về sự thử thách và sa ngã khi tác giả viết: “Nhưng chính vì quỷ dữ ganh tị mà cái chết đã xâm nhập thế gian. Nhưng ai về phe nó đều nếm mùi cái chết” (2: 24).
Ở đây, cái chết mà tác giả nhắm đến trước hết là cái chết thần thiêng, cái chết thực sự. Cái chết thể lý được liên kết với số phận con người, nhưng chỉ dẫn quân vô đạo đến cái chết thần thiêng. Tác giả sách Khôn Ngoan là người đầu tiên cho chuyện tích về thử thách và sa ngã một giá trị tôn giáo. Đức Giê-su sẽ củng cố quan điểm nầy khi công bố “Ngay từ đầu, nó là tên sát nhân. Nó đã không đứng về phía sự thật, vì sự thật không ở trong nó” (Ga 8: 44).
BÀI ĐỌC II (2Cr 8: 7, 9, 13-15)
Thánh Phao-lô thực hiện một cuộc lạc quyên giúp Hội Thánh Giê-ru-sa-lem: Hội Thánh nầy đang lâm cảnh túng thiếu. Sách Công Vụ Tông Đồ nói với chúng ta về một nạn đói lớn đã xảy ra dưới thời hoàng đế Cơ-lau-đi-ô: “Các môn đệ mới quyết định là mỗi người tùy theo khả năng của mình, sẽ gởi quà giúp đỡ anh em ở miền Giu-đê. Và họ đã làm việc ấy: gởi đến cho hàng kỳ mục qua tay ông Ba-na-ba và ông Sao-lô” (Cv 11: 28-30).
Vì thế, trong thư gởi tín hữu Ga-lát, thánh Phao-lô nhắc lại việc thánh nhân lên Giê-ru-sa-lem vào thời kỳ nầy (chắc chắn vào năm 46). Chính vào thời điểm này, thánh Phê-rô, thánh Gioan và thánh Gia-cô-bê, lãnh đạo Hội Thánh Giê-ru-sa-lem, vẫn tiếp tục đảm nhận trách nhiệm loan báo Tin Mừng cho “những người được cắt bì”; còn thánh Ba-na-ba và thánh Phao-lô thì được ủy quyền giao nhiệm vụ loan báo Tin Mừng cho “các dân ngoại” với một điều kiện là họ phải lo cho những Ki-tô hữu túng thiếu tại Giê-ru-sa-lem.
Thánh Phao-lô không bao giờ quên lời hứa của ngài: “chúng tôi phải nhớ đến những người túng thiếu, điều mà tôi vẫn gắng làm” (Gl 2: 10), thậm chí cho dù các Ki-tô hữu Giê-ru-sa-lem không còn phải lâm vào cảnh quá túng quẫn đi nữa.
- Ý nghĩa của lạc quyên:
Việc lạc quyên giúp đỡ Hội Thánh Giê-ru-sa-lem chiếm một chỗ quan trọng trong những hoạt động của thánh Phao-lô. Thánh nhân đã đặt bầu nhiệt huyết vào công việc nầy, vì ngài thấy ở đó một cơ hội cho những người tân tòng, dù xuất thân từ Do thái giáo hay lương dân, thực hành đức ái huynh đệ và chia sẻ những của cải, cũng như chứng tỏ sự gắn bó của họ với Hội Thánh-Mẹ. Đây là cử chỉ hiệp nhất, lòng biết ơn đối với Hội Thánh Mẹ, từ đó Lời Chúa được tỏa lan và những ân phúc đức tin được trao ban.
Quả thật, trong thư gởi tín hữu Rô-ma, thánh nhân viết: “Nhưng bây giờ tôi còn phải đi Giê-ru-sa-lem để phục vụ dân thánh ở đó, vì miền Ma-kê-đô-ni-a và miền A-khai-a đã có nhã ý đóng góp để giúp những người nghèo trong số dân thánh ở Giê-ru-sa-lem. Họ đã có nhã ý làm như vậy, nhưng thật ra họ cũng có bổn phận đối với dân thánh ở đó. Bởi vì dân ngoại đã được chia sẻ các phúc lộc thiêng liêng của dân thánh ở Giê-ru-sa-lem, thì họ cũng có bổn phận dùng của cải vật chất mà giúp đỡ lại…” (Rm 15: 16-28). Trong thư thứ hai gởi tín hữu Cô-rin-tô, thánh nhân ám chỉ đặc biệt đến điều nầy: “Về điều nầy… vì anh em là những người đầu tiên, chẳng những đã thực hiện công cuộc đó, mà còn đã quyết định làm ngay từ năm ngoái” (2Cr 8: 10).Trong đoạn trích thư hôm nay, thánh Phao-lô mời gọi các tín hữu Cô-rin-tô hãy mở rộng tấm lòng mà giúp đỡ các anh chị em đang lâm cảnh túng thiếu.
- Mở rộng tấm lòng.
Thánh Phao-lô khéo léo kể ra những đức tính trổi vượt của các tín hữu Cô-rin-tô: đức tin, lời giảng, sự hiểu biết, lòng nhiệt thành trong mọi lãnh vực, vì thế họ cũng phải trổi vượt “lòng quảng đại trong dịp lạc quyên nầy nữa” (8: 7).
Nếu họ nhiệt thành thực hành đức ái, chính vì thánh Phao-lô đã chuyển lửa của ngài cho họ: “Lòng bác ái mà anh em đã học được nơi chúng tôi”. Nhưng động lực chính yếu là mẫu gương của Đức Ki tô (trọng tâm của đoạn văn này). Trong một biểu thức gây ấn tượng mạnh, thánh Phao-lô gợi lên rằng Đức Ki tô “vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó, vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giàu có” (8: 9).
- “Lá lành đùm lá rách”:
Tuy nhiên, thánh Phao-lô biết rằng các tín hữu Cô-rin-tô không phải là những người giàu có. Vì thế, thánh nhân tự đặt mình vào hoàn cảnh của họ khi đòi hỏi họ chia sẻ với những người túng thiếu không phải những gì cần thiết cho sự sống của mình, nhưng sự dư giả của mình: “Trong hoàn cảnh hiện tại, anh em có được dư giả, là để giúp đỡ những người đang lâm cảnh túng thiếu; để rồi khi được dư giả, họ cũng sẽ giúp đỡ anh em. Lúc anh em lâm cảnh túng thiếu. Như thế, sẽ có sự đồng đều, hợp với lời đã chép: Kẻ được nhiều thì không dư, mà người được ít thì không thiếu” (8: 14).
TIN MỪNG (Mc 5: 21-43)
Tin Mừng hôm nay kết hợp hai câu chuyện phép lạ: phục sinh con gái ông Gia-ia (5: 21-24, 35-43) và chữa lành người phụ nữ bị bệnh nan y (5: 25-34). Bản văn này được gọi là “Hai câu chuyện trong một bài trình thuật” với điều kiện là câu chuyện thứ hai xen vào giữa câu chuyện thứ nhất làm gián đoạn câu truyện thứ nhất. Theo hình thức này, hai câu chuyện có nhiều điểm chung: hai thụ nhân đều là phái nữ; con số mười hai: người phụ nữ bị bệnh đã mười hai năm, còn cô gái thì đã mười hai tuổi (5: 25, 42); hai phép lạ được thực hiện một cách kín đáo: phép lạ chữa lành bệnh nan y của một phụ nữ không thể kiểm chứng được; còn phép lạ cho một bé gái sống lại chỉ có vài nhân chứng với lệnh truyền không được kể cho ai biết chuyện nầy; trong cả hai trường hợp, đức tin đóng một vai trò quan trọng trong tiến trình tiếp cận với Chúa Giê-su: niềm tin công khai của người cha và niềm tin kín đáo của người phụ nữ bị bệnh nan y.
Việc đan kết hai câu chuyện vào trong một bài trình thuật cũng được gặp thấy trong bài trình thuật của Mt 9: 18-26 và của Lc 8: 40-56, nhưng bài trình thuật của thánh Mác-cô có nhiều tình tiết sinh động nhất. Toàn bộ bài trình thuật bày tỏ nhiều chi tiết sống động của một chứng nhân mắt thấy tai nghe mà thánh Mác-cô nhận được từ nguồn của mình hay từ những kỷ niệm của thánh Phê-rô mà thánh ký chuyển tải. Nhờ những tình tiết sống động này, chúng ta dễ dàng nhận thấy diễn tiến và ý nghĩa của những sự kiện: Đức Giê-su không vội vàng đến nhà ông trưởng hội đường; thời gian trôi qua giữa Đức Giê-su và người phụ nữ mắc bệnh nan y dẫn đến cô bé thật sự chết. Cũng như trong câu chuyện cho anh La-da-rô sống lại (Ga 11), Đức Giê-su không vội vã ra đi khi nghe tin anh La-da-rô đau nặng; Ngài đến sau khi bạn Ngài đã qua đời bốn ngày rồi. Như vậy, trong câu chuyện của Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su loan báo một dấu hiệu còn lớn hơn dấu hiệu chữa lành bệnh tật: Ngài có quyền ban sự sống trên cả sự chết.
- Chúa Giê-su với viên trưởng Hội Đường (5: 21-24):
Trước đây, Đức Giê-su đã ở vùng đất dân Ghê-ra-sa, vùng đất dân ngoại, ở đó Ngài đã chữa lành một người bị quỷ ám nguy hiểm khiến dân làng sợ hãi xin Ngài rời khỏi vùng đất của họ. Vì thế, Ngài xuống thuyền, trở lại sang bờ bên kia Biển Hồ, vùng đất Ít-ra-en. Lập tức, “một đám rất đông tụ lại chung quanh Người” (5: 21). Đây là nét tiêu biểu của Tin Mừng Mác-cô, thánh ký thích ghi lại những tình cảm dân chúng dành cho sự hiện diện của Đức Giê-su: “đám đông tuôn đến với Người”, “họ đến với Người”, “họ đi theo và chen lấn Người”, “họ thích thú lắng nghe Người”.
Và nầy, một viên trưởng hội đường rẻ đám đông đến gặp Ngài. Vị chức sắc Do thái nầy bày tỏ lòng kính trọng và niềm tin tưởng vào Đức Giê-su: ông phủ phục dưới chân Ngài và khẩn thiết nài xin Ngài đến cứu giúp đứa con gái đang trong tình trạng thập tử nhất sinh của ông. Viên trưởng hội đường nói lên ước nguyện của mình: “Con bé nhà tôi gần chết rồi. Xin Ngài đến đặt tay trên cháu, để nó được cứu thoát và được sống” (5: 25). Đáp lại niềm tin tưởng đầy cảm động của ông, Đức Giê-su liền ra đi với ông. Trên đường đi, giữa đám đông chen lấn Ngài, xuất hiện một người phụ nữ mắc bệnh nan y.
- Chúa Giê-su với người phụ nữ mắc bệnh nan y (5: 25-34):
Thánh Mác-cô thường giữ lối nói trực tiếp và bình dân cho câu chuyện của mình: “Có một bà kia bị băng huyết đã mười hai năm, bao phen khổ sở vì chạy thầy chạy thuốc đã nhiều lần đến tán gia bại sản, mà vẫn tiền mất tật mang, lại còn thêm nặng là khác” (5: 25-26). Thánh Lu-ca, thầy thuốc, giữ chừng mực hơn trong ngôn từ của mình: “Có một bà kia bị băng huyết đã mười hai năm, không ai có thể chữa được” (Lc 8: 43). Theo văn hóa Do thái, bệnh tình của bà là trường hợp nghiêm trọng về luật thanh sạch, vì máu là điều cấm kỵ. Vì thế, tuyệt đối cấm bà không được đụng chạm đến bất kỳ ai để khỏi làm cho người ấy ra ô uế (Lv 15: 19-30). Đó là lý do tại sao bà lẫn mình vào trong đám đông để không ai nhận ra và rón rén tiến lại phía sau Đức Giê-su, vì bà không thể công khai cầu xin Ngài chữa cho bà. Cử chỉ của bà thật khiêm tốn: không tìm kiếm bất cứ điều gì ngoài một ước nguyện đơn giản: “Tôi mà sờ được áo Người thôi, là sẽ được cứu” (5: 28). Điều bà nghỉ trong lòng nay được ứng nghiệm: “Tức khắc, máu bà cầm lại, và bà cảm thấy trong mình đã được khỏi bệnh” (5: 29). “Ngay lúc đó, Đức Giê-su thấy có một năng lực tự nơi mình phát ra” (5: 30).
Đây là cách thức qua đó thánh Mác-cô muốn nói rằng quyền năng này không phải do Đức Giê-su nhận được, nhưng vốn có nơi chính con người của Ngài. Vì thế, Ngài liền quay lại giữa đám đông mà hỏi: “Ai đã sờ vào tôi?” (6: 30). Câu hỏi của Đức Giê-su tạo cơ hội cho các môn đệ lên tiếng: “Thầy coi, đám đông chen lấn Thầy đến như thế mà Thầy còn hỏi: ‘Ai đã sờ vào tôi?’” (5: 31).
Sự kiện: “đám đông chen lấn Đức Giê-su”, đóng một vai trò quan trọng trong bài trình thuật này. Việc “đám đông chen lấn” không chỉ nối kết hai câu chuyện thành một bài trình thuật, nhưng còn làm sống động cho hai câu chuyện này. Ngoài ra, nhờ đám đông chen lấn này, lời giải thích của Đức Giê-su về hành động kín đáo của người đàn bà thật rõ ràng: bà được chữa lành không phải vì bà chạm vào gấu áo của Ngài, nhưng vì bà có niềm tin: “Nầy con, lòng tin của con đã cứu chữa con” (5: 34). Chúng ta có thể gọi niềm tin của người phụ nữ này vào Đức Giê-su là một niềm tin kín đáo, nhưng mãnh liệt đến mức liều lỉnh. Quả thật, trong đám đông chen lấn Ngài, không thiếu những người đã đụng chạm vào Ngài, nhưng không ai nhận được bất cứ ân ban nào. Để đón nhận ân sủng của Đức Giê-su, cần thiết phải có một đức tin sẵn sàng ở trong lòng.
- Chúa Giê-su với con gái của viên trưởng hội đường (5: 35-45):
Khi đoàn người sắp đến nhà viên trưởng Hội Đường, người nhà viên trưởng hội đường thông báo cho ông: “Con gái ông chết rồi, làm phiền Thầy chi nữa?” (5: 35). Đối với họ, quyền năng của Đức Giê-su cũng chỉ là quyền năng chiến thắng bệnh tật. Chắc chắn viên trưởng hội đường cũng đồng quan điểm với họ. Nghe thế, Đức Giê-su nói với ông trưởng hội đường: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi” (5: 36). Nếu chúng ta muốn nắm bắt nét nghĩa của động từ được thánh Mác-cô dùng ở đây, phải dịch: “Hãy kiên vững trong đức tin của ông”, có nghĩa ông có đức tin rồi và phải tiếp tục tin như thế. Như vậy, Ngài mở cho người cha đau khổ nầy một con đường hy vọng. Vì thế, ông không ngăn cản Đức Giê-su, nhưng để Ngài vào nhà ông.
Chúng ta sẽ tham dự một hoạt cảnh tương tự ở Bê-ta-ni-a trong câu chuyện của thánh Gioan về việc phục sinh anh La-da-rô, em trai của hai chị em cô Mác-ta và cô Ma-ri-a. Cô Mác-ta nói với Đức Giê-su: “Thưa Thầy nặng mùi rồi, vì em con ở trong mồ đã được bốn ngày” (Ga 11: 39). Đức Giê-su trả lời bằng cách đòi hỏi chị phải tin vào Ngài: “Nào Thầy đã chẳng nói với chị rằng nếu chị tin, chị sẽ được thấy vinh quang của Thiên Chúa sao?” (Ga 11: 40). “Con bé có chết đâu, nó ngủ đấy!”. Ngài sẽ nói với các môn đề về cái chết của anh La-da-rô cũng như vậy: “La-da-rô, bạn của chúng ta đang yên giấc” (Ga 11: 11). Đây không là một hình bóng, nhưng là một lời khẳng định mang tính mặc khải: cái chết chỉ là một giấc ngủ khai mở sự sống, như chúng ta đã gặp thấy nhiều lần trong văn chương Kinh Thánh cũng như ngoài Kinh Thánh. Tất cả tình tiết của hoạt cảnh đều tuân theo chiều hướng nầy.
Sau khi vào nhà viên trưởng hội đường, Đức Giê-su truyền lệnh cho mọi người ra ngoài hết, rồi dẫn cha mẹ và ba người môn đệ cùng đi với Ngài, Phê-rô, Gia-cô-bê và Gioan, vào nơi đứa bé đang nằm. Đức Giê-su cầm lấy tay đứa bé và nói: “Ta-li-tha-kum” (“Ta-li-tha”: “cô bé”, và “kum”: “hãy chỗi dậy”). Thánh Mác-cô đã bảo tồn từ A-ram, ngôn ngữ nói của Đức Giê-su, trong bản văn của mình, điều này gây ấn tượng cho người đọc về một chứng nhân nhãn tiền. Đồng thời, tác giả lập tức dịch sang ngôn ngữ Hy-lạp, ngôn ngữ phổ thông vào thời đó: “Này bé, Thầy truyền cho con: chỗi dậy đi!”, điều này cho thấy tác giả gởi sách Tin Mừng của mình đến các Ki-tô không xuất thân từ Do thái, nhưng từ lương dân.
“Hỡi cô bé, hãy chỗi dậy”, động từ “chỗi dậy” sẽ trở thành thuật ngữ để chỉ biến cố Phục Sinh của Đức Ki-tô. Cô bé liền chỗi dậy và đi lại được. Đức Giê-su bảo họ cho đứa bé ăn. Lời dặn dò nầy có một mục đích tức thời, nhằm cho cha mẹ của cô bé hiểu rằng cô bé thật sự sống lại chứ không là một bóng ma. Cũng vậy, sau khi sống lại, Đức Giê-su cũng hỏi các môn đệ vẫn còn nghi nan ngờ vực: “Ở đây anh em có gì ăn không?” (Lc 24: 41). Tuy nhiên, lời dặn dò nầy còn mặc khải một ý nghĩa sâu xa hơn nữa, vì nó mang tính biểu tượng và ngôn sứ: việc chỗi dậy bên kia cái chết mở ra những thực tại thần thiêng mà các ngôn sứ đã diễn tả bằng những hình ảnh về bàn tiệc cánh chung mà Thiên Chúa mở ra để khoản đãi muôn dân nước. “Cô bé đã mười hai tuổi”. Con số “mười hai” cũng có giá trị dấu chỉ: con số của sự tuyển chọn. Thánh Mác-cô đã dùng con số nầy rồi đối với người phụ nữ mắc bệnh băng huyết đã “mười hai” năm. “Mười hai Tông Đồ” tiếp nối “mười hai chi tộc Ít-ra-en”, là dấu chỉ của Vương Quốc Thiên Chúa. Trong sách Khải Huyền, số người được tuyển chọn là “một trăm bốn mươi bốn ngàn” người, tức là gấp ngàn lần của 12 x 12 (Kh 7: 4).
Ngoài cha mẹ, những nhân chứng về cuộc phục sinh cô bé là ba Tông Đồ, Phê-rô, Gia-cô-bê, và Gioan. Chính ba vị Tông Đồ nầy sẽ được Đức Giê-su dẫn lên núi để chứng kiến cuộc Biến Hình của Ngài. Trong câu chuyện Biến Hình, khi “các ông kinh hoàng ngã sấp mình xuống đất”, Đức Giê-su lại gần, chạm vào các ông và bảo: “Chỗi dậy đi, đừng sợ” (Mt 17: 7). Cũng là cử chỉ và lời nói mà Đức Giê-su đã làm và đã nói với con gái của viên trưởng hội đường. Có một mối liên hệ của biến cố Phục Sinh với biến cố Biến Hình, đây là hai khía cạnh bất khả phân lý của cuộc sống sau cái chết.
(Suy niệm của Guy Morin)
“Đừng sờ!” đó là điều cấm đoán đầu tiên trong thời thơ ấu của chúng ta. Những món đồ chưng bày mảnh mai, những đồ vật nguy hiểm bị cấm đụng tới, và người lớn đàn áp chúng ta, không muốn chúng ta tiếp xúc với chúng. Trái lại họ tìm cách dụ dỗ chúng ta khi bắt chúng ta sờ con chó khiến chúng ta sợ hãi. Trong cuộc sống, chúng ta có kinh nghiệm là xúc giác hủy bỏ khoảng cách giữa những con người. Người ta có thể nhìn và nghe thấy từ xa nhưng người ta chỉ sờ khi ở gần mà thôi, sờ tức là gần ai đó, thân mật với họ.
Chúa Giêsu, Ngôi Lời Nhập Thể, rất thường dùng đến việc tiếp xúc thể lý. Ngài dùng tay sờ mắt, lưỡi, lỗ tai, da thịt bệnh nhân. Ngài ôm hôn trẻ con. Hơn nữa Ngài để cho những người bệnh đụng tới mình và bảo thánh Tôma thọc bàn tay vào cạnh sườn Ngài. Để diễn tả sự thật không chối cãi được của nhân tính Ngài, thánh Gioan viết: “Những gì tay chúng tôi đã sờ nơi Ngôi Lời sự sống… chúng tôi đã loan báo cho anh em” (Ga 1,1). Trong Tin Mừng hôm nay, có hai trường hợp sờ: Một phụ nữ sờ gấu áo Chúa Giêsu; Ngài nắm tay một cô bé đã chết để làm cho cô được sống lại. Lúc ban đầu, người phụ nữ này cũng như ông Giairô không muốn trở nên thân thiện với Chúa Giêsu; họ chỉ muốn được Ngài chữa lành thôi. Tuy nhiên đối với Chúa Giêsu những việc tiếp xúc này không chỉ là hành động thể lý mà thôi; chúng phải dẫn đến một mối tương quan cá vị, mối tương quan của đức tin.
Từ tiếp xúc đến đức tin.
Trong đám đông có một phụ nữ băng huyết. Thất vọng về các y sĩ, bà đã nghe nói về Chúa Giêsu và thấy Ngài là cơ hội cuối cùng để bà được chữa lành. Bà táo bạo vì bệnh của bà hay lây và làm cho bà trở nên ô uế (Lv 15,25). Không sao! Bà vẫn len lỏi tới, sờ vào gấu áo Chúa Giêsu và bà được chữa lành. Chúa Giêsu là ai đối với bà? Bà xem Ngài như thế nào? Bà không nghĩ đến việc này nhưng cử chỉ của bà cho thấy Ngài là ai. Ngài là người chữa lành; còn bà là bệnh nhân. Ngài có thể thỏa mãn nhu cầu về sức khỏe của bà; nơi Ngài có những năng lực chữa lành. Bà muốn được đón nhận năng lực này. Hoàn toàn chỉ quan tâm đến bệnh tật của mình, bà không tìm kiếm tương quan cá vị với Chúa Giêsu. Sờ được vào gấu áo của Ngài là đủ cho bà rồi. Đối với bà, Chúa Giêsu trước hết là một phương tiện để được chữa lành.
Chúa Giêsu sẽ dẫn đưa bà đến một mối tương quan cá vị. Bà muốn lẩn trốn; Ngài kéo bà ra khỏi sự vô danh của bà khi đưa mắt tìm bà. Và này đây bà run rẩy sụp lạy dưới chân Ngài. Lúc này, Ngài chữa lành bệnh cho bà, bây giờ, là Ngài làm cho bà run sợ. Chúa Giêsu không để bà phải sợ hãi, Ngài bảo: “Hãy đi về bằng an. Đức tin của bà đã cứu bà”. Ngài trả lại sức khỏe cho bà nhân danh đức tin của bà. Bà được chữa lành không vì đã đụng tới áo Chúa Giêsu như bà tưởng, nhưng vì bà đã tin nơi Ngài. Từ nay, bà biết rằng chính đức tin đã cứu thoát bà. Chúa Giêsu đã dẫn đưa bà từ một tin tưởng ma thuật đến đức tin vào bản thân Ngài.
Trường hợp ông Giairô lại khác hẳn. Với niềm tin tưởng, ông xin Chúa Giêsu đến đặt tay lên con gái ông đang hấp hối để nó được sống. Dọc đường có người đến báo cho ông hay rằng cô bé đã chết và khuyên ông đừng làm phiền Chúa nữa: “…Phiền Thầy làm gì nữa?”. Tức khắc Chúa Giêsu đã hỗ trợ đức tin của ông Giairô, duy trì mối liên hệ của ông với Ngài và đồng hành với ông, giúp ông vượt qua nỗi sợ hãi: “Đừng sợ chỉ cần tin mà thôi”. Cứ tiếp tục tin, dù sao cũng cứ tin! Khi đến nhà ông, Chúa Giêsu nắm tay cô bé đã chết và cho cô sống lại như Ngài đã làm sống lại đức tin đang tàn lụi của ông Giairô để giúp ông niềm tin vào quyền năng của Ngài, quyền năng làm cho kẻ chết sống lại.
Tin, tức là gặp gỡ.
Người phụ nữ bênh hoạn và ông Giairô đã tin vì họ đã gặp Chúa Giêsu. Từ đó họ có những lý do riêng biệt để tin: Người phụ nữ tin vì bà được chữa lành, nhưng nhất là vì cách mà Chúa Giêsu đã dùng để làm cho đức tin của bà biến chuyển: Ông Giairô tin, vì việc con gái ông được sống lại, nhưng nhất là vì cách mà Chúa Giêsu đã dùng để nâng đỡ niềm tin của ông và giúp ông thắng vượt nỗi sợ hãi.
Bài tường thuật của thánh Marcô hôm nay cũng có liên quan đến Kitô hữu chúng ta: Đức tin của chúng ta có được nuôi dưỡng bằng việc gặp gỡ Chúa Kitô Phục Sinh hiện diện trong cuộc đời chúng ta. Đó là luật của Tin Mừng: Chúng ta tin tùy theo mức độ chúng ta gặp gỡ Chúa Giêsu Kitô. Ta hãy nghiêm túc tự đặt câu hỏi này: Tôi đã gặp Chúa Giêsu khi nào? Tin Mừng sẽ chúng ta trả lời. Mỗi lần chúng ta xem Chúa Giêsu như Đấng Cứu Độ chứ không phải như kẻ chữa lành hoặc giúp đỡ điều nọ điều kia, mỗi khi lâm cảnh đau buồn hoặc nguy nan, chúng ta vẫn tiếp tục tin, đó là những khi chúng ta gặp gỡ Ngài.
Bài Tin Mừng tường thuật hai phép lạ Chúa Giêsu đã làm: phép lạ cho một phụ nữ được khỏi bệnh băng huyết, và phép lạ cho con gái ông trưởng hội đường Gia-ia được sống lại. Chúng ta thấy hai phép lạ như có một số điểm tương đồng: người phụ nữ mắc bệnh đã 12 năm, bằng với số tuổi của em bé kia, vì Tin Mừng cho biết khi em chết em được 12 tuổi. Cả hai phép lạ xảy ra đều do hành động thể lý là chạm tay vào tua áo Chúa và Chúa cầm tay em bé đã chết. Chúa Giêsu ban phép lạ này do lòng tin.
Trước hết, chúng ta thấy Chúa Giêsu nhận lời kêu xin của ông Gia-ia đi chữa bệnh cho con gái ông. Dân chúng đông đảo đi theo có vẻ háo hức và chen lấn, các môn đệ cùng đi bên Chúa. Gĩưa lúc ấy các môn đệ nhận ra một người đến quỳ trước Thầy mình, nhưng lúc ấy phép lạ đã xảy ra rồi, đó là một phụ nữ đầy lòng tin đã được Chúa cho khỏi bệnh. Thực vậy, giữa đám đông dân chúng dày đặc, phụ nữ này nhận ra một vị Thiên Chúa ẩn dật nhưng đầy quyền năng, bà không dám công khai trực tiếp xin Chúa trước mặt mọi người, có thể là vì xấu hổ hoặc ngại ngùng. Ngoài ra, bà cũng biết luật Lêvi cấm ngặt về loại bệnh này. Đối với người Do Thái, băng huyết là một bệnh được liệt vào số các chứng bệnh nan y và ô nhục, làm cho người bệnh ra dơ bẩn trước mặt Chúa và cộng đồng. Hơn nữa, chứng bệnh này còn làm cho người khác lây sự dơ bẩn của bệnh nhân, tức là họ đụng chạm đến ai hay ai đụng chạm đến họ đều trở thành dơ bẩn và phải dâng lễ tẩy uế mới được sạch. Đó là điều hết sức rắc rối.
Nên bà không dám đến trước mặt Chúa xin Chúa chữa lành, nhưng bà có một lòng tin chắc chắn vào sức mạnh uy quyền toàn năng của Chúa. Bà tự nhủ: “Không cần phải ra mặt, chỉ cần đụng chạm vào tua áo khoác ngoài của Ngài thôi thì chắc chắn sẽ được khỏi”. Chúng ta thấy bà thật khiêm tốn. Vì thế, bất chấp tất cả luật lệ phiền phức và nghiêm ngặt, bà lén đến sau lưng Chúa, để thực hiện ý định rút ơn Chúa, và kết quả bà được toại nguyện. Bà thể hiện đức tin một cách sâu sắc, như chính Chúa xác nhận và thưởng công cho lòng tin của bà: “Lòng tin của con đã cứu chữa con”.
Phép lạ thứ hai Chúa Giêsu làm là nơi nhà ông trưởng hội đường Gia-ia. Ông có đứa con gái mắc bệnh nặng thập tử nhất sinh, ông đến xin Chúa cứu con ông. Lòng tin mạnh mẽ được bộc lộ ra qua tất cả con người ông, nghĩa là qua các cử chỉ cũng như lời yêu cầu của ông. Thực vậy, khi đến trước mặt Chúa, ông quỳ sụp dưới chân Chúa, đây là một cử chỉ dành riêng cho Thiên Chúa Giavê trong Cựu ước, cử chỉ này chứng tỏ ông tin và nhận ra Chúa là Đấng Thiên Sai. Cử chỉ thứ hai là ông xin Chúa đến đặt tay trên con ông. Ông tin chắc chắn chứ không hồ nghi: “Thưa Thầy, con bé nhà tôi gần chết rồi. Xin Ngài đến đặt tay trên cháu, để nó được cứu thoát và được sống”. Ông tin chắc chắn sự việc sẽ xảy ra như thế, nếu Chúa muốn. Ngài động đến đâu thì sức mạnh và sự sống lan tràn tới đó. Nhận thấy lòng tin mạnh mẽ của ông, Chúa đi tới nhà ông và cho con gái ông sống lại.
Đức tin thì không thể nhìn thấy, bởi vì nó không phải là vật chất, nhưng thuộc về tinh thần. Người ta không thể thấy được nó nhưng người ta có thể biết nó có nhờ khi nó biểu lộ qua hành động bên ngoài. Cũng như không ai nhìn thấy lòng tin của ông Gia-ia và của người đàn bà băng huyết, nhưng qua thái độ, lời nói và cử chỉ của họ đã biểu lộ lòng tin của họ. Cũng vậy, chúng ta có đức tin hay không, chẳng ai biết, nhưng khi thấy chúng ta đi vào nhà thờ nghiêm trang, người ta có thể biết được chúng ta là người có đức tin. Như thế, một điều chúng ta có thể ghi nhận là: đức tin chỉ ở trong lòng thôi thì chưa đủ mà còn phải biểu lộ ra bên ngoài.
Vì thế, chúng ta cần phải có một đức tin mạnh mẽ như ông Gia-ia, hiên ngang mà không hổ thẹn, vững chắc chứ không hồ nghi. Đàng khác, chúng ta cũng cần có một đức tin kín đáo nhưng dẻo dai như lòng tin của người phụ nữ trên đây, bà không cần kêu xin mai như ông Gia-ia, bà chỉ có một thái độ khẩn khoản khiêm nhường và đầy tin tưởng trong tâm hồn, thế là đủ. Chúa đang chờ đợi ở chúng ta cónhững tâm tình như thế.
Xin Chúa ban thêm lòng tin cho chúng ta.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thành Long)
ĐỨC TIN KHAI MỞ QUYỀN NĂNG THIÊN CHÚA
Sau phép lạ dẹp yên bão tố và phép lạ giải thoát người bị quỷ ám, hôm nay chúng ta được nghe trình thuật diễn tả hai phép lạ khác đan kết với nhau một cách chặt chẽ: phép lạ chữa người đàn bà loạn huyết và phép lạ phục sinh con gái ông Giaia. Qua các phép lạ này, ta thấy có một sự tăng trưởng dần dần trong niềm tin của các môn đệ vào quyền năng của Chúa Giêsu. Quyền năng trên các định luật thiên nhiên: làm cho sóng yên biển lặng. Quyền năng trên các thần ô uế: giải thoát người bị quỷ ám ở Ghêrasa. Quyền năng trên bệnh tật: chữa lành người đàn bà bị chứng xuất huyết. Và quyền năng trên sự chết: phục sinh con gái ông trưởng hội đường. Thế nhưng để quyền năng của Chúa Giêsu được biểu lộ, đòi hỏi con người phải có niềm tin. Nói cách khác, tin là điều kiện cần có để được Đức Giêsu thực hiện các phép lạ.
Chính nhờ đức tin mà người đàn bà loạn huyết được chữa lành. Chúa Giêsu đã xác nhận điều này: “Đức tin con đã cứu chữa con” (Mc 5,34). Đức tin đã khai mở quyền năng của Ngài, như thể Chúa Giêsu quy gán phép lạ cho khả năng của con người. Đức tin đã giúp bà tìm đúng địa chỉ để dứt điểm căn bệnh mà bà phải gồng mình chịu đựng trong suốt 12 năm trường. Trình thuật Marccô cho thấy người đàn bà bị loạn huyết đang đối diện với một căn bệnh được xem là nan y thời đó. Căn bệnh đang lấy dần đi sự sống nơi bà, vì máu là căn nguyên sự sống, trong khi bà đang bị băng huyết. Nhưng bà tin Chúa Giêsu có dư năng quyền để chữa bà lành bệnh. Bằng chứng là bà tự nhủ rằng chỉ cần một chút quyền năng phát ra nơi gấu áo của Chúa Giêsu thôi cũng bằng ngàn vạn thầy thuốc giỏi nhất trần gian. Quả đúng như thế. Bà vừa mới sờ vào gấu áo Chúa Giêsu, tức khắc căn bệnh đã “say goodbye” với bà. Kỳ diệu thay quyền năng của Thiên Chúa và cũng diệu kỳ thay đức tin của con người.
Cũng vậy, chính nhờ đức tin của ông trưởng hội đường mà con gái ông được cứu sống. Cứ xem diễn tiến của câu chuyện chúng ta sẽ thấy rõ sự kỳ diệu của đức tin. Khi hay tin con gái cưng của ông đã chết và những người nhà của ông đã tuyệt vọng, ông vẫn tin vào quyền năng của Chúa. Con gái của ông không còn là một bệnh nhân, mà đã trở thành một xác chết. Và điều ông nài xin Chúa Giêsu giờ đây đối với gia nhân của ông cũng không còn giá trị nữa, như lời họ khuyến cáo: Con gái ông đã là người thiên cổ rồi còn làm phiền Thầy chi nữa (x. Mc 5,35).
Sự kiện “người ta khóc than kêu la” là dấu chứng con gái ông đã chết. Thánh sử Matthêu còn thêm chi tiết là “đến nơi Chúa Giêsu thấy phường kèn và đám đông xôn xao” (Mt 9,23). Đang sống thì phường kèn không có lý do gì để có mặt ở đó. Điều này chứng tỏ con gái ông rõ ràng đã chết thật, và đức tin của ông lúc này đang bị thử thách nặng nề. Có thể nói được là thử thách đã lên tới đỉnh điểm. Tuy nhiên, khi được Chúa Giêsu khích lệ, ông đã một lòng tin tưởng và tín thác, mặc cho bầu khí kém lòng tin, do những người bà con lối xóm gây ra, đang bao trùm chung quanh. Kết quả là đức tin ấy đã được tưởng thưởng xứng đáng: người con gái yêu quý đã được tử thần trả lại cho ông. Nói cách khác, chính đức tin đã đem con gái ông trở về từ cõi chết. Chẳng phải Chúa Giêsu đã từng có lần nói: “Mọi sự đều có thể đối với người có lòng tin” (x. Mt 21,21-22).
Nói tóm lại, tin là điều kiện cần thiết để Chúa Giêsu thực hiện các phép lạ. Thế nhưng việc Chúa Giêsu thực hiện các phép lạ cũng không nằm ngoài mục đích là củng cố niềm tin cho những kẻ đi theo Ngài, để họ tin rằng Ngài là Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế, nhờ đó mà họ được ơn cứu độ. Không bao giờ Chúa Giêsu làm phép lạ để biểu diễn như lời dụ khị của Satan; hay là để cho nhân dân tán thưởng như các võ sĩ, các nhà ảo thuật, hoặc các diễn viên xiếc…
Qua phép lạ, Ngài kiện cường, thanh luyện niềm tin của những kẻ theo Ngài vốn còn nông cạn, thậm chí còn mang hơi hám ma thuật sơ đẳng, như đức tin của người đàn bà bị loạn huyết, hay còn đang bị chao đảo như đức tin của ông trưởng hội đường, trở thành một đức tin chân chính và sâu xa.
Niềm tin của tôi đang mang màu sắc nào? Tôi có để cho Chúa thanh luyện và “nâng cấp” để đức tin của tôi ngày càng trở nên tinh ròng và kiên vững hay không? Xin Chúa gia tăng lòng tin còn non yếu của chúng ta, hầu chúng ta có thể mở các kho tàng ân sủng trào tràn của Thiên Chúa. Amen.
(Suy niệm của Lm. Gioan Phan Tiến Dũng)
“Tôi đã, đang và sẽ làm gì trước những nỗi đau khổ của anh chị em tôi”? Đây là câu hỏi đang được đặt ra để tự vấn lương tâm và lòng trí của mỗi người chúng ta. Là những người con cái Chúa, là những Kitô hữu, là đồng bào ruột thịt với nhau, khi chứng kiến những nỗi đau khổ của anh chị em mình, có điều gì từ thâm tâm đã thôi thúc, đánh động chúng ta? Thú thật, ngay cả chính bản thân là mục tử, mỗi khi vào bệnh viện đi thăm người bệnh, đi xức dầu, hay đem Mình Thánh Chúa cho bệnh nhân…, những lần chứng kiến và tiếp xúc với những người nghèo, người bệnh, người có hoàn cảnh khó khăn cần được giúp đỡ… và càng bi đát hơn, giờ đây, khi phải đối diện với những khó khăn, đau khổ từ dịch bệnh gây ra cho tha nhân…, trước những hoàn cảnh thương tâm như vậy, làm sao mà tôi không khỏi xúc động-chạnh lòng, nhưng tôi phải làm gì đây? Vì với thân phận và giới hạn của con người, nhiều lúc chúng ta cảm thấy “bó tay-bất lực” và không biết phải làm gì.
Thánh vịnh 29 trong bài đáp ca cho chúng ta một bí quyết: “Lạy Chúa, xin lắng nghe và xót thương con, lạy Chúa, xin phù trì nâng đỡ”.(Tv 29,11) Thật vậy, cách hữu ích duy nhất trong nguy khốn là: hãy chạy đến với Thiên Chúa với lòng tin, hãy cậy trông và phó thác vào Chúa, vì chính Ngài là Đấng sẽ ban ơn giúp sức, chính Chúa sẽ hướng dẫn, chỉ bảo cho chúng ta phải hành động, ứng xử và làm những gì, như thế nào trong từng hoàn cảnh cụ thể của chúng ta. Thế nhưng, liệu rằng chúng ta có thể tin cậy và phó thác mọi sự cho Chúa?
Bài đọc một từ sách Khôn ngoan cho chúng ta biết rằng: Thiên Chúa chính là Người Cha yêu thương, Đấng đã dựng nên mọi sự trong vũ trụ này, đều tốt lành và đem lại ơn ích cho chúng ta. Chúa đã không tạo nên sự dữ, đau khổ và chết chóc. Thế nhưng những hậu quả của đau khổ mà con người đang phải gánh chịu là do bởi sự ích kỷ, hẹp hòi và tội ác của con người gây nên cho nhau. Một khi con người không chấp nhận Chúa, khước từ và không tin vào Chúa, thì con người đã mở cửa lòng trí mình cho ma quỷ, thế gian, xác thịt xúi giục, chiều theo và hậu quả là sự đau khổ và sự chết đã xảy ra. Thế thì, trước nỗi đau khổ và cái chết, con người có còn được Thiên Chúa đoái thương, ban ơn cứu chữa và cho chúng ta cơ hội, cho con đường sống tốt lành không?
Tin mừng theo Thánh Marco, cho chúng ta hai mẫu gương của những con người biết chạy đến kêu xin Chúa trong lúc khó khăn, đau khổ và đang đối diện với cái chết. Mẫu gương của ông trưởng hội đường, một người cha có đứa con bị bệnh gần chết và mẫu gương của người đàn bà bị bệnh nan y không thể nào cứu chữa. Hai con người này, cũng đang đại diện cho tất cả chúng ta trong hoàn cảnh hiện nay, khi bản thân chúng ta đang phải chứng kiến sự đau khổ và cái chết của tha nhân vì dịch bệnh, đồng thời cũng chính bản thân chúng ta đang phải gánh chịu biết bao sự đau khổ, khó khăn, bệnh tật trong cuộc sống. Điều tuyệt vời nơi mẫu gương này là: trong cơn tuyệt vọng, hai con người này đã biết chạy đến với Chúa Giêsu, vì họ tin Ngài là cứu cánh duy nhất của họ. Người cha đã chạy đến quỳ dưới chân Chúa, sụp lạy, van xin Chúa: “Con gái tôi đang hấp hối, xin Ngài đến đặt tay trên nó để nó được khỏi và được sống”. Còn người đàn bà cũng chạy đến với Chúa, vì sợ không dám kêu xin, nhưng đã nghĩ thầm: “Miễn sao tôi chạm tới áo Người thì tôi sẽ được lành”. Hai con người với hai hoàn cảnh, hai nỗi khó khăn, cùng cực khác nhau, nhưng họ lại có chung một lòng tin rất mạnh vào Chúa. Nhờ vào lòng tin của chính mình mà Chúa đã cứu chữa khỏi căn bệnh nan y của người đàn bà và cũng nhờ vào lòng tin người cha mà đứa con gái của ông sắp chết, đúng ra đã chết được Chúa cứu sống.
Thưa ACE, ai trong chúng ta mà không phải đối diện với những khó khăn, đau khổ và sự chết, đặc biệt trong hoàn cảnh của dịch bệnh hiện nay; càng tệ hại hơn khi chứng kiến hậu quả đau thương của những cách sống, thái độ sống băng hoại trong đời sống xã hội hiện tại. Vậy thì, trong cơn nguy nan, cùng cực như vậy, Chúa có phải là điểm tựa, là cứu cánh, là Đấng mà chúng ta tin tưởng, phó thác, cậy trông để chạy đến van xin Ngài thương cứu giúp. Đồng thời, với lòng tín thác vào Chúa và tình liên đới với ACE, chúng ta đã, đang và sẽ làm gì cho tha nhân đặc biệt cho những con người đau khổ, phận nhỏ, những con người bị lãng quên và bị bỏ rơi?
Bài đọc hai trong thư của Thánh Phaolô gởi tín hữu Côrintô mời gọi chúng ta dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, hãy sống tâm tình cảm tạ, tri ân, hãy đến với ACE mình với tấm lòng quảng đại yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau. Vì tất cả những gì mà chúng ta đang có ngay từ mạng sống, từ sức khỏe, đến công ăn việc làm…mọi sự chính là ơn phúc mà Chúa thương ban, phù trì và che chở. Do đó, cách sống tín thác vào Chúa và tâm tình tạ ơn chính là cách sống quảng đại để trao ban, chia sẻ và giúp đỡ những gì chúng ta đã và đang lãnh nhận cho ACE mình. Thật ra, không phải chúng ta là người trao ban, chia sẻ, nhưng khi chúng ta khiêm tốn, mở lòng, thì chính Chúa là Đấng đang dùng chúng ta mà trao ban ơn thánh của Ngài cho người khác.
Lạy Chúa, Chúa đã chạm vào em bé dù đã chết, nhưng em đã được cứu sống nhờ lòng tin và sự van xin kêu cứu của người cha; Chúa cũng đã tạo cơ hội để cho người đàn bà bị bệnh chạm đến Chúa để được chữa lành nhờ vào lòng tin mạnh của bà. Giờ đây, với lòng tín thác, chúng con xin Chúa cũng hãy đến chạm vào những nỗi đau khổ, bệnh tật cả về thể lý và tinh thần của chúng con. Xin vì lòng thương xót Chúa mà ban cho chúng con được ơn chữa lành. Xin Chúa cũng hãy dùng chính chúng con, xin ban ơn soi sáng, giúp sức để với tình thương và sức mạnh của Chúa, chúng con mới có những sáng kiến tốt lành để đến với tha nhân, nhờ đó ơn thánh tình thương của Chúa được thực hiện. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Trần Việt Hùng)
Thiên Chúa là Chúa của sự sống. Thiên Chúa tạo dựng sự sống nơi thực vật, động vật, con người và thiên thần. Chúng ta thấy được sự sống gắn liền nơi các tao vật. Mọi tạo vật đều nhận hơi thở sự sống. Rút hơi thở, chúng sẽ tan biến. Ngay chương đầu của sách Khôn Ngoan, tác giả được linh lứng viết rằng: Thiên Chúa không làm ra cái chết, chẳng vui gì khi sinh mạng tiêu vong (Kn 1,13). Sự sống ở mọi tạo vật sinh động sẽ tiêu vong, nhưng sự sống thật sẽ tồn tại muôn đời. Chúng ta có nhiều kinh nghiệm về sự sinh, lão, bệnh và tử. Con người sinh ra và từ từ đi về cõi chết. Đã là người, ai cũng bước qua lúc sinh lúc tử.
Từ muôn thế hệ, dòng dõi này nối tiếp dòng dõi kia để truyền sinh sự sống. Sự sống mà Thiên Chúa trao ban cho tổ tông của loài người vẫn được tiếp tục phát triển và sinh xôi nẩy nở. Sự sống của từng cá nhân sẽ chấm dứt ở đời này, nhưng sự sống của con người sẽ tiếp tục. Với niềm tin vào Chúa Kitô phục sinh, chúng ta tin rằng sự sống thay đổi chứ không mất đi. Người ta thường nói: Sinh ký tử qui, sống gởi thác về và từ trần hay qua đời. Qua đời này để vào đời khác. Chết không phải là chấm hết mà bước qua một cuộc sống mới.
Sự sống và sự chết là một mầu nhiệm. Chúng ta không hiểu được mầu nhiệm của sự sống, mà chỉ chiêm ngắm và sống mầu nhiệm này. Biên giới giữa sự sống và sự chết là một hơi thở. Có những người được sống cả trăm năm. Có những thân phận bé bỏng chỉ được nương nhờ sự sống nơi cung lòng mẹ ít ngày tháng. Cuộc đời dài vắn của mỗi sinh linh đều khác nhau. Chúng ta không thể so sánh hay phân bì. Mỗi một sự sống là một huyền nhiệm. Sự sống như nhau, nhưng sự sống đi vào cụ thể trong những định mệnh hoàn toàn khác nhau. Mỗi một cá nhân được trao ban một số mệnh cuộc đời. Hạnh phúc biết bao khi chúng ta được mở mắt chào đời và được hiện hữu trên thế gian. Chúng ta hãy trân quí từng giây phút trong cuộc đời. Cuộc đời dù ngắn hay dài đều có một sứ mệnh, một ý nghĩa và cùng đích. Thiên Chúa đã tạo dựng con người giống hình ảnh Chúa để sống vĩnh viễn:Quả thế, Thiên Chúa đã sáng tạo con người cho họ được trường tồn bất diệt. Họ được Người dựng nên làm hình ảnh của bản tính Người (Kn 2,23).
Chúa Giêsu là Ngôi Hai và là Con Thiên Chúa. Nhờ Chúa Ngôi Hai mà muôn vật được tạo thành.Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành. Điều đã được tạo thành ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại (Ga 1, 3-4). Thánh Gioan đã thâu tóm chân lý sáng tạo vũ trụ muôn loài qua một lời tròn đầy ý nghĩa: Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành. Ngôi Lời là trung gian của tất cả vạn vật hữu hình và vô hình. Ngài có quyền năng sáng tạo, biến đổi và tái tạo. Chúa Giêsu đã chứng minh quyền năng bằng các phép lạ và lời uy quyền. Biến đổi vật chất như nước thành rượu, bánh cá hóa nhiều, cho sóng gió im lặng, mẻ cá đầy, chữa các loại bệnh hoạn tật nguyền, cải đổi tâm hồn và quyền cho kẻ chết sống lại.
Suy về cuộc đời vô thường, là người ai trong chúng ta cũng có lúc khỏe mạnh và khi yếu đau, khi vui vẻ và lúc buồn sầu, khi hạnh phúc và lúc bất hạnh, khi may mắn và lúc hiểm họa. Sự sống sự chết cận kề. Ai cũng sợ đau yếu bệnh họan và chết chóc. Ông trưởng hội đường tên Giairô đến sụp lạy và van xin Chúa Giêsu: Con gái tôi đang hấp hối, xin Ngài đến đặt tay trên nó để nó được khỏi và được sống. Trên đường về nhà ông, có một người đàn bà bị bệnh xuất huyết. Bà cũng cực khổ tìm thầy chạy thuốc. Bà tự nhủ: Miễn sao tôi được chạm tới áo Người thì tôi được lành. Bà đã chạm và bà đã cảm nhận sự chữa lành trong thân thể bà.
Chúa Giêsu chính là nguồn sự sống và có quyền trên sự sống. Con người là loài thụ tạo, khi đã tắt hơi thở hoàn toàn thì thân xác đi vào cõi tiêu diệt. Không có một quyền lực hay loại thuốc nào có thể cứu gỡ. Đã ra đi là ra đi vĩnh viễn. Con người đành bó tay trước sự chết. Chúa Giêsu nhìn vào sự chết như một giấc ngủ. Thánh Marcô diễn tả về quyền năng của Chúa: Người bước vào nhà và bảo họ: “Sao lại náo động và khóc lóc như vậy? Đứa bé có chết đâu, nó ngủ đấy! (Mc 5, 39). Nhiều người cười nhạo Ngài vì họ đã biết em bé đã tắt thở và đã chết. Nhưng Chúa Giêsu cầm lấy tay nó và nói: “Ta-li-tha kum”, nghĩa là: “Này bé, Thầy truyền cho con: trỗi dậy đi!(Mc 5, 41).
Chỉ Đấng trao ban sự sống mới có quyền ban lại sự sống. Chúa Giêsu đã làm phép lạ cho em gái sống lại trước mặt đám đông. Sự kiện cho kẻ đã chết được sống lại hoàn toàn mới lạ, vượt ra ngoài sự hiểu biết và suy nghĩ của con người. Đôi khi chúng ta nghe nói có những người đã chết nhưng được hồi sinh. Có những trường hợp con người đã chết lịm đi, hơi thở qúa yếu và các cơ quan lưu chuyển trong cơ thể hầu như ngưng đọng. Tin rằng sự sống vẫn còn hiện diện trong thân xác và họ từ từ được hồi sinh. Khi chúng ta có cơ hội chứng kiến những người trong lúc lìa trần, họ cố gắng hít khí vào phổi, nhưng chỉ thở hắt ra đôi lần. Sự cách biệt giữa sự sống và sự chết chỉ là hơi thở. Khi con người trút hơi thở là vĩnh viễn ra đi.
Chúng ta bước vào đời với hình hài một trẻ thơ bé bỏng. Chúng ta được nuôi nấng dưỡng dục, được học hỏi trau dồi kiến thức, được học làm người và học làm con Chúa. Mỗi người lãnh nhận những khả năng và nguồn vốn khác nhau. Điều quan trọng là chúng ta sinh lời không riêng cho chính mình mà chung cho đồng loại. Thánh Phaolô tông đồ trong thơ gởi tín hữu Corintô đã nhắc nhở rằng: Kẻ được nhiều thì cũng không dư, mà kẻ có ít, cũng không thiếu. Phaolô đã khích lệ tín hữu rằng anh chị em vượt trổi về mọi mặt về sự hiểu biết, lòng tin, sự nhiệt thành và lòng bác ái. Trồng người như trồng cây. Ai mà không mong cây trồng phát triển và sinh hoa trái. Con người có sứ mệnh cao qúi. Mỗi cuộc sống con người cũng phải sinh hoa kết trái cho đời. Người ta thường nói: Cọp chết để da, người chết để tiếng.
Chúng ta sẽ ra đi với hai bàn tay trắng nhưng không thể thiếu hành trang. Cuộc sống bên kia cần có nhiều phước báo và việc thiện như là hoa qủa cuộc đời. Phải tạo nhân tốt mới có qủa tốt. Có lòng bác ái vị tha, chúng ta mới có sự yêu thương ràng buộc. Sự sống rất quí giá và đáng sống. Mỗi giây phút sống trong cuộc đời đều là hồng ân. Chúng ta không có quyền tiêu diệt hay hủy hoại sự sống của người khác hay của chính mình. Ai cũng muốn sống hạnh phúc nhưng đôi khi chúng ta làm ngơ trước những hạnh phúc mà chúng ta đang thừa hưởng. Niềm vui và sự bình an nằm ngay trong cuộc sống hằng ngày. Hạnh phúc ví như một chiếc khăn tinh sạch, đôi khi có điểm vài vết nhơ sầu khổ. Vì quá chú trọng đến những chấm nhỏ buồn phiền của cuộc sống, để rồi có nhiều người bi quan cho rằng cuộc đời là bể khổ. Thực sự đời chỉ buồn khổ đối với những ai chấp ngã không dám buông bỏ.
Lạy Chúa, lời Chúa là thần trí và là sự sống, xin cho chúng con biết sống xứng đáng với danh phận của con người. Chúa tác thành mọi sự cho có. Chúa tạo dựng con người để được sống hạnh phúc và thông phần sự sống vĩnh cửu.
(Suy niệm của Lm. Louis M. Nhiên, CRM)
“Không ai có thế đến với tha nhân nếu chính mình không sẵn sàng chạm đến thân thể của họ. Nếu bạn không sẵn sàng chạm đến một người vô gia cư, một người say rượu hoặc một người thật dơ bẩn, thì chính bạn không sẵn sàng phục vụ cho những người đó.” (Nhà Tâm Lý Học Charles Gerkin, Đại Học Emory) Một cử chỉ chạm, một cái ôm và những cử chỉ êm dịu trực tiếp đụng đến thân thể của tha nhân bày tỏ tình yêu thương và chấp nhận họ cách mãnh liệt hơn những lời nói ngọt ngào có thể đem lại được. Cử chỉ chạm là con đường hai chiều: nó ảnh hưởng đến người thụ động cũng như người chủ động. Trong cuộc sống, chúng ta, ai cũng đã từng đóng vai chủ động và thụ động; nghĩa là ta đã từng chạm đến người khác cũng như được người khác chạm đến. Tôi nhớ lại những lần viếng thăm nhà dưỡng lão cũng như những tháng làm Tuyên Úy trong nhà thương. Mỗi khi đến thăm những người cô đơn cũng như bệnh nhân, họ đều muốn nắm tay tôi khi nói chuyện. Có những lần tôi cầm tay họ cho đến hơn một tiếng mà họ vẫn chưa muốn buông thả. Qua đó, tôi nhận thấy rằng một cử chỉ nhỏ mọn như cầm tay hoặc xoa nhẹ trên vai đều mang lại cho người được chạm cũng như chính tôi một sự bình an, niềm vui và sức sống mới.
Trong Tin Mừng hôm nay, Thánh Marcô cũng tả lại hai cử chỉ chạm. Trước hết, người đàn bà bị bệnh xuất huyết hành hạ 12 năm chạm đến Chúa Giêsu. Kế đến là Chúa Giêsu chạm đến em bé gái 12 tuổi. Cả hai cái chạm đều mang lại sự sống và niềm vui cho người chạm cũng như người được chạm. Người đàn bà bệnh đã 12 năm chạm đến Chúa và được chữa lành. Em bé 12 tuổi được Chúa chạm đến được hồi phục sự sống. Trong hai câu truyện, Marcô có đề cập đến một chi tiết giống nhau mà ta cần chú ý, đó là chi tiết 12 năm. Theo phong tục thời đó, tuổi 12 là tuổi được lập gia đình. Cô bé đã chết trước khi được trở nên một người vợ và người mẹ. Người đàn bà bị bệnh hành hạ làm cho không thể sinh con. Cả hai đều có khả năng cộng tác với Chúa để mang sự sống vào thế gian, nhưng một người bị bệnh hành hạ và một người bị cướp mất chính sự sống. Nhưng, nhờ hai cử chỉ đụng chạm, Chúa Giêsu đã không chỉ cứu hai người nữ này khỏi chết, nhưng đã hồi phục chọ họ khả năng sinh con, một khả năng ban sự sống. Ta cũng nên nhớ là không phải ai chạm đến Chúa cũng được khỏi. Đám đông chạm đến Chúa nhưng không gì xảy ra. Ngược lại, người đàn bà chạm đến Chúa đã mang lại một phép lạ. Điều khác biệt giữa hai cái chạm là mức độ ĐỨC TIN. Người đàn bà tin mạnh nên được khỏi và đám đông chỉ chạm đến Chúa vì hiếu kỳ nên không gì xảy ra.
Trong cuộc sống hằng ngày, ta chạm đến nhiều người cũng như được nhiều người chạm đến ta. Nhưng, thử hỏi ta chạm đến tha nhân bằng cách nào? Cử chỉ chạm của ta đem lại cho họ một niềm vui, sự bình an và an ủi hay chỉ là một cái chạm thông thường? Đặc biệt hơn nữa, nếu Chúa Giêsu xuất hiện, đi ngang qua và ta có cơ hội để chạm đến gấu áo của Ngài, ta sẽ chạm đến Ngài với một thái độ hiếu kỳ như đám đông hay với một ĐỨC TIN, như của người đàn bà trong Tin Mừng, là mình sẽ được biến đổi? Thật sự, Chúa Giêsu đang hiện diện giữa chúng ta và chúng ta có cơ hội không chỉ chạm đến gấu áo Ngài, nhưng là chính thân thể Ngài. Đây chính là đặc ân ta được hưởng mỗi khi dự Lễ và rước Chúa vào lòng. Chúng ta đã rước Chúa với thái độ nào?
Xin Lời Chúa hôm nay giúp ta ý thức được đặc ân này và tham dự Thánh Lễ chăm chỉ, dọn mình sốt sàng để rước Chúa vào lòng. Nguyện xin Mẹ Maria, người đã không chỉ được chạm đến Chúa nhưng còn được mang chính Chúa trong lòng, giúp ta luôn biết đặt hết tâm hồn và tấm lòng vào những lời ta đọc trước khi rước Chúa, “Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con, nhưng xin Chúa phán một lời thì linh hồn con sẽ lành mạnh.”
(Suy niệm của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)
Hai câu chuyện chữa hai “con gái” (thygatèr) (5,34.35) được lồng vào nhau: một người được xem như đã chết (5,2-24. 35-43), một người mang bệnh băng huyết (5,25-35). Người con gái nhỏ ở tại nhà và người cha là trưởng hội đường đến cầu cứu Chúa Giêsu; trong khi, người phụ nữ bị bệnh băng huyết đích thân tìm đến Người và được Người chữa lành tại chỗ. Trong cả hai người, quyền năng phục hồi sự sống của Người đã tỏ hiện; và chỉ có họ – và những người rất thân thiết – được chứng kiến hiệu quả lạ lùng của quyền năng nầy (x. 5,29.40), tuy dân chúng ở bên Người rất đông. Cấu trúc của hai đoạn nầy: Câu chuyện chữa lành người phụ nữ bị bệnh băng huyết (5,25-34) được xen giữa câu chuyện Chúa Giêsu làm cho người con gái của ông Giairô chỗi dậy (5,21-24;35-43). Việc Chúa Giêsu chữa lành người phụ nữ bị băng huyết là dấu hiệu đi trước tiên báo Chúa sẽ cho người con gái của Giairô sống lại.
Bệnh tình của người phụ nữ bị băng huyết là vô phương cứu chữa. Đã “mười hai năm” bà “khổ sở nhiều”, “chạy nhiều thầy thuốc”, nhưng kết qủa là bệnh càng “thêm trầm trọng”. Con người đã bất lực. Điều nầy làm nổi bật quyền năng của Chúa Giêsu khi Người chữa bà lành bệnh. Người có thể làm điều không thể thực hiện đối với con người. Tuy nhiên, để được chữa lành, bà cần có hy vọng và lòng tin vào Người. “Nghe nói về Người” là hy vọng thúc giục bà tìm đến Người (c. 27). Việc bà chạm đến áo Người biểu lộ lòng tin của bà vào Người; rất khác và rất phân biệt với việc dân chúng chen lấn và đụng chạm vào áo của Người, mà các tông đồ không thể nhận ra (x. 5,31). Chúa Giêsu đã nhận ra điều nầy và biết cả quyền năng chữa bà lành bệnh phát xuất ra từ Người. Người đã không đặt tay trên đầu bà để chữa bà lành bệnh (x. 5,23; 3:10, 6,56), nhưng chính lòng tin của bà đã kéo đến trên bà quyền năng chữa lành bệnh từ Chúa Giêsu. Lúc nầy đức tin đã cứu bà một cách dứt khoát không phải là khỏi tội, mà khỏi hậu quả của nó. Cũng bởi lòng tin nầy mà bà được gọi là “con gái”, nghĩa là được kể như là một thành phần trong gia đình Thiên Chúa; chữ nầy cũng được dùng để nối kết phần tiếp theo.
Tình trạng của người con gái của ông Giairô cũng không thể cứu vãn được. Trên đường Chúa Giêsu đến nhà ông thì nghe tin về cái chết của người con gái. Câu “không muốn làm phiền Người” tỏ lộ sự thất vọng và bất lực của những người đến báo tin (c. 35). Điều ấy càng được thấy rõ hơn trong sự náo động và than khóc của họ (cc. 38-39). Chính vì thế mà Chúa Giêsu nói với ông trưởng hội đường: “Ông đừng sợ, nhưng hãy tin” (c. 36). Điều nầy hàm ý là ông trưởng hội đường vì đã chứng kiến người phụ nữ bị băng huyết đã được chữa lành nhờ tin vào Chúa Giêsu, ông cũng phải tin vào Người để người con gái của ông được chữa lành. Và bởi thấy ông bị xao động, Chúa Giêsu đã ra lệnh ông “hãy tin”. Thêm một lần nữa, quyền năng của Chúa Giêsu được tỏ hiện trong sự tuyệt vọng của con người. Người phục hồi lại sự sống cho đứa bé gái bằng cách cầm lấy tay và nâng dậy; như thể em vẫn còn sống. Người làm việc nầy cùng một cách thế như Người đã làm cho bà mẹ vợ của ông Phêrô (1,31), cho em bé trai bị quỷ ám (9,26-27). Việc phục hồi sự sống đầy quyền năng nầy có hiệu quả “tức thì”, không cần nhiều thời gian để được thực hiện (1,42; 2,12; 7,35). Đi lại được là dấu hiệu đã được chữa lành (x. 2,9). Kết luận cuối cùng của Marcô là những người chứng kiến phép lạ đều đầy kinh ngạc (c. 41; x. 1,27; 4,41).
Chúa Giêsu tiếp tục tỏ mình ra cho các môn đệ của Người bằng những việc quyền năng để họ có thể tin vào Người. Việc quyền năng lớn lao hơn cả là chính Người sống lại từ cõi chết; nhờ đó họ tin Người chính là Con Thiên Chúa.
46. Căn nguyên ‘sinh lão bệnh tử’
(Suy niệm của Lm. Xuân Hy Vọng)
Trong đời sống, chúng ta thường tự hỏi một số câu hỏi căn tính như: Sống để làm gì? Sự chết từ đâu mà ra? Chết rồi sẽ ra sao? Tại sao phải gian nan khốn khó?…Và nhất là ngay thời điểm dịch bệnh cô-vi còn đang hoành hành khắp nơi, mọi nghi vấn, vấn nạn lại trở nên gay gắt hơn!
Lắm lúc, là người Công Giáo, chúng ta cũng hiểu sai, hiểu lầm rằng: sự chết cũng được Thiên Chúa tạo dựng chăng? Mọi bất trắc, đau khổ do Thiên Chúa làm ra để thử thách chúng ta?…Tuy nhiên, khi đọc bài đọc I trích sách Khôn Ngoan, chúng ta dám khẳng định: “Thiên Chúa không tạo dựng sự chết, chẳng vui mừng khi người sống phải chết” (Kn 1, 13). Ý định nguyên thuỷ của Ngài chẳng phải những gì đang diễn ra, vì “Ngài tạo dựng mọi sự trên mặt đất đều lành mạnh, chúng không có nọc độc sự chết, và không có địa ngục ở trần gian” (Kn 1, 14). Tác giả sách Khôn Ngoan đã xác tín, chỉ ra cho tất cả chúng ta thấy được Thánh ý của Chúa từ khởi nguyên: “Thiên Chúa tạo dựng con người giống hình ảnh Chúa, để sống vĩnh viễn” (Kn 2, 23). Dù là Thiên Chúa quyền năng, cao cả, giàu sang phú quý, nhưng Ngài muốn chia san chân-thiện-mỹ nơi mình cho con người, và đã tạo dựng phàm nhân theo hình ảnh của Ngài, đồng thời giống như Ngài, cụ thể: con người có tự do, mọi quyền căn bản, lý trí để truy tầm sự thật, tìm ra Chân lý tối thượng chính là Thiên Chúa; và con người được ban cho ý chí, ngõ hầu biết yêu thương, cảm nhận được yêu thương, để ôm trọn chính Tình yêu tuyệt đối (là Thiên Chúa).
Thế nhưng, hạnh phúc nguyên thuỷ ấy bị tan vỡ do sự khước từ, bất trung, tính kiêu ngạo muốn trở thành chúa của bản thân để quyết định thiện-ác, tốt-xấu, sống-chết,…vốn là quyền hạn của Thiên Chúa mà thôi. Do đó, tội lỗi đã xâm nhập vào thế giới thiện lành, con người tốt lành thuở ban đầu, và sự chết, đau khổ, bệnh tật…cũng không nằm ngoài hậu quả của tội lỗi, “bởi ác quỷ ghen tương, nên tử thần đột nhập vào thế gian: kẻ nào thuộc về nó thì bắt chước nó” (Kn 2, 24). Thiên Chúa thấu hiểu sự yếu đuối, hay sa ngã của con người, nhưng Ngài vẫn tin tưởng con người vốn là hình ảnh của mình, nên đã không bỏ mặc họ, hoặc trao án phạt nhãn tiền muôn đời, như Ngài đã trừng phạt Lu-ci-phe và các thiên thần sa ngã một lần mãi mãi. Thiên Chúa trung thành với lời hứa ban Đấng Cứu Độ, và Ngài chuẩn bị một cách công phu chu đáo cho chương trình yêu thương, cứu rỗi con người, bằng cách “…vào thời ấn định, Ngài đã sai Con Một đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Ngài mà được cứu độ…” (x. Ga 3, 17). Với sứ mệnh đó, dù đi tới đâu, Đức Giê-su luôn mang niềm vui giải thoát khỏi tội lỗi, khỏi bệnh tật, khỏi khổ đau, khỏi những gì con người phải chịu do tội lỗi gây ra: già cỗi, bệnh tật, đau khổ, cái chết. Vì vậy, khi Đức Giê-su làm phép lạ chữa lành, không vì mục đích cho bản thân nổi tiếng, hoặc mọi người biết tới, nhưng qua giáo huấn và phép lạ, Ngài muốn cho tất cả biết rằng: Thiên Chúa hằng yêu thương, hằng nâng đỡ, chở che, tha thứ, giải thoát, cứu độ con người, dù họ chẳng xứng đáng với tình yêu ấy, “vì tôi tự trời mà xuống không phải để làm theo ý tôi, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai tôi…Thật vậy, ý của Cha tôi là tất cả những ai thấy Người Con và tin vào Người Con, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết” (x. Ga 6, 38. 40).
Thưa anh chị em,
hôm nay, điều này được minh chứng rõ ràng trong bài Tin Mừng: trên đoạn đường đến nhà ông trưởng hội đường Giai-rô, để chữa lành cho con gái ông đang nguy tử, Đức Giê-su chứng kiến lòng tin mạnh mẽ của một người đàn bà bị bệnh băng huyết mười hai năm, và Ngài đã chữa lành cho cả hai, mang lại sự sống cho họ, mang lại niềm vui khôn tả cho họ. Mở ra con đường biết tin tưởng, phó thác vào Thiên Chúa, thì mọi việc, dù vô vọng đối với con người, nhưng “không có gì là không thể đối với Chúa” (x. Lc 1, 37). Con người chúng ta dường như tuyệt vọng khi đứng trước giới hạn của mình, của khoa học dù phát triển vượt bậc tới đâu! Tuy nhiên, nếu chúng ta biết tín thác, ký thác đường đời cho Chúa, thì vẫn hy vọng, cậy trông, chờ mong thực thi theo Thánh ý, theo thời điểm của Ngài. Cụ thể, ông trưởng hội đường Giai-rô chẳng tuyệt vọng như những người xung quanh tụ họp nơi nhà ông thốt lên rằng: “Con gái ông chết rồi, còn phiền Thầy làm chi nữa” (Mc 5, 35), và còn tệ hơn “họ chế giễu Ngài” (Mc 5, 40) khi nghe Đức Giê-su nói: “Sao ồn ào và khóc lóc thế? Con bé không chết đâu, nó đang ngủ đó” (Mc 5, 39). Ông đặt niềm tin tuyệt đối nơi Đức Giê-su, “trông thấy Ngài, ông sụp lay và van xin: “Con gái tôi đang hấp hối, xin Ngài đến đặt tay trên nó để nó được khỏi và được sống” (Mc 5, 22-23). Còn bà bị bệnh xuất huyết ròng rã mười hai năm, tin chắc khi tự nhủ với bản thân rằng: “Miễn sao tôi chạm tới áo Ngài thì tôi sẽ được lành” (Mc 5, 28). Dù phải chịu cực khổ đến nỗi thất vọng, tìm thầy thuốc chữa trị, tiền hết mà bệnh chẳng thuyên giảm chút nào, trái lại càng trầm trọng, nhưng bà vẫn một lòng tin tưởng vào Đức Giê-su. Khi nghe nói về Ngài, bà liền hoà mình trong đám đông, thầm ước chạm tay đến gấu áo Ngài thì sẽ được chữa lành. Đức tin vào Đức Giê-su đã khiến hai con người này vượt thắng tuyệt vọng, vốn dễ bị rơi vào khi đối diện với sự đau khổ tột cùng, bệnh tật hiểm nghèo và cái chết. Hơn nữa, lời xác quyết của Đức Giê-su khi nói với bà: “Hỡi con, đức tin của con đã chữa con, hãy về bình an và được khỏi bệnh” (Mc 5, 34), và tiếng Ngài gọi khi chữa lành con gái ông Giai-rô đang hấp hối: “Talithakum”, nghĩa là: “Hỡi em bé, Ta truyền cho em hãy trỗi dậy!” (Mc 5, 41) cho chúng ta thấy, khi chữa lành, Đức Giê-su không đòi hỏi bất cứ điều gì ngoài niềm tín thác và lòng cậy trông vào Ngài, đồng thời phải trở nên nhân chứng bác ái-tha thứ-chia san với tha nhân.
Hành động yêu thương này phải được chứng thực cụ thể qua việc sống quảng đại, thực thi phúc đức trong dịp lạc quyên như Thánh Phao-lô nhắc nhở giáo đoàn Cô-rin-tô: “…anh em vượt trổi về mọi mặt: về lòng tin, về hùng biện, về sự hiểu biết, về mọi hình thức nhiệt thành, cũng như về lòng bác ái của anh em, thì anh em cũng phải vượt trổi trong dịp lạc quyên này nữa” (2Cr 8, 7). Chẳng phải do sáng kiến rộng lượng của chúng ta mà thôi, nhưng tiên vàn vì Đức Giê-su, Chúa chúng ta đã nên thân phận nghèo khó, mặc dù giàu sang, để nhờ việc nghèo khó của Ngài, chúng ta nên giàu có, ngõ hầu chia sẻ với anh chị em khác. Sau cùng, “kẻ được nhiều, thì cũng không dư; mà kẻ có ít, cũng không thiếu” (2Cr 8, 15) bắt nguồn từ bản chất ân ban-chia sẻ của Thiên Chúa đối với nhân loại, chứ chẳng giống như bao khẩu ngữ sáo rỗng của một số triết thuyết xã hội rêu rao. Thiên Chúa – Đấng rộng lượng, khoan nhân, Ngài hướng đến và chia san với con người; vì vậy, là những người tin vào Ngài, chúng ta cũng trở nên quảng đại cho đi với cả tấm lòng, và không mong đền đáp, vì “ai lãnh nhận nhưng không, thì hãy cho đi nhưng không” (Mt 10, 8b). Ước gì, đức tin được lớn lên dựa trên đức cậy, và được biểu lộ sống động qua đức ái nơi đời sống thường nhật.
Cảm tạ Chúa với lòng tín trung
Cảm tạ Chúa với niềm trông cậy
Cảm tạ Chúa với cả yêu thương
Cảm tạ Chúa tận sâu thẳm hồn con. Amen!
(Suy niệm của Lm. GB. Phạm Hồng Thái)
Tin Mừng hôm nay cho chúng ta nghe hai phép lạ của Chúa Giêsu: Phép lạ Chúa làm cho một người phụ nữ bị bệnh băng huyết 12 năm được khỏi và phép lạ cho em bé gái 12 tuổi chết được sống lại: hai con số 12: 12 năm bệnh và 12 năm tuổi – Cả hai phép lạ Chúa thực hiện đều do lòng tin. Tuy là hai phép lạ lớn nhưng Chúa cố gắng thực hiện cách kín đáo. Xin nói rõ hơn về lòng tin của họ như sau:
– Ông Trưởng hội đường: Ông tới gặp Chúa Giêsu và sụp lạy dưới chân Chúa đồng thời nói lên lời van xin: “Con gái tôi đang hấp hối, xin Ngài đến đặt tay lên nó để nó được khỏi và được sống”. Chúng ta thấy ông xưng ra lòng tin Chúa Giêsu một cách công khai trước mặt mọi người đồng thời chúng ta cũng thấy lòng khiêm tốn của ông khi ông sụp lạy dưới chân Chúa Giêsu – Nhưng khi người nhà tới bá cáo: “Con gái ông chết rồi, còn phiền Thầy làm chi nữa”. Lúc này lòng tin của ông bị thử thách trở nên nao núng chới với, nhưng Chúa Giêsu an ủi ông: “Ông đừng sợ, hãy cứ tin” Nhờ đó mà điều ông xin vẫn được như lòng ông tin tưởng. Cũng như sau này Chúa Giêsu an ủi bà Matta vì Lazarô chết, trước khi Chúa cho Lazarô sống lại thì Chúa cũng nói với Matta: “Nếu con tin thì con sẽ được thấy vinh quang Thiên Chúa” (Ga 11, 40).
– Người đàn bà bệnh rong huyết. Theo luật Do thái, đàn bà mắc bệnh này bị coi là ô uế, do đó bà chen lấn vào đám đông và không dám đụng chạm tới Chúa, chỉ mong sao được rờ đến gấu áo Chúa cách kín đáo thôi thì bà tin mình sẽ được khỏi và bà đã làm được điều bà mong muốn là chạm được gấu áo từ phía sau lưng Chúa. Đám đông chen lấn Chúa chắc chắn có nhiều người đụng vào Chúa như các tông đồ nêu lên nhận xét đó nhưng chỉ có đàn bà này được khỏi chứng bệnh nan y bà đã phải chịu suốt 12 năm vì bà có lòng tin. Khi bà đụng vào gấu áo Chúa thì Chúa Giêsu thấy có sức mạnh phát xuất từ Chúa, nên Chúa quay lại hỏi: “Ai đã chạm tới Ta?”. Bà run sợ vì biết rõ sự thể đã xảy ra nơi mình. Chắc chắn bà đã sẵn sàng nhận lời quở trách của Chúa Giêsu, nhưng: không những Chúa không mắng bà mà Chúa còn đề cao đức tin của bà, an ủi bà khi Chúa nói với bà: “Hỡi con, đức tin của con đã chữa con, hãy về bình an và được khỏi bệnh”. Như vậy bà được chữa lành không phải vì đã sờ gấu áo Chúa mà vì đức tin của bà vào Chúa Giêsu khi Chúa nói: “Đức tin của con đã cứu chữa con”.
Như thế chúng ta thấy cả ông Giarô trưởng hội đường và người đàn bà bị bệnh nan y đều có lòng tin chân thành đối với Chúa và cũng có lòng khiêm nhượng nữa khi làm cử chỉ sụp lạy trước chân Chúa, người đàn bà thì sụp lạy sau lưng Chúa.
Có lẽ chúng ta thắc mắc tại sao Chúa Giêsu lại nói: “Con bé không chết đâu, nó ngủ đó” trong khi bà con mọi người đều biết nó đã chết nên họ mới kêu la khóc lóc om sòm và khi nghe CG nói nó ngủ đó thì họ cười nhạo Chúa. Cũng như sau này khi Chúa Giêsu nghe tin Lazarô chết, thì Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Lazarô, bạn chúng ta đang ngủ tuy vậy Ta sẽ đi đánh thức anh ấy dậy”(Ga 11,5). Các môn đệ thưa: “Nếu anh ấy ngủ thì anh ta sẽ khỏe lại” vì các môn đệ không hiểu ý Chúa nói nên Chúa phải nói rõ: “Lazarô đã chết rồi”(Ga 11, 14) Như vậy theo quan niệm của Chúa Giêsu thì cái chết được coi như là giấc ngủ và ngủ thì sẽ có ngày chỗi dậy. Con người chúng ta ai nấy đều phải chết. CG cũng phải chịu chết nhưng đến ngày thứ ba Chúa chỗi dậy, chúng ta chết nhưng sẽ có ngày Chúa cho sống lại đó là ngày sau hết, ngày tận thế khi Chúa cho xác loài người được sống lại như chúng ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại”. Khi Chúa Giêsu cho bé gái sống lại: Chúa làm một cử chỉ đơn giản là cầm tay em và nói: “Talitha Koumi nghĩa là: Hỡi em bé, Ta truyền cho em hãy chỗi dậy”. Thánh sử Maccô ghi lại tiếng Aram là chính ngôn ngữ Chúa Giêsu nói khi đó rồi mới dịch ra tiếng Hi lạp.
Qua hai phép lạ này, chúng ta thấy CG có quyền ban sự sống và chữa lành bệnh tật. Chết chóc bệnh tật là hậu quả của tội lỗi và kiếp sống con người, Chúa nâng đỡ chúng ta chứ Chúa không phá hủy chết chóc bệnh tật khỏi cuộc sống nhân thế. Chúng ta đến với Chúa để được Chúa nâng đỡ bổ sức cho nhưng điều cần thiết Chúa đòi là ta phải có lòng tin và khiêm nhường như ông Giarô trưởng Hội đường và người đàn bà bị bệnh băng huyết hôm nay đã bày tỏ trước mặt Chúa.
Mẹ Têrêsa Calcutta được giải thưởng Nobel về Hòa bình nên có những nhà báo tìm đến phỏng vấn Mẹ. Có một phóng viên vô thần và không có cảm tình với giáo hội Công giáo đến gặp Mẹ. Mẹ mở đầu nói ngay với ông: – Ông nên có đức tin – Ông đáp: tôi phải làm gì để có đức tin – Mẹ đáp: Ông hãy cầu nguyện – Tôi không biết cầu nguyện và không thể cầu nguyện – Tôi sẽ cầu nguyện cho ông nhưng ông phải cố gắng mỉm cười với những người xung quanh ông. Nụ cười sẽ đánh động được tâm hồn người khác và điều này sẽ giúp người ta cảm nghiệm được Thiên Chúa hiện diện trong cuộc đời chúng ta. Ông phóng viên đón nhận những lời chân tình Mẹ Têrêsa nói và có lẽ sẽ có sự chuyển biến trong cuộc sống của ông.
Nguyện xin Chúa cho mỗi người chúng ta biết đến với Chúa với lòng tin và khiêm tốn để chúng ta nhận được nhiều hồng ân phần hồn phần xác Chúa ban như Chúa đã ban cho người đàn bà bị bệnh nan y và ông Giairô trong Tin Mừng hôm nay. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thành Long)
Một trong những hình ảnh rất ấn tượng mà chúng ta thường thấy trong các kỳ World Cup hay Euro là các cầu thủ và những cổ động viên của các đội vô địch tìm mọi cách để được sờ, được chạm vào chiếc cúp vô địch của mình, hầu mong được may mắn và vinh quang. Có nhiều người còn ôm hôn chiếc cúp thắm thiết như ôm hôn người tình vậy.
Tin Mừng hôm nay nói đến một người phụ nữ cũng mong muốn “được chạm”, “được sờ”; song không phải là chạm hay sờ vào chiếc cúp vô địch, mà là sờ vào gấu áo Chúa Giêsu. Đây là cái sờ, cái chạm của niềm tin, một niềm tin đơn sơ chất phác, nhưng cũng rất mãnh liệt. Không phải sờ để cầu may, nhưng sờ để được chữa lành bệnh. Bà tin chắc như thế. Và sự thật căn bệnh băng huyết của bà đã được chữa lành. Chúa Giêsu đã xác nhận điều này: “Đức tin con đã cứu chữa con” (Mc 5,34).
Đức tin đã giúp bà tìm đúng địa chỉ để “dứt điểm” căn bệnh nghiệt ngã mà bà phải gồng mình chịu đựng trong suốt 12 năm trường. Trình thuật Marcô cho thấy người đàn bà bị loạn huyết đang đối diện với một căn bệnh được xem là nan y thời đó. Căn bệnh đang lấy dần đi sự sống nơi bà, vì máu là căn nguyên sự sống, trong khi bà đang bị băng huyết. Nhưng bà tin Chúa Giêsu có dư năng quyền để chữa bà lành bệnh. Bằng chứng là bà tự nhủ rằng chỉ cần một chút quyền năng phát ra nơi gấu áo của Chúa Giêsu thôi cũng bằng ngàn vạn thầy thuốc giỏi nhất trần gian. Quả đúng như thế. Bà vừa mới sờ vào gấu áo Chúa Giêsu, tức khắc căn bệnh đã “say goodbye” với bà. Kỳ diệu thay quyền năng của Thiên Chúa và cũng diệu kỳ thay đức tin của con người.
Hằng ngày, chúng ta chẳng những được chạm, được sờ vào Chúa qua Lời của Ngài và qua Thánh Thể của Ngài, mà còn ăn uống chính Mình Máu Ngài nữa. Tuy nhiên, chúng ta đang chạm hay đang ăn uống với lòng tin thực sự hay không?
Cách riêng với các anh chị em dự tòng, qua Bí tích Rửa Tội và Bí tích Thêm Sức mà các anh chị sẽ lãnh nhận, các anh chị sẽ được tháp nhập với Chúa Kitô và trở thành Đền thờ Chúa Thánh Thần. Và qua Bí tích Thánh Thể, các anh chị cũng sẽ được ăn được uống Mình Máu Thánh Đức Kitô. Các anh chị hãy ghi nhớ ngày trọng đại và thiêng thánh này. Giáo xứ và Giáo hội hân hoan chúc mừng và đón nhận các anh chị làm thành viên mới. Cầu chúc cho các anh chị lãnh nhận các bí tích khai tâm này với tất cả long tin và nhất là trở thành chứng nhân của niềm tin vào Thiên Chúa cho những người mà các anh chị gặp gỡ, cách riêng cho những người trong gia đình, gia tộc của mình. Amen.
49. Suy niệm của Charles E. Miller
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’)
CHÚA GIÊSU DÀNH THỜI GIAN
VÀ SỰ QUAN TÂM CHO CHÚNG TA
Mỗi tác giả Phúc Âm đều nhấn mạnh những điểm khác biệt riêng trong Phúc Âm của mình. Thánh Marco mà Phúc Âm của ngài đang được đọc suốt trong năm nay, nhấn mạnh đến nhân tính của Chúa Giêsu. Tác giả Phúc Âm đã nhấn mạnh đến những chân lý tiết lộ rằng, Con Thiên Chúa thực sự là con của Mẹ Maria, và ngôi vị thần linh đến với chúng ta trong vẻ đơn sơ của bản tính con người. Thánh Marco sung sướng trình bày Chúa Giêsu như một con người, một người hiểu chúng ta, thông cảm với chúng ta.
Trong bài Phúc Âm ngày hôm nay, lúc Ngài sửa soạn rao giảng Phúc Âm cho đám đông, Giairô, một viên trưởng hội đuờng đã yêu cầu Ngài đi với ông ta, đến nhà ông chữa bệnh cho đứa con gái đang bị ốm nặng. Đã để cho chúng ta tưởng tượng ra sự thất vọng của Chúa Giêsu khi bị gọi ra khỏi sứ vụ rao giảng của Người, nhưng thánh nhân trình bày Chúa Giêsu đã đáp trả với lòng thương xót khi nghe lời nài xin của viên trưởng hội đuờng. Tiếp đó, một người đàn bà trong đám đông đã đụng đến áo choàng của Ngài. Chúa Giêsu đã nhấn mạnh là Ngài biết ai đang đụng đến Mình nhưng không hề khinh bỉ người đàn bà, Ngài nhìn thẳng vào người đàn bà một cách dịu dàng và nói: “Hỡi bà, đức tin của bà đã cứu chữa bà”.
Tiếp theo đó, Chúa Giêsu đã tiếp tục cuộc hành trình để đến chữa bệnh cho cô gái nhỏ, nhưng có người đến nói cô bé đã chết, không hề bối rối, Chúa Giêsu bước vào căn phòng nơi cô bé đang nằm, cầm tay cô bé và nói những lời sự sống: “Hỡi cô bé hãy chỗi dậy”. Cô bé liền chỗi dậy. Hãy tưởng tượng xem cảnh này, cha mẹ vừa khóc vừa cười cùng một lúc, họ ôm choàng lấy đứa con gái nhỏ và khiêu vũ chung quanh cùng với cô ta. Chúa Giêsu luôn luôn chú ý và ý thức đến những nhu cầu của con người, và trở nên rất thực tế. Ngài nói với cha mẹ của đứa bé: “Hãy cho đứa bé ăn cái gì”.
Trong đoạn Phúc Âm thời thơ ấu kể lại cho chúng ta rằng, Chúa Giêsu đã dành thời gian cho dân chúng,
những người có địa vị quan trọng giống như Giairô là người trường hội đuờng cũng như người đàn bà nghèo khổ vô danh trước mọi người và hầu như thánh Marcô cũng không biết tên. Ngài đã trình bày cho chúng ta rằng, Chúa Giêsu đã quan tâm cách sâu xa đến nỗi đau của người cha và người mẹ có đứa con nhỏ. Nhưng Ngài cũng muốn chúng ta biết Chúa Giêsu không hề xao nhãng việc người đàn bà đang bị ốm, cơn ốm không phải là do số mệnh. Ngài cũng biết sự đau buồn vô vọng nơi người cha người mẹ, Ngài cũng nhận biết người đàn bà, và đã chia sẻ những nỗi khốn khổ của người đàn bà ấy nữa.
Thánh Marcô đã trình bày cho chúng ta rằng, Chúa Giêsu đã yêu mến với trái tim của con người.
Thánh nhân nhấn mạnh về nhân tính của Chúa Giêsu, làm cho chúng ta nhận thấy chân lý quan trọng nữa, đó là Chúa Giêsu đã hành động xuyên qua nhân tính của Người trong sứ vụ công khai của Người và bây giờ Ngài hành động qua các thừa tác viên của Giáo Hội và đặc biệt là qua các ý nghĩa của các bí tích của Giáo Hội. Trong bí tích thanh tẩy, Chúa Giêsu đã cầm chúng ta bằng đôi tay của Ngài, gọi tên chúng ta và Phục Sinh chúng ta từ sự chết của tội lỗi và phục hồi cho chúng ta trở nên con cái của Chúa Cha. Chúa Giêsu đã nói với Giáo Hội hãy cho chúng ta một điều gì đó để ăn. Một điều gì đó là bí tích cao vời, Mình và Máu thánh Chúa.
Chúng ta sẽ nhớ rằng, Chúa Giêsu qua thừa tác của Giáo Hội đã dành thời gian cho tất cả chúng ta, dù chúng ta có địa vị quan trọng trong xã hội như Giairô là trưởng hội đuờng, hay làm một người nghèo khó vô danh chẳng ai biết đến tên như người đàn bà bị loạn huyết. Tất cả chúng ta đều quan trọng đối với Chúa Giêsu và tất cả nhu cầu của chúng ta được Ngài quan tâm đến. Chúng ta có một Thiên Chúa, Đấng dành thời gian cho tất cả chúng ta.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)
Đoạn sách thánh hôm nay cho ta thấy một lần nữa rằng các phép lạ của Đức Kitô là những dấu chỉ tình thương. Đức Kitô là tình thương của Thiên Chúa đi vào trong nỗi khốn cùng và đau khổ của nhân loại để mặc cho chúng niềm tin và hy vọng. Đức Giêsu không phải là một nhà thuyết giáo xa xôi về một lý tưởng cứu rỗi mà con người phải một mình ra sức thực hiện nhờ các ý thức hệ và cách mạng cơ cấu. Ngài chính là Thiên Chúa dấn thân vào đời sống nhân loại để cứu lấy nó. Đám đông dân chúng theo Đức Giêsu và chen lấn Ngài tứ phía. Ngài bị ngụp lặn trong đám đông. Nhưng về phía Ngài, đó không phải chỉ là một lúc, sau đó Ngài trở về lại với sự đơn độc của mình. Ngài luôn là Thiên Chúa hiện diện với quần chúng đông đảo nhân loại.
Một nữ bệnh nhân muốn lợi dụng cơ hội Đức Giêsu đi ngang qua để được chữa lành bà nghĩ chỉ cần chạm đến y phục Đức Giêsu để được lành, và bà đã không làm. Bà biết là Đức Giêsu có thể chữa lành bà bằng một lời nói, nhưng muốn thế phải kêu xin. Và giống bệnh của bà làm bà mắc cỡ. Bà không dám trình bày trường hợp của bà. Nhưng bà nghĩ là Chúa có thể chấp nhận lơi cầu xin của bà một cách khác. Chạm vào y phục của Chúa là một loại ngôn ngữ và cầu xin mà Ngài có thể hiểu được. Bà liền chạm vào gấu áo Đức Giêsu và bà được lành.
Người ta cho rằng bà này đã vâng theo sự thúc đẩy của niềm tin ma thuật. Nói thế có lẽ hơi nông cạn. Về vấn đề này, xin mở một ngoặc đơn thuộc phạm vi tổng quát. Dĩ nhiên nhà chú giải có thể có một thứ lo lắng là chỉ chấp nhận điều không thể chối cãi được trong các phép lạ Phúc Âm. Nhưng vô phúc thay, sự lo lắng này đôi khi lại được tiếp nhận do những đầu óc hấp tấp, hơi ngây ngô, lại quá chắc chắn về mảnh vụn kiến thức của mình, mà nội dung chỉ là sự thoả mãn để chiếu lên những Phúc Âm những khẩu hiệu và hình mẫu sẵn có nơi các “khoa học nhân văn”. Nói lên điều này, để nhắc nhở độc giả Phúc Âm đừng để cho mình bị lay động bởi một số quảng cáo trong thời gian sau này là muốn giản lược con người cao cả cuả Đức Giêsu vào chiều kích con người chúng ta. Người ta đến với Phúc Âm bằng cách để mình lôi kéo lên cao nhờ việc chiêm ngắm Con Thiên Chúa, chứ không phải bằng cách uốn nắn các văn bản để làm cho chúng phù hợp với các dữ kiện chưa tiêu hoá đựợc của việc phân tích ngôn ngữ…
1) Đoạn văn cuả thánh Marcô: ‘Đức Giêsu nhận biết có sức mạnh đã xuất phát tự mình’. Từ lâu các nhà thần học đã đề ra những lời giải thích cho phúc hợp với điều họ tưởng có thể đoán được về tâm lý của Đức Giêsu. Về phần chúng ta, chỉ nên nhớ rằng Đức Giêsu luôn phản ứng với một lương tâm thấm nhuần sức mạnh của tình yêu Thiên Chúa, đối với mọi biểu lộ niềm tin nơi ngài.
2) “Hỡi bà, đức tin bà đã chữa bà”. Niềm tin của bà này như thế nào? Chắc hẳn là không cùng một niềm tin như niềm tin của chúng ta. Nhưng cũng đã là một khởi đầu niềm tin, một niềm tin đang khai mào. Đàng khác, nếu chúng ta khiêm tốn, chẳng phải, chúng ta cũng nhìn nhận rằng niềm tin của chúng ta hôm nay cũng chỉ là một niềm tin khai mào sau? Nhưng ngay cả niềm tin này, nếu có thành thật, cũng có thể lôi keó được một lời nói cứu độ. Và đó là điều tốt rồi.
(Suy niệm của Jaime L. Waters – Chuyển ngữ: ĐCV Sao Biển)
MỐI LIÊN HỆ GIỮA ĐỨC TIN VÀ VIỆC CHỮA LÀNH
Sách Bài đọc đề nghị một bài ngắn và một bài dài cho bài Tin mừng Maccô của Chúa nhật XIII quanh năm. Bài ngắn tập trung vào việc chữa lành cho một bé gái. Nếu chọn đọc bài dài thì chúng ta sẽ nghe thêm việc chữa lành cho người phụ nữ. Nên ưu tiên chọn bài dài để thấy được sự nối kết giữa hai lần chữa lành.
Thánh Maccô thường sử dụng một kỹ thuật viết văn là khi đã kể một câu chuyện, ngài lại thêm vào một câu chuyện khác rồi mới kết thúc câu chuyện đầu tiên. Phương pháp kể chuyện này báo trước cho người đọc mối liên hệ cũng như việc cung cấp thông tin giữa hai trình thuật.
Trình thuật đầu tiên nói về con gái của ông trưởng hội đường. Ông Giairô kể cho Chúa Giêsu về đứa con gái đang đau nặng, mà sau đó chúng ta biết em này được 12 tuổi, và ông nài xin Chúa Giêsu đến đặt tay chữa lành cho con gái mình. Đang trên đường đến chữa con ông Giairô thì một người phụ nữ bị băng huyết 12 năm chạm vào áo của Đức Giêsu với hy vọng bệnh của bà được thuyên giảm. Hành động này liền có hiệu quả, bà được lành bệnh ngay lập tức. Khi đến nhà ông Giairô, dù nghe nói đứa bé đã chết, thế nhưng Đức Giêsu vẫn bước vào nhà cùng với Phêrô, Giacôbê, Gioan và cha mẹ của em. Ngài hồi sinh đứa bé khi chạm vào tay và truyền cho em chỗi dậy.
Tại sao Maccô lại gộp đọc chung hai việc chữa lành với nhau? Một trong những nét tương đồng là cả hai câu chuyện đều liên quan đến người nữ đang mắc bệnh. Bé gái được chữa lành nhờ vào đức tin của cha mẹ, và người phụ nữ được chữa lành nhờ vào chính đức tin của bà. Một điểm chung khác đó là thời gian. Người phụ nữ bị bệnh băng huyết trong khoảng thời gian tương đương với tuổi của cô bé, điều này nhấn mạnh đến nỗi thống khổ cùng cực của người phụ nữ này. Em bé gái đang trong tình trạng nguy kịch, gần kề cái chết, nhưng bài đọc không cho biết chi tiết bệnh tật của em.
Phương pháp chữa bệnh của Chúa Giêsu cũng rất đáng lưu ý. Ông Giairô nài xin Đức Giêsu đến đặt tay trên con gái mình, nhưng khi chữa lành, Ngài nắm lấy tay em và tuyên bố em sẽ sống lại. Việc chữa lành này hoàn toàn nằm ngoài sự kiểm soát của em, vì cha mẹ em đã xin chữa lành thay cho em. Còn phép lạ với người phụ nữ thì xảy ra theo chiều hướng ngược lại. Bà ta bắt đầu tự nhủ: “Tôi mà sờ được vào áo Người thôi, là sẽ được cứu” và việc lành bệnh xảy ra ngay lập tức. Đức Giêsu không hề chạm vào bà ấy và dường như cũng không biết chuyện gì đã xảy ra, vì Ngài hỏi ai đã chạm vào mình. Khi nhận ra hành động của người phụ nữ, Đức Giêsu ca ngợi bà, cho rằng phép lạ xảy ra không chỉ do quyền năng của chính Ngài, mà còn là nhờ vào chính đức tin của bà.
Những câu chuyện chữa lành trong các sách Tin mừng có nhiều mục đích. Chúng biểu lộ cách hiển nhiên và rõ ràng quyền năng của Đức Giêsu. Các ngôn sứ trong thời Cựu ước như Êlia và Êlisa cũng thường được mô tả làm những hành động phi thường chữa lành tương tự như là dấu hiệu của việc được nối kết với quyền năng thần linh. Ngoài chức năng trên, những câu chuyện chữa lành này còn truyền đạt các chân lý thiết yếu để hiểu Tin mừng.
Trong cả hai phép lạ này, Chúa Giêsu nhắc lại tầm quan trọng của đức tin. Ngài khen ngợi lòng tin của người phụ nữ. Tương tự, khi đám đông nói với ông Giairô rằng con gái ông đã chết, Đức Giêsu đáp: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi.” Hãy nhớ lại bài Tin mừng Chúa nhật tuần trước. Khi các tông đồ kinh hãi đang lúc thuyền gặp sóng gió, Chúa Giêsu bảo các ông: “Sao nhát thế? Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?” (Mc 4,40). Những câu chuyện như thế tỏ bày quyền năng của Chúa Giêsu cũng như những hành động cần có nơi những kẻ đi theo Ngài. Hai câu chuyện của Chúa nhật này là lời nhắc nhớ quan trọng về sức mạnh của đức tin để vượt qua cả những hoàn cảnh khó khăn nhất.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật)
Nhờ tin, mọi sự đều có thể
Một đám người rất đông vây quanh Đức Giêsu, chờ đợi một lời nói hay một cử chỉ lạ thường. Bỗng nhiên, có một người, dáng vẻ vội vã, đẩy mọi người ra và tiến đến trước mặt Đức Giêsu. Ông có điều gì muốn thưa với Người. Ông tên là Gia-ia, trưởng hội đường.
Thoạt tiên, người đàn ông này biết rằng mình có thể tín nhiệm vào Đức Giêsu. Ông “phủ phục dưới chân Đức Giêsu và năn nỉ” Người đến chữa con gái ông vừa mới tắt thở. Tình yêu của người cha đối với đứa con gái đã làm cho ông can đảm: ông sẵn sàng tin cậy vào một người qua đường, ông tín nhiệm vào một người từ nơi khác đến, mà cho đến lúc này, ông chỉ mới nghe đồn. Sự sống của đứa con gái ông vẫn hằng bao bọc, nuôi dưỡng, nay không còn nữa, và ông đến xin lại từ một người khác, một người xa lạ.
Đức Giêsu yên lặng đi theo ông trưởng hội đường. Đám đông vẫn tiếp tục vây lấy Người. Họ chen lấn, xô đẩy như muốn đè bẹp Người. Trong đám đông hỗn độn ấy, có một người phụ nữ khốn khổ rất mong được đến gần Đức Giêsu, chạm vào Người, dù chỉ là gấu áo thôi cũng được. Bà tự nhủ: “Tôi mà sờ được vào áo Người thôi, là sẽ được cứu.”
Bà biết là mình ô uế, bởi vì theo não trạng người Do-thái lúc bấy giờ, một người phụ nữ trong tình trạng như bà bị coi là “không được chạm đến”. Không ai được chạm đến bà, và ngược lại bà cũng không được chạm đến ai. Bà là người ô uế và ai đến gần bà cũng bị ô uế.
Bà mong được đến gần, được chạm đến Đức Giêsu, để chấm dứt tình trạng ô uế của mình. Bà tin rằng Đức Giêsu là một con người nhưng không giống những người khác. Bà cảm thấy rằng từ con người này, bà có thể nhận được tất cả: nhận lại chính mình, được trả lại chính mình.
Bà biết rằng bà đang làm một việc liều lĩnh, bởi vì đó là một điều cấm kỵ. Nhưng chính sự đau khổ đã thúc đẩy bà, và bà đã đến với Đức Giêsu. Phần mình, Đức Giêsu không sợ những điều cấm kỵ, không coi thường những nỗi khổ sâu kín nhất, đáng xấu hổ nhất. Người là Đấng cứu độ đến trần gian để giải thoát mỗi người khỏi nỗi cô đơn và sự sợ hãi.
Ngay tức khắc “bà cảm thấy trong mình đã được khỏi bệnh”; và cũng ngay lúc ấy, Đức Giêsu “thấy có một năng lực từ nơi mình phát ra”. Một cảm nghiệm sâu xa nảy sinh từ cuộc gặp gỡ cá vị giữa người tin và Thiên Chúa của mình.
Đức Giêsu ngừng lại, đưa mắt nhìn quanh. Bấy giờ người phụ nữ có thể bày tỏ chính mình. Bà phủ phục dưới chân Đức Giêsu và bày tỏ hết sự thật: một thái độ phó thác, tin cậy, hy vọng. Thái độ này chứng tỏ rằng, khi người ta được đón nhận cách trọn vẹn, người ta khám phá ra mình dễ thương, mình xứng đáng được yêu thương và có khả năng yêu thương.
Cũng như hai tác giả Mátthêu và Luca, thánh Máccô nối kết phép lạ này với câu chuyện chữa lành con gái ông Gia-ia.
Khi Đức Giêsu đang trên đường đến nhà ông Gia-ia, có người đến nói với ông: “Con gái ông chết rồi, làm phiền Thầy chi nữa?” Đối với người không tin, như thế là trễ rồi, không còn cứu vớt được nữa. Một khi không có lòng tin tưởng, cậy trông, thì lúc nào cũng trễ. Đức Giêsu nghe được những lời xầm xì, Người nói với ông trưởng hội đường: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi!”
Và sau đó, Đức Giêsu đã gọi cô bé dậy. Người nói: “Này bé, chỗi dậy đi!” Cô bé liền chỗi dậy, vì có ai đó đã gọi cô, chính tên cô.
Những chi tiết về vượt qua
Trong bản văn dài này, người ta có thể rút ra được những chi tiết diễn tả một bước vượt qua, từ sự chết sang sự sống.
* Từ bờ bên này sang bờ bên kia.
Đức Giêsu sang bờ bên kia, và ông Gia-ia chen qua đám đông để đến gặp Đức Giêsu. Sau đó cả hai cùng vượt qua biển người. Cả một đám đông như sóng dậy vây lấy cả hai, dường như muốn nuốt chửng.
* Từ ngôi mộ động đậy đến Nhà sự sống
Căn nhà của ông Gia-ia giống như một ngôi mộ. Một đám đông vây quanh cô bé mới chết. Họ khóc lóc, vật vã, kêu gào. Đức Giêsu đuổi mọi người ra khỏi nhà tựa như làm cho ngôi mộ ra trống không. Người gọi cô bé đang thiếp ngủ dậy, và trong căn nhà nơi sự sống thiếp ngủ, không cần phải có tiếng khóc than.
* Tuổi của sự sống
Con gái ông Gia-ia được mười hai tuổi: tuổi dậy thì, tuổi có thể bắt đầu đem lại sự sống. Trong khi đó, người phụ nữ mắc bệnh đã mười hai năm, và bà trở thành người vô sinh: bà bị coi như đã chết. Cả cô bé lẫn người phụ nữ mắc bệnh đều từ cõi chết bước vào sự sống, nhờ năng lực từ nơi Đức Giêsu phát ra. Chính Người là sự sống.
* Từ đặt tay đến lời
Ông Gia-ia xin Đức Giêsu đến đặt tay trên con gái ông. Nhưng Đức Giêsu không làm đúng như ông yêu cầu. Người nói với cô bé: “Chỗi dậy đi”; trước đó Người cũng nói với người phụ nữ một lời tương tự. Nhờ lời Đức Giêsu, sự sống đã chỗii dậy, như một hạt giống, một mầm non.
* Phục sinh cho tương lai
Người đàn bà được chữa khỏi bệnh, cô bé được chỗi dậy từ cõi chết: cả hai vẫn chưa đạt được mục tiêu. Cuộc sống vẫn còn ở phía trước. Cô bé “sống lại”; còn người phụ nữ nghe Đức Giêsu nói: “Con hãy về.”
Phục sinh là một cuộc sinh ra, nhưng mới chỉ là điểm khởi hành. Đức Giêsu bảo những người đang đứng đó cho cô bé ăn. Của ăn và sự sống đi liền với nhau.
Đánh thức niềm hy vọng
Qua bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta được mời gọi suy niệm về sự sống và về niềm hy vọng một cuộc sống không hư hoại. Sự sống là một thực tại, và có lẽ chúng ta càng cảm nhận cách rõ rệt hơn, khi mắc bệnh hay đối diện với cái chết. Bất chấp mọi sự xảy ra như thế nào, chúng ta có dám tin và hy vọng?
Lòng tin tưởng chân thành và đơn sơ của ông Gia-ia cũng như của người phụ nữ chính là gương mẫu cho chúng ta.
Người phụ nữ có vẻ như mê tín, chỉ mong sờ đến áo Đức Giêsu là được khỏi bệnh. Đức Giêsu không khinh thường bà, trái lại, Người tạo cơ hội gặp gỡ, giúp bà thoát khỏi tình trạng bệnh tật và ban cho bà bình an.
Lòng tin của ông Gia-ia mãnh liệt hơn. Ông vẫn tin vào Đức Giêsu, trong khi đám đông dân chúng nghĩ rằng không ai có thể chống lại cái chết. Đối với Đức Giêsu, cái chết chỉ là một giấc ngủ. Nhờ lòng tin, giấc ngủ này sẽ mở ra một buổi sáng phục sinh.
Những từ ngữ được sử dụng làm cho người ta nhớ đến phép rửa, tức là tham dự vào cuộc phục sinh của Đức Kitô.
“Tỉnh giấc đi nào, hỡi người còn đang ngủ!
Từ chốn tử vong, chỗi dậy đi nào!
Đức Kitô sẽ chiếu sáng ngươi.” (Ep 5,14).
Trong mỗi chúng ta đều có một niềm hy vọng, nhưng nó đang ngủ như cô bé của bài Tin Mừng. Cần đánh thức nó dậy, và thúc đẩy nó tiến tới. Điều kỳ diệu chỉ có thể xảy ra khi chúng ta hoàn toàn tin tưởng vào Đức Giêsu, Đấng có thể mở ra một buổi sáng phục sinh, từ những đêm tối của riêng chúng ta, những đêm tối nhất.
***
Đức Giêsu nói với ông Gia-ia: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi!” Nhưng tin là gì? Là đưa cánh tay ra, vượt ra khỏi những xôn xao và sợ hãi, để nắm lấy Bàn Tay của Thiên Chúa. Chúng ta biết rằng, Bàn Tay ấy vẫn luôn giơ ra.” (theo A.M. Besnard)
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Văn hào Tu-ghê-nít của Nga có kể lại một giai thoại sau:
Thời chiến tranh ông bị cảm nặng. Người ta mang ông vào một quân y viện để chữa trị. Khi tỉnh dậy, ông thấy nhà thương đầy người, không có một chiếc giường trống nào, mà bệnh nhân mỗi ngày một thêm đông. Bác sĩ trực phòng của ông đi một vòng đến các giường. Đến bên cạnh ông, bác sĩ dừng lại và hỏi người y tế:
– Hắn vẫn còn sống ư?
Người y tế trả lời:
– Tôi chưa kiểm lại. Nhưng sáng nay thì hắn vẫn còn sống.
Bác sĩ cúi xuống và đặt ống nghe trên ngực ông. Nghe biết tất cả mọi sự, cho nên ông cố gắng thở thật mạnh. Sau khi nhấc ống nghe lên, bác sĩ thở dài và nói:
– Thiên nhiên thật ngu đần, lẽ ra người này phải chết, nhưng không hiểu sao hắn vẫn còn thở và như vậy là hắn chiếm mất chỗ của người khác
Tu-ghê-nít lắng nghe được tất cả những lời ấy. Ông tưởng số phận của ông đã được quyết định, nhưng không ngờ sau đó ông đã được khỏi bệnh một cách lạ lùng trước sự ngạc nhiên của viên bác sĩ trực và nhiều y tá khác trong quân y viện.
Những bệnh nhân biết được những gì người ta làm cho mình và còn sống sót để kể lại kinh nghiệm của mình như văn hào Nga trên đây không phải là hiếm. Một viên thuốc ngủ, một mũi thuốc mê cực mạnh, nhiều người đã bị cướp mất mạng sống dễ dàng. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã kêu goị con người ngày nay hãy xây dựng một nền văn minh của sự sống chứ không phải của sự chết. Tin Mừng hôm nay có thể được coi như một câu trả lời của lòng tin cho một vấn đề từng gây thắc mắc nơi con người thuộc mọi thời đại: vấn đề sự sống. Hai phép lạ: chữa lành bệnh người phụ nữ băng huyết và cho một bé gái 12 tuổi sống lại, đều minh chứng Đức Giêsu là chủ sự sống, là nguồn cội sự sống, vì Ngài là Đấng đã làm cho kẻ chết sống lại.
Theo quan niệm của người Do Thái xưa, thì máu huyết tượng trưng cho sự sống. Người phụ nữ bị băng huyết có nghĩa là sự sống nơi chị mất dần đi, tiêu hao đi, nên coi như chị là người đã chết. Nhất là trong hoàn cảnh của chị, đau khổ không chỉ vì bệnh kéo dài, tiền mất tật mang, mà còn khổ về mặt tinh thần, vì tập quán tôn giáo xã hội coi những người mắc chứng bệnh này, cũng như bệnh cùi, bệnh hủi, khinh khi. Phải nói là người phụ nữ bị băng huyết này coi như đã chết hai lần, cả về mặt sự sống thể xác lẫn về mặt đời sống tinh thần. Phép lạ Chúa Giêsu làm đã cứu thoát chị, đã đem lại cho chị một cuộc sống dồi dào, cả trong ý nghĩa được sát nhập lại vào trong lòng cộng đồng tôn giáo.
Còn trong phép lạ Chúa Giêsu làm cho em bé sống lại, thì chúng ta thấy hành động của Chúa Giêsu vượt xa điều mà gia đình ông Giairô, trưởng hội đường, mong đợi: khi con gái duy nhất của ông hấp hối, ông đã chạy đi cầu cứu với Chúa Giêsu, vì ông tin rằng Ngài có thể cứu con ông khỏi cái chết. Nhưng khi hay tin con đã chết rồi, thì ông không còn hy vọng nào nữa, không còn muốn làm phiền Chúa Giêsu đến nhà làm gì nữa. Chúa Giêsu phải nâng đỡ tinh thần và niềm tin của ông: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi”. Và phép lạ đã được thực hiện, trước nỗi kinh ngạc và hạnh phúc của gia đình ông. Trưởng hội đường, kinh ngạc và sung sướng đến nỗi ông và gia đình quên cả việc chăm sóc đến con gái của mình, khiến Chúa Giêsu phải nhắc khéo: “Hãy lo cho cô bé ăn đi!”.
Trong tất cả hai phép lạ, chúng ta đều thây nổi bật lên một yếu tố nối liền giữa Chúa Giêsu và người được phép lạ: đó là lòng tin. Người phụ nữ bị băng huyết, sau khi chạy thầy chạy thuốc không khỏi, mà lại nghe nói về quyền phép của Chúa Giêsu, thì dần dần trong lòng chị hình thành một niềm tin mạnh mẽ: “Tôi mà sờ được áo Ngài thôi, là sẽ được khỏi bệnh”. Chính lòng tin mạnh mẽ đó đã giúp chị vượt qua moị tập quán, mọi nếp suy nghĩ và quan niệm tôn giáo có tính trói buộc và cản trở con người, để mạnh dạn đến gần Chúa Giêsu. Chinh lòng tin mạnh mẽ đó đã như khiến quyền năng của Chúa Giêsu không thể từ chối được: “Chúa Giêsu thấy có một năng lực tự nơi mình phát ra”.
Lòng tin của ông Giairô cũng là yếu tố quan trong để Chúa Giêsu là cho con ông sống lại. Chắc chắn lòng tin của ông đã được hỗ trợ bằng chính câu chuyện người phụ nữ lành bệnh, cũng như đã được nâng đỡ bởi lời khuyên chủ của chính Chúa Giêsu: “Đừng sợ, ông ạ, cứ vững tin đi!”.
Qua hai phép lạ trên, Chúa Giêsu còn bộc lộ cho thấy thế nào là Thiên Chúa, thế nào là Đấng Kitô của Thiên Chúa và loan báo một thời đại mới, thời đại cứu độ mà các Ngôn Sứ đã loan báo. Trước hết, Thiên Chúa là chủ sự sống, ban phát sự sống cho con người và muôn loài vật. Riêng đối với con người, thì không chỉ là đời sống vật chất, tinh thần mà còn cả đời sống ân sủng, đời sống làm con cái Thiên Chúa. Để thực hiện chương trình sáng tạo và cứu độ, Thiên Chúa đã hiến dâng cho loài người tất cả, kể cả Người Con yêu dấu, Con Một của Ngài là Đức Giêsu Kitô.
Đức Giêsu có sứ mạng bộc lộ về Thiên Chúa, thực hiện chương trình của Thiên Chúa là ban sự sống, là cứu chữa những gì đã hư mất, là tìm đến với người đau ốm cần thầy thuốc. Ngài luôn quan tâm đến mọi nhu cầu cụ thể của con người. Ngài cúi mình ghé mắt nhì xem nhu cầu cụ thể của con người Ngài gặp: anh què, anh mù, chị phụ nữ bị băng huyết cũng như chị phụ nữ ngoại tình, người bị quỷ ám, con trai bà goá thành Naim, cũng như con gái ông Giairô. Tất cả những khổ đau, tật nguyền đều có âm hưởng mạnh mẽ trong tâm hồn Chúa Giêsu Kitô. Chính vì mang trong mình trái tim của Thiên Chúa, nguồn sống của Thiên Chúa, nên Chúa Giêsu đã cứu chữa người này, bình phục người kia, hồi sinh người khác, đem lại phẩm giá và sự tôn trọng cho những ai đang bị loại trừ, coi rẻ. Đối với Chúa Giêsu, không hề có một tiêu chuẩn nào để lại bỏ, vì tất cả thuộc về gia đình Thiên Chúa. Điều duy nhất ngài đòi hỏi là lòng tin của chúng ta nơi quyền năng và lòng thương của Ngài.
Lòng tin của chúng ta đối với Thiên Chúa là nguồn gốc, là chủ sự sống sẽ dẫn chúng ta đến một thái độ tất yếu này là: chúng ta phải biết tôn trọng sự sống, bảo vệ và phát triển sự sống. Không phải chỉ sự sống thể xác mà cả sự sống tinh thần và sự sống tâm linh nữa. Không chỉ sự sống nơi mình, mà còn sự sống nơi người khác, nơi dân tộc khác nữa.
Thế nhưng, chung quanh chúng ta không biết bao nhiêu sự sống con người đang bị xâm phạm, chà đạp, cách này hay cách khác. Bao nhiêu trẻ em không được quyền sinh ra, không có được những điều kiện thiết yếu nhất về vật chất, tinh thần, để sống một cuộc sống cho ra người.
Chúa Giêsu đã sinh ra làm người là để cho con người được sống và sống một cách dồi dào. Nhưng sự sống của chúng ta đón nhận từ nơi Chúa sẽ không trọn vẹn, nếu chúng ta chưa thực sự chia sẻ sự sống ấy cho những người chung quanh. Bao lâu nhiều người anh em chung quanh chúng ta chưa được sống xứng với phẩm giá con người, bao lâu niềm vui và quyền được sống như những con người vẫn còn bị khước từ nơi nhiều người đang sống bên cạnh chúng ta, thì có lẽ chính chúng ta cũng không thể nào hưởng được một cách dồi dào sự sống mà Chúa Giêsu mang lại cho chúng ta.
54. Chúa Giêsu tiếp tục làm phép lạ
(Suy niệm của AM Trần Bình An)
Trái bom nguyên tử nổ ra vào lúc 8 giờ 10 phút, sáng ngày mồng 6 tháng 8 năm 1945. Biến cả thành phố Hi-rô-shi-ma thành tro bụi và giết chết 80.000 người cùng một lúc. Ngôi nhà của chúng tôi là một trong những ngôi nhà chưa bị sụp đổ, nhưng ở trong một điều kiện hết sức tồi tàn: không còn cửa ra vào, các cánh cửa đã bị cơn gió cực mạnh tạo ra do vụ nổ, cuốn đi hết. Chúng tôi chuyển sang ở bệnh viện, nơi tiếp đón, chăm sóc và giúp đỡ cho 200 nạn nhân.
Ngày hôm sau, mồng 7 tháng 8, vào lúc 5 giờ sáng, tôi đang dâng thánh lễ ở nhà, trước khi bắt đầu công việc cứu giúp những người bị thương và chôn cất những người chết. Trong những giây phút càng bi thảm, người ta càng gần Thiên Chúa hơn, người ta càng thấy cần thiết phải giúp đỡ nhau, khung cảnh thực không thích hợp cho việc sốt sắng thánh lễ. Nhà nguyện thì một nửa đã bị phá hủy, chật ních những người bị thương nằm chen chúc nhau trên mặt đất. Họ đau khổ ghê gớm và quằn quại vì đau đớn. Tôi bắt đầu dâng lễ như tôi có thể, giữa đám người không có chút ý niệm về những gì diễn ra trên bàn thờ: họ là những người ngoại đạo chưa bao giờ tham dự thánh lễ. Tôi không thể nào quên được cái cảm giác bàng hoàng khi quay lại phía họ để chúc: “Chúa ở cùng anh chị em.” Hồi đó, các linh mục làm lễ quay mặt lên bàn thờ. Không thể cử động được nữa, tôi đứng như người bất toại, hai tay dang ra, nhìn ngắm tấm thảm kịch này của nhân loại. Cảnh tượng thật hãi hùng! Vài phút sau, Đấng mà thánh Gio-an Tẩy Giả đã nói: “Ở giữa anh em có một Đấng mà anh em không biết”, ngự xuống bàn thờ. Chưa bao giờ tôi cảm nhận được sự cô độc của những người không biết Chúa Giê-su Ki-tô như lúc ấy. Cứu Chúa của họ đang hiện diện ở đó. Đấng đã hiến mạng sống cho họ… nhưng họ lại không biết “Không biết Ngài ở giữa họ” (Ga 1, 26). Lúc đó, chỉ có tôi biết Ngài. Tự nhiên tôi thốt lên lời nguyện cầu cho những kẻ tàn ác dã man đã ném bom nguyên tử: “Lạy Chúa, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm”, và cho những người nằm xoài trước mặt tôi đang quằn quại vì đau đớn: “Lạy Chúa, xin ban cho họ niềm tin để họ thấy và xin ban sức mạnh để họ chịu đựng đau khổ”. Khi nâng tấm bánh lên trước mặt những thể xác đầy thương tích và rách nát này, tôi kêu lên tự đáy lòng: “Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa Con, xin thương xót đoàn chiên không có chủ chăn này!” (Mt 9, 36; Mc 6, 34). “Lạy Chúa, để họ tin vào Chúa, xin hãy nhớ họ cũng là những người cần phải nhận biết Chúa” (1 Tm 2, 4).
Những dòng thác ân sủng chắc chắn đã tuôn chảy từ tấm bánh và bàn thờ. Sáu tháng sau, khi đã được chữa lành, tất cả đã từ giã nhà dòng chúng tôi (chỉ có hai người đã chết ở đó), nhiều người trong số họ đã lãnh nhận bí tích rửa tội. Tất cả họ đều nhận ra đức ái Ki-tô giáo thì thông cảm, giúp đỡ, đem lại niềm an ủi vượt trên mọi nâng đỡ con người. (Phê-rô Arrupe, S.J, Thánh Thể trong đời tôi)
Tin Mừng Chúa nhật 13 thường niên hôm nay, thánh sử Máccô tường thuật người phụ nữ bị hoại huyết 12 năm, âm thầm chạm tay vào áo Đức Giêsu được chữa lành. Rồi con gái của ông Giaia, Trưởng hội đường đã chết, được Người cầm tay, truyền lệnh chỗi dậy, tức thì cô bé 12 tuổi sống lại. Cả hai phép lạ đều có chung mẫu số, đó là niềm tin vững chãi và mãnh liệt, niềm cậy trông hoàn toàn vào quyền năng Thiên Chúa.
Chạm tay
Giữa đám đông chen lấn đến với Đức Giêsu, biết bao người chạm tay vào vạt áo Người, thế mà chỉ có một mình người đàn bà đã chịu 12 năm băng huyết, vô phương cứu chữa, được khỏi bệnh tức thì. Trong khi biết bao người khác cũng có thể bị bệnh này chứng kia về thể xác hay tinh thần, cũng chạm tay vào áo Người, đều không được chữa lành. Chỉ vì người đàn bà bệnh hoạn đó đã hoàn toàn đặt niềm trông cậy, niềm hy vọng tột cùng vào Chúa: “ Tôi mà sờ được vào áo Người thôi, là sẽ được cứu.” Một sự khẳng định chắc nịch và dứt khoát, không mảy may cân nhắc, so đo, do dự, cũng không một chút nghi ngờ, lưỡng lự, cầu may.
Chạm tay vào áo Đức Giêsu là thể hiện công khai tâm tình phó thác, cùng tuyên xưng niềm tin, niềm cậy trông và tình mến vào Chúa. Không hề e ngại thế gian săm soi, dè bỉu, chê cười, không sợ những thế lực thù địch với Chúa hăm dọa, hãm hại, gây khó dễ, cấm cản, không lo sợ các thầy tư tế, luật sĩ, kinh sư, Biệt Phái mất lòng, kết án. Trước thái độ mau mắn khiêm nhường và cung kính của người đàn bà được chữa lành, Đức Giêsu hân hoan chứng nhận tấm lòng thành khẩn và ân cần chúc phúc: “Này con, lòng tin của con đã cứu con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh.”
Chạm tay vào áo Đức Giêsu, mỗi khi người Kitô hữu sốt sắng, chăm chú đọc và nghe Lời Chúa, mỗi khi kính cẩn đón rước Thánh Thể, hay tôn kính chầu Mình Thánh Chúa, mỗi khi thành khẩn lãnh nhận các phép Bí tích, mỗi khi thành tâm nghe giảng dạy Tin Mừng… Người Ki tô hữu cũng có thể noi gương người đàn bà bị bệnh kia, chủ động chạm vào áo Chúa Giêsu, khi cầm lòng, cầm trí cầu nguyện, suy gẫm, kinh nguyện, cảm tạ, ngợi khen, chúc tụng Lòng Thương Xót vô ngần của Thiên Chúa.
Tất cả những ai đặt trọn niềm tin vào Người đều được chữa lành khi cố gắng luôn gần gũi, tiếp cận bên Người. Có khi Người chữa lành thể xác, hay tâm hồn, hoặc nhiều khi cả hai. Điển hình, Chúa Giêsu vẫn còn đang phép lạ, đã cứu chữa cả thể xác lẫn linh hồn gần 200 nạn nhân bom nguyên tử kể trên, ban cho họ vinh hạnh trở nên con cái Thiên Chúa. “Từng ngàn bệnh nhân trong nhà thánh Cottolengo có một nét đặc biệt trên khuôn mặt, lâu lâu máy vi âm lại dịu dàng nhắc: ”Chúng ta đang ở bên Chúa.” (Đường Hy Vọng, số 232)
Cầm tay
Đức Giêsu vừa chữa lành và đang an ủi người đàn bà hoại huyết, thì người nhà ông Giaia, Trưởng hội đường, báo tin con gái ông đã chết, đừng làm phiền Người nữa. Đức Giêsu liền trấn an: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi.” Người đến tận giường, cầm tay cô bé ra lệnh: “Talithakum,” nghĩa là: “Này bé, Thầy truyền cho con: Chỗi dậy đi.” Lập tức con bé đứng dậy và đi lại được, vì nó đã mười hai tuổi. Thoạt đầu, ông Giaia chỉ cầu xin Đức Giêsu đến đặt tay lên, cứu chữa cháu bé đang hấp hối. Nay Người còn làm hơn thế nữa, ân cần, chủ động và thân thương cầm lấy tay để hồi sinh cháu.
Trong ba phép lạ cho sống lại, như Lazarô (Ga 11, 43-44), con trai bà góa thành Nain (Lc 7, 12-15) và con gái ông Giaia, (Mc 5, 41) thì chỉ có duy nhất lần này, Người cầm lấy tay cô bé cho hồi sinh, y như Người đã cầm tay nhạc mẫu ông Phêrô, chữa khỏi cơn sốt, (Mc 1, 31) cầm tay dắt anh mù ra khỏi làng, rồi cho anh sáng mắt, (Mc 8, 23) cầm tay đứa trẻ chữa khỏi quỷ ám. (Mc 9, 27)
Chạnh lòng cầm tay người hoạn nạn, Đức Giêsu chứa chan yêu thương, tràn trề lòng thương xót, ân cần cứu thoát khỏi bệnh tật, khỏi ma quỷ, khỏi cái chết. Người vẫn cầm tay từng người dẫn dắt khỏi chốn nguy khốn, khỏi cám dỗ xác thịt, khỏi tội lỗi bùn nhơ, khỏi án phạt chết muôn đời, những ai tin vào Người, không phân biệt thân sơ, không giới hạn sang hèn, chẳng kỳ thị dân tộc.
“Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người. Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u, con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm. Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu con đầy tràn chan chứa. Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời, và tôi được ở đền Người những ngày tháng, những năm dài triền miên” (Tv 23).
Đức Giêsu cầm lấy tay cứu giúp những ai trông cậy, tin tưởng vào Người khỏi cơn gian nguy, chết chóc. Người làm gương cho những ai theo Người, biết cầm tay tha nhân an ủi, cứu chữa, giúp đỡ và phục vụ. Người dạy Kitô hữu biết chủ động dấn thân phục vụ bằng hành động cụ thể, thân thiện và trịnh trọng cầm lấy tay những người khó khăn, gặp nạn, bị xã hội bỏ rơi, khinh khi, oán nghét để ân cần chia sẻ, quan tâm, giúp đỡ, tương thân, tương ái.
“Đây là bằng chứng để ta biết được lòng mến: Là Đấng ấy đã thí mạng vì ta. Và ta, ta cũng phải thí mạng vì anh em. (1Ga. 3,16). Con hỏi Cha: “Đâu là mức độ dấn thân?” “Hãy làm như Chúa Giêsu: Thí Mạng.” Nếu con tuyên bố rùm beng, hoạt động khơi khơi, sống đạo lè phè, con sợ cực, sợ nghèo, sợ tù, sợ chết… Nếu con dấn thân lối: “Cứu viện cho người thắng trận,” thì thôi, nên dẹp tiệm. Đó là “dấn thân trá hình,” “dấn thân thương mại.” (Đường Hy Vọng, số 612)
Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con luôn chạm tay vào áo Người, để được an ủi và cứu chữa. Cũng xin Chúa dạy chúng con biết chạm tay phục vụ tha nhân, chứ không chỉ nói suông, hay a dua làm từ thiện theo phong trào.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ cầu bầu, hướng dẫn chúng con noi gương Mẹ, luôn biết cần mẫn tìm đến Chúa, cũng như luôn sẵn sàng phục vụ tha nhân trong suốt cuộc đời. Amen.
(Suy niệm của AM Trần Bình An)
Tại thành phố Pleiku, ngày 28/9/2004, một xác thai nhi đỏ hỏn đã tím tái, bọc sơ sài trong giấy báo, được đưa đến Lm Phêrô NVĐ, Quản xứ Thăng Thiên, để được chôn cất tại nghĩa trang Đồng Nhi. Khi Lm vừa mở gói giấy báo ra, dù mắt còn chưa kịp mở, thai nhi liền mừng rỡ giơ bàn tay bé xíu, nắm lấy ngón tay vị Chủ Chiên, tìm chút hơi ấm tình người,. Ngài thân thương đặt tên bé là Nguyễn Trung Thu, vì bé bị sát hại đúng vào ngày rằm Tháng Tám, mỉa mai thay Tết nhi đồng.
Câu chuyện đau xót này, gợi chúng ta liên tưởng đến bàn tay Chúa Giêsu, nắm lấy tay em bé cũng đã chết. Ngài truyền lệnh ”Talithakum” có nghĩa là: “Này bé, Thầy truyền cho con hãy chỗi dậy đi!” Lập tức con bé đứng dậy và đi lại được, vì nó đã mười hai tuổi.” (Mc 5, 41-42)
Trước đó, một bà cụ bị rong huyết đã mười hai năm, bao phen khốn khổ vì chạy thầy chạy thuốc đã nhiều, đến tán gia bại sản, mà vẫn tiền mất tật mang, lại còn thêm nặng là khác. (Mc 5, 25-26). Bà đã thừa cơ đông người chen lấn, đụng vào vạt áo Chúa Giêsu, liền được khỏi bịnh. Đức Tổng Giám Mục Giuse Ngô Quang Kiệt đã khéo léo ví von, bà đã lén lút như Kẻ Ăn Trộm Phép Lạ.
1- Khiêm hạ
Thái độ của ông Giaia, Trưởng hội đường, khiêm cung, sụp lạy cầu xin Chúa Giêsu cứu giúp con ông sắp chết, cũng như thái độ bà cụ bệnh mãn tính ao ước được chữa lành, đã phủ phục trước mặt Người, đều chứng tỏ lòng khiêm tốn sâu xa. Nhân đức luôn được Chúa đề cao và tưởng thưởng.
2- Phó thác
Không những tha thiết chạy đến với Chúa, hai người đó còn hoàn toàn phó thác, tin cậy vào Chúa Giêsu. Mặc dù được biết đứa con gái đã chết, ông Giaia vẫn một lòng trông cậy vào Chúa đến cứu giúp, không hề ngã lòng. Mặc dù không dám đối diện với Chúa, vì mặc cảm ô uế, bà cụ vẫn một mực ao ước được gần gũi, được chạm vào vạt áo Chúa, để được chữa trị.
3- Đức tin
Chính vì đặt hết niềm tin vững mạnh vào Chúa, bà cụ và ông Giaia đều được Chúa cứu giúp. “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi bệnh.” (Mc 5, 34) Với ông Giaia, cũng với điều kiện duy nhất, Chúa phán: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi!” (Mc 5, 36)
4- Quyền năng Thiên Chúa
Trước bênh hoạn và cái chết, Chúa Giêsu đã tỏ ra quyền năng tuyệt đối trên những sự dữ. Ngài đã chống lại cái chết, cũng như tiên báo cho ngày Chúa chiến thắng sự chết, mà Phục Sinh vinh hiển. Ngài cũng giải phóng con người khỏi cái chết đời đời, nếu tin cậy vào Ơn Cứu Độ.
Lạy Chúa Giêsu nhân ái, xin mở lòng trí con, luôn biết gần gũi với Chúa mọi nơi, môi lúc, khi gặp tha nhân, khi nghe Lời Chúa, khi rước Thánh Thể, để đặt hết niềm tin cậy vào Ngài, hầu được Ơn Cứu Rỗi.
Lạy Mẹ Maria, xin giúp con luôn biết khiêm hạ, tin cậy, tín thác vào quyền năng vô biên của Chúa, để con được sống trong cõi phúc đời đời. Amen.
(Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường)
Bệnh tật và chết là hai thực tại của cuộc sống. Không ai sống mạnh khoẻ suốt đời, ít nhiều gì cũng có bệnh. Có sinh tất có tử, không ai có thể tránh khỏi. Bệnh thể lí dễ nhận ra bởi nó xuất hiện trên khuôn mặt, có thể dò, đo, hỏi, tìm biết nguyên nhân gây mầm bệnh. Bệnh về tâm linh khó nhận ra bởi bệnh tâm linh tiềm ẩn bên trong nên không dễ nhận bằng quan sát. Thinh lặng, cầu nguyện và lắng nghe tiếng lòng là chìa khoá mở tìm kiếm bệnh tâm linh. Cuộc sống nào cũng cần đời sống tâm linh. Không tin Chúa thì tin thần thánh. Chối bỏ thần thánh thì tin vào con người, tin chủ thuyết, trường phái hay chế độ, vì thế phát sinh ra nhiều trường phái linh đạo khác nhau. Phổ thông và có nhiều thành viên hơn cả là trường phái linh đạo đòi ít cố gắng, vừa nhàn lại dễ dãi. Đúng với tên gọi của nó, trường phái linh đạo dễ dãi giúp cuộc sống an bình trong hoàn cảnh dễ dãi. Gặp hoàn cảnh khó khăn trường phái linh đạo dễ dãi không giúp giải quyết vấn nạn cuộc sống. Đây chính là kinh nghiệm của người phụ nữ bệnh loạn huyết và cũng là kinh nghiệm của người cha thương con khi con ông đối diện với cái chết. Cả hai cùng ra đi, dời khỏi nơi nương náu an toàn trước đây đến gặp Đức Kitô. Cả hai xin được cứu giúp và Đức Kitô đã ban cho cả hai được toại nguyện, thoả lòng. Khiêm nhường và chân thành là con đường dẫn đến Đức Kitô.
Cả hai đều đặt tin tưởng vào bác sĩ và cải hai đều nhận biết chính họ cũng có giới hạn. Người phụ nữ theo bác sĩ lòng, hết tiền, hết tài sản, không hết bệnh, đã vậy bệnh còn nặng thêm. Người con gái ông trưởng hội đường cũng không may mắn hơn, bệnh không khỏi, bác sĩ lắc đầu chào thua. Phó mặc em bé cho cái chết tiến gần. Cuối cùng cả hai dấn thân, ra đi, không còn người trần gian nào giúp được nên họ đến gặp Con Thiên Chúa, Đức Kitô. Cả hai đều biểu lộ lòng tin một cách đáng thán phục, đáng ca tụng. Mỗi người biểu lộ lòng tin của mình một cách khác nhau. Người phụ nữ tin là sờ vào gấu áo Đức Kitô sẽ khỏi bệnh. Ông trưởng hội đường không phải chỉ tin ‘còn nước, còn tát’ theo kiểu nói bình dân. Tin buồn đưa đến là con ông đã chết. Dẫu thế ông vẫn tin Đức Kitô là nguồn ban sự sống. Sự sống Ngài ban làm cho kẻ chết sống lại.
Người phụ nữ thầm cầu mong nếu không được chạm đến Ngài, chỉ cần sờ vào gấu áo Ngài cũng sẽ khỏi bệnh và bà ta được toại nguyện. Sờ vào gấu áo Đức Kitô bà cảm nhận ơn chữa lành tại chỗ. Đức Kitô biết có người âm thầm sờ gấu áo bởi Ngài biết ân sủng lan toả ra nên Ngài hỏi các môn đệ ‘ai đã sờ gấu áo tôi’ c.30. Các ông ngạc nhiên thưa ‘Thầy coi, đám đông chen lấn Thầy như thế mà Thầy còn hỏi: ‘ai đã sờ vào tôi’ c. 31. Biết không thể giữ kín điều đã làm người phụ nữ sợ hãi đến trước mặt Đức Kitô quì gối nhận chính bà đã sờ gấu áo và xin ơn khỏi bệnh. Đức Kitô nói với bà bởi do lòng tin bà được nguồn sống. Bà cùng lúc nhận được ba ơn Chúa ban đó là ơn chữa lành, ơn bình an và ơn giải thoát c.34.
Ông trưởng hội đường còn đang nói chuyện với Đức Kitô thì gia nhân đến thưa: ‘Con gái ông chết rồi, làm phiền Thầy chi nữa c.35. Đức Kitô an ủi ông: ‘Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi’ c.36. Vào đến nhà Đức Kitô nói với người đang khóc: ‘Đứa bé có chết đâu, nó ngủ đấy c.39’ và người ta chế nhạo Người. Đức Kitô cầm tay kẻ chết và nguồn sống từ Ngài truyền sang em bé. Em đứng dậy đi lại bình thường. Ngày nay cũng có người chế nhạo khi Kitô hữu tin là Thiên Chúa tạo dựng đất trời, điều khiển mọi sinh hoạt trong trời đất và ban cho chúng sự sống. Chế nhạo lòng tin của Kitô hữu để tin vào khám phá tìm kiếm của khối óc con người, mệnh danh là khoa học. Thủ hỏi nếu Thiên Chúa không tạo dựng vũ trụ khoa học có gì để nghiên cứu không? Chắc chắn môn khoa học đã không ra đời.
Chữa bệnh cho người phụ nữ và cho con gái ông trưởng hội đường cho thấy Đức Kitô không loại trừ bất cứ ai, ân sủng Ngài ban cho bất cứ ai thành tâm. Ân sủng Chúa vượt biên giới, mầu da, sắc tộc và ngay cả chủ thuyết. Những ai thành tâm đến với Ngài đều không phải trở về tay không nhưng nhận được nhiều hơn điều mong ước.
(Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường)
Mỗi sáng thức dậy chúng ta cảm nghiệm một ngày mới và rồi bắt đầu ngày mới với công việc cũ, một ngày bình thường như mọi ngày. Chúng ta ý thức ngày mới trong tuần, ngạc nhiên ngày đầu tháng đến mau và nghỉ làm để mừng ngày đầu năm mới. Đối với con người ngày đầu năm mang ý nghĩa đặc biệt nhưng với thiên nhiên có lẽ ngày đầu năm cũng chẳng khác chi bởi cứ theo chu kì, xoay vần của trời đất mà ngày này qua đi, ngày khác lại đến; mùa này qua mùa khác đến.
Thực ra mỗi ngày mới đều khởi đầu bằng cuộc sống mới bởi ngày cũ đã qua đi, không thể lập lại. Dù làm công việc cũ, việc thường ngày nhưng ngày mới vẫn có cái mới mẻ của nó. Mừng ngày mới mà quên mừng cuộc sống mới là một thiếu sót quan trọng bởi dù ta sống hay chết ngày mới vẫn đến. Ngày mới khởi đầu bằng cuộc sống mới nên cần đón mừng cuộc sống mới mỗi ngày. Không phải tất cả mọi người tối đến đi ngủ sáng mai đều thức dậy đón ngày mới cả đâu. Vì thế mỗi tối đi ngủ tương tự như ta đi vào cõi âm, bóng tối của sự chết và sáng hôm sau thức dậy ta bước ra từ bóng tối màn đêm tiến vào ánh sáng ban mai, huy hoàng. Bỏ lại ngôi mộ trống với chăn màn dùng qua đêm. Kitô hữu ý thức điều đó nên mỗi sáng thức giấc họ đều mừng ngày mới với cuộc sống mới. Việc đón mừng đời sống mới với lời kinh nguyện ban mai nghe rất đơn giản nhưng ý nghĩa của nó cao sâu, nhiệm màu. Cao siêu vì lời kinh đó nói lên tâm tình tạ ơn Thiên Chúa đã ban cho một đêm ngủ yên lành. Cao siêu vì chúng ta nhận biết mọi sự ta có là của Chúa ban, kể cả giấc ngủ đêm qua. Chúng ta không làm chủ đời mình và tài năng mà chỉ là người quản lí cuộc đời được Chúa tin tưởng, phó thác, trao ban cho chúng ta coi sóc, quản lí. Dâng ngày mới, đời mới cho Chúa giữ gìn, bảo vệ, hướng dẫn tư tưởng và bước đường ta đi đồng thời giúp ta tránh khỏi nguy hiểm, sa ngã cạm bẫy cuộc đời là tìm sự khôn ngoan, hướng dẫn, bảo vệ nơi Chúa của người Kitô hữu. Mỗi ngày chúng ta dâng Chúa tâm tình, tin yêu và cảm tạ mong ơn Chúa thánh hoá giúp chúng ta trở nên giống Chúa nhiều hơn. Chúng ta dâng ngày mới cho Chúa mỗi ngày, và long trọng hơn mỗi tuần một lần nơi thánh đường với anh chị em khác và hai lần tối long trọng hàng năm vào dịp Phục Sinh và mùa Giáng Sinh để cảm tạ Chúa ngày mới với cuộc đời mới Chúa ban và kết hợp với cuộc sống Phục Sinh và vinh quang của Đức Kitô sống lại từ cõi chết.
Jairus trường lãnh binh Đền Thờ tin Đức Kitô có quyền trên sự sống và người phụ nữ mắc bệnh kinh niên tin Đức Kitô có quyền trên các bệnh nan y mà con nguời bó tay không thể chữa trị. Cả hai đã đúng và cả hai tin mãnh liệt vào quyền phép Đức Kitô và cả hai đều được đúng ơn họ xin. Họ tin Đức Kitô quyền phép làm được những sự việc cao cả nhưng vẫn không biết Đức Kitô còn biết rõ tâm tư thầm kín họ. Vì thế người phụ nữ thầm tín nếu bà ta đụng vào gấu áo Đức Kitô bệnh của bà sẽ khỏi. Một mình bà biết điều đó. Bà thì run sợ còn môn đệ thì ngạc nhiên khi Đức Kitô nói ai đã chạm đến gấu áo Ngài.
Là môn đệ Đức Kitô với niềm tin mãnh liệt vào Ngài cũng được hưởng những đặc ân như vị lãnh binh đền thờ và như người phụ nữ bệnh kinh niên. Dù đôi khi không cảm nghiệm, dù không bao giờ nhìn thấy nhưng với lòng tin chúng ta biết Đức Kitô luôn đồng hành cùng ta trong mọi bước đường của cuộc sống và Ngài không bao giờ bỏ rơi chúng trên đường đời.
(Suy niệm của Arthur Tone)
Bác sĩ George Lewell đã nhiều năm làm nhà truyền giáo y khoa cho phái Tin lành Southern Baptist ở Trung Quốc. Truyền giáo y khoa là một bác sĩ, tá viên hay một người nào đó được huấn luyện để đầu tư thời giờ, tài năng vào việc chữa trị đau đớn thể xác như một phương thế để đem linh hồn người ta về cho Đức Kitô.
Bác sĩ Lewell nói về một bà lớn tuổi, bà được đem vào bịnh viện Stout Memorial ở Quảng Đông, mà ông là bác sĩ giải phẫu trưởng. Một ai đó đã nói với bà bệnh nhân rằng Đức Giêsu là bác sĩ sẽ chữa lành bà, nên khi bà thấy bác sĩ trong bộ đồ trắng cúi xuống trên bà, bà nhìn lên bác sĩ và hỏi: “Ông là Giêsu?”.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Thánh Marcô kể rằng: “Một người đàn bà bị băng huyết, đã 12 năm. Nàng đã chạy chữa nhiều thầy thuốc, và tốn kém hết tiền bạc mà không giảm bớt, nhưng còn trầm trọng hơn. Mặc dù đám đông chen lấn nhau quanh Chúa Giêsu, nàng cũng ráng chen vào gần, với tay đụng tới gấu áo của Chúa, với hy vọng được chữa khỏi. Đức Giêsu biết có sức mạnh từ người phát xuất. Người quay về phía người đàn bà mắc bệnh và nói: “Hỡi con, đức tin của con đã làm cho con tất cả. Con về bình an và khỏi bệnh”.
Người đàn bà này tượng trưng cho chúng ta, những người đã một vài lần phải đi bác sĩ, hay ít nhất chúng ta cũng dẫn một người thân thương đi bác sĩ.
Như những người theo Chúa Kitô, bạn và tôi có lợi và sự nâng đỡ đặc biệt khi phải cầu cứu bác sĩ hay thầy thuốc. Khi bạn hay một người thân yêu, hoặc người bạn phải đến bác sĩ, bạn hãy tín nhiệm, cộng tác và tin cậy họ như một dụng cụ của Chúa. Một bác sĩ giỏi, tài ba, cũng chỉ có giới hạn. Vì lý do đó, khi bạn phải tìm một bác sĩ, bạn phải đến với Chúa trước. Hơn nữa, trên mọi khả năng, tài khéo của một bác sĩ giỏi nhất, Đức Kitô vẫn còn chữa lành một cách mầu nhiệm.
Khi bạn phải đi bác sĩ, bạn nhớ dâng lời cầu nguyện lên Đức Kitô, Đấng chữa lành để bạn chọn đúng một bác sĩ. Để nhờ ơn Chúa. bác sĩ định bệnh và cho bạn liều thuốc hiệu nghiệm. Ngay cả trước khi bạn phải đi bác sĩ, bạn nhớ cám ơn Chúa về sức khỏe hằng ngày của bạn. Thường thường, người ta chỉ thấy sức khỏe là quý giá sau khi đã mất nó.
Không như người phụ nữ trong bài Tin Mừng hôm nay. Bà đến với các thầy thuốc trước, chỉ sau cùng, thất vọng, bà buộc phải tìm đến và đụng tới Đức Kitô. Bạn và tôi sẽ đến với Đức Kitô trước và trong khi được bác sĩ chữa trị.
Chúng ta tiếp xúc với Đức Kitô trong mỗi phép bí tích, nhất là trong Thánh Lễ và Rước Lễ. Chúng ta không như những người tin càn dở, họ chối bỏ mọi phương pháp trị liệu y khoa. Trái lại chúng ta dùng mọi phương pháp y học nhưng không quên chạy đến Đấng có thể chữa lành mọi bệnh tật là Đức Giêsu Kitô, Chúa mọi thiện hảo, nhất là Chúa mọi sức khỏe linh hồn và thể xác.
Ước gì chúng ta có được niềm tin của người phụ nữ trong bài Tin Mừng. Ước gì Đức Giêsu khen thưởng niềm tin của chúng ta bằng ơn trợ giúp nhân từ và quyền năng của Người.
Xin Chúa chúc lành bạn.
LÒNG TIN CỦA CON ĐÃ CỨU CON.
Có chuyện kể rằng Đức Giêsu và một thanh niên đồng hành trên bãi biển. Bốn dấu chân in hằn trên cát. Nhưng lúc gặp chuyện khó khăn, chàng thanh niên nhìn xuống chỉ còn thấy có hai dấu chân thôi. Anh kinh ngạc kêu lên:
– Thưa Thầy, nãy giờ Thầy đi đâu mà để con bước một mình? Đức Giêsu nhỏ nhẹ bảo anh:
– Con nhìn kỹ xem đó là dấu chân của ai nào?
Nhìn kỹ lại, chàng thanh niên mới thấy đó là dấu chân của Chúa. Anh la lên:
– Vậy thưa thầy, nãy giờ con ở đâu?
Đức Giêsu trả lời:
– Này con, những lúc gặp khó khăn, Thầy biết con không đủ sức chịu đựng, vì thế Thầy đã vác con trên vai đó.
Thực sự, Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi kẻ tin cậy Người, nhất là khi thấy niềm tin của ta bị thử thách quá sức, Chúa liền tạo điều kiện để chúng ta vượt qua. Người vác ta trên vai, có nghĩa là triệt để nâng đỡ ta, ngoài sức tưởng tượng của ta.
Người phụ nữ bị hoại huyết trong Tin Mừng hôm nay được chữa lành hoàn toàn do lòng thương của Chúa. Dĩ nhiên, muốn được chữa lành, người ta phải biểu lộ lòng tin. Mà bệnh nhân này theo luật Môisê, là một người ô uế, không được ra trước công chúng, làm sao dám đến xin Chúa chữa bệnh cho mình. Chúa đã soi sáng cho bà, và bà hiểu chỉ cần biểu lộ lòng tin một cách nào đó, cũng hy vọng được ơn lạ. Nghĩ thế, bà đã len lỏi phía sau Chúa, lén chạm vào áo Chúa, và sự lạ đã xảy ra: bà được khỏi bệnh.
Người bệnh chạm vào Chúa là đã vi phạm luật cấm. Nhưng bà nghĩ rằng giữa đám đông chen lấn như thế ai mà biết được. Chính các môn đệ cũng ngạc nhiên khi nghe Chúa hỏi xem đã có ai đụng chạm vào Ngài. Còn Chúa, Ngài biết rõ mọi chuyện. Thay vì lặng thinh để khỏi bị tai tiếng vì đã chạm tới một phụ nữ ô uế, Chúa lại muốn đưa sự thật ra ánh sáng, để mọi người thấy lòng tin của bệnh nhân và thấy rằng Chúa hài lòng với một lòng tin như thế. Nhờ lòng tin, người bệnh chẳng những được chữa lành, lại còn được ơn cứu độ, đó là ơn cao quí hơn được lành bệnh thể lý, và đó là điều Chúa quan tâm hàng đầu. Nhân dịp này, Chúa đã dạy các môn đệ một bài học mà sau này Thánh Phaolô đã khai thác và viết thư khuyên dạy các Giáo đoàn: Nhờ đức tin mà có ơn cứu độ.
Khi Chúa đòi hỏi phải có lòng tin, Người không đòi hỏi quá đáng. Chỉ cần ta thực tâm và cố gắng rồi Chúa sẽ tạo điều kiện cho chúng ta biểu lộ lòng tin và ban thưởng cho lòng kiên trì của ta, dù đó là những phấn đấu nội tâm thầm kín.
Lạy Chúa, xin giúp con biết tin tưởng tuyệt đối vào Chúa, biết âm thầm cố gắng biểu lộ lòng tin trong cuộc sống, mặc dầu chỉ mình Chúa biết mà thôi.
60. Cộng tác viên không phải bù nhìn
(Suy niệm của Lm. Mark Link)
Một cơn lụt khủng khiếp đã tràn ngập cả một vùng rộng lớn. Một bà bị kẹt ở trong nhà. Khi đang đứng ở cửa sổ nhà bếp trông ra ngoài, bà thấy có một chiếc ca-nô tiến đến.
Người tài công nói với bà:
– “Bà leo lên đây và cứu lấy mình.”
– “Không, cám ơn ông,” bà trả lời. “Tôi tin tưởng vào Chúa, Người sẽ cứu tôi.”
Người tài công lắc đầu bỏ đi. Ngày hôm sau, nước dâng lên đến lầu hai. Khi đứng ở cửa sổ lầu hai nhìn ra biển nước, một chiếc tầu khác xuất hiện. Người lái tầu bảo,
– “Bà leo lên tầu đi để cứu lấy mình.”
– “Không, cám ơn ông,” bà trả lời. “Tôi tin tưởng vào Chúa, Người sẽ cứu tôi.”
Người lái tầu lắc đầu bỏ đi. Ngày sau nữa, nước đã dâng lên đến mái nhà. Khi ngồi trên nóc nhà, bà trông thấy một chiếc trực thăng xuất hiện. Phi công dùng máy phóng thanh nói với bà,
– “Tôi sẽ thả thang giây xuống. Bà leo lên và cứu lấy mình.”
– “Không, cám ơn ông,” bà trả lời. “Tôi tin tưởng vào Chúa, Người sẽ cứu tôi.” Phi công lắc đầu bay đi chỗ khác.
Ngày hôm sau nước ngập cả căn nhà, và bà bị chết chìm. Khi lên đến thiên đường, bà nói với Thánh Phêrô, “Trước khi tôi vào đây, tôi phải làm đơn khiếu nại. Tôi tin tưởng là Chúa sẽ cứu tôi khỏi bị lụt, nhưng Người đã bỏ tôi.”
Thánh Phêrô nhìn bà với ánh mắt khó hiểu và nói, “Tôi không biết Chúa có thể làm gì hơn cho bà. Người đã gửi đến cho bà hai con tầu và một chiếc trực thăng.”
Người đàn bà này chắc phải đọc bài Phúc Âm hôm nay kỹ càng hơn. Trong bài có hai người cần sự giúp đỡ giống như bà. Và cả hai đều tín thác vào Chúa, cũng như bà. Nhưng có sự khác biệt lớn lao giữa sự tín thác của họ và của bà.
Hãy xem đó là gì.
- Người đầu tiên là một bà bị bệnh. Bà tin tưởng rằng Đức Giêsu có thể chữa lành cho bà. Nhưng bà cũng biết rằng bà có thể làm một điều gì khác hơn là chỉ tín thác nơi Đức Giêsu. Bà phải tiến thêm một bước nữa. Bà phải thi hành phần của bà. Bà không thể chỉ ngồi đó và chờ đợi Đức Giêsu đến với bà. Bà phải đứng lên, đi đến Đức Giêsu, và tự trình bầy với Người để được chữa lành.
- Điều này cũng đúng với câu chuyện thứ hai trong Phúc Âm hôm nay. Ông Giairút cũng tin tưởng rằng Đức Giêsu có thể chữa con gái đang đau nặng của ông. Nhưng ông cũng biết là phải làm điều gì đó hơn là chỉ tín thác vào Đức Giêsu. Ông biết là phải tiến thêm một bước nữa. Ông phải thi hành phần của ông. Ông phải cộng tác với Đức Giêsu. Vì con gái của ông quá đau yếu nên không thể đến với Người, ông phải xin Đức Giêsu đến với đứa con của mình.
Và vì thế cả hai người trong bài Phúc Âm hôm nay đều thi hành điều gì đó hơn là chỉ tín thác vào Đức Giêsu. Họ đã tiến thêm một bước. Họ đã thi hành phần của mình. Họ đã tận dụng các phương tiện bình thường mà Chúa ban để có được sự chữa lành họ cần.
Đây là điểm mà bà bị chết chìm đã sai lầm. Bà quên rằng Thiên Chúa thường hành động trong đời sống chúng ta qua các phương tiện thông thường. Bà quên rằng chúng ta phải thi hành phần của mình và cộng tác với Thiên Chúa qua việc sử dụng các phương tiện thông thường mà Người đã ban cho chúng ta. Nói cách khác, chúng ta không thể ngồi lì một chỗ và mong Chúa làm phép lạ cho chúng ta. Trước hết chúng ta phải dùng mọi phương tiện thông thường Chúa ban để tự giúp đỡ chúng ta.
Để tôi minh họa bằng một câu chuyện có thật.
Một thầy giáo Anh Văn lớp trung học có một học sinh trong lớp chẳng chịu học hành gì cả. Vào ngày thi cuối năm, người học sinh này đến nói với ông thầy là anh rất tin tưởng rằng anh sẽ được điểm cao. Anh nói, trong tuần qua, hằng đêm anh cầu xin Chúa giúp anh làm bài thi Anh Văn.
Thiên Chúa không bao giờ cho rằng sự cầu nguyện có thể thay thế cho việc học hành. Người không bao giờ cho rằng sự cầu nguyện có thể thay thế cho sự chuyên cần. Nhận được sự giúp đỡ của Chúa là một con đường hai chiều. Nó bao gồm sự cộng tác của chúng ta với Thiên Chúa. Chúng ta phải thi hành phần của mình, và Thiên Chúa sẽ thi hành phần của Người.
Thánh Y Nhã có diễn tả sự cộng tác với Thiên Chúa như sau: “Chúng ta phải làm việc như thể mọi thứ đều lệ thuộc vào chúng ta, nhưng chúng ta phải cầu nguyện như thể mọi thứ đều lệ thuộc vào Chúa.” Nói cách khác, chúng ta phải cộng tác với Thiên Chúa và tận dụng các phương tiện thông thường mà Người ban cho chúng ta trước khi xin Người can thiệp trong một phương cách bất thường. Có câu châm ngôn nói rằng: “Thiên Chúa giúp những ai tự giúp mình.”
Nhiều năm trước đây có một tiểu thuyết bán rất chạy tên là Jonathan Livingston Seagull. Trong đó có một câu thật hay được dùng làm chủ đề cho bài hát. Câu ấy như sau: “Nếu bạn yêu mến điều gì đó, bạn phải để nó tự do. Nếu bạn để nó tự do và nó trở về với bạn, thì bạn biết nó là của bạn. Nhưng nếu bạn để nó tự do và nó không trở lại với bạn, lúc ấy bạn biết rằng nó đã không thuộc về bạn ngay tự đầu.”
Đó là phương cách Thiên Chúa đối xử với chúng ta khi cần giúp đỡ chúng ta. Người đã để chúng ta tự do. Người không ép buộc chúng ta phải nhận sự giúp đỡ của Người. Mọi sự đều sẵn sàng cho chúng ta và Thiên Chúa để chúng ta được tự do có muốn sử dụng điều đó hay không.
Thiên Chúa không đối xử với chúng ta như những tên bù nhìn. Người đối xử với chúng ta như những cộng sự viên. Nói cách khác, Thiên Chúa ban cho chúng ta mọi tài nguyên cần cho đời sống thường ngày của chúng ta.
Chỉ khi các tài nguyên này bị hao hụt trong những hoàn cảnh khẩn cấp chúng ta thường sẽ nghĩ đến việc quay về với Chúa để được trợ giúp. Khi chúng ta quay về với Thiên Chúa trong những hoàn cảnh này, chúng ta có thể biết chắc rằng Người sẽ giúp chúng ta, vì Người là Cha chúng ta và chúng ta là con cái của Người.
Hãy chấm dứt phần suy niệm với câu trong cuốn Jonathan Livingston Seagull: “Nếu bạn yêu mến điều gì đó, bạn phải để nó tự do. Nếu bạn để nó tự do và nó trở về với bạn, thì bạn biết nó là của bạn. Nhưng nếu bạn để nó tự do và nó không trở lại với bạn, lúc ấy bạn biết rằng nó đã không thuộc về bạn ngay tự đầu.”
Lạy Chúa, trong tình phụ tử của Ngài dành cho chúng con, Ngài đã để chúng con được tự do. Xin giúp chúng con chứng tỏ tình yêu của con cái đối với Cha hiền bằng cách quay về với Chúa khi chúng con cần sự giúp đỡ đặc biệt của Ngài.
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Sống vui, sống mãi và sống hạnh phúc, nhất là chiến thắng cái chết, không chỉ trong tư tưởng, nhưng là một khát vọng của con người ở mọi nơi mọi thời. Sự sống lại của Chúa Giêsu khẳng định, khát vọng ấy thực sự có thể, vì cái chết không phải là một phần cấu trúc sáng tạo, về nguyên lý là không thể đảo ngược, Chúa là Sự Sống: “Thiên Chúa không tạo dựng sự chết, chẳng vui mừng khi người sống phải chết…” (Kn 1,13).
Bởi ác quỉ ghen tương, nên tử thần đột nhập vào thế gian (x. Kn 1, 13-15), nhưng Thiên Chúa “sẽ không thí bỏ mạng tôi cho âm phủ” (Tv 16,10). Lời Thánh Vịnh trên được Chúa Giêsu là đầu và là trưởng tử hoàn tất khi sống lại từ trong cõi chết. Sự chết dẫn Người xuống mồ, nhưng không tiêu tan. Người đã chiến thắng sự chết. Chỉ có Lời quyền năng Thiên Chúa Tình Yêu mới đủ mạnh để phá đổ những rào cản của sự chết.
“Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại” là lời tuyên xưng vào sự hiện hữu thực sự của Thiên Chúa, cho phép chúng ta hát vang lời Alleluia ở giữa một thế giới, bóng tối tử thần đang đe dọa chúng ta.
Đoạn Tin Mừng thánh Marcô hôm nay như một dạng “phóng sự” được thánh Phêrô trực tiếp chứng kiến những sự kiện, chúng ta cần đọc với cái nhìn đơn giản mới thấy được sự phong phú của nó.
Chúa Giêsu đến và đặt tay lên đứa bé
Điều mà Giairô mong đợi nơi Chúa Giêsu là “đến đặt tay lên em bé để nó được khỏi và được sống” (Mc 5, 23). Thái độ của Giairô thật là ấn tượng. Đường đường là trưởng hội đường Do Thái, vậy mà ông “sụp lạy và van xin” Chúa Giêsu (Mc 5, 22), ông quên đi nhân cách, địa vị của mình trước đám đông nhiều người biết ông, ông tiên phong tin cậy vào Chúa Giêsu. Tất nhiên, vì cô gái diệu, ông làm tất cả.
Chúng ta cũng thế, trong lúc ốm đau bệnh tật, vô phương cứu chữa, hy vọng tiêu tan, thì lời kêu cầu vang lên tới Chúa thật tha thiết. Lời van xin của người cha: “Xin Ngài đến…để nó được khỏi và được sống!” Chúa Giêsu không nói một lời nào, lời trấn an Giairô cũng không. Đôi lúc Chúa vẫn im lặng đối với lời van xin của chúng ta, khi nhận lời chúng ta cầu nguyện. Chúa đồng hành và ở với chúng ta, ngay cả khi chưa nhận lời chúng ta.
Ai chạm đến Ta?
Một câu hỏi cất lên giữa đám đông khiến các môn đệ sửng sốt: “Thầy coi đám đông chen lấn Thầy tứ phía, vầy mà Thầy con hỏi: Ai chạm đến Ta?” (Mc 5, 31) Thì ra “có một người đàn bà bị bệnh” (Mc 5, 25) đã đi lẫn vào trong đám đông đến sau Người. Có thể bà sợ đến với Chúa trước nhiều người. Sợ họ biết việc mình làm. “Mười hai năm trời sống với bệnh xuất huyết” (Mc 5, 25), nghe nói về Chúa Giêsu, Đấng đã chữa lành những bệnh hoạn tật nguyền trong dân, cơ hội tuyệt vời đã đến, bà quyết định chạm tới áo Chúa.
Phản ứng của Chúa Giêsu không làm bà ngạc nhiên và xấu hổ. Không ai đụng đến áo Chúa mà Chúa không biết. Trước mặt Chúa, chúng ta không phải là người vô danh, mất hút giữa đám đông. Chúa thấy chúng ta kêu cầu, cả lúc chúng ta không thể hiện công khai. Chúa biết tất cả vì Người là Đấng toàn tri, là sức mạnh của Thiên Chúa, là Sự Sống. Người đàn bà đã nhận lại được sự sống qua việc chữa lành nhờ đụng chạm tới áo Chúa Giêsu (x. Mc 5, 33). Bởi trong chính cuộc đối thoại với người đàn bà nhút nhát đang tuyệt vọng này, từ việc chữa lành thể xác Chúa ban cho bà ơn cứu độ, bình an và sức khỏe xác hồn.
Dù đến với Chúa thế nào đi chăng nữa, lời thánh Phaolô nhắn nhủ chúng ta: “Bạn có biết sự hào phóng, ân hạn, nhưng không của các món quà của Chúa Giêsu Kitô” (2Cr 8, 9).
Họ liền chế diễu Người
Những “người nhà” Giairô là những người tốt. Với sự thận trọng, họ sẽ gặp người cha và báo cho ông biết về cái chết của con gái ông: “Con gái ông chết rồi, còn phiền Thầy làm chi nữa?” (Mc 5, 35). Nói thế, không phải họ thiếu lòng tin, nhưng là họ không thể tưởng tượng được một tình huống đã chết rồi có thể sống lại được.
Thoáng nghe lời họ nói, Chúa Giêsu bảo: “Con bé không chết đâu, nó đang ngủ đó” (Mc 5, 39). Họ thấy nực cười, vì chính lúc Giairô vắng nhà thì con gái ông trút hơn thở lần cuối. Chúa mời gọi ông Giairô: “Ông đừng sợ, hãy cứ tin” (Mc 5, 36) Giairô đã tin vào quyền năng chữa bệnh của Chúa. Ông được mời đi xa hơn sự tin tưởng là sống niềm tin vào Chúa.
Chúa Giêsu muốn chúng ta có một niềm tin sắt đá, một đức tin chuyển núi rời non, vượt trên sự chết. Kẻ có tội không bao giờ chết trước mặt Thiên Chúa. Người ấy có thể sống lại nhờ ân sủng Thiên Chúa trao ban, vì Chúa là Sự Sống. “Thiên Chúa không vui mừng khi người sống phải chết” (Kn 1,13).
Hãy cho em bé ăn
Giairô và vợ ông, cùng với ba tông đồ được Chúa mang theo. Chúa Giêsu không cầu xin Chúa Cha, không ban một lời chúc lành nào, vì Chúa là Sự Sống. Người có thể trả lại sự sống cho em bé một cách dễ dàng khi cầm tay nó. Người vẫn cầm tay chúng ta mà chúng ta không biết.
Những người chứng kiến không được chuẩn bị để đánh giá một cử chỉ như vậy có nghĩa gì. Còn quá sớm để giải thích cho họ ý nghĩa đầy đủ về sự sống lại của em bé. Nếu Đức Giêsu giữ bí mật, khác hẳn với việc Chúa chữa người đàn bà chạm vào Chúa, Người đã mang theo ba nhân chứng là những chứng nhân từ núi Chúa biến hình cho đến khi Chúa chịu Khổ Nạn và Phục Sinh. Im lặng là cần thiết, vì sự sống lại như thế được coi là dấu chỉ rõ ràng thời thiên sai.
Chúa Giêsu bảo họ: “Hãy cho em bé ăn” (Mc 5, 43). Vì em mà Chúa Giêsu đến. “Ăn” là cử chỉ Chúa Giêsu báo trước sự phục sinh của Chúa, vào buổi chiều tối Chúa Phục sinh, Chúa hỏi các môn đệ: “các con có gì để ăn?” không phải là để ăn cho thể xác, nhưng là để họ có niềm tin vào sự phục sinh của Chúa Kitô.
Giờ đây, Tiệc Thánh chúng ta cử hành là dấu chỉ của niềm vui được chia sẻ trong đức tin trước Thiên Chúa hằng sống, với sự sống viên mãn tràn đầy chứng thực rằng sự sống mạnh hơn cái chết. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời. Amen.
Tôi trông đợi kẻ chết sống lại.
Đó là lời tuyên xưng cuối cùng của bản kinh Tin Kính, đó cũng là điều chúng ta cùng nhau chia sẻ giờ đây.
Qua hình ảnh người đàn bà mắc bệnh loạn huyết được chữa lành và hình ảnh đứa con gái của ông Giairô được sống lại, Giáo hội như muốn nói với chúng ta rằng:
– Người đàn bà chỉ cần đụng tới gấu áo của Ngài là đã được Ngài chữa lành, thì vào ngày sau hết mọi bệnh tật, mọi đau khổ của chúng ta cũng sẽ biến mất. Hơn thế nữa Chúa chỉ cần phán một lời, đứa con gái đã chết liền sống lại. Cũng vậy, trong ngày sau cùng, mọi kẻ chết trong mồ sẽ được chỗi dậy và mang lấy một bộ mặt mới.
Nếu một ngày nào đó ra viếng nghĩa địa, chúng ta có thể nghĩ rằng:
– Phải chăng cái chết chỉ là một giấc ngủ dài. Tới một lúc nào đó họ sẽ chỗi dậy.
Thế nhưng chúng ta sẽ sống lại như thế nào? Thánh Phaolô, vị tông đồ dân ngoại, đã hé mở cho chúng ta thấy điều ấy. Thánh nhân viết như sau:
– Tất cả chúng ta, những Kitô hữu, chúng ta không thuộc về thế gian, nhưng chúng ta là những người công dân nước trời, và nước trời mới đích thực là quê hương của chúng ta.
Mặc dầu chân chúng ta đạp đất, nhưng đầu chúng ta phải đội trời. Hiện thời chúng ta đang mang lấy một thân xác đau thương, làm mục tiêu cho bệnh tật, đau khổ, tội lỗi và chết chóc. Nhưng tất cả những sự ấy chẳng kéo dài được bao lâu. Chúng ta đang trông chờ ngày Chúa trở lại để biến đổi thân xác tầm thường của chúng ta trở nên một thân xác quang vinh, giống như thân xác Phục sinh của Chúa, không còn đau khổ, không còn đổi thay, không còn chết chóc, nhưng sẽ trở nên thánh thiện vẹn toàn. Để được như vậy, thì ngay từ bây giờ, chúng ta phải ra sức hành động.
Người ta thường nói:
– Sống sao thì chết vậy.
Niềm vinh quang mai hậu lệ thuộc vào cuộc sống hiện tại của chúng ta. Nghĩa là cái tiến trình phục sinh, cái tiến trình vinh quang hóa thân xác phàm trần của chúng ta phải được bắt đầu ngay từ bây giờ. Như một con ngài phải dần dần cắn chiếc kén thì mới có thể hóa kiếp thành một con bướm xinh đẹp.
Nếu như đời sau, chúng ta không còn đau khổ, thì ngay từ giờ, chúng ta phải biết làm chủ những đòi hỏi của giác quan và biết thánh hóa những khổ đau gặp phải.
Nếu như đời sau, chúng ta không còn lệ thuộc vào vật chất, thì ngay từ giờ chúng ta phải biết siêu thoát với tiền bạc, gắn bó nhiệt thành với điều thiện.
Nếu như đời sau, chúng ta tỏa sẽ chiếu sáng bằng một vẻ đẹp tươi trẻ và thánh thiện, thì ngay từ giờ chúng ta phải biết trang điểm cho tâm hồn bằng những nhân đức.
Nói tóm lại, ngay từ giờ chúng ta phải biết uốn nắn sửa đổi lại những sai lỗi khuyết điểm và tẩy trừ tội lỗi ra khỏi cuộc sống, đồng thời chất đầy trên đôi tay chúng ta những công nghiệp là những hành động bác ái yêu thương.
Một trong những phương tiện giúp chúng ta có đủ nghị lực thực hiện những điều ấy, đó là Bí tích Thánh Thể, bởi vì khi rước lễ chúng ta không phải chỉ đụng tới gấu áo Chúa mà còn được tiếp xúc với chính thân xác vinh quang của Ngài.
Hơn nữa, chính Chúa cũng đã phán hứa với chúng ta:
– Ai ăn Thịt Ta và uống Máu Ta thì có sự sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho họ sống lại ngày sau hết.
Có sống như thế và có chuẩn bị như thế, thì giờ chết mới là giờ chúng ta được sinh ra cho hạnh phúc vĩnh cửu, mới là giờ chúng ta được Thiên Chúa đón nhận vào quê hương nước trời trong vòng tay yêu thương của Ngài.
Trong một trình thuật dài, đôi khi thánh Marcô xen vào một đoạn ngắn, theo lối hành văn riêng của ngài, để nhấn mạnh đến một điểm chung, Chúa Giêsu là Đấng chữa lành.
Chúa Giêsu hỏi: “Ai đã sờ vào áo tôi”. Nhưng người phụ nữ khốn khổ vẫn im lặng, bà đang bối rối. Căn bệnh của bà làm bà trở nên nhơ uế, không được phép đụng đến bất cứ ai. Phải chăng Chúa Giêsu muốn tố giác bà đã chạm đến áo của Ngài? Dù sợ hãi, bà tin quyền năng chữa lành của Chúa Giêsu đã ban cho bà một sức sống mới. Bà cảm thấy trong thân xác mình quyền năng chữa lành của Chúa, và sự nhơ uế của bà theo luật trong sách Lêvi 15: 25 không còn nữa. Đức tin của bà vào Chúa Giêsu đã làm cho luật trở nên lỗi thời. Chúa Giêsu khẳng định điều này khi Người nói: “Này con, đức tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh”. Trung thành với lối hành văn của mình, thánh Marcô trở lại lời cầu xin của ông Giairô, một vị trưởng hội đường, để nhấn mạnh đến “đức tin vào quyền năng chữa lành của Chúa”. Ông trưởng hội đường cầu xin Chúa cứu giúp. Ông muốn con gái được Chúa chữa lành.
Nhưng trước hết Chúa Giêsu đã chữa lành cho ông trưởng hội đường. Người bảo ông: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi”. Rồi Người đến với đứa bé, cầm lấy tay nó và nói: “Này bé, Thầy truyền cho con trỗi dậy đi”. Lập tức, con bé đứng dậy và đi lại được. Nó đã được sống lại nhờ bàn tay của Chúa Giêsu, Đấng cứu chữa. Rõ ràng Chúa Giêsu cho thấy “nỗi sợ” là một chướng ngại ngăn cản con người đến với Chúa. Nhưng chúng ta vượt thắng nỗi sợ nhờ lòng tin vào Chúa Giêsu, Đấng chữa lành. Một khi nỗi sợ được thay thế bằng lòng tin vào Chúa Giêsu, chúng ta sẽ cảm nghiệm được sự chữa lành của Chúa, và sẽ được sống trong bình an.
Lạy Chúa, xin Chúa hãy nói với con một lần nữa: “Lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy đi bình an”.
Bài Tin Mừng là hai phép lạ Chúa Giêsu đã làm gần nhau: phép lạ cho một phụ nữ được khỏi bệnh băng huyết, và phép lạ cho con gái ông trưởng hội đường Gia-ia được sống lại. Chúng ta thấy hai phép lạ như có một số điểm tương đồng: người phụ nữ mắc bệnh đã 12 năm, bằng với số tuổi của em bé kia, vì Tin Mừng cho biết khi em chết em được 12 tuổi. Cả hai phép lạ xảy ra đều do hành động thể lý là chạm tay vào tua áo Chúa và Chúa cầm tay em bé đã chết. Chủ đề của hai phép lạ này là ơn Chúa ban qua lòng tin.
Trước hết, chúng ta thấy Chúa Giêsu nhận lời kêu xin của ông Gia-ia đi chữa bệnh cho con gái ông. Dân chúng đông đảo đi theo có vẻ háo hức và chen lấn, các môn đệ cùng đi bên Chúa. Giữa lúc ấy các môn đệ nhận ra một người đến quì trước Thầy mình, nhưng lúc ấy phép lạ đã xảy ra rồi, đó là một phụ nữ đầy lòng tin đã được Chúa cho khỏi bệnh. Thực vậy, giữa đám đông dân chúng dày đặc, phụ nữ này nhận ra một vị Thiên Chúa ẩn dật nhưng đầy quyền năng, bà không dám công khai trực tiếp xin Chúa trước mặt mọi người, có thể là vì xấu hổ hoặc ngại ngùng. Ngoài ra, bà cũng biết luật Lêvi cấm ngặt về loại bệnh này. Đối với người Do Thái, băng huyết là một bệnh được liệt vào số các chứng bệnh nan y và ô nhục, làm cho người bệnh ra dơ bẩn trước mặt Chúa và cộng đồng. Hơn nữa, chứng bệnh này còn làm cho người khác lây sự dơ bẩn của bệnh nhân, tức là họ đụng chạm đến ai hay ai đụng chạm đến họ đều trở thành dơ bẩn và phải dâng lễ tẩy uế mới được sạch.
Vì thế, bà thẹn thùng, e lệ không dám đến trước mặt Chúa xin Chúa chữa, nhưng bà có một lòng tin chắc chắn vào sức mạnh uy quyền toàn năng của Chúa. Bà tự nhủ: “Không cần phải ra mặt, chỉ cần đụng chạm vào tua áo khoác ngoài của Ngài thôi thì chắc chắn sẽ được khỏi”. Chúng ta thấy bà thật khiêm tốn, có thể so sánh với người đàn bà xứ Canaan, hoặc như người trộm lành. Vì thế, bất chấp tất cả những luật lệ phiền phức và nghiêm ngặt, bà lén đến sau lưng Chúa, để thực hiện ý định rút ơn Chúa, và kết quả bà đã được toại nguyện. Bà đã thể hiện đức tin một cách sâu sắc, như chính Chúa đã xác nhận và thưởng công cho lòng tin của bà: “Lòng tin của con đã cứu chữa con”.
Phép lạ thứ hai Chúa Giêsu đã làm là nơi nhà ông trưởng hội đường Gia-ia. Ông có đứa con gái mắc bệnh nặng thập tử nhất sinh, ông đến xin Chúa cứu chữa con ông. Lòng tin mạnh mẽ của ông được bộc lộ ra qua tất cả con người ông, nghĩa là qua các cử chỉ cũng như lời yêu cầu của ông. Thực vậy, khi đến trước mặt Chúa, ông quì sụp dưới chân Chúa, đây là một cử chỉ dành riêng cho Thiên Chúa Giavê trong Cựu ước, cử chỉ này chứng tỏ ông tin và nhận ra Chúa là Đấng Thiên Sai. Cử chỉ thứ hai là ông xin Chúa đến đặt tay trên con ông, cử chỉ này về sau được Giáo hội dùng vào bí tích Thêm sức. Rồi trong lời kêu xin, chúng ta cũng thấy bộc lộ lòng tin vững chắc của ông. Ông tin chắc chắn chứ không hồ nghi như người cha có đứa con bị quỷ ám từ lúc còn nhỏ. Người cha này thưa với Chúa một cách ngập ngừng: “Nếu Thầy có thể làm gì được thì xin Thầy giúp đỡ chúng tôi”. Nghe thế Chúa kêu lên: “Sao lại nói nếu có thể, tất cả mọi sự đều có thể đối với người tin tưởng”. Còn ông Gia-ia thưa Chúa: “Thưa Thầy, con bé nhà tôi gần chết rồi. Xin Ngài đến đặt tay trên cháu, để nó được cứu thoát và được sống”. Chúng ta thấy ông không hồ nghi gì, ông tin chắc chắn sự việc sẽ xảy ra như thế, nếu Chúa muốn, vì Ngài là Chúa sự sống và sự sống lại. Ngài động đến đâu thì sức mạnh và sự sống lan tràn tới đó. Nhận thấy lòng tin mạnh mẽ của ông, Chúa đi tới nhà ông và cho con gái ông sống lại.
Niềm tin, lòng tin hay đức tin thì không thể nhìn thấy, bởi vì nó không phải là vật chất, nó là một cái gì có thật, nhưng thuộc về tinh thần. Người ta không thể thấy được nó nhưng người ta có thể biết nó có nhờ khi nó biểu lộ qua hành động bên ngoài. Cũng như không ai nhìn thấy lòng tin của ông Gia-ia và của người đàn bà băng huyết, nhưng qua thái độ, lời nói và cử chỉ của họ đã biểu lộ lòng tin của họ. Cũng vậy, chúng ta có đức tin hay không, chẳng ai biết, nhưng khi thấy chúng ta đi lễ, thấy chúng ta đi vào nhà thờ nghiêm trang, người ta có thể biết được chúng ta là người có đức tin. Như thế, một điều chúng ta có thể ghi nhận là: đức tin chỉ ở trong lòng thôi thì chưa đủ mà còn phải biểu lộ ra bên ngoài nữa.
Vì thế, chúng ta cần phải có một đức tin mạnh mẽ như ông Gia-ia, hiên ngang mà không hổ thẹn, vững chắc chứ không hồ nghi. Đàng khác, chúng ta cũng cần có một đức tin kín đáo nhưng dẻo dai như lòng tin của người phụ nữ trên đây, bà không cần kêu xin nài nẵng như ông Gia-ia, bà chỉ có một thái độ khẩn khoản khiêm nhường và đầy tin tưởng trong tâm hồn, thế là đủ. Chúa cũng đang chờ đợi ở chúng ta những tâm tình như thế.
Chứng bệnh loạn huyết mười hai năm của người đàn bà, cái chết của đứa con gái yêu dấu, tất cả đều đem lại những khổ đau. Vậy thì khổ đau có ý nghĩa gì. Giáo lý nhà Phật đã gọi đời là bể khổ mà mỗi người chúng ta là như một cánh bèo trôi dạt trên đó. Đồng thời bốn nguyên nhân chính sinh ra khổ đau, đó là: sinh, bệnh,lão, tử.
Trong kinh lạy Nữ Vương, chúng ta cũng thường đọc:
– Chúng con ở nơi khóc lóc than thở.
Vì thế nhiều người đã có lý khi nói:
– Đời là một thung lũng nước mắt. Bông hồng nào mà chẳng có gai, cuộc đời nào mà chẳng có những đắng cai của nó…
Hơn thế nữa, nhìn vào cách đối xử của Thiên Chúa, chúng ta thấy có một sự khác biệt căn bản. Đúng thế, khi yêu thương ai chúng ta thường trao tặng cho họ những cánh hồng. Thiên Chúa thì trái lại, khi yêu thương ai, Ngài thường gửi đến cho họ những gai nhọn.
Điều này đã được chứng thực nơi con người Đức Kitô. Thực vậy, chúng ta có thể tự hỏi: Ai là người được Chúa Cha yêu dấu hơn cả nếu không phải là Đức Kitô. Đồng thời ai là người đã phải chịu nhiều khổ đau hơn cả, nếu không phải là Đức Kitô. Từ những điều vừa trình bày chúng ta đi tới một kết luận, đó là những người muốn bước theo Chúa, thì cũng phải vác thập giá và chấp nhận khổ đau.
Người tín hữu chấp nhận khổ đau sẽ là một hình ảnh trung thực nhất của Đức Kitô. Trái lại, người tín hữu chối từ đau khổ, thì chỉ là một bức vẽ tồi, làm sai lạc hình ảnh của Ngài mà thôi. Chúng ta phải xác tín rằng: Chính khi đau khổ lại là lúc chúng ta được Chúa yêu thương, lại là lúc chúng ta gần gũi Chúa hơn cả.
Trái lại, khi gặp được may mắn và hạnh phúc, lại là lúc chúng ta phải đề cao cảnh giác, bởi vì rất có thể chúng ta đang xa lìa tình Chúa và đang chôn vùi tình người bằng những hành động bất công và gian tham của mình. Hơn thế nữa, những giây phút hạnh phúc còn là những giây phút đáng sợ, còn là những giây phút ru ngủ chúng ta.
Trong đêm tối của đau khổ, chúng ta dễ dàng nhìn ra những ánh sao. Còn trong ngày nắng chói chang, những ánh sao ấy bị lấn át và biến mất.
Thánh Gioan đã định nghĩa: “Thiên Chúa là tình yêu”. Và tình yêu dưới một góc cạnh nào đó cũng có nghĩa là đau khổ. Vì thế, đạo của Thiên Chúa phải là đạo của tình yêu và cũng phải là đạo của đau khổ. Người tín hữu sẽ không thể sống đạo nếu không chấp nhận thập giá.
Vậy thì những đau khổ sẽ đem lại lợi ích gì?
- Tôi xin thưa lợi ích thứ nhất đó là cộng tác với Đức Kitô trong công cuộc cứu độ. Thực vậy, cuộc tử nạn của Chúa Giêsu không phải là đã chấm dứt, trái lại nó còn đang được tiếp nối nơi những chi thể của Ngài là các tín hữu như lời thánh Phaolô đã viết: “Tôi hoàn tất những gì còn thiếu sót trong cuộc tử nạn của Đức Kitô nơi thân xác tôi”. Những khổ đau chúng ta chấp nhận sẽ trở nên là một góp phần nhỏ bé vào thập giá Đức Kitô, để đền bù tội lỗi của bản thân cũng như của những người chung quanh.
- Lợi ích thứ hai đó là thanh luyện tâm hồn chúng ta. Thực vậy, có một câu danh ngôn đã bảo: “Con người là một anh học trò, còn đau khổ sẽ là một vị thầy tuyệt vời nhất”.
Thoạt nhìn qua, đau khổ là một sự dữ khiến cho chúng ta tuyệt vọng và muốn chống lại Thiên Chúa. Thế nhưng, dưới con mắt đức tin, đau khổ sẽ thanh luyện tâm hồn, củng cố các nhân đức, như tục ngữ đã bảo: “Lửa thử vàng, gian nan thử sức.
Chính nhờ những đau khổ, cuộc đời chúng ta mới sẽ đem lại những hoa trái: “Hạt lúa mì gieo xuống đất, phải mục nát, thì mới sinh nhiều bông hạt”.
Đau khổ là như một lưỡi kéo cắt tỉa cuộc đời, để cuộc đời được sai trái. Đau khổ là như một nhát búa đập xuống trên con người, để con người chúng ta trở nên một tác phẩm nghệ thuật trước mặt Thiên Chúa. Hơn thế nữa, nếu chúng ta biết chấp nhận vì lòng yêu mến Chúa, đau khổ sẽ trở thành những sợi chỉ vàng, kết nên cuộc đời chúng ta.
Trong những giờ phút đen tối, chúng ta hãy ngước nhìn thập giá Đức Kitô, vì chính tại thánh giá Đức Kitô đã đau khổ trước chúng ta và hơn chúng ta bội phần.
Khi chúng ta muốn xin ai hay thỉnh cầu ai điều gì, thì hoặc là chúng ta ưa thích điều đó, hoặc là chúng ta cảm thấy cần thiết điều đó, và chúng ta tin tưởng người kia sẽ đáp ứng được nhu cầu của chúng ta. Người đàn bà mắc bệnh băng huyết và người cha có đứa con gái bị bệnh nặng gần chết đã làm như thế. Cả hai đã tin Chúa Giêsu nên đến xin Chúa cứu chữa. Chính vì có lòng tin mạnh mẽ mà cả hai đã được hưởng phép lạ của Chúa Giêsu. Nhưng làm sao chúng ta thấy được hay biết được lòng tin của họ? Vì nó đã được biểu lộ ra qua thái độ, cử chỉ, lời nói và hành động của họ.
Chúng ta thấy người đàn bà này không dám công khai trực tiếp xin Chúa chữa bệnh cho bà trước mặt mọi người. Bà tự nhủ: “Tôi mà sờ được vào áo choàng của Người thôi, là sẽ được cứu chữa”. Thế là bất chấp tất cả những luật lệ cấm đoán phiền phức và khắt khe, bà lén lút chen tới sau lưng Chúa, để thực hiện ý định rút ơn Chúa, và kết quả bà đã được toại nguyện. Đó, chúng ta thấy được, biết được đức tin của bà qua việc làm đầy tin tưởng của bà. Chính Chúa Giêsu đã xác nhận và ban thưởng cho lòng tin ấy: “Lòng tin của con đã cứu chữa con”.
Trường hợp của ông trưởng hội đường Giaia cũng thế. Lòng tin của ông được biểu lộ qua tất cả con người của ông, nghĩa là qua cử chỉ, thái độ và lời nói của ông: Khi đến trước mặt Chúa Giêsu, ông đã quì sụp xuống dưới chân Chúa và khẩn khoản van xin: “Con bé nhà tôi gần chết rồi. Xin Ngài đến đặt tay lên cháu, để nó được cứu chữa và được sống”. Phải tin Chúa Giêsu là ai, phải tin Chúa có quyền phép thế nào ông ta mới có cử chỉ, thái độ và lời kêu xin như thế. Nhận thấy lòng tin mạnh mẽ của ông, Chúa Giêsu đã nhận lời đến nhà ông và làm phép lạ cho con gái ông sống lại.
Chúng ta hôm nay đã có đức tin, chúng ta đã tin Chúa Giêsu. Chúng ta phải làm gì? Chúng ta phải sống niềm tin đó. Sống niềm tin có nghĩa là chúng ta phải thể hiện niềm tin ấy trong đời sống hằng ngày. Đó là cách thẩm định đức tin của chúng ta. Niềm tin ấy, như Mẹ Têrêxa Calcutta đã nói: “Phải được biểu lộ và nuôi dưỡng, dù chỉ bằng một nụ cười hay một ánh mắt cảm thông”.
Một lần kia, trong cuộc phỏng vấn trên truyền hình, Mẹ Têrêxa phải đối diện với một phóng viên không mấy thiện cảm đối với Giáo Hội. Mẹ Têrêxa nói với ông: “Tôi nghĩ rằng ông nên có đức tin”. Người phóng viên hỏi: “Tôi phải làm gì để có đức tin?”. Mẹ Têrêxa đáp: “Ông hãy cầu nguyện”. Ông chống chế: “Tôi không biết và không thể cầu nguyện”. Mẹ Têrêxa dịu dàng nói: “Tôi sẽ cầu nguyện cho ông. Nhưng về phần ông, ông hãy cố gắng mỉm cười với những người chung quanh ông. Một nụ cười có thể đánh động được tâm hồn người khác. Một nụ cười có thể cho chúng ta cảm nghiệm được Thiên Chúa hiện diện trong cuộc sống chúng ta”.
Đúng thế, những hành động cụ thể thường hùng hồn hơn, có khả năng thuyết phục hơn những lời nói suông. Những thực hiện trước mắt có giá trị hơn những dự án viễn vông. Đó là cách thẩm định thông thường trong cuộc sống của chúng ta. Những người chung quanh có lẽ cũng đánh giá niềm tin của chúng ta khi nhìn vào cách sống đạo của chúng ta, nghĩa là niềm tin của chúng ta chỉ đáng tin cậy khi được thể hiện bằng những việc làm cụ thể. Vì thế, chúng ta tin vào tình yêu Chúa Kitô, tin vào bản thân Ngài. Niềm tin ấy không chỉ là một hạt giống gieo trong lòng chúng ta rồi nằm yên đấy. Một niềm tin như thế có lẽ chẳng ích lợi gì cho chính mình hay cho bất cứ ai. Đức tin của chúng ta phải trổ sinh hoa trái bằng việc làm, để mọi người có thể nhận ra khuôn mặt của Đấng mà chúng ta suy phục, tôn thờ.
Người đàn bà đến với Đức Giêsu đã tuyệt vọng, vì mười hai năm nay, bà chịu đau khổ vì một chứng bệnh và những lần chữa trị đau đớn và vô hiệu trong đôi tay của nhiều bác sĩ. Bà cũng đã trả tiền chữa trị cho đến những đồng bạc sau cùng. Bà đã tận dụng hết mọi khả năng chữa trị của con người.
Rồi bà nghe nói về Đức Giêsu. Bà tin rằng chỉ cần sờ vào áo của Người, bà sẽ khỏi bệnh (thời đó, người ta tin rằng chỉ cần sờ vào áo của một người thánh thiện sẽ được chữa lành). Bà tỏ quyết tâm khi chen qua đám đông. Tuy nhiên, bà không tìm cách gặp gỡ Đức Giêsu. Điều bà tìm là một sự “sờ lén”, “sờ vội”.
Thường thì, chúng ta cũng chọn cách “sờ lén” cho dù chúng ta biết rằng điều đó không làm chúng ta thỏa mãn và chúng ta bị đánh lừa. Chúng ta đi lễ vội vàng và xưng tội vội vàng (kể tội, đọc kinh ăn năn tội, nhận ơn tha thứ và chuồn!) Cũng thế khi đi khám bệnh – nhận toa thuốc và chuồn. Vả lại, chúng ta không thích bị đối xử một cách hấp tấp và vô danh. Vậy tại sao chúng ta lại chọn cách “sờ vội”? Bởi vì trong chúng ta, phần nào có sự e thẹn muốn tránh một sự gặp gỡ riêng tư. Tại sao lại thế? Bởi vì chúng ta biết rằng điều đó là đòi hỏi hơi nhiều. Chúng ta muốn đạt được điều đó một cách mau lẹ và phiền toái vất vả càng ít càng tốt.
Niềm tin của người đàn bà được tưởng thưởng. Bà mau chóng được chữa lành. Tuy nhiên ngay khi bà định lẩn vào đám đông vô danh. Đức Giêsu đã tìm thấy bà. Người không ưa chuộng cách chữa bệnh ấy. Một vài người chữa bệnh giản lược đến mức tối thiểu sự tiếp xúc nhân bản. Nhưng Đức Giêsu thì không. Người luôn luôn đối xử với con người trên một bình diện cá nhân. Mặt khác, Đức Giêsu biết có năng lực từ Người phát ra, chứng tỏ có người sờ vào áo Người để được chữa bệnh và lấy năng lực đó từ Người. Người khẳng định sự gặp gỡ mặt đối mặt với bà. Người không nghĩ đến mình nhưng nghĩ đến người đàn bà. Người biết sau đó bà sẽ lành bệnh; Người biết bà không những cần được chữa lành về thể chất và cả về mặt tâm lý và tinh thần. Sau bấy nhiêu năm bệnh tật bà cảm thấy mình xấu xa và Thiên Chúa cũng xa lánh bà.
Vì thế Người đã gặp bà. Trong cuộc gặp gỡ này, chúng ta thấy sự nhạy cảm và nhã nhặn của Đức Giêsu. Một người đàn bà bị băng huyết bị coi là ô uế về mặt nghi thức. Bà không được phép ở trong đám đông và khi sờ vào Đức Giêsu, bà đã làm cho Người cũng trở nên ô uế về mặt nghi thức, những người khác sẽ cho là thế. Đức Giêsu không quở trách bà về thái độ “đáng trách” ấy. Trái lại, Người khen ngợi đức tin của bà. Và đầy lòng yêu thương Người nói với bà: “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh”.
Nếu chỉ sờ vào Người không, chưa đủ. Những người khác cũng sờ vào Người. Bà sờ vào Người với đức tin, đức tin làm cho một người đàn bà nghèo nàn, nhút nhát, bệnh tật, hạ tiện có khả năng nhận ra quyền năng của Đức Giêsu, và làm cho quyền năng ấy tỏ hiện với một cái sờ. Đức Giêsu muốn bà hiểu rằng Người hạnh phúc cho bà. Khi nói với bà “Lòng tin của con đã cứu chữa con”, Người muốn bà hiểu rằng bà có góp phần vào việc chữa lành cho mình. Người xác nhận sự kiện bà được chữa khỏi. Điều này đem đến cho bà sự an ủi và bảo đảm. Điều ấy làm cho bà cảm thấy tốt đẹp biết bao. Điều ấy tốt đẹp hơn biết bao so với sự chữa lành, vô danh, hối hả và lén lút. Đức Giêsu làm cho bà cảm thấy như bà là người duy nhất trên thế gian này.
Trong việc trị liệu và chữa bệnh, vấn đề luôn luôn là con người toàn diện, chứ không bao giờ chỉ là triệu chứng. Người ta phải đặt ra những câu hỏi thách thức nhân cách toàn diện không phải chỉ có cái chân, hoặc cái tay được điều trị mà là một con người. Đức Giêsu không bao giờ chỉ chữa lành một bệnh, Người chữa lành một người bệnh. Lời Người chữa lành tinh thần: sự đặt tay của Người chữa lành thân xác.
Để thực hiện thành công một điều gì, chúng ta phải đặt vào đó một phần của chúng ta hoặc là đời sống hoặc là tâm hồn đến nỗi sau đó, chúng ta cảm thấy kiệt quệ. Điều này đặc biệt đúng đối với việc chữa trị.
Chữa trị có thể làm cho người chữa bệnh kiệt sức và đau đớn. Hành động chữa trị tự nó thường là một dịp để đau khổ. Chúng ta không thể cất đi sự đau đớn của một người mà không đi vào nỗi đau ấy một cách nào đó và ở một mức độ nào đó, dù chỉ là nỗ lực để hiểu người bệnh và làm cho người bệnh cởi mở với mình. Một cách nào đó, người chữa bệnh phải chịu đau khổ.
Một đôi khi, điều khiến người ta trở thành người chữa bệnh là một kinh nghiệm chính mình đã bị đau và đã được chữa lành. Người chữa bệnh cần ý thức về sự dễ bị tổn thương của mình. Chính họ dễ bị tổn thương và đó là một phần lý do khiến họ chữa bệnh. Đức Giêsu hoàn toàn dễ cảm thương cho người khác. Người nhận đau khổ của người khác cho mình: Người chịu đau khổ với mỗi người.
Dù khi ở giữa đám đông, nếu có người nào chạm vào Người và được chữa lành, Người biết ngay. Tại sao lại như thế? Bởi vì mỗi sự chữa lành đều lấy đi của Người một điều gì đó. Trong ngôn ngữ của Tin Mừng: “năng lực từ Người thoát ra. Và Người cảm thấy năng lực ấy thoát ra”. Chính năng lực ấy và đức tin của người bệnh tạo ra sự chữa lành.
Thỉnh thoảng Đức Giêsu chữa lành một người và để người ấy lấy đi bớt năng lực của Người. Sự cao cả của Người là Người sẵn sàng trả giá cho việc chữa lành những người khác. Chúng ta theo bước chân của Người khi chúng ta hiến dâng chính mình để giúp đỡ những người khác.
Mỗi người chúng ta có thể làm công việc chữa lành nào đó nếu chúng ta cho phép mình trở nên công cụ của Người. Chúng ta có thể không có khả năng chữa trị, nhưng có khả năng chăm sóc. Và chăm sóc cũng thuộc phần việc chữa trị. Chúng ta băng bó vết thương, nhưng chính Thiên Chúa làm vết thương lành.
Tuy nhiên, mỗi hành động chăm sóc cũng đòi chúng ta phải trả giá. Năng lực thoát ra khỏi chúng ta. Nhưng chúng ta chớ để mình kiệt sức. Nếu chúng ta luôn tiếp xúc với Chúa năng lực trong chúng ta được phục hồi liên tục.
Có những người luôn giữ được niềm tự tin và tính lạc quan. Tính cách này trở thành một thứ thuốc bổ cho người bệnh. Năng lực thoát ra từ họ và đi vào những người khác. Họ sung sướng khi giúp đỡ những người khác, và giúp đỡ những người khác là chữa lành.
Ở một mức độ nào đó, chúng ta đều bệnh tật. Nhưng chúng ta có xu hướng che giấu bệnh tật và thương tích của chúng ta. Người phụ nữ đến với Đức Giêsu mang bệnh nặng và trong trường hợp của bà, bệnh tật quá rõ ràng. Nhưng người ta có thể bị bệnh tật mà không xuất hiện ra bên ngoài. Họ mang những thương tật vô hình – cảm giác mình bị bỏ rơi, thất bại, không có phẩm giá, cô đơn, cay đắng, hờn giận… Vì thế, tất cả chúng ta cần được chữa lành.
Và tất cả chúng ta có thể là những người chữa trị. Đời sống chúng ta luôn luôn xúc phạm đến đời sống của những người khác. Với một chút thiện cảm, chúng ta có thể chữa lành những tâm hồn mang thương tích. Với một chút chăm sóc, chúng ta có thể làm cho một tâm trí, bối rối được nhẹ nhõm. Với một chút thời gian, chúng ta có thể làm vơi nhẹ nỗi đau của một người cô độc. Thỉnh thoảng mỗi người chúng ta nên dừng lại và tự hỏi: “Điều gì thoát ra từ tôi qua công việc, hành vi, và những mối quan hệ – điều gây tổn thương hay điều giúp chữa lành?”.
Chữa lành không chỉ là nhiệm vụ dành cho cá nhân. Nếu chúng ta có thể tạo ra những cộng đoàn ở đó mọi người có thể qui tụ, cùng làm việc và nâng đỡ nhau, lúc đó sự chữa lành trở thành một phần của đời sống hàng ngày.
Ông Giaia, ông trưởng hội đường đến gặp Đức Giêsu để xin Người chữa lành cho đứa con gái mười hai tuổi của ông. Mặc dù cô bé còn sống, nhưng giống như người đàn bà bị băng huyết rõ ràng không một quyền lực trần gian nào còn giúp được cô bé. Lời cầu xin của cha cô bé chứng tỏ rằng ông tin Đức Giêsu có một quyền lực siêu nhiên, đó là quyền lực chữa lành.
Đức Giêsu lập tức khởi hành đi đến nhà ông Giaia. Nhưng khi Người còn đi trên đường các người nhà ông trưởng hội đường đến báo tin con gái ông đã chết, và họ gợi ý không nên làm phiền Đức Giêsu nữa. Thực ra họ muốn nói rằng ngay cả quyền lực của Đức Giêsu không thể thắng nổi sự chết. Chúng ta thấy cùng một thái độ tuyệt vọng ấy được diễn tả trong sự than khóc của những người đưa đám. Nhưng Đức Giêsu không biết đến những lời của các người nhà đưa tin. Người quở trách và sau cùng đuổi họ ra ngoài. Niềm hy vọng trong sáng của Người tương phản rõ rệt với sự tuyệt vọng của những người ở xung quanh Người. Người thuyết phục ông trưởng hội đường Giaia phải có đức tin để tin rằng cả cái chết của con gái nhỏ của ông không nằm ngoài quyền lực của Người. “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi”. Đức Giêsu vào phòng của cô bé cùng với cha mẹ và ba người môn đệ. Rồi Người cầm lấy tay em bé và nói: “Này bé, Thầy truyền cho con hãy đứng dậy”. Lập tức cô bé đứng dậy và đi lại được. Đức Giêsu bảo họ cho cô bé ăn. Có một sự dịu dàng và cảm động trong cảnh tượng ấy. Đức Giêsu bày tỏ tình yêu thương của Người đối với cô gái nhỏ và cha mẹ của cô bé. Chúng ta phải làm gì từ câu chuyện này? Chúng ta phải hỏi các Kitô hữu tiên khởi đã làm gì. Họ cũng chịu đau khổ vì bệnh tật và các thành viên trong cộng đoàn của họ đã qua đời.
Đối với Marcô và các độc giả của ông, câu chuyện là một biểu lộ quyền năng của Chúa Phục sinh chiến thắng chính sự chết. Đức Giêsu làm cho cô bé đã chết đứng dậy bởi vì Người là “Sự sống lại và là sự sống”. Tin vào Đức Giêsu có thể biến đổi đời sống và là chiến thắng trên cái chết. Đó là ý nghĩa câu chuyện này đối với các Kitô hữu tiên khởi.
Đối với những người tin Đức Giêsu, cái chết chỉ là một giấc ngủ mà Người có thể và sẽ đánh thức họ dậy. Trong trường hợp của hầu hết các Kitô hữu, sự đánh thức này sẽ không xảy ra trong đời này, nhưng trong thế giới sẽ đến. Vì thế các Kitô hữu tiên khởi đã mô tả người chết “đang ngủ” bởi vì họ tin rằng một ngày kia họ sẽ được đánh thức dậy, cũng như người đang ngủ được đánh thức. Các Kitô hữu đầu tiên đã dùng từ koimeterion để chỉ nơi an táng và có nghĩa là “nơi nằm ngủ”. Từ chữ koimeterion về sau xuất hiện chữ “cemetery” trong tiếng Anh. Cả hai câu chuyện Tin Mừng cho thấy khi không còn hy vọng, xét về mặt nhân tính thì quyền năng của Thiên Chúa có thể chiến thắng bệnh tật và cả sự chết, Marcô nói với chúng ta rằng quyền năng ấy hiện diện trong Đức Giêsu.
Giả sử như chúng ta đã đi hết nửa đoạn đường, sắp bước chân qua cầu để sang bờ bên kia đi tiếp đoạn đường còn lại, thì bỗng chiếc cầu sụp đổ rơi tòm xuống sông. Khi đó chúng ta làm thế nào? Chắc là muốn quay trở về đoạn đường cũ.
Người đàn bà mắc bệnh loạn huyết và ông Giairô cũng lâm vào một tình cảnh khó xử như vậy:
- Hoại huyết là một chứng bệnh dơ dáy. Người Do thái không chỉ thấy nó dơ dáy về mặt thể lý mà còn coi nó là một thứ ô uế luân lý. Cho nên có luật cấm những kẻ mắc bệnh đó không được đụng chạm tới người khác, chạm tới ai thì người ấy kể như bị lây ô uế đó. Người phụ nữ bị bệnh loạn huyết này cũng không dám cất tiếng kêu xin Đức Giêsu vì sợ người ta biết mình bệnh và xua đuổi mình. Bà định im lặng rờ vào mình Đức Giêsu. Nhưng vậy là phạm luật thánh, là có tội: thật là khó xử.
- Còn ông Giairô thì xin Chúa đến chữa trị cho con gái mình đang bệnh nặng. Đức Giêsu đã chấp thuận, nhưng khi hai người đang trên đường về nhà ông thì ông được tin con gái đã chết. Vậy là hết, vô phương cứu chữa nữa!
Cả bà hoại huyết và ông Giairô đều như sắp bước qua cầu thì chiếc cầu sụp gãy. Thế nhưng họ không quay trở lại bỏ dở đoạn đường. Họ vẫn cố gắng tiến bước:
- Bà hoại huyết không dám rờ vào mình Đức Giêsu thì rờ vào cái tua áo của Ngài vậy.
- Còn ông Giairô thì trong lúc chới với đó đã nghe Đức Giêsu an ủi “Đừng sợ, cứ tin”. Và kết quả là bà kia dứt bệnh, con gái ông Giairô sống lại. Đức tin của họ đã nối lại nhịp cầu gãy.
Trên đây là hai trường hợp giúp chúng ta hiểu bản chất của đức tin và sức mạnh của đức tin.
- Tin vào những chuyện dễ dàng, tin khi cuộc sống bình an xuôi thuận thì chưa hẳn là đức tin, đó chỉ là một chuyện đương nhiên thôi.
- Đức tin, một nhân đức căn bản của đạo, phải là vẫn cứ tin vào những chuyện khó khăn vượt quá sức loài người, vẫn cứ tin khi cuộc đời gặp lúc cheo leo. Đức tin vững vàng như vậy có thể làm nên những phép lạ, bởi vì trước một hoàn cảnh quá khó khăn, trong lúc đời sống quá gian nan, nếu ta vẫn tin thì không phải là ta tin vào sức riêng của ta nữa, mà là tin vào sức Chúa, và Chúa thì có thể là được hết mọi sự.
- Như Abraham đã 90 tuổi mới có được một đứa con trai, nhưng vâng lệnh Chúa ông đưa con lên núi sát tế và lòng đau như cắt mà vẫn tin rằng Chúa sẽ thực hiện lời hứa làm cho ông thành tổ phụ một dân đông đảo. Ông vẫn tin và quả thực Chúa đã làm ông thành tổ phụ những người tin. – Như Phêrô dám bước đi trên mặt nước biển, và ông đã đi được bao lâu ông còn tin vào Chúa. Nhưng khi ông bắt đầu hoài nghi thì cũng là lúc ông bắt đầu chìm xuống.
Chúng ta là những tín hữu, nghĩa là những kẻ tin Chúa. Bấy lâu nay chúng ta vẫn tin Chúa. Nhưng có lẽ bấy lâu nay tin Chúa là điều dễ dàng đối với ta, tin Chúa ta được bình an, tin Chúa đời ta thoải mái, gia đình ta yên vui, việc làm của ta xuôi chảy. – Có một người mẹ kia có một đứa con nhỏ rất dễ thương, vừa biết nói chuyện đã học đọc kinh, hát thánh ca. Rồi nó lâm bệnh, người mẹ cầu nguyện hết sức, nhưng nó vẫn chết. Từ đó người mẹ không còn cầu nguyện nữa, hình như chị đã hết tin.
Chúng ta cũng đã từng dự những đám táng: khi chiếc quan tài được hạ huyệt, người ta khởi sự lấp đất lại và trong lúc đó cũng khởi sự đọc kinh Tin Kính “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại”. Biết bao người đã vừa đọc câu đó mà nước mắt ròng ròng.
- Cũng có một ông kia từ ngày gia đình làm ăn sa sút đã đem tượng Chúa quăng ra ngoài sân và từ đó không còn giữ đạo.
- Và biết bao người đã thành thật thú nhận cùng cha giải tội: “Con đã ngã lòng rồi!” Cũng như có biết bao người những khi buồn khổ đời không cầu nguyện.
Chúng ta hãy cầu xin Chúa thật nhiều cho những người đáng thương kể trên. Và cầu xin cho chính chúng ta được một đức tin vững chắc để không phải chỉ tin Chúa ngày hôm nay khi đời ta còn bình an, vui vẻ. Nhưng vẫn còn đủ sức để tin nếu mai ngày chúng ta rơi vào một hoàn cảnh khó khăn thử thách. Xin Chúa giúp chúng con vẫn cứ tin luôn, tin rằng Chúa luôn thương yêu chúng con. Xin Chúa giúp chúng con vẫn cứ tin luôn cho dù gặp bao gian nguy.
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại hai việc làm của Đức Giêsu. Những việc này không chỉ nhằm chứng tỏ quyền năng của Chúa trên bệnh hoạn và sự chết, mà còn cho chúng ta thấy thái độ và lập trường của Chúa đối với những luật khắt khe và khô cứng của đạo Do thái thời đó.
Trước hết là việc Chúa chữa cho một người đàn bà mắc bệnh loạn huyết. Theo luật Do thái, người nào mắc chứng bệnh này thì đương nhiên bị liệt vào hàng dơ dáy, ô uế, cho nên không được vào đền thờ, không được tham dự các lễ nghi phượng tự, và cũng không được đụng tới ai vì hễ ai mà bị người ô uế đụng phải thì cũng trở thành người ô uế luôn. Khỏi cần nói nhiều, chúng ta cũng hiểu bà này đau khổ như thế nào. Trong cơn đau khổ, bà đã nảy ra một ý tưởng táo bạo là tìm cách đụng vào gấu áo Đức Giêsu. Ý định này táo bạo ở chỗ là việc đó trái lề luật, và cũng chẳng ai chịu cho bà ta đụng vào mình đâu vì sợ bị lây nhiễm sự ô uế. Vì thế mà bà này phải làm một cách lén lút. Dù vậy Đức Giêsu vẫn biết. Khi Đức Giêsu hỏi “Ai đã đụng đến Ta?” thì bà ta sợ hãi vì thấy việc làm của mình đã bị bại lộ. Nhưng bà ta ngạc nhiên hết sức vì Đức Giêsu chẳng hề quở trách bà một lời nào, trái lại còn làm cho bà khỏi bệnh, và còn an ủi bà “Con hãy đi bình an”.
Sang câu chuyện của ông Giairô. Ông là trưởng hội đường, nghĩa là một viên chức tôn giáo, một người có trách nhiệm bảo vệ luật đạo. Trước đó ông đã đến xin Đức Giêsu đến nhà ông chữa trị cho con gái ông sắp chết. Đang khi Đức Giêsu cùng đi với ông về nhà thì xảy ra câu chuyện của người đàn bà mắc bệnh loạn huyết mà ta vừa nói ở trên. Bà này đã đụng vào Đức Giêsu nên theo luật thì Đức Giêsu đã trở thành người ô uế. Nếu Đức Giêsu mà vào nhà ông thì cũng theo luật đó, tới phiên nhà ông cũng bị lây nhiễm ô uế luôn. Và việc đó sẽ gây hậu quả to lớn bởi vì như ta đã biết, ông là trưởng hội đường, nếu ông không giữ luật mà còn để nhà ông bị Đức Giêsu làm thành ô uế thì có thể ông mất chức luôn. Đang lúc đó thì lại xảy thêm một diễn tiến nữa: Người nhà ông chạy đến cho hay là con gái ông đã chết rồi, đừng làm phiền Đức Giêsu nữa. Trước những sự kiện dồn dập như thế, ông Giairô không còn ý định mời Đức Giêsu về nhà mình nữa. Nhưng Đức Giêsu bảo ông: “Đừng sợ gì cả (nghĩa là: ông đừng sợ làm phiền tôi, cũng đừng sợ bị lây ô uế), điều cần nhất là lòng tin”. Giairô đã tin Chúa, không còn ngại sợ gì nữa, mời Chúa về nhà, Đức Giêsu cầm lấy tay đưa đứa bé đã chết và truyền cho nó sống lại. Thêm một chi tiết đáng lưu ý: Theo luật thì xác chết cũng là một thứ ô uế, ai đụng tới xác chết thì sẽ bị nhiễm ô uế. Nhưng ta đã thấy, một lần nữa Đức Giêsu đã tỏ ra bất chấp…
Sau khi nghe giải thích hai việc làm táo bạo của Đức Giêsu, chúng ta nghĩ sao về Chúa? Có phải Ngài chủ trương phá bỏ tất cả mọi lề luật không? Chắc chắn là không, bởi vì Ngài đã từng tuyên bố rõ: “Các ngươi tưởng là Ta đến để hủy bỏ lề luật ư? Không, Ta không phá bỏ mà Ta làm cho trọn lề luật. Ta nói thật: cho dù trời đất có qua đi, nhưng không một chấm một phết nào của lề luật sẽ qua đi, cho đến khi tất cả được nên trọn”. Nghĩa là những việc là của Đức Giêsu, thoạt xem thì có vẻ như chống đối lề luật, thực chất là nhằm làm cho lề luật được kiện toàn. Thời đó, người ta chỉ giữ luật theo cái hình thức, Đức Giêsu muốn cho cái hình thức ấy có thêm cái tinh thần, chính đó mới là cái cốt tủy của lề luật, đó mới là điều quan trọng. Có lần Đức Giêsu đã nói thẳng với bọn luật sĩ và biệt phái chỉ biết chăm lo giữ cái hình thức khô cứng của lề luật mà không để ý gì đến tinh thần lề luật. Chúa nói rằng: “Các ngươi chỉ là những cái mồ mả. Bên ngoài thì sơn phết đẹp đẽ, nhưng bên trong thì chứa toàn những sự thối tha”. Khi bàn về sự tinh sạch và ô uế, Đức Giêsu đã khẳng định rằng tinh sạch hay ô uế thật là do lòng người chứ không do hình thức bên ngoài. Ngài nói: “Cái gì làm cho người ta ra ô uế? Không phải những cái từ bên ngoài vào (như đồ ăn, thức uống), mà là cái từ bên trong bài tiết ra”.
Như vậy, lập trường của Chúa Giêsu rất rõ ràng: điều quan trọng cốt lõi của lề luật chính là cái tinh thần của nó. Kẻ nào chỉ bo bo giữ cái hình thức bề ngoài mà quên cái tinh thần cốt lõi của lề luật thì cũng như mồ mả tô vôi, bề ngoài thì đẹp, nhưng bề trong thì xấu xa hôi thối.
Đối với Chúa Giêsu, điều quan trọng cốt lõi của mọi khoản luật chính là cái tinh thần của nó. Kẻ nào chỉ bo bo giữ cái hình thức bề ngoài mà quên cái tinh thần cốt lõi của lề luật thì cũng như những mồ mả tô vôi bề ngoài thì đẹp đẻ, nhưng bề trong thì xấu xa hôi thối. Vật chúng ta sẽ phải sống làm sao?
– Thứ nhất là việc dự lễ:
Bên các nước tiến bộ, ngày nay có một vấn đề được đặt ra, khá ngộ nghĩnh: người ta hỏi có được phép ngồi ở nhà dự thánh lễ được truyền qua màn ảnh vô tuyến truyền hình, khỏi cần đi đến nhà thờ được không? Giáo Hội đã trả lời dứt khoát là không được. Bởi vì dự lễ kiểu đó chỉ là một hình thức cho có cho rồi, chẳng có một chút tâm tình tôn thờ, yêu mến, kết hợp với Thánh Thể. Chuyện bên Tây thì vậy, nhưng bên ta cũng có chuyện tương tự như vậy: nhiều người đi dự lễ nhưng không muốn vào nhà thờ cho dù trong nhà thờ vẫn còn chỗ. Họ đứng ở ngoài, miễn sao là có hướng vào nhà thờ, mắt nhìn về phía bàn thờ. Vậy thì có khác gì xem lễ qua Tivi đâu? Chỉ là hình thức, chẳng có tâm tình.
– Thứ hai là luật thánh hóa ngày Chúa nhật:
Điều răn thứ ba dạy ta phải thánh hóa ngày Chúa nhật. Nhiều người nghĩ rằng thánh hóa ngày Chúa nhật chỉ là đi xem lễ. Từ quan niệm đó, ai mà có dự lễ thì gọi kể là xong hết bổn phận. Còn ai lỡ kẹt chuyện gì đó không đi xem lễ được thì cũng kể như mình đã lỡ, thôi đành vậy. Chúng ta hiểu điều răn thứ ba như vậy là hời hợt quá, chỉ phớt qua một hình thức bề ngoài là dự lễ thôi. Thực ra điều răn này dạy ta phải thánh hóa ngày Chúa nhật. Thánh hóa là làm cho ngày đó nên thánh thiện. Mà muốn làm cho ngày đó nên thánh thiện thì dự lễ chỉ là một việc, ngoài ra còn dành nhiều thời giờ của ngày đó để làm những việc Chúa muốn, như đọc kinh cầu nguyện nhiều hơn, làm thêm những việc lành, lưu ý đến kẻ khác hơn bằng cách dùng ngày nghỉ đó để tới lui thăm viếng, truyện trò, an ủi nhau, giúp đỡ nhau…
– Thứ ba là việc sống đạo giữa đời:
Mọi lề luật được đặt ra không phải chỉ là để cho có “hình thức, mà để giúp cho con người có thể sống đạo tốt hơn. Nhưng sống đạo là gì? Không phải chỉ là chu toàn một số hình thức đạo đức như đọc kinh, dự lễ, chịu các bí tích. Sống còn là làm việc, là làm ăn buôn bán, giao tế, biết xử sự tốt, trước những va chạm, khó khăn xảy ra hàng ngày. Giáo Hội thường nói “Sống đạo giữa đời”. Hội đồng Giám mục Việt Nam còn nói rõ hơn: sống đạo là “Sống Tin mừng giữa lòng dân tộc”. Cho nên chỉ mới có đọc kinh xưng tội, dự lễ thì chưa phải là sống đạo, mà chỉ là giữ một số hình thức của luật đạo thôi. Khi nào chúng ta biết để ý làm ăn theo lương tâm của người Kitô hữu, cư xử với mọi hạng người theo tinh thần bác ái của Tin mừng thì mới đúng là chúng ta sống đạo thật sự.
Mười điều luật Chúa và sáu điều luật Hội thánh ai trong chúng ta cũng thuộc lòng từ nhỏ. Hình thức bề ngoài của những luật đó là đọc kinh, dự lễ, xưng tội, ăn chay v.v… Nhưng tinh thần của chúng là “mười điều răn ấy tóm về hai điều này thôi: mến Chúa và yêu người”. Chúng ta hãy cố gắng đem tinh thần yêu thương ấy vào tất cả mọi sinh hoạt của chúng ta, không những chỉ có các sinh hoạt ở nhà thờ mà còn các sinh hoạt làm ăn, buôn bán, giao tế, buồn vui sướng khổ hằng ngày nữa. Đó mới thực sự là sống đạo giữa đời.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
“Nếu tôi chạm vào gấu áo của Nguời thì tôi sẽ được khỏi bệnh” (Mc 5, 28). Sự đụng chạm này đã linh nghiệm. Người phụ nữ được chữa lành khỏi bệnh băng huyết. Sức khoẻ của bà được phục hồi. “Người cầm lấy tay em bé và nói: Talithakum… lập tức em bé đứng dậy và đi lại được”(Mc 5,41-42). Cái cầm tay này đã linh nghiệm. Em bé đã được hồi sinh. Ôi, có những cái đụng chạm tuyệt vời, những cái đụng chạm làm phát sinh điều tốt đẹp. “Thầy coi, đám đông chen lấn Thầy như thế mà Thầy còn hỏi: Ai đã chạm đến Ta?” (c. 31). Quả thật, trong một ngày, một tuần… không biết bao lần ta đụng chạm, tiếp xúc với tha nhân cách này hay cách khác. Có nhiều cái đụng chạm, tiếp xúc hoá thành sự gặp gỡ và phát sinh hiệu quả tốt đẹp nhưng cũng có nhiều cái đụng chạm, tiếp xúc trở nên sự đụng độ và gây ra hậu quả chẳng hay. Khi sinh thời, rất nhiều người đã tiếp xúc với Chúa Giêsu và họ đã hưởng nhận biết bao ơn lành. Tuy nhiên cũng không ít người tiếp xúc với Chúa mà kết quả xem ra xấu xa và tồi tệ hơn chẳng hạn như một số các luật sĩ, biệt phái… Có thể khẳng định cái yếu tố khiến cho những sự tiếp xúc phát sinh những kết quả trái ngược như thế, đó là ý hướng, thái độ của người tiếp xúc: tin tưởng hay hoài nghi vì đố kỵ.
“Này bà, lòng tin bà đã cứu chữa bà. Bà hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh”. “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi” (Mc 5,34.36). Những lời của Chúa Giêsu nói với người phụ nữ bị băng huyết và với ông trưởng hội đường khiến ta liên tưởng đến lòng tin. Thật vậy, đọc Tin Mừng ta phải chân nhận rằng chính do bởi lòng tin của người ta mà Chúa Giêsu đã làm phép lạ để chữa lành bệnh tật, xua trừ ma quỷ hay phục sinh kẻ chết… Hình như chỉ mỗi một lần Chúa biểu dương uy quyền để củng cố đức tin người ta như phép lạ hoá nước thành rượu tại Cana. Tuy nhiên xét cho cùng, phép lạ ấy cũng được xuất phát từ lòng tin của Mẹ Maria. Mẹ đã vững tin nên dù nghe câu trả lời như từ chối của Chúa Giêsu thì Mẹ vẫn biểu gia nhân: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (Ga 2,5). Niềm tin làm phát sinh nhiều hiệu quả tốt đẹp lạ thường. Niềm tin giúp ta vượt qua nhiều trở ngại, khó khăn. Niềm tin có sức chữa lành tật bệnh và khiến ta vui sống. Quả thật nếu không có lòng tin ở nhau thì ta thật khó mà tồn tại và phát triển. Chúa Giêsu đã từng nói với các môn đồ: Nếu các con có lòng tin bằng hạt cải thì các con có thể lấp biển, dời non. Điều kiện có vẻ như tiên quyết mà Chúa Giêsu đòi hỏi ở những ai muốn Người thi ân giáng phúc đó là tin vào Người.
Tin Mừng còn cho ta hay rằng có không ít Thượng tế, luật sĩ và biệt phái không tin vào Chúa Giêsu. Một trong những nguyên cớ khiến họ không tin vào Chúa Giêsu đó là lòng ganh tương đố kỵ. Bài đọc thứ nhất, sách Khôn ngoan nói rõ: “Chính vì quỷ dữ ganh tị mà cái chết đã xâm nhập thế gian. Những ai về phe nó đều phải nếm mùi cái chết” (Kn 2,24). Vì lòng ganh tương đố kỵ mà nhiều người đang lãnh đạo Do Thái giáo thời bấy giờ dù có tiếp xúc với Chúa thì cả “những cái họ đang có cũng sẽ bị lấy mất”.
Ganh đua và ganh tị xem ra gần giống nhau ở đích nhắm. Cả hai đều không muốn kẻ khác hơn mình. Trong khi người ganh đua thì tìm cách học hỏi, nỗ lực rèn luyện…để vươn lên cho hơn người thì kẻ ganh tị chỉ loay hoay tìm cách hạn chế, hạ bệ kẻ khác để họ phải thua mình. Dĩ nhiên, kẻ ganh tị sẽ không trừ một thủ đoạn nào. Đặc biệt khi kẻ ganh tị lại lợi thế hơn nhờ chức quyền, địa vị thì thủ đoạn sẽ tinh vi và nhiều khi đi đến chỗ bất nhân cách trắng trợn nếu không muốn gọi là vô liêm sỉ. Như lời tác giả sách Khôn ngoan thì đằng sau kẻ ganh tị luôn có bóng dáng của Thần Dữ và hậu quả là “sự chết” cho cả người bị ganh tị lẫn kẻ ganh tương đố kỵ.
Mẹ Hội Thánh, đặc biệt từ sau Công Đồng Vaticanô II luôn cổ võ con cái mình tích cực gặp gỡ, đối thoại với thế giới, với anh em khác đạo và với cả anh em vô thần. (x.MV 92; TG 12). Ai cũng mong cuộc gặp gỡ, đối thoại giữa ta và tha nhân mang lại kết quả. Thánh Công Đồng dạy ta cần phải khiêm tốn lắng nghe trong chân thành và sẵn sàng đón nhận những khác biệt chính đáng của tha nhân. Để có được thái độ này tiên vàn ta phải có lòng tin vào tha nhân. Tin vào thiện ý và thiện chí của nhau là tiên đề của mọi cuộc tiếp xúc hay đối thoại.
Chúa Giêsu đã làm guơng cho ta về thái độ này. Ngoại trừ một số người mà Chúa Giêsu đã biết rõ lòng dạ chai đá của họ, thì để khơi gợi lòng tin nơi những người mà Người gặp gỡ, Người thường đi bước trước bằng cách tin vào họ. Chính nhờ tin vào một chút thiện hảo nơi tấm lòng thiếu phụ Samaria bên bờ giếng Giacop, Chúa Giêsu đã đốt lên niềm tin của chị. Tin Mừng thứ tư đặc biệt nhấn mạnh đến chủ đề lòng tin. Những bài tường thuật về công việc của Chúa Giêsu cũng như những bài diễn từ khá dài của Người thường xoay quanh chủ đề lòng tin. Mặc dù thấy rõ sự cứng lòng tin của nhiều người Do Thái thế mà Chúa Giêsu vẫn không ngừng rao giảng và dùng việc làm để minh chứng cũng đủ cho ta thấy Chúa luôn hy vọng, tin tưởng. Chúa ban ơn tha thứ vì Người tin ở chúng ta. Chúa không ngần ngại sửa dạy cả những người có chức có quyền thời bấy giờ vì Người tin tưởng sẽ có ngày họ đổi thay.
Giữa Hội Thánh và Chính Quyền các cấp, giữa ta và anh chị em lương dân hay khác đạo, giữa ta với ta, bậc bề trên và người bề dưới trong đạo, điều lý tưởng là có sự tiếp xúc chứ không phải đụng độ, có sự đối thoại chứ không phải đối đầu. Để lý tưởng này được hiện thực, thiết nghĩ cần phải có lòng tin vào nhau. Những người biệt phái, tư tế, luật sĩ thời Chúa Giêsu, họ thiếu lòng tin thường là do bởi lòng ganh tị. Họ ganh tị vì không muốn cái anh thợ mộc Giêsu này hơn mình hay qua mặt mình.
Lòng tin thường phát xuất từ tình yêu. Hiện thực cuộc sống cho ta thấy điều này: tình yêu đến trước rồi đôi nam nữ dần tin nhau chứ không phải vì họ tin nhau trước rồi họ mới yêu nhau. Để xây dựng lòng tin, trước hết ta hãy có một chút tình. Ta hãy đi bước trước trong việc yêu thương như Chúa Giêsu yêu thương. Nguời không chỉ chăm sóc các môn đệ mà còn tìm mọi cách để cho các ông sinh hoa kết trái và tạo điều kiện để các ông “làm được nhiều việc lớn lao hơn cả những việc Người làm” (x.Ga 14,11-12).
Nếu như Chính Quyền không sợ Hội Thánh gây ảnh hưởng hay ngược lại, nếu như các tôn giáo không sợ nhau chiêu mộ tín đồ, nếu như bề trên không sợ bề dưới tài giỏi hơn mình và nếu… thì sự tiếp xúc, đối thoại chắc chắn sẽ hiện thực. Khi đã có lòng tin ở thiện ý và thiện chí của nhau thì sự gặp gỡ sẽ ở trong tầm tay chúng ta và kết quả là nhiều điều tốt đẹp sẽ diễn ra trước mắt chúng ta.
MINH HỌA LỜI CHÚA
- Lòng tin của con đã chữa con
“Một bà bị băng huyết đã mười hai năm… Bà tự nhủ: Tôi mà sờ được áo Người thôi là sẽ được cứu” (Mc.5,28).
Sandra Hook là giáo viên người Canada đang làm công tác tự nguyện cho mẹ Têrêsa tại những khu ổ chuột Ấn độ. Một ngày kia cô được giao cho tắm rửa một phụ nữ bị ốm. Cô rùng mình sợ hãi khi nghĩ đến việc đó. Chợt cô nhớ lời mẹ Têrêsa:
“Khi chạm vào một người nghèo, bạn hãy làm như thể bạn đang chạm vào Chúa Giêsu tình yêu”. Lúc đó, cô Sandra nhìn người nữ ốm đau với con mắt đức tin, và thấy chẳng khó khăn gì phải tắm rửa cho cô ta.
***
Đó cũng là cách biểu lộ đức tin đơn sơ đã chữa lành người đàn bà trong Tin mừng hôm nay: “Bà tiến đến phía sau Chúa Giêsu, chạm vào áo Người… Tức khắc máu cầm lại…”
Niềm tin đơn sơ như trẻ thơ là gì? Làm thế nào để đạt được và làm cho nó trở nên sâu sắc hơn? Cái gì ngăn cản tôi trở nên hơn trong đức tin? “Đức tin là con mắt để nhìn thấy Ngài, là bàn tay để nắm lấy Ngài, là sức mạnh giúp ta tự hiến cho Ngài” (James Woodbridge) (Trích “Viễn tượng 2000”).
- Cộng tác với ơn Chúa
Một bà mẹ đau nặng. Bà làm tuần cửu nhật xin Chúa chữa, vì bà biết trong lúc đi giảng đạo Chúa đã chữa cho người đàn bà bị loạn huyết khỏi bệnh.
Hết tuần 9 ngày, bà vẫn còn đau. Bỗng có một Linh mục đến thăm. Thấy bà bị đau nhức quá thì bảo:
– Tôi cho bà địa chỉ của ông nha sĩ tài giỏi đây. Bà chịu khó đến đó nói là tôi giới thiệu. Ông ấy sẽ chữa cho bà hết ngay.
Bà liền la lên:
– Cha vô thần à? Cha không tin Chúa chữa con hết sao?
***
Thật tội nghiệp cho bà. Bà cầu xin Chúa chữa bà. Chúa nhận lời cho vị Linh mục đến mà bà không chấp nhận. Người đàn bà bị xuất huyết trong Tin mừng và bà cụ trên đây đều tin Chúa. Nhưng lòng tin của hai người hoàn toàn khác biệt. Người đàn bà bị xuất huyết nghĩ mình phải làm gì đó chớ không tin suông. Bà đã đến với Chúa, sờ vào áo Chúa và bà được chữa khỏi. Còn bà bị đau răng ngồi chờ phép lạ, không chịu làm gì, nên vẫn bị đau.
Cộng tác với Chúa là điều kiện tối cần để được Chúa cứu chữa. Thánh Inhaxiô Lôyôla đã cho chúng ta lời khuyên bất hủ: “Hãy làm như thể mọi việc tùy thuộc chúng ta, và hãy cầu nguyện như thể mọi việc tùy thuộc Thiên Chúa”. Và Mc Kenzie bảo: “Khi ta cố gắng làm những gì có thể, Thiên Chúa sẽ làm những điều ta không thể”.
Ngạn ngữ Việt Nam có dạy: “Tận nhân lực, tri thiên mạng”. Và ngạn ngữ Tây phương cũng nói: “Hãy tự giúp mình trước, rồi Trời sẽ giúp sau”.
Trong các phép lạ Chúa làm, Người đều cần sự cộng tác của con người. Trong tiệc cưới Cana, Chúa chỉ làm phép lạ khi các người giúp việc đã “múc nước đổ đầy các chum” (Ga.2,7). Trong phép lạ hóa bánh ra nhiều, Người đã dùng “5 cái bánh và 2 con cá” của một em bé (Mc.6,35-43). Khi chữa mắt cho người mù từ lúc mới sinh, Chúa chỉ thoa bùn vào mắt, và anh phải đi rửa ở hồ Silôê (Ga.9,1-40).
Thiên Chúa muốn chúng ta sử dụng hết khả năng của mình, rồi Người sẽ cứu chữa hồn xác chúng ta. (Theo “Như Thầy đã yêu”).
- Sứ điệp của tờ giấy
Một tờ giấy trắng nằm lì trên bàn với nhiều tờ khác. Một hôm nó được đem ra chịu cây viết vẽ lên nhiều dấu hiệu nó không biết gì. Nó phàn nàn với cây viết:
“Anh làm gì thế? Anh vẽ lên mình tôi những dấu gì làm tôi mất sự trong trắng. Anh làm nhục tôi quá vậy. Anh làm dơ bẩn cả đời tôi!…
Cây viết bình thản trả lời:
– Anh giấy hiểu lầm tôi rồi. Tôi không làm dơ bẩn thân anh đâu. Tôi vẽ lên anh những dòng chữ, để từ nay anh mang trên mình một sứ điệp, anh trở nên kẻ cộng tác với con người, lưu trữ những tư tưởng cao siêu đẹp đẽ của con người. Anh sẽ được mọi người nâng niu bảo vệ. Anh sẽ được sống mãi để trợ giúp con người.
Tờ giấy đó chưa kịp nói gì thêm thì nó thấy chủ nhà lấy các tờ kia đem đốt bỏ. Nó mới hiểu việc làm của cây viết, và nó lấy làm hãnh diện hạnh phúc vì được cộng tác với con người.
***
Tin mừng hôm nay thuật lại: “Ông trưởng hội đường Gia- ia đi tới… và khẩn khoản nài xin”… Người đàn bà bị loạn huyết “tách qua đám đông đến phía sau Chúa và sờ vào áo Người” (Mc.5,22-23.27). Nhờ đó mà Chúa Giêsu làm phép lạ cho họ.
Cuộc đời mỗi người chúng ta như tờ giấy trắng đó. Nếu không chấp nhận để cho Thiên Chúa viết vào những chương trình hành động thì không được diễm phúc trở nên cộng tác viên của Người.
Tờ giấy trắng không hiểu được hành động của cây viết. Chúng ta cũng không thể hiểu hết ý định của Thiên Chúa cho cuộc đời chúng ta.
Thái độ cúi đầu tuân phục và tin tưởng quyền năng của Thiên Chúa là thái độ khôn ngoan, để đưa chúng ta đến hạnh phúc chúng ta hằng mong ước… (Theo “Phút cầu nguyện cuối ngày”, tập III).
- Đức tin và việc làm
Một người Đức giàu có, trong lần đi nghỉ mát tại một làng nhỏ cạnh biển, dân chúng phần đông là người dân nghèo chất phát. Chiều đến, người khách lạ đi vào các hàng quán mua thức ăn và các thứ cần thiết. Ông nhờ chủ quán đổi cho tờ giấy bạc 1000 Đức mã. Đây là lần đầu tiên chủ quán thấy tờ giấy bạc lớn như thế. Ông lắc đầu nói với người khách:
– Với tờ giấy bạc này, ông không mua được thứ gì ở đây, vì chúng tôi chỉ sử dụng giấy bạc nhỏ thôi.
Nhiều người xúm lại coi tờ giấy bạc đó. Họ bảo nhau:
– Làm gì có tờ bạc 1000 Đức mã? Từ trước đến giờ, chúng ta chỉ thấy có giấy bạc 100 Đức mã thôi.
Thế là dân làng nghi ngờ ông khách này là người bất hảo. Và đáng sợ hơn nữa, đêm đó từ trong nhà trọ ông nghe có tiếng bàn tán:
– Hắn ta là tên bịp bợm. Tốt nhất chúng ta phải tống khứ hắn.
Thế là sáng hôm sau, ông đem tờ bạc đó đến thị trấn gần đó đổi ra những tờ bạc nhỏ và thuê xe chở về làng. Dân chúng thấy thế thì tin ông thực sự có tiền.
***
Những hành động cụ thể thường hùng hồn hơn lời nói suông. Những công trình trước mắt có giá trị hơn những dự án viễn vông.
Những người xung quanh chúng ta cũng đánh giá niềm tin và cách sống đạo của chúng ta như ngư dân nghèo nhìn vào người giàu trong câu chuyện trên đây. Tờ bạc 1000 Đức mã của người giàu này chỉ có giá trị khi được đổi thành những tờ bạc nhỏ. Cùng thế, niềm tin của chúng ta chỉ đáng tin cậy khi được thể hiện bằng những việc làm cụ thể. Thánh Giacôbê xác quyết: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết”.
Trong Tin mừng hôm nay, nếu người đàn bà bị xuất huyết tin Chúa chữa khỏi mà không tìm đến Chúa, sờ vào áo Chúa, thì làm sao được lành bệnh?
Đứa con gái đã chết thế nào được sống lại, nếu ông Gia-ia là cha nó không đến “phủ phục dưới chân Chúa Giêsu và nài nỉ”. “Chúng ta tin có cuộc sống mai hậu vĩnh cửu. Niềm tin ấy có được thể hiện bằng những hy sinh, phấn đấu ngay từ cuộc sống này không?
Cuộc sống mỗi ngày với những phiền toái thử thách của nó chính là nơi để chúng ta sống cụ thể niềm tin của mình. Những mối tương quan hằng ngày với những người chung quanh là môi trường để chúng ta diễn đạt niềm tin” (Theo “Maria, Mẹ tuyệt mỹ”).
75. Ngài đã toàn thắng sự chết
“Ta truyền cho em chỗi dậy”
Đọc Cựu Ước chúng ta thấy từ đầu tới cuối những chuyện chết chóc, giặc giã, lưu đày, di tản: từ chuyện tháp Abel ở trang đầu sách Sáng Thế đến cuộc tàn sát ở Alexandria do tác giả sách Khôn Ngoan ghi lại. Thánh Kinh là pho sách tường thuật một cuộc chiến đấu không ngừng chống lại sự dữ, sự chết. Dân Chúa cảm nghiệm rằng lịch sử dân mình là lịch sử của một cuộc chiến đấu cho cuộc sống còn, sống mãi. Thiên Chúa Israel là Thiên Chúa của kẻ sống. Sự chết do tội lỗi gây nên, nhưng nhân loại sẽ được sống: “Thiên Chúa đã tạo dựng con người giống hình ảnh Chúa, để sống vĩnh viễn”.
Rồi một ngày kia, Con Thiên Chúa xuất hiện, trong đau khổ, ô nhục. Ngài đã chết nhưng Ngài đã toàn thắng sự chết. Ngài đã phục sinh, sống lại. Thánh Phaolô hô to niềm hy vọng đó: “Hỡi sự chết, chiến thắng người ở đâu?” Khi mà Chúa đã sống lại!
Xưa nay, các nhà hiền triết vẫn đi tìm câu trả lời thỏa đáng cho câu hỏi: “Sự dữ bởi đâu mà đến? Khoa học cố tìm ra thuốc trị bệnh, nhưng vẫn bó tay trước sự chết. Ai sẽ cho ta câu trả lời thỏa đáng? Thưa: Chỉ một mình Chúa Giêsu. Ngài là câu trả lời ngàn đời của Thiên Chúa. “Ta là sự sống lại và sự sống. Ai tin vào Ta, cho dầu có chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Ta, sẽ không chết bao giờ” (Ga 11,25-26).
Trong một trang dài, Marcô mô tả Chúa Giêsu hiện diện giữa người bệnh tật, đau khổ. Ngài đến “không phải để cất sự đau khổ mà để hiện diện với người đau khổ” (F. Mauriac).
Hôm nay, Ngài đang ở bờ biển, có đám đông dân chúng tụ họp xung quanh thì có ông trưởng hội đường tên là Giarô đến, sụp lạy van xin Ngài đến cứu con gái ông đang hấp hối. Chúa ra đi với ông. Đám đông dân chúng cùng đi theo, chen lấn Ngài tứ phía. Ngài không phải là một thầy thuốc tầm thường, “người ta vừa mất tiền, vừa không bớt bệnh”. Đối với những người hèn mọn nhưng đầy tin tưởng vào Ngài, Ngài ban cho họ một dấu lạ, một sức sống từ nơi Ngài xuất phát ra, ban sự sống xua đuổi sự chết. Một người phụ nữ bị bệnh xuất huyết từ 12 năm nay, cố đến chạm tới áo Ngài, tức thì được khỏi bệnh.
Ngài vào nhà ông trưởng hội đường mà người con gái vừa tắt thở. Người ta kêu la khóc lóc om sòm, khóc thật, hay là khóc mướn, xung quanh thi hài của cô bé. Ngài cầm tay đứa nhỏ và nói: “Talitha, Koumi” – “Hỡi em bé, Ta truyền cho em hãy chỗi dậy”. Và em bé 12, mở mắt chỗi dậy, bước đi. Em đòi ăn, đòi ăn là dấu chỉ sự sống đã tái nhập, đã phục hồi.
Mọi người đều sửng sốt, kinh ngạc.
Đứng trước những dữ kiện “phép lạ” Chúa làm mà Phúc Âm kể lại, (1/3 của Phúc Âm Marcô) chúng ta thấy ngày nay có hai phản ứng trái ngược nhau. Một số người khoa học cho rằng phép lạ chỉ gây rắc rối cho đức tin, dần hồi khoa học sẽ giải quyết nhiều bệnh lý. Trái lại, ngày nay, phong trào Thánh Linh đang phát triển mạnh làm cho người ta tin tưởng rằng trong một cộng đoàn có Chúa Thánh Linh hoạt động, phép lạ không còn là một sự phi thường. Kinh nghiệm bản thân và sự quan sát khách quan minh chứng (Đọc Des Miracles Aujourd” hui, Phép lạ ngày nay, của Sr. Briege Mckenna, O.S.C).
Chúng ta nên nhớ rằng Phúc Âm coi các phép lạ là những “dấu chỉ”, “quyền năng”, “lạ thường”, và đã là dấu chỉ thì hướng về Đấng là dấu chỉ hơn là việc làm. Vậy các phép lạ Chúa làm là dấu chỉ ơn cứu độ đã đến: Sự dữ đã rút lui, satan bị đánh bại và Nước Thiên Chúa đã đến. Các phép lạ còn là dấu chỉ rằng Chúa là chân lý, là sự thật; lời nói của Ngài đi đôi với việc làm để minh chứng. Nhất là dấu chỉ sự phục sinh, phép lạ lớn lao hơn cả. Và sau này, các bí tích mà Chúa thiết lập là dấu chỉ nhờ sự sống lại, Chúa ban cho chúng ta được tái sinh trong đời sống mới.
“Chúa Giêsu không thay đổi, Ngài vẫn là Ngài, hôm qua, hôm nay và mãi mãi. Vẫn là Ngài khi Ngài chữa lành mọi bệnh tật tại Palestine. Ngài vẫn còn tiếp tục giữ lời phán hứa và đáp lại nguyện vọng, nhu cầu của dân Ngài” (Sr. Briege McKenna). Tại Portland tháng 7 năm 1992, một vị linh mục của Phong trào Thánh Linh được “ơn chữa bệnh” đã đến cầu nguyện và chữa bệnh. 14 ngàn người đã đến tham dự. Một người bị bệnh tim nguy ngập, được đặt tay cầu nguyện, đã ngất đi và đã được lành, đi làm việc như trước (theo một nhân chứng).
“Lạy Chúa, tôi ca tụng Chúa, vì đã giải thoát tôi”.
(Suy niệm của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL)
MẦU NHIỆM CHÚA KITÔ – SỰ SỐNG TÁI SINH
Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh được bắt đầu từ Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Tuy nhiên, ba Chúa Nhật đầu tiên của giai đoạn Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh này lại được Giáo Hội cử hành thứ tự ba Mầu Nhiệm cao cả và hết sức quan trọng đối với đức tin Kitô giáo, đó là Mầu Nhiệm Thánh Thần, Mầu Nhiệm Ba Ngôi và Mầu Nhiệm Thánh Thể, những mầu nhiệm liên quan đến Sự Sống Thần Linh, vì chủ đề của Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh là chủ đề về Mầu Nhiệm Chúa Kitô – Sự Sống Tái Sinh, tiếp theo chủ đề Mầu Nhiệm Chúa Kitô – Sự Sống Tỏ Hiện của Mùa Vọng, Giáng Sinh và Thường Niên Hậu Giáng Sinh, và chủ đề Mầu Nhiệm Chúa Kitô – Sự Sống Thông Ban của Mùa Chay và Phục Sinh.
Chủ đề Mầu Nhiệm Chúa Kitô – Sự Sống Tái Sinh của Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh theo chu kỳ phụng vụ năm B cho thấy rõ ràng qua các bài đọc trong phần Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XIII Thường Niên. Trước hết, ở bài đọc một, Sách Khôn Ngoan cho biết sự sống phát xuất từ Thiên Chúa, “Đấng không tạo nên sự chết, cũng không mừng ở tình trạng bị hủy hoại của sinh linh… Vì Thiên Chúa hình thành con người để được bất tử”, còn sự chết phát xuất từ ma quỉ là tên “ghen tương” đã làm cho “sự chết lọt vào thế gian”. Ở bài đáp ca, Thánh Vịnh 30 đã cảm nhận: “Ôi Chúa, Ngài đã đưa tôi lên từ âm phủ, Ngài đã bảo trì tôi khỏi thành phần lao xuống hố thẳm… Ngài đã biến nỗi than khóc của tôi thành niềm hoan hỉ….”. Ở bài đọc thứ hai, bức Thư Thứ Hai của Thánh Phaolô gửi giáo đoàn Côrintô đã cho thấy sự sống thực sự của người Kitô hữu là ở chỗ hiệp thông và chia sẻ: “Chính vì anh em được phong phú về mọi phương diện, về đức tin và tài diễn giải, về kiến thức, về tất cả mọi quan tâm cũng như về lòng ưu ái của chúng tôi đối với anh em, mà anh em cũng phải rộng lượng về công việc bác ái nữa… Tình trạng dồi dào của anh em lúc này đây phải đáp ứng các nhu cầu cần thiết của những người khác, để tình trạng dư dật của họ một ngày nào đó lại bù đắp cho cảnh thiếu thốn của anh em…”. Còn ở bài đọc chính là bài Phúc Âm thì sao?
Bài Phúc Âm Thánh Marcô thuật lại hai phép lạ một lúc. Phép lạ chữa cho một người đàn bà bị loạn huyết 12 năm và phép lạ hồi sinh cho đứa con gái của một viên chức hội đường. Tuy nhiên, phần thuật về phép lạ chữa lành bệnh loạn huyết của người đàn bà được Giáo Hội để trong ngoặc đơn, không cần đọc. Nghĩa là Giáo Hội muốn nhấn mạnh đến phép lạ hồi sinh mà thôi, một phép lạ trực tiếp liên hệ tới chủ đề Mầu Nhiệm Chúa Kitô – Sự Sống Tái Sinh của Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh. Dĩ nhiên Chúa Kitô đến, trước hết và trên hết, không phải là để hồi sinh phần xác con người, mà là phần hồn của họ. Vẫn biết khi cứu độ con người là Chúa Kitô cứu toàn thể con người của họ, tức cứu cả hồn lẫn xác, một thân xác sẽ được phục sinh vào ngày tận thế. Tuy nhiên, nếu cái làm cho con người ra dơ bẩn phát xuất từ bên trong con người mà ra, chứ không phải từ bên ngoài, từ thân xác (x Mt 15:18-20), thì linh hồn con người mới cần cứu trước nhất và trên hết; để rồi, là nguyên lý sống tự nhiên của thân xác, linh hồn chẳng những sẽ là nguyên tố làm cho thân xác sống lại trong ngày sau hết, mà còn là tác nhân sống siêu nhiên cho thân xác nữa, một sự sống thần linh của linh hồn và với linh hồn ngay khi con người con sống trong thời gian và không gian, đến nỗi, như được thấy nơi các vị thánh, thân xác của họ, của các ngài, nhờ được thông phần quyền lực phục sinh của Chúa Kitô, có thể làm được cả những việc phi thường về đức bác ái, (chưa kể đến những đặc sủng làm phép lạ, nói tiên tri v.v.), những việc con người phàm tục và tự nhiên không thể nào tự mình làm được, trái lại, nếu thành tâm, sẽ phải hết lòng cảm phục và nhận ra chân lý.
Thế nhưng, sự sống của linh hồn đây là gì, nếu không phải là “nhận biết” Thiên Chúa (x Jn 17:3). Ngay từ ban đầu sự chết đã lọt vào thế gian vào chính lúc con người phủ nhận Thiên Chúa của mình, tự động tách khỏi nguồn sống linh thiêng của mình, bằng việc làm theo ý riêng, phản ngược lại với ý muốn tối cao vô cùng chân thiện của Thiên Chúa. Đó là lý do, để hồi sinh sự sống thiêng liêng cho con người, “Thiên Chúa là Thần Linh” (Jn 4:24) đã tỏ mình ra cho họ, để họ có thể thực sự nhận biết Ngài mà được sự sống, mà được tái sinh (x Jn 3:3,5). Chúa Kitô, Lời Nhập Thể, là tất cả những gì Thiên Chúa muốn tỏ cho loài người biết về bản thân toàn thiện Ngài cũng như về ý định toàn mỹ của Ngài, là tuyệt đỉnh Mạc Khải Thần Linh trong Lịch Sử Cứu Độ của dân Cựu Ước. Người đến “để tỏ Cha ra” (Jn 1:18), để làm cho chung con người và riêng Giáo Hội, qua thành phần chứng nhân tiên khởi, “nhận biết Cha là Thiên Chúa chân thật duy nhất và Đấng Cha sai là Giêsu Kitô” (Jn 17:3), nghĩa là để làm cho con người được sự sống, ở chỗ “nhận biết” Thiên Chúa qua Người và nơi Người. Và để làm cho con người, nhất là thành phần môn đệ làm nền tảng cho Giáo Hội của Người sau này, có thể nhận biết Người thực sự là Đấng Thiên Sai, là Con Thiên Chúa, Chúa Kitô đã tỏ mình ra cho họ, qua lời người nói và việc Người làm, lời vô cùng khôn ngoan và việc vô cùng quyền phép, những chứng từ được thành phần thiện tâm, dù bị mù từ lúc mới sinh cũng có thể nhận biết chân lý, nhận biết Người (x Jn 9:33,38).
Trong bài Phúc Âm theo Thánh Ký Marcô cho Chúa Nhật XIII Thường Niên năm B, Chúa Kitô đã tỏ mình ra cho riêng viên chức hội đường đến van xin Người chữa bệnh cho đứa con gái 12 tuổi của ông, cũng như cho chung dân chúng nhạo cười Người khi nghe thấy Người nói “con bé có chết đâu, nó chỉ ngủ thôi”, bằng cách hồi sinh đứa con gái vừa bị chết. Việc hồi sinh về phần xác của bé gái này chỉ là phương tiện để Người hồi sinh, đúng hơn, tái sinh sự sống thần linh nơi đám người Do Thái có mặt ở đó bấy giờ, nghĩa là làm cho họ tin Người hơn, chấp nhận Người thực sự là Đấng Thiên Sai, và qua Người, nhận biết Đấng đã sai Người. Đó là lý do, khi ông bố của em gái này được báo tin là em chết rồi đừng phiền đến Người nữa, Người đã trấn an ông bố: “Đừng sợ. Hãy vững tin”. Kết quả là, như bài Phúc Âm trình thuật, “thấy vậy, họ bàng hoàng sửng sốt”.
Thế nhưng, cho dù con người có tin tưởng nơi Người qua những phép lạ Người làm như thế, đức tin của con người vẫn có thể bị lung lay và thử thách, như thành phần môn đệ ở sát bên Thày, nghe thấy Thày, nhìn thấy Thày, đụng chạm Thày (x. 1Jn 1:2), nhưng vẫn bỏ rơi Thày như tất cả mọi môn đệ, nhất là đã cả gan dại dột phản bội Thày như Giuda, và trắng trợn phũ phàng chối bỏ Thày như Phêrô. Đó là lý do Chúa Kitô Phục Sinh, sau khi tái sinh con người bằng nước, tức tái sinh họ bằng những chứng từ Người thực hiện qua nhân tính của Người, Người còn cần phải tái sinh họ trong Thần Linh nữa (x Jn 3:5), sau khi Người sống lại từ trong kẻ chết (x Jn 20:22; 7:37-39). Có thế, có được rửa trong Thần Linh, họ mới có thể trở thành nhân chứng của Người (x Lk 24:48), Vị Thần Linh sẽ làm chủ tác động họ như một Quyền Lực từ trên cao (x. Acts 1:8), khi Ngài hiện xuống vào ngày Lễ Ngũ Tuần tại Giêrusalem (x Acts 2:1-4). Bởi thế, đức tin trọn vẹn nhất và nguyên chính nhất là đức tin của thành phần nhân chứng tông đồ, một đức tin tông truyền qua hàng giáo phẩm, thành phần thừa kế Thánh Phêrô và tông đồ đoàn. Cũng là một đức tin đã đực rao giảng khắp thế giới cũng qua các vị thừa sai tông đồ, tiêu biểu nhất là Thánh Phaolô.
Chúa Nhật XIII Thường Niên năm nay 2003 theo chu kỳ phụng vụ năm B là ngày 29/6, tức trùng vào chính ngày Lễ Trọng kính hai Vị Đại Thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô. Lễ hai Thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô không phải là Lễ Buộc Obligation, (tức nếu bỏ không dự mà thiếu lý do chính đáng thì mắc tội trọng), như 1 lễ về Các Thánh 1/11, 2 lễ về Chúa là Lễ Giáng Sinh 25/12 và Lễ Thăng Thiên Thứ Năm sau Chúa Nhật Thứ Sáu Phục Sinh, và 3 lễ về Mẹ là Lễ Mẹ Vô Nhiễm 8/12, Lễ Mẹ Thiên Chúa 1/1 và Lễ Mẹ Mông Triệu 15/8. Tuy nhiên, trong bốn bậc lễ của Giáo Hội, lễ tùy – optional, lễ nhớ -memorial, lễ kính – feast, lễ có kinh vinh danh như lễ kính từng vị tông đồ, và lễ trọng – solemnity, lễ có cả vinh danh và tin kính, như Lễ Thánh Giuse 19/3, Lễ Truyền Tin 25/3, Lễ Sinh Nhật Thánh Gioan Tẩy Giả 24/6, và Lễ Hai Thánh Phêrô và Phaolô Tông Đồ 29/6. Những vị được Giáo Hội cử hành ở bậc Lễ Trọng, dù không buộc, có một vai trò quan trọng trong nhiệm cuộc cứu độ, tức liên quan đến đức tin. Thánh Phêrô tiêu biểu cho quyền bính Chúa Kitô trong việc chăn dắt đàn chiên Giáo Hội (x Mt 16:16-18), còn Thánh Phaolô tiêu biểu cho ánh sáng Chúa Kitô chiếu tỏa trước muôn dân (x Acts 13:47).
Thật vậy, những mầu nhiệm của Kitô giáo không phải chỉ là những thực tại liên quan đến “Thiên Chúa là Thần Linh” (Jn 4:24), như Mầu Nhiệm Ba Ngôi, Mầu Nhiệm Nhập Thể, Mầu Nhiệm Phục Sinh, Mầu Nhiệm Thánh Thể, Mầu Nhiệm Tiền Định, mà còn bao gồm cả những mầu nhiệm khác nữa, như Mầu Nhiệm Thánh Mẫu, Mầu Nhiệm Đau Khổ, Mầu Nhiệm Đức Tin, Mầu Nhiệm Giáo Hội v.v. Giáo Hội quả thực là một mầu nhiệm, ở chỗ, chẳng những Giáo Hội giống như một hạt cải đức tin nhỏ bé nhất, nhỏ bé đến nỗi giác quan không cảm thấy gì, nhỏ bé nhất trong các hạt giống tôn giáo, nhưng lại là một đức tin mọc lên thành một cây vĩ đại nhất, một tôn giáo vươn khắp nơi trên thế giới, mà còn là một tảng đá đầy những hèn yếu xác thịt, nhưng lại bất khuất trước bất cứ một quyền lực thế gian nào, đến nỗi càng bị bắt bớ sát hại từ đầu tới nay lại càng phát triển. Chính Mầu Nhiệm Giáo Hội bền vững là một bằng cớ hiển nhiên và sống động nhất chứng thực Chúa Kitô quả thực vẫn luôn ở cùng Giáo Hội cho đến tận thế.
Hai phép lạ được kể lại trong đoạn Tin mừng sáng hôm nay muốn chứng tỏ rằng: Chúa Giêsu đã chiến thắng tội lỗi và sự chết.
Thực vậy, trước hết là phép lạ chữa người đàn bà mắc bệnh xuất huyết. Bà là một người đau khổ, không phải chỉ vì bệnh tật kéo dài, tiền hết mà tật thì vẫn mang, mà còn đau khổ về mặt tinh thần. Kẻ mắc bệnh như ở trong một tình trạng bị rút phép thông công, vì luật Do Thái buộc họ phải ở nhà, vì hễ đụng đến ai hay đến vật gì, thì làm cho vật ấy và người ấy ra ô uế. Mặc dù quan niệm của bà, phần nào có vẻ mê tín nhưng lại biểu lộ một lòng tin chân thành nơi Chúa…
Ngài có thể là Đấng sẽ cứu chữa cho mình. Nhưng hành động của bà thì lại có tính cách liều lĩnh, bà đã dám xuất hiện giữa đám đông và đụng đến người chung quanh khiến họ phải ra ô uế theo như luật dạy. Bà đã vi phạm lề luật, mà lại vi phạm trước mặt viên trưởng hội đường, có thể là một luật sĩ hay một người Biệt phái. Bà đã hoảng sợ khi thấy Chúa Giêsu hỏi đến việc bà làm. Cử chỉ sụp lạy của bà phải chăng là một cử chỉ thất vọng. Bà đành phải thú nhận tất cả, mặc dù bà muốn mọi sự được diễn ra một cách thầm kín, chỉ mình bà biết mà thôi.
Nhưng Chúa Giêsu đã hỏi đến bà không phải để hạch sách hay lên án, mà trái lại là để cứu vớt bà. Ngài đã muốn đưa người mắc bệnh ra khỏi đám đông để trực diện với Ngài, đi vào cuộc đối thoại với Ngài, đặt mình trong mối quan hệ với Đấng có thể cứu chữa mình. Và trong bối cảnh này, phép lạ không còn mang tính cách mê tín… Bà đã được cứu khỏi bởi lòng tin, bởi sự gặp gỡ đích thân với Đấng cứu mình chứ không phải chỉ tiếp xúc với một sức thiêng vô hình.
Lời Chúa phán: Con hãy về bình an và được khỏi bệnh đã trở nên một lời tha thứ và chúc phúc.
Điều Chúa làm cho người đàn bà bị bệnh xuất huyết đã đặt ông Giairô, một vị trưởng hội đường trước một sự lựa chọn. Ông là một người có thế giá vì ông nắm trong tay quyền điều khiển hội đường. Có thể ông thuộc nhóm Biệt phái. Ông đang ở trong một cái thế rất bí, không phải chỉ vì con ông đang hấp hối. Nếu con ông chết thì sự nghiệp của ông cũng khó đứng vững, vì chiếu theo quan niệm về thưởng phạt thông thường trong dân Do Thái: con cái chết là hình phạt, là bản án trên đầu cha mẹ vì một tội nào đó. Và một kẻ bị coi là có tội, thì làm sao có thể còn được giữ chức trưởng hội đường nữa.
Nhưng cái thử thách lớn đối với ông từ lúc xảy ra phép lạ chữa lành người mắc bệnh loạn huyết. Ông đã thấy được Chúa Giêsu là Đấng cứu chữa, gỡ nạn và tuyên bố ơn cứu giúp là do lòng tin. Nhưng ông cũng lại thấy Chúa Giêsu là một người tự do đối với lề luật Do Thái. Ông không thể không thắc mắc: Một trưởng hội đường như ông, có phận sự bảo vệ lề luật, có thể ngang nhiên dẫn Chúa Giêsu bị uế tạp vào nhà mình hay không. Nếu dẫn Chúa vào thì lại chẳng hóa ra ông cũng tán thành và trở nên tự do đối với lề luật?
Thế nhưng, thái độ của Chúa Giêsu đối với người đàn bà được chữa lành đã trở thành một lời kêu gọi ông hãy dẹp bỏ sự lo âu áy náy về một điều khoản của lề luật, để được đứng hẳn trong lòng tin. Ông đừng sợ, hãy cứ tin. Cuối cùng ông phải tin vì có người đến báo con ông đã chết. Ông còn biết tìm hy vọng ở đâu nữa. Phép lạ diễn ra. Cháu bé sống lại, và từ đó chúng ta đi tới kết luận:
Sự chết không còn là cái bế tắc vô phương cứu chữa, không còn là cái kết cục tuyệt đối của số mạng con người, bởi vì Đức Kitô đã đem đến cho chúng ta niềm hy vọng phục sinh, niềm hy vọng sống lại.
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Vân Lực)
Ở Việt nam hiện nay rất nhiều bạn trẻ đang vật lộn với với nghèo đói, bệnh tật, ngu dốt. Nhưng trầm trọng nhất vẫn là những bệnh xã hội và khủng hoảng tinh thần. Bao nhiêu thế hệ đang bị nhận chìm trong bóng tối tử thần.
Ai sẽ làm cho các bạn trẻ trỗi dậy?
Thực tế, bên cạnh những tâm hồn sa đọa, vẫn có những bạn trẻ khác quan tâm và nỗ lực cứu vớt những anh em đang sống bên bờ vực thẳm. Có những bạn sẵn sàng đi xin từng đồng, mua từng viên thuốc cho các bạn trẻ đang đối diện với những bệnh thời đại. Họ không phí thời giờ bàn những chuyện xưng hô “cha con” hay vấn đề đối kháng giữa giáo sỹ và giáo dân v.v. Họ chẳng cần ai chú ý hay ghi ơn. Cũng chẳng cần giai cấp, địa vị. Chỉ cần vực anh chị em mình trỗi dậy khỏi cơn nguy khốn hiện tại mà thôi. Họ là những người theo Chúa Giêsu đi tìm cứu những người đau khổ, bệnh tật. Tuy không có quyền năng làm phép lạ như Chúa, nhưng dõi theo bước chân Chúa, họ có thể tạo thành những kết quả tương tự.
Dĩ nhiên, đứng trước cái chết, mọi người phải bó tay. Các phương pháp y khoa hiện đại nhất cũng không thể vượt qua những giới hạn tử thần. Dù có thiện chí và giàu có tới đâu, con người cũng phải đầu hàng. Phải toàn năng mới có thể khiến con gái ông trưởng hội đường sống lại từ cõi chết (x. Mc 5,35-42). Nói khác, chỉ cần nói với cô gái: “Trỗi dậy đi!” (Mc 5,41) Chúa Giêsu đã chứng minh Người là Thiên Chúa toàn năng, vượt trên mọi sức mạnh khoa học tiến bộ nhất.
Chúa không đòi người môn đệ phải toàn năng như Chúa mới cứu được đồng loại. Chúa muốn họ vận dụng sức mạnh tình yêu và hồng ân sẵn có để chặn đứng bước chân tử thần. Thực tế, nhiều người không những không ngăn cản bước chân tử thần, mà còn manh tâm xô đẩy anh em mình vào chỗ chết. Phong trào phá thai chẳng hạn. Có khi họ “án binh bất động” trước sức tấn công vũ bão của tử thần để cầu an hay hèn nhát. Bởi vậy, nhiều người trở thành mồi ngon cho tử thần chỉ vì đồng loại mần thinh trước tiếng thét gào của các nạn nhân.
Không bao giờ Chúa “lạnh lùng” như thế trước nỗi thống khổ của con người. Người phụ nữ băng huyết là một điển hình. Tuy chưa chết, nhưng bà đã đứng trên bờ vực tử thần. Thấy thế, Chúa không xô bà xuống đáy. Sau mười hai năm đau khổ, bà cảm thấy hoàn toàn bất lực và đau lòng vì “tiền mất tật mang.” Cuối cùng, bà đã tìm được sức mạnh tình yêu Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu. Tình yêu là sức mạnh giải thoát. Nhờ lòng tin mãnh liệt, bà đã được cứu và bình an hoàn toàn (x. Mc 5:34).
Đức tin đã toàn thắng. ĐGH Bênêđictô XVI nhận định: “Cuộc chiến thắng này chỉ xảy ra vì có quyền năng sáng tạo của Lời Chúa và Tình yêu. Chỉ có Lời Chúa và Tình yêu mới đủ sức mạnh biến cải cơ cấu vật chất một cách tuyệt đối đến nỗi có thể vượt qua những chướng ngại của tử thần.” (www.archspm.org: 30.06.2006) Không có Lời Chúa và Tình yêu, chắc chắn họ đã không thoát khỏi nanh vuốt tử thần.
Không những thoát chết, hai người phụ nữ còn được Chúa phục hồi nhân phẩm và sứ mệnh cao cả. Trong cả hai phép lạ Chúa làm hôm nay, John R. Donahue (www. Americamagazin.org: 30.06.2006) nhận thấy một vài điểm thú vị. Trước hết, cả hai người lãnh ơn đều thuộc giới phụ nữ. Cô gái được phục sinh ở lứa tuổi mười hai, tuổi đã có thể thành hôn theo phong tục thời bấy giờ. Như thế, “cô bé” đã chết trước khi có thể trở thành vợ và mẹ. Người đàn bà băng huyết cũng mười hai năm. Bà không thể có con. Như thế, không những Chúa cứu cả hai khỏi chết, nhưng còn trả lại cho họ khả năng sinh sản, một vinh dự lớn lao vì được tham gia quyền sáng tạo của Thiên Chúa. Vinh dự đó góp phần làm chứng cho mọi người thấy, “Thiên Chúa đã sáng tạo con người cho họ được trường tồn bất diệt.” (Kn 2:23)
Trước tình trạng phụ nữ bị buôn bán và khinh miệt hôm nay, Giáo hội đang làm gì? Có động lòng trắc ẩn thực sự không? Có dám vượt qua những cấm kỵ và thành kiến để đem ơn giải thoát đến cho phụ nữ không?
Nhờ hồng ân Thiên Chúa, biết bao phụ nữ đang chứng tỏ một đức tin kiên cường và dũng cảm. Trong gia đình hay ngoài xã hội họ luôn sống với Chúa. Nhờ đó, chính họ có thể thoát hiểm và cứu vãn tương lai nhân loại. Hôm nay Giáo hội đang cần đến sức mạnh niềm tin nơi phụ nữ rất nhiều. Chính đức tin đã giúp họ chu toàn bổn phận làm mẹ, làm vợ trong gia đình. Họ còn muốn dấn thân làm chứng cho Chúa hơn nữa trong nhiều môi trường xã hội hôm nay. Nhưng Giáo hội có nhận ra đức tin kiên cường của phụ nữ trên toàn cầu để mời gọi họ hay không?
Lạy Chúa, xin thương giải thoát phụ nữ và cho mọi người biết tôn trọng phẩm giá và sứ mệnh cao cả của họ. Xin Chúa mở ra nhiều con đường và cơ hội cho phụ nữ được tham gia hơn nữa vào sứ mệnh làm chứng của Giáo hội giữa lòng đời hôm nay! Amen.
(Chú giải và suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)
ĐỨC GIÊSU CHỮA LÀNH BÀ BỊ BĂNG HUYẾT
VÀ CHO CON GÁI ÔNG GIA-IA SỐNG LẠI
1.- Ngữ cảnh
Đoạn văn này tổng hợp hai truyện về chữa lành (con gái ông Gia-ia [Mc 5,21-24.35-43] và bà băng huyết [Mc 5,25-43]). Đây là một ví dụ nữa về cấu trúc “tháp ghép [sandwich construction]” của tác giả (x. 1,21-28; 2,1-12; 3,21-35; 6,7-33; 11,11-21; 14,1-11). Hai truyện này có nhiều điểm chung: những người đau khổ là những người nữ; con số 12 (5,25.42); và từ vựng (“lòng tin”, “sự sợ hãi”, “khỏi/lành mạnh”, “con [gái]…”). Tuy nhiên, giọng văn của hai truyện này không giống nhau, khiến phải cho rằng đây là hai truyện lúc đầu độc lập với nhau: Truyện con gái ông Gia-ia được kể bằng những câu ngắn, với ít phân từ (participles) và các động từ ở thì hiện tại lịch sử (historic present); còn truyện bà băng huyết được kể bằng những câu dài, dùng nhiều phân từ và ở thì quá khứ aorist và vị hoàn (imperfect).
2.- Bố cục
Bản văn này có thể chia thành ba phần:
1) Mở: Khung cảnh, các nhân vật (5,21);
2) Hai truyện về chữa lành (5,22-42a):
a- Chữa con gái ông Gia-ia (cc. 22-24.35-42a),
b- Chữa bà băng huyết (cc. 25-34);
3) Kết: Phản ứng của dân chúng và lệnh của Đức Giêsu (5,42b-43).
3.- Vài điểm chú giải
– lại trở sang bờ bên kia (21): Đức Giêsu trở lại bờ biển phía tây (x. 4,35).
– một ông trưởng hội đường tên là Gia-ia (22): Ít ra ta biết Gia-ia là một thành viên vị vọng của hội đường Do Thái, thuộc hàng kỳ mục có nhiệm vụ quan tâm đến những vấn đề tôn giáo và xã hội của cộng đồng. Tên Híp-ri Ya’ir (x. Ds 32,41; Tl 10,3-5; HL. IaĐros) có nghĩa là “ước gì Ngài (= Thiên Chúa) soi sáng”.
– sụp xuống… khẩn khoản nài xin (22-23): “Sụp xuống” (HL. piptei, x. 3,11; 5,33; 7,25) tương tự động từ proskyneô (“quỳ xuống”; x. 5,6; 15,19), là thái độ vâng phục bày tỏ với một người trên, và trong ngữ cảnh khác, là sự tôn kính bày tỏ ra với Thiên Chúa. Tác giả dùng hai động từ trên để giới thiệu Gia-ia như là một người cầu xin: vì ở trong một hoàn cảnh bế tắc, một bậc vị vọng Do Thái đã xin Đức Giêsu giúp đỡ.
– con bé: “con gái nhỏ” (HL. thygatrion, từ giảm nhẹ của thygater, “con gái”). Từ giảm nhẹ này nói lên tình âu yếm của người cha đối với con mình.
– gần chết rồi: Mt nói “vừa mới chết” (Mt 9,18), còn Lc thì nói “đã gần chết (đang hấp hối)” (NTT; Lc 8,42). Mc thì viết “đã gần lâm chung” (NTT) (HL. eschatôs echei).
– bà băng huyết (25): Chứng bệnh này làm cho người phụ nữ bị ô uế về phương diện tế tự (x. Lv 15,19.25), và do đó, tất cả những gì bà động chạm đến cũng trở nên ô uế.
– khổ sở vì chạy thầy chạy thuốc (26): Lời kết án các thầy thuốc đây thuộc nguồn riêng của Mc. Tác giả Lc sẽ nói nhẹ nhàng hơn (x. Lc 8,43).
– sợ phát run lên (33): Bà sợ có lẽ vì thấy mình đã làm cho Đức Giêsu bị luỵ vào tình trạng ô uế theo luật. Nhưng cũng có thể bà sợ vì thấy điều vừa xảy ra cho mình. Sợ và run cũng là một phản ứng của con người khi Thiên Chúa tỏ mình ra (x. Xh 15,16; Đnl 2,25; 11,25; Gđt 15,2).
– lòng tin (34): Đây không phải chỉ là một cuộc chữa lành thể lý nhờ tiếp xúc bên ngoài với bản thân Đức Giêsu, nhưng là ơn cứu độ mà lời Người loan báo và ban cho tất cả những ai tin tưởng đến với Người. Vì thế động từ sesôken có thể dịch là “đã chữa con lành” hoặc “đã cứu con”.
– đến đặt tay lên cháu, để nó được cứu thoát và được sống: Việc đặt tay trên người đau ốm là một cử chỉ thường có trong các nghi thức chữa bệnh ngày xưa, dựa trên ý tưởng người chữa bệnh là một người đầy quyền lực (x. 5,27-30: một kiểu tiến hành ngược lại). Những từ ông Gia-ia nói ra (“được cứu thoát”, “được sống”) là những từ chuyên môn được các nhóm Kitô hữu tiên khởi sử dụng để nói về sự cứu độ và sự sống được phục hồi (sống lại). Như vậy, rất có thể các Kitô hữu tiên khởi đã coi câu truyện phục hồi sự sống cho con gái Gia-ia là một lời tiên báo hoặc một sự tiền dự vào sự sống lại của Đức Giêsu và của những ai tin vào Người.
– con gái ông chết rồi (35): Gia-ia chìm đi một lúc trong đám đông đang đi theo Đức Giêsu. Trong khoảng thời gian này, bà băng huyết được chữa lành. Đến lúc ấy, Gia-ia nhận được tin chẳng lành: con gái ông đã chết! Vậy thì “làm phiền Thầy chi nữa?”. Dưới mắt những người đưa tin, người cha đã đến gặp Đức Giêsu quá muộn. Chính họ vừa mới nói ra sự không tin của họ; chính thái độ này vừa như muốn giới hạn quyền năng Đức Giêsu lại vừa muốn lung lạc lòng tin của Gia-ia.
– Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi (36): Đức Giêsu đã trấn an ông, bởi vì ông cần phải thắng vượt được nỗi sợ hãi của ông, để sẵn sàng chứng kiến quyền lực thần linh của Đức Giêsu hiển lộ ra. Công thức “Đừng sợ” ở những chỗ khác thường được dành cho các hoạt cảnh mạc khải (x. 6,50; Mt 28,5; Lc 1,13.30); ở đây công thức này cũng đang chuẩn bị một cảnh thuộc loại đó. Tác giả Mc thường nhấn mạnh đến nỗi sợ hãi, kinh ngạc hoặc kinh hoàng nơi những người đã chứng kiến các phép lạ (x. 1,27; 2,12; 4,41; 5,15; …), nhưng những phản ứng này không đưa tới đức tin. Đức Giêsu khuyến khích Gia-ia đừng chao đảo trong đức tin, bởi vì, như Đức Giêsu sẽ nói với người cha của đứa bé động kinh, “cái gì cũng có thể, đối với người có lòng tin” (9,23).
– người ta khóc lóc, kêu la ầm ĩ (38): Tình trạng ồn ào, với sự hiện diện của những người khóc mướn, dường như chứng tỏ đứa bé đã chết thật rồi.
– nó ngủ đấy (39): Trong ngôn ngữ Kinh Thánh, cái chết thường được tượng trưng bằng giấc ngủ (Đn 12,2; Ga 11,13; 1 Cr 15,20.51; Ep 5,14; 1 Tx 5,6.10). Bản LXX cũng thường dùng động từ “ngủ” để nói về cái chết. Bản văn Mt 9,18 và Lc 8,53.55 cũng theo ý nghĩa ấy. Nhưng động từ ấy, trong bản văn Mc thì còn có vẻ hàm hồ, lý do là ngay ở đầu, tác giả ghi nhận là đứa bé chưa chết. Dù câu truyện có vẻ là cuộc phục sinh một em bé, biết đâu chừng nó chưa chết, chỉ rơi vào tình trạng hôn mê thôi; và Đức Giêsu với cái nhìn thấu suốt, đã nhận ra tình trạng ấy của đứa bé, nên đã nói như thế? (x. Mann; NJBC). Khi đó, câu truyện này sẽ là truyện về một cuộc chữa lành ngược lại mọi hy vọng và ngược lại sự lượng định khôn ngoan của những người có mặt (x. 5,43).
– Họ chế nhạo Người (40): Phản ứng mạnh mẽ của đám đông được nhắc tới bằng câu này vừa cho thấy họ không tin vừa càng nêu bật tính cách phi thường của những gì Đức Giêsu sắp làm. Cha mẹ em bé ở vào vị trí chứng nhân cùng với Phêrô, Giacôbê và Gioan. Dường như mọi người đều đồng ý là đứa bé đã chết.
– nơi nó đang nằm: Đây là chi tiết của riêng Mc. Câu này chứng tỏ Đức Giêsu vào phòng lần đầu tiên.
– Talitha koum (41): (Aram tơlitha’ qum). Chi tiết này rất có thể chứng tỏ câu truyện đang được một người đã chứng kiến tận mắt kể lại.
– đứng dậy và đi lại được (42): Hai động từ này được dừng ở hai thì khác nhau. “Đứng dậy”, anestê, ở thì quá khứ aorist, diễn tả một hành vi vừa làm xong, còn “đi lại”, periepatei, ở thì vị-hoàn (imperfect), diễn tả một hành vi còn kéo dài.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Mở: Khung cảnh, các nhân vật (21)
Chúng ta gặp lại những yếu tố quen thuộc trong câu mở đầu này: đám đông qui tụ ở bờ Biển Hồ (x. 4,1), con thuyền (x. 4,1.36), vượt hồ (x. 5,1t).
* Hai truyện về chữa lành (22-42a)
Đức Giêsu đào tạo các môn đệ không những bằng lời nói mà còn bằng các hành động nữa. Một vài hành động nổi bật hẳn, bởi vì Người chỉ cho Phêrô, Giacôbê và Anrê tham dự thôi (5,35-43; 9,2-9; 14,32-42). Trong truyện cho con gái Gia-ia sống lại, tác giả nói hai lần là Đức Giêsu chỉ đưa ba môn đệ ấy theo thôi (cc. 37.40). Họ không có nhiệm vụ nào cả; họ chỉ phải có mặt mà trực tiếp chứng kiến một hoàn cảnh bế tắc về phương diện con người, nhưng cũng thấy sự tin tưởng người ta đăt vào Đức Giêsu và thấy quyền lực siêu phàm của Người.
Trong sự cố bà băng huyết được lành, họ đã thấy: bà hoàn toàn không mong dựa vào sức lực con người nữa, nhưng bà vẫn không mất hy vọng, bà đặt tin tưởng nơi Đức Giêsu (c. 28). Gia-ia thì hy vọng là nhận được sự trợ giúp cho con gái ông đang hấp hối (c. 23). Nhưng trên đường về có Đức Giêsu cùng đi, ông đã được tin chẳng lành. Đây là điểm gay cấn. Có tương quan nào giữa Đức Giêsu và cái chết? Phải chăng Đức Giêsu có là thầy thuốc tài giỏi nhất, cũng phải bó tay trước cái chết? Người đã kêu mời Gia-ia đừng sợ hãi và thất vọng, nhưng hãy đứng vững trong niềm tin (c. 36). Giữa lời khuyên của các sứ giả (c. 35) và lời khuyến khích của Đức Giêsu, ông đã nghe theo Đức Giêsu và đi với Người đến với đứa con gái vừa tắt thở. Đức Giêsu không rút lại sự giúp đỡ đã hứa và tiếp tục tiến bước, dù bây giờ là tiến bước đến với một người đã chết.
Đến đây, Đức Giêsu muốn ba môn đệ chọn lọc có măt, không phải để họ tích cực làm việc gì, nhưng để họ tham dự vào sự cố thật gần gũi. Khi Đức Giêsu nói rằng em bé chỉ “ngủ” thôi, mọi người đều chế nhạo Người, bởi vì họ chắc chắn em đã chết. Bây giờ, Người lại làm một cuộc phân rẽ nữa: chỉ cha mẹ em bé và ba môn đệ được đi với Người vào gặp em bé đã hết. Họ đã chứng kiến hành động hết sức đơn giản của Người: Người chỉ cầm lấy tay em và gọi em dậy. Thế là chuyện không thể tin nổi đã xảy ra: em đứng dậy và đi lại được. Tác giả còn ghi lại một chi tiết cho thấy Đức Giêsu rất tinh tế: Người bảo họ “cho con bé ăn”.
* Kết: Phản ứng của dân chúng và lệnh của Đức Giêsu (42b-43)
Hành vi của Đức Giêsu đã làm nổ tung các giới hạn của mọi niềm hy vọng, và cả những giới hạn của kinh nghiệm của các môn đệ. Họ phải nhìn nhận: Đức Giêsu mạnh hơn sự chết. Các môn đệ không còn như trước nữa; một thực tại mới vừa xuất hiện ở chân trời kinh nghiệm của họ. Đứng trước cái chết, các môn đệ có thể trả lời với nó không chỉ bằng các tiếng than van rỗng tuếch, nhưng bằng niềm tin tưởng vào quyền lực của Đức Giêsu. Họ không mạnh, nhưng họ biết rằng Đức Giêsu rất mạnh.
+ Kết luận
Nơi ông Gia-ia và bà băng huyết, tác giả Mc cho chúng ta thấy hai ví dụ tương tự về bước đi của người tín hữu và câu trả lời họ nhận được từ Đức Kitô. Bên kia phép lạ thể lý, tác giả muốn giúp chúng ta cảm nhận được sự sống viên mãn Đấng Cứu Thế ban cho người tín hữu, lúc này, khi Người đã được tôn vinh bởi cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh.
5.- Gợi ý suy niệm
- Người Kitô hữu cũng là người được Đức Giêsu tách riêng ra để trải nghiệm quyền lực của Người trên những hoàn cảnh gay go. Chắc chắn Đức Giêsu không muốn chúng ta nhắm mắt khi đứng trước các giới hạn của khả năng con người, hoặc chao đảo giữa ảo tưởng và thất vọng. Chúng ta sẽ phản ứng thế nào? Là chứng nhân của Đấng là Chúa tể, chúng ta biết mời gọi người ta bình tĩnh giữ vững niềm tin? Hay là chỉ hùa theo số đông, buông xuôi theo hoàn cảnh khó khăn như một định mệnh khắc nghiệt?
- Ông Gia-ia đã chứng tỏ một đức tin đáng phục. Bà băng huyết cũng có những suy nghĩ và chọn lựa nói lên lòng tín thác. Bởi vì Đức Giêsu có đó để khuyến khích, trấn an, mời gọi họ vững vàng đi tới. Niềm tin vào Đức Giêsu hôm nay có giúp các môn đệ của Người hiên ngang tiến đi và làm điểm tựa cho người khác trong hành trình đức tin của họ?
- Cũng cần phải hiểu Đức Giêsu có uy quyền như thế, nhưng vì sao Người đã không cho mọi người chết sống lại, tức là hiểu ý nghĩa của việc Đức Giêsu cho em bé này sống lại, dù sau đó em sẽ lại chết. Bên kia phép lạ, Đức Giêsu mời gọi chúng ta khám phá ra mầu nhiệm bản thân Người. Bên kia cái chết thể lý, Người mời chúng ta hướng tới sự sống viên mãn.
- Trong hành trình phục vụ, nếu tin tưởng tuyệt đối vào Đức Giêsu, chúng ta sẽ tiếp tục tiến bước, dù con đường trước mắt có vẻ đã khép lại. Trong trăm công nghìn việc nhằm phục vụ hạnh phúc của con người, chúng ta vẫn được mời học lấy cái nhìn tinh tế và ân cần của Đức Giêsu: “cho con bé ăn”. Đức Giêsu thấy nhu cầu nhỏ bé của từng con người, dù bé nhỏ. Người không bao giờ vì số đông mà quên từng cá nhân và coi thường nhu cầu của từng cá nhân.
(Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux)
CON GÁI ÔNG GIAIRÔ VÀ
NGƯỜI ĐÀN BÀ MẮC CHỨNG BỆNH BẤT TRỊ
Giống như Matthêu (9,18-26) và Luca (8,40-56) ở đây Maccô cũng gói ghém hai mẩu chuyện vào chung một trình thuật. Ngoài ra người ta cũng tìm thấy ở đây cách mô tả Maccô vẫn thường dùng (x.3,20-35). Trình thuật diễn tiến như sau: Giairô van nài (c.21-24); chữa lành người đàn bà mắc bệnh bất trị (c.25-34) Phục Sinh con gái ông Giairô (c.35-43).
Sở dĩ các trình thuật được nối với nhau như thế là vì chúng có những điểm chung với nhau. Trước hết hai khuôn mặt chính trong trình thuật này là phái nữ: một người đàn bà và một bé gái. Và ở cả hai trường hợp, đức tin vẫn đóng vai trò trọng tâm trong tiến trình đến gặp Chúa Giêsu.
Vậy là Chúa Giêsu và các môn đệ đã về lại bờ hồ ở mạn tây thuộc vùng đất Israel. Một lần nữa, đám đông đã chờ sẵn ở đó (c.21). Họ tụ lại để xem Chúa Giêsu biểu diễn quyền năng cứu độ của Ngài. “Một ông trưởng hội đường tên là Giairô tiến đến” (c.22a). viên chức sắc Do Thái này tỏ ra rất kính trọng và tin cậy Chúa Giêsu (c.22b). lời cầu xin của ông ta biểu lộ một lòng tin sâu xa. Con gái nhỏ của ông đang trong cơn thập tử nhất sinh (c.23). Chẳng cần thốt một lời, Chúa Giêsu đủ nhạy cảm trước nỗi đau của một con người mang trong lòng niềm tin vào Ngài lớn lao như thế. Ngài liền đi theo ông ta, đàng sau là đám đông chen lần nhau tò mò sấn tới…
Và trong đoàn người chen chúc này xuất hiện một người phụ nữ. Bà ta bị rong huyết mạn tính từ mười hai năm rồi (c.25). trong các tác giả Tin Mừng, chỉ mỗi Maccô nêu rõ tình trạng vô vọng của bệnh nhân, các y sĩ thời đại tiền khoa học ấy chỉ tổ làm cho bệnh của bà ta tệ hơn mà thôi (c.26). Tuy nhiên, điều cần chú ý hơn hết ở đây là theo luật Do Thái, người phụ nữ này bị rơi vào tình trạng ô uế xét về mặt luật pháp, và tuyệt đối cấm không ai được đụng chạm với chị (Lv 15,19-27). Thế mà niềm tin mạnh mẽ đã thôi thúc bà ta rán lấn tới đụng cho được vào áo Chúa Giêsu từ phía sau lưng Ngài, dù chỉ là trong chớp nhoáng (c.27). Đối với chúng ta ngày hôm nay, cử chỉ này xem ra có vẻ khôi hài, nhưng Maccô đã cho chúng ta rõ lý do tại sao bà ta lại làm thế (c.28).
Ở phương Đông thời xưa, y phục là biểu tượng của nhân cách. Chạm vào y phục ai tức là đụng vào chính kẻ ấy. Và thời xưa ấy thường thấy có sự đụng chạm giữa người bệnh và thân thể người điều trị. Ở đây sự đụng chạm này đã có kết quả, bệnh rong huyết của người phụ nữ này dừng lại lập tức. Chi ta cảm thấy mình đã được bình phục (c.29). Về phía Chúa Giêsu, Ngài nhận thức ngay quyền năng nơi Ngài hoàn toàn hữu hiệu (c.30a). Ở đây khía cạnh sinh lý của việc lành bệnh được nhấn mạnh, tuy nhiên màn kế tiếp lại lôi kéo người ta chú ý đến vấn đề tôn giáo có liên quan. Chúa Giêsu hỏi ai đã chạm vào Ngài (c.30b). Âm giọng và câu hỏi Ngài thốt ra nghe như có vẻ trách cứ. Các môn đệ xem ra chẳng chú tâm đến câu Ngài hỏi bởi vì giữa một đám đông đang chen lấn xô đẩy tứ phía như thế mà Thầy lại hỏi: “Ai đã chạm đến Ngài?” thì quả là tức cười! Tuy nhiên, như thường lệ, Chúa Giêsu đảo mắt dò xét đám đông. Ngài muốn biết chủ nhân của hành vi táo bạo ấy (c.32). Bấy giờ người phụ nữ run sợ, thú nhận với Ngài lý do bà ta được chữa lành (c.33). Bà ta cảm thấy ái ngại, chờ đón lời quở trách của vị Tôn Sư thượng tôn luật lệ. Thế mà Chúa Giêsu lại trao cho bà sứ điệp giải phóng: “Lòng tin của con đã chữa con, hãy đi về bình an” (c.34). Lời nói của Chúa Giêsu làm nổi bật ý nghĩa sự cố này, đức tin mang lại ơn cứu rỗi mới là điều quan trọng, còn hơn cả việc lành bệnh về mặt thể lý. Không phải tình cờ mà Chúa Giêsu lập lại thành ngữ người phụ nữ đã sử dụng khi bà ta cầu mong: “Tôi sẽ được chữa khỏi” (c.28b). Và toàn bản văn trên nhằm cho thấy rõ đức tin vào Chúa Giêsu có thể mang lại kết quả là được Ngài ban cho một phép lạ hoàn toàn bất ngờ. Kể từ đó, dù cho người phụ nữ vô danh này không bao giờ được nhắc tới nữa thì Maccô cũng vẫn đã thành công trong công việc chứng tỏ Chúa Giêsu là Đấng giải thoát khỏi mọi sự dữ. Bởi vì ở đây gồm hai chiều kích vừa là căn bệnh bất trị vào thời đó, và còn hơn thế nữa, vừa hầu như bị khai trừ “ra khỏi lề luật” của cộng đoàn tôn giáo khởi nguồn từ các tổ phụ.
Tiếp nối việc chữa lành cho người phụ nữ bị xuất huyết là câu chuyện dang dở về đứa con gái của ông Giairô (c.21-23), Chúa Giêsu đang theo ông ta để tới chữa trị cho con gái của ông đang hấp hối (c,24), thì người nhà chạy tới báo cho ông ta hay đứa bé đã qua đời. Thế thì “làm phiền Thầy chi nữa” (c.35). Lời họ cho thấy rõ họ thiếu đức tin. Chúa Giêsu đâu chịu đầu hàng trước trở ngại mới xảy đến này. Ngài nói với người cha đang chịu thử thách: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi” (c.36). Trong trường hợp thực sự bi đát này, đây quả là lời kêu gọi hãy cẩn trọng một cách thật phi thường. Và không chần chờ thêm, Chúa Giêsu đã bắt tay vào hành động (c.37). Bên cạnh Ngài là bộ ba môn đệ được Ngài mến chuộng, ba vị này sẽ được Ngài cho tham dự vào cuộc biến hình (9,2) và cơn hấp hối của Ngài (14,33). Điều này đủ nói lên tầm quan trọng của sự kiện Chúa Giêsu sắp làm. Sau khi tới nhà ông Giairô, Chúa Giêsu đụng ngay đám người đang than khóc (c.38). Ở phương Đông tang chế thường om sòm huyên náo như thế muốn khỏa lấp đi sự bất lực của con người trước cái chết. Chúa Giêsu bước vào và muốn thuyết phục đám người than khóc nín đi. Theo Ngài thì đứa bé không chết, nó chỉ ngủ thôi (c,39b). Nghe thế người ta liền chế nhạo Ngài (c.40a). Maccô cẩn thận ghi rõ sự “không tin” của đám người này. Thế rồi Chúa Giêsu đuổi họ ra (c.40b). Và Ngài bước vào trong căn phòng đứa bé đã chết, chỉ bố mẹ đứa bé và ba môn đệ đươc phép theo vào (c.40c). Ở đây, trong bầu khí đức tin thân mật, Ngài thực hiện một cử chỉ đơn giản và thốt ra một lời cứu độ (c.41). Maccô đã cẩn thận bảo tồn những lời chính Chúa Giêsu thốt ra bằng tiếng mẹ đẻ của Chúa, tức tiếng Aram đồng thời dịch lời đó ra cho các độc giả của ông. Nên nhớ kỹ thuật dụng ngữ “hãy chỗi dậy” – nghĩa văn chương là hãy thức dậy – chính là dụng ngữ sẽ được dùng để chỉ cuộc Phục Sinh của Chúa Giêsu (16,6). Em bé lập tức được hồi sinh (c.42). Em đứng dậy bước đi. Sau đó các nhân chứng ra về nhưng như thường lệ Chúa Giêsu yêu cầu họ phải giữ im lặng tuyệt đối (c.43a). Sở dĩ Chúa Giêsu thường đòi buộc các người thân của Ngài giữ bí mật về Đấng Mêsia là vì đám quần chúng không đủ khả năng nhận biết Chúa Giêsu có quyền năng siêu việt trên sự chết. Quyền năng ấy chỉ có thể được nhận biết và được loan báo cho mọi người sau khi Chúa Phục Sinh. Và Maccô đã kết thúc bức tranh đầy màu sắc này bằng một chi tiết thi vị nói lên được nhiều ý nghĩa (c.43b). Toàn thể gia đình Giairô sau khi xáo động về sự cố đứa bé vừa sống lại, có thể trở về cuộc sinh hoạt bình thường và chính cô bé (12 tuổi) nữa cũng thế, như thể không có việc gì xảy ra.
Dù vẫn mang nét rung động trước hành vi nhân đạo của Chúa Giêsu, trình thuật trên vẫn để lộ ra đặc tính truyền đạt giáo lý. Maccô đang ngỏ lời với các Kitô hữu Rôma khá lâu sau biến cố Phục Sinh. Được đọc lại dưới ánh sáng Phục Sinh của Chúa Giêsu, trình thuật trên giống như một dự báo về những sự cố sẽ đến. Người ta có thể hiểu câu nói “Họ chế nhạo Ngài” là câu ám chỉ đến những giễu cợt, nhạo báng mà sau này Chúa Giêsu sẽ chịu trước mặt các trưởng tế và luật sĩ khi Ngài bị treo trên thập giá (15,31). Và đồng thời người ta cũng nhận ra cuộc Phục Sinh của Chúa Giêsu đã được đề cập tới qua việc Chúa làm cho cô bé đứng dậy (c.41).
Trình thuật này kết thúc một chuỗi bốn hành vi quyền phép của Chúa Giêsu (4,35-5,43). Dẹp yên bão tố, chữa lành kẻ bị quỷ ám ở Giêrasa, chữa lành người phụ nữ vô danh và bé gái con ông Giairô là những bằng chứng về quyền năng tối thượng của Chúa Giêsu trên sự sống lẫn sự chết. Người ta có thể đặt đề tựa cho toàn bộ các hành vi quyền phép này bằng câu tuyên bố trong thư thứ nhất thánh Phaolô gởi Kitô hữu Côrintô: “Hỡi thần chết, chiến thắng ngươi ở đâu” (15,55).
Và sau lời giảng dạy dựa trên dụ ngôn (4,1-34), tiến trình trên đây đã trình bày cho chúng ta thấy Chúa Giêsu là một vị tiên tri quyền năng không chỉ trong lời nói mà còn trong cả hành động. Ngài hoàn toàn chiến thắng sức mạnh Thần dữ và Thần chết. Qua đó các môn đệ hẳn phải suy nghĩ về nhân cách kỳ lạ của Thầy mình!
Đông đảo dân chúng tụ lại quanh Người. Lúc đó Người đang ở trên bờ biển hồ. Có một ông trưởng hội đường tên là Gia-ia đi tới. Vừa thấy Đức Giêsu, ông ta phủ phục dưới chân Người, và năn nỉ: “Con bé nhà tôi gần chết rồi. Xin Ngài đặt tay lên cháu, để nó qua khỏi và được sống”. Đức Giêsu liền ra đi với ông. Đông đảo dân chúng đi theo và chen lấn Người.
Tôi bắt đầu đọc lại đoạn này, tả một cảnh rất sinh động. Thánh Maccô ghi lại những lời rao giảng của Thánh Phêrô, một con người thực tế và có óc quan sát đúng đắn. Tôi tưởng tượng khung cảnh; tôi nhìn ngắm con người, tôi ghi nhận những sự kiện như trong một phim xi nê, hay hơn nữa tôi tưởng tượng tôi là một trong những người tham dự, đang ở giữa đám đông.
Có hai chi tiết đáng lưu ý: ông Giairô “khẩn khoản nài xin, khá lâu. Đức Giêsu bề ngoài không đáp tiếng nào, nhưng liền ra đi với ông ấy” và chúng ta thấy hai người cùng sánh vai lên đường với đám đông.
Trong tiếng Hêbdrơ tên Giairô (Yair) có nghĩa là “người soi sáng” hay là “người đánh thức”.
Có một bà kia bị băng huyết đã mười hai năm, bao năm khổ sở vì chạy thầy chạy thuốc đã nhiều, mà vẫn tiền mất tật mang, lại còn thêm nặng là khác. Được nghe đồn về Đức Giêsu, bà lách qua đám đông, tiến đến phía sau Người, và sờ vào áo của Người.
Thánh Maccô nhấn mạnh đến tình trạng tuyệt vọng của người đàn bà này: Bà đã đau đớn “rất nhiều”, chữa trị “lâu rồi”, hao tổn “cả tài sản” mà “không thuyên giảm chút nào”; bệnh tình lại có phần “tệ hơn”. Điều này muốn nhấn mạnh cho chúng ta rằng, Đức Giêsu có một quyền lực mà không một phương thế nhân loại nào có thế vượt qua được. Lạy Chúa, xin ban cho chúng con một đức tin sâu xa, ngõ hầu chúng con không bao giờ tuyệt vọng!
Vì bà tự nhủ: “Tôi mà sờ được vào áo Người thôi, là sẽ khỏi”.
Theo tâm thức người Do Thái thời đó, người đàn bà này bị coi như “ô nhơ” theo luật Môisen (Lv 15,25) và bà có thể làm cho những người khác cũng bị nhơ chỉ vì tiếp xúc với bà. Tôi cố hình dung ra thái độ của người đàn bà đáng thương này, vừa xấu hổ vừa e sợ: Bà sờ vào áo choàng của Đức Giêsu và cảm nghĩ như mình đang làm một việc bị cấm. Người có thể khước từ sự đụng chạm nhơ bẩn này. Và nếu đám đông biết điều này, mọi người sẽ gớm giếc tránh xa bà.
Và tôi ngắm nhìn Đức Giêsu, Đấng “đã đến để tìm kiếm và cứu chữa những gì bị hư mất”. Người đón tiếp những kẻ nghèo nhất. Không có một sự khốn khổ nào, dù dấu kín, xấu hổ đến đâu mà bị Đức Giêsu xua đuổi. Không có một luật nào đứng vững trước Đức Giêsu, khi cần phải cứu một người.
Lạy Chúa, xin giải thoát chúng con khỏi thói quen câu nệ lề luật, khỏi mọi sợ hãi và xấu hổ.
Tức khắc máu cầm lại, và bà cảm thấy trong mình đã được khỏi bệnh. Ngay lúc đó, Đức Giêsu thấy có một năng lực tự nơi mình phát ra. Người liền quay lại đám đông mà hỏi: “Ai sờ vào áo tôi vậy?” Các môn đệ thưa: Thầy coi dân chúng chen lấn Thầy như thế mà Thầy còn hỏi: “Ai đụng vào tôi?” Đức Giêsu ngó quanh để xem người phụ nữ nào đã làm điều đó”.
Chúa không muốn chỉ tiếp xúc với đám đông vô danh.
Người muốn có một sự tiếp xúc cá biệt, Người cũng muốn cho người đàn bà vượt lên trên sự tin tưởng mang tính ma thuật dị đoan (“nếu tôi sờ được áo Người, tôi sẽ được lành mạnh”), để bước vào một đức tin đích thực là phải nhận biết con người Đức Giêsu – Chúng ta nên nhớ rằng, Đức Giêsu là một nhà sư phạm thật tài ba: Người lưu ý đến đức tin chưa hoàn hảo và hồn nhiên, nhưng Người cũng muốn chúng ta đạt đến một đục tin trưởng thành và hữu lý hơn.
Lạy Chúa, con tạ ơn Chúa vì Chúa thương yêu con với thực trạng của con. Xin Chúa giúp chúng con trở nên như Chúa muốn.
Bà này sợ phát run lên, vì biết cái gì đã xảy đến cho mình. Bà đến phủ phục trước mặt Người, và trình bày hết sự thật. Người nói với bà ta: “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy đi về bình an và khỏi hẳn bệnh”.
Hai chữ “khỏi bệnh”, “được cứu rỗi”. Những phép lạ của Đức Giêsu, dưới cái nhìn của người Kitô hữu “Sau biến cố Phục sinh”, là những điềm loan báo “sự cứu rỗi do đức tin” mà chúng ta được hưởng nếu ta nhận biết Người.
Vâng, đối với Đức Giêsu, điều cốt yếu không phải là điều “huyền diệu”, phép lạ, nhưng là sự cứu rỗi. Vậy tôi cầu xin Chúa những gì?
Đức Giêsu còn đang nói, thì có mấy người từ nhà ông trưởng hội đường đến bảo ông: “Con gái ông chết rồi, làm phiền Thầy chi nữa?”. Tình cờ nghe được câu nói đó, Đức Giêsu bảo ông trưởng hội đường: “ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi”.
Đối với Đức Giêsu, chính đức tin mới quan trọng: ông Giai-rô đã chứng kiến sự hiện diện trước đó. Thánh Maccô kể lại cho chúng ta hai phép lạ này, như lồng vào nhau để cho chúng ta một cảm tướng về sự tăng trưởng trong đức tin: Tin rằng Đức Giêsu có thể chữa lành bệnh tật, tin rằng Người có thể làm cho kẻ chết sống lại.
“Ông còn phiền Thầy làm gì?”. Đối với người đồng thời với Đức Giêsu. Họ không thể nghĩ rằng, xin Chúa làm cho người chết sống lại là một việc có thể được. Chữa bệnh thì được, nhưng hồi sinh kẻ chết thì không phiền Thầy làm gì vì điều đó không thể làm được. Điều này nhấn mạnh đến sự nghịch lý trong đức tin.
Rồi Người không cho ai đi theo mình, trừ ông Phêrô, ông Giacôbê và em ông này là ông Gioan. Các Ngài đến nhà ông trưởng hội đường.
Một lần nữa, Đức Giêsu không muốn làm điều gì bề ngoài dễ gây kích động. Mỗi lần có thể được, Người kín đáo làm phép lạ. Hôm nay, Người chỉ dẫn theo ba nhân chứng có đủ tư cách nhất. Ba vị này cũng sẽ là nhân chứng lúc Người biến hình (Mc 9,12) và lúc Người hấp hối (Mc 14,33). Chúa không muốn quyền lực của Chúa trở thành một quyền lực ma thuật: Chính Người cũng sẽ có kinh nghiệm đau thương về cơn hấp hối và cái chết. Nhưng điều này đã xảy ra cho cô bé gái. Sự cứu rỗi duy nhất và vĩnh viễn đó là cuộc vượt qua cuối cùng, để bước vào cuộc sống vĩnh cửu.
Đức Giêsu thấy người ta khóc lóc, kêu la ầm ĩ. Người bước vào nhà và bảo họ: “Sao lại khóc lóc om sòm như vậy? Con bé có chết đâu nó ngủ đấy?”. Họ chế nhạo Người. Nhưng Người bắt họ ra ngoài hết.
Đức tin của ông Giai-rô và của ba Tông đồ bị thử thách nặng nề do thái độ không tin của đám đông chung quanh, và việc họ nhạo báng Đức Giêsu.
Rồi dẫn cha mẹ đứa trẻ và những kẻ cùng đi với Người vào nơi nó đang nằm, Người cầm lấy tay nó.
Ôi bàn tay của Đức Giêsu đang làm những điều kỳ diệu! Bàn tay Người đang nắm một bàn tay đã chết. Sự tiếp xúc với thân thể Chúa cũng thế. Khi chúng ta rước Chúa, mầu nhiệm sống động này được tái thực hiện.
Và Người nói: “Talitha Kum”.
Chỉ mình Maccô ghi lại lời này bằng tiếng Aramên, tiếng mẹ đẻ của Đức Giêsu. Maccô biết được chuyện này do Thánh Phêrô, người hiện diện ở đó thuật lại. Chính những chi tiết nhỏ ấy cho thấy Phêrô là người đã mục kích. Những kỷ niệm này được một nhân chứng đã nghe, đã xúc cảm ghi giữ. Thực vậy, suốt đời Thánh Phêrô luôn nhớ hai chữ “Talitha Kum”.
Nghĩa là “Này con, Thầy truyền cho con chỗi dậy đi!”.
Thực ra, hai chữ tiếng Aramên này có thể dịch ngắn hơn nhiều: “Bé gái, đứng dậy”. Nhưng Thánh sử Maccô đã muốn diễn dịch dài hơn và đã dùng một từ chủ yếu của những Kitô hữu đầu tiên. Sau “Phục sinh”: “Hãy chỗi dậy”, tiếng Hy Lạp là “egeiré”, có nghĩa là “thức dậy”. Đó là từ đã được dùng để nói về sự Phục sinh của Đức Giêsu. Chữ này có một ý vị Phục sinh. Đó là chữ đối nghĩa với “ngủ” mà Đức Giêsu đã dùng trước đây để nói về cái chết. Vâng, đối với Đức Giêsu, cái chết không còn thật sự là chết nữa, đó là một giấc ngủ.
Một bài Thánh ca rất xưa của những người Kitô hữu đầu tiên được hát trong nghi lễ rửa tội như sau: “Hỡi người đang ngủ thức dậy đi, ngày đã sáng lên rồi. Từ cõi chết hãy đứng lên. Chúa sẽ chiếu sáng trên ngươi”. (Chúng ta đã nói là chữ faire, có nghĩa là “người soi sáng”, “người đánh thức”, đấy là biểu tượng của phép rửa tội) (Ep 5,14).
Đó là Phép rửa của tôi. Đó là sự sống của tôi, người đã được rửa tội. Tôi có tin thực rằng tôi đã nhận được cùng một ơn lành như cô bé này không? Qua phép rửa tội của tôi tôi đã đi từ cái chết đến sự sống. Cuộc sống vĩnh cửu của tôi đã bắt đầu. Phải chăng tôi là một người không ngừng “chỗi dậy”, “thức dậy”? Tôi có nghe Đức Giêsu cũng nói lại với tôi: “Đứng lên”, “chỗi dậy”, “thức dậy”, “sống lại” không? Nói những tình trạng chết chóc mà đức tin giải thoát cho tôi là gì?
Con bé liền đứng dậy và đi lại được, vì nó đã mười tuổi. Vừa thấy thế, người ta kinh ngạc sững sờ. Đức Giêsu căn dặn họ đừng cho ai biết việc ấy, và bảo họ cho đứa trẻ ăn.
Sự sống chiến thắng cái chết, đặt những người chứng kiến cảnh này vào trung tâm của huyền nhiệm: Họ bị “xuất hồn” kinh ngạc tột độ. Lệnh Chúa truyền phải im lặng lại càng nhấn mạnh cảm tưởng bí mật mà chúng ta đã có: Mầu nhiệm đích thực của Đức Giêsu không thể hiểu được đối với những người không có đức tin. Cho người ta thấy “phép lạ” bề ngoài là vô ích, người ta sẽ cho đó là “trò ma thuật”, và Đức Giêsu không muốn người ta coi Người như một nhà phù thủy. “Người bảo cho cô bé ăn”. Đó không chỉ là một sự chăm sóc ưu ái và cảm động. Trong biểu tượng của phép rửa, người “đi từ cõi chết đến cõi sống nhờ phép rửa, được đưa vào bàn Tiệc Thánh Thể: Một người sống thì phải ăn, một người đã được rửa tội phải ăn “Bánh hằng sống”, Thánh Thể và Phép rửa tội liên kết mật thiết với nhau. Đó là Mầu nhiệm Đức Tin.
(Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt)
CHỮA LÀNH MỘT PHỤ NỮ BĂNG HUYẾT
VÀ PHỤC SINH CON GÁI GIAIRÔ
1) Ơn cứu rỗi được ban trong Chúa Giêsu Kitô.
Cả hai phép lạ đều cho thấy ơn cứu rỗi được ban cho con người. Giairô đến xin Chúa Giêsu cho con gái ông “được sống và được cứu”; bà băng huyết tìm cách sờ đến Chúa Giêsu vì tin chắc sẽ được cứu. Cả hai đã kinh nghiệm về sự bất lực của con người trong việc tìm lấy ơn cứu rỗi. Chính trong ý thức ấy đã vạch ra niềm tin vào Chúa Kitô, Đấng duy nhất có thể cứu con người ra khỏi tình thế tuyệt vọng mà trong đó họ đã chìm đắm. Nhưng đức tin không phải là một sự hiển nhiên, vì Chúa Kitô bị che dấu giữa đám đông đang mỉa mai Người và đang chuẩn bị từ bỏ Người. Người là Đấng duy nhất có thể cứu, nhưng cũng chỉ những ai tin mới phân biệt được trong sự yếu đuối phàm nhân của Người sức mạnh của Thiên Chúa và như thế mới nhận được ơn cứu rỗi. Trong Giairô và người đàn bà bị băng huyết, Maccô trình bày cho ta hai tấm gương giống nhau về thái độ tự ý của kẻ tin và việc Chúa Giêsu trả lại họ. Bên kia các phép lạ của thể lý, thánh sử cho ta cảm nhận sự sống tràn đầy mà Cứu Chúa ban cho Kitô hữu từ khi Người được tôn vinh nhờ cuộc tử nạn và phục sinh của Người.
2) Biến cố.
Nhưng nếu giáo huấn của hai trình thuật song song với nhau, thì độc giả ngày nay có thể thắc mắc: trường hợp sau phải chăng là một cuộc sống lại thực sự? Không thể chấp nhận rằng truyền thống Kitô giáo đã bày đặt toàn thể các phép lạ được gán cho Chúa Giêsu và óc khoa học vô tôn giáo chẳng triệt để từ chối sự có thể có nhiều hiệu quả phi thường do một vài mãnh lực huyền bí phát xuất từ những nhân vật ngoại hạng. Hiển nhiên óc khoa học đó không thể chấp nhận sự phục sinh của Chúa Kitô cũng như của một kẻ nào khác. Còn Kitô hữu tin vào sự phục sinh của Chúa Kitô và vào quyền lực hiện tại của Người đối với sự chết, quyền lực mà Người sẽ thi thố trên thân xác chúng ta trong ngày cánh chung. Nhưng có phải trình thuật chúng ta quá rõ rệt đến nỗi phải kết luận rằng đây đúng là cuộc phục sinh con gái Giairô không?
Khi lấy lại trình thuật của Maccô, và hơn cả Luca, Matthêô đã nhấn mạnh đến thực tại cái chết của đứa bé; thật vậy nơi ông, Giairô đã minh nhiên đến cầu xin cho con gái sống lại. Ta phải chấp nhận rằng truyền thống Maccô là xưa nhất và cũng là phù hợp với thực tế nhất: thật vậy, người ta không thấy tại sao truyền thống Matthêô là truyền thống tường thuật rõ ràng một cuộc phục sinh, lại có thể đã bị Maccô che dấu đến nỗi trong trình thuật của Mc, lời Chúa Giêsu tuyên bố “Đứa bé không chết, nó ngủ đấy thôi” có thể cho hiểu là theo ông, nó không chết thật. Như cha Lagrange đã viết Maccô “không làm yếu đi những điểm xem ra dẫn đến giả thuyết một sự hôn mê” (Evangile selon saint Marc, Paris, 1942, tr. 146).
Khi thốt lên câu ấy, Chúa Giêsu chưa thấy đứa trẻ và sự vô tri mà Người vừa biểu lộ trong trường hợp người đàn bà băng huyết khiến ta nghĩ rằng Người không biết trạng thái chính xác của đứa trẻ. Không thể giải thích câu “Nó không chết, chỉ ngủ đấy thôi” như là lời khám bệnh của một bác sĩ. Vì thế phải tránh xác định câu đó, dầu trong nghĩa hôn mê hay chết thật. Chúng ta không thể biết điều mà Chúa Giêsu đã nghĩ trong trường hợp ấy và Maccô không cho phép ta trả lời câu hỏi nầy vì ông đã chẳng viết với một não trạng khoa học như não trạng chúng ta ngày nay. Đối với ông, sự khác biệt căn bản mà chúng ta đặt giữa cái chết và hôn mê không có vì trong não trạng tôn giáo của ông, cái chết và bệnh tật đều phát xuất từ ảnh hưởng của tội và của ma quỷ. Thành ra chúng ta không thể xác định lời tuyên bố của Chúa Giêsu, dù cho theo nghĩa chết thật hoặc hôn mê. Chúng ta sẽ không bao giờ biết điều Chúa Ciêsu đã nghĩ trong trường hợp ấy, vì những lời của người được truyền lại cho ta trong một bối cảnh thuần túy tôn giáo muốn loan báo ơn cứu rỗi được ban cho người tin hơn là xác định bản chất đích thực của phép lạ được thực hiện. Vì dù đề cập đến một cuộc chữa lành hay một sự phục sinh thật, thì trình thuật Maccô cũng chỉ muốn thúc giục ta trả lời câu hỏi sau đây: hôm nay chúng ta có tin là Chúa Kitô phục sinh có thể loan ơn cứu rỗi và sự chiến thắng cái chết cho chúng ta không? (Jean Potin, Assemblécs du Setgneur 44, tr.38-47).
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Qua bài Tin mừng, ta thấy được thế nào là sức mạnh của đức tin. Đức tin giúp thắng vượt những nghi ngờ: Giairô mà không cần những hiển nhiên, những lý luận nhân loại. Đức tin giúp thắng vượt những rụt rè nhút nhát: nhờ tin mà người đàn bà băng huyết chế ngự được nỗi sợ hãi, sợ gây ô uế cho người ta, sợ đám đông phát giác; bà đã tin rằng năng lực chữa bệnh và cho sống lại của Chúa Giêsu còn mạnh hơn sự truyền nhiễm cơn bệnh mà bà đau khổ đã 12 năm. Thật là một niềm tin mạnh mẽ, mạnh mẽ như niềm tin của người bất toạt dám dỡ mái nhà để moi cho được lòng tốt của Chúa (Mc 2,1-12) như niềm tin của người trộm lành, trong một lần hành nghề cuối cùng, đã ăn trộm Thiên đàng khi tin vào lòng thương xót vô biên của Chúa Giêsu. Đức tin có thể chuyển núi dời non lay động được quả tim Thiên Chúa.
2) Nên chú ý tới hai khía cạnh trong câu hỏi của Chúa Giêsu đối với người phụ nữ bị bệnh băng huyết. Chúa Giêsu dùng việc chữa lành bệnh mở đầu một cuộc đàm thoại. Thứ đến Người dạy: việc Người làm vượt xa hơn việc chữa lành thể xác: Người cứu được nếu người ta tin vào Người.
Bà ấy không lầm khi hy vọng rằng chỉ sờ vào gấu áo của Chúa Giêsu là sẽ được lành bệnh. Nhưng Chúa Giêsu không phải là một sức mạnh tác động nặc danh. Một thành phần bị quên lãng, bị khuất giữa đám đông đều là người mà Chúa Giêsu lưu ý đến. Tại đây chúng ta thấy Chúa nói với bệnh nhân: Đối với người, bà không phải là một con số giữa đám đông. Người đưa dịp cho bà trở lại, cho bà ý thức, cho bà đàm thoại. Người hành động như thế để cho bà hiểu: đối với Chúa, bà cũng có phẩm giá con người. Cuối cùng Người nói với bà: “Con ơi, đức tin đã cứu con”. Trong kiểu nói của thánh Maccô, chữ Cứu có nghĩa là Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, đã đưa chúng ta từ cảnh trụy lạc, tội lỗi đến sự sống lại với Người. Lúc đó bà băng huyết chưa hiểu nổi lời Người. Chúng ta nhờ Tin mừng hiểu được điều ấy.
Đức tin của tôi vào Chúa Kitô có sống động đến nỗi thấm nhiễm vào các nỗi đau khổ của tôi và sự chết của tôi, một sức mạnh, một sự sống cao độ không? Tôi có cảm thấy vui mừng khi thiết rằng Chúa Giêsu lưu ý đến một cách riêng không?
3) Bài Tin mừng hôm nay còn cho thấy đức tin có nhiều cấp độ. Đầu tiên là đức tin sơ khai của ông Giairô lúc mới đến gặp Chúa Giêsu. Bất lực trước đau khổ, ông đi tìm Chúa Giêsu vì nghe rằng Người có một quyền năng thần thông nào đó thứ đến là đức tin tính toán, vụ lợi, hơi mê tín của người đàn bà lén đến bên Chúa Giêsu, mong ăn cắp được sức mạnh kỳ diệu từ nơi Người, nhưng rồi khi bị phát giác, đức tin của bà tiến lên cao hơn, trở thành một cuộc gặp gỡ, đối thoại, tương giao với Chúa Giêsu; và sau cùng là đức tin trọn vẹn của Giairô tin vào Đấng phục sinh được kẻ chết.
Trong cuộc sống của mỗi người chúng ta, hình như đức tin cũng vượt qua các cấp độ đó. Đầu tiên chúng ta đã tin vào Thiên Chúa vì thất vọng trước sức con người, vì tự bản năng cảm thấy phải bám víu, cầu khẩn một Đấng cao hơn. Rồi tới khi biết được quyền năng của Thiên Chúa, thấy bao kỳ công Ngài đã làm trong lịch sử, qua Thánh Kinh, ta lại có khuynh hướng lợi dụng Ngài, giữ đạo là chỉ mong được muôn ơn phúc hồn xác, bất mãn khi gặp thất bại hoạn nạn. Dần dần đức tin ta được thanh lọc, biến thành một cuộc gặp gỡ đối thoại với Thiên Chúa, gắn bó vào Ngài trải qua mọi thử thách. Nhưng rồi phải tiến lên cao hơn nữa, biến thành đức tin vào sự phục sinh, tin rằng dù bề ngoài có vẻ như tan vỡ, tận diệt, vẫn có một đời sống mới cả hồn lẫn xác chờ ta bên kia thế giới, bên kia cái chết, bên kia thời gian, tin rằng Thiên Chúa có quyền năng đổi mới mọi sự cho ta và cho mọi người.
“Hỡi em bé, Ta bảo em hãy chỗi dậy!”
- Ý CHÍNH:
Phụng vụ hôm nay muốn chúng ta xác tín rằng cho được chấp nhận Tin Mừng cứu rỗi và hưởng các ơn lành của Nước Trời, thì phải có đức tin. Qua bài Tin Mừng hôm nay Thánh Maccô cho ta thấy hai mẫu đức tin: đức tin sáng suốt của ông Trưởng hội đường là Giairô và đức tin chất phác của người đàn bà loạn huyết.
- SUY NIỆM:
1) “Chúa Giêsu đã xuống thuyền trở về bờ bên kia”:
Bỏ địa hạt Cêsarê. Chúa Giêsu lại trở về Capharnaum. Thấy Người trở lại, dân chúng đến đón Người rất đông. Họ xúm lại quanh Người, hy vọng Người tiếp tục giảng dậy và làm phép lạ.
2) “Bỗng có một ông Trưởng hội đường tên Giairô đến”
Giairô là Trưởng hội đường nghĩa là một người có địa vị và thế giá trong dân. Điều này nói lên việc ông làm là một việc có ý thức và có thế giá.
3) “Trông thấy Người ông sụp lạy và van xin rằng”:
Thái độ của Giairô trước Chúa Giêsu diễn tả niềm tin của ông: “ông sấp mình dưới chân Thầy”.
Thái độ của những người đến cầu khẩn Người (Mc 1, 40; 7, 25) hoặc nhận ra Người là kẻ được Thiên Chúa sai đến (Mc 10, 17; 15, 19).
Thái độ này cũng giống như thái độ của ma quỷ đã nhờ óc thông sáng mà nhận ra Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa (Mc 3, 11; 5, 6).
4) “Con gái tôi đang hấp hối, xin Ngài đến đặt tay trên nó để nó được khỏi và được sống”:
“Xin Ngài đặt tay trên nó”: Cử chỉ đặt tay trên bệnh nhân là cử chỉ Chúa thường dùng khi cứu chữa bệnh nhân được khỏi bệnh (Mc 6,5; 7, 32; 8, 23). Xin Chúa đặt tay tức là tin rằng chỉ có Người mới chữa khỏi được bệnh cho con ông.
“Để nó được khỏi và được sống”: Để nó được lành bệnh và được khoẻ mạnh, dù có hấp hối nguy ngập thì nó cũng được khỏi và được khoẻ mạnh. Thái độ này của Giairô biểu lộ một đức tin vững vàng, xác tín vào quyền năng của Chúa Giêsu.
5) Chúa Giêsu ra đi với ông:
Đây là thái độ Chúa Giêsu chấp nhận niềm tin của ông Giairô. Đám đông dân chúng đi theo là muốn được chứng kiến phép lạ Chúa sắp làm cho con ông Giairô.
6) “Vậy có người đàn bà bị bệnh xuất huyết đã 12 năm”:
Theo luật Môisen (Lv 15, 25) bệnh xuất huyết là thứ bệnh dơ nhớp, bệnh nhân không được công khai giao thiệp với dân chúng.
Ở đây nói lên tình trạng cô đơn, khốn khổ của bệnh nhân.
7) “Bà đã chịu cực khổ tìm thầy chạy thuốc…”
Đây là cách diễn tả nói lên nỗi khốn khổ của bà và sự bất lực của con người trước cơn bệnh cay nghiệt này.
8) “Khi bà nghe nói về Chúa Giêsu…”
“Nghe nói về Chúa Giêsu”: Nghe cũng là cách dẫn đến đức tin. Mới chỉ nghe nói mà bà đã tin Chúa Giêsu là Người có thể cứu chữa bà.
“Chạm đến áo Người”: Đây là thái độ liều lĩnh của bà đã xé rào luật lệ ngăn cấm, là thái độ chứng tỏ đức tin vững vàng của bà, vì bà tự nhủ.
“Miễn sao tôi chạm vào áo Người thì tôi sẽ lành”: Cử chỉ chạm tới áo Chúa Giêsu cũng như cử chỉ Chúa Giêsu đặt tay trên bệnh nhân đã nói lên rằng sự động chạm thể lý rất cần thiết để sức mạnh thiêng liêng tác dụng trên con bệnh. Ở đây ám chỉ Bí tích, cử chỉ bên ngoài biểu lộ ơn thiêng liêng bên trong.
9) “Lập tức bà cảm thấy trong mình đã được khỏi bệnh”:
Đức tin đã dẫn bà đến với Chúa Giêsu và bà đã được khỏi bệnh. “Ai đến với Chúa Kitô thì được cứu rỗi”.
10) “Chúa Giêsu nhận biết có sức mạnh phát xuất từ mình”:
Con người Chúa Giêsu có một quyền lực ẩn dấu mà kẻ vô tín không thể nhận biết, chỉ được mạc khải cho ai có con mắt đức tin.
11) “Ai đã chạm đến áo Ta?”:
Đặt câu hỏi này Chúa Giêsu không có ý hỏi cho mình vì Người biết rõ mọi sự, nhưng hỏi để hướng dẫn, để giáo huấn người khác.
Ở đây cho người đàn bà biết rằng việc bà được khỏi bệnh không phải do việc bà sờ vào áo Người vì đây chỉ là dấu bên ngoài, nhưng là do sức mạnh phát xuất từ Người, nghĩa là hoàn toàn bởi Chúa, và do ý Chúa muốn.
Cho đám dân chúng đang chen lấn chung quang, biết có phép lạ đó. Vì phép lạ này xẩy ra trong âm thầm không ai biết đến trừ chính người bệnh và Chúa Giêsu. Chúa cho họ đang theo Chúa để chứng kiến việc xẩy ra cho con gái ông Giairô.
Cho các môn đệ đang theo Người được biết là có phép lạ, để tin nhận vào quyền năng của Người.
12) “Bà liền đến sụp lạy Người và thú nhận với Người”:
Đức tin chất phác khiến bà tìm cách sờ đến áo Chúa, bây giờ được tuyên xưng một cách đích thực, qua thái độ sụp lạy của bà.
13) “Hỡi con, đức con đã chữa con”:
Lời này nói lên ý nghĩa của phép lạ đây không phải chỉ là sự lành bệnh thể lý do việc đụng chạm bên ngoài đến con người Chúa Giêsu, nhưng còn là ơn cứu rỗi, là sự sống vĩnh cửu, ban cho những ai lấy đức tin đến cùng Người.
14) “Con gái ông chết rồi còn phiền Thầy làm chi nữa”:
Qua lời báo tin này, ta thấy thái độ không tin của người nhà ông Giairô và cũng là thử thách cho đức tin của ông Giairô.
15) “Ông đừng sợ, hãy cứ tin”:
Sự im lặng không phản ứng của người cha trước lời về báo tin của người nhà và cái chết của đứa con gái đã cho thấy ông vẫn kiên trì trong đức tin. Chính vì thế Chúa Giêsu đã khích lệ ông “Hãy cứ tin”. Qua lời khích lệ này cho thấy Chúa Giêsu muốn cho ông Giairô đừng để lòng tin mình bị chao đảo, vì mọi sự đều có thể cho kẻ tin (Lc 9,23) như Chúa Giêsu sẽ nói với cha đứa trẻ bị kinh phong sau này.
16) “Cô bé không chết đâu, nó đang ngủ đó”:
Lời báo tin của người nhà cũng như thái độ cười nhạo của những người chung quanh không tin vào quyền năng của Chúa Giêsu cho thấy cô bé đã chết thật. Nhưng ở đây Chúa Giêsu lại bảo cô bé đang ngủ. Người nói thế là vì Người muốn tỏ ra rằng Người làm cho kẻ chết sống lại cũng dễ dàng như người ngủ thức dậy vậy, đồng thời để người khó tin được dễ hiểu.
17) “Nhưng Người đuổi họ ra ngoài hết”:
Chúa đuổi dân chúng đi vì họ chế nhạo Người khi Người nói cô bé đang ngủ. Những người không tin thì không đáng được nhìn xem phép lạ Chúa làm.
Chỉ đem theo cha mẹ đứa bé và những môn đệ đã theo Người vào chỗ đứa bé nằm. Được chứng kiến phép lạ chỉ có 5 người là cha mẹ cô bé và 3 môn đệ là Phêrô, Gioan và Giacôbê, cũng là 3 môn đệ sẽ chứng kiến việc Chúa Giêsu biến hình (Lc 9, 2) và việc Chúa đổ mồ hôi máu trong vườn Cây Dầu (Mc 14, 33). Đây là những người có thiện chí, có niềm tin nên được chứng kiến. “Đã có thì lại cho thêm”.
18) “Người cầm tay đứa bé và nói: hỡi em bé Ta truyền cho em hãy chỗi dậy”:
+ “Người cầm tay em bé”: Cử chỉ này không những nói lên sự đụng chạm thể lý, nhưng còn ám chỉ sự can thiệp hùng mạnh của bàn tay Thiên Chúa trong việc cứu rỗi dân Người.
+ “Ta truyền cho ngươi hãy chỗi dậy”: Truyền lệnh cho ai là có quyền trên người đó. Ở đây tỏ ra Chúa có quyền trên sự chết và sự sống. Người làm chủ kẻ chết và người sống
19) “Họ sửng sốt kinh ngạc”:
Đây là thái độ kinh ngạc linh thánh của những người được chứng kiến phép lạ tỏ uy quyền Chúa (Mc 1, 27; 2,12; 4,41).
20) “Nhưng Người cấm ngặt họ đừng cho ai biết”:
Chúa muốn ngăn chân sự bồng bột của dân chúng trong quan niệm về Đấng Cứu Thế của họ. Đồng thời Người muốn tỏ ra chỉ có sự sống lại sau này của Người mới có thể soi chiếu hoàn toàn phép lạ này. Chính các môn đệ được chứng kiến phép lạ này sẽ là người làm chứng cho việc Chúa sống lại sau này.
21) “Và bảo họ cho em bé ăn”:
Đây cử chỉ chứng thực em bé đã sống lại và khoẻ mạnh thực sự, đúng như sự khấn xin của người cha, và đây cũng là hiệu quả của niềm tin vào Chúa Kitô.
III. ÁP DỤNG:
1) Áp dụng theo Tin Mừng:
+ Giáo Hội muốn dùng bài Tin Mừng này để củng cố niềm tin của chúng ta vào quyền năng của Thiên Chúa và biết tín thác vào Người trong mọi sự.
+ Qua gương tỏ bày niềm tin của ông Giairô và của người đàn bà bị bệnh loạn huyết, Giáo Hội muốn chúng ta thực sự tỏ bày niềm tin của mình vào quyền năng và tình thương của Chúa mỗi khi chúng ta đến cầu xin với Người.
+ Lời Chúa hôm nay dậy ta: Mọi ơn lành ta được là do quyền năng Chúa ban và đòi hỏi ở ta lòng tin kính biết ơn, đồng thời cũng bảo ta phải lấy đức tin mà đọc Lời Chúa và chịu các Bí tích là những trung gian làm cho ta được tiếp nhận, tiếp xúc với Chúa là nguồn mạch mọi ơn lành ơn.
2) Áp dụng thực hành:
* Nhìn vào Chúa Giêsu:
- a) Chúa Giêsu ra đi với ông ấy: Chúa Giêsu sẵn sàng đáp ứng lời van xin của ông Giairô. chúng ta hãy quảng đại và sẵn sàng đáp ứng bằng sự phục vụ và giúp đỡ khi tha nhân cần đến mình.
- b) Ai đã chạm đến áo Ta?: Chúa hỏi để gây sự chú ý và nhờ đó Người giáo huấn. Chúng ta cũng cần phải biết dùng mọi biến cố, mọi hình thức cụ thể trước mắt để giáo dục, hướng dẫn và thăng tiến tha nhân.
- c) Họ cười chê Chúa: Kẻ có trách nhiệm thì phải kiên nhẫn, chịu đựng lời ra tiếng vào của thiên hạ, để chu toàn công việc của mình và nêu gương can đảm cho người khác.
* Nhìn vào ông Giairô:
- a) Đức tin có nhiều cấp độ:
– Đức tin sơ khai: Đến với Chúa vì thấy mình bất lực.
– Đức tin trọn vẹn: Tin vào Đấng phục sinh được kẻ chết, tin vào Chúa làm cho con mình sống.
Đức tin của chúng ta cũng phải tiến lên, lớn mạnh:
– Tin vào Chúa vì thấy mình bất lực.
– Tin vào Chúa vì thấy quyền năng của Người được bày tỏ qua các kỳ công, qua Thánh Kinh.
– Tin vào Chúa đến độ khao khát muốn tìm gặp Chúa, đối thoại với Chúa, gắn bó với Chúa.
– Tin vào sự Phục sinh: Dù có trải qua thử thách ta vẫn tin Chúa có quyền năng đối với mọi sự cho ta và cho mọi người.
- b) Sự thinh lặng của ông trước lời báo tin con ông chết: chúng ta cũng phải bình tĩnh và duy trì niềm tin vào Chúa trước mọi thử thách, mọi cám dỗ, mọi đe doạ.
* Nhìn vào người đàn bà bị bệnh xuất huyết:
Nhờ tin mà bà đã chế ngự được sự sợ hãi, sợ gây ô uế cho người ta, sợ đám đông phát giác.
Giữa đám đông, bà đã được Chúa lưu ý cách riêng, vì bà biết tin vào Chúa. Dù sống hoàn cảnh nào Chúa cũng lưu ý đến ta, miễn sao ta tin vào Người.
* Nhìn chung cả hai trường hợp:
Ông Giairô và người đàn bà bị bệnh xuất huyết:
+ Hành vi đức tin luôn là một quyết định liều lĩnh (un rissque)
+ Duy trì đời sống đức tin là một chuỗi liên tục những dấn bước liều lĩnh được vượt thắng.
+ Công nghiệp của người tín hữu bắt nguồn từ những dấn bước kiểu Abraham ấy.
* Nhìn vào ba môn đệ, nhìn vào đám dân chúng:
“Ai tin ở Người thì được sự sống đời đời” (Ga 3,15) lời hứa đầy phấn khởi.
Đức tin ngày hôm nay của bạn có hiệu lực chung quyết về hạnh phúc vĩnh cửu. Hạnh phúc đó đã có nơi bạn, đang biến đổi bạn và gia tăng mức độ đức tin của bạn.
Thời đại nào cũng vậy, nhiều người có thiện cảm với đạo công giáo nhưng không tin vì đủ loại lý do. Đó là tại chúng ta chưa giới thiệu đủ cho họ về Đức Kitô.
“Nhờ Người mà thế gian được cứu”. “Nhờ Người mà được sống đời đời”.
Đời bạn phải như chuyến đò đưa khách sang sông. Chuyến đò tiếp đón mọi thành phần đến với mình, đưa tha nhân sang bến bờ để gặp Thượng Đế.
Khi khách tới nơi, chiếc đò không đòi cám ơn. Và hết ngày này qua ngày khác, nó kiên trì với công việc đến khi không làm được nữa.
84. Chú giải của William Barclay
TRONG GIỜ CẦN KÍP (Mc 5,21-24)
Ở đây có đầy đủ các yếu tố của một thảm kịch. Khi có một đứa trẻ lâm bệnh, bao giờ cũng là chuyện đáng lo. Câu chuyện này cho chúng ta biết ông trưởng hội đường có đứa con gái mười hai tuổi ngã bệnh nặng. Theo tập tục Do Thái, một cô gái được kể là trưởng thành vào lúc được mười hai tuổi một ngày. Cô gái này đang đứng trước ngưỡng cửa để trở thành người lớn mà cái chết lại đến đúng vào lúc ấy thì bi thảm gấp bội.
Câu chuyện cho chúng ta biết đôi điều về ông trưởng hội đường này. Người này chắc phải là một nhân vật quan trọng, ông là chủ tịch Ban Quản Trị hội đường và là chủ tịch Hội đồng Kỳ mục có trách nhiệm thu xếp mọi việc trong hội đường cho tốt đẹp. Ông có trách nhiệm trong việc chỉ đạo các buổi hội họp, có trách nhiệm phân phối công việc và xem xét mọi việc thực hiện đúng khuôn phép và trật tự. Ông là nhân vật rất quan trọng và khả kính nhất trong cộng đồng, nhưng khi con gái ông ngã bệnh, ông nghĩ ngay đến Chúa Giêsu.
1/ Ông đã quên đi các thành kiến.
Chắc trước đó ông đã coi Chúa Giêsu như một người xa lạ, một người giảng tà giáo rất nguy hiểm, bị các hội đường cấm cửa, một người mà bất luận người nào coi trọng chính thống giáo cũng phải xa tránh. Nhưng ông đủ khôn ngoan để biết từ bỏ các thành kiến của mình vào giờ cần thiết. Thật ra thành kiến có nghĩa là sự phê phán, xét đoán trước. Đó là một phán đoán đã hình thành trước khi xem xét bằng chứng, hoặc một án lệnh đưa ra vì không chịu xem xét những chứng cớ. Hầu như mỗi sự tiến bộ đều là một cuộc đấu tranh chống lại các thành kiến trước kia người ta đã có về nó. Lúc Sir James Simpson phát minh ra cách dùng Chloroform làm thuốc mê, nhất là khi sanh nở, người ta cho rằng đó là “mồi của Satan, thoạt nhìn dường như đem lại hạnh phúc đến cho phụ nữ nhưng rốt cuộc khiến họ cứng lòng và cướp mất của Thiên Chúa những tiếng kêu xin sâu xa, nhiệt thành đáng lẽ phải được dâng lên cho Ngài trong cơn hoạn nạn”. Một thành kiến ngự trị trong con người sẽ phải đóng chặt tâm trí làm mất khả năng lãnh nhận các phúc lộc.
2/ Ông đã quên đi phẩm giá của mình.
Ông là trưởng hội đường mà lại đến hạ mình dưới chân Đức Giêsu, là một ông thầy giảng đạo nay đây mai đó. Lắm khi người ta phải quên đi phẩm giá của mình để cứu lấy một mạng sống, cứu lấy linh hồn của mình. Trong câu chuyện xưa được kể lại, có trường hợp của Naaman (2V 5). Ông ta phải đến thưa với Êlisê để được chữa khỏi bệnh phong. Đơn thuốc Êlisê kê ra là ông ta phải xuống sông Giođan tắm bảy lần. Thật là cách đối xử hết sức tồi tệ với ngài đại tướng nuớc Syri. Êlisê cũng không đích thân truyền thông điệp ấy, mà sai đầy tớ ra bảo Naaman như vậy. Hơn nữa, các sông nước bên Syri không tốt hơn nước của con sông Giođan bé nhỏ, ngầu đục hay sao? Đó là những ý nghĩ đầu tiên của Naaman, nhưng ông ta biết dẹp tánh kiêu ngạo của mình qua một bên và bệnh phong của ông ta được sạch.
Có một câu chuyện nổi tiếng kể lại về Diogenes một triết gia phái hoài nghi. Ông ta bị bọn cướp bắt và đem bán làm nô lệ. Khi quan sát đám người đứng chung quanh để trả giá mình, ông ta nhìn vào một người và nói “Hãy bán tôi cho ông này đi, ông ta đang cần một ông thầy (hay là chủ)”. Người ấy mua ông, giao cho ông làm quản gia và dạy dỗ các con mình. Ông ta thường nói “Ngày mà Diogenes đã đặt chân vào nhà tôi, đúng là một ngày tốt lành”. Điều đó quả đúng như vậy, nhưng nó đòi hỏi việc phải từ bỏ phẩm giá. Tiếc thay, con người thích khư khư giữ chặt phẩm giá của mình mà đành đánh mật ân huệ.
3/ Ông đã quên đi tính kiêu ngạo.
Việc đến và xin Đức Giêsu, người Nazaret giúp mình là một nỗ lực ý thức về sự hạ mình mà người này phải làm. Thật chẳng ai muốn phải mắc nợ người khác cả. Chúng ta muốn tự lo liệu lấy cho đời sống mình. Nhưng bước đầu tiên của đời sống là nhận thức mình chẳng có thể làm gì khác hơn là chịu mắc nợ Thiên Chúa.
4/ Điều khá lạ lùng là ông đích thân đến với Chúa Giêsu chứ không sai người nhà.
Đến đây chúng ta bước vào địa hạt của suy luận, vì theo thiện ý, chúng ta có thể bảo người này đã quên hết bạn bè. Rất có thể họ sẽ chống đến cùng việc ông cầu cứu Chúa Giêsu. Điều cũng khó hiểu là ông lại chịu bỏ mặc đứa con gái đang hấp hối nằm đó một mình. Có lẽ sở dĩ ông ta phải đi vì chẳng còn ai khác chịu đi. Người nhà ông đều tỏ ra nghi ngờ và bảo ông rằng đừng đi tìm ông Giêsu đó làm gì cho mất công. Theo tinh thần câu chuyện, nếu ông không đi tìm Chúa Giêsu để xin Ngài giúp đỡ, họ còn hài lòng hơn. Người này đã bất chấp dư luận và thách đố cả những lời khuyên bảo của người nhà khi ông ta đến kêu cứu Chúa Giêsu. Nhiều người đã trở thành khôn ngoan nhất khi các bạn bè khôn ngoan của họ trên đời này nghĩ họ đang hành động như người ngu dại.
Đây là một con người đã quên hết mọi sự, trừ việc muốn được Chúa Giêsu cứu giúp mình, chính vì ông biết quên hết cho nên ông nhớ mãi rằng Chúa Giêsu là Chúa Cứu Thế.
HY VỌNG CUỐI CÙNG CỦA KẺ ĐANG ĐAU KHỔ
(Mc 5,25-29)
Người đàn bà trong câu chuyện này mắc một chứng bệnh hết sức thông thường nhưng rất khó chữa trị. Chính kinh Talmud đã đề ra không dưới mười một cách chữa trị bệnh ấy. Có vài phương pháp là tốt nhưng phần lớn hoàn toàn do mê tín, chẳng hạn như mang tro của một trứng chim đà điểu đựng trong miếng vải lãnh rách vào mùa hè và trong miếng vải bông rách vào mùa đông, hoặc mang theo trong người một bông lúa mạch lượm từ đống phân của con lừa cái lông trắng. Chắc chắn bà này đã khổ công làm thử mọi thứ thuốc, và ngay cả thử những cách trị liệu mê tín này. Điều rắc rối là chứng bệnh đó chẳng những làm hại sức khoẻ, mà còn khiến bà luôn luôn bị ô uế, ngăn trở việc thờ phượng Thiên Chúa, và giao thiệp với bè bạn của bà nữa (Lv 15,25-27).
Ở đây, Maccô có một câu chễ giễu nhẹ nhàng mấy ông thầy thuốc. Bà ta đã tìm đến đủ mặt các lương y rồi, nhưng tiền mất tật mang, chẳng những bệnh không thuyên giảm mà lại nặng thêm. Văn học Do Thái có nhiều ám chỉ lý thú về mấy ông y sĩ. Có một nhân vật bảo “Tôi thường đến với một thầy thuốc mong được chữa bệnh, nhưng ông ta càng xức dầu, bôi thuốc cho tôi, thì hai mắt tôi càng mờ, cho đến khi tôi đui hẳn” (Tb 2,10). Trong khi Mishnah có một đoạn tóm tắt luật truyền thống, đề cập đến những nghề mà người ta có thể truyền lại cho con trai mình. Rabbi Giuđa nói “Bọn “tài” lừa phần đông đều gian ác, bọn “tài” lạc đà đa số là dân thường, thuỷ thủ phần lớn là lương thiện, kẻ tốt nhất trong các thầy thuốc đáng ở địa ngục, còn tên đồ tể quê mùa hơn hết cũng là phe đảng của dân Amaléc”. Nhưng rất may và cũng công bằng, là cũng có những tiếng nói ngược lại. Một trong những sự bày tỏ lòng kính trọng vĩ đại nhất được dành cho các thầy thuốc được nêu trong “Sách của Sirach (một trong ccac1 thứ kinh được viết vào giữa Cựu Ước và Tân Ước)” chương 38,1-15 như sau: “Hãy bồi dưỡng thầy thuốc tuỳ theo nhu cầu của ông ta, vì ông ta cũng được Thiên Chúa tấn phong. Chính từ nơi Thiên Chúa mà thầy thuốc nhận được sự khôn ngoan, và từ nơi nhà vua mà ông ta được bổng lộc. Tài năng của người thầy thuốc khiến ông ta ngẩng đầu lên khỏi vai, có thể đứng trước mặt những người quý phái. Thiên Chúa đã khiến thuốc men ra từ đất, vậy người có nhận thức đừng chối từ chúng. Nhờ thuốc men, thầy thuốc xoa dịu nỗi đau thương, cũng vậy, nhà làm thuốc chế ra dầu, để công trình của Ngài không bao giờ ngưng lại, cũng như sức khoẻ không bị cất khỏi mặt đất. Hãy dành cho thầy thuốc một chỗ, cũng đừng để ông ấy ở xa vì chúng ta cần đến ông. Có lúc chỉ có tài năng của ông mới tạo được sự giúp đỡ cần thiết. Vì ông cũng cầu khấn Thiên Chúa, giúp cho việc chữa bệnh của mình thành công, và việc chữa trị sẽ khiến bệnh nhân bình phục”.
Nhưng về chứng bệnh của người phụ nữ này thì các y sĩ đều bó tay và bà có nghe nói về Chúa Giêsu. Nhưng bà gặp chuyện khó xử: chứng bệnh của bà thật rắc rối. Công khai ra trước đám đông là việc bà không thể làm được, do đó bà quyết định chỉ lén chạm vào Ngài mà thôi. Vào thời Chúa Giêsu, tất cả những người Do Thái ngoan đạo đều mặc một chiếc áo khoác ngoài có bốn cái tua, ở mỗi góc vạt áo có một cái. Đó là theo sách Dân số 15,38-40, để khi nhìn thấy chúng thì người khác và bản thân người mặc áo nhớ đây là một người thuộc tuyển dân của Thiên Chúa. Các tua đó là dấu hiệu của một người Do Thái tin kính. Người đàn bà nọ đã chen đám đông, lén đến rờ vào một trong các tua áo ấy, và sau khi đã rờ vào, bà kinh ngạc thấy mình được lành bệnh.
Đây là một phụ nữ đã tìm đến Chúa Giêsu như một lối thoát cuối cùng, sau khi đã thử tất cả những gì đời này có thể cung cấp, cuối cùng bà ta phải thử chính Chúa Giêsu. Biết bao người đã đến với Chúa Giêsu khi chính họ lâm vào bước đường cùng. Có lẽ họ từng chiến đấu với cám dỗ cho đến khi sức cùng lực tận, để chỉ còn đưa bàn tay lên và kêu lớn “Lạy Chúa, xin cứu lấy con, con sắp chết mất”. Có lẽ người ấy từng chiến đấu với một trọng trách nào đó cho đến khi kiệt sức, cho đến khi cuối cùng, người ấy chỉ còn có thể kêu cứu một sức mạnh không phải là sức lực riêng mình. Có lẽ người ấy từng khổ tâm nhọc sức để đạt được điều kiện vẫn ám ảnh mình, để thấy cái lý tưởng ấy cứ lùi xa dần cho đến khi thất vọng hoàn toàn. Không ai chịu đến với Chúa Cứu Thế bằng áp lực của hoàn cảnh, nhưng có nhiều người phải đến bằng con đường đó, và cả khi chúng ta đến với Ngài như thế, Ngài cũng chẳng bao giờ để chúng ta ra về tay không.
GIÁ PHẢI TRẢ ĐỂ CHỮA BỆNH (Mc 5,30-34)
Đoạn sách này có nói với chúng ta về ba hạng người.
1/ Chúa Giêsu.
Nó cho ta biết giá trị phải trả để chữa bệnh. Mỗi lần Chúa Giêsu chữa lành cho một người, có cái gì đó ra khỏi Ngài. Đây là một định luật phổ quát cho đời sống. Chúng ta sẽ chẳng làm nên chuyện gì lớn lao, nếu không sẵn sàng đặt một cái gì của chính bản thân, chính đời sống và chính tâm hồn chúng ta vào đó. Không một nhạc sĩ nào có thể chơi đàn thật hay nếu chỉ trình tấu khúc nhạc với một kỹ thuật hoàn hảo, ngoài ra chẳng có thêm gì nữa. Sự trình tâú chẳng có gì là vĩ đại nếu cuối cùng nhạc sĩ không kiệt lực vì đã dốc đổ chính bản thân mình. Một kịch sĩ sẽ chẳng bao giờ thể hiện trình diễn cách xuất sắc, nếu anh chỉ lập lại các câu nói cho đúng, làm những động tác phải lẽ, như một người máy. Khi anh khóc trên sân khấu, nước mắt anh ta phải là nước mắt thật, các cảm xúc phải là cảm xúc thật, phải có một cái gì từ chính người anh ta tuôn đổ vào đó khi diễn xuất. Không có một nhà truyền giáo nào giảng một bài giảng có hồn, nếu người ấy không bước xuống khỏi toà giảng với cảm giác đã có một cái gì đó trong người mình như bị vắt cạn, vắt kiệt đi.
Nếu chúng ta sẵn sàng trợ giúp người khác, chúng ta cũng phải sẵn sàng chịu hao tốn, chịu mất đi một điều gì đó của bản thân ta. Mọi sự đều do thái độ của chúng ta đối với tha nhân. Mathew Arnold, nhà phê bình văn học nổi tiếng có lần đã nói về giới trung lưu “Hãy nhìn giới ấy mà xem, nhìn quần áo họ mặc, sách báo họ đọc và cái tạo thành các ý tưởng của họ, liệu có khoản tiền nào bù trừ nổi cho việc họ trở thành người như thế chăng?”. Ý của câu nói ấy có thể đúng, có thể không và vấn đề chính là lòng khinh ghét đã phát sinh. Ông đã nhìn những người này như một thứ đáng ghê tởm; và không một ai nhìn con người theo cách đó lại có thể giúp đỡ họ được.
Mặt khác, hãy nhớ xem tâm tình của Môsê khi thấy dân Israel đúc một con bò vàng lúc ông đang ở trên đỉnh núi. Hãy nhớ lại ông đã xin Chúa xoá tên ông khỏi sổ trường sinh, miễn sao dân được tha tội. Hãy nhớ lại, Phaolô đã nói thà ông chịu hư mất, miễn sao cả thế giới ngoại đạo đang hư mất kia được cứu.
Chỗ vĩ đại của Chúa Giêsu là Ngài sẵn sàng trả giá để chữa lành cho người khác, và giá ấy là một phần sự sống của Ngài bị tiêu hao. Chúng ta chỉ thật sự noi dấu chân Chúa khi phải sẵn sàng chịu hao phí vì kẻ khác, chẳng những là của cải vật chất mà cả đến sức lực, linh hồn nữa.
2/ Các môn đệ.
Tại đây chúng ta thâý cách sống động về giới hạn của điều vẫn được gọi là lương tri. Các môn đệ của Chúa có quan điểm theo lương tri. Đi giữa một đám đông như thế làm sao Chúa Giêsu tránh khỏi bị chèn ép, đụng chạm? Đó là cách nhìn mọi sự việc bằng cảm giác. Ở đây đã nổi bật sự kiện lạ lùng và đau lòng là họ chẳng hề nhận thấy hay nhận thức được rằng khi chữa bệnh cho người ta, Chúa Giêsu đã phải trả giá nào đó.
Một trong những tấn thảm kịch ở đời là sự không nhạy cảm của tâm trí con người. Chúng ta thường chẳng nhận biết chút gì về chuyện người khác đang trải qua. Có lẽ bản thân ta chưa hề kinh nghiệm gì về việc đó, nên ta chẳng bao giờ nghĩ một ai đó đã phải trả một giá như thế nào. Có thể một việc gì đó đã đến quá dễ dàng cho ta, nên chẳng bao giờ ta hay biết rằng người khác phải nỗ lực đến mức nào đó mới có thể có được như thế. Chính vì thế lắm khi chúng ta gây tổn thương trầm trọng cho những người mà ta yêu mến. Người ta có thể cầu nguyện để biết cư xử theo lương tri, nhưng nhiều khi chúng ta phải cầu nguyện để có thể nhạy cảm, hiểu biết sáng suốt để thấy được những điều ẩn kín trong lòng người khác.
3/ Người đàn bà đã được chữa lành.
Bài học này cho chúng ta biết về sự xưng tội cất được gánh nặng trên con người. Mọi sự trước đó thật khó biết bao, nhục nhã biết bao. Nhưng sau khi nói hết ra sự thật với Chúa Giêsu, nỗi kinh hoàng run rẩy đều tiêu tan, một đợt sóng thoải mái, nhẹ nhõm tràn vào lòng bà. Sau khi đã xưng nhận tình cảnh đáng thương của mình, người đàn bà đã nhận thấy sự nhân từ, dịu hiền của Chúa.
Xưng tội với Đấng vốn thương cảm với chúng ta như Chúa Giêsu chẳng có gì là khó khăn, nặng nề. Và chỉ một mình Ngài mới ban ơn tha thứ toàn diện, chữa lành kỳ diệu, cưú chuộc tâm linh trọn vẹn và phục hồi nhân phẩm nhanh chóng nhất.
THẤT VỌNG VÀ HY VỌNG (Mc 5,35-39)
Các tập tục về tang chế của người Do Thái rất sinh động, tỉ mỉ, nhưng thật ra mọi điều đó chỉ nhằm tăng thêm cô quạnh của sinh ly tử biệt.
Ngay sau khi có người qua đời, thì tiếng khóc vang lên để mọi người đều hay biết là thần chết vừa hành động. Việc than khóc sẽ tái diễn bên cạnh phần mộ. Những người than khóc vây quanh thi thể người chết, thỉnh cầu từ đôi môi im lặng đó một câu trả lời. Họ đấm ngực, bứt tóc, xé áo mình.
Việc xé áo được thực hiện chiếu theo một số luật lệ và quy tắc. Nó được thi hành trước giây phút cuối cùng, khi xác chết bị che khuất không còn nhìn thấy được nữa. Áo bị xé đến chỗ trái tim, cho đến khi da thịt banh ra nhưng không được xé sâu qua rốn. Với bậc cha mẹ, thì chỗ áo bị xé ở về phía bên trên chỗ quả tim về phía trái, còn đối với những người khác thì xé phía bên mặt. Phụ nữ xé áo trong chỗ riêng tư, sau đó, mặc ngược áo từ sau ra trước, tiếp theo là xé áo ngoài, để da thịt khỏi phơi bày ra. Áo bị xé được mặc luôn suốt ba mươi ngày tiếp theo đó. Sau bảy ngày chiếc áo được may sơ sài lại, sao cho chỗ khâu lại cũng được thấy rõ ràng. Sau ba mươi ngày, chiếc áo được may lại hẳn hoi.
Những kẻ thổi sáo đóng vai trò chính yếu trong tang lễ. Hầu như khắp nơi thuộc thế giới thời cổ từ Roma đến Hy Lạp, Phênixi, ASyri và Do Thái, than khóc bằng tiếng sáo, được kết hợp chặt chẽ với chết chóc và chuyện đau buồn. Luật quy định rằng dù người đàn ông nào nghèo đến đâu chăng nữa khi làm đám tang cho vợ, cũng phải có ít nhất hai người thổi sáo. W. Taylor trong bộ từ điển về “Chúa Cứu Thế và Phúc Âm” do nhà xuất bản Hastinh ấn hành, đã dẫn chứng hai thí dụ thú vị về việc sử dụng phường thổi sáo, cho thấy tập tục ấy đã được phổ biến rộng rãi đến mức độ nào. Trong tang lễ của Claudius, hoàng đế Roma có phường thổi sáo. Năm 67 SCN, khi tin Jotapata thất thủ vào tay quân đội Roma được đưa đến Giêrusalem, sử gia Josephus kể lại rằng: “Hầu hết dân chúng thuê phường thổi sáo để hướng dẫn việc than khóc của họ”.
Tiếng sáo kêu gọi người chết, áo xống bị xé rách, bứt đầu, tạo cho nhà tang thành một nơi khiến ai nấy phải xúc động đau lòng.
Khi có người trong nhà chết, kẻ chịu tang bị cấm làm việc, không xức dầu và không mang giày dép. Cả đến những người nghèo nhất cũng phải nghỉ việc ba ngày. Người ấy không được đi ra ngoài mà mang theo hàng hóa, lệnh cấm làm việc cũng lan cả đến tôi tớ của người ấy. Người ấy ngồi trùm đầu lại, không được cạo râu hoặc làm “Bất cứ việc gì để bản thân được thoải mái, dễ chịu”. Người ấy không được đọc sách luật và ngôn sứ, vì đọc các sách ấy là một niềm vui. Người ấy được đọc sách Gióp, Giêrêmia, Aica. Chỉ được ăn trong nhà mình, phải hoàn toàn kiêng cữ rượu thịt, cũng không được phép rời khỏi thành phố hay làng mình đang ở trong ba mươi ngày. Phong tục không cho phép người ấy ăn tại bàn ăn, phải ngồi bệt trên sàn nhà, dùng một chiếc ghế ngồi làm bàn ăn. Theo phong tục vẫn còn thịnh hành ngày nay, người ấy phải ăn trứng chấm tro với muối.
Cũng có một phong tục kỳ dị. Phải đổ hết mọi thứ nước trong nhà và cả ba nhà bên cạnh ở hai phía, vì người ta cho rằng thần chết gây ra cái chết bằng một lưỡi gươm nhúng trong nước lấy từ nơi gần tầm tay. Cũng có một tập tục rất cảm động, với người chết còn quá trẻ, chưa lập gia đình, thì một lễ cưới được thực hiện như một phần trong tang lễ. Suốt thời gian chịu tang, kẻ cư tang được miễn giữ luật, vì người ấy được kể như đang bị bối rối, bị điên đầu vì nỗi buồn khổ gây ra.
Kẻ chịu tang phải đến hội đường. Khi người ấy bước vào, tất cả sẽ nhìn thẳng mặt anh ta và nói “Đáng chúc phúc Đấng an ủi kẻ bị tang chế”. Sách Kinh của Do Thái giáo, có một bài cầu nguyện đặc biệt dùng trước bữa ăn nhà có tang: “Đáng chúc phúc Chúa là Chúa, là vua toàn cõi vũ trụ, Thiên Chúa của các tổ phụ chúng tôi. Đấng Taọ Hóa, Đấng Cứu Chuộc, Đấng khiến chúng tôi nên thánh, Đấng Thánh của Giacóp. Vua của sự sống, Đấng vốn thánh thiện và làm điều thánh thiện. Thiên Chúa của chân lý, Vị quan tòa chân chính, xét đoán trong sự công chính, Đấng đem linh hồn con người ra phán xét, một mình Ngài cai trị cả vũ trụ, làm việc đó theo ý Ngài và mọi đường lối Ngài đều dẫn đến phán xét, còn chúng tôi là dân Ngài, các tôi tớ của Ngài, trong mọi sự chúng tôi cảm tạ, tán tụng Ngài, Đấng che chở mọi tai họa cho dân Israel, sẽ che chở chúng tôi trong tai họa này và do việc tang chế này sẽ đem đến cho chúng tôi sự sống bình an. Lạy Thiên Chúa chúng tôi, xin an ủi toàn thể kẻ tang chế của Giêrusalem, đang khóc lóc vì nỗi đau buồn của chúng tôi. Xin an ủi họ trong tang chế của họ, khiến họ được vui vẻ trong cơn đau đớn như một người được mẹ mình vỗ về an ủi vậy. Đáng cảm tạ Ngài là Thiên Chúa, là Đấng an ủi của Sion, Đấng sẽ lập lại Giêrusalem.
Bài cầu nguyện ấy có từ trước thời Tân Ước cho nên chúng ta đọc câu chuyện về cô bé gái chết ở đây trong bối cảnh xa xưa, nhằm diễn tả trọn vẹn nỗi đau buồn đó.
CHỖ KHÁC NHAU MÀ ĐỨC TIN TẠO RA (Mc 5,40-43)
Có một điều thật đẹp đẽ ở đây. “Talitha kum” là tiếng Aram, có nghĩa là “Hỡi con gái nhỏ, hãy trỗi dậy”. Làm thế nào câu nói bằng tiếng Aram đó có thể chen vào quyển sách Phúc Âm viết bằng chữ Hy Lạp này? Chỉ có một lý do duy nhất, là Maccô đã nhận phần tài liệu này từ Phêrô. Ngay đến Phêrô, ít nhất, trong lúc sống ngoài xứ Palestine, ông cũng phải nói tiếng Hy Lạp. Nhưng Phêrô đã có mặt chính thức lúc xảy ra sự việc, ông vốn là một trong ba môn đệ thân cận đã được chọn để cùng đi với Chúa Giêsu đến đó. Hẳn ông đã không bao giờ quên được giọng nói của Chúa Giêsu. Trong tâm trí và ký ức ông vẫn nghe vang vọng “Talitha kum” suốt cả cuộc đời. Tình yêu thương, vẻ hiền từ, âu yếm trong câu nói ấy đã ở trong ông mãi mãi, cho nên ông không thể nào suy nghĩ về nó bằng tiếng Hy Lạp, vì ký ức ông chỉ nghe nó bằng giọng nói của Chúa Giêsu, bằng chính lời lẽ mà Chúa Giêsu từng thốt ra.
Đoạn sách này là một câu chuyện của những tương phản.
1/ Có tương phản giữa tuyệt vọng của những kẻ tang chế đang khóc than với niềm hy vọng của Chúa Giêsu. Họ bảo “Còn làm phiền thầy chi nữa? Bây giờ còn ai làm được gì nữa đâu? Chúa Giêsu phán “Đừng sợ, chỉ tin mà thôi”. Một bên là tiếng nói tuyệt vọng, bên kia là tiếng nói hy vọng.
2/ Có tương phản giữa cơn bối rối vô bờ bến của những kẻ than khóc và vẻ thanh thản bình tĩnh của Chúa Giêsu. Họ khóc lóc than vãn, bứt tóc, bứt đầu, xé áo trong cơn bối rối cực độ. Chúa thì hoàn toàn bình thản, tự chủ. Tại sao có chỗ khác nhau ấy? Do Chúa Giêsu hoàn toàn tin cậy vào Thiên Chúa. Những điều bất hạnh tệ hại nhất con người có thể đối phó cách can đảm và nhẹ nhàng nếu chúng ta đối phó cùng với Thiên Chúa. Chúng cười nhạo Chúa Giêsu vì tưởng rằng niềm vui của Ngài vô căn cứ, và Ngài đã bình thản sai lầm. Nhưng sự kiện quan trọng trong đời sống Kitô hữu là điều xem như hoàn toàn bó tay đối với loài người thì Thiên Chúa làm được, điều mà xét trên lãnh vực con người là việc không hề dám mơ ước đã trở thành hạnh phúc thực sự khi có hiện diện của Chúa. Chúng cười nhạo Ngài, nhưng cười nhạo đó trở nên mối kinh ngạc sững sờ khi nhận biết được điều Thiên Chúa làm. Họ tin tưởng sai lầm. Họ nghĩ Chúa Giêsu thất bại, đứa bé đã vĩnh viễn ra đi. Bây giờ họ sửng sốt khi thấy Chúa Giêsu đã cứu sống, nó bước đi ngay truớc mặt họ. Chẳng có gì bất khả đối diện và chinh phục trong tình yêu Thiên Chúa được thể hiện trong Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.
(Suy niệm của Huệ Minh)
Với con người, chết nghĩa là chấm hết.
Thật thế, dấu chấm hết cho đời một con người sau khi người đó trút hơi thở cuối cùng.
Theo Thánh Kinh, khi sự dữ, khi sự ác đi vào con người thì khi đó, sự chết đột nhập vào thế gian như những lời trong sách Khôn Ngoan mà chúng ta vừa nghe:
Thiên Chúa không tạo dựng sự chết, chẳng vui mừng khi người sống phải chết. Người tác thành mọi sự cho có. Người tạo dựng mọi sự trên mặt đất đều lành mạnh, chúng không có nọc độc sự chết, và không có địa ngục ở trần gian. Vì chưng, công chính thì vĩnh cửu và bất tử. Thiên Chúa đã tạo dựng con người giống hình ảnh Chúa, để sống vĩnh viễn. Nhưng bởi ác quỷ ghen tương, nên tử thần đột nhập vào thế gian: kẻ nào thuộc về nó thì bắt chước nó (Kn 1, 13- 15).
Ngày hôm nay, các môn đệ cũng như đám đông dân chúng chứng kiến hình ảnh lạ. Hình ảnh của một người đàn ông trai tráng không dám nói là bảnh bao. Chắc hẳn ông là người khá đứng tuổi vì ông là trưởng hội đường. Có tuổi, có vị thế là trưởng một hội đường như vậy nhưng đứng trước Chúa Giêsu, ông đã tỏ thái độ hết sức khiêm nhường là sụp lạy và van xin rằng: “Con gái tôi đang hấp hối, xin Ngài đến đặt tay trên nó để nó được khỏi và được sống”. Và, trước thái độ của ông, Chúa Giêsu đã có thể nói là lập tức lúc ấy đi theo ông, về dến nhà ông và đi vào nhà và nói luôn: “Hỡi em bé, Ta truyền cho em hãy chỗi dậy!”
Trong khi đó, ta vẫn thấy thái độ cứng tin của đám đông dân chúng. Lòng cứng tin của họ không còn để trong lòng nữa, lòng tin của họ đã khép lại khi họ nói: “Con gái ông chết rồi, còn phiền Thầy làm chi nữa?” Thế nhưng, đứng trước thái độ cứng tin của đám đông dân chúng, ông trưởng hội đường vẫn tin tưởng, vẫn tín thác vào tình thương của Chúa. Tình thương của Chúa dành cho con người hay nói cách khác dành cho mỗi người tùy theo cách cảm nhận của mỗi người.
Khi ta cảm nhận được Chúa thương ta rồi thì ta lại càng tín thác cuộc đời của ta như ông trưởng hội đường đã tín thác. Niềm tin của ông đã được Thiên Chúa đáp trả bằng việc Chúa cho con ông sống lại.
Cuộc đời ta, ngổn ngang biết bao nhiêu chuyện. Chuyện của người, chuyện của đời và chuyển của chính bản thân chúng ta. Có những chuyện xảy ra làm ta giật cả mình và không hiểu tại sao nó lại là như thế? Và, trong lắng đọng của cuộc đời ta nhận ra rằng Chúa thương mình hơn là mình nghĩ.
Có những biến cố trong đời không khỏi chạnh lòng tôi.
Hai vợ chồng đứa cháu cưới nhau được vài năm. Chồng cháu gặp rắc rối về răng và chữa trị. Chẳng hiểu sao trên bàn mổ vì lý do nào đó mà chồng đã ra đi vĩnh viễn ở cái tuổi rất đẹp: 30. Cháu hoàn toàn suy sụp. Cha cháu phải dọn về ở chung với cháu vì sợ trong cơn suy sụp cháu sẽ có những hành động thiếu suy nghĩ hay hành động khác người.
Khi được chị kể lại câu chuyện của cháu ở phương trời xa. Tôi chỉ biết nói với chị là chị cùng gia đình và dạy con cái để cho chúng thấy rằng gia đình được như ngày hôm nay đó là hồng ân và tạ ơn Chúa. Hãy tạ ơn Chúa vì không biết ngày nào là ngày cuối của mình và hãy sống cái ngày hôm nay như là ngày cuối của mình cách nào đó cho đẹp.
Hay là, mới đây, khi hỏi thăm hai vợ chồng quen biết về cuộc sống, người vợ không ngần ngại kể cho tôi rằng 2 vợ chồng đã không còn chung bước với nhau 2 năm nay rồi. Chuyện là không biết lý do nào đó anh làm gì đó để vỡ nợ và phải bán luôn cả căn nhà mà suốt bao nhiêu năm trường hai vợ chồng cùng con cái ôm ấp biết bao nhiêu kỷ niệm.
Nghe như thế, nhìn như thế để thấy rằng gia đình của mình còn may mắn là không phải rơi vào cảnh nợ nần và phải bán nhà cũng như chia tay như thế. Nhìn như thế để liệu liệu mà sống để đừng phải bước theo con người đó. Con đường của vỡ nợ, bán nhà, túng thiếu chẳng phải là con đường của nhiều người muốn bước vào. Khi mình may mắn mình không phải rơi vào những hoàn cảnh như thế là minh cũng là người hạnh phúc hơn họ rồi.
Nói như vậy không phải để so đo, tính toán, so sánh … nhưng giật mình nhận ra rằng Chúa thương mình quá sức tưởng tượng. Lẽ ra trong cuộc sống mình phải mất mát nhiều do tội lỗi của mình nhưng sao Chúa thương mình như thế. Có như vậy, nhìn như vậy để thấy rằng Chúa thương mình nhiều và mình lại tiếp tục tín thác cuộc đời vào lòng bàn tay của Chúa hơn.
Niềm tin của chúng ta luôn luôn bị thách thức. Có khi thách thức do sự yếu lòng của ta, có khi do sự thúc đẩy của đám đông đông dân chúng, có khi lại do ta không cảm nhận được tình Chúa thương ta. Xin Chúa thêm ơn cho mỗi người chúng ta để dù giữa biết bao nhiêu sóng gió của cuộc đời ta luôn chạy đến với Chúa và xin Chúa đặt tay lên cuộc đời của ta để ban ơn lành cho chúng ta.
86. Cần phải có niềm tin mạnh mẽ
(Suy niệm của Huệ Minh)
Tin Mừng Mc 5: 21-24.35-43 Trang Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta đi vào thế giới của những câu hỏi “tại sao” mà lý trí con người không thể lý giải được.
Trang Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta đi vào thế giới của những câu hỏi “tại sao” mà lý trí con người không thể lý giải được.
Cuộc sống vốn là một phép lạ, từng hơi thở con người là một phép lạ, mỗi ngày là một phép lạ, mỗi phút giây là một phép lạ. Chỉ có đôi mắt nội tâm mới cho con người cảm nhận được phép lạ triền miên ấy. Sống đích thực, sống dồi dào, là biết chiêm ngưỡng để đón nhận phép lạ từng ngày ấy.
Phép lạ một người đàn bà bị băng huyết được chữa lành nhờ chỉ chạm đến áo của Chúa Giêsu, và phép lạ một em bé gái chết được Chúa Giêsu cho sống lại; cả hai phép lạ đều phát xuất từ lòng tin của con người.
Niềm tin của người đàn bà được tưởng thưởng. Bà mau chóng được chữa lành. Tuy nhiên ngay khi bà định lẩn vào đám đông vô danh. Đức Giêsu đã tìm thấy bà. Người không ưa chuộng cách chữa bệnh ấy. Một vài người chữa bệnh giản lược đến mức tối thiểu sự tiếp xúc nhân bản. Nhưng Đức Giêsu thì không. Người luôn luôn đối xử với con người trên một bình diện cá nhân. Mặt khác, Đức Giêsu biết có năng lực từ Người phát ra, chứng tỏ có người sờ vào áo Người để được chữa bệnh và lấy năng lực đó từ Người.
Ông trưởng hội đường đã biểu lộ lòng tin bằng cách lặn lội tìm đến với Chúa Giêsu xin Ngài tới đặt tay trên con gái của ông; người đàn bà băng huyết tin một cách mãnh liệt nơi sức mạnh phát xuất từ con người Chúa Giêsu. Nơi ông trưởng hội đường, lòng tin được tuyên xưng tỏ tường; nơi người đàn bà băng huyết, niềm tin rụt rè kín đáo. Nhưng dù tỏ tường hay kín đáo, chính lòng tin đã giúp cho phép lạ xảy ra, như Chúa Giêsu đã nói với người đàn bà: “Lòng tin của con đã cứu chữa con”.
Chính Chúa Giêsu xác nhận lòng tin là chìa khóa thần kỳ mở ra cho người đàn bà kho tàng chứa đựng điều mà bà khao khát: được chữa lành chứng bệnh nan y.
Niềm tin làm cho con người được sống, điều này vẫn thường xảy ra trong đời sống con người. Tất cả những thành công trong cuộc sống đều nhờ ở niềm tin, nhưng niềm tin tôn giáo thì quan trọng hơn, bởi vì chính sự sống tinh thần và tâm linh mới là điều cần thiết cho con người đạt được thành công. Có tất cả, nhưng thiếu đời sống tâm linh, con người vẫn như sống dở. Sống sung mãn, sống dồi dào, chính là sống nội tâm. Chỉ có một đời sống nội tâm sung mãn mới giúp con người thấy được, cảm nhận được những gì mà giác quan và lý trí không thể đạt được.
Tin vào những chuyện dễ dàng, tin khi cuộc sống bình an xuôi thuận thì chưa hẳn là đức tin. Đó chỉ là một chuyện đương nhiên thôi. Đức tin là một nhân đức căn bản của Đạo. Phải là vẫn cứ tin vào những chuyện khó khăn vượt quá sức loài người. Vẫn cứ tin khi cuộc đời gặp lúc cheo leo. Đức tin vững vàng như vậy có thể làm nên những phép lạ. Bởi lẽ, trước một hoàn cảnh quá khó khăn, trong lúc đời sống quá gian nan, nếu ta vẫn tin thì không phải là ta tin vào sức riêng của ta nữa, mà là tin vào sức Chúa, và Chúa quyền năng làm được mọi sự.
Để được chữa lành, Chúa cần lòng tin và chỉ cần lòng tin mà thôi. Lòng tin của người phụ nữ thật đơn sơ, nhưng mạnh mẽ: “tôi chỉ cần đụng được vào áo của Người thôi, là sẽ được cứu”. Ở những nơi hành hương, người ta vẫn thể hiện lòng tin bằng cách đụng vào các bức tượng hay thánh tích.
Đức tin là vị thuốc thần đem lại hạnh phúc cho nhân loại. Đức tin là bí quyết đem lại hy vọng cho nơi nào không còn gì để hy vọng! Sau khi mọi hy vọng, mọi biện pháp chữa trị của con người đã trở nên vô hiệu quả, thì chỉ còn niềm tin mới có khả năng “cứu độ”. Đức Giêsu đã đem lại niềm vui và bình an cho những ai tuyệt vọng mà vẫn một lòng cậy trông. Có lần Đức Giêsu đã nói: “Nếu bạn có đức tin bằng hạt cải, thì bạn có thể nói với ngọn núi này ‘hãy di chuyển từ đây đến kia’, nó sẽ di chuyển” (Mt 17,20).
Đây không phải là một lời phóng đại, nhưng là một sự thực được chứng minh qua cuộc đời các vị Thánh. Các vị Thánh là những người đã tin và các ngài đã làm được nhiều điều kỳ diệu.
Tin là điều kiện cần thiết để Chúa Giêsu thực hiện các phép lạ. Thế nhưng việc Chúa Giêsu thực hiện các phép lạ cũng không nằm ngoài mục đích là củng cố niềm tin cho những kẻ đi theo Ngài, để họ tin rằng Ngài là Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế, nhờ đó mà họ được ơn cứu độ. Không bao giờ Chúa Giêsu làm phép lạ để biểu diễn như lời dụ khị của Satan; hay là để cho nhân dân tán thưởng như các võ sĩ, các nhà ảo thuật, hoặc các diễn viên xiếc…
Lòng tin thường phát xuất từ tình yêu. Hiện thực cuộc sống cho ta thấy điều này: tình yêu đến trước rồi đôi nam nữ dần tin nhau chứ không phải vì họ tin nhau trước rồi họ mới yêu nhau. Để xây dựng lòng tin, trước hết ta hãy có một chút tình. Ta hãy đi bước trước trong việc yêu thương như Chúa Giêsu yêu thương. Nguời không chỉ chăm sóc các môn đệ mà còn tìm mọi cách để cho các ông sinh hoa kết trái và tạo điều kiện để các ông “làm được nhiều việc lớn lao hơn cả những việc Người làm” (x.Ga 14,11-12).
Khi Chúa đòi hỏi phải có lòng tin, Người không đòi hỏi quá đáng. Chỉ cần ta thực tâm và cố gắng rồi Chúa sẽ tạo điều kiện cho chúng ta biểu lộ lòng tin và ban thưởng cho lòng kiên trì của ta, dù đó là những phấn đấu nội tâm thầm kín.
Nhìn lại tất cả những biến cố của cuộc đời ta cần phải có một đức tin mạnh mẽ như ông Gia-ia, hiên ngang mà không hổ thẹn, vững chắc chứ không hồ nghi. Đàng khác, chúng ta cũng cần có một đức tin kín đáo nhưng dẻo dai như lòng tin của người phụ nữ trên đây, bà không cần kêu xin nài nẵng như ông Gia-ia, bà chỉ có một thái độ khẩn khoản khiêm nhường và đầy tin tưởng trong tâm hồn, thế là đủ. Chúa cũng đang chờ đợi ở chúng ta những tâm tình như thế.
(Suy niệm của Lm. Đan Vinh)
TÍN THÁC VÀO CHÚA
LUÔN YÊU THƯƠNG VÀ CỨU ĐỘ TA
- HỌC LỜI CHÚA
Ý CHÍNH:
Ông trưởng hội đường tên Gia-ia có đứa con gái đau nặng sắp chết đặt trọn niềm tin vào Đức Giêsu nên đã được Người cho sống lại. Trong lúc đi đường, một phụ nữ bị bệnh băng huyết cũng nhờ tin vào tình thương và quyền năng của Đức Giêsu nên cũng được lành bệnh. Điều này cho thấy: Đức Giêsu đến để giải thoát loài người khỏi hậu quả của tội lỗi là bệnh tật và sự chết. Tuy nhiên, để được hưởng ơn cứu độ ấy, người ta phải đặt trọn niềm tin vào Người.
CHÚ THÍCH
– C 21-24: + Bờ Biển Hồ: Biển Hồ nói đây có nhiều tên: là Biển Hồ Ga-li-lê hay Ti-bê-ri-a (x. Ga 6,1) hay Ghen-nê-xa-rét (x. Lc 5,1). Đây là Biển Hồ có hình bầu dục dài 21 km, rộng 12 km. Tại Biển Hồ này Đức Giêsu đã làm nhiều phép lạ như: dẹp yên sóng gió (x. Mc 4,35-41), mẻ cá lạ lùng (x. Lc 5,4-7), đi trên mặt biển (x. Ga 6,16-21). Cũng tại vùng Biển Hồ này, Đức Giêsu đã chữa lành các bệnh nhân (x. Mt 14,14.35-36). Hai lần nhân bánh ra nhiều (x. Mt 14,15-21; 15,32-39).+ Viên trưởng hội đường: Là người phụ trách việc phụng tự trong hội đường Do Thái. Khi đi giảng đạo, Đức Giêsu thường đến các hội đường Do Thái vào ngày Sa-bát để rao giảng Tin Mừng và chữa bệnh (x. Mt 4,23; Lc 4,31-37.44). + Ông ta sụp xuống dưới chân Người và khẩn khoản nài xin: Thái độ sụp xuống dưới chân Đức Giêsu và nài xin Người cho thấy đức tin mạnh mẽ của ông. + “Con bé nhà tôi gần chết rồi. Xin Ngài đến đặt tay lên cháu, để nó được cứu thoát và được sống”: Đặt tay là khẳng định mối liên hệ chặt chẽ giữa người đặt tay và vật hay người được đặt tay. Cử chỉ đặt tay trên bệnh nhân ám chỉ các phép bí tích do Đức Giêsu lập ra sau này để ban ơn cứu độ cho các tín hữu.
– C 25-28: + Bà kia bị băng huyết đã mười hai năm: Bệnh băng huyết là một loại bệnh phụ khoa, làm cho người phụ nữ bị ra ô uế theo Luật. Bệnh nhân bị bệnh này không được đụng chạm tới ai để tránh cho họ khỏi trở nên ô uế (x. Lv 15,25-27). + Bà lách qua đám đông, tiến đến phía sau Người, và sờ vào áo của Người, vì bà tự nhủ: “Tôi mà sờ vào được áo Người thôi, là sẽ được cứu”: Chính nhờ tin vào quyền năng và tình thương của Đức Giêsu, mà bà này đã vượt qua đám đông để tới gần Đức Giêsu và bà còn dám vượt qua Lề Luật để đưa tay ra chạm vào áo của Người.
– C 29-31: + Bà cảm thấy trong mình đã được khỏi bệnh: Chạm đến áo Đức Giêsu cho thấy cử chỉ bên ngoài thân xác cũng có giá trị làm phát sinh đức tin trong tâm hồn. Nhờ đức tin mà bệnh nhân được khỏi bệnh. + “Ai đã sờ vào áo Tôi?”: Đức Giêsu muốn cho người phụ nữ ý thức rằng: chị ta được khỏi bệnh do quyền năng phát xuất từ Người và do ý định của Người chủ động thực hiện. Câu hỏi của Chúa còn có mục đích cho các môn đệ và đám đông dân chúng biết rõ về phép lạ đó, để họ tin Người thực là Đấng Thiên Sai.
– C 32-34: + Bà này sợ đến phát run, vì biết cái gì đã xảy đến cho mình: Bà sợ vì việc làm của bà đã vi phạm Luật Mô-sê tưởng là chỉ mình bà biết, nhưng đã bị Đức Giêsu phát hiện. + Bà đến phủ phục trước mặt Người, và nói hết sự thật với Người: Đức tin của người đàn bà này lúc đầu chỉ là sự mê tín dị đoan. Nhưng giờ đây được Đức Giêsu quan tâm sửa dạy, đã trở thành đức tin đúng đắn vững mạnh, thúc bách bà thêm can đảm đến phủ phục và thú nhận sự thật với Người. + “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh”: Đức Giêsu cho thấy chính Người đã chữa lành cho người đàn bà vì bà đã tin tưởng cậy trông vào Người, chứ không phải cái áo Người đang mặc chữa lành bệnh cho bà.
– C 35-37: + “Con gái ông chết rồi, làm phiền Thầy chi nữa?: Qua câu này, người nhà ông trưởng hội đường không tin Đức Giêsu có thể phục sinh kẻ chết. Câu này cũng là dịp thử thách đức tin của ông Gia-ia. + “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi”: Sự im lặng của Gia-ia khi nghe báo tin con gái ông đã chết, cho thấy ông vẫn kiên trì với đức tin. Vì thế, Đức Giêsu đã khích lệ ông: “Chỉ cần tin thôi” hay “Cứ vững tin là được”. Qua câu này, Đức Giêsu muốn cho Gia-ia đừng để đức tin bị chao đảo, như có lần Người đã nói: “Cái gì cũng có thể, đối với người có lòng tin” (Mc 9,23). + Người không cho ai đi theo mình, trừ ông Phê-rô, ông Gia-cô-bê và em ông này là ông Gio-an: Ba ông này luôn theo sát Đức Giêsu trong các biến cố quan trọng (x. Mc 5,37; 9,2; 14,33). Dù muốn giữ bí mật đối với đám đông, nhưng Đức Giêsu cũng cho ba môn đệ thân tín đi theo để sau này họ kể lại cho hậu thế biết (x. Ga 19,35). Sở dĩ phải ba ông, vì theo Luật Mô-sê thì lời chứng của ba người mới có giá trị (x. Đnl 19,15; Mt 18,16).
– C 38-40: + “Sao lại náo động và khóc lóc như vậy?”: Những người khóc lóc kêu la nói đây là những người khóc mướn. Họ được tang gia nhờ cậy để khóc than to tiếng mỗi khi có khách đến viếng người chết. + Đứa bé có chết đâu, nó ngủ đấy!: Trong Thánh Kinh, sự chết được diễn tả bằng nhiều kiểu nói: “Một số đã an nghỉ” (x. 1 Cr 15,6); “Về những ai đã an giấc ngàn thu” (x. 1 Tx 4,13); “an giấc trong Đức Giêsu” (x. 1 Tx 4,14). Khi nghe biết La-da-rô chết, Đức Giêsu cũng nói: “La-da-rô bạn của chúng ta đang yên giấc” (Ga 11,11). Ở đây, khi khẳng định cô bé chưa chết, mà chỉ đang ngủ đó thôi, là Đức Giêsu báo trước việc Người sắp cho em sống lại, được thức dậy sau một giấc ngủ. + Họ chế nhạo Người, nhưng Người bắt họ ra ngoài: Sự kiện này cho thấy: Những người không tin và chế nhạo thì không đáng được chứng kiến phép lạ như có lần Người đã nói: “Không nên lấy của thánh mà ném cho chó. Cũng không nên vất ngọc trai trước mặt con heo!”.+ Rồi dẫn cha mẹ đứa trẻ và những kẻ cùng đi với Người, vào nơi nó đang nằm: Chỉ có 5 người là cha mẹ cô bé, và ba môn đệ là Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an là những kẻ có thiện chí và đức tin nên được Người cho chứng kiến phép lạ để gia tăng đức tin. Vì “ai có sẽ được cho thêm để nên dư dật!”.
– C 41-43: + “Này bé, Thầy truyền cho con: Chỗi dậy đi!”: Cũng như khi sáng tạo trời đất, Thiên Chúa chỉ cần phán một lời là mọi sự xuất hiện (x. St 1,3.6.9.11.14), ở đây Đức Giêsu cũng chỉ ra lệnh là em bé kia lập tức sống lại. Điều này chứng tỏ Đức Giêsu làm chủ trên cả người sống lẫn kẻ chết (x. Mt 28,18). + Đức Giêsu nghiêm cấm họ không được để một ai biết việc ấy: Khi cấm các môn đệ không được nói ra phép lạ này là để tránh sự bồng bột quá khích của dân Do Thái bấy giờ đang có quan niệm ái quốc cực đoan về Đấng Thiên Sai. Phải chờ đến ngày Đức Giêsu từ cõi chết sống lại, ba môn đệ này mới thuật lại phép lạ mà các ông đã chứng kiến.
CÂU HỎI:
1) Biển Hồ nói đây là biển gì? Đức Giêsu đã làm các phép lạ nào trên Biển Hồ và trong khu vực này?
2) Trong thời gian giảng đạo, Đức Giêsu thường làm gì tại các hội đường Do thái?
3) Lòng tin của ông trưởng hội đường vào Đức Giêsu biểu lộ qua thái độ nào?
4) Cử chỉ đặt tay của Đức Giêsu nói lên điều gì?
5) Vì sao người đàn bà này lại bị Luật Mô-sê cấm đụng chạm tới người khác?
6) Lý do nào khiến bà ta dám vượt qua điều Luật cấm để đến gần chạm vào áo Đức Giêsu?
7) Tại sao Đức Giêsu lại hỏi đám đông: ”Ai đã sờ vào áo Tôi?”
8) Tại sao người đàn bà bị bệnh lại sợ khi nghe Đức Giêsu hỏi đám đông?
9)Tại sao Đức Giêsu lại đòi người đàn bà phải công khai thú nhận mình đã được khỏi bệnh?
10) Đức Giêsu nói câu nào để xác định chính Người chứ không phải áo Người đang mặc đã chữa bệnh cho người đàn bà?
11) Đức Giêsu đã nói gì với ông Gia-ia để khích lệ ông vững tin?
12) Ba môn đệ nào được chứng kiến phép lạ Đức Giêsu phuc sinh cô bé? Ba ông này còn được đi theo Chúa trong những trường hợp nào khác nữa?
13) Trong Thánh Kinh có những câu nào diễn tả sự chết như một giấc ngủ?
14) Tại nhà Gia-ia, tại sao Đức Giêsu không cho những kẻ cười nhạo Người ở lại? Những ai đã được chứng kiến phép lạ Người làm?
15) Đức Giêsu đã làm gì để phục sinh cô bé?
16) Tại sao Đức Giêsu cấm Môn đệ nói ra phép lạ này?
- SỐNG LỜI CHÚA
- LỜI CHÚA: Người nói với bà ta: “Lòng tin của con đã cứu con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh” (Mc 5,34).
- CÂU CHUYỆN:
1) Đức Tin vâng phục của tổ phụ Áp-ra-ham:
Ông Áp-ram khi đã già yếu đã gặp được Đức Chúa và được Ngài chọn làm tổ phụ của một dòng giống tin vào Đức Chúa đông như sao trời cát biển. Ngài cũng đổi tên ông từ Áp-ram trở thành Áp-ra-ham, nghĩa là “Cha của những kẻ có lòng tin”. Tổ phụ Áp-ra-ham đã nêu gương tin cậy vâng phục Đức Chúa. Mãi đến năm 90 tuổi Áp-ra-ham mới được Chúa ban cho một đứa con trai đặt tên là I-sa-ác. Nhưng năm I-sa-ác được 12 tuổi, Đức Chúa một lần nữa đã thử thách đức tin của ông bằng việc ra lệnh cho ông đem đứa con trai duy nhất đi sát tế dâng cho Đức Chúa trên núi. Dù khó chấp nhận điều này, nhưng Áp-ra-ham vẫn tín thác cậy trông và tuyệt đối vâng lời Đức Chúa. Ông đã cùng con trai đi leo lên núi cao và lập một bàn thờ để giết con làm lễ vật tiến dâng cho Đức Chúa, theo như phong tục của chư dân thời bấy giờ. Thấy rõ đức tin tuyệt đối của Áp-ra-ham, Đức Chúa đã sai một thiên thần đến ngăn tay ông lại và thay vì dâng con trai, ông được Chúa cho thế bằng một con cừu đực bị mắc sừng trong bụi cây. Rồi sau đó Đức Chúa đã tái xác nhận những điều Ngài hứa với ông trước đó. Cuối cùng Áp-ra-ham đã thực sự trở thành tổ phụ của một dân tộc tin vào Đức Chúa đông như sao trời cát biển như hiện nay (St 22,1-18).
- Hãy tín thác vào tình thương quan phòng của Chúa.
Một hôm lúc chiều tà trên bãi biển ẩm ướt, một thanh niên đang đi bách bộ với Chúa Giêsu, hai Thầy trò vừa đi vừa đàm đạo với nhau. Trên mặt cát ướt đều in lại bốn dấu bàn chân của hai thầy trò. Khi đi ngược lại, chàng thanh niên rất ngạc nhiên khi thấy trên mặt cát lúc thì có 4 dấu chân của hai thầy trò, nhưng có lúc lại chỉ thấy còn hai dấu chân. Chàng ta nghĩ đó là hai dấu chân của mình nên hỏi Chúa: “Lạy Thầy, khi nãy Thầy ở đâu để con phải đi một mình như thế?” Chúa Giêsu liền trả lời: “Con hãy nhìn kỹ lại xem hai dấu chân đó là của ai?” Sau khi quan sát kỹ, chàng ta công nhận là hai dấu chân của Chúa. Nhưng chàng lại tiếp tục hỏi: “Vậy lạy Chúa, con đang ở đâu trong lúc Chúa đi một mình như thế?”. Đức Giêsu liền âu yếm trả lời anh rằng: “Hỡi con, trong những lúc con bị lo âu phiền não, con không thể tự bước đi được. Đó là lúc Thầy phải bồng ẵm con trên đôi tay của Thầy đó!”.
- THẢO LUẬN: Một tín hữu gặp gian nan thử thách lại chỉ biết xin khấn, mà không cố gắng phấn đấu làm hết sức để vượt qua, thì có đức tin mạnh không? Đó có phải là thái độ tin thác vào lòng Chúa thương xót của Chúa không? Tại sao?
- SUY NIỆM:
1) Tầm quan trọng của Đức Tin để được ơn Chúa chữa lành:
Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay ghi lại hai phép lạ nói lên tầm quan trọng của Đức tin nếu chúng ta muốn được ơn Chúa cứu độ:
– Phép lạ thứ nhất là người đàn bà bị bệnh loạn huyết đã mười hai năm. Nhờ có đức tin mạnh vào tình thương và quyền năng của Đức Giê-su, nên cuối cùng bà đã được Người chữa cho lành bệnh loạn huyết.
– Phép lạ thứ hai là một bé gái mới chết đang nằm trên giường. Đức Giêsu đã được cha đứa bé là ông trưởng hội đường Gia-ia mời đến nhà để cứu chữa cho đứa con gái của ông sắp bị chết. Dù đứa bé đã chết, nhưng nhờ vững tin vào lời Đức Giê-su: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi”. Ông trưởng hội đường đã không nản lòng bỏ cuộc và tiếp tục đưa Người đến nhà. Cuối cùng nhờ vững tin vào tình thương và quyền năng của Đức Giê-su mà đứa bé gái con ông đã được Người truyền cho sống lại: “Ta-li-tha kum”, nghĩa là: “Này bé, Thầy truyền cho con: Trỗi dậy đi!” (Mc 5,41).
Trong cả hai phép lạ này, đức tin của người phụ nữ bị bệnh loạn huyết và đức tin của viên trưởng hội đường Gia-ia là điều tối cần để nhận được ơn cứu độ của Đức Giê-su.
2) Đức tin của người phụ nữ bị hoại huyết: hoại huyết là một chứng bệnh nhơ uế. Người Do thái không những coi đó là bệnh nhơ uế về mặt thể lý mà còn coi bệnh này là một thứ gây ô uế về phạm vi luân lý nữa. Cho nên Luật Mô-sê cấm những kẻ mắc bệnh này đụng chạm tới người khác. Vì bệnh nhân mắc bệnh này chạm tới ai thì người ấy liền trở nên ô uế. Người phụ nữ bị bệnh loạn huyết trong Tin Mừng hôm nay không dám kêu xin Đức Giêsu chữa bệnh cho mình, vì bà sợ nếu để người khác biết bà mắc chứng bệnh nhơ uế này thì bà sẽ lập tức bị xua đuổi khỏi đám đông. Bà định tâm sẽ giữ im lặng tiến gần đến bên Chúa để chỉ cần sờ vào áo của Người thôi là bà sẽ được khỏi bệnh. Quả thật, bà đã được Chúa chữa cho khỏi bệnh. Nhưng Người muốn bà phải can đảm tuyên xưng đức tin để làm chứng cho Người. Bấy giờ Người liền quay lại giữa đám đông mà hỏi: “Ai đã sờ vào áo Tôi?”. Các môn đệ thưa: “Thầy coi, đám đông chen lấn Thầy như thế mà Thầy còn hỏi: “Ai đã sờ vào Tôi?”. Đức Giêsu ngó quanh để nhìn người phụ nữ làm điều đó. Bà này sợ phát run lên, vì biết điều gì đã xảy đến cho mình. Bà đến phủ phục trước mặt Người, và nói hết sự thật với Người. Người liền nói với bà ta: “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh” (Mc 5,30-34).
3) Đức tin của ông Gia-ia: Ông là trưởng của một hội đường Do thái. Ông tin vào quyền năng và tình thương của Đức Giê-su nên khi có đứa con gái bị bệnh nặng gần chết, ông đã đến kêu xin Đức Giê-su mau đến nhà chữa bệnh cho con ông. Trong lúc cùng đi với Đức Giê-su về nhà, thì ông Gia-ia đã nghe tin con gái ông đã chết! Nhưng Gia-ia đã không nản lòng bỏ cuộc. Ông đã được nghe lời Đức Giêsu động viên: “Đừng sợ, cứ tin”. Ông đã tin vào lời Chúa, và cuối cùng con gái ông tuy đã chết, nhưng đã được trỗi dậy sau lời truyền phán của Đức Giê-su: “Này bé, Thầy truyền cho con: Trỗi dậy đi!” (Mc 5,41). Chính nhờ ông Gia-ia biết vững tin vào vào quyền năng và tình thương của Đức Giê-su, mà đứa con gái của ông đã nhận được ơn Chúa cứu độ.
4) Sống đức tin trong cuộc sống hôm nay:
– “Lạy Chúa. Xin cứu chúng con, kẻo chúng con chết mất!” (Mt 8,25):
Đức tin là một nhân đức quan trọng nhất giúp chúng ta đặt trọn niềm tín thác cậy trông vào tình thương quan phòng và quyền năng vô biên của Chúa Giê-su. Mỗi khi gặp những điều khó khăn trái ý, hay khi đối diện với những vấn đề vượt quá sức tự nhiên của mình. Như các môn đệ Chúa xưa, chúng ta hãy chạy đến kêu cầu Chúa đang ngủ yên trong tâm hồn chúng ta. Hãy thưa với Chúa Giê-su: “Lạy Chúa. Xin cứu chúng con, kẻo chúng con chết mất!” (Mt 8,25). Chúa có thể cũng sẽ quở trách đức tin yếu kém của chúng ta: “Sao nhát thế? Làm sao anh em vẫn chưa có lòng tin?” (Mc 4,40). Nhưng đồng thời Người sẽ cũng sẽ thương ra tay thực hiện những điều lạ lùng để cứu thoát chúng ta. “Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1,37).
– “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi” (Mc 5,36):
Có nhiều người khi gặp phải những tình huống khó khăn mà cầu xin Chúa không được như ý nên thường ngã lòng cậy trông, không còn cầu xin gì nữa. Khi gặp phải tình huống ấy, chúng ta hãy nghe lời Đức Giê-su trấn an ông Gia-ia: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi”. Nếu điều chúng ta xin thực sự hữu ích cho phần rỗi đời đời của chúng ta, thì chắc chắn Chúa sẽ ban ơn theo ý chúng ta xin, như lời Chúa Giê-su đã nói về tình thương của Thiên Chúa: “Vậy nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, phương chi Cha anh em, Đấng ngự trên trời, lại không ban những của tốt lành cho những kẻ kêu xin Người sao?” (Mt 7,11).
– “Đừng theo ý con một xin vâng ý Cha” (Mt 26,39):
Khi tin vào Đức Giê-su, là chúng ta hãy noi gương Người để bỏ cái tôi ích kỷ tự mãn của mình, để đi con đường hẹp, chấp nhận vác tập giá mình hằng ngày mà theo chân Chúa. Khi chúng ta cầu nguyện, đừng cầu theo ý riêng mình, nhưng hãy cầu xin theo thánh ý Chúa Cha noi gương Chúa Giê-su: “Đừng theo ý con, một xin vâng ý Cha”. Chúng ta cũng hãy năng cầu nguyện theo kinh Lạy Cha. Hãy cầu xin cho ta nên khí cụ bình an của Chúa như lời Kinh Hòa Bình của thánh Phan-xi-cô: “Lạy Chúa từ nhân, xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người…”.
– Phải sẵn sàng cộng tác với ơn Chúa:
Trong các phép lạ của Chúa, chúng ta thấy luôn có sự cộng tác của con người. Chẳng hạn: Trong tiệc cưới Cana, Chúa Giê-su chỉ làm phép lạ khi người ta đã “múc nước đổ đầy các chum” (Ga 2,7); Trong phép lạ về nhân bánh ra nhiều, Chúa chỉ làm cho bánh hóa nhiều khi có “5 chiếc bánh và 2 con cá” (Mc 6,35-43); Khi chữa mắt cho người mù, Người chỉ thoa bùn vào mắt anh, còn chính anh mù phải đi rửa ở hồ Silôê mới được sáng mắt (Ga 9,1-40); Trong cuộc sống đời thường, Chúa luôn muốn cho chúng ta sử dụng hết các khả năng của chúng ta, và Chúa chỉ can thiệp khi cần mà thôi như câu ngạn ngữ: “Hãy thắp lên một ngọn đèn, con hơn ngồi đó mà nguyền rủa bóng tối”.
– Tất cả đều là hồng ân: Sau khi kết thúc công việc, chúng ta phải tạ ơn Chúa khi được thành công, và nếu chẳng may bị thất bại, chúng ta cũng vẫn tạ ơn Chúa. Vì với cái nhìn đức tin thì: “Chúa có thể rút từ sự dữ ra sự lành” và “Mọi sự đều là hồng ân”. Tất cả những gì xảy đến cho ta đều là hồng ân của Chúa ban và đều sinh ích cho phần rỗi đời đời của ta.
- LỜI CẦU:
Lạy Chúa Giêsu. Nhiều lần con đã đến nhà thờ cầu nguyện và tham dự thánh lễ. Tai con đã bao lần được nghe Lời Chúa dạy, bàn tay và môi miệng con đã nhiều lần được chạm đến Mình Máu Chúa, thế mà sao con vẫn chưa được khỏi các đam mê tội lỗi. Xin hãy gia tăng lòng tin cậy mến và sự quyết tâm xa lánh dịp tội cho con, nhờ đó con hy vọng sẽ được ơn Chúa chữa lành như người phụ nữ trong Tin Mừng hôm nay.
- X) Hiệp cùng Mẹ Maria. – Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
(Suy niệm của Lm. Jude Siciliano, OP – Chuyển ngữ: FX. Trọng Yên, OP)
ĐỨC TIN ĐEM CHÚNG TA ĐẾN GẦN CHÚA
Anh chị em thân mến,
Bài đọc 2 hôm nay không tiếp tục trích tuần tự theo thư thánh Phaolô đọc trong Chúa Nhật tuần trước. Mà nhảy qua cách bài tuần trước 3 chương. Để anh chị em dễ hiểu, tôi sẽ sử dụng vài từ cũ trong bài đọc tuần trước để diễn giảng bài hôm nay.
Thánh Phaolô khen giáo hữu thành Cô-rin-tô, vì, tuy họ vừa đủ sống, nhưng họ cũng rộng rãi giúp đỡ những Kitô hữu thiếu thốn. Thánh Phaolô không phải là người dùng lời ngoại giao để lạc quyên, trái lại, ông khen đức tin của họ. Giáo hữu thành Cô-rin-tô được nhiều ơn qua đức tin của họ. Ai cũng biết được những ơn như: tài ăn nói, chữa lành bệnh tật, khôn ngoan và hiểu biết v.v…
Và bây giờ, Phaolô muốn họ dùng những ân sủng đang có để giúp các anh em giáo hữu khác. Phaolô dựa vào sự tự hiến của Chúa Giêsu để khuyến khích họ: “anh em biết Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, đã có lòng quảng đại như thế nào: Người vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giàu có” (2Cr,9). Chúng ta đã trở nên giàu có với những ân thánh sủng. Vì thế, Thánh Phaolô khuyến khích giáo hữu thành Cô-rin-tô nên theo gương Chúa Giêsu để chia sẻ những gì họ có nhiều hơn cho kẻ túng thiếu.
Giáo Hội không gồm những cộng đoàn độc lập, giữ đức tin riêng biệt cho cộng đoàn mình. Trái lại, máu thánh Chúa Giêsu hòa hợp chúng ta lại với nhau, vì vậy, chúng ta không thể quên sự thiếu thốn của anh em trong các cộng đoàn khác. Bởi thế, bên nước El Salvador, các cộng đoàn ở thành phố nhận giúp đỡ các cộng đoàn ở vùng quê. Họ không những gom tiền cho cộng đoàn họ giúp đỡ, mà còn kêu gọi người tình nguyện đến giúp đỡ trực tiếp vào mỗi mùa xuân như đến để sửa sang nhà thờ, sửa sang các nhà bị ngập lụt, và đào giếng cho dân chúng cả vùng.
Phaolô nói, giúp đỡ người nghèo không chỉ có một chiều, chính người nghèo cũng giúp đỡ lại chúng ta. Một nhóm sinh viên đến nước Honduras ở Trung Mỹ đã nhận thấy như vậy khi họ giúp đỡ một làng ở Honduras trong mười ngày vào dịp lễ Phục Sinh. Họ đã xác nhận điều đó với cộng đoàn Giáo Hội trong đại học hôm Chúa Nhật sau khi họ ở Honduras về. Họ đã học hỏi được nhiều điều trong lúc giúp đỡ: Học cách đón tiếp của người trong làng, về giá trị của gia đình, về sự làm ăn cần mẫn, về lòng hy sinh và về đức tin của dân làng.
Hôm nay có thể là Chúa Nhật mà ban tổ chức công tác xã hội trong cộng đoàn Giáo Hội chúng ta có thể làm bảng tổng kết về những việc đã làm, như hô hào các sinh viên, học sinh giúp xây nhà ở; chương trình phát của ăn cho người thiếu thốn v.v… “Trong hoàn cảnh hiện tại, anh em có được dư giả, là để giúp đỡ những người đang lâm cảnh túng thiếu, để rồi khi được dư giả, họ cũng sẽ giúp đỡ anh em, lúc anh em lâm cảnh túng thiếu. Như thế, sẽ có sự quân bình.” (2Cr 8,14)
Trong Phúc Âm hôm nay, người phụ nữ bị bệnh băng huyết lâu năm không còn hy vọng gì nữa. Thánh Mác-cô đã cho biết, bà ta đã bị bệnh từ 12 năm rồi “…chạy thầy chạy thuốc đã nhiều đến tán gia bại sản,…” Bệnh đã làm cho bà trở nên người không sạch, và bị loại ra khỏi cộng đoàn. Bà ta đau đớn về thể xác, và khó nghèo do bị khánh kiệt, lại còn bị loại ra khỏi cộng đoàn tôn giáo nữa. Và hơn thế nữa là nếu bà sờ vào ai thì người đó cũng trở nên không sạch sẽ, vậy nếu bà sờ và Chúa Giêsu, bà sẽ làm cho Ngài không sạch sẽ. Như thế cả hai người sẽ cùng bị cộng đoàn, tôn giáo và xã hội ruồng bỏ.
Câu chuyện người phụ nữ này rất nổi bật trong Phúc âm thánh Mác-cô. Thường một phép lạ xảy ra nhấn mạnh vào Chúa Giêsu. Nhưng phép lạ này nhấn mạnh đến người phụ nữ “Có một bà kia…” Rồi Thánh Mác-cô kể chi tiết bệnh tình của người phụ nữ ấy. Trong Phúc âm, có chuyện một người phụ nữ khác, người gốc Phê-ni-xi (Mc7:24-30) có đứa con gái nhỏ bị quỷ ám. Thánh Mác-cô tả danh tính hai người phụ nữa ấy và câu chuyện của họ liên quan đến Chúa Giêsu. Cả hai đều rất cần sự giúp đỡ. Trong câu chuyện người phụ nữ hôm nay, bà ta “nói hết sự thật với Chúa Giêsu”.
Trong Kinh Thánh, chỉ toàn chuyện của nam giới. Mỗi khi người phụ nữ lập gia đình, thì người đó rời gia đình họ, gia nhập vào gia đình nhà chồng và sống dưới quyền nhà chồng. Người đàn ông có toàn quyền trong gia đình, trên vợ và con cái. Nhưng cũng có nhiều câu chuyện nhắc đến phụ nữđó là những người phụ nữ theo Chúa Giêsu, và trong các cộng đoàn giáo hữu đầu tiên cũng có nhiều phụ nữ giúp đỡ. Như trong thơ Phaolô gởi giáo hữu thành Roma, có chị Pơ-rít-ca (Rm 16:3), chị Phê-bê nữ trợ tá Hội Thánh Ken-khơ-rê(Rm 16:1) và Maria (Rm 16:6)
Người phụ nữ trong Phúc Âm hôm nay đã trở nên gương mẫu cho các phụ nữ trong các cộng đoàn giáo hữu đầu tiên. Bà ta bước ra khỏi sự áp chế của xã hội thời bấy giờ. Bà đã tự động chen qua đám đông quần chúng để đến sờ vào áo Chúa Giêsu. Bà ta ở trong tình huống ngặt nghèo chỉ hy vọng duy nhất vào sự giúp đỡ của Chúa Giêsu. Bà ta không những vượt qua sự ngăn cản của xã hội mà cả sự ngăn cản của tôn giáo nữa. Bà tin Chúa Giêsu sẽ giúp cho bà, mặc dù những người khác không suy nghĩ như vậy.
Người phụ nữ ấy không những là gương mẫu cho các phụ nữ khác đang bị ràng buộc bởi giai cấp xã hội, bởi giới doanh nhân, mà còn là gương mẫu cho các phụ nữ đã bị tôn giáo khai trừ, hay coi thường những tài năng của họ. Nhưng họ vẫn dấn thân trong cộng đoàn để lãnh nhận những phần việc phục vụ gia đình và cộng đoàn, dạy dỗ con trẻ, làm việc trong cộng đoàn, giúp những gia đình thiếu thốn, đọc sách và kiệu Mình Thánh Chúa, cố vấn những người khác v.v…
Sau khi người phụ nữ trong Phúc Âm được chữa lành, Chúa Giêsu gọi bà ta là ‘con’. “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con…” Bà được trở lại với cộng đoàn con cái Chúa, không còn bị xã hội và tôn giáo ruồng bỏ nữa. “Lòng tin của con đã cứu chữa con” nghĩa là gì? Bà đã bị ruồng bỏ, nhưng bây giờ Chúa Giêsu thấy bà cần được giúp đỡ nên đã chữa lành cho bà. Lời của Giêsu dẫn đưa người ngoại vào cộng đoàn và được Chúa chữa lành. Điều gì đưa chúng ta đến Thánh lễ ngày hôm nay? Có phải chúng ta đến đây để sờ vào Chúa Giêsu và để được Chúa sờ vào chúng ta chăng? Nếu quả thật như vậy, thì đời sống chúng ta sẽ được thay đổi như thế nào? Sự liên kết trong cộng đoàn chúng ta có khắng khít hơn không? Và chúng ta có mời gọi nhau cùng đến để sờ và được sờ về thể xác và về tâm hồn không?
Câu chuyện người Gia-ia có con gái gần chết, bị gián đoạn vì câu chuyện người phụ nữ bị bệnh băng huyết. Thật ra, hai câu chuyện đều nói về hai người phụ nữ cần được giúp đỡ. Con của ông Gia-ia chỉ có 12 tuổi, nhưng đó là tuổi có thể được lập gia đình. Vừa đến tuổi trưởng thành, lập gia đình, thì sự chết của cô ta làm cho cha mẹ muốn chết theo.
Khi Chúa Giêsu vào phòng người con gái đã chết, thì đó là lúc Chúa Giêsu bước qua bên kia bờ, không phải là bước lên thuyền để qua bờ bên kia, nhưng là Chúa Giêsu bước qua bên phía người bị loại bỏ, không sạch nữa. Lòng thương yêu của Chúa Giêsu làm cho Ngài bước qua sự cấm đoán của xã hội và tôn giáo để giúp những trường hợp cần đến Ngài. Khi Chúa đã truyền người con gái đứng dậy, Ngài bảo phải cho cô đồ ăn. Cô gái đó và cả gia đình đều được chữa lành. Chúa Giêsu đã thắng sự chết, và cộng đoàn đã được bình ổn. Đó là việc xảy ra mỗi khi chúng ta đến dự Tiệc Thánh nhờ đó chúng ta được lành lại, vì Chúa Giêsu đã đưa tay kéo chúng ta đứng dậy và Ngài nói “Này bé, Thầy truyền cho con: trỗi dậy đi”. (Mc 5,41).
(Suy niệm của Lm. Jude Siciliano, OP)
SIÊNG NĂNG ĐỤNG VÀO CHÚA GIÊSU QUA BÍ TÍCH THÁNH THỂ SẼ ĐƯỢC CỨU RỖI
Anh Ladarô và đủ́a bé gái con ông Jairus sau này đều chết. Không ai biết đủ́a bé gái sau này lỏ́n lên chết vì sinh đẻ hay vì bệnh tật. Cô ta có thể sống lâu, có con và cháu. Có thể khi cô ta nằm trên giường chết có thân nhân đứng chung quanh đó. Và sau đó lễ an táng như thường lệ. Chắc có thuê người chơi nhạc, và khóc mướn. Hàng xóm chắc nghe tiếng đám ma và biết con ông Jairus chết một lần nữa.
Chắc có người lớn tuổi nhớ cô ta chết một lần khi được 12 tuổi. Chắc họ kể cho con cái về ông hội trưởng hội đường cha cô ta đã bất kể những chống đối đối với thầy giảng Giêsu để đến quỳ gối xuống xin Chúa Giêsu chữa con ông ta. Bệnh hoạn và sự chết đã len lỏi vào cả những người có địa vị trong xã hội. Hai điều đó đến với chúng ta trong lúc chúng ta yếu đuối, làm mất cả các ảo tưởng, và nhắc chúng ta là mặc dù chúng ta có đía vị quan trọng đi nữa, chúng ta vẫn là phàm nhân – sống tạm thời trên trần thế mà thôi. Rồi con gái ông Jairus chết một lần nữa, nhưng Chúa Giêsu không có đó để giúp đở gia đình trong lúc đau khổ buồn phiền. Vậy có phải Chúa Giêsu chỉ làm phép lạ cho con gái ông Jairus một lần hay sao, một phếp lạ lớn chứng tỏ quyền năng của Ngài hay sao?
Cộng đoàn tín hữu tiên khởi kể lại câu chuyện này cho chúng ta không nghĩ như vậy. Họ nhìn thấy Chúa Giêsu làm phép lạ nhiều lần cho người chết sống lại qua phép lạ Ngài làm cho con gái ông Jairus. Thật ra họ thấy trong câu chuyện đó điều quan trọng cho chúng ta là những người đã nhiều lần chứng kiến cái chết của người thân thương. Thêm vào đó, chúng ta cũng sẽ gặp sự chết của chúng ta. Phép lạ Chúa Giêsu làm cho đứa bé gái ấy có ý nghĩa gi cho chúng ta hôm nay? Tiền nhân chúng ta trong đức tin nghĩ là có, vì chúng ta thấy qua cách họ kể câu chuyện. Họ cho thấy dấu chỉ về sự sống lại trong khi kể câu chuyện.
Giá như: ông Jairus xin Chúa Giêsu đặt tay trên bé gái để cháu được “cứu thoát” và được “sống”. Hai lời đó đều có ý nghĩa đặc biệt. Trong Giáo Hội tiên khởi người ta thường dùng hai lời đó để nói về “sự cứu rỗi” và về “sự sống đời đời”. Các tiền nhân chúng ta trong đức tin nghĩ rằng trong phép lạ đó, Chúa Giêsu đã cứu rổi và ban sự sống đời đời cho kẻ chết.
Trong một bủ̉a tiệc sinh nhật, một bà mẹ nói vỏ́i tôi trong lúc ăn bánh và uống cà phê là con trai bà ta bị bệnh nghiện ma túy. Anh ta ra vô nhà điều dưỡng nhiều lần. Hiện giỏ̀ anh ta không ỏ̉ trong nhà điều dưỡng, không dùng ma túy, nhủng không có việc làm. Bà ta sọ̉ anh ta sẽ trỏ̉ lại dùng ma túy và vỏ́i các bạn cũ. Bà ta xin cầu nguyện. Bà ta cũng đã nói chuyện vỏ́i cố vấn con bà ta, để hỏi xem cách nào bà ta có thể giúp ngủỏ̀i con trai. Cũng nhủ ông Jairus, bà ta cầu xin cho con bà ta đủọ̉c “mạnh và sống lại”. Bà ta muốn giúp ngủỏ̀i con không nhủ̃ng bỏ ma túy mà tìm đủọ̉̀c ý nghĩa sâu đậm của cuộc đỏ̀i. Bà ta hy vọng ngủỏ̀i con đó có thể đủọ̉c niềm tin vào Chúa Giêsu nhủ bà ta và cảm nghiệm tình thủỏng yêu và sụ̉ giúp đỏ̉ mà bà ta hủỏng đủọ̉c trong cộng đoàn đủ́c tin. Cũng nhủ ông Jairus, bà ta muốn nắm tay Chúa Giêsu và dẩn Ngài đến sỏ̀ vào con bà ta. Bà ta hy vọng là qua bà ta, Chúa Giêsu sẽ đưa tay đến ngủỏ̀i con, đánh thủ́c anh ta dậy trong lúc anh ta ngủ, để anh ta có thể “sống”.
Ở Trung Đông có một hiện tượng tâm linh gọi là “tỉnh thủ́c”. Điều đó xảy ra như sau: chúng ta bận rộn làm từ việc này qua việc nọ trong ngày, đến chiều tối chúng ta chìm đắm trong việc xem ti vi, rồi đi ngủ chút ít, Hôm sau lại vội vàng bận rộn làm việc. Chúng ta không có thì giờ chiêm nghiệm nhìn vào căn bản cuộc sống hằng ngày. Lại còn ít thời gian lo cho đời sống nội tâm. Có lúc, có thể nhiều sự việc xảy ra cắt đứt các tập tục thông thủỏ̀ng. Nhủ khi trong đời sống nội tâm có điều gì không khải cần được sửa chửa; có thể nhờ người gần gủi qua đời hay lâm bệnh nặng; hay sức lực của mình bị sút kém vì lớn tuổi; hay chúng ta trải qua cuộc ly dị do thiếu lo lắng cho đời sống gia đình v.v… Cho đến khi những sự việc đó xảy ra chúng ta chưa “thức tỉnh”. Chúng ta nhìn vào nơi nào đó, vào những điều chúng ta nghĩ làm cho đời sống “có ý nghĩa”, “hào hứng”, đáng “chú ý”, và “quan trọng”. Những điều gì đã xảy ra cho chúng ta làm chúng ta tỉnh thủ́c qua một giấc ngủ trièn miên trong sự chết. Có người nào đã đưa bàn tay sờ vào chúng ta và đánh thức chúng ta dậy. Chúng ta được “cứu rổi” và được trông thấy rõ ràng hơn hoàn cảnh hiện tại, và Đấng đó là ai đã ban cho chúng ta sự sống.
Chúng ta đủọ̉c thủ́c tỉnh một cách khác nủ̃a: điều rõ ràng trong câu chuyện bé gái con ông Jairus là bé đó đã chết, nhiều người khóc lóc kêu la ầm ỉ chứng tỏ điều đó. Nhưng Chúa Giêsu bảo họ là đứa bé đang “ngủ”, có chết đâu, làm các người đó chế nhạo Ngài. Thánh Máccô nói rõ với chúng ta là cộng đoàn tín hữu tuyên xưng Chúa Giêsu. Sự chết như là “giấc ngủ” đối với Chúa Giêsu. Và điều gì Ngài làm cho đứa bé; Ngài sẽ làm cho chúng ta và làm cho chúng ta tỉnh thức qua giấc ngủ. Với niềm tin là Chúa Giêsu có quyền làm điều này, mỗi người trong chúng ta có thể can đảm nhìn vào sự chết của chúng ta với đức tin Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta. Chúng ta sống trong một văn hoá không chấp nhận sự chết, và tôn thờ tuổi trẻ, sự thành công. Kiểm soát được sức khoẻ và quyền lực. Sự chết mở màng cho chúng ta thấy những điều chúng ta tôn thờ đó và bày tỏ những hứa hẹn hảo huyền của chúng. Chúng ta ngủ, nhắm mắt lại như chúng ta điều khiển sự việc, nhưng cuối cùng sự chết có quyền uy.
Hình nhủ sụ̉ chết cũng có quyền uy cuối cùng trên Chúa Giêsu. Sụ̉ sống lại của Chúa Giêsu nhắc chúng ta là chính Ngài mới là ngủỏ̀i có quyền uy cuối cùng chứ không phải sụ̉ chết. Bây giỏ̀ chúng ta có thể nhìn vào đỏ̀i sống vỏ́i một quan niệm khác và tin là sụ̉ chết thật ra chỉ là một “giấc ngủ” mà Chúa Giêsu đã đánh thủ́c chúng ta dậy. Niềm tin vào sụ̉ sống lại sẽ làm chúng ta tụ̉ do hỏn để chống chọi vỏ́i nhủ̃ng thách thức của cuộc sống. Chúng ta không cần giả vờ là chúng ta không già; chúng ta có thể nhìn vào nhủ̃ng thất bại của chúng ta theo quan điểm xuyên suốt đỏ̀i sống; chúng ta có thể bỏ ý định điều khiển cuộc sống để tuân theo thánh ý Thiên Chúa; chúng ta không cần phải lo sọ̉ hải khi đỏ̀i sống chúng ta không còn nủ̃a, và sủ́c khỏe chúng ta yếu dần; và chúng ta không cảm thấy cô đỏn trong lúc chúng ta phải chiến đấu vỏ́i sụ̉ dủ̉ dủỏ́i mọi hình thủ́c của sụ̉ chết trong thế gian.
Chúa Giêsu bảo nên cho em bé ăn. Có điều gì chủ́ng tỏ mạnh hỏn là đủ́a bé đã sống lại không? Việc ăn uống không nhủ̃ng là dấu chỉ là cỏ thể em bé đã hoạt động bình thủỏ̀ng. Trong văn hóa thỏ̀i đó, ăn uống vỏ́i gia đình là dấu chỉ mạnh mẻ chủ́ng tỏ có sụ̉ sống để thuộc về gia đình. Ngủòi có sụ̉ sống không chỉ là cá nhân, nhủng là thành phần của cộng đoàn. Gia đình cho em bé ăn và rồi em bé đủọ̉c trỏ̉ lại sụ̉ sống hoàn toàn. Không ai biết em bé đau bao lâu và đã không ngồi vào bàn ăn vỏ́i gia đình. Bây giỏ̀ em bé trỏ̉ lại bàn ăn chung quanh có ngủỏ̀i thân thủỏng. Vị giảng thuyết có thể so sánh việc đó tủỏng đủỏng vỏ́i bàn tiệc Thánh Thể. Khi chúng ta “ngủ”, hay “chết” vì tội lỗi, Chúa Kitô sống lại “đánh thủ́c” chúng ta qua việc tha thủ́ tội lỗi chúng ta. Chúng ta đủọ̉c sụ̉ sống trỏ̉ lại nhủ một thành phần của gia đình tín hủ̃u. Chúng ta có thể trỏ̉ lại bàn ăn gia đình, và ăn uống Mình thánh và Máu thánh Chúa Kitô.
Về câu chuyện người phụ nữ bị băng huyết chận Chúa Giêsu trên đường đi về nhà ông Jairus: Bà ta như là một người có tiền của. Trong một xã hội nghèo nàn như thế, làm sao bà ta có tiền đi “nhiều thầy thuốc” như thế? Và bây giờ người bị băng huyết là người không trong sạch theo lề luật xã hội. Bà ta không đươc phép thờ phượng trong hội đường, và phải tránh xa cộng đoàn vì sợ lây cho người khác. Thật buồn cười, có thể trong quá khứ bà ta biết ông Jairus, và có thể cũng cùng một nhóm xã hội với nhau. Và bây giờ người phụ nữ đó lại không được thờ phượng trong hội đường. Dù vậy sự cần giúp đở trong lúc rối rắm, cả hai người cùng gặp nhau. Bây giờ cả hai người cùng cần được giúp đở, và cùng có đức tin vào Chúa Giêsu, cùng thuôc về một cộng đoàn. Cũng như chúng ta cần đức tin vào Chúa Giêsu trong việc phụng vụ hôm nay. Những sự khác biệt giữa chúng ta đều được bỏ qua một bên, và chúng ta cùng nhau đến với Chúa Giêsu. Nhưng, chính Ngài, qua Lời Kinh Thánh và phép Thánh Thể đến với chúng ta sờ tay vào chúng ta và đánh thức chúng ta dậy.