Suy niệm CHÚA NHẬT 12 THƯỜNG NIÊN – B
Lời Chúa: G 38,1.8-11; 2Cr 5,14-17; Mc 4,35-41
MỤC LỤC
- Thầy không lo sao?.
- Chúa Nhật 12 Thường Niên.
- Thử thách trong cuộc đời
- “Vậy Người là ai?”
- Ơn thánh lạ lùng.
- Bớt giỡn!
- Khi Đức Giêsu ngủ say.
- Sóng gió.
- Người dựa vào chiếc gối mà ngủ.
- Chúa Nhật 12 Thường Niên.
- Quyền năng của Thiên Chúa.
- Bão táp cuộc đời
- Chúa Nhật 12 Thường Niên.
- Sóng gió cuộc đời
- Tái tạo.
- Chúa Nhật 12 Thường Niên.
- Lời kêu xin.
- Tin cậy Thiên Chúa toàn năng.
- Chúa Nhật 12 Thường Niên.
- Chất vấn.
- Chúa Nhật 12 Thường Niên.
- Suy niệm của Achille Degeest
- Đức tin trưởng thành.
- Các con không có lòng tin sao?.
- Mời gọi qua sông.
- Giông bão.
- Điều khiển.
- Bão tố.
- Cha em là người cầm lái
- An tâm..
- Chúa Nhật 12 Thường Niên.
- Biển đời và biển khơi
- Chúa Nhật 12 Thường Niên.
- Vẫn chưa có lòng tin?.
- Chúa Nhật 12 Thường Niên.
- Bão tố yên lặng.
- Chúa Nhật 12 Thường Niên.
- Bão biển.
- Những đợt sóng.
- Bão tố.
- Chúa Nhật 12 Thường Niên.
- Chúa Nhật 12 Thường Niên.
- Chúa Nhật 12 Thường Niên.
- Chúa Nhật 12 Thường Niên.
- Trong vòng tay Chúa.
- Chúa Nhật 12 Thường Niên.
- Chúa Nhật 12 Thường Niên.
- Đức Giêsu dẹp yên bão tố.
- Chú giải của Noel Quesson.
- Chú giải của Fiches Dominicales.
- Chúa Nhật 12 Thường Niên.
- Chú giải của William Barclay.
- Thầy chẳng lo gì sao?.
- Tình cha.
- Quyền uy trên thiên nhiên.
*************************
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Các môn đệ gặp trận cuồng phong khi vượt biển. Họ kinh hoàng vì thấy mình sắp bị nuốt chửng. Bất lực trước cơn cuồng nộ của sóng gió, họ đã đánh thức Đức Giêsu, xin Ngài giúp đỡ.
Cuộc đời nào tránh được mọi cơn giông tố? Ai trong chúng ta cũng thích biển lặng sóng yên, nhưng giông tố lại giúp ta nhận ra mình: yếu đuối, chao đảo, mong manh, bất lực, không đủ khả năng đương đầu với bao thách đố. Giông tố đưa ta đến với Đức Giêsu, và phó thác cho sự trợ giúp của Ngài. “Chúng con chết mất!”
Cái chết thể lý và cái chết tinh thần. Cái chết của bản thân và của tập thể mình gắn bó. Cái chết của những công trình mình xây dựng. Chúa là sự sống, sao Chúa lặng yên để chúng con chịu chết? Sao Chúa để sự dữ tung hoành trên thế giới? “Mà Thầy không lo sao?”. Một lời trách móc? Nhiều khi chúng ta cũng trách Chúa như vậy. Có vẻ Chúa quá vô tư, lãnh đạm, hững hờ. Chúa yên ngủ khi đời ta gặp cơn giông tố.
Đức Giêsu đã thức dậy, ra lệnh cho gió và biển: “Câm đi! Im đi!”. Gió ngừng ngay và biển lặng xuống. Sự lặng đi của biển đưa đến sự trầm lặng của lòng. Nỗi kinh hoàng tan biến, nỗi sợ chết cũng bay xa. Nhưng chúng ta không đòi phép lạ biển lặng trong đời. Điều quý hơn, đó là lòng ta được lặng.
Lòng lặng không phải vì biển lặng, mà lặng ngay giữa lúc biển động. Đó là một phép lạ lớn hơn nhiều, và đó cũng là thái độ Chúa muốn ta phải có. Tại sao các anh lại kinh sợ? Sóng gió làm gì được các anh khi Thầy đang cùng các anh ở chung một con thuyền?
Đức Giêsu đòi các môn đệ không được khiếp sợ. Thầy đã làm bao phép lạ trước mắt các anh, vậy mà các anh vẫn chưa có lòng tin ư? Nếu có lòng tin thì đâu có cuống cuồng như vậy. Đức tin chỉ lộ ra khi biển động. Và có thể nói, biển động giúp hình thành đức tin. Đức tin lớn lên ít nhiều sau mỗi lần biển động.
Thuyền đời Kitô hữu chẳng bao giờ êm ả. Nó chỉ êm ả khi về tới bến. Nhưng lòng ta lại phải giữ cho bình yên, ngay cả khi Ngài không thức dậy, dù ta đã gọi Ngài nhiều lần giữa tiếng sóng gào thét. Ta tin rằng Ngài sẽ cứu ta theo cách của Ngài.
Gợi Ý Chia Sẻ
– Điều gì khiến bạn sợ hơn cả trong cuộc sống? (Sợ thất nghiệp, sợ thi rớt, sợ không được yêu, sợ mất uy tín, hay sắc đẹp…). Sự sợ hãi có làm đời bạn bớt vui không? Có làm bạn bớt tự do không?
– Khi bạn bị căng thẳng, lo âu, mất bình an, bạn thường làm gì để trở lại bình thường? Cầu nguyện có giúp gì cho bạn không?
Cầu Nguyện
Khi bị bao vây bởi muôn tiếng ồn ào, xin cho con tìm được những phút giây thinh lặng. Khi bị rã rời vì trăm công ngàn việc, xin cho con quý chuộng những lúc được an nghỉ trước nhan Chúa. Khi bị xao động bởi những bận tâm và âu lo, xin cho con biết thanh thản ngồi dưới chân Chúa để nghe lời Người. Khi bị kéo ghì bởi đam mê dục vọng, xin cho con thoát được lên cao nhờ mang đôi cánh thần kỳ của sự cầu nguyện.
Lạy Chúa, ước gì tinh thần cầu nguyện thấm nhuần vào cả đời con. Nhờ cầu nguyện, xin cho con gặp được con người thật của con và khuôn mặt thật của Chúa.
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu)
SAO CHƯA CÓ LÒNG TIN?
“Sóng gió” là từ thường được dùng để chỉ những thử thách mà ai cũng có lần gặp trong cuộc đời. Chẳng đời ai hoàn toàn êm đềm như biển lặng. Cả cuộc đời của những người đi theo Đức Giêsu cũng vậy. Các môn đệ không tránh khỏi sóng gió, hiểu theo nghĩa đen. Hồ Galilê thường hay có những cơn bão bất ngờ. Giữa lúc trời yên bể lặng thì sóng gió ập tới.
Bài Tin Mừng hôm nay kể chuyện về một kinh nghiệm sóng gió mà Thầy trò trải qua trên hồ Galilê. Có nhiều yếu tố làm tăng độ khó cho kinh nghiệm này. Trời lúc đó đã là chiều tối, chứ không phải ban ngày. Đức Giêsu và các môn đệ đang ở bên này của biển hồ.
Chính Thầy đưa ra lệnh: “Chúng ta hãy sang bờ bên kia đi!” Bờ bên kia là vùng Thập Tỉnh, nơi ở chủ yếu của dân ngoại. Không rõ tại sao khi trời tối, Thầy lại muốn mọi người qua đó. Thầy đã từ thuyền mà ngồi giảng các dụ ngôn cho dân (Mc 4,1). Bây giờ Thầy vẫn đang ở trong con thuyền đó (Mc 4,36). Hành trình trên biển của Thầy trò xem ra không suông sẻ, vì bất ngờ một trận cuồng phong nổi lên. Cùng với gió mạnh là sóng to. Cùng với sóng to là nước lớn ào vào. Con thuyền chòng chành vì gió, nghiêng ngả vì sóng, và ngập nước đến độ có nguy cơ bị chìm.
Các môn đệ quen đánh cá ban đêm có kinh nghiệm này không? Vậy mà Thầy lại nằm ngủ say, trên một chiếc gối, ở đàng lái. Các môn đệ thật không sao hiểu được làm sao Thầy có thể ngủ bình yên trong hoàn cảnh hiểm nghèo như thế (G 11,18-19; Tv 4,9). Họ cuống lên nên trách móc Thầy mình: “Chúng ta sắp chết mà Thầy chẳng quan tâm sao?”(Mc 4,38). Dường như họ muốn Thầy mình làm một điều gì đó. Thầy Giêsu đang ngủ, bị đánh thức và Thầy đã thức dậy. Thầy ngăm đe gió như đã ngăm đe quỷ (Mc 1,25; 3,12), và ra lệnh cho biển động phải yên lặng như tờ. Những sức mạnh tự nhiên đe dọa con người bị khuất phục. Thầy Giêsu không chỉ có quyền uy trên bệnh tật, ma quỷ, Thầy còn có quyền trên các năng lực tự nhiên trong trời đất.
Khi biển lặng, sóng yên, Thầy mới bắt đầu trách môn đệ: “Tại sao anh em nhát thế? Anh em vẫn chưa có lòng tin sao.” Khi sống bên Thầy, lẽ ra họ phải có lòng tin vững mạnh, nhưng sóng gió đã làm lộ ra chuyện họ yếu tin.
Sau phép lạ của Thầy Giêsu, chỉ bằng một lời quyền năng, các môn đệ hoảng sợ, sợ hơn cả lúc gió to sóng lớn. Nhưng đứng trước Đấng làm chủ cả gió và biển, họ vẫn chưa trả lời được câu hỏi: “Người này là ai?” (Mc 4,41).
Các môn đệ đã trải qua bao kinh nghiệm trong đêm nay:
– kinh nghiệm bị sóng gió dập vùi,
– kinh nghiệm cận kề cái chết,
– kinh nghiệm tuyệt vọng và hoảng loạn,
– kinh nghiệm trách móc đối với sự thinh lặng của Thiên Chúa,
– và kinh nghiệm bình an khi biển lặng sóng yên.
Con thuyền Giáo hội và thế giới cũng có khi gặp sóng gió. Chúng ta chỉ cần có Chúa trong thuyền, Ngài ngủ cũng được. Cũng cần kêu xin Ngài với lòng tin, chứ không hoảng hốt. Rồi mọi sự sẽ qua, bình an trở lại.
LỜI NGUYỆN
Lạy Chúa Giêsu,
Sống ở đời chẳng ai thích sóng gió,
nhưng sóng gió lúc nào cũng có trong đời người.
Các môn đệ đầu tiên
đã nhiều lần gặp sóng gió ở hồ Galilê.
Sóng gió đến khi Chúa đang ngủ vùi trên thuyền,
khiến môn đệ phải vội vàng đánh thức.
Sóng gió đến khi Chúa không ở trong thuyền,
khiến môn đệ phải chèo chống vất vả.
Chúa không tránh cho đời chúng con khỏi mọi sóng gió,
vì Chúa biết sóng gió làm chúng con trưởng thành,
tập vượt qua nỗi sợ hãi bằng lòng tin,
tập vượt qua nỗi lo âu bằng hy vọng.
Chúa để chúng con chiến đấu suốt đêm với gió ngược,
nhưng lại đến với chúng con khi trời gần sáng.
Xin cho chúng con yêu quý sự bình an,
nhưng lại không ngỡ ngàng trước sóng gió.
Giữa cơn sóng gió, xin cho chúng con tin rằng
Chúa vẫn hiện diện gần bên chúng con,
và đang đưa con thuyền Giáo Hội về đến bến.
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Trong đời ta gặp nhiều trường hợp giả vờ rất đáng yêu. Chẳng hạn bà mẹ trẻ giả vờ trốn đứa con nhỏ, để nó phải lo âu đi tìm. Và khi thấy nó đã lo âu đến độ tuyệt vọng, sắp khóc đến nơi, bấy giờ bà mẹ mới xuất hiện. Vừa thấy bà mẹ xuất hiện, đứa trẻ vui mừng khôn xiết. Và nó càng yêu mến, càng bám chặt lấy mẹ nó hơn nữa.
Chúa Giêsu cũng có nhiều lần giả vờ như thế. Lần giả vờ được minh nhiên ghi lại trong Tin Mừng là khi Người cùng hai môn đệ đi trên đường Emmaus. Khi đã đến nơi, Người giả vờ muốn đi xa hơn, làm cho các môn đệ phải tha thiết nài nỉ Người mới chịu ở lại. Khi Người ở lại, các môn đệ vui mừng khôn xiết. Và niềm vui lên đến tuyệt đỉnh khi các môn đệ nhận ra Người lúc bẻ bánh.
Hôm nay tuy Tin Mừng không minh nhiên ghi lại, nhưng ta có thể đoán biết Chúa Giêsu đang giả vờ. Vì sóng to gió lớn dập vùi làm cho thuyền chòng chành nghiêng ngả, nước tràn vào đến nỗi thuyền có nguy cơ bị chìm đắm, trong khi đó các tông đồ xôn xao chạy ngược chạy xuôi, hò hét nhau tìm cách tát nước ra. Giữa khung cảnh như thế, làm sao có thể nằm ngủ ngon lành được. Chỉ có thể là giả vờ. Việc giả vờ của Chúa phát xuất do tình yêu.
Vì yêu thương ta, Chúa muốn ta đáp lại tình yêu thương của Chúa.
Đó là định luật thông thường trong tình yêu. Khi yêu ai cũng muốn được đáp trả. Chúa không đi ra ngoài định luật thông thường đó. Người tha thiết yêu ta. Người mong ta yêu mến gắn bó với Người, nên đôi khi Người giả vờ lãng quên để ta nhớ mà chạy đến với Người, gắn bó với Người hơn. Như bà mẹ muốn đứa con tỏ ra cần đến mẹ, tha thiết đi tìm mẹ, hốt hoảng khi không thấy mẹ, Chúa cũng mong ta cần đến Chúa, tha thiết đi tìm Chúa và hốt hoảng lo âu khi thấy vắng bóng Chúa.
Vì yêu thương ta, Chúa muốn rèn luyện ta nên người.
Để rèn luyện ta, Chúa gửi những thử thách tới. Cuộc đời ví như mặt biển cả mênh mông. Mỗi người là một con thuyền lênh đênh trên mặt nước. Sóng gió là những thử thách trong cuộc đời. Những thử thách Chúa gửi đến giúp ta trưởng thành ở ba phương diện.
Những thử thách giúp ta biết mình hơn.
Bình thường ta nghĩ mình chẳng kém thua ai. Nhưng khi gặp thử thách mới biết mình thật yếu đuối. Thánh Phêrô thấy Chúa đi trên mặt nước thì tưởng mình cũng đi được. Nhưng chỉ được mấy bước đã chìm xuống. Các tông đồ là những bạn chài đã quen với sóng nước. Thế mà vẫn kinh hoảng trước bão tố. Đã chứng kiến biết bao phép lạ Chúa làm, nhưng khi gặp gió bão vẫn hoảng kinh. Thử thách giúp ta biết mình. Biết mình để thêm khôn ngoan, thêm trông cậy và nhất là để biết rèn luyện bản thân cho tiến bộ hơn.
Thử thách giúp ta biết yêu mến, cậy trông vào Chúa hơn.
Có thử thách ta mới biết sức mình, biết có những việc ở ngoài tầm tay của mình, chẳng ai có thể giúp mình ngoài Chúa. Vì thế gặp nhiều thử thách giúp ta biết cậy trông phó thác vào Chúa hơn. Gặp thử thách ta mới biết chẳng ai yêu thương ta bằng Chúa. Chúa sẽ không để ta bị thử thách quá sức chịu đựng, nên ta sẽ biết yêu mến Chúa hơn.
Thử thách giúp đức tin vững mạnh.
Chẳng có thử thách nào kéo dài mãi mãi. Chúa chỉ cho thử thách một thời gian. Rồi Chúa lại can thiệp để sóng yên biển lặng. Khi sóng yên biển lặng rồi, các môn đệ càng vững tin nơi Chúa hơn. Để từ nay các ngài không còn cuống quít lo sợ mỗi khi gặp gian nan nữa. Đời sống mỗi người chúng ta cũng thế. Ai càng gặp nhiều thử thách thì càng trở nên từng trải, vững vàng.
Đời sống không thể thiếu thử thách. Hãy biết rằng Chúa cho phép thử thách vì yêu thương ta, để rèn luyện ta nên người. Hơn nữa Chúa luôn ở bên ta. Vì thế ta hãy vững tin, hãy cậy trông phó thác và hãy biết tận dụng những khó khăn để đức tin thêm vững mạnh. Thử thách rồi sẽ qua đi. Nhưng cách ta phản ứng trước thử thách lại tồn tại và tạo thành giá trị đời ta. Ước gì mọi thử thách ta gặp trong đời đều biến thành cơ hội cho ta được thêm lòng, lòng cậy và lòng mến Chúa.
GỢI Ý CHIA SẺ
1. Tại sao Chúa cho ta bị thử thách? Thử thách có cần thiết không?
2. Thử thách giúp ta trưởng thành thế nào?
3. Ta phải sống thế nào trong thử thách để vượt lên trên thử thách?
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc)
- Cuồng phong và giấc ngủ
Chúng ta hãy đặt mình trong tình huống này: cuồng phong nổi lên, sóng ập vào thuyền, đến nỗi thuyền đầy nước; trong khi đó Đức Giê-su vẫn ngủ! Vì thế các môn đệ không chỉ hoàng hốt, nhưng còn đánh thức và trách cứ Người:
Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?
Chúng ta hãy hình dung ra sự tương phản gần như tuyệt đối: Một bên là gió rít sóng gào, một bên là Đức Giê-su, đang ngủ vô tư như em bé (vì chỉ có em bé mới có thể ngủ trong những tình huống như thế); một bên là các môn đệ chạy tới chạy lui hốt hoảng la hét, mất hết lòng tin; và một bên là tư thế nghỉ ngơi, an bình, hơi thở nhẹ nhàng, hoàn toàn phó thác của Đức Giê-su.
Hơn nữa trong bài Tin Mừng, thánh sử Mác-cô còn kể lại một chi tiết rất có ý nghĩa, đó là Đức Giê-su ngủ ở đàng lái!
Trong khi đó, Đức Giê-su đang ở đàng lái,
dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ. (Mc 4, 38)
Giữa sức mạnh của phong ba, bão táp, con thuyền được lèo lái, không phải bởi một sức mạnh lớn hơn, nhưng bằng một giấc ngủ ngon lành, nghĩa là bằng sự tín thác tuyệt nơi Thiên Chúa.
Biến cố này giúp chúng ta hiểu mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Giêsu; thực vậy, trong cuộc Thương Khó, Đức Giêsu cũng sẽ đối đầu và chiến thắng sức mạnh của sự dữ, của tội lỗi và của sự chết bằng sự hiền lành tuyệt đối.
- Lòng tin
Vừa nãy, các môn đệ trách Đức Giêsu; còn bây giờ, sau khi ngăm đe gió và truyền cho biển yên lặng, Người mới trách các môn đệ. Theo thánh sử Mát-thêu, Người trách các môn đệ trước (x. Mt 8, 26), để nêu bật lên sóng gió trong tâm hồn và sức mạnh dẹp yên của lòng tin:
Rồi Người bảo các ông: “Sao nhát thế?
Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?”(c. 40)
Qua lời trách này, Đức Giê-su muốn nói với các môn đệ rằng, các ông không được hoảng lên, kêu la và đánh thức Thầy như thế. Đáng lẽ các ông phải “ngồi yên”!
- Cứ để biển động như thế và cứ để gió gào như thế.
- Cứ để sóng thét và vùi dập con thuyền như thế.
- Và cứ để Người ngủ như thế.
Bởi vì chính Người đã lên thuyền và các ông đi theo Người. Nhưng nếu các ông cứ để yên thì chuyện gì xẩy ra, chúng ta có thể dễ dàng hình dung ra chuyện gì sẽ xẩy ra, sẽ chết hết! Như các môn đệ đã hốt hoảng la lên: “chúng ta chết đến nơi rồi!”
- Biển sẽ động đến tận cùng khả năng hung hãn của nó, và gió sẽ gào đến hết hơi của nó.
- Sóng sẽ thi thố hết sức mạnh kinh hồn của nó.
- Và Đức Giêsu sẽ cứ ngủ bình yên; nhưng ở đây, Ngài sẽ không để mình bị vùi dập, vì chưa đến “giờ”, và đây không phải là cách Người sẽ chết.
- Sức mạnh của Ngôi Lời
Chúng ta hãy cảm nếm sức mạnh của lời Chúa, vì đó là sức mạnh của Ngôi Lời sáng tạo:
Người thức dậy, ngăm đe gió, và truyền cho biển:
“Im đi! Câm đi!” Gió liền tắt, và biển lặng như tờ.(c. 39)
Lời Chúa làm cho hư vô chuyển thành hiện hữu ; hỗn mang trở thành trật tự ; kêu gào trở nên yên lặng. Chúng ta hãy lắng nghe một lần nữa lời trách của Đức Giê-su dành cho các môn đệ: “Sao nhát thế? Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?” Lời trách vừa thẳng và nặng. Thẳng và nặng giống như Chúa nói với sóng gió. Tại sao vậy ? Bởi vì lòng chúng ta cũng có sóng gào gió thét, cũng có hỗn mang. Để dẹp yên, có lẽ còn khó hơn; vì thế, theo lời kể của thánh sử Mát-thêu, Người thực hiện điều này trước khi nói với sóng gió.
Các môn đệ vừa nãy sợ sóng gió, sợ chết; bây giờ lại tiếp tục hoảng sợ trước căn tính thật sự của Đức Giê-su. Chúa dẹp yên sóng gió bên ngoài rồi; nhưng sóng gió nội tâm dường như vẫn còn:
Các ông sợ hãi kinh hoàng và nói với nhau: “Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?”(c. 41)
Tương tự như khi các ông hoảng sợ và tưởng là ma khi thấy Đức Kitô phục sinh từ cõi chết. Căn tính của Đức Giê-su lộ ra bởi sức mạnh của lời sáng tạo: chế ngự khuất phục hỗn mang, sự chết. Như các môn đệ, chúng ta chẳng bao giờ hiểu hết căn tính của Chúa, dù ngài đồng thuyền với ta. Vì như thánh Phao-lô nói: “Mọi được tạo dựng bởi Ngài và cho Ngài.”
***
Nơi Mầu nhiệm Vượt Qua, Chúa sẽ “ngủ” ở giữa gió rít sóng gào: một bên là bạo lực tuyệt đối ; một bên là hiền lành tuyệt đối. Ngài sẽ để yên cho Biển động, sóng to gió lớn, dập vùi Ngài cho đến chết. Ngài muốn để mọi sự diễn ra như thế, để chúng ta tín thác tuyệt đối vào ngôi vị của Ngài, và cũng để kinh nghiệm quyền năng tuyệt đối của Ngài trên Sự Dữ và Sự Chết. Quyền năng chỉ bộc lộ mức độ tuyệt đối khi trực diện với thế lực đối lập đã thi thố hết sức mạnh của nó.
Trong cuộc sống, có những lúc chúng ta gặp thử thách hay hiểm nguy, chúng ta kêu và Chúa “thức dậy” cứu chúng ta. Nhưng cũng có khi, chúng ta được mời gọi có kinh nghiệm tương tự như kinh nghiệm của mầu nhiệm Thương Khó, nghĩa là hoàn toàn phó thác, để cho Thiên Chúa dẫn chúng ta đi ngang qua bão tổ của thử thách, như Đức Giê-su. Thực ra, dù muốn dù không, đó sẽ là thời điểm của sự chết, tất yếu sẽ đến với mỗi người chúng ta; và chúng ta được mời gọi sống thực tại này như một hành trình Vượt Qua.
Xin Chúa ban cho chúng ta lòng tín thác của bé thơ, như Đức Giê-su, nơi vòng tay yêu thương và bao dung của Thiên Chúa Cha.
Hồn con, con vẫn trước sau
giữ cho thinh lặng, giữ sao thanh bình.
Như trẻ thơ nép mình lòng mẹ,
trong con, hồn lặng lẽ an vui. (Tv 131, 2)
(Suy niệm của Lm. Mark Link, SJ)
John Newton là con của một thuyền trưởng người Anh. Khi John mười tuổi, mẹ chết và cậu đi biển với cha mình. Cậu học nghề biển cách thành thạo. Nhưng khi 17 tuổi, John chống lại cha mình, bỏ tầu, và bắt đầu một cuộc sống phóng túng.
Sau đó John nhận việc trên một chiếc tầu chở hàng, đưa nô lệ từ Phi Châu sang Mỹ Châu. Anh được thăng chức mau chóng và không lâu được trở nên thuyền trưởng của chiếc tầu này. John không bao giờ nghĩ đến việc buôn bán nô lệ là đúng hay sai. Anh chỉ thi hành công việc. Đó là một cách để kiếm tiền. Sau đó một điều xảy ra đã làm đảo lộn tất cả.
Một đêm kia, cơn bão dữ dội như thổi tung biển cả. Những ngọn sóng dâng cao như núi. Chúng nhồi dập con tầu của John như món đồ chơi. Mọi người trên tầu đều ngập tràn sợ hãi. Sau đó John thi hành một điều mà chưa bao giờ anh làm kể từ khi rời chiếc tầu của cha mình. Anh cầu xin. Bằng cả sức lực, anh nói lớn, “Chúa ơn, nếu Ngài cứu chúng con, con hứa sẽ trở nên nô lệ cho Ngài muôn đời.” Thiên Chúa đã nghe tiếng anh kêu xin và con tầu được thoát nạn.
Khi John đặt chân lên đất liền, anh đã giữ lời hứa và bỏ nghề buôn bán nô lệ. Sau này anh học làm mục sư và đã trông coi một nhà thờ nhỏ ở Olney, Anh Quốc. Ở đây anh trở nên một nhà rao giảng nổi tiếng và là một người sáng tác thánh ca. Một trong những bài thánh ca cảm động nhất mà John Newton viết là bài ca ngợi Thiên Chúa đã giúp anh hoán cải, với dòng chữ như sau: “Ôi ơn thánh lạ lùng! Dịu ngọt dường bao, đã cứu vớt một người tồi tệ như tôi! Trước đây tôi đã lạc lối, nhưng giờ đây tôi đã biết đường – đã mù, giờ đây đã thấy… “Tôi đã từng kinh qua những hiểm nguy, lao nhọc, và cạm bẫy; ơn thánh đã đưa tôi đến sự an toàn, và ơn thánh sẽ dẫn tôi về nhà.”
Câu chuyện của John Newton rất tương tự như bài phúc âm hôm nay. Cũng như Newton, các Tông Đồ cũng gặp một cơn bão dữ dội. Cũng như Newton, các ông đã lớn tiếng xin Chúa, “Hãy cứu chúng tôi với!” Cũng như Newton, các ông cũng đã thay đổi cuộc đời sau khi lời cầu xin được nhận lời.
Bài phúc âm hôm nay chấm dứt tường thuật cơn bão ở biển khi nói về các Tông Đồ: “Họ vô cùng kinh hãi và bắt đầu nói với nhau, ‘Người này là ai? Ngay cả sóng gió cũng phải vâng theo Người!’” “Người này là ai?” Chắc chắn đó là câu hỏi quan trọng. Và dĩ nhiên, câu trả lời nằm trong bài đọc một và thánh vịnh đáp ca.
Bài đọc1 diễn tả cách Thiên Chúa tạo nên biển và ra lệnh cho nó những gì có thể hay không thể làm. Thánh vịnh đáp ca nói về các thủy thủ gặp nạn trong một cơn bão trên biển. Tác giả thánh vịnh nói về họ: “Trong cơn hoạn nạn, họ kêu cầu đến Chúa, và Người đã cứu họ… Người làm yên cơn bão lớn, và dẹp tan sóng cả.” (TV 107:6, 29). Trong cả hai bài đọc thuộc Cựu Ước này, chúng ta thấy Thiên Chúa sử dụng quyền hành trên sóng gió. Thiên Chúa ra lệnh chúng và chúng tuân theo Người.
Đây chính là điều Đức Giêsu thi hành trong bài phúc âm. Chúng ta thấy Người sử dụng quyền hành trên sóng gió. Người ra lệnh và chúng tuân theo Người. Do đó, các bài đọc hôm nay cho thấy Thiên Chúa trong Cựu Ước và Đức Giêsu trong Tân ước sử dụng cùng một quyền hành.
Cả hai sử dụng cùng một quyền lực bởi vì cả hai giống nhau. Đức Giêsu nói: “Ai thấy ta là thấy Chúa Cha… Ta ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong ta.” (Gioan 14:9, 11). “Chúa Cha và ta là một.” (Gioan 10:30). Câu chuyện về cơn bão ở biển trả lời câu hỏi “Người này là ai?” Đức Giêsu là Con Thiên Chúa.
Chúng ta hãy trở về điểm thứ hai. Chúng ta hãy xem thử bằng cách nào cơn bão ở biển chứa đựng một thông điệp mỹ miều, thực tế cho các gia đình nhân Ngày Hiền Phụ. Khi John Newton bỏ tầu của cha mình, cha của anh thật đau lòng. Chúng ta có thể hinh dung cha anh đứng trên sàn tầu đêm ấy và cầu xin Thiên Chúa với những lời như sau: “Lạy Chúa, sao điều này lại xảy ra? Sao John không nhìn thấy là con thương nó? Sau nó không thấy là Ngài thương nó? Lậy Chúa, ngay cả khi John từ bỏ hai chúng ta, xin Chúa hãy bảo vệ nó. Hãy bảo vệ nó vì hai chúng ta.”
Hoàn cảnh bi thảm này, hay hoàn cảnh tương tự, đã lập lại nhiều lần, trong nhiều mái nhà. Nó không phải là một hiện tượng mới trong thời đại ngày nay. Nó cũ như câu chuyện của người con hoang đàng trong Phúc Âm Luca.
Nhưng ngay cả khi con cái không từ bỏ mái nhà về thể lý, chúng thường rời xa mái nhà về tinh thần. Chúng không còn đồng lòng với cha mẹ khi đề cập đến Thiên Chúa hay tôn giáo. Và sự xa lìa tinh thần này có thể đau lòng hơn từ giã mái nhà về thể lý. Khi điều này xảy ra, cha mẹ không được nghĩ về mình hay về con cái như một thất bại. Đúng hơn, họ phải nhớ lại câu chuyện người con hoang đàng và câu chuyện của John Newton.
Trong cả hai câu chuyện, sau cùng người con đã trở về nhà. Và trong cả hai câu chuyện, khi trở về nhà người con đã tốt hơn là khi từ bỏ, người cha cũng trở nên tốt hơn khi con cái bỏ đi. Lý do cả hai người – cha và con – trở nên tốt hơn là vì, ở một thời điểm nào đó khi xa cách, cả hai đã kêu cầu đến Chúa xin giúp đỡ. Và đó là khi cả hai trở nên tốt hơn.
Thật không may khi phải nhờ đến một cơn bão để khám phá ra, không chỉ người cha hay người con ở trần thế, nhưng còn biết đến Cha chúng ta ở trên trời và Đức Giêsu, Con của Người.
Do đó, chúng ta hãy hân hoan, và hôm nay hãy cảm tạ vì hai người cha: một người cha trần thế và một người Cha trên trời. Chúng ta cũng hãy nhớ rằng khi tìm thấy một trong những người cha này, chúng ta cũng thường tìm thấy người cha kia.
Hãy kết thúc bằng cách lập lại những lời thánh ca mà John Newton đã viết để ca tụng Thiên Chúa. “Ôi ơn thánh lạ lùng! Dịu ngọt dường bao, đã cứu vớt một người tồi tệ như tôi! Trước đây tôi đã lạc lối, nhưng giờ đây tôi đã biết đường – đã mù, giờ đây đã thấy… “Tôi đã từng kinh qua những hiểm nguy, lao nhọc, và cạm bẫy; ơn thánh đã đưa tôi đến sự an toàn, và ơn thánh sẽ dẫn tôi về nhà.”
Trang Tin mừng hôm nay thật thú vị! Đang trong cơn sóng dữ, anh em lo chèo chống thì Thầy lại ngủ. Hẳn nhiên là nể Thầy lắm đó để cho Thầy nằm trên đầu thuyền mà không phải làm gì. Nhưng rồi đâu phải thấu anh em nể Thầy rồi Thầy muốn làm gì làm, Thầy để mặc anh em. Vừa lo, vừa sợ, vừa hờn nên các môn đệ hỏi luôn cho ra ngô ra khoai: “Thầy ơi, chúng ta chết mất, Thầy chẳng lo gì sao?” (Mc 4, 38).
Tưởng gì, làm cho biển im lặng! Tài thật! Dĩ nhiên là anh em biết quyền năng của Thầy chứ! Nhưng thôi, “của cho không bằng cách cho”, cho biển im lặng rồi thôi, đàng này còn trả treo: “Sao nhát thế? Anh em vẫn chưa có lòng tin sao?” (Mc 3,40). Nói thiệt với Thầy, giận Thầy lắm đó! Chúng con chưa áp dụng cái chiêu ngày xưa trong Cựu Ước là con cho Thầy xuống biển như cho ông Nôê là may lắm rồi! Thầy mà làm chúng con giận là chúng con cho Thầy xuống biển như xưa cho xong chuyện. Thật ra, niềm tin của các môn đệ khi ấy cũng còn vững lắm là không bỏ Thầy xuống biển mà đến cầu cứu Thầy. Nếu sống với niềm tin Cựu Ước thời Nôê thì Thầy chết chắc.
Cuộc đời của chúng ta ắt hẳn cũng có quá nhiều lần nhiều lúc chúng ta cũng gặp sóng gió như các môn đệ ngày hôm nay. Thế nhưng, đứng trước trước những sóng gió của cuộc đời ta có bám vào Chúa, ta có chạy đến Chúa hay ta lại nại sức của ta hay tệ hại hơn là nhờ vào những thế lực của thế gian, của sự dữ.
Một gia đình kia tan nát cũng chỉ vì nại vào thế lực của sự dữ. Tưởng chừng nại vào thế lực của sự dữ thì sẽ bình an nhưng ngày mỗi ngày lại tụt dốc. Chuyện là người vợ có vấn đề về tâm thần, về tâm lý… người chồng nghe người này người kia nói và bắt đầu tìm thầy bỏ Chúa. Người chồng loanh quanh đi tìm thầy cao tay để chữa cho vợ mình bất chấp điều đó là sai tín lý, sai lạc đức tin, sai lạc niềm tin vào Thiên Chúa mà họ đã tin theo. Khi đi theo thầy bùa chú và bỏ Chúa thì cuộc sống của vợ chồng đã đi vào bế tắc và cuối cùng chồng đi đường chồng, vợ đi đường vợ.
Lẽ ra trong gia đình có vấn đề thì họ nên và cần bám vào Chúa, đàng này họ bỏ Chúa để đi tìm thế lực khác để cứu mình. Hậu quả là gia đình đã bỏ Chúa và đi theo thế lực khác.
Cùng với kinh nghiệm bỏ Chúa là mất tất cả, bỏ Chúa là sẽ gặp sóng dữ của cuộc đời, tôi được một người thân quen chia sẻ về thế lực của sự dữ. Chuyện là chính bản thân chị, gần nhất là mẹ của chị đã có vấn đề về thần kinh, tâm lý mà theo như người ta nói là bị “ám”. Đứng trước cảnh mẹ mình bị “ám” như vậy, chị và gia đình chỉ có 1 cách, 1 thế, 1 phương án duy nhất là bám vào Chúa và cầu nguyện. Sau biến cố để đời đó, chị khuyên với những ai chị gặp gỡ, trong đó có bản thân tôi là dù cuộc đời thế nào đi chăng nữa cũng chỉ có bám vào Chúa và Chúa mà thôi.
Quả thật, niềm tin vào Chúa nói thì dễ nhưng khi đụng chạm bế tắt, đụng chạm với những khó khăn của cuộc đời ta vẫn thường đi tìm những người có thể giúp chúng ta. Theo kiểu người đời thường dùng đó là “chạy thầy chạy thuốc”. Đó là cách nhìn, cách nghĩ, cách giải quyết theo kiểu thế gian vì dù cho có những người có thế lực có thể “gỡ” cho họ những khó khăn trong cuộc sống nhưng rồi tất cả rồi cũng qua đi chứ chẳng có ai mãi mãi và chẳng có ai vĩnh cửu.
Người đời, dù họ có quyền lực đến đâu đi chăng nữa, họ có thể chia sẻ quyền lực của họ cho những người theo phe nhóm của họ để đạt được nguồn lợi nhưng khi họ đối diện với thử thách phong ba của cuộc đời chưa chắc có người cứu được họ. Có khi ở trong đỉnh của vinh quang quyền lực nhưng rồi đến một lúc nào đó cũng ra đi, những người ngày xưa vui vẻ với họ dù muốn cứu họ nhưng cũng đành chịu.
Đó là cái nhìn của quyền lực, của thế gian. Người Kitô hữu thật sự lại được mời gọi vượt qua những sóng dữ của cuộc đời để đạt được Nước Thiên Chúa chứ không phải đạt được những lợi ích của thế gian. Và, trong hành trình về nhà Cha, mỗi người Kitô ngày mỗi ngày đều phải đối diện với sóng dữ và tìm cách thoát sóng dữ. Ắt hẳn mỗi người cũng sẽ có cách lựa chọn khi đời mình gặp phải phong ba bão táp của cuộc đời. Có khi ta cũng sẽ có suy nghĩ là bám vào Chúa để xin Chúa đến trợ giúp nhưng cũng có khi ta muốn vất Chúa xuống khỏi tàu như ngày xưa trên chuyến tàu Nôê người ta đã sẵn sàng vất Nôê xuống biển.
Chính khi gặp sóng dữ, ta sẽ bám vào ai vẫn là sự tự do lựa chọn của mỗi người.
- Xin Chúa thêm ơn cho mỗi người chúng ta để dù bất cứ sống trong hoàn cảnh nào của cuộc đời ta cũng chỉ bám vào Chúa mà thôi.
- Xin cho ta đừng bao giờ vất Chúa ra khỏi thuyền nhưng cứ mãi xin Chúa ở lại cuộc đời của chúng ta, trên thuyền đời của chúng ta.
Chúa ơi! Chúa bớt giỡn! Chúa cứ ở mãi trên thuyền của con và cứu đời con nha Chúa!
(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)
Đức Cha Agatho, Giám Mục Giáo phận Palermo, đi từ đảo Sicily đến Rome. Trong cuộc hành trình, ngài gặp nguy cơ chìm tàu. Một cơn giông tố hãi hùng nổi lên, sắp sửa đánh chìm con tàu ngài đang đi. Không còn hy vọng gì, ngoại trừ lòng thương xót nhân lành của Thiên Chúa toàn năng.
Khi ấy, tất cả mọi người bắt đầu cầu nguyện và dâng lên Chúa lời cầu xin hãy gìn giữ mạng sống cho họ. Trong khi họ cầu nguyện như thế, thì người thủy thủ đang cầm bánh lái, tuy được cột chặt vào tàu, nhưng một cơn giông mạnh mẽ đã làm đứt dây cột và kéo người thủy thủ xấu số kia xuống sóng nước, và Đức Cha Agatho coi anh ta như đã chết. Trong lúc đó, con tàu vẫn đi, sau những cơn hiểm nguy, đã đến được đảo Ostika. Tại đây, Đức Giám Mục dâng thánh lễ cầu cho người thủy thủ không may; nhưng ngay khi con tàu được sửa chữa xong, tiếp tục hành trình đến Rome. Khi vừa lên bờ, Đức Giám Mục đã thấy anh thủy thủ, người mà ngài tưởng rằng đã chết, đang đứng trên bờ. Tràn ngập niềm vui, ngài hỏi anh đã thoát những nguy hiểm dữ dằn suốt nhiều ngày như thế nào. Người thủy thủ khi ấy kể lại chiếc xuồng nhỏ bé của anh lúc nào cũng như sắp sửa lật úp, nhưng lại luôn luôn trồi lên trên những làn sóng, vô hại. Hết ngày lại đêm, anh ta mới thành công trong việc chinh phục những ngọn sóng; nhưng đuối sức vì đói và khát, chắc chắn anh cũng bị chết chìm nếu như không được phù giúp. Anh ta kể tiếp, “Thế rồi bỗng nhiên, khi tôi đã hoàn toàn vô vọng, như thể xuất thần, không biết mình đang ngủ hay thức, tôi nhìn thấy một người đứng trước mặt và cho tôi bánh. Vừa khi tôi lãnh nhận bánh ấy, sức lực của tôi liền hồi phục, và ngay sau đó, tôi được một con tàu cứu vớt và chở về đây.” Khi hỏi biết ngày giờ sự việc này xảy ra, Đức Giám Mục nhận thấy trùng với ngày giờ ngài dâng thánh lễ tại đảo Ostika để cầu cho người thủy thủ xấu số. (Joan Carroll Cruz, Phép Lạ Thánh Thể)
Tin Mừng Thánh Máccô hôm nay thuật lại Đức Giêsu dẹp yên sóng gió, cứu các môn đệ khỏi cơn bão bất ngờ, xảy ra khi Người đang say ngủ. Với câu chuyện trên, Chúa Giêsu Thánh Thể đã cứu người tài công rơi xuống biển, theo lời cầu nguyện của Đức Giám Mục Agatho và toàn thể khách trên con tàu bị bão. Trong cuộc đời mỗi người, thường vẫn gặp những sóng gió, ba đào. Chúng càng dữ dội hơn mỗi khi thiếu vắng Thiên Chúa Quan Phòng che chở, ở cùng.
Khi Đức Giêsu ngủ say
Thực ra, Chúa Giêsu luôn ở cùng, mà con người không nhận ra Người luôn canh thức, che chở lúc nguy nan, tai ương, hoạn nạn, chỉ vì quên mất Người vô hình, chỉ vì sống quá thực dụng, quá dung tục, chỉ luôn biết trông cậy vào hữu hình, vào phương tiện thế gian, vào sức người, sức của, khoa học, kỹ thuật, dịch vụ. Nhưng những thứ hữu hình đó thường không thể giải quyết trọn vẹn như mong đợi, mà chỉ tạm bợ, chắp vá, lưng chừng, nửa vời, bế tắc, chia lìa, đổ vỡ, mất mát, đau khổ, chết chóc, như ly dị, điên loạn hay tự vẫn.
Vì thế, để kính mời Đức Giêsu thức cùng, sống cùng, an ủi, chăm sóc, chở che, Thánh Phaolô khuyên nhủ đừng bắt chước theo thế gian, mà sống theo Lời Chúa đã chỉ dạy, để được cứu giúp an toàn: “Tôi khuyên Anh Chị Em: đừng ăn ở như dân ngoại nữa, vì họ sống theo những tư tưởng phù phiếm của họ. Tâm trí họ đã ra tối tăm, họ xa lạ với sự sống Thiên Chúa ban.” (Ep 4, 17-18)
Khi Đức Giêsu ngủ say
Người vẫn còn say ngủ, khi con người kiêu căng, tự phụ, cậy vào sức mình, tài năng, tri thức, chuyên môn, phương tiện, không cần đến Chúa, không cần đến sức mạnh Chúa Thần Linh, không màng đến Lương Thực trường sinh Thánh Thể, không dựa vào Lời Chúa, ngọn đèn soi dẫn, ánh sáng đi đường, không chạy đến với Chủ Chiên, hay những tâm hồn dâng hiến giúp đỡ, chia sẻ.
Để kính mời Đức Giêsu thức dậy đồng hành, thì Thánh Phaolô ân cần khuyên bảo những ai còn do dự, luyến tiếc những phù phiếm, hãy đoạn tuyệt, để mưu cầu bình an và hạnh phúc vĩnh cửu: “Anh Chị Em đã được trỗi dậy cùng với Đức Ki-tô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Ki-tô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới. (Cl 3, 1- 2)
Khi Đức Giêsu ngủ say
Người vẫn tiếp tục ngủ say khi người tín hữu Kitô còn thiếu các nhân đức Tin Cậy Mến, còn chưa đặt vào Người hết niềm tin, niềm trông cậy và nhất là tình yêu. Bởi vậy, sau khi dẹp yên bão tố, Đức Giêsu quay lại quở trách các môn đệ yếu niềm tin cậy: “Sao nhát thế? Làm sao anh em vẫn chưa có lòng tin?” (Mc 4, 40)
Lo sợ, thất vọng vì thiếu đức tin, bất an, khủng hoảng vì thiếu đức cậy, lạc lõng, bơ vơ vì thiếu đức mến, khi người tín hữu Kitô chưa sẵn sàng khẩn khoản, trọng kính mời Đức Giêsu ngự vào trung tâm điểm đời sống, để có thể quy chiếu mọi sự về với Người. Khi hoàn toàn nhờ Người, với Người và trong Người, thì Người sẽ thức dậy và truyền cho sóng gió, ba đào “im đi, câm đi,” tức thì tâm hồn tín hữu liền được bình an giữa biển đời đen tối.
Mặc cho sóng gió đe dọa tứ bề, mặc cho sự dữ hoành hành áp đảo, không sức mạnh thế gian nào uy hiếp được tín hữu Kitô, khi có Chúa cùng đồng hành. Chính các thánh, các người công chính và các chứng nhân đã trân trọng xác tín điều đó qua cuộc đời. “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Ki-tô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo? (Rm 8, 35)
“Người Công giáo là ánh sáng giữa đen tối, là muối sống giữa thối nát, là hy vọng giữa một nhân loại thất vọng,” (Đường Hy Vọng, số 950)
Con tưởng rằng con vững tin, tin vào Chúa là Cha nhân hiền, khi cuộc sống nhẹ trôi êm đềm với tháng ngày lặng lẽ bình yên. Nhưng khi đường đời gieo nguy khó, bên trời ngập tràn cơn giông tố. Con lo âu lạc bến xa bờ, con mới biết rằng con chưa vững tin.
ĐK. Thì lạy Chúa, Chúa biết con yếu đuối và đổi thay,
con luôn cần đến Chúa từng phút giây.
Nhờ ơn Chúa, con kiên trì tín thác kể từ đây,
khi yên vui cũng như khi sầu đầy.
(Lm Nguyễn Duy, Cho con vững tin)
Lạy Mẹ Maria, Mẹ từng trải qua biết bao sóng gió từ khi thưa hai chữ “Xin Vâng,” nhưng Mẹ chẳng bao giờ nao núng, hoảng sợ, kinh hãi, thậm chí khi cùng Thánh Gia vượt biên, tránh quân Hêrôđê truy sát Hài Nhi, vì Mẹ luôn có Chúa ở cùng. Kính xin Mẹ an ủi, cầu bầu, che chở chúng con trên đường về Quê Trời. Amen.
Con thuyền của các môn đệ trong bài Tin Mừng sáng hôm nay chính là hình ảnh cuộc đời chúng ta. Thực vậy, cuộc đời chúng ta với bao nhiêu phong ba bão táp, đó là những thất bại của bản thân, những khó khăn của cuộc sống, của xã hội, những khổ đau của những người xunh quanh, làm cho chúng ta nhiều lúc chán nản tuyệt vọng.
Tại sao lại có những sóng gió trong cuộc đời? Phải chăng Thiên Chúa đã bỏ rơi chúng ta? Có người cho rằng chính Thiên Chúa thử thách để rèn luyện và củng cố niềm tin nơi chúng ta. Có người lại cho rằng do trình độ hạn chế của con người trước sức mạnh của thiên nhiên. Nhưng có lẽ nguyên nhân trực tiếp nhất vẫn là do cách đối xử của con người đối với con người trong cuộc sống.
Thực vậy, chính thái độ vô trách nhiệm của những người làm cha làm mẹ đã dẫn đến tình trạng tuổi trẻ lang thang, bụi đời. Chính sự ích kỷ tàn nhẫn của một số người đã tước đoạt đi những phương tiện sống và phẩm giá của những người khác.
Nghịch cảnh và sóng gió như vẫn tồn tại song song với số phận và lịch sử con người. Các môn đệ cũng như chúng ta phải đương đầu, phải đối phó với cuồng phong. Thế nhưng chúng ta sẽ tìm thấy niềm an ủi nơi Thiên Chúa bởi vì dưới bàn tay quyền năng và yêu thương của Ngài, sóng gió cũng phải khuất phục và sự bình an sẽ trở lại với chúng ta.
Sự dữ tuy tràn lan, nhưng ơn sủng của Ngài vẫn dư đầy, bởi vì Ngài luôn yêu thương chúng ta, Ngài không hề bỏ rơi con người. Bằng chứng là Đức Kitô đã đến, Ngài tìm mọi phương cách, thậm chí cả đến cái chết của mình để cho chúng ta thêm xác tín vào tình thương của Ngài. Một vị Thiên Chúa nhân lành như vậy, nhất định sẽ không bao giờ muốn cho con người phải đau khổ, nhất định Ngài sẽ cứu chúng ta.
Làm sao chúng ta có thể thất vọng và chán nản khi Ngài vẫn ở bên chúng ta và vẫn yêu thương chúng ta. Mặc dù ngày nay Thiên Chúa không còn trực tiếp làm phép lạ để truyền cho sóng gió phải yên lặng, nhưng Ngài dùng bàn tay của những người nhiệt tâm làm vơi giảm những nghịch cảnh, những bất công trong cuộc sống. Và cũng không ít những con người đang đấu tranh cho công bằng xã hội. Nhiều khi họ cũng đã phải trả giá cho những đấu tranh ấy bằng chính mạng sống của mình.
Còn chúng ta thì sao? Niềm tin vào một Thiên Chúa toàn năng và yêu thương lẽ nào lại để cho chúng ta phải buông xuôi và tuyệt vọng bởi vì Đức Kitô chính là niềm hy vọng, chính là sức sống trong cuộc đời chúng ta.
9. Người dựa vào chiếc gối mà ngủ
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
“Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi mà Thầy chẳng lo gì sao?”
Cũng như hai dụ ngôn ‘hạt giống tự mọc’ và ‘hạt cải nhỏ bé’ được kể trước đó, sự kiện cuồng phong nổi lên và sóng nước ập vào làm cho con thuyền các môn đệ hòng chìm, trong khi đó Đức Giê-su ‘đang ở đàng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ’ buộc ta phải suy nghĩ khi giáp mặt với những nghịch lý đầy thách thức trong chính đời sống Tin Mừng. Tự nhiên, khi nghĩ về Thiên Chúa cũng như về vương quốc của Ngài, thì quyền năng và sức mạnh mới chính là điều mà mọi người thường nghĩ tới trước nhất. Chính vì vậy mà khi nhìn thấy đau khổ tràn lan, bất công ngập tràn và sự ác thống trị, trong khi sự thiện lại thoi thóp trong tuyệt vọng, nhiều người đã cho rằng, đó là một bằng chứng thuyết phục cho thấy không hề có Thiên Chúa; vì nếu Ngài thật sự hiện hữu, thì với tất cả quyền năng và thánh thiện như thế, tại sao lại không can thiệp, không giáng phạt bằng tất cả sức mạnh của Ngài? Thiên Chúa lẽ nào lại vô tâm tới mức đó sao? Giải đáp duy nhất mà người ta thường nại tới để giải quyết nghịch lý này là sự kiên nhẫn chịu đựng có giới hạn của Thiên Chúa, sự nhẫn nhục này chỉ tồn tại trong thời gian ngắn ngủi của cuộc đời này, để rồi tới kiếp sau sự công thẳng và quyền bính của Ngài sẽ hiển trị qua việc nghiêm minh xét xử, với phần thưởng thiên đàng dành cho người thiện, hay hình phạt hỏa ngục dành cho người dữ. Giải đáp này trên thực tế hình như được hầu hết các tôn giáo trưng ra, tuy với những hình thái khác nhau, chẳng hạn như thuyết luân hồi của Phật Giáo.
Vẫn biết Thiên Chúa là quyền năng và quyền năng này vượt trên tất cả mọi sự, ‘Thức dậy, Người ngăn đe gió và truyền cho biển: “Im đi! Câm đi!” Gió liền tắt, và biển lặng như tờ’. Thiên Chúa đương nhiên có quyền trên cả sự dữ! Trong trường hợp cụ thể này, theo lối suy nghĩ của các môn đệ, biển cả dậy sóng là hình ảnh quen thuộc của sức mạnh sự dữ, của tà thần (xem Mc 1:25). Có điều là ít tôn giáo nào dám nghĩ rằng quyền năng lớn lao nhất của Thiên Chúa (Thượng Đế…) lại chính là quyền năng buộc Ngài phải câm nín. Ngoài Ki-tô giáo, có tôn giáo nào dám nghĩ rằng có một Thiên Chúa mà quyền năng và bản chất tuyệt hảo nhất của Người lại chính là lòng nhân từ và thứ tha? Đặc tính ‘nhân từ và hay thương xót’ của Thiên Chúa, nếu có tìm thấy trong Do Thái giáo, Hồi giáo…, thì cũng chỉ mang tính tạm bợ và hạn hẹp, và chỉ dành cho một số đối tượng nhất định mà thôi (các tín hữu trung thành, những người công chính chẳng hạn). Chỉ riêng Tin Mừng của Đức Giê-su mới cho ta hiểu rằng Thiên Chúa là tình yêu, và bản chất của Tình Yêu đó trước hết và trên hết là thứ tha và hay thương xót. Phải chăng từ muôn thuở yếu tính của Thiên Chúa chính là điều này… và sẽ còn tiếp tục mãi mãi cho tới muôn đời? Mạc khải lớn nhất của Đức Giê-su Ki-tô chính là đây: Thiên Chúa không lên án, Ngài không luận phạt, Ngài chỉ làm một điều duy nhất là cứu độ và xót thương. Luận phạt hay lên án là do chính con người tự quàng vào cổ mình “vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa” (Ga 3:16-21). Kể từ mạc khải vĩ đại này, thinh lặng trước sự dữ, thay vì là yếu đuối sợ hãi, lại biểu lộ sức mạnh vô địch nhất của Thiên Chúa. “Ông không nói lại được một lời sao? Mấy người này tố cáo ông gì đó?… Nhưng đức Giê-su vẫn làm thinh” (Mt 26:62-63).
Thần lực Người làm cho gió im biển lặng đã làm cho các môn đệ hoảng sợ, mối hoảng sợ này có lẽ lớn không kém lúc cuồng phong bão tố nổi lên, ‘Các ông hoảng sợ nói với nhau…’ Mô-sê trước bụi gai bốc cháy (Xh 3:1), hoặc I-sai-a khi thoáng nhìn thấy vinh quang Thiên Chúa (Is 6:5), hoặc bất cứ ai khác cũng đều run sợ trước mọi biểu hiện của quyền lực thần linh. Chỉ duy uy quyền tình yêu của Thiên Chúa là không gây sợ hãi! Và chỉ có sức mạnh tình yêu tha thứ mới làm cho con người được thư thái và an bình thực sự. “Bình an cho anh em… Thầy đây đừng sợ!” (Lc 24:36). Một khi được Đức Giê-su tỏ cho biết Thiên Chúa là ai trong thực chất của Ngài, và Thần Khí giúp ta khám phá ra Thiên Chúa thật gần gũi, thấu hiểu hết các yếu đuối lỗi lầm của con người cho dù họ có gian ác tội lỗi tới đâu đi nữa, bất cứ ai cũng sẽ cảm thấy tràn ngập một niềm an bình độc đáo, một thứ an bình không ai trên cõi đời này có thể ban cho. “Thầy ban cho anh em bình an của Thầy… không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi…” (Ga, 14:27)
Tuy nhiên, một khi khám phá ra và hiểu rõ hơn về sức mạnh tình yêu tha thứ và xót thương của Thiên Chúa, con người sẽ không khỏi cảm thấy một mối kinh ngạc thú vị, gần giống như một cảm giác ngất ngây. Hy vọng rằng các Ki-tô hữu chúng ta, một khi nghiệm thấy cảm giác tuyệt diệu đó, hãy để cho mối ‘kinh ngạc ngất ngây’ này tiếp tục tràn ngập tâm hồn mình… bây giờ và cho tới muôn đời!
Lạy Vua Tình Yêu nhân ái, cảm tạ Chúa đã một lần cho con nếm cảm được uy lực tình yêu nhân ái Chúa trong đời sống con. Xin cho con luôn nghiệm thấy Thiên Chúa tình yêu đang thinh lặng hiện diện trong con giữa mọi sóng gió cuộc đời. Xin đừng bao giờ cất khỏi lòng con sự bình an ngây ngất của Thần Khí hiện diện trong con, để con luôn có thể mở miệng kêu lên ‘Áp-ba’ giữa mọi nghịch cảnh. Amen.
(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
PHÓ THÁC VÀ TIN TƯỞNG VÀO CHÚA
KHI GẶP NGHỊCH CẢNH HAY ĐAU KHỔ?
Rất nhiều người trong chúng ta đã một lần lâm vào khó khăn, nghịch cảnh. Lúc ấy, chúng ta luôn tự chất vấn mình: “Sao cuộc đời lại đầy rẫy khó khăn, đau khổ?”; “Tại sao điều này lại xảy ra với mình?”; “Tại sao đời bất hạnh đến vậy?”; hay ““Tôi có làm gì đâu mà tôi ra như thế này?”. Nhưng nếu suy tư một chút, chúng ta thấy rằng nghịch cảnh hay đau khổ trong cuộc đời là điều không thể tránh được. Chẳng hạn, người thì bị mất việc, kinh doanh thất bại, mất đi người thân, khủng hoảng tài chính, người thì đổ vỡ trong các mối quan hệ, hoặc thậm chí sức khỏe sa sút và bệnh tật. Lời Chúa trong các bài đọc hôm nay giúp chúng ta có cái nhìn và lối sống trước nghịch cảnh trong đời.
Bài đọc 1 kể Ông Gióp là người công chính, đạo đức và kính sợ Chúa vì thế ông được Chúa chúc phúc, con đàn cháu đống và của cải sung túc. Nhưng chẳng bao lâu ông gặp những cơn bão táp trong đời sống vật chất lẫn tinh thần: mất hết bà con bạn bè, tán gia bại sản, còn thân thể thì bị ung nhụt khủng khiếp. Thế nhưng, ông không nguyền rủa Thiên Chúa trái lại tin tưởng, phó thác và cậy trông vào Chúa. Cuối cùng Chúa thương ban cho ông có lại tất cả và phong phú hơn trước đây. Còn trong Bài Tin Mừng, Thánh Mác-cô kể khi gặp bão táp cuồng phong nỗi lên, các tông đồ hoảng sợ quá đến nỗi quên mất Chúa đang ở với mình. Các ông kêu Chúa và Chúa dẹp tan sóng gió.
Thật ra, mỗi khi thử thách đến trong đời, mỗi người đối diện và phản ứng một kiểu, chẳng ai giống ai. Có người thì quay lưng lại với chúng. Có người lại không dám tiến lên vì sợ thất bại. Lại có người không bao giờ hành động… vì lo không vượt qua nỗi. Có người kiên trì chịu đựng và can đảm vượt qua, nhưng có người thì nhụt chí thất vọng và tuyệt tự…
Khởi đi từ nguyên tắc cứu độ của Đức Giêsu trong nguyên lý của hạt lúa mì: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12,24); rồi chính Đức Giêsu đã đi trên con đường tự hủy đó để cứu độ con người. Đỉnh cao của mầu nhiệm này là cái chết trên thập giá như Ngài đã tiên báo: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại” (Mc 8, 31). Tinh thần này đã được thánh Phanxicô Assisi lựa chọn và sống, ngài viết: “Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”.
Quả thế, đằng sau sự mục nát của hạt lúa, chúng ta thấy trổ sinh nhiều cây và bông hạt khác. Cũng vậy, nếu không có thập giá hôm nào thì không có sự phục sinh của Đức Giêsu và niềm hy vọng của chúng ta. Chính Tôi Tớ Chúa, Đức Hồng Y Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận cũng đã nói: “Đừng nản lòng vì thất bại. Nếu con tìm ý Chúa thực sự, thì chính sự thất bại đó là thành công. Chúa muốn như vậy. Chỉ có một sự thất bại là không hy vọng vào Chúa. Con đã hy vọng vào Chúa và con sẽ không hổ thẹn đến muôn đời” (Đường Hy Vọng, số 41. 43).
“Lửa thử vàng, gian nan thử đức tin”. Trong hành trình sống đạo của chúng ta, hẳn không thiếu những nghịch cảnh, những sóng gió cuộc đời. Tuy nhiên, khi đối diện với chúng, mỗi người chúng ta hãy kiên trì và trung thành với ý Chúa. Mỗi khi khó khăn thử thách đến với chúng ta, đừng vì thất vọng mà buông xuôi nhưng biết chạy đến kêu cầu Chúa ra tay giúp đỡ như các Tông đồ hôm nay. Hãy trung thành, tin tưởng và cậy trông vào Chúa. Đừng than oán mỗi khi rơi vào nghịch cảnh nhưng nhớ rằng Chúa là Cha của chúng ta ở trên trời, Chúa luôn yêu thương chúng ta, Ngài biết trước những gì chúng ta cần, vì thế chúng ta nên phó thác trong tay Ngài. Hãy tin tưởng vào Chúa quan phòng (Mt 6,25-34).
Cuối cùng, mỗi khi gặp nghịch cảnh, khó khăn xảy đến, chúng ta đừng quá bận tâm cho câu hỏi tại sao? Mà hãy chú tâm và khám phá ra ý định của Thiên Chúa trong nghịch cảnh đó. Thật vậy, chính lúc ấy, Chúa sẽ cho biết lý do tại sao, hay cần phải làm gì để chúng ta nhận biết được những hồng ân quý báu Chúa ban cho trong nghịch cảnh đó. Mọi sự đều trở nên ích lợi cho những người yêu mến, tin tưởng và cậy trông ở Chúa. Vì thế, không còn chuyện than thân trách phận hay buồn bực, chán nản và thất vọng nữa. Ông Gióp là người đã sống mầu nhiệm đau khổ qua những nghịch cảnh một cách xuất sắc. Ông xin Chúa cho chịu thật nhiều đau khổ để đền vì tội mình. Ông sẵn lòng chịu khổ cực thay cho người khác vì lòng yêu mến Chúa. Ông luôn chiến đấu với sự yếu đuối bản thân, với những nghịch cảnh từng ngày từng giờ, từng phút, từng giây trong cuộc sống.
Xin hãy nhớ rằng những điều tốt đẹp ngày hôm nay là kết quả của những thử thách ngày hôm qua. Cho nên, Đức Hồng Y Phanxicô Xavie nói: “‘Khổ’. Đúng vậy. Thương khó, bỏ dễ. Khó mới quí, bỏ là quỉ” (ĐHV, số 60). Ước gì, Lời Chúa hôm nay là động lực và nguồn an ủi và sức mạnh để chúng ta dám đương đầu và chiến đấu với với bao nghịch cảnh trong đời ngõ hầu nhờ ơn Chúa con thuyền đức tin của chúng ta về thiên đàng bình an. Amen.
(Suy niệm của Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
- DẪN NHẬP
Các bài đọc trong Thánh lễ hôm nay nhắc nhở chúng ta trong cuộc sống hiện tại có nhiều gian nan thử thách, hãy tin cậy vào Chúa quan phòng. Thực vậy, trong cuộc sống hằng ngày không thiếu gì những giông tố xẩy đến cho Giáo hội, quốc gia, thế giới và riêng của từng người chúng ta nữa. Trước những trạng huống đó, chúng ta cảm thấy hoang mang không biết phải xoay sở ra sao, có khi đã nản lòng trước những biến cố bất ngờ xẩy đến.
Nhưng trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã nói với chúng ta như đã nói với các Tông đồ xưa kia trên biển hồ Tibériade:”Việc gì phải sợ, người đâu mà kém tin thế”? Qua lời kêu cứu của các Tông đồ, Đức Giêsu đã truyền cho giống tố ngưng lại và biển trở nên phẳng lặng như tờ. Sở dĩ các Tông đồ chưa đủ tin tưởng vào Đức Giêsu và sợ hãi như vậy vì các ông chưa nhìn ra con người thật của Ngài, nên mới đặt câu hỏi:”Ngài là ai mà cả gió và biển phải vâng lời vậy”?
Trong suốt lịch sử của mình, Giáo hội đã trải qua những cảnh huống bi đát như bị bách hại, chia rẽ nội bộ, lạc giáo… nhưng Giáo hội vẫn đứng vững vì có Chúa “nằm ngủ” ở đó, Ngài sẽ ra tay khi cần thiết. Ngoài ra, trong cuộc sống hằng ngày của mỗi người cũng không thiếu gì những gian nan thử thách, hãy tin tưởng vào tình yêu quan phòng của Chúa, hãy vững tin và cầu nguyện, Ngài sẽ đến cứu giúp.
- TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: G 38,1.8-11.
Ông Gióp gặp nhiều tai ương hoạn nạn mặc dầu ông là người công chính. Trước những đau khổ đó, ông biểu lộ những hoài nghi về sự công bằng của Thiên Chúa: ông muốn hỏi Thiên Chúa tại sao lại để cho đau khổ xẩy đến với ông cách bất công như vậy? Đâu là nguyên do những nỗi bất hạnh ấy?
Thiên Chúa không trực tiếp giải đáp thắc mắc của ông, Ngài chỉ cho ông biết Ngài là Chúa tể muôn loài, Ngài có thể làm được mọi sự theo ý Ngài: chính Ngài điều hành sức mạnh của nước, cho nó chảy đi đâu, Ngài dẹp yên sóng cả ngoài biển khơi.
Như vậy, Thiên Chúa gián tiếp trả lời cho ông Gióp: mọi sự lành hay sự dữ được Ngài cho phép mới xẩy ra, con người phải biết phó thác vào sự sắp xếp của Ngài, đừng nên mở miệng than trách.
+ Bài đọc 2: 2Cr 5,14-17.
Thánh Phaolô cho tín hữu Côrintô biết: Đức Kitô đến trần gian này để làm một cuộc tạo dựng mới nhờ sự chết và phục sinh của Ngài. Nhờ cái chết của mình, Đức Kitô làm cho nhân loại thực sự chết cho tội lỗi và nhờ sự sống lại của mình, Ngài làm cho con người hoàn toàn đổi mới, mặc lấy cuộc sống mới đã được biến hình đổi dạng, được trở nên một tạo vật mới tốt lành thánh thiện
Nếu Đức Kitô đã ban cho chúng ta một cuộc sống mới thì chúng ta cũng phải bỏ nếp sống của con người cũ để sống một cuộc sống mới hoàn toàn trong Đức Kitô để thông hiệp vào sự sống của Ngài.
+ Bài Tin mừng: Mc 4,35-41.
Buổi chiều, khi đã giảng dạy cho dân chúng xong, Đức Giêsu bảo các Tông đồ xuống thuyền vượt biển hồ Tibériade sang bờ bên kia. Biển hồ này thường có bão, nhất là vào buổi chiều. Khi ra giữa biển, một cơn bão táp nổi lên, nước đã tràn vào thuyền, các môn đệ cuống cuồng lên. Trong khi đó, Đức Giêsu, bị mệt mỏi vì rao giảng suốt ngày, nằm gối đầu ở đàng lái mà ngủ, như không có sự gì xẩy ra.
Các ông sợ hãi đánh thức Ngài và còn có sự trách móc:”Chúng con chết mất mà Thầy không quan tâm sao”? Đức Giêsu bình tĩnh đứng lên phán một lời vắn tắt:”Im đi, câm đi”, tức thì gió im, biển lặng như tờ. Sau đó Đức Giêsu vừa trách các môn đệ vừa khuyên họ hãy tin vào quyền năng của Ngài.
Các môn đệ chưa nhận ra con người thật của Đức Giêsu nên mới nói:”Ngài là ai mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh”? Có lẽ thánh Marcô thuật lại cảnh dẹp yên sóng gió trên đây nhằm trấn an và củng cố các Kitô hữu đầu tiên tại Rôma đang hoảng sợ trước cơn bách hại của hoàng đế Néron?
- THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Đừng sợ, hãy vững tin.
- SÓNG GIÓ TRÊN BIỂN KHƠI.
- Gió và biển.
“Trong ngôn ngữ Do thái, cùng một tiếng “gió” cũng có nghĩa là “thần trí”. Ngoài ra trong Kinh thánh, biển thường là biểu tượng những thế lực gian tà mà Thiên Chúa phải đánh gục để kế hoạch của Người toàn thắng. Ở đây, biển động dữ dội do ảnh hưởng của cuồng phong. Ta phải hiểu là có “thần trí xấu” (Satan chăng?) đang tung những ma lực dưới quyền để ùa đến tấn công con thuyền, tức là tấn công các môn đệ”(Boismard, Jésus, un homme de Nazareth, 1966, tr 78).
Làm cho bão tố yên lặng là một dấu chỉ đặc biệt về quyền năng của Thiên Chúa, bởi vì biển và gió được coi như là những sức mạnh của xấu xa và hỗn loạn, mà chỉ Thiên Chúa mới có thể làm chủ, điều khiển chúng (Bài đọc 1).
- Biển hồ Tibériade.
Biển hồ này cũng có tên gọi là biển hồ Galilê. Biển có chiều dài 21 km và chỗ rộng nhất là 13 km. Thung lũng Jordan là một vết nứt sâu trên mặt đất và biển Tibériade là một phần của vết nứt đó. Nó thấp hơn mặt biển 200 mét nên khí hậu ấm áp dễ chịu, nhưng cũng đem lại nhiều nguy hiểm. Bên phía tây có núi non, thung lũng, khe suối, nên khi gió lạnh từ phía tây thổi đến thì thung lũng, khe suối này có tác dụng như những cái phễu lớn. Gió bị nén trong đó và thổi ào ào xuống hồ bất thình lình với sức gió mạnh dữ dội đến nỗi mặt hồ phẳng lặng biến thành sóng gió gào thét. Vì thể, biển Tibériade hay nổi lên những cơn sóng gió bão táp vào ban chiều hay ban đêm.
- CHÚA DẸP YÊN SÓNG GIÓ.
- Câu chuyện giông tố.
Đức Giêsu cũng có một số môn đệ để giúp phổ biến giáo thuyết của Ngài. Các môn đệ này không phải là những nhà trí thức hay ít ra là những người học thức trung bình, nhưng thực ra họ là những người ít học: họ là những người chài lưới. Chúa cần phải giáo dục họ từng bước để trở thành những môn đệ kiên cường và trung thành trong việc rao giảng Tin mừng. Họ cần phải đặt tin tưởng vào Chúa nhất là trong những cơn gian nan khốn khó lúc này và về sau.
Ngài phải thử thách họ bằng những tình huống nguy hiểm. Vi thế, sau một ngày giảng cho dân chúng những dụ ngôn về Nước Trời. Đức Giêsu bảo các môn đệ xuống thuyền sang bờ biển bên kia, là vùng của dân ngoại để truyền giáo cho họ. Nhưng mục đích chính là để thử thách họ và cho họ thấy quyền năng của Ngài.
Vì thế, một cơn sóng gió nổi lên hầu nhận chìm con thuyền của các ông mà Đức Giêsu thì nằm ở đàng lái mà ngủ, coi như không có chuyện gì xẩy ra. Các môn đệ vừa cầu cứu vừa có vẻ hơi trách móc Ngài. Lúc ấy Ngài mời bình tĩnh đứng lên, truyền lệnh cho sóng gió phải ngưng hoạt động, tức thì gió im, biển trở nên lặng như tờ. Trước cảnh tượng này các môn đệ hết sức kinh ngạc và thán phục Đức Giêsu nên mới nói với nhau:”Ngài là ai mà cả gió và biển đều phải tuân lệnh Ngài”? Các ông đã nhìn ra quyền năng của Ngài và tin tưởng vào Ngài hơn.
- Ý nghĩa câu truyện.
- a) Củng cố niềm tin cho môn đệ.
Đức Giêsu truyền cho các môn đệ xuống thuyền ra biển là có ý tỏ quyền năng của Ngài để các ông tin tưởng vào Ngài. Sóng gió bão táp cũng có nghĩa là những thử thách và đau buồn mà người công chính phải chịu đựng và chỉ có quyền năng của Thiên Chúa mới có thể cứu họ ra khỏi tình trạng ấy.
Các môn đệ chưa hiểu rõ con người Đức Giêsu, các ông coi Ngài cũng chỉ là một đấng tiên tri có quyền phép, làm được nhiều phép lạ để cho nhiều người tin theo nên các ông mới thắc mắc với câu hỏi “Người này là ai”? Khi bão tố yên lặng, các ông chứng kiến một việc mà chỉ Thiên Chúa mới có thể hoàn thành. Điều đó có ý nghĩa là Đức Giêsu có quyền năng của Thiên Chúa. Thực ra, họ mới biết Đức Giêsu theo quan niệm của loài người. Đồng thời, nhờ phép lạ này cho thấy Đức Giêsu chăm sóc các môn đệ của Ngài.
Theo suy luận của J. Hervieux thì “khi đọc lại câu chuyện Chúa đi qua biển và dẹp yên sóng gió như vậy, Marcô cố gắng đáp ứng những nhu cầu hiện thực của Giáo hội thời Ngài. Những tín hữu Rôma đang phải điêu đứng vì những cuộc bách hại. Họ đang sống trong nỗi sợ hãi, giống như các môn đệ trong con thuyền vượt biển xưa. Đối với họ, Đức Kitô hình như đang ngủ. Việc Ngài “vắng mặt” rõ ràng trong những biến cố bi thảm họ đang sống, tạo cho họ thêm e dè sợ sệt! Chúa phải làm gì để giải thoát họ khỏi cảnh chết chóc đang rình rập” (Fiches dominicales, năm B, tr 207).
- b) Chúa vẫn có mặt ở đó.
Cơn sóng gió nổi lên dữ dội, các môn đệ bất lực, không chèo chống nổi, nước tràn vào đầy thuyền và sắp ngập, khi đó Đức Giêsu lại đang nằm ngủ ở đàng lái! Ngài ở chỗ quan trọng nhất vì số phận con thuyền tùy ở tay lái. Thế mà đang lúc khó khăn nguy hiểm tột độ, Ngài lại nằm ngủ.
Đối với Marcô, Ngài nằm ngủ như thế là hình ảnh về Thiên Chúa như nhắm mắt làm ngơ và ngủ say quên mất rằng loài người chúng ta sắp chết rồi, con thuyền Hội thánh đang sắp chìm và bản thân chúng ta sắp bị vùi giập trong nguy hiểm. Thái độ lạ lùng này khiến loài người phải đặt ra nhiều câu hỏi về vấn đề đau khổ và sự dữ: có Thiên Chúa hay không? Ngài không biết chúng ta đang đau khổ sao? Ngài bất lực hay đa đoan như người ta thường nói về “Con Tạo”?
Bài đọc 1 cũng đặt ra cho chúng ta một câu hỏi, giống như thời ông Gióp; chúng ta cũng tra hỏi, chất vấn, sửng sốt, đòi hỏi Chúa phải giải thích và trình bầy cho ra nhẽ! Tại sao vẫn xẩy ra những vụ tàn sát những người vô tội, những cảnh chém giết nhau không nương tay, những cuộc bách hại đẫm máu, những trận dịch kinh hoàng, những bất công chỉ biết kêu trời báo oán, những cảnh chết đói khiến phải đào mồ chôn tập thể?
Thật ra, đường lối sư phạm của Thiên Chúa rất huyền diệu, ta không hiểu nổi, nhưng dầu sao nó cũng nhằm giúp chúng ta tin tưởng rằng trong mọi nơi mọi lúc “Con thuyền Giáo hội lúc nào cũng bị sóng gió dập dồn” (theo Tertullianô), nhưng không sao, không bị chìm được vì luôn có Ngài ở đó, Ngài có vẻ ngủ nhưng thực ra Ngài vẫn thức để theo dõi chúng ta chèo chống và chờ đợi chúng ta kêu cầu Ngài giúp đỡ.
Theo nhận xét của chúng ta, dù có Đức Giêsu ở trong thuyền với các môn đệ thì bão tố vẫn xẩy ra. Vì thế, dù bão tố có chụp xuống chúng ta, điều đó không có nghĩa là Thiên Chúa đã bỏ rơi chúng ta. Nếu chúng ta có đức tin, chúng ta sẽ không nghi ngờ Ngài ở với chúng ta, và chúng ta sẽ hướng về Ngài để cầu xin và tin chắc rằng Ngài sẽ đến giúp đỡ.
Một ngày kia, viên lái đò chở hoàng đế César qua sông, thấy sóng cả đã ngã tay chèo, được hoàng đế phán ra một câu bất hủ:”Anh không biết là anh đang chở hoàng đế César sao”?
Một vị hoàng đế sẽ bất lực trước cơn cuồng phong dữ dội, thế mà dám nói những lời như thế. Thì huống hồ ở đây, không phải là vị vua trần thế mà là vua cả trên trời Ngài làm cho sóng gió bão táp phải lặng yên sao? Thánh vịnh đã nói:
Đổi phong ba thành gió thoảng nhẹ nhàng
Sóng đang gầm, bỗng im tiếng.
Họ vui mừng vì trời yên bể lặng
Và Chúa dẫn đưa về bến mong chờ.
(Tv 107, 29-30)
III. THÁI ĐỘ CỦA CHÚNG TA.
Câu chuyện trong bài Tin mừng hôm nay dạy chúng ta bài học: hãy tin cậy vào Chúa và cầu nguyện. Ai cũng thích sóng yên bể lặng, xuôi chèo mát mái. Nhưng cuộc đời nào mà chẳng có giông tố? Tuy nhiên, chính giông tố mới giúp chúng ta nhận ra chính mình: mình còn yếu đuối và bất lực, còn nhát đảm và kém tin. Cũng chính giông tố sẽ đưa ta đến với Chúa, để ta hoàn toàn phó thác cho sự quan phòng của Ngài. Cũng chính giông tố sẽ giúp chúng ta biểu lộ đức tin. Có thể nói, đức tin sẽ lớn lên ít nhiều sau mỗi lần giông tố. Khi đã biết con người hoàn toàn yếu đuối và bất lực thì chỉ còn biết trông cậy vào Chúa và xin Ngài đến cứu giúp, không phải chỉ cầu xin khi gặp hoạn nạn, nhưng phải tin Chúa và cầu xin Ngài mọi nơi mọi lúc trong lúc được bình yên.
Truyện: Cầu nguyện khi bình yên.
Có câu chuyện về một đại úy hải quân, khi về hưu làm thuyền trưởng trên một chiếc tầu đưa khách đến đảo Shetland tham quan trong ngày. Trong một chuyến đi chơi, tầu chở toàn thanh niên. Họ cười nhạo ông đại úy gìa khi thấy ông này cầu nguyện trước lúc ra khơi, bởi vì đó là một ngày trời đẹp và biển êm.
Nhưng biển không êm lâu khi một trận cuồng phong bất ngờ thổi tới và chiếc tầu bắt đầu chồm lên chồm xuống dữ dội. Các hành khách hoảng sợ chạy đến ông đại úy thuyền trưởng để yêu cầu ông cùng cầu nguyện với họ. Nhưng ông đáp:”Tôi đã cầu nguyện lúc trời êm bể lặng. Khi sóng gió nổi lên, tôi phải lo cho con tầu của tôi”.
Đó là một bài học cho chúng ta. Nếu chúng ta không thể hoặc không muốn tìm đến Thiên Chúa trong những lúc yên tĩnh của đời mình thì chúng ta có lẽ sẽ không tìm thấy Người khi cơn rối loạn chụp xuống. Có lẽ chúng ta hoảng sợ nhiều hơn. Nhưng nếu chúng ta đã biết tìm đến Người và phó thác nơi Người trong những lúc bình yên thì hầu như chắc chắn chúng ta sẽ tìm thấy Người khi sóng gió nổi lên (Flor McCarthy, Phụng vụ Chúa nhật B, tr 458).
Mỗi người chúng ta không khác gì chiếc thuyền nan chồng chềnh giữa biển trần gian đầy sóng gió bão táp, khó khăn nối tiếp khó khăn. Nếu chúng ta chỉ dựa vào sức mình hay dựa vào một quyền năng nào đó thì chúng ta sẽ thất bại. Ai có thể cứu chúng ta thoát khỏi sóng gió ba đào khi chiếc thuyền của chúng ta sắp chìm? Chỉ còn có Thiên Chúa. Ngài như người cha lái con tầu vững chắc trên biển cả, chúng ta là con chỉ biết tin tưởng vào quyền năng của người Cha trên trời.
Có Chúa trong đời, Ngài sẽ hướng dẫn cuộc đời của mỗi chúng ta. Lúc đó, những cô đơn như bị xóa nhòa, những khó khăn dường như nhỏ lại, những yếu đuối như được mạnh sức. Chúng ta không cầu xin cho cuộc đời mình như biển lặng, nhưng xin cho cõi lòng chúng ta được tĩnh lặng ngay giữa lúc biển động.
Truyện: Cha tôi câm lái tầu.
Một thi sĩ người Anh, ông Byron, có viết một câu chuyện như sau:
Hôm ấy, một con tầu đang rẽ sóng lướt đi trên mặt biển mênh mông. Bỗng chốc, bầu trời kéo mây đen đặc. Rồi giông tố ầm ầm nổi lên, sấm chớp kinh hoàng. Mưa càng lớn, gió càng mạnh. Các hành khách kêu la hỗn loạn. Duy có một em bé cứ ngồi chơi trên boong tầu như không có gì xẩy ra.
Lạ lùng, một thủy thủ giương to đôi mắt hỏi em:
– Em không sợ chết sao?
Cậu bé thản nhiên trả lời:
– Sao lại sợ? Chính ba cháu cầm lái con tầu này mà!
Câu chuyện trong bài Tin mừng hôm nay thách đố sự tin tưởng của chúng ta vào quyền năng của Thiên Chúa. Khi đã có đức tin, chúng ta không cần đứng ra chỉ huy mọi sự. Đã có Chúa Tình yều, Ngài sẽ làm tất cả.
(Suy niệm của Cố Lm. Hồng Phúc)
Một phái đoàn quan khách đến thăm quan một trại cùi. Họ rất cảm phục vì thấy các nữ tu vui vẻ săn sóc cho bệnh nhân. Một người trong phái đoàn hỏi một chị: “Vì sao chị lại sống ở đây? Cho tôi một triệu tôi cũng không dám!” Người nữ tu trả lời: “Cho tôi hai triệu tôi cũng không ở. Sở dĩ tôi muốn ở đây và sống chết ở đây vì tình yêu Chúa Kitô thúc đẩy tôi.”
Với giáo đoàn Côrintô, Thánh Phaolô cũng từng nói như vậy: “Lòng yêu mến Đức Kitô thúc bách tôi”. Từ ngày ngài được biết Chúa Kitô và cảm thấy tình thương của Chúa đến độ “hiến thân mình vì tôi” (Ga.2,20), Phaolô như bị đè nặng dưới khối tình yêu của Chúa. Từ trong thâm tâm, người nghe như có tiếng vọng lại: Hãy yêu mến Ta như Ta đã yêu mến ngươi. Hãy tiến lên nữa. Hãy để Ta dùng ngươi để yêu mến kẻ khác. “Chúa Kitô đã chết thay cho hết mọi người, để những ai đang sống không sống cho mình nữa, mà chỉ sống cho Đấng đã chết và sống lại vì ta.” Đối với tất cả chúng ta, tình yêu Thiên Chúa cũng thúc bách và đè nặng như vậy.
Bài Phúc Âm hôm nay, dưới ngòi bút linh động của Marcô, là một bài phóng sự một cơn bão táp xảy ra trên mặt biển hồ Tiberiade hay có những cơn gió lốc về chiều do bầu khí bị dồn ép trong thung lũng sông Giordan. Sau khi giải tán đám đông, Chúa truyền cho các môn đệ chèo thuyền qua bên kia biển hồ. Ngài lên thuyền. Sau một ngày giảng dạy mệt nhọc, Ngài đến phía sau lái, dựa trên một chiếc gối và ngủ say. Một cơn gió lốc thổi đến, cuộn lên những ngọn sóng lớn làm cho thuyền đầy nước. Các môn đệ tay chống tay tát…, còn Ngài, Ngài vẫn ngủ. Các ông đến thức Ngài dậy: “Chúng con chết mất, Thầy không quan tâm sao?” Ngài bèn đe gió và phán với biển, như một người bị quỉ ám: “Hãy im đi!” Tức thì gió và biển lặng.
Tường thuật cơn bão táp im lặng có ý nghĩa gì? Đối với Chúa Giêsu, Ngài muốn dạy cho chúng ta phải có niềm trông cậy và phó thác nơi Chúa: “Sao các con sợ hãi? Các con không có đức tin ư?” Trong mọi hoàn cảnh, mọi hiểm nguy, chúng ta đều nằm trong bàn tay của Cha trên trời. Trong một hoàn cảnh tương tự, viên lái đò chở hoàng đế César qua sông, thấy sóng cả đã ngã tay chèo, được nghe một câu nói bất hủ: Anh không biết là anh đang chở vua César? Thì huống hồ ở đây, không phải là một vị vua trần thế mà là Vua Cả trên trời, “Ngài làm cho bão táp dừng yên phăng phắc, sóng biển yên lặng như tờ” (Tv. 107, 29).
Đối với nhiều người đã chứng kiến, vì Marcô nói: “Có nhiều thuyền khác theo”, thì đây là một phép lạ nói lên quyền năng của Chúa Giêsu, Đấng chỉ cần phán lên một lời thì gió yên biển lặng, Đấng có quyền trên vạn vật, là Đấng tạo thành vạn vật. Các Thánh Giáo phụ nhìn thấy ở đây tác động của hai bản tính của Chúa Giêsu. Thánh Gioan Kim-Khẩu nói: “Họ vừa nhìn thấy Ngài, dựa trên gối, ngủ say, đó là một con người, họ nhìn thấy Ngài bắt biển cả phải lặng yên, đó là vị Thiên Chúa.” Trong khi các nhà thần học minh giáo lại đề cao ý tưởng “con thuyền Giáo hội” giữa sóng gió ba đào (Tertullien). Chúa Kitô vẫn ở trong con thuyền Giáo hội cũng như Ngài ở trong tâm hồn chúng ta. Một hôm Bà Thánh Catarina Sienna phải chiến đấu mãnh liệt với chước cám dỗ, Bà kêu lên: “Lạy Chúa, trong khi con phải chống lại những ý tưởng nhuốc nha thì Chúa ở đâu? Chúa phán: Ta đang ở trong tâm hồn con, để hỗ trợ con và để chia sẻ sự toàn thắng của con.”
“Lạy Thầy, xin cứu chúng con vì chúng con sắp chết mất!”
(Trích trong ‘Tin Vui Xuân Lộc’)
LÀM SAO MÀ ANH EM VẪN CHƯA CÓ LÒNG TIN?
Lời Chúa trong đoạn Tin Mừng hôm nay thánh Maccô thuật lại một hành trình trên biển để “sang bờ bên kia” của Chúa Giêsu và các môn đệ. Hành trình này được ví như hành trình đức tin của mỗi chúng ta. Hành trình trên biển gặp sóng gió là chuyện không lạ lắm đối với những người thường xuyên đi biển và sống bằng nghề biển như các môn đệ. Tuy nhiên, chiếc thuyền của Chúa Giêsu và các môn đệ hôm nay không gặp những con sóng ngọn gió hiền lành bình thường, mà là gặp “cuồng phong”… “sóng ập vào”… “thuyền đầy nước”… Các môn đệ lo lắng như “chết đến nơi rồi”, còn Chúa Giêsu thì “chẳng lo gì”… Các môn đệ kêu cầu đến Chúa và Chúa đã ra tay uy quyền, Chúa mắng các môn đệ “làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?”
Chúng ta ngắm nhìn xem, tại sao Chúa Giêsu lại mắng các môn đệ chưa có lòng tin?
Qua trình thuật này chúng ta có thể hiểu rằng, giữa Chúa Giêsu và các môn đệ đã có một tương quan rất thân thiện với nhau rồi. Cùng làm việc và cùng thi hành sứ vụ chung với nhau. Tuy nhiên, chúng ta cũng dễ dàng cảm nghiệm rằng, dường như tương quan ấy chỉ mới có ở bề mặt bên ngoài, có nghĩa là các môn đệ mới chỉ gặp gỡ, gần gũi làm việc chung, mới tương quan trên bình diện công việc và cuộc sống, chứ các môn đệ chưa đi vào tương quan sâu, chưa hiểu hết Chúa như thế nào, quyền năng của Ngài ra sao?
Chúa mắng các môn đệ “chưa có đức tin” quả thật là phải lẽ, vì hành trình của các ông đang có Chúa đó, nhưng các ông chẳng ý thức về sự hiện diện đồng hành của Ngài, các ông không nhận biết quyền năng của Chúa, các ông cũng chẳng trông cậy vào Ngài… Sóng gió ập đến, các môn đệ mới sực nhớ đến Chúa, và rồi các ông vội trách Chúa “chẳng lo gì”.
Cuộc sống thường ngày của chúng ta dường như cũng thế, chúng ta ít khi ý thức sự hiện diện của Chúa, chúng ta thường đi với Chúa cách vô ý thức, coi như Chúa không biết gì, Chúa chẳng quan tâm. Đến lúc nguy khó mới nhớ chạy đến Chúa và kêu la rối rít. Thái độ sống này, chắc chắn sẽ bị Chúa mắng là “chưa có lòng tin”. Tuy nhiên, một thái độ ngược lại cũng đáng quan tâm. Cuộc sống đôi lúc chúng ta cũng rơi vào tâm trạng thất vọng nặng nề, chúng ta cũng chẳng còn nhớ đến Chúa, và quên rằng Ngài ở bên chúng ta và chờ chúng ta khiêm tốn lên tiếng kêu cầu Ngài. Thái độ chỉ kêu đến Chúa khi gặp khó khăn, hoặc là thất vọng đến quên cả Chúa mà lầm lũi bước đi đó là thái độ “chưa có lòng tin”.
Thánh Maccô thuật tiếp, sau khi các môn đệ kêu đến Chúa, tin tưởng vào quyền năng của Chúa, Chúa bắt đầu ra tay. Nhưng sau khi Chúa ra tay truyền sóng biển im lặng, thì các ông hoảng sợ và nói với nhau: “Vậy người này là ai…?”
Gặp sóng gió, các môn đệ hoảng sợ, không tin đủ vào Chúa. Sau khi Chúa tỏ quyền năng thì các ông lại thắc mắc “Ngài là ai?” Điều này chứng tỏ nền tảng đức tin của các môn đệ chưa vững chắc, đi bên Chúa, gặp gỡ Chúa nhưng không khao khát tìm biết Chúa là ai? Lẽ ra các ông phải tìm hiểu về Chúa, biết Chúa là ai khi bắt đầu cất bước theo Ngài! Còn nghi ngờ vào chính Thiên Chúa thì chắc chắn là chưa có lòng tin. Tin Chúa là phải học cho biết Ngài là ai và đi vào trong tương quan sâu để cảm nghiệm Ngài như ta đã được học biết. Tin vào Chúa là hiểu điều Chúa làm, mong điều Chúa muốn và phó thác cho Ngài cuộc sống của ta.
Sau phép lạ Chúa làm truyền sóng biển im lặng, chắc chắn các môn đệ phải tìm được câu trả lời Chúa là ai khi quan sát sự kiện và khi tương quan gần gũi song hành với Chúa. Vậy mà không hiểu sao các ông lại còn hoảng sợ và thắc mắc “ông này là ai?” Câu hỏi này chứng tỏ lòng tin của các ông chưa có và bị Chúa mắng thì cũng không oan uổng gì.
Bởi vì các môn đệ chưa có lòng tin, nên chưa ý thức sự hiện diện của Chúa. Chưa có niềm tin nên còn nghi ngờ “ông này là ai?”. Chưa có lòng tin nên còn dành quyền điều khiển và kiểm soát hành trình. Khi các môn đệ dành quyền kiểm soát và điều khiển hành trình đời mình, thì Chúa dành cho họ ưu tiên đó, Ngài nghỉ ngơi. Giả như chúng ta tin tưởng trao phó cho Chúa để Ngài điều khiển và an tâm nghỉ ngơi, thì chính lúc ấy Chúa sẽ giang tay ra hành động, Ngài chở che, bao bọc và cứu giúp.
Thái độ của những người “chưa có lòng tin” là thái độ của những người ưa thích đảo lộn tình thế, đứng vào vị trí điều khiển của Chúa, quên đi vai trò lệ thuộc của chính bản thân mình.
Có lòng tin là ý thức Chúa hiện diện trong mọi nẻo hành trình; Có lòng tin là trả lời xác tín với mọi người về chính Chúa, bằng sự cảm nghiệm của chính cá nhân mình; Có lòng tin là để Chúa điều khiển và kiểm soát cuộc sống của mình; Có lòng tin là khiêm tốn kêu xin khi gặp gian nan khốn khó.
Giờ đây, chúng ta khiêm tốn dâng lên Chúa lời nguyện xin ơn đức tin:
Lạy Chúa Giêsu,
Chúng con cám ơn Chúa vẫn hiện diện trong cuộc sống chúng con. Xin cho chúng con tin vào quyền năng Chúa vẫn hiển trị trong cuộc đời chúng con.
Lạy Chúa, cuộc sống quanh chúng con có biết bao điều xảy đến. Tất cả đều nằm dưới bàn tay tình thương quan phòng của Chúa.
- Xin Chúa giúp chúng con biết cùng với vạn vật dâng lời ca khen quyền năng Chúa.
- Xin giúp chúng con biết đón nhận ân ban của Chúa trong sự khiêm tốn thẳm sâu.
- Xin dạy chúng con biết chạy đến với Chúa khi gặp những gian nan thử thách,
- Xin giúp chúng con biết bám vào Chúa để đi qua những giông bão trong cuộc đời.
Lạy Chúa, Chúa luôn nâng đỡ những ai kêu cầu Chúa. Chúng con xin phó dâng cuộc sống trong tình thương quan phòng của Chúa. Amen.
(Suy niệm của Lm Anphong Trần Đức Phương)
Tôi đã được nghe một câu chuyện về Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII (1881-1963). Ngài chỉ ở trên ngôi vị Giáo Hoàng trong vòng 5 năm (1958-1963), nhưng được nhiều người sùng mộ. Sau khi Ngài qua đời, rất nhiều người đã đến viếng mộ của Ngài, đến nỗi di hài của Ngài đã được đưa từ hầm mộ lên trên nền Đền Thờ Thánh Phêrô để dễ dàng cho giáo dân kính viếng. Ngài có một niềm ưu tư đặc biệt về việc hiện đại hóa Giáo Hội. Ngài cũng luôn quan tâm về nền hòa bình thế giới. Một trong những thông điệp nổi tiếng của Ngài là Thông Điệp “Hòa Bình Trên Thế Giới” (Pacem in Terris), ra ngày 11-4-1963, trong đó Ngài kêu gọi mọi người có thành tâm thiện chí hãy chung tay xây dựng Hòa Bình và sự Công Chính trên thế giới, để “làm cho trái đất này trở nên nơi ở tốt đẹp hơn cho nhân loại!”(Lời kết Thông Điệp) Một đêm khi Ngài đang ngủ, Ngài chợt nghĩ đến bao nhiêu những điều cần phải thực hiện trong Giáo Hội. Ngài mong cho đến sáng để xin vào trình bày với Đức Giáo Hoàng về những việc cần phải làm ngay. Nhưng Ngài sực tỉnh và mới nhận ra chính Ngài đang là Giáo Hoàng! Lúc đó, Ngài cảm thấy hết sức sợ hãi! Nhưng như có tiếng Chúa nói với Ngài: “Giáo Hội là của Cha chứ không phải của con!” Bấy giờ Ngài mới lấy lại can đảm và cầu nguyện xin Chúa soi sáng cho Ngài biết phải làm gì để canh tân Giáo Hội. Rồi Ngài đã mở Đại Công Đồng Vatican II (1962-1965), mời các vị Hồng Y và Giám Mục từ các nơi trên thế giới trở về Rôma họp để cùng nhau đưa ra những ý kiến hiện đại hóa Giáo Hội.
Thánh Lễ Chúa Nhật hôm nay, trong Bài Phúc Âm (Mc 4, 35-41), chúng ta thấy các Thánh Tông Đồ đang chèo thuyền trên Biển Hồ Tibêriat trong đêm tối, thì sóng to gió lớn nổi lên, nước ùa vào trong thuyền đến nỗi thuyền sắp chìm, mà Chúa Giêsu cứ ‘ngủ yên’ trên mạn thuyền, như không biết gì cả. Các Tông Đồ phải đánh thức Chúa dậy: “Chúng con sắp chết đến nơi mà Thày không quan tâm đến sao?” Chúa Giêsu đã ‘thức dậy’ và làm phép lạ cho gió yên, biển lặng! Rồi Chúa trách các Tông Đồ: “Các con không có đức tin ư? Sao mà qúa sợ hãi như vậy!”
Trong cuộc đời mỗi người chúng ta, mỗi gia đình chúng ta có nhiều lúc cũng gặp “bão tố nổi lên” và chúng ta có cảm tưởng Chúa cứ ‘ngủ yên’ mà không thương cứu giúp chúng ta. Y như trong trường hợp khổ đau của ông Gióp trong Bài Đọc I (Gióp 38, 1.8-11). Nhưng ông Gióp đã luôn vững tin nơi Chúa, không phàn nàn, kêu trách; rồi Chúa đã làm cho sóng gió cuộc đời ông chấm dứt, và ban lại cho ông một cuộc sống tốt đẹp hơn. Trong Bài Đọc II (2Cr 5,14-17), Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta: Vì thương yêu chúng ta, “Chúa Giêsu Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta, nhưng Ngài đã sống lại!..”, đem lại cho chúng ta một niềm tin vững chắc vào tình thương của Chúa.
Là những tín hữu của Chúa, chúng ta hãy noi gương ông Gióp, luôn biết tin tưởng, phó thác nơi Chúa trong mọi biến cố xảy ra cho chúng ta, gia đình chúng ta, thế giới chúng ta và ngay trong Giáo Hội Chúa nữa; vì Chúa là Thiên Chúa toàn năng, và là Cha yêu thương của chúng ta. Trong Phúc Âm Chúa Giêsu cũng bảo chúng ta hãy luôn tin tưởng nơi sự quan phòng của Chúa là Cha luôn yêu thương chúng ta và lo lắng mọi điều cần thiết cho chúng ta. (Mt 6, 25-34)
Trong thế giới ngày nay, người ta thường thiếu niềm tin nơi Chúa, và vì thế dễ lo lắng, sợ hãi trước những biến cố đau thương xảy ra trong cuộc đời, và trở nên khủng hoảng tinh thần, bất mãn với cuộc đời, tâm trí bị căng thẳng, rồi suy nhược (depressed) và có những trường hợp đưa đến loạn trí, hành động điên rồ gây nên những tội ác khủng khiếp: như tự hủy chính mình, có khi giết hại mạng sống cả gia đình, có khi giết hại những người vô tội, như những cuộc bắn giết tại các trường học, tiệm ăn, sở làm và các trung tâm thương mại v.v…
Trong Thánh Lễ hôm nay, chúng ta hãy cầu nguyện cho chúng ta được vững niềm tin phó thác nơi tình thương che chở của Chúa là Cha chúng ta. Xin cho chúng ta biết nhìn lên Thánh Giá Chúa để chấp nhận mọi đau khổ, thử thách xảy ra cho chúng ta, gia đình chúng ta. Chính những đau khổ, thử thách tôi luyện đức tin của chúng ta, làm cho đức tin của chúng ta trở nên vững chắc hơn. Đau khổ và thử thách cũng là những dịp để chúng ta được thông phần với sự đau khổ Chúa đã chịu để cứu chuộc chúng ta (Xin xem 1 Pr 1, 6-9; 2 Cr 4, 17-18; Rm 8,18).
“Anh em hãy phó thác mọi nỗi lo âu cho Chúa; vì Chúa luôn lo lắng cho anh em!” (1Pr 5,7).
“Hãy phó thác đường đời cho Chúa,
Người sẽ lo liệu mọi sự cho chúng ta!” (TV 37).
“Tôi tin, tôi tin Chúa đã thương tôi, nên Người đã chết, chết vì tôi… “Tôi tin Chúa vẫn thương tôi, cho dù đời tôi bao phen giông tố…” (Bản Thánh ca “Tôi Tin” của Thành Tâm)
(Suy niệm của Lm Vũ Đình Tường)
Để tái tạo vật mới từ vật cũ thì vật cũ cần phải tháo gỡ cho việc tái tạo. Hành động tháo gỡ mang í nghĩa chết và í nghĩa sống. Chết hiểu theo nghĩa từ nay hình dạng cũ thuộc về quá khứ, không còn nữa. Thay vào đó là hình dạng mới với đời sống mới. Thí dụ điển hình nhất là sau cơn hoả hoạn, cây cũ cháy rụi, chết đi nhường chỗ cho mầm non phát sinh.
Thiên tai tàn phá và tái tạo. Quan trọng hơn nữa thiên tai hi vọng giúp ta nhận biết thân phận nhỏ bẻ của con người. So với vũ trụ bao la con người nhỏ hơn hạt cát biển và tàn lụi nhanh hơn hạt sương trước ánh dương. Dù nhỏ bé như thế nhưng con người có tham vọng làm chủ tể của vũ trụ có trước con người nhiều tỉ năm. Tìm hiểu để biết hơn về vũ trụ là điều tốt nhưng tìm cách làm chủ, chối bỏ công trình sáng tạo của Thiên Chúa là việc hạt cát đòi làm chủ đại dương, sương sớm đòi làm chủ mặt trời.
Sóng gió trong đời là điều không thể tránh khỏi và khi chúng đến con người thường có hai chọn lựa. Người có đức tin mạnh mẽ thường chạy đến Chúa trong lời kinh. Khi bão tố đến họ bám chặt hơn vào Thiên Chúa, tìm an bình nơi Ngài. Đồng thời họ cũng tìm sự hỗ trợ của đồng loại. Các tông đồ khi gặp sóng gió các ông cũng vừa chèo chống vừa chạy đến cùng Đức Kitô và các ông kinh ngạc chỉ một lời phán bảo sóng gió im lặng nghe lời Ngài. Con người không có khả năng ra lệnh cho thiên tai. Con người chỉ có những nhà chuyên môn trong ngành có khả năng tiên đoán tai ương có thể sẽ xảy đến và chuẩn bị trước mong tránh càng nhiều thảm hại càng tốt. Con người chấp nhận khi các chuyên gia tiên đoán sai về thiên tai sẽ xảy đến nhưng khi Chúa không đáp đúng lởi chúng ta cầu xin chúng ta phàn nàn Chúa không thương con người. Vì sao lại có thái độ đó? Thưa vì chúng ta đặt í ta trên í Chúa.
Người có đức tin mạnh nơi Đức Kitô tin vào phép lạ và qua phép lạ giúp cho đức tin mạnh mẽ hơn. Tuy nhiên khi không có phép lạ đức tin vẫn không yếu kém vì đức tin đặt nền tảng trên Đức Kitô, không phải dựa vào phép lạ để tin. Để có phép lạ cần có đức tin như thế đức tin phát sinh phép lạ, không phải phép lạ sinh ra đức tin. Trong Kinh Thánh Đức Kitô luôn khẳng định với người Ngài ban ơn: Đức tin con đã cứu con. Như thế Đức tin luôn đi trước, phép lạ theo sau.
Kitô hữu tin chúng ta sống nơi trần thế chỉ trong giai đoạn và khi đi trọn con đường chúng ta trở về với Chúa. Thời gian khi nào trở về không thuộc về khả năng con người nhưng do Chúa định đoạt. Kitô hữu mong sống hạnh phúc và sống lâu dài nơi trần gian nhưng Kitô hữu cũng biết rằng đó là í muốn của ta; ngoài í ta muốn còn có í Chúa mà ta luôn tôn trọngg và xin lắng nghe và chấp nhận như điều chúng ta tuyên xưng khi đọc kinh Lậy Cha.
Đức Kitô đón nhận sóng gió trong đời với môt niềm tin mãnh liệt nơi Chúa Cha và Ngài đã cảm thấy bình an trước sóng gió cuộc đời. Học từ Đức Kitô khi sóng gió đến chúng ta cũng xin ơn biết đặt trọn niềm tin vào Đức Kitô, xin ơn khôn ngoan biết xử thế trước sóng gió và nhận ra ý Chúa mặc khải qua biến cố cuộc đời.
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
- Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Đồng bào chúng ta vẫn tin ở Ông Trời, coi Ông Trời là Đấng làm chủ gió mưa, thời tiết, mùa màng và nắm vận mạng của con người. Phần chúng ta, nhờ đức tin, chúng ta được biết Ông Trời ấy chỉ là một ý thức mơ hồ về Thiên Chúa. Chúng ta cảm tạ Thiên Chúa đã cho chúng ta được biết Ngài và chúng ta hãy cố gắng yêu mến thờ phượng Ngài cho xứng đáng, nhất là trong Thánh lễ này.
- Gợi ý sám hối
- Thiên Chúa là chủ tể thiên nhiên. Đối với Ngài, chúng ta thường cầu xin ơn này ơn nọ, nhưng ít khi để ý tới việc thờ phượng Ngài.
- Thiên Chúa là Đấng quan phòng chăm sóc mọi loài. Nhưng ít khi chúng ta trông cậy phó thác vào Ngài.
- Ngày xưa, Đức Giêsu đã trách các môn đệ thiếu đức tin. Huống chi chúng ta, đức tin chúng ta cũng rất yếu kém.
III. Lời Chúa
- Bài đọc I (G 38,1.8-11)
Gióp là một người công chính nhưng phải gặp rất nhiều tai họa. Thân nhân ông trách móc Chúa và không tin vào Chúa nữa. Phần ông, ông không dám trách mà chỉ than thở và cầu xin Chúa cho ông một lời giải đáp về lý do những khổ sở ông đang chịu.
Trong trích đoạn này, Thiên Chúa đưa ra một lời giải đáp gián tiếp: Ngài là chủ tể của thiên nhiên. Chính Ngài điều hành sức mạnh của nước: Ngài tạo dựng ra nó, ấn định cho nó được chảy tới đâu, ngăn không cho nó tràn bờ…
Lời giải đáp hàm chứa trong Lời Chúa là: mọi sự lành hay sự dữ đều được Chúa cho phép mới xảy tới, con người phải biết phó thác vào sự sắp xếp của Ngài.
- Đáp ca (Tv 106)
Tv này là một bài ca tụng uy quyền Thiên Chúa trên biển cả.
- Tin Mừng (Mc 4,35-41)
Biển hồ Galilê thường có bão, nhất là vào buổi chiều. Chiều hôm ấy Đức Giêsu bảo các môn đệ dùng thuyền đi từ bờ bên này sang bờ bên kia. Xem ra Ngài cố ý để cho họ gặp bão.
Khi bão đến, Đức Giêsu lại bình thản dựa vào chiếc gối sau lái mà ngủ. Đây lại là một việc làm cố ý để thử xem các môn đệ phản ứng thế nào trong cơn bão.
Phản ứng của họ là “kinh hãi”, lại còn trách Chúa “Chúng con chết mất mà Thầy không quan tâm sao!” Đức Giêsu đứng lên, và chỉ cần phán một lời, bão liên ngưng. Một bằng chứng rõ ràng Ngài là chủ tể của thiên nhiên. Sau đó, Đức Giêsu vừa trách các môn đệ vừa kêu gọi họ hãy tin vào uy quyền của Ngài.
- Bài đọc II (2 Cr 5,14-17)
Chúng ta có thể tóm tắt ý tưởng của Phaolô trong trích đoạn này là: Đức Giêsu Kitô là tất cả.
Sau đây là các chi tiết trong lập luận của thánh Phaolô: “Vì Đức Kitô đã chết thay cho chúng ta, nên đáp lại chúng ta phải sống cho Ngài chứ đừng sống cho mình nữa. Chúng ta cũng chẳng cần biết ai khác ngoài một mình Đức Kitô”. Đức Kitô đã ban cho chúng ta một cuộc sống mới, vậy từ nay chúng ta phải bỏ hết những gì thuộc cuộc sống cũ để sống một cuộc sống hoàn toàn mới trong Đức Kitô.
- Gợi ý giảng
* 1. Chúa tể thiên nhiên
Bài đọc thứ I của Thánh Lễ hôm nay trích từ sách Gióp, trong đó có một hình ảnh hơi lạ: Chúa đã đóng cửa và gài chốt để ngăn không cho nước chảy tràn lan khắp mặt đất. Đó là một lối diễn tả, dựa theo vũ trụ quan của thời kỳ quyền sách này được biên soạn, tức thế kỷ thứ V trước Công nguyên, nghĩa là cách đây đến 2.500 năm. Thời đó người ta nghĩ rằng trái đất như một cái đĩa nổi bồng bềnh trên mặt đại dương. Chung quanh trái đất và bên dưới trái đất toàn là nước. Phía trên trái đất là vòm trời như một cái chụp tròn úp xuống, và cũng chứa đầy nước. Tất cả lượng nước trên vòm trời và dưới biển ấy được chặn lại bằng những cánh cửa. Khi cửa trời mở ra thì nước mưa rơi xuống; khi cửa biển mở ra thì nước thuỷ triều dân lên; còn khi cả cửa trời và cửa biển đều đóng kín lại trong một thời gian lâu dài thì đó là hạn hán. Và người giữ quyền đóng hay mở các cửa đó chính là Thiên Chúa. Đây quả là một lối nhìn vũ trụ rất là đơn sơ và có phần ngây ngô nữa. Tuy nhiên chúng ta có thể thông cảm với tác giả, vì ông sống cách chúng ta đến 2.500 năm, làm sao ông có thể diễn tả chính xác như các nhà khoa học thế kỷ 21 này được. Chúng ta chỉ cần ghi nhận tư tưởng của ông, đó là: chính Thiên Chúa là Đấng làm chủ thiên nhiên, và điều khiển thiên nhiên vận hành để giúp có thể sinh sống.
Có một điều hay, là tư tưởng ấy được chính các nhà khoa học ngày nay xác nhận. Mặc dù không trực tiếp nói đến Chúa như là Chúa tể thiên nhiên, nhưng các nhà khoa học đã cho thấy thiên nhiên đã vận hành theo một trật tự xít xao, nhờ đó mà loài người mới có thể sinh sống được. Thí dụ như trật tự vận hành của trái đất, mặt trời và mặt trăng. Cả 3 đều di chuyển không ngừng, mỗi cái theo quỹ đạo riêng của nó. Nhưng khoảng cách của chúng thì hình như đã được tính toán và điều khiển thật xít xao: chỉ cần mặt trời và trái đất gần nhau hơn một chút nữa thì trái đất sẽ nóng khủng khiếp, do đó loài người sẽ chết cháy; ngược lại chỉ cần trái đất và mặt trời xa nhau thêm một khoảng nữa thì mặt đất, sẽ giá lạnh, loài người sẽ chết cóng. Còn khoảng cách giữa mặt trăng với trái đất cũng thế: xích gần hơn chút nữa thì thuỷ triều sẽ dâng phủ ngập mặt đất, loài người chết chìm; còn dang xa hơn một chút thì không còn thuỷ triều, mọi loài trên mặt đất sẽ chết khô.
Ngay cả một hiện tượng thiên nhiên mà người ta thường coi là tai hoạ, đó là giông bão, nhưng khoa học cũng xem là có lợi. Khi nào có giông bão? Thưa là khi một vùng quá nóng, không khí bốc lên cao tạo thành một khoảng trống. Không khí ở các vùng khác liền ùa về để lấp đầy khoảng trống đó. Dĩ nhiên, khi mà không khí di chuyển như thế với một tốc độ nhanh thì sẽ tạo ra những luồng gió mạnh, có thể làm gãy cây cối, sập nhà, và có người chết. Nhưng nếu nhìn hiện tượng ấy một cách bao quát thì sẽ thấy giông bão là có lợi, và cần thiết nữa, vì nhờ đó mà không khí trên mặt đất được điều hoà.
Rõ ràng thiên nhiên đã được điều khiển theo một trật tự diệu kỳ bởi một Đấng đầy quyền năng. Đấng quyền năng ấy là ai? Nhiều người chưa được biết, nhưng từ xưa tác giả sách Gióp đã biết và gọi đó là Thiên Chúa. Hôm nay Tin mừng lại nói cho chúng ta biết thêm một lần nữa. Chúng ta hãy nói đến cơn giông bão trên biển hồ Gênêzarét. Vị trí của Biển hồ này hơi đặc biệt: nó giống như một cái lòng chão dưới thấp, chung quanh được bao bọc bởi những rặng núi. Như đã nói ở trên giông bão là do không khí di chuyển đổi vùng với một tốc độ nhanh mạnh. Vậy thì cái Biển Hồ này, do địa thế đặc biệt của nó nên nó rất thường gặp giông bão. Bởi vì khi những luồng gió mạnh thổi qua, gió bị núi ngăn chặn nên không lướt ngay đến vùng khác được., nhưng chạy vòng vòng giữa các rặng núi tạo thành những cơn lốc xoáy, và thế là có bão trên mặt biển. Tuy nhiên những cơn bão này cũng chóng tan. Hôm ấy, Đức Giêsu và các tông đồ đang di chuyển bằng thuyền trên mặt Biển Hồ thì gặp giông bão. Đức Giêsu vì đã nắm rõ bản chất của những cơn bão loại đó nên an tâm cứ nằm ngủ. Còn các tông đồ thì hoảng sợ cuống cuồng. Các ông còn trách móc Chúa “Thưa Thầy, chúng con chết đến nơi rồi mà Thầy không quan tâm sao?” Đức Giêsu bình tĩnh đứng dậy ra lệnh cho gió và biển, lập tức bão yên, biển lặng. Sau đó Chúa trách lại các tông đồ “Sao các con sợ hãi thế? Các con không có đức tin ư?” Qua sự kiện này, Đức Giêsu muốn chứng tỏ rằng Ngài chính là chúa tể của thiên nhiên, và mời gọi chúng ta hãy tin vào Ngài.
Thế nào là tin vào Chúa là chúa tể thiên nhiên?
- Trước hết là đừng kiêu căng: có một số người có chút ít kiến thức về khoa học, hay có được một vài công trình khoa học ứng dụng trên thiên nhiên, rồi tưởng mình đã là giỏi lắm, đã hoàn toàn điều khiển được thiên nhiên, và từ đó tự coi mình là chúa tể, phủ nhận cả Thiên Chúa. Thực ra khoa học không tạo ra thiên nhiên, khoa học cũng không sửa đổi được những quy luật điều khiển thiên nhiên. Tất cả những gì mà khoa học có thể làm được chỉ là nghiên cứu thiên nhiên có sẵn, tìm hiểu những quy luật có sẵn trong thiên nhiên, rồi ứng dụng để mưu lợi ích cho loài người. Thí dụ như khoa học làm ra được một chiếc tàu chạy trên mặt biển, thì cũng nhờ dựa vào những quy luật thiên nhiên có sẵn, như luật về sức đẩy Archimède khiến cho thân tàu có thể nổi trên mặt nước, luật về sức đẩy của gió được ứng dụng để thổi những cánh buồm v.v. Có gì là ghê gớm lắm đâu? có gì mà đã lên mặt coi mình giỏi hơn cả Thiên Chúa? Có gì mà kiêu căng?
- Thứ hai là đừng mê tín dị đoan: nếu như người kiêu căng là người quá tự phụ vì những hiểu biết khoa học của mình đến nỗi phủ nhận vai trò của Chúa, thì người mê tín dị đoan là người vì không có những kiến thức cơ bản của khoa học và của giáo lý nên không đủ tin vào Chúa mà lại tin những điều nhảm nhí. Ngày xưa vì ngu dốt nên người ta nhìn đâu đâu cũng cho là có thần: như thần sấm sét, thần gió, thần lửa, thuỷ thần, hà bá… Còn ngày nay cũng có người coi các thứ bệnh tật như là do tà ma, do quỷ ám, do bị thư, bị bùa, bị ngãi… Thực ra bệnh tật là gì? Theo giáo lý, đó là thân phận tự nhiên của loài người kể từ sau tội nguyên tổ. Còn theo khoa học, bệnh là do cô thể suy yếu mà ra. Có bệnh thì phải chữa trị bằng vệ sinh, bằng y dược, chứ không phải chỉ cầu xin, khấn vái hay uống bùa uống ngãi mà hết được, vừa không hết bệnh, lại vừa phạm tội thiếu lòng tin vào Chúa.
- Điều thứ ba để tỏ lòng tin vào Chúa là Chúa tể thiên nhiên là an tâm vui sống dưới ánh mắt Chúa Quan phòng: Chúa đã tạo dựng muôn loài, Chúa còn tiếp tục chăm sóc cho muôn loài, trong đó đương nhiên và hơn hết là loài người chúng ta. Đức Giêsu đã phán “không một sợi tóc nào trên đầu chúng con rụng xuống mà không do ý của Chúa”. Vì thế cho dù sự đời có lúc suy, cuộc đời có lúc thăng lúc trầm, nhưng nếu ta biết mọi sự đều năm trong tay Chúa quan phòng thì chúng ta hãy an tâm phó thác đời mình cho Chúa, không có gì phải sợ hãi quá “Sao các con sợ hãi thế? Các con không có đức tin ư?”
* 2. Quyền năng Thiên Chúa và phát minh khoa học.
Trong vài thế kỷ gần đây, loài người đã có nhiều phát minh khoa học rất to lớn:
- Cuối thế kỷ 19, Lilienthal làm ra chiếc máy bay có 2 cánh rộng để lượn theo chiều gió. Sau đó Ader đã cải tiến cho chiếc máy bay chạy bằng động cơ.
- Cũng trong thế kỷ 19 đó, Thomas Edison đã phát minh ra bóng đèn điện. Phát minh đó đã khiến cho người ta mừng rỡ và nhiều người đã coi ông như là Thần Ánh Sáng.
- Đến thế kỷ 20, người ta đã bước lên cung trăng và còn đang tiếp tục đi đến các hành tinh khác.
- Cách đây vài năm, người ta đã biết phương pháp “nhân bản” sinh vật (cloning), nghĩa là lấy một tế bào của một sinh vật rồi làm cho thụ tinh để sinh ra một hoặc nhiều sinh vật giống y sinh vật gốc.
- Và hiện nay người ta đang giải mã bộ gien của người và các sinh vật. Kết quả này sẽ giúp trị được rất nhiều chứng bệnh nan y.
Những thành công to lớn ấy của khoa học đã khiến cho một số người nghĩ rằng loài người có thể làm được mọi sự, không cần đến Thiên Chúa nữa… Có kẻ còn cho rằng chẳng có Thiên Chúa nữa. Có đúng như vậy không?
Xét kỹ những phát minh khoa học chúng ta sẽ nhận ra rằng loài người thực ra chẳng làm gì hơn là khám phá ra những quy luật có sẵn trong thiên nhiên và áp dụng những quy luật ấy để phục vụ cho đời sống. Chẳng hạn như những phát minh mà chúng ta vừa nói ở trên:
- Chiếc máy bay: đây không phải là sáng kiến mới mẻ gì, mà chỉ là bắt chước khả năng của loài chim thôi.
- Còn về dòng điện: cũng không phải là do con người sáng tạo ra. Điện đã có sẵn trong thiên nhiên từ khi mới có vũ trụ. Đến cuối thế kỷ 18, Benjamin Franklin mới khám phá ra nó có trong sấm sét. Về sau người ta mới đưa điện vào sử dụng trong nhiều việc.
- Và việc người ta tạo ta những bào thai trong ống nghiệm cũng không phải là vượt quyền Chúa sáng tạo nên một con người. Người ta vẫn phải dùng đến những tế bào nam nữ có sẵn và cho kết hợp trong ống nghiệm thay vì kết hợp trong bụng mẹ thế thôi.
Tóm lại, Khoa học chỉ là bắt chước thiên nhiên, làm lại những gì mà thiên nhiên đã từng làm từ ngàn triệu năm trước. Do đó, nếu ai biết nhìn xa cho tới Đấng đã sáng tạo nên thiên nhiên thì người đó càng đi sâu vào khoa học chừng nào thì càng ngưỡng mộ Thiên Chúa bấy nhiêu. Chỉ có những kẻ thiển cận mới tưởng những khám phá ấy là do chính mình sáng tạo và phủ nhận quyền năng của Thiên Chúa. Chúng ta thấy có 2 thái độ nơi những nhà khoa học: một là thái độ khiêm tốn của một nhà thiên văn kia, ông nói “Tôi đã nhìn ra Thiên Chúa qua ống kính viễn vọng của tôi”; và một nhà du hành vũ trụ khác thì ngạo mạn tuyên bố “Tôi đã bay lên tận trời, nhìn khắp nơi mà chẳng thấy có Thiên Chúa đâu cả”. Hai thái độ khác nhau ấy xuất phát từ hai lối nhìn khác nhau: một nhìn xa và một nhìn gần; xuất phát từ hai tâm trạng khác nhau: một là khiêm tốn, hai là kiêu căng.
Bài Tin mừng hôm nay giúp chúng ta xác định rõ ai là chủ thực sự của thiên nhiên: chỉ có Chúa mới là chủ thiên nhiên đích thực và đúng nghĩa. Con người chẳng làm gì hơn là khám phá những bí mật của thiên nhiên. Nếu có nói con người là chủ thiên nhiên thì chỉ là theo nghĩa con người được Thiên Chúa ban quyền quản lý thiên nhiên và ban cho những khả năng để khám phá những bí mật trong thiên nhiên ấy. Con người biết suy nghĩ chín chắn và khiêm nhường không thể nào phủ nhận vai trò của Thiên Chúa được. Con người chỉ khám phá những gì có sẵn thôi. Chừng nào con người không cần dùng tới những gì có sẵn ấy, chỉ nói một lời mà có được mọi sự (như Đức Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay chỉ phán một lời thì gió liền yên, biển liền lặng) thì khi đó con người mới có quyền tuyên bố mình là chủ thực sự của thiên nhiên.
Chúng ta phải nhìn nhận rằng khoa học kỹ thuật ngày nay đang tiến những bước thật xa thật nhanh đến nỗi có thể khiến chúng ta say sưa khâm phục. Sự say sưa khâm phục ấy có thể giúp con người suy nghĩ xa hơn, tìm đến chính Đấng là tác giả của những việc kỳ diệu ấy trong thiên nhiên. Nhưng cũng sự say sưa khâm phục ấy có thể làm choáng mắt con người khiến con người chỉ thấy tài năng của mình mà ngạo mạn phủ nhận vai trò của Thiên Chúa.
Cầu mong cho việc học hỏi tìm tòi không làm chúng ta xa Chúa nhưng khiến chúng ta càng tới gần Chúa hơn. Cầu mong cho việc học hỏi tìm tòi của chúng ta không biến chúng ta thành những kẻ kiêu căng, nhưng giúp các bạn càng khiêm nhường hơn, như lời của một danh nhân nọ “Càng học thì thấy mình càng dốt”.
* 3. Cha em là người cầm lái.
Trong một cuộc hải trình vượt Đại Tây Dương, khách du lịch đang thư thái ngắm cảnh hoàng hôn trên boong tàu. Nơi tít mù xa, mặt trời đỏ cam đang chiếu những ánh vàng cuối cùng của một ngày còn sót lại. Bỗng mây đen ùn ùn kéo tới, tối sầm cả một vùng trời. Sấm chớp đổ xuống liên hồi, giông tố cuồn cuộn nổi lên, càng lúc càng thét gào dữ dội. Mọi người trên boong chen lấn nhau chạy về phòng mình. Duy chỉ có một bé trai cứ tiếp tục chạy giỡn trên boong giữa trận cuồng phong.
- Được hỏi tại sao em không sợ hãi trước cơn giông tố?
Em thản nhiên đáp lại:
- Vì cha em là người cầm lái con tàu!
***
Giống như khách du lịch trong câu chuyện trên, các môn đệ cũng gặp một trận cuồng phong khi vượt biển. Các ngài kinh hoàng vì thấy mình sắp bị nuốt chững. Bó tay bất lực trước phong ba bão táp, các ngài đã vội đánh thức Đức Giêsu và xin Người ra tay cứu giúp: “Thưa Thầy, chúng con chết mất, Thầy không quan tâm sao” (Mc. 4,38). Người liền đe gió và phán với biển như một người bị quỉ ám: “Hãy im đi”. Tức thì sóng yên biển lặng.
Ai cũng thích sóng yên biển lặng, xuôi chèo mát mái. Nhưng cuộc đời nào mà chẳng có những cơn giông? Đại dương nào mà không có những bão tố? Tuy nhiên, chính giông tố mới giúp chúng ta nhận ra chính mình: mình còn yếu đuối và bất lực, còn nhát đảm và kém tin. Cũng chính giông tố sẽ đưa ta đến với Chúa, để ta hoàn toàn phó thác cho sự quan phòng của Người. Cũng chính giông tố sẽ giúp ta biểu lộ đức tin. Có thể nói, đức tin sẽ lớn lên ít nhiều sau mỗi lần giông tố.
Thánh Phaolô viết: “Thiên Chúa không ban cho ta một thần khí nhát sợ nhưng mạnh mẽ, bác ái và tự chủ” (2Tm.1,7), Mỗi người chúng ta không khác chi chiếc thuyền nan chông chênh giữa cơn lốc cuộc đời, khó khăn nối tiếp khó khăn. Giống như cậu bé đã tin tưởng ở cha mình cầm lái con tàu, mỗi người chúng ta cũng hãy vững tin ở Thiên Chúa tình yêu. Người sẽ hướng dẫn cuộc đời của mỗi chúng ta. Có Chúa trong đời, những cô đơn như bị xóa nhòa, những khó khăn dường như nhỏ lại, những yếu đuối như được mạnh sức. Chúng ta không cầu xin cho cuộc đời mình như biển lặng, nhưng xin cho cõi lòng chúng ta được tĩnh lặng ngay giữa lúc biển động.
Thánh Phanxicô Salêsiô dạy: “Phải ở lại trong con thuyền mà Thiên Chúa đã đặt chúng ta vào, để hành trình từ cõi đời này về chốn đời sau. Chúng ta phải sẵn sàng ở lại trong sự bình an thanh thản”.
***
Lạy Chúa, thuyền đời chúng con chẳng bao giờ được êm ả, nó chỉ êm ả khi tới bến thiên đường. Xin cho lòng chúng con luôn bình an ngay cả khi Chúa còn đang ngủ, miễn là có Chúa trong thuyền, vì Chúa chính là thuyền trưởng của đời chúng con. Amen. (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)
* 4. Vượt tầm kiểm soát
Chiều hôm ấy, Đức Giêsu và các môn đệ đi thuyền vượt biển. Một cơn bão nổi lên. Ban đầu, các môn đệ còn chèo chống và giữ được con thuyền vẫn còn đứng vững trước phong ba bão táp. Đó là tình trạng còn trong tầm kiểm soát. Khi mọi sự còn trong tầm kiểm soát nghĩa là chúng còn nằm trong khả năng xoay sở của ta. Khi đó ta rất dễ nghĩ rằng mình có đức tin. Lèo lái con thuyền đời mình cũng thế. Khi ta còn kiểm soát được những sự việc xảy ra cho đời mình thì ta cảm thấy hạnh phúc. Ta xác định những mục tiêu, ta hoạch định chương trình, ta làm chủ tình thế. Những khi đó, ta không thực sự cảm thấy cần đến Chúa.
Nhưng giông tố ngày càng lớn. Các môn đệ dù đã làm hết sức mình nhưng vẫn không giữ được con thuyền, nó sắp chìm. Các ông chợt nhận ra rằng tình thế đã vượt tầm kiểm soát của họ. Trong đời chúng ta cũng có những lúc tương tự như thế. Đó là khi ta gặp một hoàn cảnh quá khó khăn, hay khi ta bệnh nặng, ta sắp chết. Những khi đó ta thấy mình như không còn sức lực, ta hoang mang, sợ hãi. Chính những khi đó ta mới biết đức tin của mình còn quá yếu kém, thậm chí không có đức tin thực sự. Ta nghĩ rằng không có Chúa hoặc Chúa đã bỏ ta. Trong bài Tin Mừng này, các môn đệ cũng cảm thấy như thế. Họ chạy đến tìm Đức Giêsu nhưng họ thấy Ngài đang ngủ. Họ còn trách Ngài nữa.
Giữa phong ba bão táp, Đức Giêsu vẫn ngủ. Đó là dấu chỉ một đức tin vững mạnh vào Thiên Chúa. Ngược hẳn với đức tin yếu kém của các môn đệ. Khi họ kêu cầu Ngài, Ngài thức dậy, và chỉ một lời thôi, Ngài dẹp yên bão táp.
Con thuyền trong bão táp, đó là hình ảnh cuộc đời chúng ta. Nên nhớ là trong thuyền có Đức Giêsu. Mặc dù Ngài ngủ nhưng Ngài không ở xa và không bỏ chúng ta một mình. Ngài ngủ để thử đức tin của chúng ta đó thôi, để chúng ta biết được đức tin của mình đã vững mạnh hay vẫn còn yếu kém. Chỉ cần chúng ta nhớ đến Ngài, kêu xin Ngài thì Ngài sẵn sàng thức dậy và dẹp yên bão táp đang đe dọa chúng ta.
- Chuyện minh họa
a/ Câu chuyện của cây vả
Một cây vả kia đã đứng vững suốt mùa đông trước bao cơn gió mạnh. Nhưng đến đầu mùa hè, khi gặp một cơn gió trung bình thôi, nó đã ngã sập xuống. Nhiều người lấy làm lạ.
Thực ra cũng chẳng có gì lạ lắm: Trong mùa đông, cũng như hầu hết các cây khác, cây vả này bị rụng trụi lá. Gió đông có thổi đến thì cũng lọt qua các cành trơ trụi khẳng khiu của nó và bay đi. Bởi thế bao nhiều cơn gió mùa đông cũng không làm cho nó nhúc nhích. Nhưng đông tàn, xuân tới, cây vả bắt đầu đâm chồi nẩy lộc. Đến mùa hè thì cành lá đã xum xuê. Khi gió thổi đến, lá cây cản lại làm sức tấn công của gió càng mạnh hơn. Chính vì thế mà cây vả không còn đứng vững được nữa.
Câu chuyện này giúp ta hiểu thế nào là “giông tố mùa đông” và “giông tố mùa hè”. “Giông tố mùa hè” gây hại nhiều hơn “giông tố mùa đông”. “Mùa hè” nói đây là lúc cuộc đời ta đang đầy đủ, thoải mái, sung sướng.
b/ Loại máy bay đầu tiên
Ngày kia, tôi đang ngồi trong phòng, một con ruồi vo ve bay vào. Nó bay dập dờn và vù xuống ăn những thức ăn thừa….Nó làm bất cứ điều gì nó thích và bất cứ khi nào nó muốn.
Một con ruồi chỉ là một sinh vật. Nó hơn hẳn chiếc máy bay…. Nó cất cánh mà không cần chạy như máy bay. Nó đáp xuống ngay tức khắc. Nó không bao giờ rơi và không bao giờ đâm vào bất cứ vật gì hoặc gặp một tai nạn nào. Phi hành đoàn của nó không phải học cách lái hoặc kiểm tra. Nó không có những động cơ trục trặc hay hết nhiên liệu. Và hơn thế nữa: nó có thể sản xuất ra những chiếc máy bay tương tự mà chỉ cần một chút sức lực.
Thật khó có thể kiếm được một thiết bị điện tử hoặc động cơ nào sánh với tất cả những gì một con ruồi có thể làm.
Nó chỉ là một trong nhiều sinh vật của Chúa…..và cho ta thấy rằng có ai đó đã tạo ra nó.
c/ Điều huyền bí.
Một thanh niên đi du lịch tới một thành phố lớn. Đến một nhà thờ, cậu ngả mũ cung kính cúi chào. Thấy điều này, một hành khách vẻ trí thức bên cạnh cậu nhận định:
– Ồ, tôi biết bạn có đạo. Bạn học gì ở đó?
– Tôi học những điều huyền nhiệm của tôn giáo.
– Huyền nhiệm? Bạn không biết rằng chúng ta chẳng bao giờ tin những gì chúng ta không hiểu? Ít ra đó là nguyên tắc của tôi.
– Vậy anh hãy nói cho tôi biết tại sao ngón tay anh cử động khi anh ngoáy nó?”
– Nó cử động vì sự sống trong tôi làm nó cử động.
– Nhưng tại sao nó cử động?
– Vì tôi muốn thế.
– Tại sao tai của anh không cụp lại khi anh muốn?
Lúc đó cuộc đối thoại chấm dứt.
- Tin vào quyền năng Thiên Chúa
Một sinh viên y khoa người Tây Ban Nha đi viếng trung tâm hành hương kính Đức Mẹ tại Lộ Đức. Ở đại học Madrid, người sinh viên này đã từng nghe các giáo sư vô tín ngưỡng nói về Lộ Đức như xuất xứ của những thứ mê tín dị đoan vẫn còn được loan truyền đi nhiều nơi. Ba tháng ở Lộ Đức, anh muốn theo dõi việc làm của văn phòng xác minh các phép lạ xảy ra tại trung tâm này. Vậy thời gian ba tháng ở Lộ Đức, người sinh viên này đã được chứng kiến ba phép lạ. Cả ba trường hợp đều có các bác sĩ vô thần theo dõi để xác minh tính đích thực của phép lạ. hãy nghe người sinh viên này chia sẻ điều mắt thấy tai nghe về một trong ba phép lạ đó.
Tại Lộ Đức
“Hôm đó tôi đang ở tiền đường vương cung thánh đường Lộ Đức cùng với các chị của tôi hiện có đó chỉ mấy phút trước khi Kiệu Mình Thánh Chúa đi qua. Khi ấy một người đàn bà tuổi trung tuần đang đẩy chiếc xe lăn qua trước mắt chúng tôi. Một người chị tôi lưu ý chứng tôi khi nói “Kìa hãy coi cậu con trai đáng thương trên chiếc xe lăn!” Đó là một chàng trai chừng 20 tuổi bị bệnh bại liệt làm biến dạng. Mẹ của chàng khi ấy lần chuỗi to tiếng, lúc lúc lại thở dài thưa với Đức Mẹ “Lạy Đức Nữ Đồng Trinh, xin giúp đỡ chúng con!” Quả là một cảnh tượng cảm động gợi nhớ lại bệnh nhân xưa đã thưa với Đức Giêsu: “Lạy Chúa, xin cho con được sạch khỏi bệnh phong.” Người đàn bà đẩy xe lăn không muốn chậm trễ nhưng đã tới ngay chỗ những người đang chờ Đức Giám Mục rước Mình Thánh đi ngang qua.
Đã đến lúc Đức Giám Mục sắp ban phép lành Mình Thánh cho chàng thanh niên bại liệt. Khi ấy chàng thanh niên nhìn thẳng mặt nhật đựng Mình Thánh Chúa. Đó xem ra là cách anh biểu lộ niềm tin của anh. Thế rồi khi Đức Giám Mục ban phép lành với dấu thánh giá bao quát, cậu thanh niên bại liệt liền chỗi dậy, ra khỏi xe lăn, hoàn toàn khỏi bại liệt! Dân chúng liền hô to trong niềm vui: “Đó là một phép lạ! Đó là một phép lạ!”
Nhờ có giấy phép đặc biệt, tôi được chứng kiến những xác minh tiếp theo để thấy quả thật, Chúa đã chữa lành người thanh niên. Tôi không thể nào diễn tả hết được những điều tôi cảm nhận và tâm trạng tôi lúc đó. Tôi đến từ trường Y Khoa Đại Học Madrid, nơi có nhiều giáo sư vô tín (và nhiều vị nổi tiếng). Nhiều sinh viên bạn học tôi luôn nhạo báng các phép lạ. Và giờ đây, tôi được thấy tận mắt một phép lạ. Đây là một phép lạ do Đức Giêsu Thánh Thể thực hiện, cũng Đức Giêsu xưa đã từng chữa lành bao người bại liệt và bệnh nhân khác. Tôi nghiệm được một niềm vui lớn lao. Tôi có ấn tượng tôi được ở ngay bên cạnh Chúa. Khi ấy tôi cảm nhận sức mạnh vô song của Chúa và cảm thấy thế giới bao quanh tôi bỗng trở nên cực kỳ nhỏ bé. Tôi đã trở về Madrid, Tây Ban Nha. Những chồng sách, những bài học, những cuộc thí nghiệm tôi đã từng thực hiện với bao là hứng khởi nay không còn là sức nặng lôi kéo tôi nữa. Các bạn tôi hỏi tôi: “Điều gì đã xảy ra cho cậu trong niên học này vậy? Điều gì khiến cậu sững sờ?” Quả thật tôi bị sững sờ do kỷ niệm khiến tôi bị khuynh đảo mỗi ngày. Duy hình ảnh Mình Thánh Chúa được giơ lên để ban phép lành khiến cậu thanh niên bại liệt kia nhảy vọt ra khỏi chiếc xe lăn, hình ảnh ấy in sâu vào ký ức và vào trái tim tôi. Ba tháng sau đó tôi nhập Tập Viện Dòng Tên. Đó là ngày 15 tháng 1, 1927.”
Tại Nhật Bản
Chàng sinh viên ấy tên là Pedro Arrupe. Suốt đời chàng sẽ không bao giờ quên được phép lạ Chúa làm trước mắt anh. Được củng cố mạnh mẽ do phép lạ như dấu chỉ về quyền năng vô cùng của Thiên Chúa, anh sẽ không bao giờ lùi bước trên đường dấn thân phục vụ Người:
- Bị trục xuất khỏi quê hương Tây Ban Nha ngày 13 tháng 02, 1932 cùng với tất cả các tu sĩ Dòng Tên.
- Nhận thừa tác vụ Linh Mục ngày 30 tháng 7, 1936 tại Hà Lan.
- Được phái đi truyền giáo tại Nhật Bản ngày 15 tháng 10, 1938
- Phục vụ nạn nhân bom nguyên tử giáng trên Hiroshima ngày 6 tháng 8, 1945.
- Được bầu làm Tổng Quyền thứ 29 Dòng Tên ngày 22 tháng 5, 1965 sau nhiều năm làm giám đốc Tập Sinh và làm giám tỉnh Dòng Tên ở Nhật.
Quả thật phép lạ xưa cũng như nay chỉ có ý nghĩa khi là dấu chỉ về Nước của Thiên Chúa như lời Đức Giêsu tuyên bố với người Pharisêu: “Nếu tôi dựa vào Thần Khí của Thiên Chúa mà trừ quỷ thì quả là triều đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông” (Mt 12,28). Ai nhận ra dấu lạ Chúa làm cũng được thúc đẩy dấn thân hết mình để phục vụ Nước Thiên Chúa.
Câu chuyện phép lạ chàng thanh niên bại liệt được chữa lành tại Lộ Đức khiến chàng sinh viên Pedro Arrupe được hoán cải như thế nào trên con đường phục vụ Nước Chúa. Cuộc hoán cải ấy không thấm vào đâu so với cuộc hoán cải của Simon Phêrô và các bạn một khi nhận biết quyền năng của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Phục Sinh. Họ đã hy sinh cả mạng sống mình để phục vụ Nước Thiên Chúa. Họ đã thực sự trở nên giềng cột của Hội Thánh Chúa nhờ tin vào quyền năng của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu. (Lm Augustine sj, Vietcatholic 2001)
- Lời nguyện cho mọi người
CT: Anh chị em thân mến
Trong niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa là chủ tể thiên nhiên, chúng ta hãy dâng lên Ngài những lời cầu xin của chúng ta:
- Hội Thánh có sứ mạng rao giảng cho mọi người nhận biết Thiên Chúa là chủ tể của thiên nhiên. Chúng ta hiệp lời cầu xin cho nhân loại đón nhận lời rao giảng của Hội Thánh.
- Khoa học kỹ thuật ngày nay rất tiến bộ, phát minh ra nhiều điều kỳ diệu. Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những phát minh đó không làm cho loài người kiêu căng chối bỏ Chúa, trái lại giúp loài người càng nhận biết và khâm phục Chúa hơn.
- Mặc dù y học đã tiến bộ rất nhiều, nhưng cũng đành phải bó tay trước cái chết, nghĩa là không thể làm cho con người thành bất tử được. Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những người mang những chứng bệnh ngặt nghèo và nhất là những người hấp hối, để họ biết bình an phó thác mạng sống của mình trong tay Chúa.
- Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta thực sự là một cộng đoàn đức tin, một cộng đoàn phượng tự, nghĩa là luôn tin tưởng vào Chúa và thờ phượng Chúa như chủ tể mọi loài.
CT: Lạy Đức Giêsu, ngày xưa Chúa đã trách các môn đệ rằng “Sao các con sợ hãy thế? Các con không có đức tin ư?”. Ngày nay cũng vì thiếu đức tin mà chúng con phải sợ hãi nhiều điều. Xin Chúa ban thêm đức tin cho chúng con, để trong mọi hoàn cảnh chúng con biết hoàn toàn cậy dựa vào Chúa và phó thác trong tay Chúa. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời. Amen.
- Trong Thánh lễ
Trước kinh Lạy Cha: Chúng ta có một người Cha “ở trên trời”, nghĩa là một người Cha uy quyền, làm chủ mọi loài mọi vật. Chúng ta hãy tin tưởng cầu nguyện với Ngài.
Chúc bình an: Chúng ta hãy chúc cho nhau được bình an, bình an vì biết mình đang sống trong vòng tay yêu thương của Chúa.
VII. Giải tán
Cuộc sống ví như một cuộc đi thuyền giữa biển cả cuộc đời nhiều phong ba bão táp. Nhưng có Chúa trên thuyền thì mọi sự đều bình an. Chúng ta hãy trở lại cuộc sống với tâm tình trông cậy phó thác tất cả trong tay Chúa. Chúc anh chị em luôn bình an.
Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay cho chúng ta thấy các tông đồ đang ở vào một tình thế tuyệt vọng. Lời van xin của họ dường như bị sóng biển vùi lấp:
- Lạy Thầy, xin cứu chúng con.
Chúa Giêsu rất có thể lên tiếng trách cứ các ông:
- Bộ các con không hiểu rằng bao lâu Thầy còn ở với các con, thì không một tai ương hoạn nạn nào có thể xảy ra.
Thế nhưng lời van xin ấy lại rất bình thường và gần gũi với bản tính của chúng ta. Lời van xin xuất phát từ trái tim của một tạo vật nhỏ bé, như muốn xác quyết rằng: Vấn đề thật vô phương cứu chữa, chỉ mình Chúa mới có thể giúp đỡ.
Thế nhưng ngày hôm nay, liệu chúng ta có còn tìm thấy những lời van xin đầy tin tưởng và hy vọng như thế hay không? Nếu chúng ta hỏi những người lính chiến rằng: Vào những lúc nguy hiểm có bao giờ các bạn đã nghĩ tới Chúa và xin Ngài giúp đỡ hay không. Hầu như tất cả đều trả lời rằng không.
Nếu chúng ta hỏi những người lái xe rằng khi xảy ra tai nạn có bao giờ các bạn nghĩ tới đời sau và xin Chúa phù trợ hay không. Hầu như tất cả đều trả lời rằng không.
Chiếc tàu Dora với một ngàn bảy trăm hành khách, chẳng may gặp nạn và chìm dần xuống biển, người ta đã ghi nhận được một cảnh tượng thật trái ngược trong thời điểm hoảng hốt đó. Các cô thì lo giữ lấy đôi giày của mình. Các bà thì lo giữ lấy những bộ áo của mình. Các ông thì lo giữ lấy ví tiền của mình. Chỉ có một em bé năm tuổi là đã quỳ gối cầu nguyện.
Ngay cả bản thân chúng ta cũng thế. Mỗi khi gặp phải tai ương hoạn nạn, chúng ta vùng vẫy, chúng ta kêu gào, chúng ta làm mọi cách để thoát khỏi tai ương hoạn nạn ấy, nhưng lại không biết mở miệng kêu xin:
- Lạy Chúa, xin Chúa cứu giúp con kẻo con chết mất. Chỉ mình Chúa mới có thể bảo đảm cho con được an toàn.
Chúng ta cũng giống như dân ngoại. Chẳng tìm thấy hướng đi cũng như ánh sáng cho cuộc đời chúng ta. Ngày xưa mỗi khi mất mùa đói kém giặc giã xảy ra, người ta kêu cầu Chúa:
- Lạy Chúa xin giúp đỡ con.
Người ta tổ chức những cuộc rước kiệu, những cuộc hành hương để kêu cầu Chúa. Còn chúng ta ngày hôm nay thì sao?
Ngày hôm nay, người ta có rất nhiều phương tiện, chẳng hạn như thuốc trụ sinh, công ty bảo bảo hiểm, và người ta cảm thấy không còn cần đến sự trợ giúp của Chúa nữa. Và tệ hơn nữa, người ta muốn trục xuất Thiên Chúa ra khỏi những sinh hoạt cá nhân và xã hội. Người ta muốn thay trời vắt đất làm mưa. Người ta sống như không còn sự hiện diện của Ngài nữa.
Từ những điều vừa trình bày chúng ta đi tới kết luận: Bao lâu Chúa Giêsu còn ở trong chúng ta thì không một tai nạn nào có thể xảy ra. Tuy nhiên con người thời nay lại không hiểu là như thế. Do đó, vấn đề cần phải đặt ra cho mỗi người, đó là Chúa Giêsu có thực ở trong thuyền đời chúng ta hay không. Tôi đã phản ứng và hành động như thế nào trong những hoàn cảnh đen tối. Tôi có biết hướng tới Chúa và xin Ngài giúp đỡ hay không? Đó là những câu hỏi mà mỗi người chúng ta phải tự tìm lấy lời giải đáp.
18. Tin cậy Thiên Chúa toàn năng
MINH HỌA LỜI CHÚA
- Bám sát vào Chúa
Blondin là một tay xiếc nổi danh. Ông đi nhiều lần trên sợi dây căng qua thác Niagara độ cao khoảng 500 thước, tay đẩy chiếc xe cút kít. Ngày nọ ông mời ai dám ngồi trên xe đó, để ông đẩy qua sợi dây căng. Nhiều người muốn nhưng không ai dám, vì sợ té xuống thác nước là chết. Sau cùng có người chấp nhận. Ông liền cho anh ngồi trên xe và đẩy đi. Trong khi đó nhiều người đánh cá với nhau. Thấy ông ta đi được nửa đường cách dễ dàng, người đánh cá nhiều tiền sợ bị thua nên lén cắt đức một sợi trong số các dây căng. Tức thì dây căng rung chuyển dữ dội. Ông Blondin biết nguy hiểm sắp đến, nên bảo người trong xe:
- Hãy đứng dậy và bám sát vào tôi.
Nhưng người đó quá sợ hãi, không dám làm theo lời ông. Ông liền ra lệnh:
- Hãy đưa hai tay ôm cổ tôi, hai chân kẹp vào hông tôi, bằng không, chúng ta sẽ ngã xuống thác nước mà chết.
Người đó liền bám chặt vào ông. Và ông đã đưa anh ta qua bờ bên kia an toàn…
***
Câu chuyện trên minh họa Lời Chúa trong Tin mừng hôm nay tuyệt vời. Lúc các tông đồ trên thuyền sang biển hồ, thấy sóng to gió lớn thì sợ chết, kêu cầu Chúa, Chúa phán một lời biển yên gió lặng.
Tin cậy vào quyền năng Chúa là bám sát vào Chúa mỗi khi gặp gian nan thử thách. Tin cậy vào quyền năng Chúa là biết kêu cầu Chúa cứu giúp mỗi lần gặp sóng to gió lớn, để Người dẫn dắt chúng ta qua bờ bên kia.
Nói “tin cậy vào quyền năng Chúa” rất dễ, ai nói cũng được. Nhưng có mấy ai không nhát đảm sợ sệt khi để cho Người đưa qua biển cả sóng to gió lớn của cuộc sống như người để cho ông Blondin dẫn đi trên sợi dây căng qua thác Niagara. Chúa Giêsu đã trách các môn đệ: “Sao nhát thế? Làm sao mà anh em chưa có lòng tin?” Các môn đệ hoảng sợ vì “chưa có lòng tin”, còn chúng ta thì sao?… (Theo “Chuyện hay ý đẹp”).
- Cha tôi là người cầm lái
Người ta tổ chức cuộc du lịch xuyên qua Đại tây Dương.
Trong lúc tàu chạy yên hàn, mọi người ra bong tàu khoan khoái nhìn ngắm cảnh hoàng hôn tươi thắm. Bỗng sóng to gió lớn nổi lên làm cho chiếc tàu nghiêng ngửa dữ dội. Mọi người hoảng sợ chạy vào phòng, duy chỉ còn một cậu trai vẫn tiếp tục ở lại xem cảnh. Thấy vậy, nhiều người lo sợ nguy hiểm cho em, nên gọi em vào phòng trú ẩn, nhưng em không vào. Được hỏi tại sao em không sợ hãi trước cơn giông tố hãi hùng như thế. Em thản nhiên trả lời:
- Vì cha tôi là người cầm lái con tàu.
***
Như khách du lịch sợ hãi trên tàu khi phong ba bão táp, trong Tin mừng hôm nay chúng ta cũng thấy các tông đồ khiếp đảm sợ chết trong trận cuồng phong khi vượt biển hồ. Cùng ở trong thảm cảnh đó, cậu trai thản nhiên không sợ, vì “cha em là người cầm lái con tàu, còn các Tông đồ khiếp vía, đang khi có Chúa Giêsu ở bên các ông. Thế nên Chúa quở các ông: “Chưa có lòng tin” là đáng.
“Ai cũng thích sóng biển yên lặng, xuôi chèo mát mái. Nhưng cuộc đời nào mà chẳng có những cơn giông tố? Đại dương nào mà chẳng có những cơn sóng to? Chính giông tố mới giúp chúng ta nhận biết bất lực yếu đuối, nhát đảm kém tin của chúng ta. Chính bão tố mới đưa chúng ta đến với Chúa, tin tưởng phó thác vào quyền năng cao cả của Người. Và chính nhờ bão tố của cuộc đời, mà lòng tin cậy của chúng ta sẽ lớn lên, sẽ vững vàng, sẽ kiên cố…” (Theo “Như Thầy đã yêu”).
- Tin nhưng không dám theo
Nhà làm xiếc thời danh Blondin đã băng qua thác nước Niagara trên dây căng nhiều lần mà không cần dùng lưới an toàn. Ngày nọ, đông đảo dân chúng đến xem cuộc thử nghiệm nguy hiểm nhất của ông. Ông tuyên bố vừa đi trên dây căng vừa đẩy chiếc xe cút kít chở một bao xi măng nặng trên sợi dây căng đó, để đi từ bờ vực này sang bờ vực bên kia thác nước. Lúc ông bắt đầu đi như thế, mọi người nín thở theo dõi nhưng ông cứ bình tĩnh đẩy xe đi, bất chấp tiếng gầm thét của thác nước dưới chân ông. Khi ông sang đến bờ bên kia, mọi người đều thở phào và reo vang:
-Thật là một kỳ công!…
Ông Blondin mới hỏi một phóng viên gần đó:
-Anh có tin rằng: thay vì chở một bao xi măng, tôi có thể chở một người trên xe cút kít này, đi sang bờ bên kia thác nước mà không cần giăng lưới an toàn không?
-Tôi tin! Tôi tin chớ.
Ông Blondin liền nói:
-Vậy tôi xin mời anh ngồi vào.
Anh phóng viên xanh mặt, vội vàng biến mất trong đám đông.
***
Tin Thiên Chúa quyền năng là một việc, nhưng sống đức tin ấy lại là việc khác. Có người nói tin Thiên Chúa toàn năng nhưng không đi theo Chúa, mà theo ma quỷ xác thịt thế gian, theo của cải danh vọng, lạc thú ở đời.
Thánh Phaolô khuyên bảo chúng ta: Anh em hãy mặc lấy tâm tình của Đức Kitô, hết lòng tin kính Thiên Chúa là Đấng toàn năng, để anh em đứng vững trong mọi nghịch cảnh và thử thách, để Người cứu giúp anh em mỗi khi gian nan khốn khó, để Người đưa tay hùng mạnh của Người nắm lấy anh em, khi anh em gặp sóng to gió lớn trong cuộc đời.
Phải chăng thánh Phaolô mời gọi chúng ta noi gương các tông đồ trong Tin mừng hôm nay? Các ông thấy “trận cuồng phong nổi lên sóng ập vào thuyền, đến nỗi thuyền đầy nước gần chìm”. Các ông kêu lên Chúa Giêsu: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi” Người ngâm đe gió và truyền cho biển: “Im đi! Câm đi!”. Gió liền tắt và biển lặng như tờ” (Mc.4,38-39) (Theo “Chuyện hay ý đẹp”).
- Người này là ai?
John Newton là thuyền trưởng chiếc tàu buôn nô lệ từ Phi châu đến Mỹ châu. Cậu không bao giờ nghĩ đến việc buôn bán nô lệ là đúng hay sai, là tốt hay xấu; cậu chỉ làm việc để kiếm tiền, để xài phí cho thỏa thích thôi.
Một đêm nọ, cơn bão dữ dội xuất hiện trên mặt biển. Sóng dâng cao như thác núi xô đẩy và quay vòng chiếc tàu của cậu. Cậu và mọi người trong tàu đều kinh khiếp! Lúc đó cậu lại buột miệng cầu xin. Điều mà cậu chưa bao giờ làm. Cậu kêu to: “Lạy Chúa, xin thương cứu vớt chúng con. Con nguyện sẽ mãi làm nô lệ cho Ngài”. Chúa đã nhận lời cậu cầu xin. Khi được vào bờ, cậu đã giữ lời hứa: bỏ nghề buôn bán nô lệ, và sau đó cậu đi tu, trở thành nhà truyền giáo và soạn thánh ca trứ danh.
***
Câu chuyện trên đây có nhiều điểm tương tự với diễn biến bài Tin mừng hôm nay.
Như Newton, các tông đồ cũng gặp bão tố dữ dội. Các ngài đã kêu cầu Chúa và Chúa cũng đã cứu giúp; và như Newton, các ngài cũng biến đổi: từ những kẻ “chưa có lòng tin” trở thành những người hoàn toàn tin tưởng phó thác vào quyền năng vô cùng của Chúa; “Các ông hoảng sợ và nói với nhau: Vậy người này là ai? Mà cả đến gió và biển cũng phải tuân lệnh?” (Mc.4,41).
“Người này là ai?” Đây là câu hỏi quan trong. Và câu trả lời nằm ngay trong bài đọc thứ nhất, khi ông Gióp đau khổ kêu xin Chúa cứu giúp. Đặc biệt câu trả lời ở trong bài Tin mừng hôm nay, khi Chúa Giêsu thực thi quyền năng của Người trên sóng gió: “Im đi! Câm đi! Gió liền tắt, và biển lặng như tờ”.
Như thế, câu chuyện bão biển trong Tin mừng đã trả lời cho chúng ta câu hỏi: “Ông này là ai?” “Là Con Thiên Chúa toàn năng. Tin cậy phó thác vào Người sẽ được Người giải thoát khỏi mọi sự dữ phần hồn phần xác”. (Theo “Sunday Homilies”).
(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển)
MUỐN CÓ ĐỨC TIN MẠNH – CẦN PHẢI THỬ THÁCH
Tin Mừng Lc 1: 57-66.80: Người tài là người được lớn lên trong thử thách. Người có đức là người biết vượt qua thử thách, trung thành và can đảm trong lòng mến.
Có một câu chuyện kể rằng: đêm nọ, có một người thấy giấc mơ lạ. Anh ta thấy mình đang đi trên bãi biển với Chúa. Những lúc vui, thành công, anh thấy có hai đôi chân in trên cát, một của Chúa và một của anh. Nhưng lúc anh gặp khó khăn, đau buồn thì khi nhìn lại, anh chỉ còn thấy một đôi chân! Anh trách Chúa rằng: “Tại sao những lúc khó khăn, thất bại, Chúa lại bỏ con?” Chúa trả lời: “Ta không bỏ con đâu, vì những lúc đó, Ta đã cõng con trên vai, vì thế, con chỉ còn thấy có một đôi chân của Ta nữa mà thôi”.
Hôm nay, thánh sử Máccô thuật lại câu chuyện Đức Giêsu và các môn đệ gặp phải sóng gió trên biển hồ. Ngay trong lúc gặp sóng gió, Đức Giêsu vẫn ngủ yên, còn các môn đệ thì vất vả vì chèo trống. Sứ điệp Tin Mừng chỉ bắt đầu có ý nghĩa lớn khi các ông trách Thầy của mình vô cảm trước sự vất vả của các ông, và, ngược lại, Đức Giêsu quở trách các ông kém lòng tin và ra lệnh dẹp yên bão tố, ban lại sự bình an cho mọi người trên thuyền.
- Địa lý của Biển Hồ Galilê và nỗi hoang mang sợ hãi của các môn đệ
Để thấy được nỗi sợ hãi của các môn đệ và quyền năng của Đức Giêsu, chúng ta cùng nhau tìm hiểu đôi nét về Biển Hồ này để thấy được đâu là nguyên nhân dẫn đến trận cuồng phong dữ dội như vậy.
Khi nói đến biển hồ, chắc có lẽ nhiều người trong chúng ta nghĩ ngay đến độ rộng lớn, mênh mông, nhìn không thấy bờ…. Tuy nhiên, với Biển Hồ Galilê lại hoàn toàn khác! Khác ở chỗ Biển Hồ này chỉ vỏn vẹn 21km chiều dài và 13km chiều rộng. Địa thế nằm ở thung lũng vùng Giodan do một vết nứt sâu trên mặt đất, có thể do núi lửa tạo nên! Biển Hồ Galilê là một phần của vết nứt đó.
Nó thấp hơn mặt biển 210 mét, vì thế, khí hậu rất ấm áp và dễ chịu, nhưng cũng tạo nên tiền đề cho những nguy hiểm bất ngờ ập đến. Lý do: bên phía tây có núi non cao hiểm trở kết hợp với thung lũng và nhiều khe suối. Vì thế, khi có gió nổi lên, thì khu vực trũng của Biển Hồ này giống như cái phễu lớn thu hút những làn gió từ trên cao và nơi các khe suối thổi về. Gió bị dồn nén trong đó và thổi mạnh xuống hồ cách bất thình lình như vũ bão, khiến mặt hồ đang phẳng lặng, bỗng chốc trở nên hung thần, dữ tợn và có thể vùi lấp mọi thứ trên mặt hồ.
Khi các môn đệ và Đức Giêsu có một chuyến vận hành trên Biển Hồ Galilê sau một ngày làm việc mệt nhọc để sang bờ bên kia thì cũng là lúc trận cuồng phong ập tới. Các môn đệ của Đức Giêsu là những nhà ngư phủ chuyên nghiệp và hẳn các ông có rất nhiều kinh nghiệm trong việc chống chọi với những bất trắc xảy ra trên biển, thế nhưng, trận cuồng phong hôm nay vừa bất thình lình vừa vượt quá khả năng của các ông, nên họ rất hốt hoảng, lo sợ và kêu la ầm ĩ: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?” (Mc 4, 38). Câu nói này chứng tỏ cho thấy sự nguy hiểm đã lên tới tột độ và vượt sức cũng như kinh nghiệm của các ông. Ngay sau đó, sự nguy hiểm của Biển Hồ và nỗi lo sợ của các ông đã động đến lòng trắc ẩn của Đức Giêsu, vì thế, Ngài đã truyền lệnh dẹp yên bão tố qua lời nói: “Im đi! Câm đi! ” ‘Gió liền tắt, và biển lặng như tờ’” (Mc 4, 39), khiến các ông không khỏi ngỡ ngàng là bảo nhau: “Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?” (Mc 4, 41).
- Có Chúa, chúng ta sẽ sang “bờ bên kia” cách an toàn
Từ câu chuyện Tin Mừng trên, liên tưởng đến đời sống đức tin của chúng ta: Trong cuộc sống đời thường, người ta thường nói: tư cách thật của một con người chỉ được bộc lộ thật khi gặp gian nan. Lúc bình thường thì ai cũng như ai, khó thấy được tư cách ấy.
Đức tin của mỗi người cũng thế. Muốn biết ai vững vàng trong đức tin phải đợi tới lúc đức tin đó chịu thử thách. Điều này cho thấy, “lửa thử vàng, gian nan thử đức”. Chỉ khi gặp khó khăn, bất trắc, lúc ấy mới có thể lượng định được phẩm chất của đức tin.
Khó khăn, trở ngại là một thứ “kiểm tra chất lượng”. Có kiểm tra thì mới thấy cái gì tốt, cái gì xấu, cái gì thật, cái gì giả.
Một mẫu số chung cho nhiều người, đó là: đức tin phải được rèn luyện, gọt giũa để đứng vững trước mọi thử thách, giông tố của cuộc đời. Khi có được nền tảng này, lúc gặp thử thách, chúng ta sẽ can đảm, trung thành, vững vàng hơn. Sẵn sàng đối phó với chúng và cậy trông vào Chúa Quan Phòng. Lúc đó, chúng ta sẽ coi những thử thách ập đến là điều kiện cần thiết để thanh lọc những thứ không phù hợp với giá trị Tin Mừng, nó giống như: “Bão tố quật ngã cây cối, bẻ gẫy cành khô, cành sâu. Nhưng không thể nhổ được cây thánh giá đã cắm vào lòng đất. Đừng tiếc những cành kia, dù không gió cũng gẫy, không gẫy cũng phải chặt vì nó làm hại” (ĐHV. số 691), có thế, mới có những cành cây khác trưởng thành hơn khi chúng đủ sức mạnh đâm trồi nảy lộc.
Từ những nguyên lý trên, chúng ta liên tưởng đến đời sống hôn nhân của người Công Giáo. Lúc mới cưới, ai dám nói là mình không chung thủy! Lúc du ngoạn tuần trăng mật, ai dám bảo mình không vui và hạnh phúc! Chỉ khi nào ốm đau, bệnh tật, thất bại trong công việc, thiếu sự chung thủy, lúc đó mới thực sự có vấn đề! Hay trong đời sống đạo đức cũng thế: lúc xin gì được đấy, hay xin một được mười, đâu cần ai phải nhắc đi lễ, đọc kinh hay chia sẻ bác ái! Chỉ khi xin hoài không được, làm ăn thất bát, lúc đó có đẩy cũng không đi. Hoặc trong đời tu cũng thế: mới khấn, mới chịu chức, sức khỏe dồi dào, chúng ta giống như những vị thánh. Tuy nhiên, lâu ngày, giá trị và ý nghĩa đời dâng hiến bị nhạt phai, sự hiểu lầm, cô đơn, đau bệnh, việc phụng vụ nhàm chán, lúc ấy mới thực sự thấy con người thật của chúng ta. Những trạng thái này, một lần nữa sách Đường Hy Vọng có viết: “Đường con đi, có hoa thơm, cảnh đẹp, có chông gai, có hùm beo, có bạn hiền, có trộm cướp, lúc mưa sa, lúc nắng cháy, chuyện không thể tránh được. Con cứ đi, miễn lòng con đầy Chúa, đi như Phanxicô, như Cyrillô, Athanasiô… đừng mất thì giờ đứng lại, đừng sợ tiếng chửi, đừng ăn mày tiếng khen” (ĐHV. số 693).
Nếu không bền chí cũng như đức tin mạnh thì không phải là người tài đức song toàn. Người tài là người được lớn lên trong thử thách. Người có đức là người biết vượt qua thử thách, trung thành và can đảm trong lòng mến.
Giuđa và Gioan chỉ khác nhau ở lòng mến mà thôi. Trong tâm hồn chúng ta cũng vẫn còn đó hai hình ảnh và hai lối sống lẫn lộn: Gioan và Giuđa. Bao lâu chúng ta còn yêu mến, sẵn sàng hy sinh, kiên trung, bền chí, và hy vọng, ấy là dấu chỉ ta theo Gioan để đi trọn con đường tình yêu dưới chân thập giá. Còn giờ phút nào chúng ta nhát đảm, sợ sệt, ham tiền, ham danh, ấy là lúc chúng ta đã chọn Giuđa làm quan thầy và thắp hương tôn thờ vị “quan thầy phản bội”.
Cần xác tín rằng: Chúa vẫn còn đó. Ngài không bỏ chúng ta. Ngài sẽ lên tiếng, can thiệp, làm sóng gió im lặng, trả lại cho chúng ta niềm hy vọng, qua đó, ta và Ngài, cả hai cùng “sang bờ bên kia” được trọn vẹn trong bình an.
Lạy Chúa Giêsu, con thuyền của cuộc đời chúng con luôn gặp phải những sóng to vũ bão của tội lỗi, hưởng thụ, trụy lạc và những chân lý nửa vời, khiến đôi khi cuộc đời chúng con bị nước ập đầy thuyền làm cho đức tin bị lung lay và tưởng mình đơn côi giữa dòng đời. Xin Chúa ban cho chúng con đức tin mạnh mẽ và xác tín chắc chắn rằng: Chúa luôn còn đó trên con thuyền cuộc đời của mỗi người, để chúng con vững tin bám chặt lấy Chúa. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Hai từ “chất vấn” xem ra ít gây thiện cảm hơn là các từ “hỏi” hay là “đặt vấn đề”. Dù là đặt vấn đề hay đặt câu hỏi hay chất vấn thì mục đích nhắm đều là để được sáng tỏ một vấn đề nào đó mà người chất vấn chưa nắm rõ hay chưa đồng thuận. Dĩ nhiên ở các xã hội độc tài, chuyên chế thì ít có ai dám to gan chất vấn người cầm quyền, vì sợ mang vạ vào thân. Lại có những thể chế muốn chứng tỏ rằng có sự dân chủ nên “cho phép” người ta chất vấn nhưng thực chất vẫn không muốn người bị trị có quyền chất vấn.
Nhân dịp mẹ Hội Thánh dọn cho đoàn tín hữu bài đọc thứ nhất và bài Tin Mừng trong Chúa Nhật XII TN B, xin đặt câu hỏi làchúng ta có được phép chất vấn Thiên Chúa không? Một trận cuồng phong trên biển cả xem ra là chuyện thường tình của giới tự nhiên. Thế nhưng, khi gió lớn, sóng to ập vào thuyền của tôi, thì đó không còn là chuyện bình thường. Những tai ương, hoạn nạn, dịch bệnh do thiên tai hay do nhân họa vẫn mãi là những sự dữ đối với những người trực tiếp hay gián tiếp gánh chịu. Chúng ta có quyền hỏi Thiên Chúa không hay chúng ta có nên đặt vấn đề không, nhất là những vấn đề liên quan đến sự dữ?
Trước vấn nạn sự dữ thì dường như không chỉ khó hiểu mà còn khó chấp nhận. Người làm sự lành mà phải gánh sự dữ thì vẫn có đó trước mắt chúng ta, không riêng gì mình ông Gióp thuở nào. Về vấn đề này, sách Gióp và Cựu ước nói chung, thường có câu trả lời rằng như chiếc bình sànhkhông thể và không có quyền chất vấn người thợ gốm, thì con người trong kiếp thụ tạo hữu hạn không có quyền chất vấn Thiên Chúa, Đấng dựng nên vũ trụ vạn vật, dựng nên con người từ hư vô. Ông Gióp cuối cùng đã biết phận để rồi “lấy tay che miệng” (x.G 40,4) và “xin rút lại những gì đã nói” (x.G 42,6).
Tân ước lại cho chúng ta một cái nhìn có vẻ như ngược lại nhưng thực ra là bổ túc, là hoàn thiện cái nhìn của Cựu ước. Đến thế gian, Chúa Kitô không ngại ngần trước các vấn nạn người ta đặt ra. Người còn gợi ý để cho các môn đệ chất vấn bằng việc đặt câu hỏi trước. “Người ta bảo Con Người là ai?… Còn các con, các con bảo thầy là ai? (Mt 16,13). Cáctông đồ, các môn đệ đã không ngại ngần “chất vấn” Thầy chí Thánh. “Thầy ơi, chúng ta chết mất, Thầy chẳng lo gì sao?” (Mc 4, 38). Chúa ơi, Chúa ở đâu khi con đang trong cảnh khốn cùng? Con biết Chúa không vui thích gì khi con người phải khổ, phải chết, thế mà sao cái khổ, cái chết vẫn mãi đe dọa chúng con? Saocon làm người trong cái hình hài này, ở một thời đại, một hoàn cảnh không chút gì thuận lợi? Tại sao những người độc tài, độc quyền, độc ác cứ mãi nhởn nhơ trong nhung lụa? Nhiều câu hỏi tại sao thỉnh thoảng lại đến mà như không có lời giải đáp, đúng hơn là khó làm thỏa lòng thỏa trí chúng ta.
Điểm tới của những lời chất vấn là lòng tin. “Anh em vẫn chưa có lòng tin sao?” Dù như khiển trách, nhưng Chúa Giêsu đãbiết các môn đệ vốn có lòng tin vào Người nhưng lòng tin ấy đang còn non yếu. Không tin vào Thầy thì cớ sao các ngài lại đánh thức Thầy dậy để xin cứu giúp. Đức tin không phải là một thực tại đã hoàn thành mà là một quá trình dấn thân. Niềm tin của Kitô hữu là tiến trình bước theo Đức Kitô. Tiến trình ấy không luôn trơn tru, thẳng tắp, kiểu thuận buồm xuôi gió. Có khi chững lại vì gặp vật cản, có khi chệch hướng, thậm chí có lúc bị giật lùi. Những câu hỏi, những lời chất vấn xuất hiện là một trong những động lực hay là cách thế để ta vượt qua vật cản, chỉnh hướng và tiến lên. Như thế, các câu hỏi hay những lời chất vấn trở thành một phương thế củng cố niềm tin, thanh luyện đức tin.
Ðức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI thời làm HồngY đã từng khẳng định: “Chúng ta đã học biết, đã sống, và đáng khác chúng ta đã thấy đức tin được xây dựng hết sức hoàn hảo và được hệ thống hoá quá đáng, tới độ người ta không còn dễ dàng đến được với đức tin nữa. Vậy tôi nghĩ rằng chúngta cần một thứ cách mạng đức tin, theo một nghĩa phức hợp. Trước hết chúng tacần đến một cuộc cách mạng này để có được lòng can đảm nói ngược lại với những xác tín tổng quát” (Muối cho đời – trang 42). Khi trên ngai giáo hoàng, mở đầu cho tập sách “Đức Giêsu thành Nagiarét”, ngài cũng thẳng thắn và sẵn sàng đón nhậnnhững ý kiến “chống lại” những “tìm hiểu” của ngài về “diện mạo của Chúa”(x. Phần I – trang 31).
Chúa Kitô không ngần ngại trước những lời chất vấn của người Do Thái và các câu hỏi của các môn đệ, vì nhờ chúng mà căn tính và sứ mạng của Người ngày càng được tỏ bày, và qua đó đức tin của nhiềungười được hình thành và vững mạnh. Quả thật, chẳng có ai dám to gan cho rằng mình đã nắm trọn chân lý hay đã vững vàng trong đức tin. Thế mà đã có lúc chúng lại ngại ngần và có khi lại sợ người đồng đạo, sợ người “ngoại đạo” chất vấn niềm tin của chúng ta. Cần thú nhận rằng chính chúng ta cũng rất ngại ngùng chất vấn niềm tin của mình, đúng hơn là đặt vấn đề về một vài nội hàm của đức tin vì sợ rằng sẽ có nguy cơ lạc đạo hay bị gán ghép là rối đạo. Trong tình bạn thì các câu hỏi hay những lời chất vấn là chuyện thường tình như lẽ đương nhiên. Chúng chỉ là bất thường trong mối quan hệ chủ tớ. Chúa Kitô đã khẳng định Người không muốn chúng ta làm người tôi tớ mà là bạn hữu (x. Ga 15,15).
Chúa Kitô mãi là dấu hỏi cho con người đến tận cùng lịch sử. Hiện nay, chúng ta chỉ thấy lờ mờ như trong gương, sau này chúng ta sẽ thấy Người như chính Người là. Ngưòi thế nào, chúng ta sẽ thấy như vậy (x.1Cor 13,12). Chính vì thế, vị trí, vai trò của những câu hỏi luôn còn đó. Và một trong những vai trò chính yếu của chúng là dẫn chúng ta đến với niềm tin. Mỗi khi chúng ta không còn biết đặt vấn đề thì rất có thể là chúng ta đang ở trong tình trạng “cuồng tín” hay là vô tín. Khi chúng ta ngần ngại tha nhân đặt vấn đề hay chúng ta thấy khó chịu khi tha nhân, khi người dưới quyền chất vấn chúng ta thì có lẽ chính chúng ta đang có vấn đề. Một trong những vấn đề thật khó chối cãi, đó là chúng ta chưa thực sự tin vào sự ngay chính của bản thân hay của công việc mình đang thực hiện. Và một điều khá chắc chắn nữa, đó là người ta cũng chưa tin vào chúng ta. Mong sao những lời sau đây của ngài Hồng Y J.Ratzinger mà nay là Đức Bênêđictô XVI có điều kiện thành hiện thực: “Chúng ta phải có can đảm đứng lên chống lại cái được coi như chuẩn mực cho conngười vào cuối thế kỷ XX này, và tái khám phá đức tin nguyên tuyền” (Muối cho đời – trang 43).
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ – Charles E. Miller)
AI CÓ THỂ TRỞ NÊN MỘT NGƯỜI NHƯ THẾ?
Chiếc tàu Titanic được chào hàng như một chiếc tàu không bao giờ chìm. Và sau đó là đụng một tảng băng ngay trong cuộc hành trình đầu tiên của nó, chiếc Titanic đã chìm xuống đáy của Đại Tây Dương với hầu hết những người đi trên con thuyền đó trong vài phút. Đại dương quyền năng hơn bất cứ một con tàu nào, đã nuốt trọn con tàu Titanic giống như nó đã nuốt một hộp cá mòi vậy.
Đó là một mầu nhiệm sâu xa về biển cả, và đó không có gì là ngạc nhiên về quyền năng của nước được xem là một thuộc tính của thần linh. Trong sách Gióp chính Thiên Chúa đã làm chứng về quyền năng thần linh của Ngài, bằng việc biểu dương quyền năng của Ngài là chủ tể của nước sâu. Những tông đồ là những người đánh cá, hơn ai hết họ không cần ai nói cho họ biết về việc phải sợ hãi cái vẻ bề ngoài đáng sợ của biển Galilê. Thình lình, tai họa có thể xảy ra một cách bất thường. Biển thì ở 685 bộ bên dưới mực nước biển và bao quanh bởi những ngọn núi. Với một làn không khí lạnh thổi xuống từ những ngọn núi hầu như nhanh chóng biến đổi làn nước đại dương thành những con sóng nguy hiểm cao đến bảy hoặc tám bộ.
Thật chính xác những gì đã xảy ra vào buổi chiều hôm đó, khi Chúa Giêsu vào thuyền của các môn đệ ở trên biển Galilê. Đó giống như một ngày của sáng tạo, những yếu tố tự nhiên đang chờ đợi khoảnh khắc khi mà Chúa là chủ tể của chúng xác quyết quyền năng và tỏ hiện sự thần linh của Ngài. Sau khi Chúa Giêsu làm cho biển bình yên bởi những lời của Ngài, các tông đồ đã kinh ngạc hỏi nhau rằng: “Người này là ai mà làm cho gió biển phải vâng lời?”
Gió và biển đã biết Chúa Giêsu là ai và cả chúng ta cũng như thế. Chúng ta có thể trả lời cho câu hỏi của các tông đồ. Nếu chúng ta không có đức tin, chúng ta xem Người một cách giới hạn bởi xét đoán của con người nhưng bởi đức tin mà chúng ta nhận biết rằng Chúa Giêsu là Chúa, là Đấng Cứu Độ. Vì Chúa là Đấng cứu độ của chúng ta, Ngài ước ao giải thoát chúng ta khỏi những tai họa của đời sống trên biển. Sự sợ hãi những căn bệnh như ung thư hoặc Siđa, lo lắng về tận cùng của tương lai một cách bất an, những lo lắng về con cái trong một xã hội say sưa và hỗn tạp, sự không vững chắc hay gãy đổ của đời sống hôn nhân, sự khủng hoảng hay sự cô độc, bị bỏ rơi, sự khủng khiếp mà viễn cảnh của sự chết có thể phát sinh.
Trong lời tuyên xưng Thánh Thể chúng ta đã kêu lên: “Bởi thánh giá và sự Phục Sinh của Ngài, Ngài đã giải thoát chúng ta”. Sau kinh Lạy Cha chúng ta cầu nguyện: “Lạy Chúa xin giải thoát chúng con khỏi mọi sự dữ và ban cho chúng con bình an trong ngày hôm nay, bởi lòng thương xót Chúa sẽ giữ gìn chúng con khỏi tội lỗi và bảo vệ chúng con khỏi mọi lo âu”. Lời nguyện này muốn nói lên lời diễn tả đức tin của chúng ta nhưng cấp độ bình an và quang đãng của chúng ta không tùy thuộc và sự diễn tả đức tin của chúng ta nhưng ở chiều sâu của nó. Đức tin của chúng ta phải sâu như biển cả vậy.
Khi chiếc Titanic chìm xuống, số người bị lâm nạn đã tăng lên gấp bội bởi vì thuyền đã không trang bị đủ những thuyền cứu sinh. Chúng ta còn được hơn thuyền cứu sinh cứu nữa. Chính Chúa Giêsu đã cứu chúng ta khi chúng ta bị chìm trong biển cám dỗ sâu nhất của cuộc đời. Chúng ta có con người của Chúa Giêsu Kitô, luôn luôn hiện diện với chúng ta trong Giáo Hội và hướng về Người, chúng ta có thể cầu nguyện một cách tin tưởng. Trong cơn bão trên biển hồ, các tông đồ đã phàn nàn: “Lạy Thầy chúng con sắp chết mà Thầy không quan tâm đến sao?” Với đức tin chúng ta biết rằng, không có vấn đề gì với Chúa Giêsu. Vấn đề là sự cứu độ của chúng ta không đến từ những lời nói, tuy nhiên ở nơi. Lời quyền năng của Ngài: “Hãy yên lặng, hãy im đi”. Sự cứu độ của chúng ta đến từ hy tế nơi thánh giá. Đức tin của chúng ta là: “Lạy Chúa bởi thánh giá của Người, và sự Phục Sinh của Người xin giải thoát chúng con, Người là Đấng cứu độ chúng con”.
22. Suy niệm của Achille Degeest
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
NỖI KINH HOÀNG CỦA CON NGƯỜI
VÀ SỰ YÊN TĨNH CỦA THIÊN CHÚA
Giai thoại bão táp yên lặng là một cơ hội tốt cho những ai ngã theo khuynh hướng “giải huyền thoại” trong phúc âm (khuynh hướng này ngày nay đã giảm). Để giản lược biến cố vào một sự kiện tự nhiên, họ chỉ cần tưởng tượng và rồi sau khi đã chiều theo sức ép của trí tưởng tượng, quả quyết rằng bão táp tự nó ngưng lại, vừa lúc Đức Giêsu ra lệnh cho biển; và như thế là do tình cờ. Có một loại não trạng tự gọi là khoa học, chủ trương ngay từ đầu chối bỏ mọi can thiệp của Thiên Chúa trong vũ trụ và giải thích một số sự kiện bằng một định kiến như thế thật dễ dàng. Trong trường hợp này chúng ta có thể bám vào lời này: Ở khởi điểm của truyền thống Phúc Âm, có thật là biến cố, nhưng liền được giải thích trong môi trường của Giáo Hội sơ khai, dựa trên một não trạng Kinh Thánh và một niềm tin vào sự Sống Lại” (X.L. Dufour, Etudes d’Evangile, Paris, 1965).
Ưu tư của Giáo Hội sơ khai là minh chứng: Đức Giêsu có cùng một quyền năng trên tạo vật như Thiên Chúa (não trạng Kinh Thánh) và dẫn đưa người tín hữu đến một niềm tin nơi Đức Giêsu Phục Sinh, một niềm tin trọn vẹn, truyền giáo (Hãy sang bên kia bờ) và có khả năng đương đầu với mọi nghịch cảnh. Giải quyết xong điều trên, câu chuyện bão táp yên lặng gợi cho chúng ta một vài suy nghĩ rất đơn sơ:
1) ‘Thưa Thày, chúng con chết mất mà Thày không quan tâm đến sao?’
Lời trách móc này cho thấy rõ sự mâu thuẫn giữa nỗi kinh hoàng của các môn đệ và sự yên tĩnh của vị Thày. Một bên sóng gió nguy hiểm, một bên Đức Giêsu vẫn ngủ. Biển hồ Giê-nê-sa-rét, như các biển hồ được núi đồi bao phủ khác, thường có những cơn bão táp đột ngột và dễ sợ. Con thuyền bị sa vào một trong các cơn bão táp như thế. Chúng ta hiểu Đức Giêsu sau một ngày trọn rao giảng mệt nhọc, đã ngủ thiếp đi. Các môn đệ không hiểu được sóng gió mạnh mẽ như thế, lại tràn ngập vào thuyền mà không làm cho Ngài tỉnh dậy. Họ không mường tượng được rằng: chỉ duy có sự hiện diện của Đức Giêsu với họ, đã là một sự bảo đảm an toàn vững chắc.
Họ có lỗi vì đánh thức thày dậy không? Chắc là không. Đó chỉ là phản ứng bình thường của con người hoảng hốt, sự yếu hèn của họ (nhưng họ chưa có niềm tin sau Phục Sinh) ở chỗ họ không đặt sự an toàn của mình nơi con người Đức Giêsu. Chúng ta cũng gặp phải những giây phút thử thách nghiêm trọng. Chúng ta không có lỗi khi kêu đến Thiên Chúa, khi đánh thức Người dậy. Chúng ta không thể chế ngự một số âu lo tự nhiên. Ít là chúng ta nên nhớ Đức Giêsu đang ở với chúng ta để giữ vững niềm tin của chúng ta.
2) Hình ảnh con thuyền gợi lên con thuyền Giáo Hội, theo như ngôn từ của các thánh phụ.
Trong thời đại của chúng ta, cũng như trong mọi thời đại, Giáo Hội tựa con thuyền bị lay động và cản trở mạnh mẽ do các lầm lạc, bách hại, thao túng của thế gian. Một vài lầm lỗi hình như xâm chiếm cả Giáo Hội. Những lớp sóng ùa vào thuyền đến nỗi thuyền đầy nước. Điều này có lẽ tạo nên nỗi lo âu lớn nhất cho nhiều người ưu tú trong nhóm môn đệ Đức Kitô. Hãy nhớ rằng chỉ một lời của Chúa vào lúc ngài muốn, có khả năng cứu thoát tất cả. Ngài nói: “Im đi….”, tức thì gió ngừng biển lặng như tờ. Điều quan trọng là hãy giữ niềm tin cho sống động và mạnh mẽ. ‘Các con không có đức tin ư?’.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
John Newton là con trai một đại uý hải quân người Anh. Khi John lên 10 tuổi, mẹ cậu qua đời. Từ đó cậu bé thường theo bố đi biển. Nhờ vậy mà cậu rành rẽ đường lối ngoài biển khơi. Tuy nhiên vào năm cậu 17 tuổi, cậu bé bất mãn với bố. Cậu bỏ thuyền ra đi lao vào cuộc đời gió bụi. Cuối cùng cậu nhận được việc làm trên chiếc tàu hàng buôn nô lệ từ Phi Châu đến Mỹ Châu. Cậu thăng quan tiến chức rất lẹ và chẳng bao lâu đã trở nên thuyền trưởng. Chẳng bao giờ Newton bận tâm suy nghĩ đến việc buôn nô lệ là đúng hay sai. Cậu chỉ làm công việc của mình nhằm mục đích kiếm tiền mà thôi. Thế nhưng một biến cố quan trọng đã xẩy đến thay đổi tất cả cuộc đời cậu. Một đêm nọ một cơn bão dữ dội xuất hiện trên mặt biển. Sóng dâng cao như thác núi xô đẩy và quay vòng chiếc thuyền của Newton như món đồ chơi trẻ con. Mọi người trên thuyền vô cùng kinh khiếp. Lúc bấy giờ bỗng dưng Newton buột lời cầu nguyện. Đây là điều cậu không hề làm kể từ khi rời khỏi thuyền của bố cậu, cậu kêu to: “Lạy Chúa, nếu Ngài thương, xin cứu vớt chúng con, con nguyện sẽ mãi mãi làm nô lệ cho Ngài”.
Chúa nhậm lời cầu xin của cậu và cứu vớt con thuyền. Thế rồi sau khi vào được bờ, Newton đã giữ lời hứa và bỏ nghề buôn nô lệ. Sau đó cậu đi tu, và một thời gian sau trở thành mục sư coi sóc một nhà thờ nhỏ ở Olney, nước Anh. Ở đây vị mục sư trở nên một nhà giảng thuyết kiêm nhà soạn thánh ca lừng danh. Một trong những bản thánh ca cảm động nhất mà Newton đã sáng tác là bản nhạc ca ngợi Chúa về cuộc trở lại của cậu.
Giống như Newton, các Tông đồ cũng gặp phải bão biển dữ dội. Giống như Newton, các ông đã kêu to lên cùng Chúa: “Xin hãy cứu chúng con”. Giống như Newton, các ông cũng đã được biến đổi hoàn toàn sau khi Chúa nhậm lời cầu xin. Các ông hoảng sợ và nói với nhau: “Ông này là ai, mà cả đến gió và biển cũng phải tuân lệnh?”.
“Ông này là ai?”. Đây chắc chắn là một câu hỏi căn bản. Dĩ nhiên câu trả lời đã có sắn trong bài đọc 1 và trong Thánh Vịnh đáp ca hôm nay. Bài đọc 1 mô tả Chúa là Đấng Tạo Hoá, chính Ngài đã tạo dựng biển cả, đã đặt ranh giới cho chúng và truyền lệnh cho chúng tuân theo ý muốn của Ngài. (x.G 38,1.8-11). Thánh Vịnh đáp ca là lời kêu cầu Chúa của những thuỷ thủ gặp bão biển. Và Chúa đã ra tay cứu họ. Họ vui sướng, vì trời yên biển lặng. Và Chúa dẫn đưa về bờ bến mong chờ. Họ tạ ơn Chúa, vì Chúa từ nhân (x. Tv 107).
Trong cả hai bài đọc Cựu Ước này, chúng ta thấy Chúa đang thi hành chủ quyền của Ngài trên sóng gió. Ngài truyền lệnh cho chúng và chúng tuân phục Ngài. Đây cũng là điều chúng ta thấy Chúa Giêsu đang thực hiện trong Tin Mừng hôm nay.ngài đang biểu lộ chủ quyền của Ngài trên sóng gió. Ngài truyền lệnh và chúng tuân phục ngay. Như thế các bài đọc hôm nay cho thấy Thiên Chúa trong Cựu Ước và Đức Giêsu của Tân Ước là một. Ngài đang thực thi quyền năng của một Thiên Chúa. Thánh Marcô không chỉ muốn nói lên quyền năng của Chúa mà còn muốn khẳng định Ngài chính là Thiên Chúa, là Đấng Cứu Độ, và mời gọi chúng ta hãy hoàn toàn tin vào Ngài.
Các môn đệ ở chung một thuyền với Chúa, các ông đã biết Chúa quyền năng, có thể làm nhiều phép lạ, nhưng khi sóng gió nổi lên, các ông vẫn hoảng hốt. Các ông quên rằng dù thức hay ngủ, Chúa vẫn là Chúa. Các ông chưa hoàn toàn tin vào Chúa. Chúng ta thường nghĩ mình có đức tin, nhưng trong thử thách, khi cần biểu lộ lòng tin thì nhiều khi ta lại hoảng sợ.
Đời tự nó đã là khó. Đi trong cuộc đời với niềm tin theo cách Chúa dạy lại càng khó hơn. Chúng ta đã vâng lệnh Chúa mà nhổ neo ra khơi, đã tin tưởng vì có Chúa ở đàng lái, ở vị trí hoa tiêu, nhưng có thể đã có lần chúng ta đau đớn vì Chúa lại ngủ giữa phong ba. Điều đó có thật, là kinh nghiệm muôn đời của những ai tin Chúa. Niềm tin không phải là giải đáp dễ dãi, không miễn trừ những khó khăn. Cần phải dày công học tập mới chấp nhận được thực tế đó. Người có niềm tin trưởng thành là người “giữa phong ba khốn cùng ngàn nỗi vẫn luôn thành tín ngợi khen Chúa là thuẫn đỡ, là khiên che, là đồn luỹ”. Phải dám ra đi dù trời đã về chiều, dù có thể gặp phong ba. Nếu không thì chẳng bao giờ sang được “bờ bên kia” của cuộc sống. Chúa có thể ngủ, nhưng Chúa luôn thức vào lúc quyết định để trợ giúp những ai bằng lòng để cho “Chúa ở đằng lái”.
Bão lớn, nước sắp đầy thuyền thì ai mà không sợ? Vậy mà Chúa còn trách: “Sao các con sợ thế, các con không có đức tin ư?”. Các môn đệ lâm nguy thật sự. Trong hoàn cảnh đó, chẳng những nên kêu cứu Chúa, mà đúng là phải kêu cứu Chúa. Nhưng đừng kêu cứu với tâm trạng sợ hãi đến tuyệt vọng như vậy. Phải kêu cứu nhưng hãy kêu cứu trong niềm cậy trông tín thác tuyệt đối. Lời trách cứ của Chúa Giêsu khai mở cho chúng ta một kinh nghiệm đức tin quý báu: niềm tin vững vàng làm chúng ta thêm can đảm lắm mới có thể tin. Vì tin Chúa, thực tế chính là “ trao thân gởi phận” cho Chúa. Người tin Chúa thực sự thì không sợ, còn người sợ thực sự thì không tin. Trong rất nhiều trường hợp, “yếu tin” đồng nghĩa với “hèn tin”!
Câu hỏi của các môn đệ sau khi được Chúa cứu nguy: “Ngài là ai mà cả gió lẫn biểu cũng đều vâng lệnh?” phải là câu hỏi căn bản cho những ai muốn tin và muốn đạt tới niềm tin trưởng thành vào Chúa Giêsu. Phải trả lời cho thật, cho đúng, cho sâu và sát với hoàn cảnh đời mình. Tin không phải chỉ là xác tín về một chân lý lý thuyết cho thoả trí óc, nhưng là “trao thân gởi phận” cho Chúa, nên phải biết rõ Chúa là ai, đáng tin đến mức nào. Thánh Phaolô là chứng nhân đức tin kiệt xuất, đã trải qua bao gian nan mà vẫn tín trung với Chúa, vì thánh nhân “biết mình đã tin vào ai” (2Tm 1,13). Nếu thực sự muốn tin, chúng ta cũng phải biết: Chúa Giêsu Kitô là ai? Tin Mừng cho chúng ta biết: Chúa Giêsu chính là Thiên Chúa. Chân lý ấy quá đơn sơ, chúng ta đều đã biết. Nhưng có thể chúng ta mới biết bằng “cái đầu”, bằng trí óc, chứ chưa biết bằng “con tim”, bằng lòng yêu mến. Tin cuối cùng là yêu, là trung thành gắn bó với Chúa Giêsu trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời. Vậy lòng ta cần phải biết Ngài là Chúa, nghĩa là không chỉ biết rằng Ngài quyền trên cuộc đời mình, Ngài là Chúa của mình. Khi lòng ta chưa biết điều đó, thì dù không nói hay không dám nói ra, tự thâm tâm ta vẫn nghĩ: Lời Chúa chói tai quá! Lệnh Chúa truyền khó khăn qúa! Và sẽ bỏ đi như người Do Thái, vì thầy tin Chúa là phải là phiêu lưu và quá khó khăn! Người có đức tin trưởng thành là người “biết điều”: họ nhận ra Đấng mời gọi là Đấng có quyền, nên họ dấn thân theo lời mời gọi của Ngài vì đó là đòi hỏi của tình yêu.
Hãy vận dụng đức tin để dấn thân vào đời, lấy sức chèo chống, ngăn chận sự ác đang hoành hành. Hãy chạy đến Chúa và phó thác cho Ngài mọi lo lắng của cuộc đời, kiên trì tin tưởng Chúa sẽ cứu thoát chúng ta.
24. Các con không có lòng tin sao?
(Suy niệm của Noel Quesson)
Một sĩ quan người Anh cùng gia đình xuống tầu đi tới một miền xa lạ. Đang lênh đênh trên biển thì bỗng có giông bão khủng khiếp ập tới. Hành khách trên tầu cuống cuồng lo sợ, nhất là bà vợ của viên sĩ quan. Bà thấy ông vẫn bình thản thì bực bội và trách ông không quan tâm đến nỗi lo lắng của bà và các con. Ông này ra khỏi phòng một lát rồi trở lại, ông nghiêm nét mặt, rút kiếm ra dí vào ngực vợ. Bà vợ hơi tái mặt, nhưng lát sau bà phá lên cười. Viên sĩ quan hỏi: – Thấy mũi kiếm sắp đâm vào người mà em không sợ sao? – Việc gì em phải sợ? Em biết anh vẫn thương em mà.
- Thế tại sao em bắt anh phải sợ khi anh biết Thiên Chúa luôn yêu thương chúng ta? Và cơn bão này cũng ở trong bàn tay Thiên Chúa?
Chúng ta thường nghĩ mình có đức tin, nhưng trong thử thách, khi cần biểu lộ lòng tin thì nhiều khi ta lại hoảng sợ. Chính vì thế, Chúa nhắc bảo ta luôn nhớ cầu nguyện để xin ơn tăng cường đức tin. Các môn đệ ở chung một thuyền với Chúa, các ông đã biết Chúa có quyền năng có thể làm nhiều phép lạ, nhưng khi sóng gió nổi lên, các ông vẫn hoảng hốt. Các ông quên rằng dù thức hay ngủ, Chúa vẫn là Chúa. Các ông chưa tin vào Chúa hoàn toàn. Chúng ta có thể nghĩ rằng Chúa làm ra vẻ ngủ say để thử lòng tin của các môn đệ. Nhưng cũng có thể Chúa ngủ thực, vì Chúa cũng mang bản tính con người như ta. Chúa mệt mỏi vì bao công chuyện dồn dập mấy bữa qua: đi lại, giảng dạy, chữa bệnh cho bao nhiêu người. Sự mệt mỏi đã đưa Chúa vào giấc ngủ say.
Có những bất trắc, những tai nạn, rủi ro xảy tới cho đời ta, ta kêu cầu hoài mà không thấy Chúa đáp cứu. Những nhà duy vật thời nay thường nói: “Thiên Chúa đã chết”. Đôi khi, chính chúng ta là tín hữu Kitô, cũng có cảm tưởng như vậy. Chúng ta bị đe dọa, bị xô đẩy, bị chèn ép, chúng ta bất lực mà Thiên Chúa cứ làm thinh cho thiên nhiên hoành hành, cứ để cho bạo động xảy tới, xem ra Thiên Chúa đang ngủ quên. Tuy hoảng sợ, các môn đệ cũng còn chút tin tưởng ở Chúa, các ông tới đánh thức Chúa: “Thưa Thầy, chúng con chết đến nơi mà Thầy không quan tâm sao?”. Chúa thức dậy, đứng lên, quát nạt sóng gió và sóng gió trở lại yên tĩnh tức thì.
Sau khi trời yên biển lặng, Chúa bảo các môn đệ: “Sao các con sợ hãi? Các con không có đức tin ư?”. Chúa trách các môn đệ thiếu lòng tin. Không tin rằng có Chúa đang ở với mình trong thuyền. Không tin rằng Chúa vẫn yêu thương săn sóc các ông. Nhiều khi chúng ta còn đáng trách hơn các môn đệ, vì những lần chúng ta than thân trách phận, oán trời, trách Chúa: Sao Chúa để chúng ta đau khổ, kêu mãi kêu hoài mà Chúa vẫn làm ngơ.
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con sức mạnh để chúng con lướt thắng mọi thử thách trên đường đức tin. Xin giúp chúng con luôn nhận ra Chúa trong những biến cố cuộc đời để chúng con an tâm phục vụ Tin Mừng. Quyền năng và tình thương của Chúa luôn làm cho con vững dạ an lòng (Tv 23,4).
(Suy niệm của Jean-Yves Garneau)
Chúng ta phải liên lỉ băng qua bờ bên kia. Thường thường biển động. Nhưng Chúa Kitô ở với chúng ta. Việc băng qua hồ Tibêriát, như thánh Marcô kể lại, mang một ý nghĩa tượng trưng, cho ta thấy một kinh nghiệm quan trọng và sâu sắc mà các môn đệ đã có được. Kinh nghiệm này có một giá trị gương mẫu đối với chúng ta. Thường thường chúng ta phải sống những kinh nghiệm tương tự.
Sang bờ bên kia.
Chúa Giêsu bảo bạn hữu của Chúa sang bờ bên kia. Vấn đề không phải chỉ đơn giản là đi từ nơi này đến nơi khác, nhưng là sống một biến cố sẽ giúp họ lớn lên. Lúc đó họ chưa biết được điều này.
Nhiều lần cả chúng ta nữa, chúng ta đứng trước một tiếng gọi của Chúa Kitô. Gọi vươn lên, gọi sống đời sống Kitô hữu của chúng ta mãnh liệt hơn, gọi dấn thân một cách mới mẻ… Nếu chúng ta đáp trả tiếng gọi ấy chúng ta không biết trước những gì sẽ xảy ra cho mình hoặc nó sẽ đưa mình đến tận đâu.
Từ biển lặng đến sóng gió.
Không chút do dự các tông đồ chấp nhận qua bờ bên kia, thậm chí họ còn có sáng kiến chuẩn bị nữa. Lúc khởi hành, mọi sự diễn ra suôn sẻ. Biển hồ yên lặng. Họ là những tay chèo giỏi. Chúa Kitô nằm ngủ ở mạn thuyền. Rồi gió nổi lên. Đó là giông bão. Các môn đệ hoảng hốt. Từ đáy lòng họ la lên: “Lạy Thầy, chúng con chết mất!”.
Sự kiện này có thể áp dụng vào chính cuộc sống của chúng ta. Nhiều lần chúng ta phải đáp lại những lời mời gọi của Thiên Chúa. Không thể nghi ngờ thiện chí của chúng ta: Như các môn đệ, chúng ta thưa vâng trước những tiếng gọi này. Nhưng việc thực hành những gì tiếng gọi ấy thường có vẻ khó khăn và gắt gao hơn ta tưởng. Các khó khăn nhất thiết sẽ xảy đến. Chúng rất thường nhiều hơn và lớn hơn điều ta dự tính.
Thế giới này trong đó chúng ta sống cũng giống như mặt biển động vậy. Sống đạo trên một mặt biển như thế không dễ dàng, không đơn giản! Không dễ dàng lớn lên về mặt Kitô hữu trong một xã hội như xã hội của chúng ta, đang loan truyền đủ mọi thứ khác trừ sứ điệp của Chúa Kitô và lôi cuốn đến mọi nơi khác trừ những con đường của Tin Mừng.
Lúc đó ta bị cám dỗ buông xuôi hết. Trở thành những kẻ không dấn thân. Không đi nhà thờ nữa, chỉ còn sống cho mình, chỉ còn mang tên là tín hữu mà thôi. Người ta vớt vát cho bộ mặt bên ngoài nhưng trong lòng thì không còn gì nữa.
Phải làm một hành vi đức tin.
Giữa cơn giông tố, các tông đồ có ý tưởng rất hay là quay về với Thầy của mình và cầu cứu Ngài. Kết quả thật lạ lùng. Chúa Kitô ra lệnh cho biển. Biển lặng như tờ. Ngài trách họ: “Sao lại sợ? Tại sao các con không có lòng tin?”. Phản ứng của các môn đệ có thể làm chúng ta ngạc nhiên. Thay vì kêu lên: “Lạy Chúa, chúng con tin”, họ lại tự hỏi: “Ngài là ai mà ngay cả đến phong ba và biển cả cũng phải vâng phục Ngài?”. Không phải một sớm một chiều mà ta có được một niềm tin vững chắc và sâu xa. Cần thời gian. Phải trải qua nhiều kinh nghiệm trong cuộc đời làm Kitô hữu.
Ba điểm cần nhớ.
Những gì cần nhớ trong bài Tin Mừng hôm nay có thể tóm tắt trong ba điểm.
- Một là: đừng sợ qua bờ bên kia. Đây là một điều kiện phải có để lớn lên. Khi cứ ở lại mãi trên bờ yên tĩnh của thế giới bé nhỏ an toàn của mình, người ta không bao giờ trở thành một Kitô hữu biết nhìn xa thấy rộng được Chúa Kitô luôn luôn mời gọi đi xa hơn, cao hơn.
- Hai là: đừng ngạc nhiên về những khó khăn gặp phải khi muốn sống một cuộc đời Kitô chân chính. Biển động là thành phần của cuộc sống ấy, đó là dịp để tiến bộ.
- Ba là: không nghi ngờ về sự hiện diện và quyền năng của Chúa Kitô. Ngài ở với chúng ta. Cùng với Ngài, chúng ta luôn luôn tới được những bến bờ khác. Chính Ngài đã đi qua cái chết… và đã tới bờ của một cuộc sống mới. Những lần chúng ta phải đi từ bờ bên này sang bờ bên kia trong cuộc sống hằng ngày đó là chúng ta được chuẩn bị cho cuộc vượt qua cuối cùng.
Coi chừng những cuộc sống Kitô quá yên ổn, quá an toàn. Chúa Kitô chờ đời chúng ta trên biển động. Thường thường đó chính là nơi mà Ngài tự mặc khải cho chúng ta cách mạnh mẽ. Và chính ở đó, ở ngoài khơi mà rất thường đức tin của chúng ta có thể được thức tỉnh hơn hết và có thể lớn lên.
Qua hình ảnh mặt biển dạy sóng Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta những gì?
Mặt biển dạy sóng trước hết là hình ảnh của tâm hồn chúng ta.
Thực vậy, nhiều lúc chúng ta đã cảm thấy: những quyến dũ bất chính, những đam mê mù quáng, những cám dỗ nặng nề, quả thực đã trở nên như những ngọn sóng ngầm. Những quyến dũ ấy, những đam mê ấy, những cám dỗ ấy như muốn đè bẹp con thuyền nhỏ bé là tâm hồn chúng ta, nhận chìm nó xuống đáy nước tội lỗi, nếu như Chúa Giêsu, Đấng có quyền làm cho gió yên biển lặng đã không đến can thiệp và giúp đỡ chúng ta. Vì thế chúng ta hãy kêu xin Chúa như các tông đồ ngày xưa:
- Lạy Chúa, xin hãy cứu giúp chúng con không thì chúng con chết mất.
Mặt biển dạy sóng còn là hình ảnh của thế gian.
Đúng vậy, thế gian là một mặt biển dạy sóng, trong khi đó Giáo hội chỉ là một con thuyền nhỏ bé, mà người cầm lái, là Đức Kitô thì dường như lại đang ngủ say. Những phong ba bão táp và những ngọn sóng trào dâng là những cấm cớ bách hại, là những lập trường bài bác vu khống và chụp mũ, khiến cho chúng ta, những môn đệ của Chúa cũng phải bàng hoàng kinh hãi, nếu không muốn nói là đã đi đến chỗ tuyệt vọng.
Tại sao chúng ta lại sợ hãi? Phải chăng là vì yếu đức tin. Chúng ta nên nhớ rằng, tình thương và sự quan phòng của Ngài luôn canh giữ chúng ta. Chỉ một cái nhìn của Ngài cũng đã đủ để làm cho sóng yên biển lặng, tất cả trở lại trật tự.
Kinh nghiệm của Giáo hội, cũng như của bản thân mỗi người cũng làm chứng như vậy. Điều quan trọng, chúng ta phải luôn xác tín rằng: Chúa Giêsu luôn ở với chúng ta. Mặc dù đôi lúc Ngài dường như có vẻ ngủ say, nhưng thực sự thì tình thương của Ngài luôn canh giữ chúng ta. Và một khi Ngài đã ở với chúng ta thì không ai có thể chống lại chúng ta.
Thánh nữ Cartarina Sienna ngày kia đã hỏi Chúa, sau khi đã thoát khỏi sự cám dỗ nặng nề:
- Lạy Chúa, Chúa ở đâu khi con phải chiến đấu. Chúa Giêsu đã trả lời:
- Ta ở bên cạnh con để giúp đỡ con.
Chính vì thế, giữa những gian nguy thử thách, giữa những cám dỗ đe dọa, chúng ta hãy biết chạy đến và kêu van:
- Lạy Chúa, xin cứu chúng con, không thì chúng con chết mất.
Điều quan trọng là làm thế nào để Chúa Giêsu thực sự ở trong chúng ta với tất cả tình thương của Ngài?
Tôi xin đưa ra một pháp đó là hãy xa tránh tội lỗi. Vì tội lỗi sẽ đẩy chúng ta xa lìa tình Chúa và làm dấy lên trong tâm hồn cũng như xã hội một trận cuồng phong thảm khốc.
Chính vì thế muốn trấn áp cuồng phong, muốn tái lập trật tự, chúng ta phải biết hãm dẹp những dục vọng xấu xa, những khuynh hướng tội lỗi. Tuy nhiên, để bảo đảm sự thành công, chúng ta hãy bắt chước các môn đệ đã kêu lên với Chúa giữa cơn phong ba bão táp:
- Lạy Chúa, xin cứu giúp chúng con, không thì chúng con chết mất.
Rufus Jones có thuật lại câu chuyện sau đây: “Một cậu bé đang chơi trên boong tàu, khi đó một cơn bão tố đang nổi lên. Một hành khách tiến lại hỏi cậu bé: Này cháu, cháu không sợ cơn bão đang đến hay sao? Cậu bé trả lời: “Không, cháu không sợ. Bởi vì cha cháu đang điều khiển con tàu”.
Bài Tin Mừng hôm nay cũng thuật lại một câu chuyện xảy ra trong một cơn bão tố. Nhưng nó chỉ giống ở khung cảnh mà lại khác hẳn về nội dung. Nỗi sợ hãi của các môn đệ hoàn toàn trái nghịch với lòng tín thác của cậu bé trong câu chuyện của Jones, một lòng tín thác xuất phát từ một niềm tin vững mạnh. Không có gì ngạc nhiên khi chúng ta nghe Chúa Giêsu quở trách: “Tại sao các con nhát gan thế? Các con vẫn chưa có lòng tin sao?” Chúng ta cần nhớ lại lời Kinh Thánh đã chép: “Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy”.
Chúng ta không luôn luôn thấy những đối tượng đức tin của chúng ta, đặc biệt khi niềm tin của chúng ta bị che phủ bởi nỗi sợ hãi và lo âu xao xuyến, và nhất là khi chúng ta bị những cơn giông tố trong cuộc đời vùi lấp một cách phũ phàng. Trong những cơn thử thách mãnh liệt như vậy, chúng ta hãy đặt tất cả niềm tin tưởng phó thác vào chính Thiên Chúa. Vào thế kỷ 19, tiểu thuyết gia kiêm thi sĩ người Tô Cách lan George MacDonald đã viết: “Con người hoàn hảo về đức tin là kẻ có thể đến với Thiên Chúa trong sự trống rỗng về cảm giác, không có một chút cảm hứng và an ủi nào, chỉ có những thất bại nặng nề, bị bỏ rơi, bị quên lãng hoàn toàn, và vẫn nói với Thiên Chúa: “Lạy Chúa, Chúa là nơi con náu ẩn, là thành lũy che chở con”.
Lạy Chúa Thánh Thần, Chúa là Trạng Sư và là bạn thân thiết của con. Xin Chúa dạy con biết từ bỏ bản thân mà lệ thuộc hoàn toàn vào Chúa Giêsu. Con không muốn trốn tránh trách nhiệm của con đối với cuộc đời của mình, nhưng con muốn để Chúa Giêsu chi phối toàn bộ cuộc sống của con.
Hồ Tibêria nằm ở mạn bắc Palestine, còn gọi là hồ Gênêsarét hay biển Galilê, nhưng quen gọi là Biển Hồ, có hình bầu dục, chiều dài 21 km, chiều ngang 12 km, thấp hơn mặt biển Địa Trung Hải 208m, lại nằm bên rặng núi Hemon cao ngất, luôn có tuyết phủ, vì thế, các luồng gió mạnh đều dốc đổ vào hồ, gây nên những cơn giông và bão tố bất thường.
Cựu Ước ít nhắc tới Biển Hồ này, nhưng trong Tân Ước, hồ này nổi tiếng, vì nơi đây Chúa Giêsu đã làm một số phép lạ và giảng dạy nhiều điều. Phép lạ kể lại trong bài Tin Mừng hôm nay xảy ra ở Biển Hồ này, vào một buổi chiều đầy kỷ niệm của một ngày tháng chạp, năm thứ nhất công khai giảng dậy của Chúa.
Hôm ấy, sau khi dùng thuyền làm tòa giảng dạy dân chúng nhiều dụ ngôn, Chúa Giêsu giải tán cho họ ra về, rồi bảo các môn đệ kéo buồm ra khơi sang bờ bên kia đến thành Gêrasa. Khi thuyền ra gần giữa khơi thì gặp biển động mạnh, gió thổi dữ dội, sóng nước quật mạnh vào thuyền khiến thuyền chòng chành, chồm lên chồm xuống muốn chìm. Các môn đệ ra sức chèo chống, tuy là những ngư phủ đã quen với những cơn giông bão trên biển, mà lần này các ông cũng hoảng sợ, vậy mà Chúa Giêsu vẫn nằm ngủ ngon lành ở cuối thuyền như không có sự gì nguy hiểm đang xảy ra.
Các môn đệ không còn biết xoay sở làm sao đưa thuyền vào bờ, trở lui không được vì bị sóng gió cản lại, mà tiến sang bờ bên kia thì còn xa quá. Thật là tiến thoái lưỡng nan, các ông chỉ còn biết cầu cứu đến Chúa, mà Chúa thì lại đang ngủ. Các ông đánh thức Chúa dậy và xin Chúa cứu giúp. Lời kêu cứu này chứng tỏ các môn đệ tin Chúa có quyền phép. Nhưng Chúa đã quở trách các ông: “Sao nhát thế? Anh em vẫn chưa có lòng tin sao?” Chúa trách các môn đệ như vậy là vì mấy tuần qua các ông đã được chứng kiến Chúa làm nhiều phép lạ tỏ ra Chúa là Đấng có quyền phép, nên đáng lẽ các ông phải tin tưởng nơi Chúa mà không hoảng sợ trước cơn giông bão. Nhưng đức tin của các ông còn yếu kém, gặp cơn giông bão, tuy có Chúa ở trong thuyền mà các ông vẫn hốt hoảng sợ hãi, nên Chúa mới quở trách như vậy. Tuy nhiên, Chúa vẫn đứng dậy, truyền cho sóng gió yên lặng, tức khắc biển trở lại bình thường.
Qua phép lạ này, Chúa Giêsu muốn cho các môn đệ thấy uy quyền Thiên Chúa toàn năng của Ngài, đồng thời cũng cho họ biết: họ phải vững tin vào Ngài, có Ngài ở bên, họ không được sợ hay không phải lo sợ gì cả, vì không có gì Ngài không làm được, mọi sự đều tùy thuộc uy quyền toàn năng của Ngài.
Khi tìm hiểu về cơn bão tố xảy ra trên Biển Hồ, một nhà chú giải Kinh Thánh đã giải thích: “Chúa Giêsu đã muốn đem các môn đệ của mình đi trên biển, giữa bão tố kinh hoàng để cho họ thấy trước những bão tố sau này là những bắt bớ, những hành hạ mà họ sẽ gặp trên đường tông đồ. Đối với họ, là những người sẽ cầm lái thế giới sau này, con thuyền nhỏ bị sóng gió dữ tợn đánh chòng chành sắp chìm, là hình ảnh của những trận bão tố sau này sẽ tấn công Giáo hội mà họ phải kiên gan chống đỡ”.
Các nhà giảng thuyết thường áp dụng việc Chúa Giêsu làm cho sóng gió yên lặng vào việc Chúa luôn ở cùng Giáo hội, và bênh vực gìn giữ Giáo hội trải qua những cơn sóng gió trần gian. Chiếc thuyền của Phêrô là tượng trưng cho con thuyền Giáo hội của Chúa mà Phêrô là đầu. Những cơn sóng gió là những cơn thử thách bách hại mà Giáo hội luôn gặp phải. Cũng như khi xưa các tông đồ trên thuyền đã được an toàn qua cơn sóng gió vì có Chúa Giêsu ở với các ông, thì ngày nay cũng nhờ có Chúa Giêsu luôn hiện diện trong Giáo hội mà trải qua bao cơn thử thách bách hại, Giáo hội vẫn đứng vững và trường tồn.
Nhìn vào lịch sử Giáo hội, qua dòng thời gian, trải qua các thời đại, chúng ta thấy Giáo hội đã gặp phải bao cơn gió bão, thuyền Phêrô, tức là Giáo hội, đã vượt biển được hai ngàn năm, thuyền đó ra đi, mặc dầu gặp bao sóng gió, nhưng vẫn luôn đứng vững, lý do là vì Chúa Giêsu luôn hiện diện trong Giáo hội như Ngài có mặt trên thuyền của các môn đệ xưa kia. Đôi khi xem ra Ngài ngủ và có vẻ buông xuôi tay lái, nhưng thực ra đó chỉ là những cơ hội để nêu cao sự hiện diện đầy quyền năng của Ngài.
Đối với mỗi người chúng ta cũng vậy, Thiên Chúa toàn năng cai trị những bão tố bên ngoài, thì Ngài cũng thống trị những cơn bão, những sóng gió trong tâm hồn, trong cuộc sống, trong cuộc đời thăng trầm của mỗi người. Cuộc đời chúng ta là một đời lữ khách, vui buồn chen nhau. Là thân lữ khách, chúng ta biết phận mình là thế, và trong muôn cảnh ngộ, chúng ta luôn có hy vọng về tới bến. Đức tin vững chắc là bánh lái thuyền đưa chúng ta về tới bến cứu độ. Chúa Giêsu luôn ngồi đàng sau con thuyền để trợ giúp chúng ta. Chúng ta cứ yên trí lớn chèo thuyền ra đi, điều cần thiết nhất là chúng ta có luôn tin tưởng vững chắc vào Chúa hay không?
Vì thế, giữa những bão tố, những sóng gió của biển đời, chúng ta cần bắt chước gương các tông đồ, chạy lại với Chúa Giêsu và xin Ngài cứu giúp: Lạy Chúa, xin cứu chúng con kẻo chúng con chết mất. Tin tưởng và cầu xin Chúa, chúng ta sẽ được bình an.
(Trích trong “Như Thầy đã yêu” – Thiên Phúc)
Trong một cuộc hải trình vượt Đại Tây Dương, khách du lịch đang thư thái ngắm cảnh hoàng hôn trên boong tàu. Nơi tít mù xa, mặt trời đỏ cam đang chiếu những ánh vàng cuối cùng của một ngày còn sót lại. Bỗng mây đen ùn ùn kéo tới, tối sầm cả một vùng trời. Sấm chớp đổ xuống liên hồi, giông tố cuồn cuộn nổi lên, càng lúc càng thét gào dữ dội.
Mọi người trên boong chen lấn nhau chạy về phòng mình. Duy chỉ có một bé trai cứ tiếp tục chạy giỡn trên boong giữa trận cuồng phong. Được hỏi tại sao em không sợ hãi trước cơn giông tố?
Em thản nhiên đáp lại:
- Vì cha em là người cầm lái con tàu!
***
Giống như khách du lịch trong câu chuyện trên, các môn đệ cũng gặp một trận cuồng phong khi vượt biển. Các ngài kinh hoàng vì thấy mình sắp bị nuốt chững. Bó tay bất lực trước phong ba bão táp, các ngài đã vội đánh thức Đức Giêsu và xin Người ra tay cứu giúp: “Thưa Thầy, chúng con chết mất, Thầy không quan tâm sao” (Mc. 4,38). Người liền đe gió và phán với biển như một người bị quỉ ám: “Hãy im đi”. Tức thì sóng yên biển lặng.
Ai cũng thích sóng yên biển lặng, xuôi chèo mát mái. Nhưng cuộc đời nào mà chẳng có những cơn giông? Đại dương nào mà không có những bão tố? Tuy nhiên, chính giông tố mới giúp chúng ta nhận ra chính mình: mình còn yếu đuối và bất lực, còn nhát đảm và kém tin. Cũng chính giông tố sẽ đưa ta đến với Chúa, để ta hoàn toàn phó thác cho sự quan phòng của Người. Cũng chính giông tố sẽ giúp ta biểu lộ đức tin. Có thể nói, đức tin sẽ lớn lên ít nhiều sau mỗi lần giông tố.
Thánh Phaolô viết: “Thiên Chúa không ban cho ta một thần khí nhát sợ nhưng mạnh mẽ, bác ái và tự chủ” (2Tm.1,7),
Mỗi người chúng ta không khác chi chiếc thuyền nan chông chênh giữa cơn lốc cuộc đời, khó khăn nối tiếp khó khăn. Giống như cậu bé đã tin tưởng ở cha mình cầm lái con tàu, mỗi người chúng ta cũng hãy vững tin ở Thiên Chúa tình yêu. Người sẽ hướng dẫn cuộc đời của mỗi chúng ta. Có Chúa trong đời, những cô đơn như bị xóa nhòa, những khó khăn dường như nhỏ lại, những yếu đuối như được mạnh sức. Chúng ta không cầu xin cho cuộc đời mình như biển lặng, nhưng xin cho cõi lòng chúng ta được tĩnh lặng ngay giữa lúc biển động.
Thánh Phanxicô Salêsiô dạy: “Phải ở lại trong con thuyền mà Thiên Chúa đã đặt chúng ta vào, để hành trình từ cõi đời này về chốn đời sau. Chúng ta phải sẵn sàng ở lại trong sự bình an thanh thản”.
Lạy Chúa, thuyền đời chúng con chẳng bao giờ được êm ả, nó chỉ êm ả khi tới bến thiên đàng. Xin cho lòng chúng con luôn bình an ngay cả khi Chúa còn đang ngủ, miễn là có Chúa trong thuyền, vì Chúa chính là thuyền trưởng của đời chúng con. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Sau một ngày giảng dạy dân chúng, Chúa Giêsu bảo các môn đệ chèo thuyền đưa Ngài sang bên kia Biển Hồ. Biển Galilê dài 21km, rộng 12km, xung quanh có những rặng núi bao bọc. Nhiệt độ ở Galilê thuộc miền Bắc Israel và ở Biển Chết thuộc miền Nam chênh lệch nhau, thỉnh thoảng tạo ra những cơn gió mạnh. Biển Galilê nổi sóng dữ dội vì hình thể lòng chảo với núi non bao quanh. Vì thế, người xưa quan niệm rằng, biển là biểu hiện cho những gì nguy hiểm, tối tăm và sợ hãi. Biển động sóng gào biểu trưng cho một thế giới hỗn loạn và phường tội lỗi (x. Is 57, 20). Ý định băng qua bên kia Biển hồ lúc trời đã về chiều quả là một ý định táo bạo, liều lĩnh, bất chấp hiểm nguy.
Tuy vậy, Chúa Giêsu quyết định ra đi và thực hiện phép lạ trên biển với mục đích củng cố đức tin cho các môn đệ, đồng thời biểu lộ uy quyền của Thiên Chúa vượt trên mọi thế lực sự dữ.
Chúa Giêsu cùng với các môn đệ và có một số thuyền khác vượt biển giữa trời đêm. Thuyền lướt sóng ra khơi giữa màn đêm. Bão tố cuồng phong bỗng dưng ập đến. Các môn đệ, dù nhiều trải nghiệm về biển cả vẫn hốt hoảng lo lắng hoang mang. Chỉ mình Chúa Giêsu vẫn an nhiên tự tại, vẫn ngủ như không có gì xảy đến. Lạy Chúa, đến nước này mà Ngài vẫn ngủ sao? Trong dòng lịch sử, không ít lần dân Do thái thấy như Chúa ngủ quên: “Lạy Chúa, Ngài quên con mãi tới bao giờ? Tới bao giờ còn ngoảnh mặt làm ngơ? Tới bao giờ hồn con vẫn còn lo lắng và lòng con ủ rũ đêm ngày? Tới bao giờ kẻ thù con thắng mãi?” (Tv 13,1-2).
Các môn đệ cuống cuồng lo sợ và hỏi: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?” Tiếng kêu cứu trong tuyệt vọng. Gặp bão tố cuồng phong trên biển cả, không lẽ những dân chài thứ thiệt như các ngư phủ lại phải cậy đến sự trợ giúp của một bác thợ mộc ư? Kinh nghiệm thợ mộc giúp được ích gì cho các ông lúc này? Ở đây rõ ràng là các ông cần sự trợ giúp thần linh, cần một phép lạ. Khi con người đối diện với những gian nan khốn khó, với những mãnh lực ác thần, họ mới thấy sức người quá hèn yếu, nhỏ bé. Bài đọc 1 cho thấy con người yếu đuối tìm đâu được một chỗ dựa vững vàng ngoài niềm tin vào Thiên Chúa toàn năng: “Bấy giờ, giữa cơn bão táp, Đức Chúa lên tiếng trả lời ông Gióp như sau: Cửa đại dương, ai ra tay khép lại khi nước tuôn trào từ đáy vực sâu, khi Ta giăng mây làm áo nó mặc, phủ sương mù làm tã che thân?” (G 38,1.8-9). Đứng trước số phận ngàn cân treo sợi tóc, họ mới thấy cần biết bao quyền năng Thiên Chúa trợ giúp. Thiên Chúa sẽ ra tay đúng lúc để đáp ứng tiếng van nài của họ.
Không phải bằng một kỹ năng hàng hải mà bằng uy quyền của trời cao, Chúa Giêsu thức dậy và ra lệnh cho sóng biển: “Im đi! Câm đi!”. Cử chỉ và lời nói của Chúa giống như lúc Ngài trừ quỉ. Lập tức, gió ngừng thổi và biển yên lặng như tờ. Rồi Chúa quở các môn đệ: sao các con lại sợ hãi thế? Đức tin của các con như thế nào? Rõ ràng, Chúa không nói các môn đệ không có đức tin; Chúa cũng không nói các môn đệ có đức tin bé nhỏ; ở đây đức tin của các môn đệ giới hạn quyền năng của Thiên Chúa, thua sức mạnh thiên nhiên, sự hiện diện của Chúa Giêsu không thể cứu nguy cho những người cùng thuyền được nên họ phải đánh thức Chúa dậy.
Khi Chúa dùng lời quyền năng dẹp yên gió bão, các môn đệ ngạc nhiên và hỏi: “Người này là ai mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?”. Thông cảm với các môn đệ vì các ông chưa biết rõ Chúa là ai, quyền năng thế nào để phó thác mạng sống mình cho Chúa. Nhờ phép lạ này, các ông nhận ra Thầy có quyền trên cả gió và biển, có quyền như Thiên Chúa vậy. Từ đó, các ông suy nghĩ, tìm hiểu con người Thầy hơn.
Những trắc trở đến từ thiên nhiên chỉ nói lên một phần nhỏ sự yếu đuối của con người khi phải đối diện với trăm ngàn đợt sóng mãnh liệt từ các dục vọng làm xáo động tâm hồn họ. Những sự ác dữ dội như sóng biển ấy chẳng để ai ngủ yên, mà bắt người ta phải đặt niềm tin vào Chúa trong khi chống cự để có được sự sống muôn đời: “Xin Chúa thấy cho: thù địch con đông vô kể, chúng ghét thân này, ghét cay ghét đắng. Xin bảo toàn sinh mạng và giải thoát con, đừng để con tủi nhục, bởi vì con ẩn náu bên Ngài” (Tv 25,19-20).
Giông bão bắt người ta phải tin, nhưng niềm tin lại cần đến thử thách của giông bão, vì niềm tin cần được thử thách để lớn lên. Sóng gió là những thử thách trong cuộc đời. Những thử thách Chúa gửi đến giúp ta giúp ta biết mình hơn, biết yêu mến cậy trông vào Chúa hơn và giúp đức tin vững mạnh hơn. Chúa phán với ông Gióp trong gió bão, dạy dỗ ông những lẽ khôn ngoan. Ông Gióp đã luôn vững tin vào Chúa, không phàn nàn, kêu trách; rồi Chúa đã làm cho sóng gió cuộc đời ông chấm dứt, và ban lại cho ông một cuộc sống tốt đẹp hơn. Các Tông đồ cũng gặp bão táp trên biển cả. Chúa dùng lời quyền năng dẹp yên giông bão. Khi sóng yên biển lặng rồi, các môn đệ càng vững tin nơi Chúa hơn, từ nay các ngài không còn cuống quít sợ hãi mỗi khi gặp gian nan nữa. Ai càng gặp nhiều thử thách thì càng trở nên từng trải, vững vàng hơn. Thánh Phaolô nhắc nhở: vì thương yêu chúng ta, “Chúa Giêsu Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta, nhưng Ngài đã sống lại!” đem đến cho chúng ta một niềm tin vững chắc vào tình thương của Thiên Chúa.
Tàu thuyền một khi đã lênh đênh trên mặt biển rồi thì không thể nào tránh được những cơn sóng to nhỏ và chẳng có cách chi thoát khỏi những chao đảo, bập bềnh và lắc lư do bão táp và cuồng phong gây nên. Cũng vậy, mọi người không ai tránh khỏi những sóng gió và bão tố to nhỏ do biển đời này gây ra!
- Khi tôi lâm vào cảnh hoang mang, sợ hãi, lúng túng, lo lắng, bất an, phiền muộn, chán chường, thất vọng…
- Khi gia đình tôi chạm trán với những biến cố đau thương như tai nạn xe cộ, tai nạn nghề nghiệp, thất nghiệp, vợ chồng con cái bất hòa xung đột với nhau, đau ốm, tang chế…
- Khi trong cộng đoàn giáo xứ của tôi xảy ra những gương mù, gương xấu: đố kị, ghen tương, kèn cựa, tranh giành quyền lợi, chia bè, kéo phái, tố cáo nhau, mạt sát, thù ghét nhau …
- Khi trong cộng đoàn dòng tu của tôi phải đương đầu với những khủng hoảng về mặt nhân sự, tài chánh, huấn luyện, đào tạo, kỳ thị, chia rẽ, phân biệt, thiên vị…
- Khi Giáo Hội bị bêu xấu, hạ nhục, và bị công kích bởi gương mù gương xấu do một số nhỏ giáo sĩ gây ra…
Thuyền trên biển gặp sóng gió, bão táp là chuyện rất bình thường. Khi thuyền đời của mình không thể tránh được sức va chạm và những ảnh hưởng của sóng gió, bão táp giông tố của cuộc đời này thì tôi phải làm gì để giữ cho thuyền khỏi bị lật úp?
Cách hay nhất là bắt chước các môn đệ, chạy đến với Chúa Giêsu để xin Ngài dẹp tan sóng gió và bão tố bảo vệ thuyền của mình khỏi bị nhận chìm. Chỉ khi nào tin vào sự hiện diện của Chúa Giêsu Kitô, Đấng có quyền năng trên sóng gió mưa bão và mở miệng van xin Ngài ra tay cứu giúp thì lúc đó thuyền đời mới được bình an, bởi lẽ “Không có Thầy thì các con không thể làm gì được!” (Ga 15,5).
Tin mừng hôm nay giúp chúng ta luôn sống an tâm. An tâm, bởi con thuyền cuộc đời chúng ta ra khơi, giữa phong ba bão táp, giữa những thử thách gian truân vẫn luôn có Chúa là thuyền trưởng hướng dẫn thuyền vượt sóng. An tâm, bởi Chúa luôn xuất hiện đúng lúc đúng thời để ra tay nâng đỡ chúng ta trước những khó khăn. An tâm, bởi chúng ta biết chúng ta tin vào Đấng chiến thắng mọi thế lực ác thần và sự chết. An tâm, bởi từ nay, cuộc đời chúng ta đã trao vào tay Chúa, tín thác mọi sự trong sự quan phòng của Thiên Chúa, vì như thánh Phaolô, “tôi biết tôi tin vào ai” (2 Tm 1,12).
Xin cho Lời Chúa hôm nay giúp mỗi người chúng ta vững tin vào sự hiện diện của Chúa, để trong mọi hoàn cảnh cuộc đời, chúng ta luôn có Chúa ở vị trí hoa tiêu để hướng dẫn và can thiệp kịp thời, giúp chúng ta đến bến bờ bình an.
(Suy niệm chú giải Lời Chúa của Lm. Inhaxiô Hồ Thông)
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XII Thường Niên năm B nêu bật quyền chủ tể của Thiên Chúa trên thiên nhiên, nhất là trên phong ba bão tố, biểu tượng các thế lực sự Dữ.
G 38: 1, 8-11
Trong Bài Đọc I, trích từ sách Gióp, Thiên Chúa trả lời những chất vấn của ông Gióp về những khốn khổ mà ông phải chịu bằng cách giúp cho ông hiểu quyền năng của Ngài. Chính Ngài đã dựng nên đại dương, một sức mạnh hung dữ của thiên nhiên, và cũng chỉ mình Ngài mới chế ngự được phong ba bão tố.
2Cr 5: 14-17
Chúng ta tiếp tục đọc thư thứ hai của thánh Phao-lô gởi tín hữu Cô-rin-tô, trong đoạn trích thư hôm nay, thánh Phao-lô tiếp tục biện minh sứ vụ tông đồ của mình.
Mc 4: 35-41
Tin Mừng tường thuật Đức Giê-su dẹp yên phong ba bão tố để con thuyền của các môn đệ Ngài đến bến bờ bình an.
BÀI ĐỌC I (G 38: 1, 8-11)
Đoạn trích sách Gióp nầy có thể được xem như dẫn nhập cho câu chuyện Tin Mừng tường thuật việc Đức Giê-su dẹp yên trận cuồng phong nổi lên trên biển hồ Ghê-nê-sa-rét: Đức Giê-su sở hữu cùng một quyền năng thần linh như Thiên Chúa. Khi sáng tạo thế giới, Thiên Chúa đã ấn định những giới hạn cho biển cả bằng “lời quyền năng” của Ngài (St 1: 6-10). Không phải Ngôi Lời đã dự phần vào công trình sáng tạo sao?
Theo thể thi ca đối thoại, tác giả sách Gióp phác họa chân dung ông Gióp, một người công chính phải hứng chịu nhiều nỗi bất hạnh. Ông than thân trách phận với bốn người bạn thân. Những người bạn nầy một mực trung thành với lời giải thích truyền thống: ác giả ác báo, sự đau khổ của một ai đó cho thấy kẻ ấy đã phạm tội; hay nếu người đó được xem là công chính mà phải chịu đau khổ, chính vì Thiên Chúa muốn ngăn ngừa người ấy khỏi sa vào tính tự cao tự đại.
Lúc đó, Gióp nỗi trận lôi đình; ông kêu gào mình vô tội và xin Thiên Chúa chứng giám sự vô tội của ông. Thiên Chúa trả lời cho ông “giữa cơn bão táp” (38: 1), như khi xưa Thiên Chúa đã ngỏ lời với ông Mô-sê trên núi Xi-nai. Đây là câu trả lời uy nghi của Đấng sáng tạo vũ trụ. Đức Chúa mô tả công việc của Ngài như nhà kiến trúc tự hào về công trình sáng tạo của mình: Ngài công bố quyền tối thượng của Ngài trên toàn cõi thế, trên đại dương (đây là đoạn trích dẫn hôm nay), trên ánh sáng và bóng tối, trên gió bão và mây trời, trên muôn loài muôn vật…
Đây đích thực là bài thơ ca ngợi công trình sáng tạo. Bài thơ nầy là một trong những lý do khiến nhiều người nghĩ rằng công trình biên soạn sách Gióp được định vị vào thời lưu đày Ba-by-lon.
- Khung cảnh lịch sử:
Quả thật, hằng năm, ở Ba-by-lon vào ngày lễ Tân Niên, người ta ngâm thiên hùng ca về cuộc sáng tạo để tôn vinh cuộc chiến thắng khải hoàn của thần Mác-đút trên thủy thần Ti-a-mát. Như để đáp trả sự tán dương của một vị thần dân ngoại và các nghi lễ hằng năm nầy trong bối cảnh đa thần, những người Do thái lưu đày sáng tác những bài thi ca chúc tụng Đức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, Ngài là Thiên Chúa duy nhất và siêu việt, chỉ mình Ngài thật sự sáng tạo vũ trụ và an bài mọi sự. Chuyện tích về công trình sáng tạo trong sáu ngày ở đầu bộ Kinh Thánh làm chứng điều nầy (St 1: 1-2: 4a). Đoạn trích sách Gióp từ chương 38 nầy cũng làm chứng như vậy, trong đó những ám chỉ bản văn Ba-by-lon thật rõ ràng.
Bài thơ Ba-by-lon kể như thế nầy: sau khi đã chiến thắng thủy thần Ti-a-mát, hiện thân của vị thần vực thẳm nước nguyên thủy, thần Mác-đút liền phân đôi tử thi của ác thần nầy. Với phân nữa tử thi nầy, thần Mác-đút bao phủ bầu trời… Thần đóng cửa vực thẳm và đặt ngay tại chỗ những người canh cửa, rồi thần truyền lệnh cho họ không được để nước phun trào ra ngoài. Những cách diễn tả tương tự với những hình tượng của bản văn Ba-by-lon được gặp lại trong vài Thánh Vịnh, như
Tv 89: 10-11:
“Chính Ngài (Đức Chúa) chế ngự trùng dương ngạo nghễ,
dẹp yên bao sóng cả sóng cồn.
Chính Ngài giày xéo thủy thần Ra-háp, như giày xéo tử thi,
tay mạnh mẽ đập tan quân thù”.
Hay Thánh Vịnh 74: 12-13:
“Thế mà lạy Chúa, Vua chúng con từ muôn thuở,
Đấng từng chiến thắng trên mặt địa cầu,
chính Ngài đã ra oai sẻ đôi lòng biển, trên làn nước biếc,
Ngài đập vỡ sọ thuồng luồng”.
- Quyền năng của Thiên Chúa:
Trong sách Gióp, việc Thiên Chúa nhắc nhớ quyền năng của Ngài trên đại dương được diễn tả bằng những từ ngữ cao vời:
“Cửa đại dương, ai ra tay khép lại
khi nước tuôn trào từ đáy vực sâu,
khi Ta giăng mây làm áo nó mặc,
phủ sương mù làm tả che thân?
Đường ranh giới của nó, chính Ta vạch sẵn,
lại đặt vào nơi cửa đóng then cài;
rồi Ta phán: ‘Ngươi chỉ tới đây thôi,
chứ không được tiến xa hơn nữa,
đây là nơi các đợt sóng cao phải vỡ tan tành!” (38: 8-11).
Tác giả hướng phần cuối tác phẩm mình về mầu nhiệm Thiên Chúa. Đức Chúa dạy cho ông Gióp một bài học: ai có thể tự cho mình vô tội? Ai có thể khoác lác khi đòi chất vấn Thiên Chúa và tính sổ với Ngài? Thiên Chúa không phải phân minh với bất cứ ai; Ngài siêu vượt trên muôn loài muôn vật.
BÀI ĐỌC II ( 2Cr 5: 14-17)
Trong đoạn trích thư nầy, thánh Phao-lô tiếp tục biện minh sứ vụ tông đồ của mình. Sau khi đã nêu lên những gian truân và những niềm hy vọng của sứ vụ tông đồ, thánh Phao-lô vén mở cho thấy ngọn lửa nào đã hun đúc lòng nhiệt thành truyền giáo của thánh nhân, đó chính là “tình yêu Đức Ki tô”.
Kiểu nói: “Tình yêu Đức Ki tô”, vừa diễn tả tình yêu của thánh Phao-lô đối với Đức Ki-tô, vừa diễn tả tình yêu của Đức Ki-tô đối với nhân loại. Chính nghĩa thứ hai nầy: tình yêu Đức Ki tô đối với nhân loại đã nung nấu lòng nhiệt thành truyền giáo của thánh nhân.
- “Nếu một người đã chết thay cho mọi người”:
Khi nghĩ đến hy tế của Đức Ki-tô đã đem lại ơn cứu độ cho muôn người, thánh Phao-lô đã xúc động một cách sâu xa. Niềm cảm mến nầy dâng lên từ cuộc tử nạn của Đức Ki-tô. Cuộc tử nạn của Ngài không thể nào khơi dậy những hình ảnh hung bạo được. Sự kiện các sách Tin Mừng mô tả chừng mực cuộc tử nạn của Chúa Giê-su đã duy trì tính khách quan của các bài trình thuật đầy cảm xúc bao nhiêu, thì các bức thư với cung giọng cá nhân, như những bức thư của thánh Phao-lô, đã khơi dậy biết bao tâm tư tình cảm dạt dào bấy nhiêu.
Tuy nhiên, tâm tư tình cảm của thánh Phao-lô sống động một cách đặc biệt khi thánh nhân gợi lên sự liên đới của Đức Giê-su đau khổ với nhân loại tội lỗi. Ơn cứu độ không được đem đến cho một mình dân Ít-ra-en, nhưng cho toàn thể nhân loại. Tâm hồn Do thái của thánh Phao-lô xúc động sâu xa về điều nầy. Thánh nhân sẽ khai triển sâu xa khía cạnh đạo lý về mặc khải nầy trong thư gởi tín hữu Rô-ma.
- “Mọi người đều chết”:
Tư tưởng rất ngắn gọn; từ ngữ rất giản dị chắc chắn âm vang giáo huấn của thánh Phao-lô. Để hiểu đoạn trích nầy, tốt nhất nên quy chiếu đến chương 6 thư gởi tín hữu Rô-ma. “Mọi người đều chết”, nghĩa là, chết đối với tội lỗi. Chính “con người xưa cũ” của chúng ta đã bị đóng đinh với Đức Ki-tô. Chính vì chết đối với tội mà việc dìm mình vào trong nước thánh tẩy là dấu chỉ: “Nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Ki-tô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người” (Rm 6: 8) và “Người đã chết, là chết đối với tội lỗi, và một lần là đủ” (Rm 6: 10).
- “Để những ai đang sống, không còn sống cho chính mình nữa, mà sống cho Đấng đã chết và sống lại vì mình”:
Đây là suy tư khái quát, nhưng đặc biệt nhắm đến các Ki-tô hữu Cô-rin-tô và những chia rẽ giữa họ, vì thánh nhân đặt trọng tâm phần trình bày nầy chung quanh khía cạnh sứ vụ hòa giải. Sống trong Đức Ki-tô, chính là không còn nhìn tha nhân “theo quan điểm của loài người”, nhưng “theo quan điểm của Thiên Chúa”.
- “Và cho dù chúng tôi đã được biết Đức Ki-tô theo quan điểm loài người, thì giờ đây chúng tôi không còn biết Người như vậy nữa”:
Khi phát biểu: “Chúng tôi đã được biết Đức Ki-tô theo quan điểm loài người”, phải chăng thánh Phao-lô muốn nói rằng trước kia thánh nhân đã biết Đức Giê-su trần thế, hay ít ra đã thấy Ngài và đã nghe Ngài nói; tuy nhiên, vào lúc đó, thánh nhân đã thuộc về số người không tin vào sứ điệp của Đức? Hay đúng hơn phải chăng thánh Phao-lô muốn ám chỉ đến thời thánh nhân đã là kẻ bách hại, thời thánh nhân đã khảo sát Đức Ki-tô “theo quan điểm loài người”?
Để có thể nắm bắt tư tưởng của thánh nhân ở đây, chúng ta phải đọc đoạn văn này trong quan điểm bút chiến, đó có thể là chìa khóa của bản văn nầy. Thánh Phao-lô đã viết không bao lâu sau cái chết của Đức Giê-su. Trong đám thính giả của thánh nhân và trong những người nhận thư của thánh nhân, thánh nhân là một trong số họ đã biết Đức Ki-tô. Vài người trong số họ kiêu hãnh vì mình thuộc “nguồn gốc Do thái”; thậm chí họ còn dựa trên sự kiện Đức Giê-su đã thực hành luật Do thái để áp đặt luật nầy trên những Ki-tô hữu gốc lương dân. Dường như trong số những đối thủ của thánh nhân ở Cô-rin-tô có những người Ki-tô hữu gốc Do thái thuộc loại nầy. Họ đã đưa ra những lập luận dựa trên một quan niệm về Đức Ki tô “theo xác thịt” để đòi hỏi áp dụng những yêu sách của họ.
Thánh Phao-lô công bố rằng quan niệm nầy đã lỗi thời. Chính không còn ở nơi cuộc sống “theo xác thịt” nhưng ở nơi cuộc sống “theo Thần Khí” mà người Ki tô hữu được mời gọi dự phần vào: họ đã trở thành “một thụ tạo mới”. “Cái cũ đã qua và cái mới đã có đây rồi” (5: 17). Thánh Phao-lô hướng tầm nhìn về tương lai. Đối với thánh Phao-lô, không có gì có thể kiềm chế niềm hưng phấn lao về phía trước, về Đức Ki-tô quang vinh… Khi viết cho tín hữu Ê-phê-xô, thánh Phao-lô dùng động từ ở thì hiện tại: “Người cho chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Giê-su Ki-tô trên cõi trời rồi” (Ep 2: 6); ấy vậy “cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Ki tô” là chuyện tương lai (Rm 6: 3-11), tuy nhiên qua việc hiệp thông với Đức Ki tô, ngay từ bây giờ chúng ta thật sự đã được cùng sống lại và cùng ngự trị với Ngài trên cõi trời rồi.
TIN MỪNG (Mc 4: 35-41)
Đây là một trong những bài trình thuật sống động nhất và ý vị nhất của Tin Mừng Mác-cô. Bài trình thuật này cho thấy thánh Mác-cô quả là một người kể chuyện bậc thầy. Trong cùng một câu chuyện, hai bài trình thuật của Mt 8: 23-27 và của Lc 8: 22-26 không cung cấp những chi tiết sống động đến như thế và cũng không tường thuật với giọng điệu rất thân quen đến như vậy.
Câu chuyện này được dàn dựng như sau:
- Đức Giê-su và các môn đệ trước trận cuồng phong (4: 35-37).
- Đức Giê-su và các môn đệ trong trận cuồng phong (4: 38-39).
- Đức Giê-su và các môn đệ sau trận cuồng phong (4: 40-41).
A- Đức Giê-su và các môn đệ trước trận cuồng phong (4: 35-37):
35.“Hôm ấy, khi chiều đến”: Thánh Má-cô quen dùng hai diễn ngữ chỉ thời gian đi liền nhau trong đó diễn ngữ thứ hai: “Khi chiều đến”, xác định diễn ngữ thứ nhất: “Hôm ấy” (x. 1: 32, 35). Diễn ngữ thời gian kép này được dùng để nối kết câu chuyện trước đó với câu chuyện theo sau: Sau khi Chúa Giê-su giảng dạy bằng dụ ngôn suốt ngày, thì chiều dần buông, đêm đang tới. Trong não trạng thời xưa, đây là thời điểm thuận tiện cho quỷ thần xông ra quấy phá. Đối với những người quen sống trên đất liền và ngán sợ biển cả thì dòng nước sâu thẳm là nơi quyền lực ma quỷ rất thích cư ngụ.
-“Chúng ta sang bờ bên kia”: Nghĩa là sang bờ phía đông Biển Hồ Ga-li-lê, đây là vùng đất dân ngoại sinh sống. Tại sao Người muốn đi sang đó để thoát khỏi sự chống đối hay để gặp thấy một vùng đất mới mà rao giảng? Chúng ta không rõ, nhưng một điều chắc chắn đây là sáng kiến của Đức Giê-su. Dù thế nào, cuộc hành trình trên Biển Hồ vào lúc chiều hôm buông xuống và đêm đang tới là một cuộc hải trình thử thách đầy cam go.
36.“Bỏ đám đông ở lại, các ông chở Người đi, vì Người đang ở sẵn trên thuyền”: Câu nầy nhắc nhớ đến khung cảnh Đức Giê-su rao giảng bằng dụ ngôn như đã được chỉ rõ trước đó: “Đức Giê-su lại bắt đầu giảng dạy ở ven Biển Hồ. Một đám người rất đông tụ họp chung quanh Người nên Người phải xuống thuyền mà ngồi dưới biển, còn toàn thể đám đông thì ở trên bờ. Người dùng dụ ngôn mà dạy họ nhiều điều” (4: 1-2).
-“Có những thuyền khác cùng theo Người”: Trong khi câu chuyện diễn tiến, những thuyền khác nầy biến mất khỏi hoạt cảnh. Vài nhà chú giải gặp thấy một ám chỉ đến Tv 107, phác họa chân dung của Thiên Chúa, Đấng cứu các thương thuyền trong phong ba bão tố:
“Khi gặp bước ngặt nghèo, họ kêu lên cùng Chúa,
Người đưa tay kéo họ ra khỏi cảnh gian truân.
Đổi phong ba thành gió thoảng nhẹ nhàng,
sóng đang gầm bổng đâu im tiếng,
họ vui sướng vì trời êm bể lặng
và Chúa dẫn đưa họ về bờ bến mong chờ” (Tv 107: 28-30).
37.“Một trận cuồng phong nổi lên”: Trận cuồng phong thường xảy đến trên Biển Hồ Ga-li-lê do cuộc gặp gỡ giữa luồng gió từ Địa Trung Hải (phía Tây) và luồng gió từ hoang địa Xy-ri-a (phía Đông) tạo nên. Trong khi giảng dạy cho dân chúng bằng dụ ngôn, Đức Giê-su đã gợi lên rằng Nước Trời đến một cách quyền năng. Bây giờ, Đức Giê-su sắp chứng minh cho các môn đệ bằng hành động. Đối với các đối thủ của Người, những người Biệt Phái và Luật Sĩ, Đức Giê-su luôn từ chối yêu sách của họ là thực hiện một dấu lạ ngoạn mục để cho thấy uy quyền Thiên Sai của Người. Riêng đối với các môn đệ của Người, Đức Giê-su sắp ban cho họ dấu lạ quyền năng nầy.
B- Đức Giê-su và các môn đệ trong trận cuồng phong (4: 38-39):
38.“Đức Giê-su đang ở đàng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ”: Giữa trận cuồng phong, Đức Giê-su “dựa đầu vào gối mà ngủ” cách bình an tự tại. Sự thanh thản bình an của Đức Giê-su tương phản với trận cuồng phong.
Phải chăng Người quá mệt nhọc sau một ngày rao giảng nên Người “đang ở đằng lái, dựa đầu vào gối mà ngủ”? Chỗ đằng lái là chỗ dành cho tài công. Dường như người lái thuyền nhường chỗ đằng lái này cho Đức Giê-su để Người ngủ cho lại sức sau một ngày giảng dạy cho dân chúng. Chi tiết này cho thấy Đức Giê-su thật sự là một con người, nhưng câu chuyện tiếp theo cho thấy Người không đơn thuần là một con người khi Người chế ngự sức công phá của thiên nhiên. Sự đối lập giữa sự mệt mõi thể lý và sức mạnh thần linh mặc khải mầu nhiệm của Đức Giê-su, Đấng làm chủ mọi yếu tố thiên nhiên. Thật ra, Đức Giê-su ngủ thế nào được khi mà sóng to gió lớn làm chao đảo con thuyền dữ dội? Dù thế nào, hình ảnh Đức Giê-su vẫn thản nhiên nằm ngủ trong phong ba bão tố cho thấy Người vừa đặt trọn niềm tin tưởng vào Thiên Chúa (x. Tv 4: 9; 3: 24-26) vừa chứng tỏ Người luôn luôn làm chủ mọi tình huống. Việc mô tả Đức Giê-su thản nhiên nằm ngủ ở đây giống như người gieo giống ngủ (cùng một động từ) cách yên lành trước mầu nhiệm “hạt giống tự nẩy mầm, đơm bông kết trái” cho đến ngày mùa (4: 26-29).
-“Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?”: Trong đêm tối, các ông ra sức chèo chống con thuyền trước những đợt sóng to gió lớn. Khi thấy “nước ập vào thuyền”, các môn đệ kinh hãi đánh thức Người. Độc giả như nghe tiếng kêu trối chết của các môn đệ trong cơn hoảng loạn, tiếng kêu cứu của họ pha lẫn niềm tin tưởng với lời trách cứ: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi mà Thầy vẫn cứ ngủ và nghỉ sao?”. Chúng ta lưu ý đại từ xưng hô ở đây không là “chúng con” nhưng là “chúng ta”. Qua đại từ “chúng ta”, các môn đệ liên kết số phận của họ với số phận của Thầy: “Đồng hội đồng thuyền, đồng sinh đồng tử”, thế mà Đức Giê-su chẳng quan tâm gì đến tình cảnh thập tử nhất sinh này. Trong cùng một câu chuyện, thánh Lu-ca giảm nhẹ đáng kể tiếng kêu cứu này: “Thầy ơi, Thầy! Chúng ta chết mất” (Lc 8: 24), còn thánh Mát-thêu thì chuyển tiếng kêu cứu này thành lời khẩn nguyện trong phụng vụ: “Thưa Thầy, xin cứu chúng con, chúng con chết mất” (Mt 8: 25).
39.“Người thức dậy, ngăm đe gió, và truyền cho biển”: Sự kiện Đức Giê-su chế ngự phong ba bão tố minh nhiên cho thấy quyền năng thần linh của Người, vì chỉ một mình Thiên Chúa mới có quyền năng ngự trị trên sức mạnh hung dữ của biển cả:
“Chính Ngài đã ra oai xẻ đôi lòng biển,
trên làn nước biếc, Ngài đập vỡ sọ thuồng luồng;
chính Ngài đã nghiền nát bảy đầu con giao long,
vứt nó làm mồi cho thủy quái” (Tv 74: 13-14; x. 89: 10-12).
– “Im đi! Câm đi!”: Đức Giê-su truyền lệnh cho biển như một quyền lực được nhân cách hóa. Cũng bằng lệnh truyền đầy uy quyền như vậy, Đức Giê-su đã buộc quyền lực của quỷ ở trong người bị quỷ ám phải xuất khỏi người này (Mc 1: 25-26). Đức Giê-su là Đấng làm cho quyền lực của quỷ dữ phải khuất phục. Những yếu tố thiên nhiên đang điên cuồng gào thét biểu tượng sức tàn phá khủng khiếp của thế lực sự dữ. Lời Đức Chúa Giê-su có hiệu lực trên thế lực của sự dữ ngay lập tức như Lời quyền năng của Thiên Chúa trong Cựu Ước.
– “Gió liền tắt, và biển lặng như tờ”: Nét đặc trưng nầy nêu bật tính hiệu quả của Lời Đức Giê-su và quyền năng của Người trong việc chế ngự quyền lực của sự Dữ.
C- Đức Giê-su và các môn đệ sau trận cuồng phong (4: 40-41):
40.“Rồi Người bảo các ông: ‘Sao nhát thế?’”: Nhiều lần các tác giả Tân Ước đã cảnh giác về sự nhát đảm (x. 2Tm 1: 7; Ga 14: 1). Kh 21: 8 kể ra những người nhát đảm cùng với những người không tin.
-“Làm sao anh em vẫn chưa có lòng tin?”: Lời quở trách nầy là lời quở trách nặng nhất trực chỉ nhắm đến các môn đệ (x. 8: 14-21). Các môn đệ bị trách cứ vì thiếu niềm tin vào Thiên Chúa hay vào Đức Giê-su? Nếu vào Thiên Chúa, các ông bị quở trách vì không theo mẫu gương của Đức Giê-su tín thác vào Thiên Chúa (4: 38). Nếu vào Đức Giê-su, lời trách cứ muốn nói phải tin tưởng tuyệt đối vào sự hiện diện của Đức Giê-su. Cho dù phong ba bão tố có dữ dội đến đâu, con thuyền không thể bị nhận chìm được vì có Đức Giê-su đang ở trong con thuyền, ngay cả khi Người đang ngủ. Như vậy, trong Tin Mừng Mác-cô, đức tin không đơn thuần chỉ là xác tín về mặt tri thức mà thôi, mà còn phải tin tưởng vào Thiên Chúa và vào Đức Giê-su, dù gặp phải những thách đố trong cuộc sống (5: 34, 36; 9: 23-24).
41.“Các ông hoảng sợ”: Ở câu 40, Đức Giê-su trách cứ các môn đệ là nhát sợ. Ở đây, các môn đệ “hoảng sợ”. Tuy nhiên, ở câu 40, các ngài sợ phong ba bão tố, còn ở đây, các ngài kính sợ quyền năng của Đức Giê-su. Trình thuật kết thúc bằng nỗi kinh hoàng linh thánh của các chứng nhân trước việc Đức Giê-su biểu lộ quyền năng trên hoàn vũ của Người. Bởi vì chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể chế ngự phong ba bão tố: biểu tượng sức mạnh đối nghịch với Thiên Chúa, nên câu hỏi của các môn đệ: “Vậy người này là ai mà cả đến gió và biển cùng tuân lệnh?”, mặc lấy một lời tuyên xưng mặc nhiên về thần tính của Đức Giê-su, ít ra đến mức Người thực hiện những công việc thường được xác nhận thuộc về Thiên Chúa trong Cựu Ước.
Trong sách Mác-cô, chúng ta thường gặp những sự việc như vậy: lời Đức Giê-su nói và việc Người làm buộc người ta phải tự hỏi: “Người này là ai?” (1: 27; 2: 7; 4: 41; vân vân). Toàn bộ câu chuyện được nâng đỡ bằng sự căng thẳng liên tục nhắm đến mục tiêu cuối cùng nhằm làm nổi bật câu hỏi chung cuộc này: Vậy ông Giê-su này là ai? Do đâu ông có được quyền năng trấn áp trận cuồng phong để cứu vớt những môn đệ trong một con thuyền thập tử nhất sinh? Các câu hỏi ấy dần dần dẫn người đọc đến tận Thập Giá, ở đó mới gặp thấy câu trả lời ở nơi lời tuyên xưng của viên quan ngoại giáo: “Quả thật người này là Con Thiên Chúa” (Mc 15: 39).
D- Ý nghĩa thần học của câu chuyện:
Câu chuyện “Đức Giê-su dẹp yên phong ba bão tố” không đơn thuần là một trình thuật về phép lạ. Về phương diện biểu tượng, biến cố này giống như một tường thuật cô đọng về định mệnh của Chúa Giê-su. Nếu Đức Giê-su lôi kéo các môn đệ vào trận cuồng phong thì đó đâu phải là chuyện tình cờ! Cả cuộc đời của Đức Giê-su là một cuộc chiến gian khổ chống lại thế lực của sự Dữ mà Người phải đương đầu cách hung dữ nhất bằng chính cái chết của Người. Sự kiện Chúa nằm ngủ, dáng vẻ bình an tự tại trong một con thuyền giữa phong ba bão tố chứa đựng biết bao ý nghĩa.
Câu chuyện này đầy những từ ngữ biểu tượng khiến gợi lên trong tâm trí chúng ta rằng giấc ngủ ở đây tượng trưng một tình trạng “vắng mặt”, hoặc tượng trưng cho “cái chết” (x. Mc 5: 39). Cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Chúa Giê-su như đang diễn ra trước trong câu chuyện này. Khi thấy Đức Giê-su chết và mai táng trong mồ, các môn đệ hoàn toàn mất niềm tin vào Ngài. Tuy nhiên, “Sau khi chỗi dậy”, Đức Giê-su biểu lộ quyền năng chiến thắng của Người trên sức mạnh của sự Dữ và sự Chết. Quyền tối thượng này đã khiến các môn đệ thắc mắc và tự hỏi một câu hỏi quan trọng: “Người này là ai mà lại có quyền lực siêu nhiên đến như vậy?”. Trong Kinh Thánh, chỉ Thiên Chúa mới có quyền chế ngự sóng nước của tử thần.
Trong khi dựng lại bức tranh hiện thực này, thánh Mác-cô nhắm đến hai mục đích. Trước hết, Đức Giê-su thật sự là một con người, nhưng cũng thật sự là Thiên Chúa, Đấng có quyền năng tuyệt đối trên sự Dữ và sự Chết. Thứ nữa, tác giả nhằm đáp ứng nhu cầu hiện thực của Giáo Hội đương thời. Trong Tân Ước, “con thuyền” biểu tượng Giáo Hội đang lữ hành trong thế gian trên đường tiến về Quê Trời. Trong hoàn cảnh đương thời, các Ki-tô hữu Rô-ma đang bị bách hại khủng khiếp. Như các môn đệ trong con thuyền giữa trận cuồng phong, các tín hữu vô cùng sợ hãi. Trong cơn bách hại dữ dội nầy, dường như Đức Giê-su đang ngủ. Việc Đức Giê-su ngủ cách thanh thản bình an trong khi họ phải đương đầu với biết bao nỗi truân chuyên, khiến họ nghi nan ngờ vực. Chúa sẽ làm gì để cứu họ khỏi cái chết đang cầm chắc nầy? Câu chuyện nầy là câu trả lời của thánh Mác-cô gởi đến cho họ.
Cuối cùng, chúng ta đừng quên rằng trận cuồng phong xuất hiện khi Chúa Giê-su quyết định đưa các bạn hữu vượt Biển Hồ đến vùng đất dân ngoại để thi hành sứ mạng. Người ta có thể tự hỏi liệu các Ki-tô hữu Rô-ma tiên khởi đã không từng cảm thấy việc loan truyền Tin Mừng cho những người đương thời với họ là một công việc đáng sợ sao?
(Suy niệm của Lm Giuse Tạ Duy Tuyền)
Cuộc ra khơi nào cũng chứa đựng những bất trắc, những hiểm nguy. Dòng đời nào cũng có biết bao cạm bẫy giăng ngang. Biển khơi luôn làm cho con người sợ hãi. Dòng đời luôn làm cho con người lo âu. Con người luôn cảm thấy mình quá nhỏ bé trước biển khơi và biển đời. Biển đời và biển khơi mãi mãi làm cho con người cảm thất bất lực. Sóng gió vẫn thét gào. Sự dữ vẫn tung hoành. Con người luôn phải đối phó trước những tình huống rủi ro có thể xảy đến.
Thời gian qua báo chí nói nhiều về những nguy hiểm của các ngư dân Việt Nam đánh cá xa bờ. Lênh đênh trên biển. Không được bảo vệ. Một mình đối phó với biết bao hiểm nguy do thiên nhiên đưa đến, và ghê sợ hơn là do chính con người gây ra. Sự táo bạo của bọn cướp biển. Sự tranh giành phần biển đánh cá của các nước lân bang. Nhiều ngư dân cảm thấy sợ hãi khi phải rời bến xa bờ. Họ cảm thấy bất lực trước gian nguy trước mặt. Họ không dám mạo hiểm đánh đổi tính mạng mình để đổi lấy một vài con cá. Họ đành rút lui. Họ sợ không thể đương đầu với bao sóng gió nghi nan. Kẻ bán thuyền. Người để thuyền nằm bờ chờ đợi thời cơ. Có mấy ai đủ can đảm ra khơi lúc này? Họ biết rằng ở nhà thì đói. Nhưng ra đi càng thêm nợ nần, có khi còn mất cả tính mạng!
Năm xưa các tông đồ đã từng hoảng loạn, sợ hãi trước sức mạnh của thiên nhiên, của giông bão. Giông bão như muốn nhấn chìm tất cả: con người và tài sản. Con thuyền của họ thật mong manh! Họ đâu nghĩ rằng đêm nay biển dậy sóng trào. Họ đâu lường hết được những rủi ro có thể đến với họ đêm nay. Họ phải đối đầu với nguy nan, với bất trắc, với rủi ro. Một chiếc thuyền nan mong manh trên biển cả biết bám víu vào đâu? Làm sao họ có thể vào bờ an toàn trước gió biển và cuồng phong lồng lộng. Họ bất lực. Họ muốn buông xuôi cho dòng đời xô đẩy. Nhưng may thay, họ đã nhớ đến Thầy. Thầy vẫn hiện diện bên họ. Có Thầy hiện diện tại sao không cầu cứu? Thầy có thể làm cho kẻ chết sống lại. Thầy có thể đẩy lùi sự dữ. Thầy có thể làm mọi sự. Tại sao không chạy đến cùng Thầy? Dầu sao Thầy cũng là một cái phao duy nhất để các ông bám víu trong lúc nguy nan của dòng đời.
Các ông đã chạy đến kêu cầu Thầy: “Thầy ơi, chúng con chết mất!”. Đó là tiếng kêu từ thẳm sâu tâm hồn cần đến sự trợ giúp từ Thầy Chí Thánh. Đó là tiếng cầu cứu nói lên sự bất lực của con người trước sóng gió ba đào.
Đó cũng là tiếng kêu cứu của con người hôm nay khi đứng trước biết bao nghịch cảnh xảy đến trong đời. Biển đời vẫn đưa đẩy những sóng gió nghi nan, những bất trắc đau thương. Thiên tai vẫn ập xuống địa cầu. Sự dữ vẫn đang tung hoành. Có nhiều người như muốn thất vọng buông xuôi vì không tìm được lối thoát. Có nhiều người oán trời oán đất vì quá sức chịu đựng. Có nhiều người ôm phiền muộn trong đau thương một mình vì chẳng tìm được sự an ủi, cảm thông và tin tưởng nơi tha nhân. Dòng đời vẫn còn đó tiếng kêu van tha thiết dâng lên Đấng tối cao. “Xin cứu chữa chúng con, Chúa ơi!”.
Vâng, cuộc đời vẫn còn đó biết bao sóng gió nổi trôi. Cuộc đời tựa như chiếc thuyền nan chòng chành trước bao cám dỗ mời mọc, bao sự dữ bủa vây. Chúa vẫn mời gọi chúng ta hãy tín thác vào Chúa. Hãy kêu cầu Chúa. Hãy đưa tay để Chúa dìu chúng ta đi qua những thăng trầm của dòng đời. Dòng đời đâu mấy khi bình yên. Con người mãi chơi vơi trong bể khổ trần gian. Nhưng có Chúa vẫn đang đi trong cuộc đời chúng ta. Hãy tin tưởng phó thác vào Chúa. Hãy tin tưởng vào tình thương quan phòng của Chúa, Ngài sẽ luôn làm những điều tốt đẹp nhất cho con cái của Ngài.
Nguyện xin Chúa Giêsu là Đấng luôn hiện diện bên cạnh các tông đồ và bên cuộc đời chúng ta, xin thương đến những cảnh đời đầy khó khăn thử thách của kiếp người chúng ta. Amen.
(Suy niệm của Lm. GB. Phạm Hồng Thái)
Biển hồ Galilê là hồ lớn có hình bầu dục chiều dài 21km, chiều rộng 12km, nơi các môn đệ Chúa Giêsu sinh sống bằng nghề chài lưới, cũng là nơi thân quen vì Chúa Giêsu nhiều lần rao giảng Tin Mừng cho dân chúng ở ven bờ. Chúa cũng làm một số phép lạ ở đây.
Sau một ngày vất vả rao giảng và đón tiếp dân chúng, chiều đến Chúa bảo các môn đệ chèo thuyền qua bờ bên kia. Chúa đồng hành với các môn đệ trên con thuyền đó, đàng khác cũng có những thuyền khác cùng đi theo. Thuyền ra lưng chừng giữa biển thì sóng gió nổi lên nếu lùi lại cũng không xong mà tiến tới thì cũng nguy hiểm. Sóng to gió lớn đến nỗi các môn đệ thấy nước tràn vào làm thuyền muốn chìm. Trong khi đó thì Chúa vẫn vô tư ở đàng lái dựa gối mà ngủ. Không biết Chúa ngủ thiệt hay Chúa giả vờ ngủ để thử thách đức tin các môn đệ, tương tự như khi Chúa Giêsu đồng hành với hai môn đệ đi Emmaus: Chúa giả vờ muốn đi xa hơn để xem hai môn đệ có lòng hiếu khách mời Chúa ở lại không. Tuy nhiên ở đây họ đã tới đánh thức Chúa dậy tương tự như chuyện ông Giona khi có gió bão ông vẫn ngủ say dưới tầng hầm tầu, và người ta cũng phải xuống đánh thức ông dậy.
Chúa Giêsu chỗi dậy rồi Chúa đe gió và phán với biển:”Hãy im đi, hãy lặng đi”. Tức thì gió ngừng và biển lặng như tờ. Lời Chúa Giêsu nói với gió biển cũng tương tự như khi trừ quỉ, Chúa truyền cho quỉ phải im đi và ra khỏi người bị quỉ ám. Sau đó Chúa Giêsu cũng không quên trách các môn đệ bằng lời như sau: “Sao các con sợ hãi thế? Các con không có đức tin ư?”
Thánh Marcô ghi: “Bấy giờ các ông kinh hãi và nói với nhau rằng: “Người là ai mà cả gió và biển cũng đều vâng lệnh Người” Câu nói của các môn đệ tỏ lòng thán phục và muốn nói lên rằng Chúa Giêsu Thầy mình là Thiên Chúa nên mới làm chủ được gió và biển. Còn lúc Chúa Giêsu dựa gối ngủ cho ta thấy Chúa Giêsu cũng là con người, nên Chúa cũng cần ăn uống ngủ nghỉ như chúng ta
Tin Mừng hôm nay cho chúng ta một đề tài thiết thân với đời sống người Kitô hữu: Đó là việc Chúa ngủ tức Chúa không quan tâm nên các môn đệ phải đánh thức Chúa và nói với Chúa: “Thưa Thầy, chúng con chết mất mà Thầy không quan tâm đến sao?” Nhiều lúc chúng ta cảm thấy như là Chúa lãnh đạm hoặc như là Chúa đi vắng giữa lúc chúng ta cần được sự trợ giúp của Chúa. Tác giả Thánh vịnh cũng phải kêu lên : “Lạy Chúa, xin Chúa chỗi dậy đi, tại sao Chúa lại ngủ? Chúa hãy thức dậy đi” (Tv 44, 24,45, 23…) và chúng ta cũng muốn nôn nóng đánh thức Chúa dậy như các môn đệ.
Trong cuộc khổ nạn Chúa Giêsu cũng phải trải qua tâm trạng như thế, đặc biệt là trên Cây thánh giá, Chúa Giêsu đã phải kêu lên cùng Chúa Cha: “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ Con (Mc 15, 34)”. Nhiều vị thánh cũng từng nếm trải những ngày tháng khó khăn mà thánh Gioan Thánh giá gọi là “đêm tối đức tin”.
Nhưng thực ra Chúa không bỏ rơi con cái Chúa, Chúa muốn thanh luyện lòng tin và lòng phó thác của các thánh cũng như của chúng ta để lòng tin và lòng trông cậy phó thác khi vượt qua thì sẽ được gia tăng hơn lên và vững bền hơn. Ông Gióp là một mẫu gương: ông vẫn tin tưởng và kêu cầu Chúa cả khi gặp hoạn nạn. Thánh Phêrô khuyên chúng ta: “Anh em hãy phó thác mọi lo âu cho Chúa vì Chúa luôn lo lắng cho anh em (1Pr 5, 7). Tác giả Thánh vịnh cũng khuyên chúng ta: “Hãy phó thác đường đời cho Chúa, tin tưởng vào Người, Người sẽ ra tay” (Tv 36, 5)
Có một người đi vượt biên kể lại câu chuyện như sau: Con thuyền của họ ra giữa biển khơi thì gặp sóng to gió lớn nổi lên. Ai cũng lo sợ nguy cơ đắm thuyền là rất lớn vì thế lúc này mọi người trên thuyền đều khẩn thiết cầu nguyện: người Công giáo thì cầu nguyện cùng Chúa, cùng Đức Mẹ, người theo đạo Phật thì đọc Nam mô cầu khấn Trời Phật… Có mấy người còn khấn hứa nếu được tai qua nạn khỏi tới bến bình an thì sẽ đi tu. Chúa cho chuyến đi đó được tới bờ tới bến bình yên. Người ta đặt câu hỏi không biết những người hứa sẽ đi tu, có giữ lời hứa không hay bây giờ được giầu có thịnh vượng định cư ở Nước Mỹ thì họ quên hết?
Con thuyền vượt biển cũng là hình ảnh cuộc đờì người kitô hữu chúng ta, có lúc thì được trời yên biển lặng, thuyền lướt đi nhẹ nhàng, chúng ta được an vui phụng sự Chúa, nhưng có lúc gặp phong ba bão táp, chúng ta phải vất vả chèo chống, và nhiều khi còn cảm thấy như Chúa không quan tâm hay quên mất mình nữa. Chính lúc này, chúng ta cần kiên trì cầu nguyện xin ơn Chúa giúp để có thể vượt qua. Hãy gia tăng lòng tin kính Chúa và phó thác cậy trông Chúa trong cơn nguy khốn Chúa sẽ nâng đỡ chúng ta kịp thời như Chúa đã giúp sức cho các tông đồ khi xưa.
Chắc chắn không ai tránh khỏi những sóng gió cuộc đời như con thuyền ra khơi. Chúng ta hãy dâng lên Chúa những lời nguyện tắt như thánh Phêrô và các tông đồ đã thưa với Chúa: “Lạy Chúa xin cứu giúp con” (Mt 14, 30) và “Xin ban thêm lòng tin cho chúng con” (Lc 17,5). Amen.
(Giải thích bản văn Tin Mừng của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)
Nằm trong văn mạch 4:35-5:43, trình thuật 4:35-41 là một trong những đoạn trình bày quyền năng của Chúa Giêsu được biểu lộ cho các môn đệ sau khi Người đã giảng dạy (4:1-34): giải thoát khỏi nguy hiểm sự chết (4:35-41); khỏi quyền lực thù nghịch với Thiên Chúa (5:1-20), khỏi bệnh tật (5:25-34), và khỏi sự chết (5:21-24.35-43). Điểm chung của các trình thuật nầy là: – sự hiện diện của các môn đệ ( 4:35; 5:13; 5:31.37); – sự bất lực của con người – cầu cứu ở Chúa Giêsu (4:38; 5:3; 5:23; 5:26); – Chúa Giêsu giải thoát mọi sự dữ (4:39; 5:12-13; 5:29; 5:41tt); – Người đòi hỏi lòng tin (4:40; 5:34.36). Cấu trúc của đoạn 4:35-41 có thể phân ra như sau: 1- Nhập đề: bối cảnh và nhân vật (cc. 35-36); 2- Chúa Giêsu làm sóng gió lặng yên (cc. 37-29); 3- Kết luận: Thắc mắc của cả Chúa Giêsu và các môn đệ (cc. 40-41).
Câu 4:34 là móc nối giữa hai đoạn 4:1-34 và 4:35-5:43. Như khi ở riêng với các môn đệ, Chúa Giêsu đã thường cắt nghĩa mọi sự cho họ, Người cũng sẽ tỏ chân dung của Người qua những việc quyền năng Người thực hiện khi Người và họ đã tách khỏi dân chúng (x. 3:9.20.32; 4:1). Họ cần “ở với Người” (c. 36) như lần đầu tiên họ được kêu gọi để có thể có kinh nghiệm sâu đậm về Người (3:14; x. 5:37). “Buổi chiều” trong Marcô thường là khung cảnh của những việc không tốt lành sẽ xảy đến (4:35; x. 6:47; 11:11; 14:17; 15:42). Đây là lần duy nhất Marcô nói là các môn đệ “đem Người theo” (paralambano). Động từ nầy nói đến quan hệ giữa Chúa Giêsu-môn đệ. Thông thường Người đem các môn đệ theo để tỏ cho họ chân tính của Người (9:2), cho họ hiệp thông vào cuộc thương khó của Người (10:32; 14:33). Ngược lại, các môn đệ đem Người theo và cuối cùng tỏ lộ cho Người thấy sự yếu đuối của họ (4: 40).
Trong hành trình sang bờ bên kia, các môn đệ kinh nghiệm ba điều: vũ lực của gió bão kéo theo nguy hiểm chết người, sự bất lực của con người và quyền năng của Chúa Giêsu (cc. 37-39). Gió bão được kể là quyền lực thù nghịch gây hại cho con người. Chúa Giêsu ngăm đe và ra lệnh “Im đi!” cho ma quỷ và gió bão (x. 1:25; 3:12; 4:38; 8:33; 9:25). Các môn đệ thấy lâm nguy cho tất cả “chúng ta”, nhưng lại tỏ ra bất lực chế ngự gió bão, nên phải làm Người chỗi dậy (egeirò). Mỗi lần Chúa Giêsu “làm ai chỗi dậy” là Người đã chữa lành người đó (x. 1:31; 5:41; 9:27). Trái lại, các môn đệ chờ đợi sự can thiệp từ phía Người. Việc Người ngủ trong khi thuyền gặp bão tố cho thấy Người không sợ bị hại do những gì có thể xảy ra (x. 13:36; 14:37.40tt). Không cần ngăn ngừa và tránh né, vì Người làm chủ trên gió bão.
Khi gió bão đã biến mất, Chúa Giêsu đặt câu hỏi với các môn đệ, cũng như họ cũng tự hỏi về Người là ai. Hai câu hỏi của Người không mâu thuẫn nhau; trái lại, mở một con đường. Trong tình huống gió bão có thể gây chết người, vì đã để mình cuốn lôi bởi vũ lực vô nhân tính, nên các môn đệ đã cảm nghiệm cách thâm sâu sự bất lực mà biểu hiện của nó là sự sợ hãi. Trái lại, cũng trước nguy hiểm ấy, nếu để Chúa Giêsu và sự hiện diện của Người dẫn dắt vô điều kiện, sẽ không cảm thấy bị đe dọa và không sợ hãi. Đó là đức tin vô điều kiện Người muốn nơi môn đệ của Người (x. 11:22). Còn câu tự hỏi của các môn đệ rất giống với những câu hỏi của dân chúng trước đây, chỉ sự kinh ngạc và thán phục trước công cuộc cao cả tỏ hiện quyền năng của Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu (x. 1:27).
Biết Chúa Giêsu không chỉ bằng tri thức, mà cả kinh nghiệm bản thân. Đức tin cần thiết để nhận biết Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa đang thực hiện những điều không thể cho con người, và để sống hiệp thông với Người (x. 4:11).
(Suy niệm của Lm. Thu Băng, CRM)
LẠY THẦY CỨU CHÚNG CON VỚI, CHẾT MẤT
- Lo sợ và tin tưởng
Kinh nghiệm cho thấy Sợ hãi vẫn đi theo đời sống của con người và mỗi chặng đường cuộc sống là một cái gì đó làm cho con người sợ hãi.
Từ cái sợ mơ hồ của thời còn nhỏ như:
* Sợ người lớn, sợ bóng gió, sợ con vật.
Đến cái sợ chính đáng của tuổi trưởng thành:
* Sợ thất nghiệp, sợ gia đình phân tán, sợ thiên tai, sợ chiến tranh, sợ chết…
Câu chuyện của Phêrô đi trên biển hôm nay gợi lại cho chúng ta thấy phần nào cái sợ của con người và niềm tin mỏng manh vào Chúa.
- Sợ hãi chiếm một địa vị khá lớn trong cuộc sống:
– Đứng trước một nghịch cảnh, ta thấy lòng nao nao rung động.
– Nhìn núi cao hùng vĩ, ngó vực thẳm hun hút, chân đứng trên đá vững chắc cũng vẫn thất run run trong lòng.
– Gặp một con thuyền lạ tiến đến với súng ống lăm le chĩa vào thuyền, ta thấy nguy cho tính mạng.
– Một tiếng động trong đêm hoang vắng làm ta lạnh xương sống.
– Nhìn vào thực tại cuộc sống còn biết bao nhiêu cái lo cái sợ khác nữa: Thất nghiệp lấy gì mà trả tiền nhà? Sợ thiếu thuốc men, sợ bệnh tật, sợ con hư thân, sợ cả bà nội tướng la nữa… Sợ hãi chỉ vì lúc đó cái ý tưởng nguy nan ám ảnh làm ta mất bình tĩnh, tâm thần rối loạn.
- Ngước nhìn về lịch sử con người từ thời thượng cổ:
– Ađam Evà cũng đã mang cái sợ khi lỗi luật Chúa: Ăn trái cấm, trần truồng nên không dám bước ra khỏi bụi cây (Gen 3:9-10).
– Con trẻ sơ sinh vừa lọt lòng mẹ đã cảm thấy sợ hãi mà khóc.
- Sợ có nhiều cấp bậc và nhiều phương diện:
– Kẻ bạo động giết người vì sợ người khác giết mình.
– Kẻ độc tài như Tần Thủy Hoàng tàn sát, đốt làng vì sợ dân hại mình.
– Các cường cuốc trên thế giới võ tranh ráo riết cũng vị sợ mình bị tiêu diệt.
– Tóm lại, thế giới này là thế giới sợ hãi, ngoại trừ kẻ điếc không sợ súng còn chúng ta ai cũng sợ cả.
Nhưng phải nhận thực: Chỉ nên sợ cái nào đáng sợ, lại phải biết trấn át sợ hãi để mình bình yên.
– Chúa Kitô sau khi truyền cho sóng gió im lặng, Ngài bảo các môn đệ: “Sao các con sợ? Các con không có đức tin ư?” Điều đó không khác gì Ngài nói: “Các con không biết Thầy ở cùng thuyền sao? Các con không biết Thầy có quyền năng lấn át gió biển sao? Thầy đã chẳng cho Phêrô đi trên mặt biển đến với Thầy sao? Vậy sao các con sợ chìm thuyền?”
- Có Chuyện kể rằng:
- Một người làm xiệc rất giỏi, ông đi trên một sợi dây từ nóc nhà này qua nóc nhà kia, hai tay kẹp thêm hai người nữa. Ông vừa đi vừa nhảy mà không sao cả. Hai người hai bên còn cười và dẫy dụa mua vui cho khán giả.
Nhìn xuống dưới đất, ông làm xiệc thấy em bé đứng há hốc miệng nhìn lên cách thú vị. Ông hỏi: “Em có tin tôi cũng bế em trên dây được không?” Em trả lời: “Tôi tin chứ”. Nhưng khi ông làm xiệc tới gần, em bé liền chạy mất. Đó là tin tưởng ngoài miệng nhiều hơn là tin tưởng trong lòng. Còn kẻ tin tưởng thật vào Chúa thì khác.
Một Chuyện khác:
- Một cậu bé 5 tuổi đang ngủ ngon trên thuyền, bỗng thức giấc vì bão nổi lên. Cậu mở mắt thấy mọi sự đang chìm trong bóng tối. Tiếng gió lách qua khe cửa rít lên từng cơn. Bỗng bé xao động, cậu hoảng hốt goị cha:
– Cha ơi. Cha ơi! Con sợ quá.
Người cha nghe tiếng con hối hả đáp lời:
– Cha đây con. Nghe tiếng cha cậu đáp vọng lại: Cha đâu? Con không thấy?
Cậu đưa tay quờ quạng lung tung. Đụng được vào cha, cậu níu lất cha. Cha ôm con vào lòng, vỗ về và ru cậu ngủ lại trong giấc ngủ lại.
Mặc dù trời vẫn mưa, bão vẫn lớn, màn đêm vẫn dầy đặc, nhưng sợ hãi trong lòng cậu bé không còn nữa.
Trong những ngày đau khổ của cuộc sống trần gian, những lúc hiểm hoạ cuộc đời, chớ gì chúng ta cũng biết cầu cứu Chúa với niềm tin, một niềm tin phó thác. Chỉ vậy thôi, không cần gì hơn nữa, chúng ta sẽ cảm thấy an tâm với cuộc sống.
Chúa sẽ không cất lấy sự lo lắng của chúng ta cho tới khi ta quyết định phó thác cho Ngài.. Lăng xả vào lòng Ngài và Ngài sẽ vỗ về ta vào trong giây phút bình an. Chúa không chịu thua chúng ta khi chúng ta biết phó thác nơi Ngài.
(Suy niệm của Lm. Minh Vận, CRM)
Lịch sử tường thuật một phép lạ sau đây: Khi Đô Đốc Magella hướng dẫn đoàn tầu thám hiểm Phi Luật Tân, vừa ra giữa biển khơi thì gặp cơn bão dữ dội, khiến đoàn tầu đắm chìm hầu hết, chỉ còn duy chiếc tầu của Đô Đốc đang bồng bềnh trôi dạt trên sóng nước. Mọi người đều kinh hoàng khiếp sợ, tụ họp lại trên bong tầu để chờ đợi tử thần. Nhìn thấy bên cạnh mình, một thiếu phụ ẵm đứa con thơ, Đô Đốc xin được ẵm đứa bé. Rồi ông bồng nó trên tay, dâng lên trời cao và dâng lời cầu nguyện thống thiết lên Chúa: “Lạy Chúa, chúng con là những kẻ tội lỗi, đáng chết chìm dưới vực thẳm này, nhưng xin Chúa hãy đoái thương nhìn đến em bé thơ ngây vô tội này, mà tha thứ tội lỗi cho chúng con”. Lịch sử xác nhận sự kiện lạ lùng này bằng lời chứng: “Lời ông nguyện vừa dứt thì cơn bão tố yên lặng” (Trích sách “Gặp Gỡ Chúa” trang 94).
- TẠI SAO CHÚNG CON SỢ HÃI
Cũng một tâm trạng hoảng sợ như đoàn thám hiểm của Đô Đốc Magella trên đây, các Tông Đồ cũng hãi hùng kinh khiếp khi thấy phong ba nổi lên dữ dội, khiến các ngài tới đánh thức Chúa dậy và có vẻ trách giỗi Chúa: “Thưa Thầy, chúng con hầu chết chìm mà Thầy cứ làm ngơ, không quan tâm gì sao?” Chúa chỗi dậy ngay và quát bảo giông tố: “Hãy im đi! Hãy im đi!” Với lời uy quyền đó của Chúa, lập tức giông tố ngừng và biển lặng như tờ. Quay lại nhìn các môn đệ, Chúa hỏi như quở trách các ông: “Tại sao các con sợ hãi? Các con không có Đức Tin ư?” Thấy phép lạ Chúa làm, lại được nghe lời Chúa khiển trách, các Tông Đồ tự cảm thấy hổ thẹn vì thiếu lòng tin nơi Thầy, nên các ngài kinh hãi nói với nhau: “Người là ai mà gió bão và giông tố cũng đều phải vâng lệnh Người?”
- TRẦN GIAN LÀ BIỂN KHƠI
Trần gian là biển khơi, lúc phẳng lặng, lúc gợn sóng, lúc phong ba giông tố. Nhân loại như đoàn lữ hành vượt biển, cầu mong tới bến bình an.
Trần gian lúc được sánh ví như là biển khổ, như thung lũng nước mắt; như nơi giao chiến với biết bao kẻ thù, phải vật lộn vất vả, đổ mồ hôi sôi nước mắt vì sinh kế.
Nhưng với cái nhìn hy vọng và lạc quan, Thánh Tông Đồ Phaolô đã nói với chúng ta: “Đây là thời thuận tiện, đây là ngày cứu độ” (1 Cor 6:2). Như thế, thời gian Chúa ban cho chúng ta được sống trên trần gian này, lại không phải là một ơn ban, một cơ hội thuận tiện giúp chúng ta lập công luyện đức, để thánh hóa bản thân và cứu độ tha nhân, cùng nhau phụng sự tôn thờ và yêu mến Thiên Chúa để đạt tới hạnh phúc vĩnh cửu mà Chúa đã sắm sẵn cho chúng ta là con cái Chúa trên Quê Trời sao?
Toàn thể nhân loại, nhất là con cái Chúa, sống trên trần gian này là như đoàn lữ hành đang trên đường tiến về Quê Hương vĩnh cửu, lòng luôn khát mong đạt tới bến bình an, nơi hạnh phúc, nơi mà lòng chúng ta được toại nguyện, được thỏa mãn trong Chúa là cùng đích tối chung của chúng ta.
Kết Luận
Để đạt tới cùng đích mong chờ của ơn gọi làm con cái Thiên Chúa, chúng ta cần phải đặt trót niềm tin cậy phó thác nơi một mình Chúa. Có Chúa hiện diện nơi cuộc sống, được Chúa ngự trong tâm hồn, chúng ta còn sợ hãi gì? Chúa đã chết thay cho chúng ta, để tái sinh chúng ta trong ơn thánh, cho chúng ta được phục hồi ơn làm con cái Chúa nhờ công nghiệp Ơn Cứu Độ của Chúa Giêsu Kitô Con Chúa, chúng ta còn sợ hãi gi?
Vậy chúng ta hãy sống cho Chúa, hãy biến đổi và trở nên một tạo vật mới của Chúa. Nếu chúng ta có tâm hồn trong sạch thánh thiện, luôn sống trong ơn nghĩa Chúa, giông tố bão táp có nổi lên mạnh mẽ thế nào đi nữa, đời sống chúng ta cũng sẽ luôn được an bình và được thưởng nếm niềm vui sướng hạnh phúc chân thật của Chúa ngay trên trần gian này.
(Suy niệm của Lm Trọng Hương)
- Hạt giống…
Phép lạ dẹp yên bão tố này chứng tỏ uy quyền của Chúa Giêsu trên sức mạnh thiên nhiên:
- Những chi tiết mô tả sức mạnh của thiên nhiên: một trận cuồng phong, sóng ập vào thuyền, thuyền đầy nước, các môn đệ hoảng sợ.
- Những chi tiết mô tả sức mạnh ưu việt của Chúa Giêsu: Ngài vẫn ngủ, Ngài hăm đe gió và truyền lệnh cho biển, sau chỉ một lời truyền của Ngài gió liền tắt và biển lặng như tờ; sau phép lạ các môn đệ hỏi nhau “Người này là ai mà cả đến gió lẫn biển cũng tuân lệnh”.
B…. nẩy mầm.
- Vì Chúa là chúa tể của thiên nhiên nên khi nhìn thiên nhiên, chúng ta phải dâng lời ca tụng Chúa. “Chúc tụng Chúa đi, nguồn nước tận cao xanh; Chúc tụng Chúa đi mọi cơ binh thượng giới; Chúc tụng Chúa đi mặt trời với mặt trăng; Chúc tụng Chúa đi hỡi tinh tú muôn ngàn; Chúc tụng Chúa đi nào mưa sương tất cả; Chúc tụng Chúa đi mọi luồng gió cơn giông; Chúc tụng Chúa đi sức nóng với lửa hồng; Chúc tụng Chúa đi trời nồng và khí lạnh; Chúc tụng Chúa đi nào sương đọng mưa tuôn; Chúc tụng Chúa đi kìa thời đông tiết giá; Chúc tụng Chúa đi nào băng phủ tuyết rơi; Chúc tụng Chúa đi hỡi đêm ngày đắp đổi; Chúc tụng Chúa đi ánh sáng và bóng tối; Chúc tụng Chúa đi chớp giật với mây trôi…” (Tv 62: Kinh Sáng Chúa nhựt Tuần I).
- Sức mạnh thiên nhiên cũng là những hiện tượng tự nhiên xảy đến trong cơ thể ta. Thí dụ: lúc ta khoẻ khi ta bệnh, khi ta trẻ lúc ta già… Có lúc sức khoẻ suy sụp làm ta tưởng mình đang trên một chiếc thuyền gặp cuồng phong bão táp. Và khi đó hình như Chúa vẫn ngủ. Nhưng thực sự Ngài không ngủ, Ngài vẫn là người lèo lái dẫn dắt thuyền đời của ta. Hãy phó thác cho Ngài dẫn dắt.
- Thi sĩ Lord Tennyson và một người bạn đang đi dạo trong vườn hoa và cùng nhau trao đổi về những chủ đề thời thượng của quần chúng. Là một Kitô-hữu, người bạn muốn biết thái độ của thi sĩ đối với đức Kitô. Sau mấy giây thinh lặng, người bạn hỏi: “Anh có khi nào nghĩ về đức Kitô không?” Tennyson đưa tay ngắt một bông hoa rực rỡ toả hương bên đường, nói: “Như mặt trời đối với đoá hoa thế nào, thì đức Kitô đối với tôi cũng vậy.” (Góp nhặt)
(Suy niệm của Lm. VIKINI)
Cơn bão số hai đổ bộ vào tỉnh Quảng Nam, Đà Nẵng từ chiều 24 đến 25 tháng 05 năm 1989, sức gió giật cấp 12 kèm theo mưa to đổ xuống như thác. Đây là cơn bão mạnh nhất từ trước đến nay ở tỉnh này. Thống kê đầu tiên cho biết gần 500 người bị chết và mất tích. Hàng trăm người bị thương, hàng vạn ngôi nhà, nhiều trường học, bệnh viện, trạm trại, kho tàng … bị sụp đổ, hàng nghìn tầu thuyền bị chìm, hư hỏng, thất lạc. Trên 50.000 mét khối kinh mương thủy lợi bị vỡ lở … Bị tổn thất rất to lớn chưa thể tính hết được.
Chỉ một cơn bão ở một miền nhỏ so sánh với cả nước, và nếu sánh với cả địa cầu nó chỉ là một chấm nhỏ đã phải chịu một cơn bão khủng khiếp như thế, thì trên trái đất này còn phải chịu bao nhiêu cơn bão khủng khiếp đến chừng nào! Biển cả đối với loài người vẫn là mối nguy cơ lớn đe dọa ghê gớm, một mãnh lực không thể chế ngự được. Trước nguy cơ của biển, con người quá bé nhỏ mong manh không ai dám cậy tài, cậy sức vào bất cứ một con tàu nào, dù nó là con tàu khổng lồ như Titan, hay tối tân như con tàu nguyên tử, chỉ đụng sơ vào tảng băng, đá ngầm đều vỡ tan, chìm mất tích dưới đáy đại dương.
Biển hồ Tibêria xưa tới nay vẫn nổi tiếng sóng gió đột ngột nổi lên dữ dội do những luồng gió thổi từ cao nguyên Giôlăng tới. Thêm vào đó, thời các tông đồ, thuyền bè chỉ là mấy miếng gỗ, tre, nứa thô sơ, khi gặp bão biển, chỉ còn cách nộp mình cho thần chết. May cho các môn đệ, các ông đã biết Đức Giêsu, Đấng đã trừ khử quỷ dữ (Mc. 1, 25), Đấng chế ngự thần chết (Mc. 5, 35-43), Ngài đang ngủ ở đàng sau thuyền, chắc chắn sẽ khắc phục được bão biển.
Nhưng sao Ngài vẫn ngủ yên trước cuồng phong dữ dội? Thật lạ lùng! Các ông không thể kiên nhẫn chờ Ngài thức dậy. Sóng đã ập vào thuyền đầy tràn nước rồi, mau mau chạy đến kêu gào Ngài cứu nguy: “Lạy Thầy, xin Thầy cứu vớt, chúng con chết mất”.
Chìm thuyền, chết đến nơi rồi, thế mà Ngài còn than trách: “Sao nhát đảm, hỡi kẻ yếu lòng tin?”. Lòng tin quá yếu, nhưng các ông vẫn còn một chút tin tưởng cầu xin Ngài, nhờ đó, Thầy đã quát bảo bão biển phải im lặng ngay. Kinh ngạc bao nhiêu, Ngài là ai mà bão tố, sóng gió biển cả phải tuân lệnh. Thứ mãnh lực vô tri, vô giác, sao biết nghe lời Ngài? Sao những thứ có tri, có giác, không biết nghe lời Ngài mà lặng yên đi, đừng nổi loạn nữa? Tại sao loài người dám nổi loạn chống lại Ngài? Phải chăng họ cậy có tri, có giác, có tài? Vì cậy có tri, có giác, có tài nên đã bị những thứ vô tri, vô giác, vô tài nổi loạn chống lại loài người. Chừng nào loài người mới biết mở mắt ra thấy mình quá yếu đuối, quá bất lực trước thiên nhiên vô tri giác, lúc đó loài người mới biết chạy đến cầu cứu Đấng đã dựng nên và an bài mọi sự. Thiên Chúa nhiều lần đã dạy cho loài người những bài học đích đáng như đại hồng thủy, động đất, cháy rừng, hạn hán, bệnh tật để đừng bao giờ dám cậy mình đòi bằng Thiên Chúa hay chối bỏ Ngài.
Các môn đệ, phải chăng lúc ra khơi cũng tự mãn cho mình là dân biển lành nghề, chẳng sợ chi ai, mặc kệ Thầy nằm đó, Thầy đang nhờ cậy ta vượt biển! Viết đoạn Phúc Âm này, Marcô không phải chỉ giản dị kể lại một phép lạ, mà chủ đích làm nổi bật câu hỏi: “Ngài là ai mà bão và biển phải tuân lệnh?”. Không phải Ngài vô tình dẫn môn đệ sang bờ biển đối diện bên kia, miền đất của lương dân thù địch với Galilê, miền đất của dân Do thái. Suốt cuộc đời Ngài phải trải qua những cuộc chiến gay go chống lại kẻ tin ma thờ quấy, sự dữ, tội lỗi, bệnh tật và cái chết khốc liệt. Những sự dữ đó Kinh thánh thường gọi đêm tối, vực sâu biển cả, Ngài ngủ trong đêm tối giữa biển cả trần gian, bao nhiêu cuồng phong bão lực đang phá xiềng, phá xích, xổ lồng tung hoành khủng khiếp. Giấc ngủ kinh hoàng của Ngài là cuộc thương khó; Ngài ở đàng lái, cuối thuyền, dựa đầu vào gối mà ngủ giữa đêm bão biển. Cuối đời Ngài, Ngài cũng phải dựa đầu vào cây thập giá mà chết giữa những địch thù khát máu. Hôm nay, giữa bão biển đêm tối, Ngài muốn thao dượt đức tin non yếu của các ông, để ngày mai giữa cơn khủng hoảng thương khó của Ngài, các ông “đừng sợ”. Nhưng các ông vẫn khiếp sợ chạy trốn. Phúc cho các ông, Ngài thức dậy, dẹp yên sóng gió. Ngài chỗi dậy từ trong kẻ chết cho các ông được bình an! được chỗi dậy với Ngài trong vinh quang, Ngài bảo trước cho Phêrô: “Khi con chỗi dậy, con hãy làm cho anh em con nên vững mạnh” (Lc. 22, 32).
Giờ đây Phêrô đang kể lại kinh nghiệm sống chết này cho giáo đoàn Rôma đang lâm cảnh cuồng phong bão táp gây nên cảnh chết chóc tử đạo khốc liệt để họ kiên trì vững mạnh trong đức tin mà biết dựa đầu vào Đức Giêsu mà chỗi dậy trong “Đấng đã chết và sống lại vinh quang vì họ”(2Cr. 5, 17).
Lạy Chúa, biển đời đầy dẫy những nguy hiểm: “nguy hiểm về sông ngòi, nguy hiểm về trộm cướp, nguy hiểm về đồng bào, nguy hiểm về dân ngoại, nguy hiểm nơi thành thị, nguy hiểm chốn hoang vu, nguy hiểm trên biển cả, nguy hiểm vì anh em giả dối … nào ai yếu đuối mà tôi không yếu đuối? Ai vấp ngã mà tôi không bỏng xót!” (2Cr. 11, 26-29).
Lạy Chúa xin cho chúng con biết dựa đầu vào Chúa mà chỗi dậy luôn luôn.
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Có lẽ chẳng ai lạ gì với câu ca dao này: “Người ta đi biển có đôi, còn tôi đi biển mồ côi một mình”. Đó là nói về tình trạng một phụ nữ có chồng nhưng chẳng nhờ chồng được gì, cứ phải mình ên lo toan mọi thứ cho gia đình.
Nói đến sóng là nói đến nước, sông và biển. Sóng có nhiều loại: Sóng lớn (to), sóng nhỏ, sóng cao, sóng thấp, sóng cồn, sóng cả, sóng bạc đầu, sóng thần,… Sóng còn mang nghĩa khác như sóng truyền hình, sóng phát thanh, sóng điện từ,… thậm chí còn gọi là làn sóng người. Chắc hẳn nguy hiểm nhất và đáng sợ nhất là sóng cám dỗ, sóng tội lỗi, sóng mê đắm, sóng thù hận,… Các xu hướng xấu càng ngày càng xuất hiện nhiều, đó cũng là những “con sóng” nguy hiểm cần phải lưu ý!
Về điện tử, sóng còn gọi là bước sóng, có chuyển động với tần số dài hoặc ngắn, và có tác dụng khác nhau. Ví dụ: Sóng phát thanh có tần số ngắn thì có thể phát đi xa, sóng phát thanh có tần số dài thì có thể phát đi gần. Trong vật lý, sóng là sự lan truyền của dao động, sóng có thể mang theo năng lượng, lan truyền trong nhiều môi trường khác nhau, cũng có thể bị đổi hướng (bởi khúc xạ, phản xạ, tán xạ, nhiễu xạ,…), và có thể thay đổi năng lượng (bởi hấp thụ, bức xạ,…), thậm chí là thay đổi cấu trúc (như thay đổi tần số, môi trường phi tuyến tính,…).
Trong ca khúc “Sóng Về Đâu”, cố NS Trịnh Công Sơn đã từng nói với biển: “Biển sóng biển sóng đừng xô tôi, đừng xô tôi ngã dưới chân người; biển sóng biển sóng đừng xô nhau, ta xô biển lại sóng về đâu?”.
Sóng là hình tượng của nỗi gian truân, cực khổ của con người. Không ai muốn gặp đau khổ, nhưng chính đau khổ mới làm cho người ta thành nhân. Vả lại, thử thách càng lớn, cơ hội càng lớn. Ngạn ngữ Phi châu có câu: “Biển lặng chẳng tạo nên thủy thủ tài ba”. Tục ngữ Việt Nam cũng nói: “Lửa thử vàng, gian nan thử sức”. Chính gian khổ cho chúng ta biết ai là người đáng là thầy ta hay không.
Thomas Carlyle (1795-1881, triết gia, nhà văn châm biếm, nhà viết luận, sử gia và nhà giáo người Tô Cách Lan) đã nhận định: “Tai ương là bụi kim cương mà Thiên Đường dùng để đánh bóng châu báu” (Adversity is the diamond dust that Heaven polishes its jewels with).
Từ cổ chí kim – và có thể cho đến tận thế, có lẽ không ai phải lao đao chịu khốn khổ như Thánh Gióp, thậm chí còn bị Satan thử thách đủ kiểu (Sách Gióp, chương 1). Nhưng dù thế nào thì ông Gióp vẫn một niềm tín trung. Và rồi ngay giữa cơn bão táp, Đức Chúa đã lên tiếng trả lời ông: “Cửa đại dương, ai ra tay khép lại khi nước tuôn trào từ đáy vực sâu, khi Ta giăng mây làm áo nó mặc, phủ sương mù làm tã che thân? Đường ranh giới của nó, chính Ta vạch sẵn, lại đặt vào nơi cửa đóng then cài” (G 38:8-10). Rồi Thiên Chúa nói với ông Gióp: “Ngươi chỉ tới đây thôi, chứ không được tiến xa hơn nữa, đây là nơi các đợt sóng cao phải vỡ tan tành!” (G 38:11).
Trong tâm tình tạ ơn vì được Thiên Chúa giải thoát, tác giả Thánh Vịnh cho biết: “Họ vượt biển ngược xuôi nghề thương mãi, giữa trùng dương lèo lái con tàu, mắt đã tường việc Chúa làm nên và kỳ công Người thực hiện giữa dòng nước lũ. Chúa truyền lệnh khiến bùng lên bão táp, lớp sóng xô cuồn cuộn dập dồn. Họ nhô lên tận trời, nhào xuống vực sâu, lúc nguy hiểm, hồn xiêu phách lạc, bị quay cuồng, lảo đảo như say, khéo cùng khôn đã chìm đâu mất” (Tv 107:23-27). Thiên Chúa là Tạo Hóa, là Đấng cầm quyền sinh tử, Ngài có quyền “đẩy xuống âm phủ rồi lại kéo lên” (1 Sm 2:6). Quả thật, đúng như ông Gióp nhận định: “Thân trần truồng sinh từ lòng mẹ, tôi sẽ trở về đó cũng trần truồng. Đức Chúa đã ban cho, Đức Chúa lại lấy đi: xin chúc tụng danh Đức Chúa!” (G 1:21). Xác định được như ông Gióp thì không gì phải lo. Nhưng muốn được vậy, vấn đề quan trọng là chúng ta có dám chấp nhận thân phận mình mà vẫn chúc tụng Chúa hay không. Điều này không dễ chút nào!
Có tin tưởng thì mới trung thành, và ai trung thành thì chắc chắn không phải thất vọng. Tác giả Thánh Vịnh nói về những người thành tín với Thiên Chúa: “Khi gặp bước ngặt nghèo, họ kêu lên cùng Chúa, Người đưa tay kéo họ ra khỏi cảnh gian truân. Đổi phong ba thành gió thoảng nhẹ nhàng, sóng đang gầm, bỗng đâu im tiếng, họ vui sướng, vì trời yên bể lặng và Chúa dẫn đưa về bờ bến mong chờ. Ước chi họ dâng lời cảm tạ vì tình thương của Chúa, và vì những kỳ công Chúa đã thực hiện cho người trần” (Tv 107:28-31).
Thánh Phaolô cho biết: “Tình yêu Đức Kitô thôi thúc chúng tôi, vì chúng tôi nghĩ rằng: nếu một người đã chết thay cho mọi người thì mọi người đều chết. Đức Kitô đã chết thay cho mọi người, để những ai đang sống không còn sống cho chính mình nữa, mà sống cho Đấng đã chết và sống lại vì mình” (2 Cr 5:14-15). Tình yêu có sức mạnh hơn cả tử thần, khả dĩ khiến người ta làm được những điều lạ lùng, ngỡ như không bao giờ làm được. Tình yêu biến đổi tất cả. Vì yêu thương mà người mẹ liều lấy thân mình che cho đứa con dù biết mình sẽ bị thương hoặc thiệt mạng. Vì yêu thương mà Thánh Lm Maximilian Maria Kolbe (1894-1941, Dòng Phanxicô) đã dám chết thay cho một tử tù. Đó là tình yêu vị tha (vì người khác) chứ không hề có chút gì vị kỷ (vì mình).
Loại tình yêu cao thượng như vậy được Đức Kitô gọi là “tình yêu vĩ đại nhất” (Ga 15:13). Và chính Ngài đã thể hiện tình yêu này vì yêu thương và để cứu độ các tội nhân chúng ta: Ngài bị đóng đinh vào Thập Giá và chết trên đồi Can-vê. Thật hợp lý khi Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta phải “sống cho Đấng đã chết và sống lại vì mình”.
Và vì thế, Thánh Phaolô xác định: “Từ đây, chúng tôi không còn biết một ai theo quan điểm loài người. Và cho dù chúng tôi đã được biết Đức Kitô theo quan điểm loài người, thì giờ đây chúng tôi không còn biết Người như vậy nữa. Cho nên, phàm ai ở trong Đức Kitô đều là thọ tạo mới. Cái cũ đã qua, và cái mới đã có đây rồi” (2 Cr 5:16-17). Người ta luôn thích mọi thứ đổi mới (quần áo, vóc dáng, giày dép, điện thoại, xe cộ,…), nhưng có lẽ người ta chưa thực sự quan tâm việc đổi mới tâm hồn, đặc biệt là tâm linh. Chúng ta đã được Đức Kitô đổi mới, nhưng chúng ta chưa tích cực duy trì sự đổi mới đó nên tâm hồn chúng ta vẫn có cái gì đó “cũ” lắm!
Mỗi khi con sóng duyềnh lên, nó không chỉ “đổi mới” mà còn đem theo phù sa bồi đắp cho vùng đất đó. Tâm hồn chúng ta cũng cần có những đợt sóng mới để đổi mới, để hoàn thiện. Các đợt sóng đó vẫn hằng ngày như thủy triều: Sóng tình yêu, sóng ân sủng, sóng thứ tha, sóng thương xót,… Ước gì “vùng đất” chúng ta để cho Sóng Tình Chúa biến đổi bất cứ lúc nào!
Trình thuật Tin Mừng hôm nay là đoạn Mc 4:35-40, nói về việc Đức Giêsu dẹp yên sóng gió (tương đương Mt 8:23-27 và Lc 8:22-25).
Hôm ấy, khi chiều đến, sau khi giảng dạy cho dân chúng về một loạt các dụ ngôn (người gieo giống, ngọn đèn, cái đấu, hạt giống tự mọc, hạt cải), Đức Giêsu bảo các môn đệ cho thuyền sang bờ bên kia. Bỏ đám đông ở lại, các ông chở Ngài đi, có những thuyền khác cũng chèo đi theo Ngài. Bỗng dưng một trận cuồng phong nổi lên, sóng ập vào thuyền, đến nỗi thuyền đầy nước. Trong khi đó, Đức Giêsu đang ở đàng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ. Các môn đệ thấy Thầy “vô tư” thế không biết, nên họ vội đánh thức Ngài, gọi giật dậy và hốt hoảng la toáng lên: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?”.
Có lẽ chúng ta cũng như các môn đệ xưa, chứ chẳng “ngon lành” gì hơn ai, ở ngay bên Thầy Giêsu mà vẫn chưa thấy an tâm khi gặp giông tố cuộc đời. Gọi như điện giật thế thì ai mà chợp mắt nổi. Ngài thức dậy, rồi ngăm đe gió, và truyền cho biển phải “im ngay và câm ngay”. Thế là gió liền tắt, và biển lặng như tờ.
Đâu vào đấy rồi, Ngài nghiêm mặt và nghiêm trách các ông: “Sao nhát thế? Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?”. Họ chỉ có nước ngậm tăm chứ nói chi được. Đúng quá mà! Cãi gì nổi? Các ông hoảng sợ – vừa sợ vì thấy phép lạ vừa sợ vì Thầy mắng thẳng, rồi họ xì xầm với nhau: “Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?”. Theo Thầy vì tin Thầy hay thích điều gì ở Thầy mà giờ này còn hỏi nhau “người này là ai” vậy chứ?
Vâng, thật buồn! Buồn cho họ và buồn cho chính chúng ta, vì chúng ta cũng vẫn “thắc mắc” như vậy, dù chúng ta không nói ra thôi. Chúa Giêsu cũng buồn, Ngài không buồn vì Ngài chưa được chúng ta tin thật, mà Ngài buồn cho đức tin của chúng ta còn non nớt, còn ấu trĩ, chỉ chạy theo “sự lạ” chứ chưa “bén rễ sâu” vào đất-ân-sủng và chưa lưu thông “nhựa” của Cây Nho.
Kinh Thánh đã cho chúng ta biết chắc rằng Thiên Chúa là “Đấng gìn giữ chúng ta, không để chúng ta lỡ chân trật bước”, chắc chắn “Ngài không ngủ quên” và cũng “không chợp mắt ngủ quên” bao giờ (Tv 121:3-4). Thiên Chúa không hề vô tâm vô tính như chúng ta tưởng, đừng suy bụng ta ra bụng người! Miệng thì nói tin, nhưng khi gặp sóng đời duyềnh lên là chúng ta hốt hoảng ngay, mà sóng đời đâu đã to gì cho cam, chỉ mới “lăn tăn” thôi! Chúng ta có đáng trách không nhỉ?
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết vững tay chèo, chống, bát, cậy,… dù sóng đời nhỏ hay to. Chúng con không dám xin Ngài đưa thuyền của chúng con ra khỏi vùng biển động hoặc nước xoáy, nhưng xin Ngài làm Hoa Tiêu hướng dẫn chúng con chèo lái để có thể vượt qua mọi con sóng dữ. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Vân Lực)
Hôm qua ngồi nghe sư huynh Phong giảng tĩnh tâm tại giáo xứ Lộ Đức, Hoa Kỳ, tôi thấy rùng mình khi thấy những cô bé Việt nam bị bán sang các lầu xanh bên Cambodia. Có những em mới chỉ hơn mười tuổi. Kết quả một số em bị mắc bệnh liệt kháng và đã sớm kết thúc cuộc đời trong hoang lạnh. Có cảnh bé thơ Việt nam bị bán đi với giá hai trăm đô. Nhưng em bị trả lại vì có bệnh liệt kháng. Suýt nữa em đã bị giết ngay trước mặt người mua. May thay, đứng trước cảnh đau lòng đó, người mua đành hy sinh mất hai trăm để cứu mạng em.
Những cảnh tang thương đó đã đập vào mắt các bạn trẻ Việt nam hải ngoại. Sư huynh lạc quan về giới trẻ Việt nam Hải ngoại. Chỉ cần năm ngàn đô để cứu các cô gái kém may mắn. Nhưng các bạn trẻ ở Los Angeles đã lạc quyên được mười lăm ngàn. Với số tiền lớn gấp ba như thế, sư huynh đã hết sức cảm động và đầy tin tưởng xông pha đi tìm đường cứu sống những cô gái đó. Nhiều nơi các bạn trẻ, như tại Lộ Đức, tự động đứng ra rửa xe, lạc quyên, hớt tóc giúp người nghèo khổ, bệnh tật, già nua, xây trường học v.v.
Tất cả những khốn cùng của dân tộc đều do sự nghèo đói. Đứng trước biển cả nghèo đói bao la của dân tộc, nhiều người đã tự hỏi: Thiên Chúa ở đâu? Chúa có biết gì về những khốn cùng của kiếp người không? Chúa đang ngủ hay thức? Thất vọng tràn trề. Thất vọng như những môn đệ của Chúa trên khoang thuyền năm xưa.
Hôm ấy, sau khi rời đám đông sang bờ bên kia (x. Mc 5:35), Chúa Giêsu đã lôi cuốn một số thuyền theo Người. Chắc lúc đó trời yên bể lặng nên các thuyền mới có thể nối đuôi nhau như thế. Các thuyền đi đông vừa vui vừa cảm thấy an toàn khi hữu sự. Chúa Giêsu cũng chỉ là một người ngồi trong khoang thuyền nào đó mà thôi. Gió biển thổi lên mát quá. Chúa chìm vào giấc điệp bao giờ không hay. Chắc Chúa phải ngủ say lắm mới không nghe tiếng các môn đệ đang thi nhau thét gào cùng sóng biển.
Gió rít mạnh. Các con thuyền lắc lư quá đến nỗi nước trào vào đầy khoang thuyền (x. Mc 5:38). Mạnh đến thế mà sóng gió cũng không kéo Chúa ra khỏi giấc nồng. Đó là dấu chứng tỏ, sau một ngày hoạt động mục vụ, Chúa bị dân chúng “quần thảo” dữ dội lắm. Nhưng như thế mới biết tâm hồn Chúa bình an chừng nào! Quả thế, “ai có tâm hồn trong sạch, mới ngủ được. Và ai ngủ được đều có tâm hồn trong sạch.”(Péguy 1962:27) Đố ai ngủ được như Chúa!
Nhưng Chúa càng bình an, các môn đệ càng bấn loạn lên. Bao nhiêu chiếc thuyền vẫn không thể nương dựa nhau trong cơn sóng bão. Bao nhiêu ngư phủ lành nghề vẫn không đủ tài trí bảo đảm an toàn cho bấy nhiêu sinh mạng đang treo sợi mành. Vận dụng hết năng lực vẫn không tát hết nước ra khỏi các khoang thuyền. Tình hình càng lúc càng nguy ngập. Bí quá, các môn đệ mới chợt nhớ đến Thày như giải pháp cuối cùng. Các ông vội vàng đến kéo Chúa ra khỏi giấc nồng. Các ông không ngại gài thêm một lời trách móc: “Thày ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thày chẳng lo gì sao?” (Mc 5:38) Đối với các ông, Thày thuộc loại người “vô ăn vô lo.” Sao Thày vô tư đến thế?!
Choàng tỉnh khỏi giấc nồng, Thày liền bắt tay vào việc. Các ông nghĩ, nếu mình không đánh thức, chắc chìm xuống đáy biển Thày vẫn còn ngủ. Nhưng thực ra, họ đánh thức Thày, hay Thày đánh thức họ? Thực tế, họ còn ngủ sâu hơn Thày nữa. Họ ngủ vùi trong sự hèn nhát và vô tín (x. Mc 5:40). Bởi vậy, sau khi dẹp tan biển cả, Chúa lôi các ông ra khỏi cảnh tối tăm. Té ra, chính họ mới cần đánh thức, chứ không phải Chúa. Chứng kiến cảnh Chúa ra tay uy quyền trên biển cả, họ mới ngạc nhiên về quyền năng vô biên của Chúa. Từ đó, họ mới biết Chúa là ai.
Nếu chỉ là người phàm, hẳn Chúa không thể nào có quyền năng lớn lao như vậy. Trước sức mạnh biển cả, họ mất bình tĩnh. Nhưng trước quyền năng của Chúa, họ mới “hoảng sợ.” (Mc 5:41) Biển cả có gầm thét cũng chỉ làm cho các ông đâm lo vì sự bất lực của mình. Nhưng quyền năng Chúa mới thực sự làm cho các ông phải đứng trước một thần lực lớn lao trổi vượt hơn thủy thần như Bơhêmốt, Giao long, Raháp. Biển cả vẫn là nơi quỷ dữ hoành hành. Như thế, “Chúa Giêsu chứng tỏ thần lực của Người trên quyền lực sự dữ.” (Các Giờ Kinh Phụng Vụ 2005:184) Nếu không là Thiên Chúa, làm sao Chúa Giêsu có thể có quyền toàn năng đến như vậy?!
Đứng trước những thống khổ mênh mông như biển cả của hàng triệu người Do thái đã bị Đức Quốc Xã tiêu diệt hồi thế chiến thứ hai, ĐGH Bênêđictô XVI cũng đã ngạc nhiên về sự im lặng của Chúa. Có lẽ cũng như các môn đệ trên biển cả, ĐGH cũng thắc mắc: “Thày chẳng lo gì sao?” (Mc 5,38) Câu hỏi đó đã dẫn nhiều người xa Chúa. Nhưng cũng chính thắc mắc đó lại đặt môn đệ trước một mầu nhiệm vô cùng lớn lao. Mầu nhiệm này vượt quá khả năng con người. Bởi thế, muốn đi sâu vào mầu nhiệm đó, con người phải có đức tin. “Chỉ có lòng tin tưởng vào Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, Đấng đã chiến thắng quyền lực sữ dữ, mới cho phép họ vượt qua sự sợ hãi.” (Các Giờ Kinh Phụng Vụ 2005:184) Đức tin trở thành sức mạnh khiến ta đứng vững trước tất cả mọi giông tố cuộc đời. Chỉ có đức tin mới là câu trả lời đích xác nhất cho những gì chúng ta đang quan tâm lo lắng hôm nay. Đức tin sẽ không trình bày một Chúa Kitô theo quan điểm loài người (x. 2 Cr 5:16), nhưng một Chúa Kitô đã chết cho mọi người theo đúng ý định Thiên Chúa.
Cám ơn Chúa vẫn cho đức tin sống mạnh trong các bạn trẻ Việt nam hôm nay. Nhìn kỹ vào niềm tin tuổi trẻ chúng ta sẽ thấy tất cả sức mạnh của niềm tin. Bạn trẻ đã mở ra một lối thoát mới cho những bế tắc hôm nay. Chúng ta có quyền hy vọng và học hỏi nơi các bạn!
(Suy niệm của Lm. Gioan Phan Tiến Dũng)
“HỌ ĐÃ KÊU CẦU CHÚA TRONG CƠN KHỐN KHÓ”
Trong những ngày tháng qua, giữa những cơn khủng hoảng, đau khổ và tang thương của đại dịch, câu hỏi luôn được nhiều người đặt ra: Thiên Chúa đang ở đâu? Tại sao Chúa lại để cho nó xảy ra? Tại sao Chúa không cứu giúp, ngăn cản và đẩy lùi dịch bệnh? Thực ra, vì thường ngày trong cuộc sống, khi Thiên Chúa quan phòng, an bài và để cho mọi sự xảy ra cách bình thường tốt đẹp; thì oái ăm thay, những lúc như vậy, con người lại cho rằng: Tin vào Thiên Chúa là sự mù quáng, là mê tín, là điên dại. Tôn giáo, Đạo Chúa là chỉ để dành riêng cho những ai chưa trưởng thành, những ai còn mê muội, còn nhẹ dạ. Con người trưởng thành-tự chủ thì phải loại trừ Chúa ra khỏi cuộc sống của họ, cho nên, họ đã không còn đi nhà thờ, không đi lễ, đọc kinh, không đọc Kinh thánh, không còn treo ảnh-tượng Chúa và tôn thờ Chúa trong các gia đình, công sở và trường học…Con người đang muốn tự mình phải làm chủ cả vũ trụ này và muốn tự định đoạt cho cuộc sống theo cách của riêng mình. Tạ ơn Chúa, giờ đây, trong cơn khốn khó như thế này, con người lại nhớ đến Chúa là cứu cánh, là chỗ nương tựa, là Đấng duy nhất để con người chạy đến để kêu van, để xin Chúa cứu giúp. Qua Lời Chúa hôm nay, chúng ta dường như đang được an ủi, đỡ nâng và tìm lại được nguồn trợ giúp đích thực của mình là Thiên Chúa.
Trong cơn khốn khó của đại dịch như hiện nay, Thánh vịnh 106 trong Đáp ca như đang mời gọi chúng ta, trong mọi lúc, mọi hoàn cảnh và trong mọi sự, tiên vàn hãy chúc tụng cảm tạ Chúa, vì đức từ bi của Chúa thì muôn đời, muôn thuở. “Họ đã kêu cầu Chúa trong cơn khốn khó, và Người đã giải thoát họ khỏi chỗ lo âu. Người biến đổi phong ba thành gió thổi hiu hiu và bao làn sóng biển đều im lặng.” Đây chính là kinh nghiệm sống đức tin của những con người tôn thờ, kính sợ Chúa, những con người này luôn nhận ra rằng: Chúa là Chủ Tể của mọi loài, mọi vật, ngay cả cuộc sống của họ cũng chính là do ơn thánh Chúa ban tặng. Do đó, dầu phải trải qua biết bao gian nan, đau khổ, thử thách giữa sóng gió cuộc đời, những lúc như vậy, Chúa đều biết rõ, nên họ đã tìm đến Thiên Chúa để van xin, kêu cứu thì họ đều được Ngài nâng đỡ, phù trì và ra tay cứu giúp. Thế nhưng, điều quan trọng với mỗi người chúng ta hiện nay là: liệu chúng ta còn tin tưởng vào sự hiện diện, đồng hành và ban ơn cứu chữa của Chúa trong cuộc đời của chúng ta hay không?
Tin mừng theo Thánh Marcô thuật lại câu chuyện Chúa Giêsu “dựa gối ở đằng lái mà ngủ” trên thuyền cùng với các môn đệ, sau khi Chúa đã hoàn tất một ngày với sứ vụ rao giảng Tin mừng. Marcô đã không nêu ra cho chúng ta biết lý do hay nguyên nhân vì sao mà Chúa lại thiếp ngủ, trong lúc con thuyền thì đang bị một “cơn bão lớn và những lớp sóng ùa vào thuyền đến nỗi sắp đầy nước”. Vậy thì, câu hỏi được đặt ra: Chúa có biết rõ con thuyền của Ngài và các môn đệ đang gặp nguy hiểm vì sóng to, gió lớn, nước đang tràn sắp đầy thuyền và các môn đệ của Ngài đang rất sợ hãi không? Là người có niềm tin vào Chúa, thì chúng ta sẽ trả lời, chắc chắn là Chúa biết rõ, vì Ngài là Thiên Chúa toàn năng. Ngài biết rõ mọi sự như vậy, nhưng tại sao Ngài vẫn đang ngủ, tại sao Ngài không hành động gì, tại sao Ngài không đi bước trước để cứu giúp các môn đệ? Đây là lúc, là thời khắc mà chúng ta gọi là hãy để cho “Thánh ý nhiệm mầu của Thiên Chúa” được thực hiện; trong thánh ý Chúa, chúng ta không thể nào hiểu thấu bằng sự suy luận với khối óc và trí khôn của con người cả. Chúa đang ở đàng lái của con thuyền, mặc dầu là Ngài ngủ, nhưng Ngài đang là chủ của con thuyền, Ngài biết rõ con thuyền của Ngài và các môn đệ phải sang qua bờ bên kia bình an để Ngài còn tiếp tục sứ vụ rao giảng Tin mừng.
Khi con người phải đối diện với những khó khăn, thử thách và sóng gió của cuộc đời, chúng ta mới nhận ra được cung cách, cư xử và hành động của Thiên Chúa thì hoàn toàn khác biệt với con người. Khi phải đối diện với cái chết, trong lúc mà sức-trí-tài của con người dường như không thể nào làm gì được, chắc chắn các môn đệ đã rất hoang mang, sợ hãi vì mạng sống của họ bị đe dọa. Nếu đặt vào hoàn cảnh của mỗi người chúng ta, thì chúng ta đã, đang và sẽ làm gì? Dẫu là môn đệ Chúa, được nghe Chúa giảng dạy, chỉ bảo và chứng kiến những phép lạ Chúa làm, nhưng đồng thời các ông vẫn là những con người bình thường, nên họ rất sợ hãi là chuyện đương nhiên, cho dù họ cũng đã làm hết với những khả năng của mình. Trước sự bất lực, vô vọng và sợ hãi của con người, may mắn thay, các ông đã biết đến để van xin, kêu cứu Chúa giúp. “Các ông đánh thức Người và nói: Thưa Thầy, chúng con chết mất mà Thầy không quan tâm đến sao?” Còn với Chúa Giêsu, khi các môn đệ đến đánh thức kêu van: “Chỗi dậy, Người đe gió và phán với biển rằng: Hãy im đi, hãy lặng đi. Tức thì gió ngừng biển lặng như tờ”. Qua việc Chúa Giêsu làm cho sóng yên, biển lặng, chúng ta nhận ra chính quyền năng và sức mạnh của Thiên Chúa được biểu lộ, vì Ngài là chủ tể của mọi sự trong vũ trụ này. “Sao các con sợ hãi thế? Các con không có đức tin ư”? Điều này mời gọi chúng ta, dù trong cơn khốn khó, hãy vững tin vào Chúa, tin vào sự hiện diện, đồng hành, ban ơn phù trì của Chúa, vì ngay cả mạng sống và mọi sự chúng ta đang có, tất cả là ơn thánh Chúa thương ban. Chúa đang có cách của Ngài và Chúa đang muốn mọi sự được tốt lành.
Lạy Chúa, tất cả mọi người chúng con đang lo sợ, vì cuộc sống đang gặp phải những lao đao, sóng gió của đại dịch, tệ hại hơn là đời sống đức tin của chúng con đang bị thử thách, yếu kém và đang bị đánh mất vì những thói hư, tật xấu và tội lỗi của chúng con. Chúng con đã quên Chúa, đã loại trừ Chúa ra khỏi cuộc sống của chúng con. Lạy Chúa, giờ đây xin Chúa hãy dủ lòng thương, đoái đến, nghe lời chúng con van xin mà thương tha thứ và cứu chữa chúng con. Xin gia tăng thêm cho chúng con lòng tin-cậy-mến vào Chúa, để chúng con luôn sống trọn vẹn cho Chúa qua đời sống bác ái, yêu thương và dấn thân phục vụ của chúng con. Amen.
SAO NHÁT THẾ? ANH EM CHƯA CÓ LÒNG TIN.
Trên con đường theo Chúa Giêsu, mặc dù các môn đệ đã được Người đào tạo, dậy dỗ, uốn nắn… các ông vẫn chưa hiểu gì về đường lối của Chúa: Người đã giảng dậy, đã làm nhiều phép lạ nhưng các môn đệ vẫn sống trong sự mờ ảo của cuộc sống, các ông vẫn chưa làm sao hiểu được ý của Thầy Giêsu. Do đó, đã có lúc các ông tưởng Thầy mình là ma, đã có lúc các ông lánh xa Chúa, đã có lúc các ông phản ứng lại những lời nói, cách sống, cử chỉ, thái độ của Thầy mình. Đức tin của các môn đệ nhiều lúc tưởng như lu mờ, hay nói một cách khác các ông chưa có lòng tin. Tin Mừng Mc 1, 35-41 là một bằng chứng nói lên quyền năng vô biên của Chúa giống như sách Gióp khẳng định:” Chỉ Thiên Chúa là Đấng sáng tạo quyền năng, chủ tể muôn loài, muôn vật, chủ tể mọi sự”. Phép lạ Chúa Giêsu làm cho sóng to, gió lớn phải im bật nói lên quyền uy của Chúa. Đáng lẽ các môn đệ phải vui mừng vì Thầy có quyền năng khiến gió to, biển động im hơi lặng tiếng, các môn đệ lại hoảng hốt sợ sệt. Chúa Giêsu đã phải lên tiếng:” Sao nhát thế? Anh em chưa có lòng tin sao?”.
CÁI TRỚ TRÊU CỦA CÁC MÔN ĐỆ
Theo Chúa gần ba năm, các môn đệ đã được Chúa dậy bảo nhiều điều: Người đã nói thực tế, đã làm những phép lạ, đã dùng những dụ ngôn, những ví dụ xẩy ra chung quanh các môn đệ để làm sáng tỏ lòng tin của các ông, nhưng các ông vẫn còn u tối, các ông vẫn chưa cảm nghiệm được quyền năng và tư cách thần linh của Chúa Giêsu. Các môn đệ luôn tỏ ra không hiểu hay tỏ ra hiểu lờ mờ về Thầy mình. Các ông luôn mơ tưởng đến việc Chúa Giêsu sẽ khôi phục lại nước Israen và rồi các ông được ăn trên ngồi trốc trước mọi người khi Chúa Giêsu đăng quang làm vua theo ý nghĩ trần gian của các ông. Điều đó không lấy gì làm lạ khi phép lạ hôm nay xẩy ra. Bối cảnh phép lạ được Chúa Giêsu thực hiện vào một buổi chiều trên biển hồ. Thuyền của các môn đệ rời bến để qua bờ bên kia. Chi tiết này giúp chúng ta hiểu phép lạ diễn ra trong đêm. Chúa Giêsu ngồi ở đằng lái, gối đầu mà ngủ. Bỗng gió to, sóng lớn nổi lên, sóng ập vào thuyền, đến nỗi thuyền đầy nước.
Các môn đệ hoảng hốt, xôn xao, nhốn nháo đánh thức Chúa: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo sao?”(Mc 4, 38). Chúa Giêsu liền can thiệp bằng một lời và chỉ một lời truyền của Người: “Im đi! Câm đi!”(Mc 4,39). Gió liền im. Biển lặng như tờ. Điều làm chúng ta ngạc nhiên không phải là phép lạ, nhưng là cách Chúa Giêsu thực hiện phép lạ: “Tại sao Chúa biết trước sẽ có cuồng phong, biết trước việc Người sẽ làm?. Tại sao Người không can thiệp liền, tại sao Người cứ gối đầu mà ngủ?
Thực ra khi gió to, biển động, sóng gào, các môn đệ xốn xáo, chạy lại đánh thức Chúa dậy, các ông xin Chúa can thiệp hai điều xem ra như là một tối hậu thư: “Thầy ơi, chúng con chết đến nơi rồi”. Điều thứ hai: “Thầy chẳng lo gì sao?”. Câu nói thứ hai của các môn đệ hàm ý sao Thầy vô tư quá, chúng con sắp chết mà Thầy cứ tỉnh bơ ngủ say. Chúa Giêsu đã trả lời cả hai điều các môn đệ yêu cầu. Điều thứ nhất, Chúa truyền cho biển yên, gió lặng. Điều thứ hai, Người khiển trách: “Sao nhát thế? Anh em chưa đủ đức tin hay sao?” (Mc 4, 40). Cái trớ trêu hầu như khờ khạo của các môn đệ ở chỗ Chúa luôn có mặt, luôn hiện diện dù Người đang ngủ, Người hay biết mọi sự nhưng các môn đệ đâu có nhận ra điều ấy. Vậy, khi Người khiếm diện, khi Người không có mặt ở đấy, các môn đệ sẽ ra thế nào!: “Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?”(Mc 4, 40). Anh em để đức tin ở đâu? Ở đây, trong tình huống này, các môn đệ có thể nghĩ đến những can thiệp của Thiên Chúa đối với số mệnh của dân tộc các ông. Thiên Chúa đã cứu thoát cha ông của các ông, đã giữ lời Giao Ước của Ngài cho dù có lúc Thiên Chúa hầu như im lặng. Thiên Chúa đã không bỏ rơi dân tộc. Bốn mươi năm sau, dân lưu đầy bên Ai Cập đã được Thiên Chúa giải thoát, đoàn người lưu đầy kéo về Giêrusalem được thanh luyện và lớn lên trong thử thách.
CHÚA MỜI GỌI CÁC MÔN ĐỆ VÀ NHÂN LOẠI TIN VÀO CHÚA:
Đối diện với quyền lực của sự dữ, của ma quỷ vì theo não trạng của người Do Thái, biển là biểu tượng của quyền lực ma quỷ. Các môn đệ cuống quýt đã quên cả lòng tin của mình vào Chúa Giêsu. Vậy phải chăng Tin Mừng hôm nay mời gọi con người, nhân loại hãy tin vào Chúa, hãy bám chặt lấy Chúa, hãy tin vào uy quyền tuyệt đối của Chúa trên mọi loài, mọi vật, mọi sự. Tiếng la hoảng hốt của các môn đệ trước trận cuồng phong bão táp, phải chăng đang là thử thách của con người, của mỗi người khi họ gặp cơn cám dỗ, gặp sự thử thách gian nan giữa cuộc đời, giữa hành trình đức tin đầy cam go? Liệu Chúa có bỏ con người hay con người chỉ ngờ ngợ, yếu tin chưa có lòng tin mạnh mẽ và gắn chặt vào Chúa Giêsu? Chúng ta hãy đọc lại nhiều dụ ngôn trong Tin Mừng, chúng ta sẽ thấy nhiều lòng tin làm ta ngạc nhiên. Và khi ta tin thật sự vào Chúa, chắc chắn sự an bình sẽ đến với chúng ta. Thiên chúa không ở xa ta, Ngài ở bên ta, Ngài yêu thương ta, Ngài sẵn sàng can thiệp vào mọi biến cố của đời ta. Nhưng chắc chắn chúng ta cũng có thái độ như các môn đệ hoảng hốt, như ông Môsê trước bụi gai bốc cháy (Xh 3,1), như ngôn sứ Isaia khi nhìn thấy vinh quang của Thiên Chúa trong đền thờ (Is 6,5). Tất cả đều tùy thuộc vào lòng mến và vào sự phó thác tuyệt đối của mỗi người chúng ta trong bàn tay yêu thương của Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con luôn bám chặt lấy Chúa vì Chúa là Đấng uy quyền và hay thương xót.
(Suy niệm của Jaime L. Waters – Chuyển ngữ: ĐCV Sao Biển)
Đức Giêsu hỏi: “Sao các con sợ hãi thế?”
Tuần trước, chúng ta đã bắt gặp lối giảng dạy của Đức Giêsu trong Tin mừng Nhất lãm. Ngài thường dùng cách kể chuyện và trao đổi để soi sáng cũng như khơi dậy đức tin và thực hành đức tin. Trong Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu đưa ra một minh chứng trực quan, cho các tông đồ có một kinh nghiệm thực tế như là cách giúp các ông hiểu biết Ngài nhiều hơn.
Đức Giêsu cùng các tông đồ rời bỏ đám đông dân chúng và chèo thuyền qua biển hồ Galilê. Trong khi Ngài thiếp ngủ, một cơn gió lớn nổi lên khiến con thuyền bị chao đảo, đe dọa tính mạng của cả nhóm. Lo lắng cho sự an toàn của mình, các tông đồ đã đánh thức Đức Giêsu dậy và hỏi tại sao Ngài vẫn có thể ngủ: “Chúng con chết mất mà Thầy không quan tâm đến sao?”. Thay vì trực tiếp trả lời họ, Đức Giêsu đã chứng tỏ sự chăm sóc bằng cách biểu lộ quyền năng mà dẹp yên sóng gió.
Câu chuyện có thể chấm dứt ở đây, nhưng bài học vẫn chưa kết thúc. Chính Đức Giêsu đã trách các tông đồ bằng những chất vấn như: “Sao các con sợ hãi thế, các con không có đức tin ư?” Những câu hỏi của Đức Giêsu như thách đố sự hiểu biết hạn hẹp của các tông đồ và mời gọi họ có lối suy nghĩ trưởng thành hơn. Sửng sốt, kinh hãi và không hiểu hết được quyền năng của Đức Giêsu, lần này các ông cũng không có câu trả lời mà chỉ đặt câu hỏi Ngài là ai.
Trình thuật ngắn này chứa đựng nhiều ẩn dụ trong Cựu ước. Ví dụ trong sách ngôn sứ Giôna, vị ngôn sứ ngủ mê trên con thuyền đang giữa biển, trong cơn bão tố. Giống như các tông đồ, những người đi cùng với ông Giôna đã thắc mắc làm sao ông có thể ngủ giữa cơn bão tố như vậy. Một cách tương tự, cuộc trao đổi giữa Đức Giêsu và các tông đồ như vang vọng câu xướng của đáp ca hôm nay: “Họ đã kêu cầu Chúa trong cơn khốn khó, và Người đã giải thoát họ khỏi chỗ lo âu. Người biến đổi phong ba thành gió thổi hiu hiu, và bao làn sóng biển đều im lặng” (Tv 107,28). Thánh vịnh 107 là lời cầu nguyện về những trải nghiệm khó khăn trong cuộc sống — bị lạc trong sa mạc, bị giam cầm, bệnh tật, tội lỗi và đối diện cơn bão ở trên thuyền — và tác giả thánh vịnh đã dâng lời tạ ơn về quyền năng và sự giải thoát của Thiên Chúa.
Trong Tin mừng hôm nay, việc Đức Giêsu dẹp yên sóng gió biểu lộ quyền năng Thiên Chúa trên trần gian này. Quyền làm chủ của Thiên Chúa trên mặt nước là điều nổi bật trong trình thuật Sáng tạo, với việc Thiên Chúa ra lệnh và phân tách nước (St 1,2), và trong câu chuyện lụt hồng thủy, Thiên Chúa quyền năng gây lụt lội rồi sau đó làm nước rút đi (St 7,6 – 8,5). Hành động của Đức Giêsu trên cơn bão cũng tương đồng với câu chuyện Chúa chữa lành đầu tiên trong Tin mừng Maccô. Khi gặp một người bị thần ô uế ám, Chúa đã quở trách thần dữ và bảo nó hãy im lặng, rời khỏi người ấy (Mc 1,25), giống như cách Chúa đã khiển trách gió bão vậy.
Tại thời điểm này trong Tin mừng Maccô, Đức Giêsu chỉ mới bắt đầu sứ vụ rao giảng. Ngài cho các tông đồ chứng kiến sự kết hợp giữa việc chữa lành, các cuộc trò chuyện và giảng dạy bằng dụ ngôn; đồng thời việc Chúa dẹp yên bão tố giúp họ cảm nghiệm rõ ràng và có ý nghĩa sức mạnh của Chúa. Câu chuyện này nhắc nhớ chúng ta về quyền năng của Thiên Chúa và thôi thúc chúng ta chú ý đến sự hiện diện của Chúa trong cuộc sống của mình, đặc biệt là trong những thời điểm khốn khó nhất.
Cảm nghiệm được quyền năng Thiên Chúa trong cuộc đời, các tông đồ sợ hãi là điều có thể thông cảm nhưng các ông cũng không chắc là mình hiểu được ý nghĩa của nó. Đức Giêsu như một người thầy tốt lành, biết rõ nơi mà Ngài muốn các môn đệ đến. Tuy nhiên, Ngài không minh nhiên trả lời họ, thay vào đó Ngài cho họ thông tin và đặt thêm câu hỏi giúp họ tiếp tục phát triển cách hiểu biết cho chính mình.
(Suy niệm của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL)
Thiên Chúa ở đâu nơi Trại Tử Thần Đức Quốc,
nơi Sóng Thần Nam Á v.v.
Vẫn biết Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống là thời điểm mở đầu cho Mùa Thường Niện Hậu Phục Sinh, tiếp Mùa Thường Niên Hậu Giáng Sinh bị cắt quãng bởi Mùa Chay, Tuần Thánh và Mùa Phục Sinh. Tuy nhiên, Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh thường được Giáo Hội mở màn bằng các Lễ Trọng vào 3 Chúa Nhật Liên, trước hết là Lễ Thánh Thần Hiện Xuống, Đấng ban sự sống, sau đó là Lễ Thiên Chúa Ba Ngôi, nguồn mạch Sự Sống, tiếp tới là Lễ Mình Máu Thánh Chúa, bí tích Sự Sống, (chưa kể đến Lễ Trọng Thánh Tâm Chúa, động lực Sự Sống, bao giờ cũng được cử hành vào Thứ Sáu sau Chúa Nhật Lễ Mình Máu Thánh Chúa). Chiều hướng Mầu Nhiệm Chúa Kitô Là Sự Sống mở đầu Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh bằng ba Lễ Trọng như thế, cũng được thể hiện ở bài Phúc Âm của Thánh Ký Marcô cho Chúa Nhật hay tuần lễ XII Thường Niên, ở chỗ, “caœ gió lẫn biển cũng đều vâng lệnh Người”?, một quyền lực phục sinh của Chúa Kitô, Lời Nhập Thể, một quyền lực, dù trong trường hợp được bài Phúc Âm hôm nay thuật lại Người chưa Vượt Qua, vẫn tiềm tàng nơi Người nhờ Mầu Nhiệm Ngôi Hiệp.
Đó là lý do việc Người chẳng những tỏ mình ra trong bài Phúc Âm hôm nay đã cho thấy trước biến cố phục sinh, mà còn cho thấy cả trong đó việc Người tỏ ra câm nín bất lực trên cây thập tự giá, việc Người âm thầm nằm trong lòng đất ba ngày, việc Người gieo giống rồi đi ngủ để cho kẻ thù chẳng những lợi dụng gieo cỏ lòng vực mà còn nhất định không cho nhổ những thứ cỏ rất nguy hại cho lúa tốt này cho tới mùa gặt cánh chung (x Mt 24-30). Đây là Mầu Nhiệm Quan Phòng Thần Linh theo đức tin Kitô Giáo, một mầu nhiệm mà chỉ có đức tin mới có thể giải mã và chấp nhận, ở chỗ, tin rằng Thiên Chúa là Chủ Tế muôn loài và cai quản mọi sự, tới giờ của Ngài thì mọi sự sẽ xẩy ra, tới lúc của Ngài thì Ngài sẽ ra tay (mà thường là lúc cuối cùng, lúc con người cảm thấy bất lực, trần gian bó tay, Ngài mới xuất hiện để cứu độ, hầu con người tin vào Ngài hơn, và không cảm thấy rằng họ là Chúa chứ không phải là Ngài). Chính vì Ngài ngủ (chứ không phải chết) mà Ngài mới nghe được tiếng kêu cứu của họ, như các vị tông đồ trong bài Phúc Âm đã hoảng hốt la lên: “Thưa Thầy, chúng con chết mất mà Thầy không quan tâm đến sao”?
Tuy nhiên, thực tế đặt ra vấn đề ở đây là, việc Thiên Chúa quá im hơi lặng tiếng, nhất là trong những lúc quá khủng khiếp đối với niềm tin của con người, dường như đối với nhiều người và thật sự đối với một số người, Ngài là Vị Thiên Chúa đã chết, nếu không muốn nói chẳng có chúa bà nào cả, vì tại sao có Ngài, một vị Thiên Chúa, qua Mạc Khải Thánh Kinh Kitô Giáo, là Đấng toàn thiện và toàn năng, mà lại có thể để cho sự dữ xẩy ra, để cho bao nhiêu nạn nhân vô tội bị thảm sát như thế chứ, chẳng hạn như đã xẩy ra ở các Trại Tử Thần Đức Quốc trong Thế Chiến Thứ Hai thuộc thế kỷ 20, hay ở cuộc Sóng Thần Nam Á vào ngày 26/12/2004?
Trước hết, về việc câm nín lặng thinh đến kinh hoàng của Thiên Chúa ở các trại tử thần Đức Quốc Xã hồi Thế Chiến Thứ II, chúng ta hãy đọc lại những lời của chính vị Giáo Hoàng đương kim Đức Quốc của chúng ta cảm nhận và diễn tả trong cuộc tông du mục vụ Balan cuối tháng 5/2006, khi ghé thăm trại tử thần Auschwitz, nơi đã có hai vị thánh Công Giáo là Thánh Maximilian Kolbe người Balan và Thánh Edith Stein, Theresia Benedicta a Cruce, người Đức gốc Do Thái, trước khi ngài lên đường về Rôma Chúa Nhật 28/5, nguyên văn như sau:
“Không thể nào nói được bất cứ điều gì ở nơi kinh hoàng này đây, ở nơi đã xẩy ra vô vàn tội ác chưa từng có phạm đến Thiên Chúa và con người, nhất là lại nói bởi một Kitô hữu, bởi một vị Giáo Hoàng xuất thân từ Đức. Ở một chốn như thế này thì lời nói đành câm nín; để rồi chỉ còn duy nỗi lặng thinh kinh hãi – một thứ lặng thinh tự mình là một lời kêu gào chân tình lên Thiên Chúa: Lạy Chúa, tại sao Chúa lại cứ thinh lặng chứ? Làm sao Chúa lại có thể chịu đựng được tất cả những thứ này? Bởi vậy, trong thinh lặng, chúng ta cúi đầu trước vô tận những ai đã chịu khổ cực và bị sát hại ở nơi đây; tuy nhiên việc thinh lặng của chúng ta lại trở thành một lời van xin tha thứ và hòa giải, một lời van nài Vị Thiên Chúa hằng sống đừng bao giờ để điều này tái diễn nữa.
“Hai mươi bảy năm trước đây, vào ngày 7/6/1979, Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã đứng ở nơi này. Ngài đã nói rằng: ‘Hôm nay tôi đến đây như một người hành hương. Như anh chị em biết, tôi đã đến đây nhiều lần rồi. Rất nhiều lần rồi! Và nhiều lần tôi đã đi xuống tới ngục thất tử thần của Maximilian Kolbe, dừng lại trước bức tường hành quyết, và bước đi giữa những đổ nát hoang tàn của các lò thiêu Birkenau. Tôi không thể nào không tới đây như một vị Giáo Hoàng’. Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tới đây như là một người con của một dân tộc, cùng với dân Do Thái, đã chịu khổ nhất ở nơi chốn này, nói chung suốt cả cuộc chiến. ‘Sáu triệu người Balan đã bị mất mạng trong Thế Chiến Thứ II, tức 1/5 dân số của quốc gia này, ngài đã nhắc nhở chúng ta như thế. Cũng ở nơi đây, ngài đã trang trọng kêu gọi tôn trọng các thứ nhân quyền và quốc quyền, như các vị tiền nhiệm của ngài là Gioan XXIII và Phaolô VI đã làm trước ngài, và thêm rằng: ‘Con người đang nói những lời lẽ này đây là … người con của một quốc gia theo lịch sử của mình đã bị khổ đau rất nhiều bởi kẻ khác. Ngài nói điều này, không phải là để cáo tối mà là để tưởng nhớ. Ngài nói nhân danh tất cả những quốc gia có quyền lợi bị vi phạm và bị gạt bỏ ra ngoài…’
“Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã đến đây như là một người con của nhân dân Balan. Tôi đến đây hôm nay như là một người con của nhân dân Đức quốc. Chính vì lý do ấy mà tôi có thể làm vang vọng và cần phải làm âm vang những lời của ngài, đó là tôi không thể nào không tới đây. Tôi cần phải tới nơi đây. Đó là một nhiệm vụ trước sự thật và công lý đối với tất cả những ai đã phải chịu khổ ở nơi đây, một nhiệm vụ trước Thiên Chúa, mà đối với tôi cần phải đến đây như là vị thừa kế của Giáo Hoàng Gioan Phaolô II và là một người con dân Đức quốc – một người con thuộc dân tộc bị một nhóm những tay tội ác nổi lên nắm quyền hành bằng những hứa hẹn liên quan tới cái cao cả mai hậu cùng với việc phục hồi vinh dự, nổi nang và thịnh vượng cho dân tộc , nhưng qua việc khủng bố và đe dọa, hậu quả dân tộc chúng tôi đã phải hứng chịu đó là bị sử dụng và làm dụng như công cụ cho khát vọng hủy diệt và quyền bính của họ. Phải, tôi đã không thể nào không tới nơi đây. Vào ngày 7/6/1979, tôi đã đến đây với tư cách là một vị Tổng Giám Mục ở Munich-Freising, cùng với các vị Giám Mục khác đi hộ tống Đức Giáo Hoàng này, lắng nghe những lời ngài nói và liên kết với việc nguyện cầu của ngài. Vào năm 1980, tôi đã trở lại với nơi chốn rùng rợn này với một phái đoàn đại biểu những vị Giám Mục Đức quốc, những vị cảm thấy kinh hoàng trước sự dữ xẩy ra cho nó, nhưng lại lấy làm biết ơn trước sự kiện xuất hiện một vì tinh tú hòa giải ở bên trên các tầng mây mù vây phủ nó. Đó cũng chính là lý do tại sao hôm nay tôi đã đến đây để xin ơn hòa giải thứ tha – trước hết từ Thiên Chúa là Đấng duy nhất có thể mở lòng chúng ta và thanh tẩy tâm can của chúng ta, từ những con người nam nữ đã chịu khổ đau ở nơi đây, và sau cùng nguyện xin ơn hòa giải cho tất cả những ai, vào chính giây phút lịch sử này đây đang chịu khổ đau một cách mới mẻ bởi quyền lực của hận thù và bởi bạo lực do thù hận gây ra.
“Biết bao nhiêu là vấn đề được xuất phát ở nơi chốn này! Vấn đề liên lỉ hiện lên đó là Thiên Chúa ở đâu trong những ngày ấy? Tại sao Ngài lại thinh lặng chứ? Làm sao Ngài lại có thể để xẩy ra cuộc tàn sát khôn cùng này chứ, cuộc chiến thắng của sự dữ ấy chứ? Những lời của bài Thánh Vịnh 44 đã hiện lên trong tâm trí, đó là lời than vãn của dân Yến Duyên về các kẻ thù địch của họ: ‘Ngài đã vùi dập chúng tôi trong hang động chó rừng, và phủ chụp tăm tối kín mít lên chúng tôi… vì Ngài chúng tôi đá bị sát hại suốt ngày, và đã bị coi như con chiên mang đi làm thịt. Xin Ngài hãy ra tay! Ôi Chúa, tại sao Ngài lại ngủ chứ? Xin hãy tỉnh giấc, đừng mãi mãi bỏ mặc chúng tôi! Tại sao Ngài lại cứ ẩn mặt đi? Tại sao Ngài lại chẳng lưu ý gì tới nỗi đau thương và tình trạng bị đàn áp của chúng tôi chứ? Vì chúng tôi bị dìm xuống cát bụi; thân thể chúng tôi dính liền với mắt đất. Xin hãy vùng lên và ra tay cứu giúp chúng tôi! Xin hãy cứu chúng tôi vì tình yêu trung kiên của Ngài!’ (19,22-26). Tiếng kêu thống khổ này, tiếng kêu được dân Yến Duyên dâng lên Thiên Chúa trong cảnh khổ đau của họ, trong giây phút hết sức sầu thương của họ, cũng là tiếng kêu cứu giúp của tất cả những ai thuộc mọi thời đại – hôm qua, hôm nay và ngày mai – chịu khổ vì tình yêu Thiên Chúa, vì lòng yêu chuộng chân lý và sự thiện hảo. Họ nhiều biết bao, thậm chí ở cả thời đại của chúng ta đây!
“Chúng ta không thể nào nhìn thấu được dự án huyền nhiệm của Thiên Chúa – chúng ta chỉ thấy được một phần nào, và chúng ta có thể sai lầm một khi cho mình là những kẻ thẩm phán của Thiên Chúa và lịch sử. Bấy giờ chúng ta không phải là kẻ đang bênh vực con người mà chỉ góp phần vào việc sụp đổ của con người mà thôi. Không – một khi tất cả những gì đã nói và đã làm, chúng ta cần phải tiếp tục khiêm nhượng song cương quyết kêu lên cùng Thiên Chúa rằng: Xin hãy đứng lên! Đừng quên nhân loại là tạo vật của Ngài! Và lời chúng ta kêu lên Thiên Chúa cũng phải là một tiếng kêu xuyên thấu chính tâm can của chúng ta, một tiếng kêu đánh động trong chúng ta sự hiện diện âm thầm của Thiên Chúa – nhờ đó, quyền năng của Ngài, một quyền năng Ngài đã cấy trồng nơi tâm can của chúng ta, sẽ không bị chôn vùi hay chết nghẹt trong chúng ta bởi bùn lầy của lòng vị kỷ, của tính nhu nhược, của thái độ lạnh lùng hay của chủ trương thời cơ. Chúng ta hãy kêu lên Thiên Chúa bằng tất cả tâm can của mình, vào giờ khác hiện tại này đây, khi đang đổ xuống trên chúng ta những bất hạnh mới, khi tất cả mọi mãnh lực của tối tăm dường như đang xuất phát một cách mới mẻ từ tâm can nhân loại của chúng ta: một là việc lạm dụng danh Thiên Chúa như phương tiện để biện minh cho việc bạo động vô nghĩa phạm tới những con người vô tội, hai là tỏ ra chủ trương yếm thế chối bỏ việc nhận biết Thiên Chúa và nhạo cười niềm tin tưởng vào Ngài. Chúng ta hãy kêu lên Thiên Chúa, để Ngài làm cho con người nam nữ biết hoán cải và giúp họ thấy được rằng bạo động không phải là những gì mang lại hòa bình song chỉ gây thêm bạo loạn mà thôi – gây ra một cuộc sa lầy tàn hại mà cuối cùng tất cả moị người đều là những kẻ thua cuộc. Vị Thiên Chúa mà chúng ta tin tưởng là một Thiên Chúa của lý trí – một lý trí chắc chắn không phải là một thứ toán học lạnh lùng về vũ trụ này mà là một lý trí biết yêu thương và thiện hảo. Chúng ta hãy dâng lời nguyện cầu lên Thiên Chúa và chúng ta kêu gọi nhân loại, để lý trí này, tức lý lẽ của yêu thương và việc nhìn nhận quyền lực hòa giải và bình an, được thắng vượt những thứ đe dọa xuất phát từ khuynh hướng vô tri hay từ một thứ lý trí sai lạc và phi thần linh”.
Sau nữa, về việc câm nín lặng thinh đến kinh hoàng của Thiên Chúa ở biến cố thiên tai Sóng Thần Nam Á ngày 26/12/2004.
Về nguyên tắc, Thiên Chúa thực sự chủ động muốn sử dụng sự dữ để làm ích cho nhân loại. Thần học Kitô giáo rất cẩn thận về điểm này. Ở chỗ, thường sử dụng chữ “để”, “để sự dữ xẩy ra”, nghĩa là thái độ “mần ngơ” thụ động, chứ không chủ động nhúng tay vào, chủ động sử dụng chính sự dữ, nên tránh cả việc sử dụng chữ “gửi”, “gửi sự dữ đến cho”. Thật ra, như những xác tín đầu tiên trên đây cũng công nhận rằng “Thiên Chúa là Đấng Toàn Thiện không dựng nên sự dữ và không thể nào tạo nên sự dữ”, và “sự dữ phát xuất từ tội lỗi của con người, bắt nguồn từ nguyên tội, từ việc con người có tự do đã tự ý chấp nhận sự dữ”. Tuy nhiên, một khi sự dữ đã xuất hiện như cỏ lùng do kẻ thù của Ngài gây ra (x Mt 13:25,28), Thiên Chúa phải chủ động và tích cực ra tay diệt trừ nó cho con người, bằng cách, nơi Chúa Giêsu Kitô Con Mình, Ngài đã trở thành tội lỗi (x 2Cor 5:21), thành một thứ đồ bị nguyền rủa (x Gal 3:13). Và, chỉ trở thành sự dữ như thế Vị Thiên Chúa vô cùng khôn ngoan và toàn năng mới làm cho con người thấy được sự chết nơi họ và của họ đã được sự sống của Ngài và nơi Ngài nuốt đi (x 1Cor 15:54).
Việc Thiên Chúa chủ động muốn sử dụng sự dữ để làm ích cho chung nhân loại là những gì rất hiển nhiên trong Thánh Kinh. Trước hết là câu Ngài tuyên bố qua miệng Tiên Tri Isaia: “Ta làm nên ánh sáng và tạo ra bóng tối, Ta làm nên phúc hạnh và gây ra khốn nạn” (45:7). Sau nữa, việc Ngài muốn (bằng cách ra lệnh cho) tổ phụ Abraham sát tế đứa con duy nhất của mình là Isaac (x Gen 22:2), trước con mắt của Dân Ngoại, không phải là một điều quái ác hay sao, không phải là một hành động của một vị ác thần, một vị thần linh ăn thịt người hay sao, tìm vinh danh nơi khổ ải và chết chóc của tạo vật? Cả trong việc Ngài lệnh cho vua Saolê bắt buộc phải sát hại tất cả người lẫn vật của Amalek vì đã cản đường đi của Dân Chúa cũng không quá tàn ác hay sao (x 1Sam 15:2-3,18-19; Ex 17:8)? Thật ra, Chúa ra tay dữ dằn với các Dân Ngoại, như dân Ai Cập, Amalek hay các dân vốn ở Đất Hứa là để cho cả Dân Ngài lẫn Dân Ngoại nhận biết Ngài qua những việc Ngài làm theo quyền năng và phép công bằng của Ngài. Trong trận lụt Đại Hồng Thủy, Thiên Chúa Hóa Công “để” cho thiên tai vô tiền khoáng hậu này xẩy ra, hay Ngài cố ý muốn gây ra biến cố ấy để thanh tẩy loài người đã quá băng hoại làm ô uế cả mặt đất (x Gen 6:5-7)?? Nếu bảo rằng Thiên Chúa được quyền dùng tai ương để trừng phạt con người tội lỗi thì phải nói làm sao khi Ngài cố tình bắt chính Người Con vô tội vô cùng thánh thiện của Ngài phải uống cạn chén đắng khổ đau (x Mt 26:39 và Rm 8:32), chứ không phải chỉ “để” thập giá xẩy ra cho Người.
Tuy nhiên, việc Thiên Chúa thực sự chủ động sử dụng sự dữ để làm ích cho nhân loại đây, điển hình là trường hợp tử nạn của Chúa Giêsu Kitô, không phải là Ngài chủ động xui bẩy kẻ dữ làm bậy hay phạm tội. Không. Hoàn toàn không phải là như thế. Ở chỗ này đúng là Ngài “để” cho kẻ dữ làm bậy hay phạm tội tùy theo tự do của họ. Sở dĩ Ngài “để” xẩy ra như thế, trước hết, là vì tự do của con người, thành phần chịu trách nhiệm về hành vi cử chỉ của họ; sau nữa, là vì Ngài thấy rằng Ngài có thể lợi dụng sự dữ do họ gây ra để tạo nên một thiện ích lớn hơn; bằng không, sau hết, nếu sự dữ do con người gây ra không mang lại hay chưa tới lúc mang lại lợi ích hơn ít là cho chính đương sự, thì Đấng làm chủ lịch sử con người như Ngài không để cho những sự dữ ấy xẩy ra, như nơi những vụ tự tử không thành hay những vụ thoát chết trong đường tơ kẽ tóc.
Trong trường hợp tử nạn của Chúa Kitô, thành phần cố tình nhúng tay vào việc giết Con Thiên Chúa, như hầu hết Hội Đồng Do Thái bấy giờ, cũng như thành phần trực tiếp ra tay sát hại Người, như thẩm quyền đế quốc Rôma qua Tổng Trấn Philatô và lực lượng quân đội của họ, đã được Thiên Chúa “để” cho họ phạm đến Con của Ngài, hay cho phép họ thi hành được hành động phạm thượng đáng lẽ họ không làm được (về quyền năng thể lý) và không được làm (về quyền hạn luân lý), bằng cách “để” cho “họ lầm không biết việc mình làm” (Lk 23:34; x Acts 3:17), nhờ đó, chính họ, cũng có thể nhờ chính việc xấu họ làm, nhận ra Chân Lý (x Lk 23:47-48), bằng không, nếu họ biết được mầu nhiệm của Thiên Chúa, họ sẽ không dám làm như họ đã làm (x 1Cor 2:8). Đó là lý do Chúa Kitô đã minh nhiên tuyên bố: “Khi nào Tôi được treo lên khỏi mặt đất, Tôi sẽ kéo tất cả mọi người lên cùng Tôi” (Jn 12:32). Ôi, Thiên Chúa vô cùng khôn ngoan và thượng trí là dường nào! Ôi, Ngài toàn thiện và toàn năng biết bao!!
Phải, chỉ có một mình Thiên Chúa mới là Đấng duy nhất, về phương diện luân lý, chẳng những có quyền hạn (right/authority) được làm, mà còn có cả quyền năng (power/ability) làm được, trong việc sử dụng phương tiện biện minh cho mục đích, tức trong việc sử dụng ngay chính sự dữ để mang lại sự lành thôi. Nếu thấy nhà của mình bị hư hại không thể ở được nữa, chẳng lẽ chúng ta không có quyền phá nó đi để xây lại ngôi nhà mới. Cũng thế, việc Thiên Chúa “phá” con người cũ của nhân loại đã bị băng hoại, như ở thời Noe, bằng những sự dữ, như trận đại hồng thủy bấy giờ, dù là việc dữ hay sự dữ Ngài vẫn muốn làm và cần làm cho họ, để nhờ đó, họ mới được nên tốt hơn, mới được tái sinh bởi trời (x Jn 3:3).
Ngoài ra, bất cứ ai muốn nên ngang hàng với Thiên Chúa hay nên bằng Thiên Chúa (x Gen 3:3-5), trong việc tự mình quyết định lành dữ (như việc hợp thức hóa vấn đề hôn nhân đồng tính chẳng hạn), cũng như trong việc tự động biến sự dữ thành sự lành (như trong việc triệt sinh an tử hay tạo sinh sao bản trị liệu chẳng hạn), họ sẽ thấy rằng những gì họ làm chỉ khiến cho chính họ nói riêng và xã hội của họ nói chung dần dần đi đến chỗ hỗn loạn và diệt vong mà thôi, như hiện trạng thế giới văn minh về vật chất (khoa học và kỹ thuật) cũng như về nhân bản (văn hóa và quyền lợi) ngày nay thê thảm cho thấy.
Chính vì con người văn minh càng ngày càng tội lỗi và băng hoại mà Thiên Chúa đã phải sử dụng đến nhiều sự dữ khủng khiếp, không phải để trừng phạt con người cho bằng để lay tỉnh con người đang quay cuồng say men tự do thái quá của mình, hay nói một cách dung hòa hơn, để trừng phạt con người cho con người có thể bừng tỉnh. Đó là lý do, trong phần Bí Mật Fatima thứ hai, Mẹ Maria cũng đã nói đến vấn đề tai ương liên quan đến việc trừng phạt của Thiên Chúa để cứu độ con người như sau:
“Các con vừa thấy hỏa ngục, nơi tội nhân khốn nạn rơi xuống. Để cứu họ, Thiên Chúa muốn thiết lập lòng tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ trên thế giới. Nếu những điều Mẹ dạy được thi hành thì nhiều linh hồn được cứu rỗi và thế giới sẽ có hòa bình. Chiến tranh sắp chấm dứt, nhưng nếu người ta không thôi xúc phạm đến Thiên Chúa, một cuộc chiến khốc liệt hơn sẽ bùng nổ trong đời Đức Piô XI. Khi các con thấy ánh sáng lạ lùng chiếu giữa ban đêm, thì các con hãy biết rằng đó là điềm lạ vĩ đại Thiên Chúa muốn cho các con hay Ngài sắp sửa trừng phạt thế giới tội lỗi, bằng chiến tranh, đói khát và việc bắt bớ Giáo Hội cùng Đức Thánh Cha. Để ngăn ngừa điều này, Mẹ sẽ đến để xin dâng hiến Nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ và xin rước lễ đền tạ các ngày Thứ Bảy Đầu Tháng. Nếu người ta nghe lời Mẹ yêu cầu, Nước Nga sẽ trở lại và sẽ có hòa bình. Bằng không, Nước Nga sẽ truyền bá lầm lạc khắp thế giới, gây chiến tranh và bách hại Giáo Hội. Nhiều người lành bị giết, Đức Thánh Cha sẽ khổ; nhiều nước sẽ biến mất, nhưng cuối cùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ sẽ thắng. Đức Thánh Cha sẽ dâng hiến Nước Nga cho Mẹ, Nước Nga sẽ trở lại, và thế giới sẽ được hưởng một thời gian hòa bình”.
Như thế, con người nạn nhân gặp tai ương hoạn nạn về thiên tai hay nhân tai có thể là vì chính tội lỗi của họ, như trường hợp thành Sôđôma và Gômôra trong Cựu Ước (x Gen 18:20-21, 19:4-11,24-25), cũng có thể là vật hy sinh cho việc Thiên Chúa tỏ hiện như trường hợp người mù từ lúc mới sinh (x Jn 9:3).
\Chính Chúa Giêsu đã xác nhận tính cách lưỡng đôi của sự dữ gây ra cho cả người vô tội lẫn có tội, khi Người trả lời cho những kẻ báo tin về vụ một số người Galilêa đã bị Tổng Trấn Philatô lấy máu của họ hòa với các lễ tế của họ, như sau: “Quí vị có nghĩ rằng những người Galilê này tội lỗi nhất ở Galilê vì họ phải chịu như thế hay chăng? Không phải đâu! Nhưng Tôi nói cho quí vị nghe là nếu không xám hối tất cả quí vị cũng sẽ phải chịu y như thế thôi. Hay vụ 18 người bị thác Siloe đè chết. Quí vị cho rằng họ là những người tội lỗi hơn các người ở Giêrusalem hay chăng? Chắc chắn không! Thế nhưng, tôi nói cho quí vị hay, nếu quí vị không hoán cải, tất cả quí vị cũng chịu y như thế thôi” (Lk 13:1-5).
Qua câu huấn đáp này, Chúa Giêsu muốn nói rằng, thành phần nạn nhân của vụ nhân tai bị Philatô đổ máu hay của vụ thiên tai bị tháp Siloe đè chết là những người vô tội, nhưng cũng có thể là hình phạt cho ai có tội, cho ai không biết ăn năn hối cải. Qua câu huấn đáp này, Chúa Giêsu còn có ý muốn nói rằng, sự dữ nhân tai hay thiên tai là những gì được Thiên Chúa dùng để cảnh giác con người về đời sống luân lý của họ, nhất là thành phần nghĩ mình công chính hơn người, không có tội nên không bị tai ương hoạn nạn như thành phần tội lỗi xấu số.
Những nạn nhân của thiên tai và nhân tai, nếu là thành phần vô tội thì là vật hy sinh được Chúa dùng để cảnh giác phần rỗi nơi anh chị em đồng loại của họ, (tất nhiên sự hy sinh của họ sẽ được Ngài đền bù cân xứng như trường hợp các Thánh Anh Hài chết thay cho Người được Phúc Âm Thánh Mathêu thuật lại ở đoạn 2 câu 16, chẳng hạn nhờ sự hy sinh vô tội của họ mà nhiều người còn sống sợ chết nghĩ lại sống tốt lành hơn), và nếu nạn nhân may mắn còn sống là thành phần thực sự có tội thì tai ương họ trải qua chính là một thứ hình phạt được Thiên Chúa dùng để cứu độ họ, nếu họ biết nhìn ra dấu chỉ thời đại mà giác ngộ trở về với Ngài.
Từ những suy tư được căn cứ vào Mạc Khải Thần Linh trên đây, chúng ta cảm nhận được rằng: Qua biến cố nhân tai khủng bố tấn công ngày 11/9/2001 ở Hoa Kỳ, và thiên tai biển động sóng thần ở Nam Á ngày 26/12/2004, Thiên Chúa muốn lay tỉnh loài người càng ngày càng duy vật vô thần hiện đại nhớ rằng: Ngài vẫn còn hiện diện trong lịch sử loài người đấy, chứ chưa có chết như họ tưởng bở đâu, và Ngài là Đấng rất công thẳng, nếu không biết ăn năn thống hối, Ngài sẽ làm hết sức, kể cả bằng các thứ sự dữ do chính con người gây ra, như khủng bố và chiến tranh, để cho họ nhận biết Ngài mới thôi, chỉ vì Ngài yêu thương họ, muốn họ nhận biết chân lý để được cứu độ.
Tóm lại, vì phần rỗi của loài người, và chính vì phần rỗi của loài người là vấn đề hệ trọng trên hết mọi sự trên thế gian này mà Thiên Chúa toàn thiện và toàn năng vô cùng khôn ngoan làm mọi cách, thậm chí sử dụng cả sự dữ, để cứu độ con người yếu đuối và mù tối vô cùng đáng thương. Đó là lý do, trong Thông Điệp Tình Yêu Nhân Hậu gửi Các Hồn Nhỏ, Chúa Giêsu đã tâm sự với người nữ sứ giả giáo dân biệt danh Magarita ở Bỉ của mình vào ngày 19/12/1973 như sau:
“Một Thiên Chúa báo oán chỉ là một người Cha tội nghiệp, khi phải trừng phạt con cái mình để buộc chúng phải hồi tâm nghĩ lại”.
(Suy niệm của Br. B.M.Thiện Mỹ CRM)
SUY NIỆM:
Blondin là một tay xiếc nổi danh. Ông đi nhiều lần trên sợi dây căng qua thác Niagara, độ cao khoảng 500 thước, tay đẩy chiếc xe cút kít. Ngày nọ ông mời ai dám ngồi trên xe đó, để ông đẩy qua sợi dây căng. Nhiều người muốn nhưng không ai dám, vì sợ té xuống thác nước là chết. Sau cùng có người chấp nhận. Ông liền cho anh ngồi trên xe và đẩy đi. Trong khi đó nhiều người đánh cá với nhau. Thấy ông ta đi được nửa đường cách dễ dàng, người đánh cá cược nhiều tiền sợ bị thua, nên lén cắt đứt một sợi trong số các dây căng. Tức thì dây căng rung chuyển dữ dội. Ông Blondin biết nguy hiểm sắp đến nên bảo người trong xe:
- Hãy đứng dậy bám sát vào tôi.
Nhưng người đó quá sợ hãi, không dám làm theo lời ông. Ông liền ra lệnh:
- Hãy đưa hai tay ôm cổ tôi, hai chân kẹp vào lòng tôi, bằng không, chúng ta sẽ ngã xuống thác nước mà chết.
Người đó liền bám chặt vào ông. Và ông đã đưa anh ta qua bờ bên kia an toàn ….
Cuộc đời là bể dâu, cho dù có đề phòng đến mấy cũng không sao có thể tránh được bão tố: Hết thiên tai rồi đến hiểm họa do con người gây ra cho nhau. Những đau thương bên ngoài cũng đã quá ghê gớm, thế nhưng những thù nghịch của tâm hồn mới đáng sợ, nhiều lúc nó muốn nhận chìm chúng ta vào vực thẳm tội lỗi khốn nạn. Tuy nhiên đó lại là điểm đáng yêu của mối tình Giêsu, nhờ vậy chúng ta có dịp chạy đến cầu xin sức mạnh vạn năng của Đấng Cửu Trùng như Phúc Âm thuật lại hôm nay:
Biển Ga-li-lê chỉ dài độ 21 km theo chiều từ bắc chí nam, và chỗ rộng nhất là 13 km theo chiều từ đông sang tây, thung lũng Gio-đan là một vết nứt sâu trên mặt đất, và biển Ga-li-lê là một phần của vết nứt đó. Nó thấp hơn mặt biển 210 mét nên khí hậu ấm áp dễ chịu, nhưng cũng lại nhiều nguy hiểm. Bên phía tây có núi non, thung lũng, khe suối, nên khi gió lạnh từ phía tây thổi đến thì những chỗ trũng, khe suối này có tác dụng như những cái phễu lớn. Gió bị nén trong đó và thổi ào ào xuống hồ bất thình lình với sức mạnh dữ dội, đến nỗi mặt hồ đang phẳng lặng, trong giây lát biến thành sóng gió gầm thét. Những cơn bão biển Ga-li-lê vừa bất ngờ vừa mãnh liệt độc đáo.
Cảnh tượng trong bài Tin Mừng kể lại là cảnh thường xảy ra trên biển Ga-li-lê. Chúa Giêsu đang ngủ, Ngài ngủ vì mệt mỏi sau khi dùng thuyền làm giảng đài dạy dỗ dân chúng. Các môn đệ là các ngư phủ chuyên nghiệp, và vùng biển này là địa bàn hoạt động của các ông, thế mà lúc này các ông hoảng sợ kêu cứu: “Thưa Thầy, chúng con chết mất”.
Chắc ai trong chúng ta cũng hiểu rằng theo Chúa không phải lúc nào cũng thuận buồm xuôi gió hay được hưởng thái bình thịnh vượng. Ngay cả lúc chúng ta gần Ngài nhất, giông tố vẫn có thể nổi lên. Chúa không hứa cho chúng ta được thư thái an nhàn, nhưng là chiến đấu và thậm chí phải hy sinh cả đến tính mạng.
Hôm nay chúng ta hãy đặt tâm hồn vào hoàn cảnh hôm đó: Vào lúc chiều đến, tức là màn đêm bắt đầu buông xuống, đây là thời gian của sự tăm tối, hình bóng của những sự dữ hoành hành. Chúa Giêsu nhắc nhủ các môn đệ chuẩn bị một cuộc vượt qua những thử thách và nguy hiểm, Ngài nói: “Chúng ta hãy sang bên kia Biển Hồ”. Theo ý nghĩa của Kinh Thánh thì biển được trình bày như một sự hỗn mang, từ đó phát sinh những quyền lực chống lại Thiên Chúa và con người. Chỉ có quyền năng của Thiên Chúa mới có thể bắt ba đào hung hăng phải tuân nghe và cứu con người khỏi cơn bão tố. Ở đây bối cảnh diễn tả việc Thiên Chúa giải thoát con người khỏi mọi sự dữ của ma quỉ để đưa họ đến bến bình an là sự sống đời đời. Như vậy chúng ta luôn sẵn sàng đón nhận mọi tình huống tăm tối của cuộc đời bằng cách:
- Khẩn cầu xin Chúa:
- Cho dù ai có là vĩ nhân đối với con người, thì đối với Thiên Chúa họ vẫn chỉ là rất nhỏ bé. Cho nên chẳng có gì phải ngại ngùng đến van xin ơn Chúa cho bản thân, nhất là những lúc éo le của cuộc đời.
- Tiên vàn trong việc cầu xin là chúng ta phải tuyệt đối tin tưởng vào quyền năng vô cùng của Thiên Chúa, Ngài là Đấng thống trị địa cầu, là vua cả trời đất.
- Chúng ta có thể kêu xin Chúa bằng nhiều cách, như các tông đồ đã đánh thức Chúa, và thắc mắc “sao Thầy không quan tâm đến ….”. Lời trách yêu này biểu lộ một tâm trạng khát mong được Chúa cứu thoát hơn là sự nghi ngờ vào sức mạnh của Ngài.
- Khi theo Chúa chúng ta có cảm tưởng như Chúa có nhiệm vụ che chở cho các mọn đệ của Ngài. Tuy nhiên chúng ta vẫn luôn phải lấy lòng con thảo khiêm tốn nài xin Chúa, chứ không được đòi hỏi theo ý riêng một cách thiếu tế nhị.
- Bình an tâm hồn:
- Trong cơn bão tố tâm hồn, tự nhiên chúng ta sẽ tự đặt nhiều thắc mắc: Tại sao Chúa lại để cho sự dữ xảy ra? Tại sao Chúa lại để cho nghĩa tử yêu dấu của Ngài phải tan nát tâm tư? Giữa nghịch cảnh khốn khó đau thương, chúng ta còn tìm được sự hiện diện của Chúa trong tâm hồn không?
- Đứng trước ngã rẽ cuộc đời, chẳng biết phải làm gì, chúng ta hãy thưa lên cùng Chúa: “Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì?”. Trốn tránh đau khổ theo ý riêng, có phải là sự bình an nội tâm không? Theo gương Chúa Giêsu, trước giờ chiến đấu quyết liệt nhất, Ngài đã thưa lên cùng Chúa Cha rằng: “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cất chén này xa Con. Tuy nhiên, xin đừng làm theo ý Con, mà làm theo ý Cha” (Lc.22.42).
Ước gì trong mọi hoàn cảnh chúng ta luôn phó thác nơi tay Chúa như em thơ nương náu ở cung lòng mẹ hiền. Thiên Chúa là Cha nhân từ luôn nhìn đến những giọt lệ cần thiết nơi con cái loài người. Sự sợ hãi chỉ làm phiền lòng Chúa, nhưng tin tưởng vào Ngài là dịp Chúa tỏ uy quyền trên sự dữ, cứ mỗi lần như thế chúng ta có dịp gần gũi Ngài. Ngày xưa Chúa nói với các tông đồ sang bên kia Biển Hồ trải qua nhiều sóng gió, ngày nay Chúa mời gọi mọi người vượt qua biển thương đau của trần gian để về đến bến bình an đời đời trên Thiên Quốc. Chúng ta hãy mạnh dạn đáp lại tiếng Chúa mà tiến bước: “Có Chúa đi với ta, ta sẽ không còn sợ chi; có Chúa đi với ta, ta sẽ không lo lắng gì……”.
(Gợi ý suy niệm của Hiền Lâm)
Câu chuyện thầy trò Chúa Giêsu và các môn đệ vượt biển đã gặp phải cuồng phong đe dọa, cho chúng ta hình ảnh một Đức Giêsu Con Thiên Chúa đầy quyền năng trừ phong dẹp vũ, trong một con người Giêsu mệt mỏi nằm ngủ trên thuyền sau một ngày làm việc vất vả.
Câu chuyện này gợi lại hình ảnh được nói tới trong Thánh Vịnh 78:
“Bấy giờ Chúa như người đang ngủ,
như tướng hùng đã thấm men say,
bỗng tỉnh giấc, đánh cho quân thù quay lưng chạy,
phải thảm thê nhục nhã muôn đời”. (Tv 78,65-66).
Kẻ thù ở đây là biển cả cuồng phong. Theo não trạng người Do-thái, biển là biểu tượng của quyền lực ma quỷ. Mỗi ngày, biển cũng nhắc mọi người nhớ lại thời hỗn mang nguyên thủy: tại đây hải thần thủy quái vẫy vùng và chỉ có một mình Thiên Chúa Toàn Năng mới thách thức và chế ngự được chúng. Khi Chúa Giêsu thức dậy “ngăm đe gió và biển” như khi Người truyền cho ma quỷ ( x. Mc 1,25), cho thấy Chúa Giêsu chứng tỏ thần lực của Người trên quyền lực sự dữ.
Chúa Giêsu chứng minh sức mạnh và sự phát triển không có gì chống lại được của Nước Thiên Chúa. Người chứng tỏ điều này bằng một dấu chỉ quyền năng là phép lạ dẹp tan sóng gió trước khi đi vào miền đất dân ngoại, nghĩa là chiến thắng của Tin Mừng trên ma quỷ vượt ra ngoài biên giới Israel.
Khi đối mặt với mọi hình thức sự dữ đang tấn công con người trong các trận cuồng phong nó gây nên, đôi khi chúng ta tự hỏi: Phải chăng Thiên Chúa đang ngủ?
Thật vậy, cảm nhận của con người giữa biển đời lắm khi như Thiên Chúa ẩn mình hay vắng bóng. Và rồi giữa phong ba bão tố cuộc đời, con người lựa chọn đương đầu ít nhất với 3 cách:
– Dùng sức mình để vật lộn với sóng gió để rồi thất bại tuyệt vọng,
– Chạy đến với Thiên Chúa mọi nơi mọi lúc nên không bao giờ sợ hãi,
– Gặp khi khó khăn mới chạy đến kêu cứu Chúa, nghĩa là coi Chúa chỉ như một phương thế giải quyết tức thời, mà thiếu đi đức tin thật sự và lòng yêu mến nồng nàn.
Trường hợp thứ ba này là trường hợp của dân Do-thái xưa, sách Xuất Hành và đặc biệt là sách Thủ Lãnh là một câu chuyện lặp đi lặp lại khi dân bị quân thù ức hiếp thì kêu cứu Chúa, Chúa giải cứu rồi lại tiếp tục phản nghịch Ngài…
Và có thể nói, đây cũng là thái độ của các môn đệ của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay, khi họ chưa có niềm tin và lòng yêu mến Thầy cho đủ, đến nỗi ngay khi chứng kiến phép lạ rồi vẫn ngỡ ngàng không hiểu Thầy là ai. Thầy Giêsu đang ở trên thuyền nhưng có vẻ như không có Người hiện diện, cho đến khi sóng gió bủa vây mà kinh nghiệm chống đỡ của dân làng chài như mấy ông đã bất lực mới chạy đến cầu cứu Thầy.
Đó cũng là cách sống và giữ đạo của không ít người trong chúng ta ngày nay. Khi an vui hạnh phúc chúng ta quên mất sự hiện diện của Thiên Chúa, đến khi gặp khó khăn thất bại mới tìm về cầu cứu Chúa. Sống đạo như thế là hời hợt, thiếu niềm tin đích thật và thiếu lòng lòng mến Chúa Giêsu. Cũng không thiếu những người ỷ lại vào khả năng mình mà thiếu đi lòng tín thác vào Chúa nên khi gặp sóng gió đã dễ ngã lòng kêu trách Người.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho mọi người chúng con luôn tin tưởng vào sự hiện diện của Chúa trên con thuyền cuộc đời chúng con giữa biển đời sóng gió. Để chúng con không bao giờ nao núng vì Chúa đã chiến thắng nên chúng con cũng sẽ chung phần chiến thắng và cập bến Nước Trời. Amen.
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Ngọc Thế)
“SAO NHÁT THẾ?
LÀM SAO MÀ ANH EM VẪN CHƯA CÓ LÒNG TIN?”
* Vài hàng sơ lược
– Từ đoạn thánh kinh này Mc 4,35-41 đến 5,43, Mác-cô bắt đầu kể về những phép lạ của Chúa Giêsu. Qua đó những hành động quyền năng của Chúa được nêu bật. Vì vậy mà sau đó người ta bắt đầu thắc mắc về Giêsu: “Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì?” (Mc 6, 2)
Ngoài ra, tất cả những phép lạ này đều có một khung cảnh chung, đó khung cảnh biển hồ Ga-li-lê-a. Và hình ảnh thuyền đều xuất hiện trong mỗi phép lạ (x. 4, 36.37; 5,2.18.21)
Một điều luôn được nhấn mạnh trong chuỗi phép lạ này. Đó là niềm tin tưởng. (x. 4, 40; 5. 34.36) Thêm vào đó có thể nhắc đến việc thiếu lòng tin trong 6,6. Ngoài ra, một thái độ đi đôi với niềm tin tưởng được nhắc lại 3 lần trong chuỗi phép lạ này. Đó là thái độ bái lạy, sụp xuống và phủ phục trước Đức Kitô (x. 5, 6.22.33) Điều này làm nổi bật sự “chào thua” của những quyền lực đe dọa trước Chúa Giêsu: quyền lực thiên nhiên (4, 35-42), quyền lực ma quỷ 5, 1-20, quyền lực của bệnh hoạn (5, 24-34) và quyền lực của sự chết (5, 21-23 và 35-43)
– Liên quan đến những đoạn thánh kinh về các dụ ngôn trước đó, chúng ta thấy đoạn thánh kinh này nối kết với đoạn 4,1, mở đầu cho các bài giảng với các dụ ngôn: “Đức Giê-su lại bắt đầu giảng dạy ở ven Biển Hồ”. Như vậy, khung cảnh biển hồ đức Giêsu giảng dạy vẫn là khung cảnh của câu chuyện phép lạ này, chỉ khác là giờ đây Giêsu lên thuyền và đi trên biển hồ. Ngoài ra, theo Adolf Pohl thì sau những bài giảng bằng lời nói của Giêsu, thì tiếp nối bằng những hành động của Ngài, để qua đó chứng thực về một Thiên Chúa không chỉ nói hay mà còn làm giỏi nữa. Lời nói và hành động đi đôi với nhau.
– Ngoài ra, khi đọc đoạn Thánh Kinh này, người ta có thể liên hệ ngay với đoạn thánh kinh ở Giona chương 1. Theo Rudfolf Pesch thì đoạn thánh kinh là câu chuyện kể lại câu chuyện của Giona, với sự phụ họa của thánh vịnh 107, 23-30. Mục đích chính là sự tuyên xưng: Giêsu lớn hơn tiên tri.
Ở đây, chúng ta có thể so sánh hai câu chuyện với nhau:
(a) Trong Giona 1, 4 ĐỨC CHÚA tung ra một cơn gió to trên biển. Còn ờ trong đoạn phúc âm của Mác-cô thì gió bão đến như là quyền lực muốn chống lại Thiên Chúa.
(b) Trong Giona 1, 5 Giona đi ngủ vì không muốn tuân phục Thiên Chúa. Còn theo Mác-cô thì Giêsu ngủ vì mệt mỏi sau những ngày tuần phục Thiên Chúa làm việc phục vụ mọi người.
(c) Trong Giona 1, 14 mọi người trên tàu sợ hãi và kêu cầu Thiên Chúa. Còn ở Mác-cô thì chính Giêsu là Thiên Chúa đã lên tiếng.
(d) Trong Giona 1, 14 các người dân ngoại trên tàu có niềm tin vào Chúa, còn các môn đệ trong đoạn Mác-cô này lại là những người thiều niềm tin.
(e) Trong Giona 1, 15 Biển dừng cơn giận dữ, vì Giona đã vâng lời Chúa và đồng ý để người ta quăng xuống biển. Ở Mác-cô thì biển hồ và cuồng phong vâng lệnh Giêsu.
– Trong đoạn Thánh Kinh Mc 4, 35-41 này tích cách Kitô học và Giáo Hội học được nêu bật, trong khi những sự kiện lịch sử cụ thể không đóng vai trò quan trọng.
– Ngoài ra, theo Johannes Bours, trong câu chuyện mà Mác-cô kể lại ở trên, có hai câu hỏi đã đụng độ nhau. Câu hỏi đầy sợ hãi của các môn đệ đã gặp gỡ câu hỏi đầy trách cứ của Giêsu. Khi đọc câu chuyện này, tôi cảm nhận rằng, câu chuyện đang kể về chính cuộc đời của chúng ta. Và câu hỏi sống còn của các môn đệ cũng liên hệ đến chính câu hỏi sống còn của mỗi người chúng ta: Cái gì có thể chiến thắng sự sợ hãi? Ai là người mạnh hơn? Thần Dữ, kẻ muốn nhấn chìm chúng ta xuống biển sâu, hay là Đấng mà trong đoạn Thánh Kinh này đã nhắc đến: “Người thức dậy.”
– Biển hồ Genesareth được người Ả-rập gọi là “Ajn Allah” – Mắt của Chúa”. Biển hồ này theo Adolf Pohl, nằm 212 m dưới mặt nước biển và ba phía của biển hồ được bao bọc bởi ba vách núi cao đến 300 m. Và biển hồ này có khí hậu bán nhiệt đới. Giữa tháng 5 và tháng 6 nhiệt độ nóng đến 40 độ C. Sự điều hòa nhiệt độ nhờ luồng khí lạnh trong miền cao, kết hợp với nhiệt độ nóng nực ở trên biển hồ, có thể được những trận gió lớn kéo theo một cách bất ngờ, như Luca diễn tả: “Một trận cuồng phong ập xuống hồ; các ngài bị ngập nước và lâm nguy” (8,23). Vì sự bất ngờ không thể dự đoán trước của các trận cuồng phong tại biển hồ này, mà các ngư dân ở đây rất sợ hãi. Và để tránh sự bất ngờ này nên các con thuyền đều cố gắng hướng về phía đông, nơi mà các ngư dân qua tiếng gió thổi, có thể đoán được xem có cuồng phong hay không.
* Suy niệm
– “35 Hôm ấy, khi chiều đến, Đức Giê-su nói với các môn đệ: “Chúng ta sang bờ bên kia đi!”
“Hôm ấy, khi chiều đến” Câu chuyện được bắt đầu như vậy. Chiều đến nghĩa là ngày sống từ từ chào tạm biệt, công việc từ từ được gác xuống, giờ đây là thời gian để nghỉ ngơi. Ngày sống vừa qua của Giêsu là một ngày làm việc miệt mài. Ngài đi giảng dạy ở ven Biển Hồ. Ngài đã giảng gì vậy? Đọc lại các đoạn trước đó, chúng ta nhận ra rằng, Giêsu đã giảng dậy nhiều dụ ngôn khác nhau: Dụ ngôn người gieo giống; dụ ngôn cái đèn và đấu đong, dụ ngôn hạt cải. Từ ở trên thuyền Giêsu đã giảng dạy những điều đó cho dân chúng. Giờ đây khi bóng dương từ từ ngả xuống, Giêsu cũng từ từ muốn ngả lưng, Ngài cũng cần giờ cho mình, cần giờ để nghỉ ngơi, để ngủ nữa chứ. Vì thế, các môn đệ đã chở thầy mình qua bờ bên kia. Trên thuyền Giêsu mệt nhoài đã thiếp ngủ. Theo sau thuyền của Giêsu là rất nhiều thuyền khác nữa.
– 36 Bỏ đám đông ở lại, các ông chở Người đi, vì Người đang ở sẵn trên thuyền; có những thuyền khác cùng theo Người.
Giêsu bỏ đám đông ở lại mà không chia tay gì với họ, là dấu hiệu Ngài mệt mỏi lắm rồi. Điều này được chứng minh qua câu 38 qua sự thiếp ngủ của Chúa. Thuyền mà Giêsu đang ở sẵn trên đó theo Adolf Pohl thì chắc không nhỏ, vì trên đó có cả một nhóm người. Ngoài ra, có những thuyền khác theo Người. Động từ “theo với, ở với” trong Mác-cô luôn hướng về Giêsu (x. 1, 13; 2,19; 3, 14; 5, 18; 14,57). Điều này nói lên tương quan chặt chẽ với Chúa Giêsu. Không chỉ là nhóm 12 thôi, mà còn cả những môn đệ khác nữa (ss. 4, 10)
– 37 Và một trận cuồng phong nổi lên, sóng ập vào thuyền, đến nỗi thuyền đầy nước.
Hôm ấy, khi chiều đến cũng còn là thời gian ánh dương từ từ lặn dần để nhường bước cho đêm đen.
Và đêm càng đen hơn nữa, khi những con thuyền lênh đênh trên mặt hồ bao la kia. Phải chăng đêm đen này như đang dẫn đời người vào trong cái vòng ma quái? Hay đêm đen kia đang như muốn nuốt chửng không chỉ ánh mặt trời, mà tất cả những con người đang ở trên thuyền kia, những con người mệt mỏi sau một ngày vất vả với công việc?
Không chỉ đen, mà thêm vào đó là một trận cuồng phong nổi lên, sóng ập vào thuyền, đến nỗi thuyền đầy nước. Ở đây cần nhắc đến một yếu tố. Trong bản gốc của Hy-lạp, câu chuyện này được kể tiếp nối với nhau trong thì hiện tại và quá khứ. Ngoài ra, chữ “Kai” trong tiếng Hy-lạp, có nghĩa là “Và”, được nhắc đến tất cả 12 x. Theo Johannes Bours, thì điều đó làm cho câu chuyện ly kỳ hơn. Cái thảm cảnh trong câu chuyện theo đó được diễn tả thảm não hơn. Thêm vào đó, trong thời cổ đại, thì thần dữ luôn gắn liền với cuồng phong bão táp của biển khơi. Phải chăng đại dương là nơi chốn của thần dữ với sức mạnh tàn phá và nuốt chửng?
Vâng, sự ly kỳ và thảm não của câu chuyện trong Thánh Kinh bắt tôi phải dừng bước một chút, để lật lại những trang sách kể về các chuyến vượt biển của người Việt thân thương. Lênh đênh trên mặt biển chứ không phải là mặt hồ đâu. Đêm đen không chỉ làm đen cả bầu trời xanh ngát, mà còn làm đen cả bao tâm hồn chan chứa hy vọng, khi xuống thuyền ra đi. Rồi chiếc thuyền có lớn lao bao nhiêu đâu. Xăng dầu cũng đã gần cạn rồi. Thuyền nào chẳng may bị bọn hải tặc “ghé thăm” một lần hay nhiều lần, thì còn thê thảm hơn nữa. Có một số thuyền không chỉ đầy nước mà còn bị vỡ tan tành, giờ đây chỉ là những mảnh gỗ của thuyền, làm bè cho một vài thân xác mệt nhoài, lực đã tàn sức đã kiệt, thả cuộc đời trôi theo sóng, trôi theo biển, trôi theo bóng đen, mà không còn nhìn thấy một tia hy vọng, không còn nhận ra một bến bờ để tấp vô. Mà có bờ đâu để tấp để đậu. Phải làm sao đây? Không lẽ đứng chết chân một chỗ? Hay chấp nhận một cái chết thê thảm trong bóng đêm, trong lòng biển? Không, ít nhất cần phải hò hét! Nhưng “hò” thì ai “thưởng thức” và hét thì có ai nghe giữa đại dương mênh mông này không? Đó là câu hỏi của những con người đụng tới đường cùng của cuộc sống. Truớc đường cùng này, tôi cũng xin không chỉ dừng bước, mà với tất cả tấm lòng xin cầu nguyện cho bao người Việt đã qua đời trên biển cả. Xin Chúa thương nhìn đến và đón nhận tất cả vào Nước của Chúa.
Vâng, chúng con dù sao vẫn tin vào lòng nhân từ và ơn giải thoát của Chúa, như Chúa đã nói:
“1 Bấy giờ, giữa cơn bão táp, ĐỨC CHÚA lên tiếng trả lời ông Gióp như sau:
8 Cửa đại dương, ai ra tay khép lại
khi nước tuôn trào từ đáy vực sâu,
9 khi Ta giăng mây làm áo nó mặc,
phủ sương mù làm tã che thân?
10 Đường ranh giới của nó, chính Ta vạch sẵn,
lại đặt vào nơi cửa đóng then cài;
11 rồi Ta phán: “Ngươi chỉ tới đây thôi,
chứ không được tiến xa hơn nữa,
đây là nơi các đợt sóng cao phải vỡ tan tành!” (Gióp 38, 1.8-11)
Dù tin đấy, nhưng không dậm chân tại chỗ. Niềm tin cũng cần biết tạo sáng kiến. Niềm tin cũng cần phải lên tiếng. Vâng, lên tiếng để đánh thức Chúa dậy. Một hành động tuyệt vời. Đến đường cùng rồi, vì thế cần phải đánh thức Ánh Dương, cần phải đánh thức Thiên Chúa đang ngủ dậy. Bóng đêm kia không thể mạnh hơn Ánh Sáng. Cuồng phong kia không thể mạnh hơn Thần Khí Thiên Chúa được. Cuồng phong và biển cả đều phải có ranh giới. Chúng phải ở đàng sau cánh cửa kia. Thiên Chúa chính là người không chỉ vạch ranh giới, không chỉ đặt then cài, mà Ngài còn là người có đủ quyền năng để gài then cửa.
– 38 Trong khi đó, Đức Giê-su đang ở đàng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ. Các môn đệ đánh thức Người dậy và nói: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?”
Và quyền năng của Thiên Chúa cũng được trao cho Giêsu, Người con dấu ái. Vì thế, các môn đệ đã đánh thức thầy: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?”
Một câu hỏi chất chứa sợ hãi và âu lo, một câu hỏi mang chút trách cứ và hờn giận Thiên Chúa. Joachim Gnilka, một nhà chú giải thánh kinh đã cắt nghĩa rằng, câu hỏi của các môn đệ đã diễn tả thái độ sai lầm của họ: Khi gặp hiểm nguy họ chỉ nghĩ về mình và về sự an toàn của mình mà thôi. Một cách nào đó họ đã không chia sẻ nỗi hiểm nguy của họ với Thiên Chúa. Họ không để cho Thiên Chúa cùng gánh vác nỗi hiểm nguy của họ. Thái độ này được nhắc lại rất rõ ràng trong biến cố họ chạy trốn trước thánh giá tử nạn của Giêsu. Còn với Rudolf Pesch thì lòng yếu tin của các môn đệ nằm ở chỗ, là họ không hiểu được và chấp nhận được một Thiên Chúa ẩn mình. Và trên con đường thương khó, các ông cũng đã ngựa quen đường cũ, không hiểu được tại sao Giêsu thầy mình phải chịu bắt bớ, tra khảo, kết án và chết tất tưởi trên thập tự.
Đâu rồi niềm tin và sự cậy trông vào một Thiên Chúa đã sinh ra làm người nghèo khổ trong hang lừa, để chia sẻ và gánh vác với đời người những âu lo, những khổ đau? Đâu rồi sứ điệp và tin mừng Phục Sinh của một Giêsu chiến thắng sự chết? Giêsu đó, Thiên Chúa đó ngay từ đầu và mãi mãi nói với con người chúng ta rằng: “Đừng sợ!”
Hay sức mạnh của bóng đêm và sự đe dọa của cuồng phong bão táp đã làm tắt lịm đi chút ánh sáng của niềm tin, và chút hơi ấm của niềm hy vọng? Không, ngay từ ngày đầu tiên, khi Thiên Chúa sáng tạo con người, Thiên Chúa đã thấy rằng, hành động sáng tạo này là hành động tuyệt vời nhất. Còn tạo vật nào hơn con người mà Thiên Chúa yêu thương nữa. Vì thế, dù biển sâu hay cuồng phong, dù bão táp hay đêm đen, dù thần dữ hay lòng người gian dối, không có gì có thể làm cho tình yêu của Thiên Chúa phai nhòa.
Thiên Chúa vẫn hiện diện. “Emmanuel – Thiên Chúa luôn ở cùng với chúng ta”.
Ngay cả trong những đêm tăm tối nhất của cuộc sống, Ngài vẫn không hề bỏ mặc chúng ta một mình. Ngay cả trong những lúc khó khăn nhất của cuộc đời, Ngài vẫn luôn hiện diện với chúng ta. Và thậm chí, ngay cả trong đêm cuối đời, trong giây phút cô đơn hiu quạnh cuối cùng của cuộc sống, vốn dĩ không ai có thể đồng hành cùng với chúng ta, trong đêm cuối cùng trước giờ lâm tử đó, Thiên Chúa vẫn không hề từ bỏ chúng ta…. (Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI)
Lời của Đức Thánh Cha chất chứa niềm hy vọng. Niềm hy vọng này cũng chính là nguồn sống cho Alfred Delp, một linh mục dòng Tên bị phát xít Đức giam cầm trong ngục tù đen tối. Cha Alfred kể lại rằng: “Vào một buổi tối tôi cảm thấy tâm hồn mình chao đảo. Tôi bị hành hạ rất dã man và sau đó bị tống trở lại vào ngục. Những tên lính phát xít giải tôi vào ngục đã nói những lời như sau: “Như vậy là đêm nay mày không thể nhắm mắt được đâu. Mày sẽ cầu nguyện, nhưng không có một Thiên Chúa và cũng chẳng có một thiên thần nào đến, để cứu thoát mày. Phần chúng ta sẽ đánh một giấc ngon lành, và sáng sớm ngày mai chúng ta sẽ tiếp tục hành hạ mày.’
Alfred kể tiếp: Thiên Chúa đã thử thách tôi. Giờ đây làm thế nào để có thể bền bỉ đứng vững được thôi. Tôi vẫn luôn tin tưởng vững vàng và hy vọng nơi Bàn Tay nhân từ, Bàn Tay đã đón nhận chúng ta và hướng dẫn chúng ta…. và Thiên Chúa đã ban tặng cho tôi một không gian thật đẹp với sự bình tâm thẳm sâu. Tôi cảm thấy lúc này Chúa thật gần và thương tôi thật nhiều….Với tôi có những lúc thật là khó khăn. Tôi đã trải qua những giờ phút rất đau thương với nước mắt và máu. Nhưng tôi đã luôn luôn cố gắng đưa những giọt nước mắt và máu của mình vào trong hai hành động thật nhỏ bé, để nhờ đó có thể đứng vững được. Hai hành động đó là: Cầu Nguyện và Yêu Thương. Tất cả mọi hành động khác trong lúc đó đều sai cả…. Hôm nay là một ngày tồi tệ. Thiên Chúa như đang thử thách tôi, xem tôi có giữ những lời mà tôi đã từng xác tín không: Chỉ với Chúa thì cuộc sống mới tồn tại và phận người mới đứng vững được.
Giờ phút của Phêrô lại đến. Gió bão và sóng lớn lại đe dọa… Phêrô bắt đầu run lẩy bẩy… Giờ đây mọi sự nằm trong bàn tay của Chúa… Ngài có nhiều cách để vực chúng ta dậy và dìu chúng ta tiếp tục tiến bước. Tôi đã thường cảm thấy điều này trong những tuần lễ thê thảm đầy sợ hãi và dài đằng đẵng. Tôi luôn hy vọng vào Thiên Chúa, và vào tình yêu cùng sự trung thành của Ngài…Tôi muốn đốt lên những ngọn lửa cho các bạn. Các bạn đã cùng đi với tôi trong những đêm đen của cuộc đời. Các bạn cũng đã từng bị gió bão và cuồng phong đe dọa, và các bạn đã đứng vững. Vai kề vai chúng ta cùng gánh vác chung với nhau nhé… Giữa đêm đen Ánh Sáng sẽ bừng lên!”
Hành động của Cha Alfred chắc chắn là một bài học thật quý giá cho chúng ta. Thực vậy, trên con thuyền của cuộc đời, chúng ta chỉ cần tin thôi. Chúng ta hãy cứ an tâm. Dù cho Giêsu có ngủ, nhưng ngủ ở đàng lái đấy! Và không chỉ ngủ ở đàng lái, mà theo Hans Urs von Balthasar, thì Giêsu còn nằm nghỉ trong lòng của Chúa Cha, Đấng canh giữ cuộc sống của Giêsu và sứ mạng của Giêsu, không bao giờ cho phép sức mạnh của thiên nhiên ảnh hưởng đến sứ mạng của Giêsu.
Nhưng sứ mạng của Giêsu là gì? Là yêu thương mọi người, là trao ban tình yêu của Cha cho mọi người, là chở che mọi người trước bao nỗi hiểm nguy, là giải thoát con người khỏi mọi nỗi sợ hãi, và đưa mọi người về với bờ bến của bình an, của hạnh phúc. Vâng, chúng ta hãy an tâm và đừng sợ, Giêsu luôn gìn giữ chúng ta, và không bao giờ để cho chúng ta mất đi. Như người mục tử nhân lành, chính Ngài chứ không ai khác sẽ che chở đoàn chiên trước thú dữ đang nhâm nhe đe dọa.
Vì thế, dù gió có lớn, bão có to đến mấy, thì Giêsu vẫn vững tay lái, vững mái chèo trên con thuyền của cuộc đời. Và dù Ngài đang ngủ, nhưng Ngài vẫn hiện diện. Dù vì mệt mỏi đang nghỉ ngơi, nhưng Ngài nghỉ ngơi trên con thuyền của chúng ta, của con người yếu đuối, chứ ngài không nằm nghỉ trên giường êm nệm ấm. Và kìa Ngài đã nghe tiếng kêu của các môn đệ. Chúng ta hãy nhìn xem. Ngài đứng dậy. Rồi Giêsu làm gì? Ngài sẽ mắng các môn đệ chăng? Không, điều đầu tiên là:
– “39 Người thức dậy, ngăm đe gió, và truyền cho biển: “Im đi! Câm đi!” Gió liền tắt, và biển lặng như tờ.”
Tuyệt vời quá sức! Tuyệt vời như từ thuở xa xưa:
“Khi gặp bước ngặt nghèo, họ kêu lên cùng CHÚA,
Người đưa tay kéo họ ra khỏi cảnh gian truân.
Đổi phong ba thành gió thoảng nhẹ nhàng,
sóng đang gầm, bỗng đâu im tiếng,
họ vui sướng, vì trời yên bể lặng
và Chúa dẫn đưa về bờ bến mong chờ.” (Tv 107, 28-30)
Vâng, dù tiếng sóng có gầm vang, có thét lên đến long trời lở đất, thì cũng cần phải im tiếng đi, cần phải nhường bước cho Thiên Chúa, Đấng là tình yêu, Đấng từ thuở đời đời luôn ở đó bên người con nhỏ yêu dấu của Ngài:
“Sóng nước đã gầm lên, lạy CHÚA,
sóng nước đã gầm lên tiếng thét gào.
Sóng nước đã gầm lên, long trời lở đất.
Nhưng hơn hẳn tiếng nước ngàn trùng,
hơn hẳn sóng oai hùng ngoài biển cả,
CHÚA oai hùng ngự trị chốn cao xanh.” (Tv 93, 3-4)
Sự hiện diện đầy quyền năng của Chúa đã làm cho biển phải câm lặng. Quyền năng này các môn đệ ngày xưa không thể hiểu được. Có lẽ chính vậy mà niềm tin của các ông còn nhỏ lắm. Và có lẽ Giêsu hiểu thấu được niềm tin của môn đệ mình, nên Ngài chỉ mắng:
– “40 Rồi Người bảo các ông: Sao nhát thế? Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?”
Ở đây một điều thú vị là, trước hết Giêsu ra lệnh cho biển phải im lặng, sau đó Ngài mới mắng các môn đệ. Vâng, ngài đã hiểu thấu sự sợ hãi của các ông, nên điều đầu tiên cần làm không phải là trách mắng người đang sợ hãi, mà ra tay giúp đỡ giải thoát họ ra khỏi sự sỡ hãi trước, sau đó muốn nói gì thì nói, muốn mắng gì thì cũng không sao.
Lời mắng các môn đệ nhát sợ được Giêsu lập lại nhiều lần khác (x. Mc 4, 13.40; 7,18; 8,17tt.21.33; 9, 19). Nhưng khi mắng các môn đệ như thế, Giêsu có ý chống lại sự nghi ngờ của các môn đệ vào chính Ngài, Thầy của họ, cũng như chống lại sự nhát sợ của người được chọn, người môn đệ Chúa. Như vậy lời mắng của Giêsu như là lời tỉnh thức giúp cho những ai theo Chúa cần dừng bước lại, để nhận ra sự yếu đuối rất hay nhát sợ của con người mình, và ý thức bám vào Chúa nhiều hơn. Vâng, ai càng bám vào Chúa và sống trong tình thân với Ngài, thì sẽ chẳng sợ gì, họ càng ngày càng bình tâm hơn. Một sự bình tâm tín thác và tin tưởng hoàn toàn vào Chúa, đến nỗi không ước muốn sức khỏe hơn bệnh tật, giàu sang hơn nghèo khổ, danh vọng hơn nhục nhã, sống lâu hơn chết yểu và tương tự thế đối với mọi sự khác, nhưng chỉ ước muốn và lựa chọn cái gì dẫn đưa chúng ta tới cứu cánh của mình hơn cả, và cái gì đúng theo thánh ý của Chúa mà thôi (ss. Sách Linh Thao số 23)
Điều thứ hai mà Giêsu mắng các môn đệ là việc yếu lòng tin của các ông. Về điều này chúng ta cũng thấy Máccô nhắc đến nhiều lần. Vâng, dù cho các ông đã theo Giêsu và ở với Người (ss. Mc 3, 14), dù cho mầu nhiệm Nước Trời đã được trao cho các ông (ss. Mc 4, 11), và giải nghĩa cho các ông cặn kẽ (ss. Mc 4, 34b), nhưng các ông vẫn chưa có lòng tin. Adolf Pohl chú ý chúng ta về từ ngữ “chưa có lòng tin”. Với từ ngữ này chúng ta có thể nhận ra rằng, sự chậm hiểu và thiếu lòng tin của các môn đệ là dấu hiệu của sự thiếu kinh nghiệm thiêng liêng về Thiên Chúa và về niềm tin.
Phải chăng niềm tin không chỉ là một món quà của Chúa ban tặng một lần là xong, mà niềm tin còn cần phải được chăm bón, cần phải được thử sức và tôi luyện, cần phải luôn luôn được lấy ra khỏi “kinh tin kính”, để đem vào cuộc sống, để nhìn lại và để rút ra thêm kinh nghiệm. Và cũng thật quan trọng, khi ý thức như Luca cầu xin Chúa: “Lạy Chúa, con tin Chúa, nhưng xin Chúa tăng thêm lòng yếu tin của con.” Thực vậy, không ai dám nói rằng, khi tôi bước theo Chúa và trở thành môn đệ của Ngài, thì niềm tin của tôi vào Ngài đã vững vàng 100%, đến nỗi tôi không cần phải “vào nhà tập lại”, không cần phải đi tĩnh tâm năm, không cần phải cầu nguyện hằng ngày, không còn phải ra sức học hành và trau dồi Lời Chúa nữa.
Ai dám nghĩ như thế, thì thật là “tuyệt”, vì họ là con người hoàn hảo rồi. Mà đã hoàn hảo rồi thì đi tu để làm gì nữa? Vì vậy, thật hay từ ngữ “tu” của Việt Nam ta: Tu là để sửa chữa, để ngày ngày học biết tinh thần của Giêsu và ý thức sửa đổi bắt chước Giêsu mỗi ngày nhiều hơn một chút. Hay theo thiển ý của tôi, có thể nói theo kiểu của Linh Thao: Tu là một chuỗi ngày tập thể thao cho linh hồn của mình, bằng cách ngày ngày ý thức dọn dẹp và chuẩn bị linh hồn để xa bỏ những quyến luyến lệch lạc và sau đó tìm kiếm ý Chúa trong cách xếp đặt cuộc sống để mưu ích cho linh hồn mình (ss. Linh Thao số 1)
– 41 Các ông hoảng sợ và nói với nhau: “Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?”
Sau khi chứng kiến quyền năng của Giêsu trên thiên nhiên, thì các môn đệ hoảng sợ. Ở đây, Adolf Pohl so sánh một điều rất hay. Trong câu 37 nói về một trận cuồng phong lớn. Và sau đó ở câu 39 là “biển lặng như tờ” nghĩa là sự thinh lặng lớn. Và ở câu 41 này thì các môn đệ “hoảng sợ”, nghĩa là nỗi sợ thật lớn. Như vậy, nỗi sợ thật lớn này không còn là sự nhát sợ mà Giêsu mắng các ông ở câu 40, mà là sự sợ hãi lớn trước sự mạc khải của Thiên Chúa. Sự sợ hãi này cũng là sự công nhận của con người nhỏ bé trước quyền năng phi thường của Thiên Chúa. Vâng, nỗi sợ lớn lao trước Thiên Chúa này không trói buộc con người lại, mà thúc đẩy con người biết ý thức phủ phục, biết ý thức tỏ lòng thờ lạy Chúa của mình, như trong Giona 1, 16: “Những người ấy sợ ĐỨC CHÚA, sợ lắm; họ dâng hy lễ lên ĐỨC CHÚA và khấn hứa.” Như vậy, trong sự sợ hãi này chứa đựng những điều thật tích cực: Tin tưởng và thờ lạy. Vâng, sau khi biển và cuồng phong đã phải tuân phục và bái lạy Thiên Chúa, thì giờ đây đến lượt con người chúng ta.
Nỗi sợ hãi lớn lao này cũng thúc đẩy con người đi vào trong giao động mới, đó là đi tìm căn tính của Đức Kitô: Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh? Theo R. Pesch thì những ai chứng kiến cảnh tưởng này chỉ có thể trả lời rằng: Đấng mà cả gió và biển phải tuân lệnh thì lớn hơn tiên tri Giona. Ngài hành động với sức mạnh của chính Gia-vê Thiên Chúa. Ngài là Đấng lớn hơn cả sức mạnh và bạo lực của hỗn mang. Phần bạn và tôi, chúng ta hãy luôn để câu hỏi này đi với mình trong cuộc đời: “Đức Kitô là ai đối với tôi vậy?” Chắc chắn rằng, mỗi thời điểm câu trả lời sẽ khác, vì kinh nghiệm về niềm tin và về Giêsu của chúng ta cũng sẽ khác đi và dồi dào hơn.
(Chú giải và Suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
TM Máccô theo một cái khung quen thuộc để kể truyện này: một trở ngại phải vượt qua (một trận cuồng phong trên biển), hành động quyền năng của Đức Giêsu (lệnh truyền im lặng), và sự xác nhận (sự yên lặng hoàn toàn và nỗi sợ hãi của các môn đệ). Bối cảnh của câu truyện này rất có thể là quan niệm cổ xưa của Cận Đông về biển: đây là biểu tượng của những quyền lực của hỗn mang và sự dữ đấu tranh chống lại Thiên Chúa. Các độc giả đầu tiên của Mc nắm được ý nghĩa của biểu tượng này đến mức nào, thì khó mà biết. Nhưng chắc chắn câu hỏi của các môn đệ (“người này là ai?”) cho thấy là tác giả muốn nhấn mạnh trên chân tính của Đức Giêsu. Câu hỏi ấy trở thành một lời tung hô mặc nhiên mang tính Kitô học nhìn nhận bản tính thần linh của Đức Giêsu, bởi vì Người làm được những việc Thiên Chúa làm.
Ở đầu bản văn, rõ ràng Mc bận tâm tạo ra một móc nối với những phần đi trước. Ngày sắp tàn là ngày đã có bài giảng dài trên hồ (x. 4,1). Chiếc thuyền Đức Giêsu dùng để qua hồ vẫn là chiếc thuyền Người đã dùng làm bệ giảng trên hồ (x. hình ảnh con thuyền trong Mc: 5,1.21; 6,45; 8,31). Bỏ đám đông ở đầu c. 36 cũng là một điểm móc nối. Riêng với chiếc thuyền: Chuyến vượt hồ bằng thuyền tương ứng với việc dừng lại nơi một ngôi nhà; và cũng như có những giáo huấn đặc biệt Đức Giêsu ban cho các môn đệ được nối kết với lần dừng lại nơi một ngôi nhà (x. 7,17-23; 9,28t; 9,33-50; 10,10-12), thì cũng có những hành vi quyền lực đặc biệt được liên kết với chuyến vượt hồ bằng thuyền. Chiếc thuyền là nơi để Đức Giêsu mạc khải đặc biệt cho các môn đệ (4,35-41; 6,45-52) và là nơi Người chờ đợi các ông tỏ ra hiểu biết các hành vi quyền lực của Người (8,17-21). Chiếc thuyền là nơi có sự hiệp thông đặc biệt chặt chẽ giữa Đức Giêsu và các môn đệ. Và chính là trong sự hiệp thông rất chặt chẽ này và không thiếu hiểm nguy, mà các hành vi cứu độ và mạc khải quan trọng của Đức Giêsu được thực hiện.
2.- Bố cục
Sau khi đã giản lược một số chi tiết, chúng ta có thể xác định bố cục như sau:
- Đức Giêsu và các môn đệ trước khi gặp sóng gió (4,35-37);
- Đức Giêsu và các môn đệ trong sóng gió (4,38-39);
- Đức Giêsu và các môn đệ sau sóng gió (4,40-41).
3.- Vài điểm chú giải
– Hôm ấy, khi chiều đến (35): Tác giả quen dùng hai thành ngữ đi liền nhau để chỉ thời gian, trong đó vế thứ hai xác định vế thứ nhất (x. 1,32.35).
– sang bờ bên kia: nghĩa là sang bờ phía đông của Hồ Galilê. Tại sao Đức Giêsu muốn sang đó: để tránh sự chống đối? để tìm một vùng đất mới mà rao giảng? Ta không được rõ.
– ngủ (38): Giữa trận cuồng phong dữ dội, Đức Giêsu vẫn có thể ngủ, có lẽ vì Người quá mệt, nhưng cũng chắc chắn vì Người vừa hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa (x. Tv 4,9; 3,24-26) vừa chứng tỏ Người luôn làm chủ mọi tình huống.
– Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao? (38) Câu hỏi này của các môn đệ đã được làm nhẹ đi rất nhiều trong Mt 8,25 (“Thưa Ngài, xin cứu chúng con, chúng con chết mất”) và Lc 8,24 (“Thầy ơi! Chúng ta chết mất!”).
– truyền cho biển (39): x. 1,25. Đức Giêsu có thể kiểm soát biển, đây là mặc nhiên khẳng định rằng Đức Giêsu có quyền năng của Thiên Chúa, bởi vì chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể điều khiển biển (x. Tv 73/74,13-14; 88/89,10-12).
– Câm đi! x. 1,25: động từ phimoô. Cơn bão được coi như một thú dữ. Động từ này cho hiểu rằng Đức Giêsu đang chứng tỏ Người có thể kiểm soát các mãnh lực của tà thần.
– Gió liền tắt và biển lặng như tờ: Nhận định này cho thấy Đức Giêsu hoàn toàn kiểm soát được biển.
– nhát (HL. deiloi, 40): Nhiều lần các tác giả Tân Ước đã cảnh giác về deilia (“sự nhát đảm”). Ở Kh 21,8, những người nhát đảm được kể ra cùng với những người không tin (x. 2 Tm 1,7; Ga 14,1).
– Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin? Lời trách này rất nặng, do nhắm thẳng vào các môn đệ (x. 8,14-21). Phải chăng họ đã mất niềm tin vào Thiên Chúa hoặc vào Đức Giêsu? Nếu họ đã mất niềm tin vào Thiên Chúa, chính là vì họ đã không chịu noi theo Đức Giêsu đặt hết tin tưởng vào Thiên Chúa (4,38). Nếu họ đã mất niềm tin vào Đức Giêsu, chính là họ vì họ đã không cậy dựa vào quyền lực của Đức Giêsu.
– Vậy người này là ai? (41): Bởi vì chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể chế ngự gió và biển, câu hỏi này của các môn đệ hàm chứa một lời tuyên xưng mặc nhiên rằng Người làm được những việc mà truyền thống Cựu Ước thường trình bày là chỉ Thiên Chúa mới làm được.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Bản văn vừa cho thấy tương quan mật thiết giữa Đức Giêsu và các môn đệ vừa diễn tả lộ trình các môn đệ khám phá ra mầu nhiệm Đức Giêsu: họ bước theo Người, họ chứng kiến các biến cố trong đó Người can thiệp, họ khám phá ra mầu nhiệm bản thân Người. Chi tiết “có những thuyền khác cùng theo” chỉ được nêu ra ở câu đầu, rồi sau đó cho đến cuối, không xuất hiện nữa.
* Đức Giêsu và các môn đệ trước khi gặp sóng gió (35-37)
Sáng kiến vượt hồ là sáng kiến của Đức Giêsu. Các môn đệ luôn thinh lặng bước theo Người và tận tình thực hiện những việc Người đề nghị. Đức Giêsu luôn tỏ ra là chủ, nắm vững mọi hướng đi.
* Đức Giêsu và các môn đệ trong sóng gió (38-39)
Nguy hiểm được mô tả bằng các chi tiết về sóng to gió lớn. Nhưng Đức Giêsu vẫn tỏ ra là chúa tể, làm chủ tình hình: Người ngủ. Bình thường các môn đệ chờ đợi Đức Giêsu phản ứng và dạy bảo rồi mới làm theo; nhưng ở đây, thấy bão táp quá nguy hiểm, các ông bị chao đảo trong đức tin, các ông đã phản ứng trước Thầy, các ông thúc bách Thầy bằng giọng hốt hoảng và trách móc. Người đã trỗi dậy, dẹp yên sóng gió. Ở đây, bão và biển được truyền lệnh như những sinh vật; chúng được yêu cầu “im đi!”, “câm mõm lại!”. Quả thật, từ vựng của bản văn là từ vựng của một truyện trừ quỷ.
* Đức Giêsu và các môn đệ sau sóng gió (40-41)
Dù sao chúng ta thấy phản ứng của các môn đệ (hoảng sợ và đánh thức Thầy) là chuyện hợp lý. Khó hiểu hơn, đó là những câu hỏi của Đức Giêsu: “Sao nhát thế? Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?” (c. 40). Làm sao có thể cấm các môn đệ sợ hãi khi gặp nguy hiểm chết người? Đức tin này là loại đức tin nào, mà ngay trong nguy hiểm cùng cực vẫn loại trừ được nỗi sợ hãi? Đức Giêsu trách các môn đệ là chỉ nhìn đến nguy hiểm và những sức mạnh đe dọa của thiên nhiên chứ không hiểu biết ai là người đang cùng ở trên thuyền với họ.
Chỉ sau khi đã thực hiện phép lạ, Đức Giêsu mới ngỏ lời với các môn đệ; lúc này, họ lại trở về đúng vị trí là những người bước theo, đón nhận giáo huấn. Câu nói: “Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?” chứng tỏ các môn đệ đã được sống với Đức Giêsu khá lâu rồi. Câu hỏi “Vậy người này là ai…?” vừa nhìn nhận quyền lực của Đức Giêsu vừa như muốn tìm ra câu trả lời nơi những người nghe kể lại sự cố. Ta sẽ gặp câu trả lời được đề nghị trên môi Phêrô ở 8,29.
+ Kết luận
Đoạn văn nêu bật sự cần thiết của đức tin trong đời sống người môn đệ. Nếu chúng ta hiểu rộng ra rằng trận bão trên biển ấy là một hình ảnh báo trước cuộc Khổ Nạn mà Đức Giêsu sẽ đi vào, thì bước theo Đức Giêsu, dù ngày hôm qua hay ngày hôm nay, luôn luôn là bước theo Người xuyên qua Khổ Nạn. Và như thế, cần phải có đức tin. Chỉ với giá ấy, người môn đệ mới được tham dự vào cuộc Phục Sinh vinh quang với sự an bình thẳm sâu được.
5.- Gợi ý suy niệm
- Hình ảnh con thuyền trong đó các môn đệ sống chung với Đức Giêsu là biểu tượng cho cộng đoàn gồm những môn đệ hôm nay vẫn đang muốn bước theo Người. Đó chính là một cuộc “cộng đồng sinh mệnh”, sống chết có nhau. Phản ứng của các môn đệ trong biến cố này là một tấm gương và một lời nhắc nhở cho cộng đoàn Kitô hữu là đừng rơi vào một thái độ không tin như thế. Nếu chúng ta gắn bó với Đức Giêsu, thì không có hoàn cảnh nào có thể tiêu diệt chúng ta, bởi vì không có hoàn cảnh nào mà Người không chế ngự được.
- Sai lầm của các môn đệ là chỉ nghĩ đến mình chứ không sẵn sàng chia sẻ nguy hiểm với nhau và với Đức Giêsu. Hoàn cảnh này sẽ được lặp lại khi họ chạy trốn trong đêm Đức Giêsu bị bắt và bị đưa đi đóng đinh. Cơn sóng gió cuối cùng chúng ta sẽ gặp, và không có cách nào tránh được, đó là cái chết. Mỗi người chúng ta đều sẽ phải đương đầu với cái chết; cái chết có thể đến bất ngờ một trận cuồng phong hay chậm chạp từ từ. Nhưng cho dù cái chết đến bằng cách nào đi nữa, chúng ta cũng lo sợ. Bài Tin Mừng này cho chúng ta biết là chúng ta phải tin rằng Đức Giêsu luôn nghĩ đến chúng ta, Người sẽ không để chúng ta phải lo sợ quá mức. Chúng ta tin rằng khi chúng ta cần, Người sẽ lên tiếng bảo cơn sóng gió “Câm đi! Im đi!”
- Lời mời gọi “Hãy sang bờ bên kia” có nhiều ý nghĩa đối với chúng ta. Với Giáo Hội, “bờ bên kia” mang ý nghĩa là những người hiện giờ không ở trong cộng đoàn chúng ta, họ đang ở “bờ bên kia”, có thể họ là những người vừa di chuyển đến trong xã hội chúng ta, những người “bên phía kia”, là người cao niên, người tàn tật, người bệnh chờ chết, hay người di dân vì chiến tranh trong trại di cư… Đức giáo hoàng Phanxicô dạy trong Tông huấn Niềm vui Tin Mừng: “Mỗi Kitô hữu và mỗi cộng đồng phải phân định đường đi nước bước mà Chúa vạch ra, nhưng tất cả chúng ta đều được yêu cầu vâng theo tiếng gọi của Người là ra đi khỏi khu vực tiện nghi của mình để đến mọi vùng ngoại vi đang cần ánh sáng Tin Mừng” (s. 20).
- Lời Đức Giêsu trách các môn đệ: “Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?” rất đúng cho chúng ta là những người đã biết Đức Giêsu từ lâu, đã sống với Người, đã được chứng kiến biết bao nhiêu việc kỳ diệu Người làm trong đời sống chúng ta, mà vẫn không biết phản ứng hay lấy những quyết định tương hợp với kinh nghiệm ấy. Nhận biết đúng đắn chân tính của Đức Giêsu thì sẽ có một thái độ đúng đắn đối với bản thân Người.
- Các cộng đoàn chúng ta phải đưa Đức Kitô đến cho người ngoại, nên không thể nào tránh khỏi những khó khăn và đối kháng. Chẳng hạn, không phải mọi nhóm tôn giáo đều tôn trọng tự do của cá nhân; những sứ giả Tin Mừng có thể gặp những nguy hiểm chết người… Tuy nhiên, vì loan báo Tin Mừng là sứ mạng làm nên bản chất Kitô hữu, chúng ta không thể tránh né.
Giáo huấn bằng dụ ngôn của Đức Giêsu đã nói lên sự phân biệt rõ ràng giữa hai loại người: Đối với những “người ở ngoài”, thì tất cả đều bí hiểm. Còn đối với các “môn đệ”, thì mọi sự đều sáng tỏ trong các mạc khải về mầu nhiệm mà “vị Thầy “ đã thông tỏ riêng cho họ. Trong Tin Mừng theo Thánh Mác-cô, tiếp theo một chuỗi những dụ ngôn là bốn phép lạ. Những phép lạ này có đặc tính rõ ràng: Không được thực hiện trước công chúng, nhưng chỉ “trước mặt các môn đệ”. Phải chăng những phép lạ này là những dụ ngôn bằng hành động, phải được hiểu trên bình diện biểu tượng cũng như bình diện thực tế? Các tông đồ giữa cơn bão tố được kể lại hôm nay, gọi Đức Giêsu là “Thầy” (tiếng Hy Lạp là didaskalos có nghĩa là “Thầy dạy dỗ”), việc này phải chăng có một giá trị mạc khải lớn? Vậy chúng ta hãy lắng nghe giáo huấn của Người trong biến cố này. Đọc một biến cố để nêu ý nghĩa thần học, không làm cho biến cố đó mất tính cách lịch sử, nhưng mang lại cho nó chiều kích sâu xa hơn.
Chiều hôm ấy, Đức Giêsu nói với các môn đệ: “Chúng ta sang bờ bên kia đi?”. Vì Người đang ở trên thuyền, các ông cứ thế chở Người đi bỏ dân chúng ở lại; có những thuyền khác cùng theo Người”.
Trên bình diện thực tế lịch sử, tôi tưởng tượng một buổi chiều hè đẹp trời, Đức Giêsu mượn chiếc thuyền của Simon Phêrô và từ từ rời xa bờ biển Ca-phác-na-um. Sau một ngày nóng bức, bây giờ là buổi chiều tà mát mẻ. Sau khi đã tiếp xúc với đám đông ồn ào, bây giờ là lúc thân mật ân tình với nhóm bạn hữu trên biển. Chính Đức Giêsu đã có sáng kiến tạo ra những giây phút yên tĩnh này:
“Chúng ta hãy qua bờ bên kia”. Gió tốt, cánh buồm căng phồng đang nhẹ rung – Người ta chỉ nghe tiếng nước vỗ nhẹ vào mạn thuyền đang rẽ sóng và tiếng kêu của một vài con chim biển. Sau một ngày giảng dạy bằng dụ ngôn, Đức Giêsu mệt mỏi thiếp ngủ nơi cuối thuyền. Bên cạnh Người là Phêrô đang cầm bánh lái. Nhưng nếu chỉ dừng ở những trang này thì thật đáng tiếc. Chúng ta biết rằng, từng câu, từng chữ trong trình thuật Tin Mừng, đều được khoa Giáo lý ban đầu chú giải. Do đó chúng ta cũng phải đọc và hiểu theo nghĩa tượng trưng, như những chú giải của các Giáo phụ minh chứng.
“Ngày hôm đó”: Đây không phải là một kiểu nói thông thường, có nghĩa là: Ngày giảng dạy bằng dụ ngôn đã chấm dứt. Đối với Thánh Maccô “sự trình bày cán sự kiện nối tiếp nhau là một cấu trúc thần học hơn là một phóng sự “Ngày hôm đó” sẽ không phải một ngày thường. Phêrô sẽ nhớ ngày đó suốt đời. Vì ông gợi nhớ những hình ảnh Thánh kinh: “Ngày hiển hách của “Giavê”, “Ngày Thiên Chúa quyền năng can thiệp mạnh mẽ”, ngày đó có những tai họa cánh chung đi trước (Ga 2,3).
“Chiều tối đến”: Không chỉ là màn đêm buông xuống, mà còn “giờ của bóng tối”, giờ thử thách (Mc 14,17; Ga 9,4-13.30).
“Bờ bên kia”: Không chỉ là bờ hồ đối diện mà còn là bước đi vĩ đại sang bên kia thế giới. Đó là số kiếp của mỗi người vào lúc hoàng hôn của cuộc đời. Đó là ngày trọng đại Ngày của Thiên Chúa”… Tất cả những ngày khác đều phải chuẩn bị cho ngày đó.
Bỗng nổi lên một trận cuồng phong, sóng ập vào thuyền, đến nỗi thuyền đầy nước.
Bão tố thực sự. Ngày nay hồ Tibêria vẫn nổi tiếng về những cơn bão bất ngờ và mãnh liệt từ đồi Gôlăng thổi xuống. Hơn ai hết, vì nghề nghiệp Phêrô đã biết rõ điều này. Những cơn gió thổi mạnh đập vào cánh buồm và làm nghiêng ngả chiếc tàu thật nguy hiểm. Nhưng không cần phải đi biển mới bị những cơn bão tố như thế. Tất cả các ngôn ngữ trên thế giới đều dùng chữ bão tố để ám chỉ “một cơn thử thách bất ngờ đổ xuống trên con người”. Trong Thánh Kinh, đề tài bão tố thường được dùng để nói về sức mạnh của sự dữ. Công cuộc tạo dựng ta được hiểu như sự chiến thắng của Thiên Chúa trên cảnh hỗn loạn của biển khơi nổi dậy (St 1,2). Theo khoa huyền thoại xưa của Do Thái. Biển cả là “vực thẳm vĩ đại”, nơi những con rồng, những thủy quái, Lêviathan, biểu tượng của Satan, thống trị (Is 27,1; Tv 74,13; G 9,13; Đn 7; Kh 12,13).
Trong khi đó, Đức Giêsu đang ở đàng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ.
Tôi ngắm nhìn Đức Giêsu đang ngủ, đôi mắt nhắm, hơi thở đều đặn, vẻ bình thản, ở đằng lái thuyền, trong cớn bão tố. Chi tiết này gợi cho tôi tâm tình cầu nguyện nào? Lạy Chúa, Chúa đưa chúng con đi đến đâu? Chúa làm cho chúng con bối rối biết bao? Trong Thánh kinh, có một người khác cùng ngủ trong cơn bão táp, đó là Giona. Người ta phải đến đánh thức ông dậy (Gn 1,3-16). Có phải tình cờ, mà Đức Giêsu nói về “dấu lạ của Gio-na” như một dấu hiệu duy nhất để diễn tả về: Cái chết và sự Phục sinh của Người? (Mt 12,39-40; Lc 11,29-30; Mc 8,12-13). Vả lại các tác giả Kinh thánh thường nói về “cái chết” bằng từ “giấc ngủ” (Tv 13,4; Đn 12,2; Ep 5,14; Ga 11,11; Mc 5,39-41). Hình ảnh này cũng dùng để diễn tả sự “lãnh đạm của Chúa”, sự “vắng mặt của Chúa”: Lạy Chúa, xin Chúa chỗi dậy đi, tại sao Chúa lại ngủ? Chúa hãy thức dậy đi (Tv 44,24; 45,23; 59,6; 78,65; Is 51,9-10). Vâng, đúng vậy trong những cơn bão tố cuộc đời chúng con, dường như Chúa vẫn ngủ. Lạy Chúa, không phải chỉ có con người hiện đại nghĩ ra đề tài “cái chết của Thiên Chúa”, nhưng đó là tình cảm tự nhiên của thân phận con người, khi thấy mình bất lực, bị đe dọa trước một Thiên Chúa không can thiệp để cho lực lượng của thần chết hành động, một Thiên Chúa dường như đang ngủ.
Các môn đệ đánh thức Người dậy, và nói: “Thầy ơi! chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?”
Đây là một lời cầu tuyệt diệu, đáng cho chúng ta bắt chước, trước những bão tố cuộc đời.
Người thức dậy, ngăn đe gió, và truyền cho biển: “Im đi? Câm đi?” Gió liền tắt, và biển lặng như tờ.
Ở đây chữ được dịch là “thức dậy”, “diégertheis” cũng chính là chữ được dùng để nói “được sống lại, Phục sinh” (Mc 5,41- 16,6.14).
Qua tình tiết có thực mà Maccô kể lại (đó là bài giảng của Phêrô), chúng ta có lý do chính đáng để nhận ra cuộc khổ nạn của Đức Giêsu là một cơn bão dữ dội: Nó làm lắc lư con thuyền nhỏ bé của cộng đoàn tông đồ, vào lúc Đức Giêsu đã ngủ yên trong cái chết của Người. Nhưng đối đầu với lực lượng thần chết được tượng trưng là “biển cả” Đức Kitô đã Phục sinh. Chúng ta gặp lại kiểu nói của người Do Thái về biển cả, hình ảnh những lực lượng thù địch với con người, vì ở đây, Maccô dùng chính những từ như khi Đức Giêsu “hăm dọa” quỷ dữ để “bắt chúng im lặng” (Mc 1,25; 9,25).
Đức Giêsu nói với họ: “Tại sao lại sợ? Tại sao các người không có đức tin?”
Câu nói rất nghiêm khắc: “Các anh không có đức tin”, “các anh đã mất lòng tin”, thực sự đã được áp dụng vào lúc Đức Giêsu chịu khổ nạn, lúc này tất cả các tông đồ chạy trốn, chối bỏ, hoài nghi. Chúng ta sẽ nghe lặp lại ba lần rằng, các tông đồ “đã không tin”: “Chúa trách sự cứng lòng tin của họ, vì. họ đã không tin những người đã thấy Chúa Phục sinh” (Mc 16,11-13).
Những cơn bão tố đời tôi thế nào? Chúa có làm nhẹ bớt những cơn bão đó không?
Nếu đọc Thánh kinh một cách ngây ngô, chúng ta có thể tin điều đó. Sự bình lặng của hồ Tibêria làm chúng ta mơ tưởng một cuộc sống an bình, trong đó Chúa sẽ thường xuyên can thiệp vào những nguyện nhân tự nhiên để tránh cho chúng ta sự thử thách và cái chết.
Nhưng đọc Thánh kinh cách đúng đắn, sẽ dẫn chúng ta đến sự “thanh tẩy đức tin” theo lời mời gọi của Chúa. Chính qua giấc ngủ của sự chết, Chúa Kitô đã giải thoát chúng ta khỏi những thế lực của hỏa ngục và sự chết.
Không phải đức tin nào cũng dẹp yên được bão tố, mà chỉ đức tin nới “Đức Kitô tử nạn và Phục sinh” mới có khả năng. Sự cứu độ mà chúng ta tin, không làm cho chúng ta thoát khỏi những đau khổ gắn liền với bản chất con người cách lạ lùng và đặc biệt.
Sự xác tín vào quyền lực của Chúa đã không ngăn cản Chúa Kitô trải qua, giấc ngủ ở trong hồ. Chính chúng ta cũng phải trả qua thử thách mới đến được “bến bờ bên kia”. Nhưng Đức Giêsu đang ở đó với chúng ta trong những thử thách. Quả thật trang Tin Mừng này có một biểu tượng đáng phục.
Các ông hoảng sợ và nói với nhau: “Người là ai, mà cả đến gió và biển cũng phải tuân lệnh?”
Đây là lần đầu tiên Thánh Maccô ghi lại câu hỏi này của các môn đệ. Câu hỏi chủ yếu nhắm đến lai lịch sâu xa của vị “Thầy” trẻ trung. Người phải chăng chỉ là một ông “Thầy” (Rabbi) như bao ông thầy khác? Người là ai? Người sẽ đưa họ đến đâu? Một ngày gần đây, Đức Giêsu sẽ hỏi Phêrô: “Đối với anh, Thầy là ai?” (Mc 8,29).
Không người nào có thể tự miễn cho mình khỏi phải đặt câu hỏi đó. Và nếu không trả lời thì đó là chấp nhận rằng, những cơn bão trong cuộc đời sẽ kết thúc bằng một sự chìm đắm vào hư vô. “Nhưng nếu người nào ở trong Đức Giêsu, người đó sẽ là một tạo vật mới” (1Cr 5,7). Đức tin được thanh luyện đưa chúng ta vào cuộc sống mới. Lạy Chúa, Chúa đã nói: “Chúng ta hãy sang bờ bên kia”.
50. Chú giải của Fiches Dominicales
ĐỨC GIÊSU DẸP YÊN SÓNG GIÓ
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI.
- Một trình thuật giống kiểu trừ tà
Đức Giêsu rời bỏ ven Biển Hồ Galilê, nơi Người đã dùng dụ ngôn mà giảng dạy cho dân chúng (x. Tin Mừng CN.11 TN) để phiêu lưu sang “bờ bên kia”, nơi có đông dân cư’ là người ngoại. Trình thuật Maccô ta đọc hôm nay nằm trong bối cảnh đó.
Đọc trích đoạn trên, người đọc chỉ có thể thấy cái hời hợt bên ngoài, nếu không biết gió và biển trong Kinh Thánh có ý nghĩa biểu tượng gì, và nếu không để giờ đối chiếu đoạn văn này với câu chuyện Chúa gặp người bị quỷ ám ở hội đường Capharnaum. Thực vậy, “gió” và “biển” đối với người am tường Kinh Thánh, mang rất nhiều ý nghĩa. M.E.Boismard giải thích: “Trong ngôn ngữ Do Thái, cùng một tiếng “gió” cũng có nghĩa là “Thần trí”. Ngoài ra trong Kinh Thánh, biển thường là biểu tượng những thế lực gian tà mà Thiên Chúa phải đánh gục để kế hoạch của Người toàn thắng. Ở đây, biển động dữ dội do ảnh hưởng của cuồng phong. Ta phải hiểu là có một “thần tríxấu (Satan chăng) đang, tung những ma lực dưới quyền để ùa đến tấn công con thuyền, “tức là tân công các môn đệ” (“Jésus, un homme de Nazareth”, Cerf, 1996, trang 78). Quả là một trở ngại lớn lao cho việc loan báo Tin Mừng trên miền đất dân ngoại!
Còn nếu đối chiếu với phép lạ giải thoát người bị quỷ ám ở hội đường Capharnaum (Mc 1,23-27) ý nghĩa lại càng rõ.
- Nơi Mc 1,25: Đức Giêsu đã quát mắng “thần ô uế”. “Câm đi” hãy xuất khỏi người này!”. Còn ở đây, sau khi được các bạn đồng hành đánh thức dậy, vì Người đang ngủ ở đàng lái, Đức Giêsu ngăm đe gió và truyền cho biển: “Im đi, câm đi”.
- Nơi Mc 1,26: thần ô uế, sau khi đã lay mạnh người ấy, thì thét lên một tiếng và xuất khỏi anh ta. Còn ở đây, gió và biển đều tuân phục Đức Giêsu: “ Gió liền tắt và biển lặng như tờ”.
- Nơi Mc 1,27: cảnh kết thúc với lời bàn tán của những người chứng kiến: Mọi người đều kinh ngạc và bàn tán: Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền. ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh. Còn ở đây, các môn đệ cũng bàn tán: các ông hoảng sợ và nói với nhau. Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh”.
Thế nên, trong chuyện kể về bão táp được dẹp yên, không chỉ đơn thuần là việc Đức Giêsu biểu dương quyền lực đối với thiên nhiên mà chính là vấn đề trữ quỷ đích thực: Đức Giêsu có quyền trấn áp Satan và những thế lực của sự ác đang hoạt động song hành với Người.
Còn về lời bàn tán của các môn đệ “Vậy người này là ai mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh”, thì rõ ràng là lời mạc khải. J.Potin chú giải: theo cách nhìn của Kinh Thánh, bão táp là biểu hiện của những ma lực tiềm ẩn trong biển cả. Chỉ mình Thiên Chúa hoặc kẻ được Chúa ban quyền mới có thể chế ngự được những ‘thế lực ấy’. Ở đây các môn đệ được mời gọi khám phá ra chân lý tiềm ẩn đàng sau cảnh dẹp yên sóng gió là: Đức Giêsu được Thiên Chúa trao ban quyền lực để thu hồi mọi lực lượng về phục tùng Thiên Chúa. Nhờ thế lực của Đức Giêsu mà các môn đệ đã khắc phục được hiểm nguy lớn lao. Việc hồi tưởng lại một biến cố rõ rệt đã trải qua, sự hộ phù che chở của Chúa trong chuyến vượt biển nguy hiểm ấy. Đều là biểu tượng ơn nâng đỡ người sẽ ban cho các ông trong lúc con thuyền Giáo Hôi lâm cảnh lênh đênh sóng gió (Jésus, l’histoire vaie”, Centurion, 1994, trang 256-257).
- Khi đọc lại câu chuyện dưới ánh sáng phục sinh.
Một sự đối chiếu khác không kém phần lý thú và chứa đựng nhiều giáo huấn. Đó là cảnh khởi đầu của sách Giona mà trích đoạn Tin Mừng này coi như đã sao họa lại.
Trong cả hai trường hợp, câu chuyện đều cùng mở đầu bằng việc hành khách xuống thuyền (Ga 1,31 Mc 4,35-36).
- Nếu Giona xuống thuyền để đi Taxê là vì ông nghĩ mình có thể trốn lánh mặt Chúa, Người đã lệnh cho ông phải đi tới Ninivê, một thành phố lớn của dân ngoại để kêu gọi dân thành ở đây trở lại.
- Còn Đức Giêsu xuống thuyền là để tới ven bờ bên kia của Biển Hồ, miền đất thuộc dân ngoại, cũng là để rao giảng Tin Mừng ở đây. Đây là một khúc quanh quan trọng trong sứ vụ của Người.
Trong cả hai trường hợp đều có một trận cuồng phong nổi lên khiến biển động dữ dội.
Trong khi đó, Giona và Đức Giêsu đều cùng ngủ mệt: Giona ngủ vùi dưới lòng tàu, còn Đức Giêsu thì dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ ở đàng lái, chỗ thường dành cho người thủy thủ cầm lái (T.O.B). Tất cả đều “cùng sợ hãi”: các thủy thủ trong Giona 1,5, các môn đệ Đức Giêsu trong Mc 4,40. Cùng xoay sở và cùng buông lời trách móc. Nói với Giona: “Ông làm nghề gì”? Sao ngủ mê mệt như vậy? Hãy chỗi dậy cầu khẩn cùng Thiên Chúa của ông, may ra Người sẽ đoái đến chúng ta, và chúng ta khỏi chết chăng? Nói với Đức Giêsu trong Mc 4: “Thầy ơi chúng ta chết đến nơi rồi. Thầy chẳng lo gì sao?”.
– Cùng cảnh êm ả trở lại.
- Ở Giona 1: Sau khi các thủy thủ đã kêu cầu Chúa, trước khi ném Giona xuống biển theo yêu cầu của ông.
- Nơi Mc 4: Theo lệnh truyền của chính Đức Giêsu.
– Cùng một phản ứng từ phía những người chứng kiến sự việc:
- Nơi Giona 1: “Mọi người đều rất kính sợ Chúa, họ làm lễ tế dâng lên Chúa cùng với lời khân hứa”.
- Nơi Mc 4: “Các ông hoảng sợ và nói với nhau: Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?”.
Ở đây “dấu chỉ Giona” há chẳng phải là một lối ám chỉ và là một biểu tượng loan báo cuộc đối đầu quyết liệt của Ngày Thứ Sáu Thánh (nhất nữa, giấc ngủ theo Kinh Thánh thường là biểu ttượng của sự chết và động từ chỗi dậy” được trình thuật sử dụng vốn là một trong những động từ thế hệ Kitô giáo ban đầu dùng để chỉ sự phục sinh)?.
J.Hervieux đưa ra nhận xét: “Câu chuyện Chúa dẹp yên sóng gió không chỉ đơn giản là một tường thuật về một phép lạ. Câu chuyện đó được coi như một biểu tượng nói lên một cách cô đọng số phận nghiệt ngã của Đức Giêsu. Nếu Người có đưa các môn đệ vào trận cuồng phong, thì cũng không phải do ngẫu nhiên! Toàn bộ cuộc đời Người là một cuộc chiến cam go với những thế lực của sự ác. Người phải tiến lên đối đầu với một cuộc chạm trán khốc liệt nhất: đối đầu với chính cái chết của mình. Việc Người ngủ – chẳng ai lại ngủ giữa lúc phong ba bão táp – lại là điều rất có ý nghĩa. Trong Kinh Thánh, giấc ngủ thường là biểu tượng sự chết. Ở đây cuộc khổ nạn của Đức Giêsu như được diễn trước bằng kịch câm. Đức Giêsu thiếp ngủ đi như chết giữa cảnh xôn xao náo động của hỏa ngục được gợi hình bằng những đợt sóng lồng lộng điên cuồng. Trong một tình huống như vậy, mà Thầy vẫn ngủ, thì chuyện các môn đệ hoảng sợ cũng là điều dễ hiểu. Trước cảnh tượng của thập giá sau này, cũng như ở đây lúc này, các ông sẽ mất lòng tin là điều hiển nhiên” (“Evanglle de Marc”, Centurion, trang 75).
Cũng tác giả J.Hervieux kết luận: “Khi đọc lại câu chuyện Chúa đi qua biển và dẹp yên sóng gió như vậy, Maccô cố gắng đáp ứng những nhu cầu hiện thực của Giáo Hội thời ngài. Những tín hữu Rôma đang phải điêu đứng vì những cuộc bách hại. Họ đang sống trong nỗi sợ hãi, giống như các môn đệ trong con thuyền vượt biển xưa, đối với họ, Đức Kitô hình như đang ngủ. Việc người: “vắng mặt” rõ ràng trong những biến cố bi thảm họ đang sống, tạo cho họ thêm e dè, sợ sệt! Chúa phải làm gì để giải thoát họ khỏi cảnh chết chóc đang rình rập?
Cuối cùng ta đừng quên, bão táp xảy đến trong lúc Đức Giêsu đã quyết đinh đem các bạn hữu theo mình đi truyền giáo ở phía bên kia Biển Hồ, nơi các dân ngoại. Người ta có thể nghĩ bụng phải chăng các tín hữu đầu tiên ở Rôma không linh cảm việc loan báo Tin Mừng cho những người đương thời của họ là một công việc đáng dễ sợ sao?” (Sđd)
BÀI ĐỌC THÊM
- “Vậy người này là ai”.
“Có một thứ mâu thuẫn trong cách phản ứng của các môn đệ: khi sợ hãi trong lúc gặp sóng gió, các ông liền lên tiếng kêu cứu Chúa, đánh thức Người dậy: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao? Thế nhưng khi Chúa truyền cho gió yên bể lặng rồi, thì các ông lại kinh ngạc: “Vậy người này là ai mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh? Đức Giêsu biết rõ lòng các ông còn lẫn lộn bán tín bán nghi: “Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin? Lắm lúc chúng ta cũng mang một tâm trạng như vậy. Ta cậy dựa vào Chúa, biết rõ mình có thể kêu cầu Chúa, chẳng cần phải đánh thức Người dậy! Cùng lúc ấy, tâm trí ta lại vương nỗi do dự này: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, mà Thầy những lo gì sao? Chúa liền ra tay để củng cố lòng tin cho ta. Tin như vậy là tiếng kêu gọi thiết tha, là niềm cậy trông còn nhỏ bé và mong manh thúc đẩy ta chạy đến với Chúa. Rồi lòng tin ấy trở nên tâm tình cảm phục, vững tin khi Chúa cho ta biết Người là ai, Người có thể làm gì cho những ai dám đến cùng Người. “Vậy người này là ai? Lời đó phải vừa là câu hỏi, vừa là tiếng kêu bày tỏ lòng suy tôn vậy”.
- “Từ sợ hãi đến tin tưởng”
“Hãy xem ông Gióp, bị điêu đứng vì những thử thách trăm bề, về mặt vật chất cũng như tinh thần, mặt đạo đức cũng như thiêng liêng. Một người chính trực như ông mà đã phải gánh chịu bao bất công, phải chao đảo vì những tai ương dồn dập, và vì sự thinh lặng của Chúa. Ông tố cáo Chúa, Chúa sẽ chẳng đưa ra lời giải thích nào, và sẽ chẳng vén lên bức màn bao trùm mầu nhiệm khôn dò về sự ác. Thế nhưng chỉ giữa lúc phong ba bão táp thì Chúa mới nhắc nhở cho ông biết rằng Người là Chúa tể của bão, Người có quyền đặt ranh giới và ngăn chặn những đợt sóng kiêu hùng của bão. Thế là ông Gióp nghiêng mình bái phục Chúa với lòng tin, đồng thời thú nhận sự ngu muội của mình.
Maccô dùng cũng thứ ngôn ngữ ấy để nói với các tín hữu của giáo đoàn Rôma đang hốt hoảng và bị chấn thương vì cơn bách hại. Ngài để lại cho họ một kinh nghiệm bản thân: chính các tông đồ cũng đã từng biết đến một Đức Giêsu ấy nằm ngủ và tỉnh bơ trước thảm cảnh của những bạn đồng hành, hoảng hốt thấy mình sắp “đi đời” rồi, dù họ là những tay ngư phủ dày dạn. Thực tế là các ông đã chỉ thiếu lòng tin mà thôi, hay nói cách khác là lòng tin tưởng và yêu mến, vì theo kiểu nói của thánh Phaolô, họ đã chỉ biết Đức Kitô theo quan điểm loài người (Bài đọc 2).
Đường lối sư phạm của Chúa vẫn trước sau như một. Những lớp sóng vẫn liên lì và ồ ạt vập vào thuyền khiến thuyền đầy nước. Vậy mà Đức Kitô luôn có mặt ở đó, vẫn cứ ngủ. Giống như thời ông Gióp, ta cũng thường tra hỏi, chất vấn, sửng sốt, đòi hỏi Chúa phải giải thích và trình bày. Tại sao vẫn xảy ra những vụ tàn sát những người vô tội, những cảnh anh em chém giết nhau không nương tay, những cuộc bách hại đẫm máu, những trận dịch kinh hoàng, những bất công chỉ biết kêu trời báo oán, những cảnh chết đói khiến phải đào mồ chôn tập thể.
Ta đừng chờ đợi phép lạ, có chăng chính là phép lạ của lòng tin, cậy, mến. Thực ra “Đức Kitô hôm qua, hôm nay và ngày mai” cũng vẫn là một. Hằng ngày ta vẫn còn thấy Người thực hiện những điều kỳ diệu khi làm nẩy sinh những tạo vật mới, khi tạo dựng một thế giới mới. Đó là mỗi lần mà tha thứ thay thế cho hận thù, ích kỷ nhường chỗ cho quảng đại và lòng can đảm quét sạch đi những hèn nhát.
Còn một câu hỏi và nỗi sợ hãi khác từ phía những tín hữu vốn khư khư với những tập quán, quan niệm hẹp hòi, với những chương trình và kế hoạch tương lai cho Giáo Hội do họ suy luận ra, nên họ la ó lên rằng: những hết cả rồi, khi họ nhìn thấy những bảng thống kê sụt giảm, những cơ cấu rạn nứt, những hình thức đổi thay và những cánh cửa canh tân mở toang. Câu trả lời của Chúa vẫn không thay đổi: “Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin? Há các bạn không nhìn thấy trong “cơn gió chướng mạnh” Thần Khí vẫn đang thổi hơi, làm nổi lên cho mãi tới những gốc cây cổ thụ đang chết một giải đất. bao la đầy những chồi non đang vươn lên ngợi ca sự sống và hy vọng. Bởi lẽ “cái cũ đã biến mất, và cái mới đã có đây rồi” (Bài đọc 2)
(Gợi ý bài giảng của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt)
BÃO TỐ DẸP YÊN
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
- Người tín hữu thường quên chiều kích vũ trụ trong hành động của Chúa Kitô, trong khi thời đại này, các khoa học kỹ thuật nói nhiều đến việc khai thác, nhân hóa, bảo tồn, chinh phục thiên nhiên, các khoa học nhân văn nói nhiều đến mối liên quan giữa con người và vật chất, thiên nhiên, vũ trụ, môi trường sống. Kitô hữu phải hiểu cùng làm cho người khác hiểu rằng Chúa Kitô không xa lạ với vật chất đã làm nên vũ trụ. Trái lại qua việc nhập thể và phục sinh trong thân xác, Người đã mở rộng ơn cứu rỗi tới cho tất cả những gì hiện hữu. Chúa Giêsu đã đến không phải chỉ để cứu linh hồn con người mà thôi, nhưng cứu toàn thể con người xác hồn, và qua thân xác con người, Người biến đổi sâu xa cả vũ trụ vật chất (x. Rm 8,19): chính vũ trụ vật chất đang trên đường về với Thiên Chúa.
- Câu chuyện xảy ra được Maccô kể lại theo lời chứng nhân tận mắt là Phêrô nên có nhiều chi tiết. Nhưng một trong những điểm quan trọng, chủ yếu của trình thuật là chính thắc mắc của các sứ đồ sau khi bão yên: “Người là ai mà gió cùng biển phải tuân phục Người?”. Ngày nay với phát minh khoa học kỹ thuật, con người khắc phục được thiên nhiên rất nhiều đã từng nghiêng đồng đổ nước, thay trời làm mưa, bắt sông uốn khúc, ép núi cúi đầu, nên dễ quên Đấng Tạo Hóa. Kitô hữu phải biết khám phá thấy trong mọi chuyển động tự nhiên của vũ trụ cũng như trong mọi khắc phục thiên thiên của con người bàn tay quan phòng của Thiên Chúa.
- “Xảy đến một trận gió táp thổi mạnh, và sóng ập tràn vào đò, làm đò đã hòng ngập đầy”. Ngày nay, đâu là cơn bão tố lớn đang vùi dập con đò Phêrô? Là trào lưu vô thần, là sự tục hóa, là thái độ tấn công tinh vi hay dửng dưng với tôn giáo. Nhưng Kitô hữu đừng lo! Giáo Hội đã trải qua nhiều cơn bão lớn hơn trong lịch sử rồi, như những sa đọa trong hàng ngũ lãnh đạo, sự cấu kết thái quá với thế quyền, sự chểnh mảng trong việc trau dồi đức tin, những xâu xé nội bộ, thế mà Giáo Hội vẫn không chìm đắm. Vì Chúa Kitô và Thánh Thần luôn ở với Giáo Hội.
- “Tại sao sợ hãi? Các ngươi không có đức tin ư”. Lời chất vấn và trách cứ của Chúa Giêsu cũng như lời mời gọi hãy tin tưởng đang được gởi đến những tín hữu mà niềm tin vào Thiên Chúa hôm nay đang bị lung lay vì bao bão tố, đau khổ. Kitô hữu hãy nhớ: tin trước hết là xác tín rằng dù gặp phải bao yêu thương, là hiểu rằng mọi chướng ngại chỉ là dấu chỉ tình yêu Thiên Chúa, là phương tiện giúp ta về với Thiên Chúa.
- Chúa Giêsu không hứa với Giáo Hội là sẽ che chở cho khỏi cơn bão tố, trái lại người hứa là Giáo Hội sẽ thắng bão tố, sẽ không bị chìm ngập và con thuyền Giáo Hội, cho dầu có xảy ra gì chăng nữa, sẽ đến bờ như đã hứa. Chúa Kitô đã chẳng trải qua cơn bão tố Tử nạn để rồi đạt đến bờ Phục sinh ư? Cuộc sống Giáo Hội và cuộc sống mỗi Kitô hữu chúng ta không thoát khỏi định luật này, là định luật của tất cả những ai, những gì muốn về với Thiên Chúa. Dĩ nhiên, đây không phải là định luật Thiên Chúa ra một cách độc đoán, như thể Ngài muốn ta phải trả giá Nước Trời, hành hạ ta đã rồi mới cho được nghỉ ngơi. Bão tố, gian nan, thử thách chính là những gì xảy ra khi ta quyết tâm trung thành với Thiên Chúa, khi ta từ bỏ chính mình, từ bỏ mọi sự để chiếm đoạt cho được Thiên Chúa là hạnh phúc đích thực của ta.
52. Chú giải của William Barclay
BÌNH AN CỦA SỰ HIỆN DIỆN
Biển hồ Galilê nổi tiếng về bão tố. Những cơn bão từ nguồn đến hết sức thình lình với sự tàn phá kinh khủng. Một tác giả đã mô tả chúng như vậy: “Các trận cuồng phong khủng khiếp lồng lộn trên mặt nước mà bình thường rất phẳng lặng, ngay cả khi bầu trời hoàn toàn trong trẻo, thình lình cơn bão đến không phải là điều không thường thấy. Vô số các thung lũng từ hướng đông bắc và hướng đông trải ra ở phần trên của hồ tạo thành rất nhiều hẻm núi nguy hiểm bọc gió từ cao nguyên Hauran, vùng đồi Tracônít và đỉnh núi Hetmôn tạo thành một sức nén, ào đến với một lực kinh khủng qua một khoảng trống hẹp rồi thình lình thoát ra làm xao động hồ Giênêdarét bé nhỏ trong một tình trạng kinh hoàng nhất. Những khách vượt hồ luôn luôn có cơ hội phải đối diện với những cơn bão thình lình như vậy”.
Chúa Giêsu đang ở trong thuyền, tại chỗ dành cho bất cứ một vị khách quý nào. Chúng ta được biết, “Trong những thuyền này, tại đó có sắm sẵn một tấm thảm và gối. Người lái thuyền đứng cách đó một chút gần bánh lái thuyền để có thể dễ dàng nhìn phía trước”.
Thật thú vị khi ghi nhận được những lời của Chúa Giêsu truyền cho gió và sóng hoàn toàn giống như điều Người đã truyền cho người bị quỷ ám trong Maccô 1,25. Sức mạnh phá huỷ của bão tố cũng như sức mạnh tàn phá của ma quỷ khi nó nhập vào con người, vì vậy dân chúng tại Palestine vào thời ấy tin rằng quyền lực xấu xa của ma quỷ cũng đang hoạt động trong lãnh vực thiên nhiên.
Thật thiếu công bằng khi chúng ta chỉ suy nghĩ câu chuyện này theo nghĩa đen. Nếu nó chỉ thuật lại một phép lạ vật chất trong đó một cơn bão thực sự yên lặng thì đó là một điều rất lạ lùng và là điều đáng cho chúng ta kinh ngạc, nhưng đó là điều xảy ra một lần. Trong trường hợp đó nó hoàn toàn ở bên ngoài đối với chúng ta. Nhưng nếu chúng ta đọc nó theo ý nghĩa biểu tượng thì sẽ thấy giá trị hơn. Khi các môn đệ nhận thức được sự hiện diện của Chúa ở với họ thì cơn bão yên lặng. Một lần nữa họ kinh nghiệm sợ hãi tan biến và bình an vào trong lòng họ. Ra khơi với Chúa Giêsu là ra khơi an toàn ngay cả trong bão tố. Giờ đây là sự thật cho mọi trường hợp. Đó không phải là điều chỉ xảy ra một lần, nhưng vẫn còn đang xảy ra và có thể xảy ra cho chúng ta. Trong sự hiện diện của Chúa Giêsu chúng ta có được bình an ngay cả trong bão tố khủng khiếp nhất của cuộc sống.
1/ Ngài ban cho chúng ta bình an trong bão tố của sầu muộn.
Khi sầu muộn đến, Ngài nói với chúng ta về vinh quang của cuộc đời sẽ đến. Ngài biến đổi bóng tối của sự chết thành ánh sáng của sự sống vĩnh cửu. Ngài nói với chúng ta về tình yêu của Thiên Chúa. Một câu chuyện cổ nói về một người làm vườn, nơi ấy có một đoá hoa mà ông rất yêu quý. Một ngày nọ khi ra vườn thấy bông hoa đó đã mất. Ông ta vô cùng phật ý, bực tức và phàn nàn. Trong lúc đang bực tức ông gặp chủ vườn và phàn nàn với chủ. Chủ vườn nói “Anh yên tâm! Chính tôi đã hái nó cho tôi”. Giữa bão tố của sầu muộn, Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng những người chúng ta thương yêu đã đi ở với Thiên Chúa và Ngài đảm bảo rằng rồi đây chúng ta sẽ gặp lại những người thân thương mà chúng ta đã thiếu vắng họ một thời gian.
2/ Ngài ban cho chúng ta bình an khi những nan đề của cuộc sống cuốn hút chúng ta vào trong cơn bão của nghi ngờ, căng thẳng và không chắc chắn.
Rồi có những lúc chúng ta chẳng biết phải làm gì, khi chúng ta đứng trước ngã ba của cuộc sống không biết đi đường nào. Lúc ấy chúng ta quay sang Chúa Giêsu và thưa cùng Ngài rằng “Lạy Chúa, Ngài muốn con làm chi?”. Con đường sẽ được khai thông. Thảm kịch không phải là chúng ta không biết phải làm gì, nhưng chính là chúng ta thường không hạ mình tuân phục sự hướng dẫn của Chúa Giêsu. Câu hỏi ý Ngài và tuân phục ý đó là đường dẫn đến bình an trong những lúc như vậy.
3/ Ngài ban cho chúng ta bình an trong bão tố của lo âu.
Kẻ thù hàng đầu của bình an là lo lắng, lo lắng cho chính mình, lo lắng về tương lai ngoài sự hiểu biết, lo lắng về những người mình yêu. Nhưng Chúa Giêsu nói với chúng ta về một người Cha không bao giờ làm đổ những giọt lệ không cần thiết nơi con Ngài, và về một tình yêu vượt trội giữa chúng ta và những người thân yêu của chúng ta khỏi trôi giạt. Trong bão tố của lo âu, Ngài đem đến cho chúng ta bình an của tình yêu Thiên Chúa.
(Suy niệm của Huệ Minh)
Đọc qua trang Tin Mừng hôm nay, ta có thể nói: “Thầy chơi xấu!”. Vì sao? Ai cũng hiểu rằng ngay lúc xảy ra sóng gió thì Thầy lại “vui vẻ”… nằm ngủ!
Thử hỏi, ta đặt ta trong tâm trạng, trong trạng thái như các môn đệ ắt hẳn ta sẽ giận lắm bởi lẽ người ta lo muốn chết mà ngủ như chết vậy. Giận quá nên hỏi luôn cho xong chuyện: “Thầy ơi, chúng ta chết mất, Thầy chẳng lo gì sao?” (Mc 4, 38).
Cũng dễ hiểu bởi lẽ ai cũng sợ sóng biển. Sóng biển đã làm cho bao nhiêu con người ra đi không trở lại.
Lần kia, tắm biển Mũi Né, sóng cũng không lớn lắm nhưng cũng không nhỏ. Những cơn sóng nhấp nhô đó làm chùn lòng du khách. Nhiều người ngại sóng nên không dám xuống biển lúc đó. Và, lúc đó chỉ còn ít người gọi là dám “chơi” với biển nên xuống tắm.
Đang tắm, có chàng trai kia ghé vào tai tôi nói: “Sóng như thế này đã thấy ớn! Nếu như sóng 5m thì sao?. Tôi trả lời anh: “chết chắc chứ sao nữa”.
Cũng dể thấy hậu quả của những cơn sóng dữ. Nhiều cơn sóng dữ đến đã làm cho bao nhiêu căn nhà và bao nhiêu con người phải ra đi không bao giờ trở lại. Biển cũng cho con người nhiều hải sản, nhiều khoáng sản quý dưới đáy đại dương nhưng biển cũng đã chôn vùi bao nhiêu con người bằng những cơn sóng dữ của mình.
Chiều hôm ấy, có hai cha con nhà nọ tắm gần tôi. Đứa bé được cha đưa ra hơi quá đầu gối anh ta một tí nghĩa là tới khoảng ngực của đứa trẻ. Ban đầu, sóng xô cháu cũng ngại ngùng và không muốn ra nữa. Nhưng, sau đó nhờ có đôi bàn tay của cha, cháu tiếp tục vui đùa dưới sóng bởi lẽ khi ấy, cậu an tâm trước vòng tay của cha mình.
Nhớ lại hình ảnh của các môn đệ, khi Thầy Giêsu thức giấc và Thầy đã ra lệnh cho biển cả lặng yên thì khi đó các môn đệ an tâm và bình an.
Sau khi bảo sóng biển yên lặng thì Chúa Giêsu như trách yêu các môn đệ: “Sao nhát thế? Anh em vẫn chưa có lòng tin sao?”
Trang Tin Mừng hôm nay sao mà nó thích hợp hay nói đúng hơn là nó quá đúng với cuộc đời của mỗi người chúng ta.
Trong hành trình vượt biển để về nhà Cha, về nước Chúa ta đã không ít lần hay nói đúng hơn là quá nhiều lần chúng ta hốt hoảng kêu la lên. Kêu la cũng dễ hiểu bởi lẽ ta gặp quá nhiều cơn sóng dữ trong cuộc đời mà dường như ta cảm thấy Chúa bỏ ta bơ vơ, chơ vơ giữa cuộc đời này thì phải? Ta thấy có những cơn sóng tưởng chừng như ập xuống đời ta và ta cảm như là chìm rồi.
Đời ta, không ít lần ta đối diện với sóng dữ là mất cha mất mẹ ở cái tuổi còn quá trẻ! Sóng dữ đến khi ta bị người khác hiểu lầm, bị chà đạp và bị hại. Sóng dữ đến khi ta phải đối diện với chứng bệnh nan y trong người. Sóng dữ khi ta bị chính người thân, ruột thịt… hại ta, loại trừ ta.
Ai đã hơn một lần sống trong cảm giác đó cũng cảm được như những cơn sóng dữ của cuộc đời. Đối diện với những điều đó ta cũng mất ăn mất ngủ, bất an và ta thầm trách Chúa như các môn đệ: “Thầy chẳng lo gì sao?”.
Hẳn nhiên đó là bản tính của con người, là cảm nhận, là đức tin yếu đuối của con người. Ta tưởng chừng như ta chơi vơi, như Chúa đã bỏ ta nhưng khi đó ta đã lầm.
Nhớ lại tác phẩm “Dấu chân trên cát” thật hay và ý nghĩa:
Một đêm kia tôi nằm mơ thấy Chúa.
Ngài cùng tôi song hành trên bài biển hoang.
Cùng lúc ấy trên trời xanh đang diễn ra những cảnh đời tôi.
Mỗi cảnh vui buồn đều có đôi dấu chân ghi trên nền cát trắng.
Lòng lâng lâng tôi lặng nghe tiếng sóng vỗ, và xa xa chập chờn đôi cánh hải âu.
Chợt sóng gió chẳng biết từ đâu bồng bùng lên khiến tôi kinh hãi.
Quay mặt nhìn lui: “ôi kìa! Sao tôi chỉ thấy một dấu chân?”
Hốt hoảng thắc mắc tôi vội kêu: “Chúa hỡi! Chúa hỡi! Sao bỏ con.
Những lúc sóng gió là những lúc con cần đến Chúa hơn bao giờ hết!”
Chúa đã nói với con rằng: “Sẽ mãi yêu quý con, sẽ luôn nâng đỡ con suốt cuộc đời cho đến chết.”
Chợt bên tai tôi nghe được tiếng Chúa nói: “Này con bé nhỏ của ta ơi, đừng hoảng hốt hãi sợ chi. Ta ở đây luôn bên con. Những dấu chân này là của Ta đó! Vì những lúc ấy Ta đang bồng bế con trên tay.”
Vâng! Như Chúa nói đó: “Những lúc ấy Ta đang bồng bế con trên tay”.
Nghiệm lại cuộc đời ta, trong những giây phút lắng đọng của cuộc đời, ta sẽ thấy Chúa luôn luôn, Chúa mãi mãi ẵm ta trên tay của Chúa. Chuyện quan trọng rằng ta có tín thác, tin tưởng phó thác cuộc đời của ta trong tay của Chúa hay không mà thôi.
Tâm tình Thánh Vịnh 131 thật hay:
Như trẻ thơ nép mình lòng mẹ,
trong con, hồn lặng lẽ an vui.
Cậy vào Chúa, Israel,
từ nay đến mãi muôn đời muôn năm. (Tv 131, 2.3)
Xin Chúa cho ta luôn luôn sống tâm tình như trẻ nhỏ nép mình vào lòng Chúa để rồi ta vui vẻ bước đi giữa cuộc đời đầy sóng gió nhưng lòng vẫn an vui vì có Chúa ở cùng.
(Suy niệm của Huệ Minh)
Phương tiện di chuyển cơ bản của con người có thể là đường bộ, đường sông, đường biển… hay đường hàng không.
Với những phương tiện đó, phải chăng phương tiện đường sông, đường biển có thể nói là làm cho con người có”cảm giác” nhất bởi lẽ nếu bình thường, thời tiết không có gì quan ngại thì không sao nhưng nếu có bất trắc con người sẽ rất sợ hãi. Ai đã một lần ngồi trên chiếc thuyền chòng chành giữa trời dông bão sẽ có cảm nghiệm hơn ai hết.
Với những người đi biển, họ được trang bị kiến thức hay có những khả năng hay kỹ năng để đi trên nước. Có thể có gió, có thể có sóng đó nhưng họ không sợ bằng những người không có kinh nghiệm cũng như không có khả năng với sóng dữ.
Những người dân Việt tị nạn vì lý do nào đó bằng đường biển chắc có kinh nghiệm hơn ai hết. Chính người dì ruột của tôi khi kể lại tình sử vượt biên của bà làm cho nhiều người kinh ngạc. Khi đặt chân lên bờ, dì chỉ còn đúng 1 bộ đồ dính người chứ không hơn không kém. Dì kể lại hành trình vượt biển với biết bao nhiêu sóng gió trên hành trình. Chuyế đi của dì lần đó chỉ còn một số ít người thoát khỏi cơn sóng dữ để đến bến bờ bình an.
Kinh nghiệm đó, hôm nay ta bắt gặp nơi các môn đệ trên chính chiếc thuyền của các ông. Kinh nghiệm nhiều, thuyền của mình để rồi cứ tưởng là “chắc ăn như bắp” như kiểu nhiều người nói nhưng rồi bỗng nhiên có một cơn bão lớn và những lớp sóng ùa vào thuyền đến nỗi sắp đầy nước.
Bi đát ở chỗ là cái “anh chàng” đi ké lại dựa gối ở đàng lái mà ngủ! Mê ngủ đến độ sóng gió đó không làm chàng ta thức giấc. Các môn đệ hoảng quá nên đành đánh thức anh ta: “Thưa Thầy, chúng con chết mất mà Thầy không quan tâm đến sao?”
Giật mình chỗi dậy và Chúa Giêsu đe gió và phán với biển rằng: “Hãy im đi, hãy lặng đi”.
Trước lời phán đó, gió ngừng biển lặng như tờ. Sau đó, Chúa mới nói với các ông: “Sao các con sợ hãi thế? Các con không có đức tin ư?”
Đùa vui! Bớt giỡn đi chứ! Sóng to biển dữ như thế mà bảo là sợ hãi thế! Thầy vừa phải thôi chứ! Chẳng lẽ chúng con lại vất Thầy xuống thuyền như ông Noe ngày xưa trong Cựu Ước.
Giận lắm nhưng cơn kinh hãi vẫn còn chưa tan trong các ông và các ông thầm thì với nhau: “Người là ai mà cả gió lẫn biển cũng đều vâng lệnh Người?”
Thật ra mà nói, kinh nghiệm về những trận cuồng phong như thế trong hành trình người Kitô hữu không phải là hiếm. Những cơn sóng xô của cuộc đời cứ mãi giật trên con đường về quê, trên con đường lữ thứ trần gian của thân phận làm người.
Một anh bạn tri kỷ, khi ngồi lại với nhau, anh không ngần ngại kể lại cuộc đời tưởng chừng như không còn gì để mất của anh nữa nhất là với biến cố cụt 2 chân sau tai nạn nhớ đời. Mẹ góa, con côi với cái nách mang 4 đứa con trong mình và đặc biệt đứa con trai lớn nhất nhà đã làm cho mẹ con mất phương hướng.
Anh kể lại có những lúc anh muốn buông xuôi vì với cái thân phận tật nguyền của anh chỉ có nước đi ăn xin hay cùng lắm cạp đất mà ăn chứ làm nên cái trò trống gì. Thế nhưng, Thiên Chúa đã ra tay để cứu gia đình anh, bản thân anh thoát khỏi những cơn sóng dữ của cuộc đời.
Trong sâu lắng, anh cảm nhận được tình yêu bao la mà Thiên Chúa trao ban cho anh, cho cuộc đời anh, cho gia đình anh.
Ngay như bây giờ cũng vậy! Cuộc sống tưởng chừng yên dù anh muốn yên nhưng vẫn còn đó thử thách của hành trình làm người, là người và nhất là hành trình đức tin. Có những lúc chán nản vì sóng dữ, dường như muốn buông xuôi nhưng rồi anh lại thấy Chúa Giêsu bên đời đang ở cạnh anh để nâng đỡ anh.
Khi đối diện với những sóng xô của cuộc đời như cơn sóng lớn ngày hôm đó. Chúa Giêsu chỉ giản đơn trách các môn đệ kém lòng tin!
Một lần nữa, Chúa lại mời gọi niềm tin của mỗi người chúng ta vào quyền năng của Chúa.
Cũng trong tình thân, anh nói rằng anh cũng như các em có được như ngày hôm nay đó là nhờ anh và các em thụ hưởng gia tài cao quý của mẹ, của cha anh để lại, đặc biệt nơi người cha dù đã khuất mấy chục năm trời. Cha anh ra đi không để lại tài sản gì to lớn cả, chỉ để lại lòng đạo đức và sự hiền lành. Chính đời sống hiền lành và đạo đức cũng như niềm tin vào Chúa mà gia đình anh được như ngày hôm nay.
Ngày hôm nay Chúa nhật thứ 3 trong tháng 6, Chúa nhật mà người ta đặc biệt kính nhớ đến người cha thân yêu của mỗi người.
Tôi với anh cùng may mắn như nhau, cùng được thừa hưởng một người cha hiền lành, khiêm nhường và đạo đức.
Tôi thầm nghĩ, để đối diện với tất cả những cơn sóng dữ của cuộc đời, không có cách nào khác là đặt niềm tin vào Thiên Chúa là Cha nhân lành trên cuộc đời ta. Khi ta đặt cuộc đời của ta trong tay Chúa thì dù cho phong ba bão táp đi chăng nữa, ta vẫn không sợ gì vì có Chúa kề bên.
Trang Tin Mừng ngày hôm nay có phần am hợp với ngày mừng người Cha. Thiên Chúa là người cha luôn luôn yêu thương che chở chúng ta trên mọi nẻo đường đời. Chuyện quan trọng là ta có tin tưởng, tín thác cuộc đời của ta trong tay Chúa hay không mà thôi.
(Suy niệm của Lm. Đan Vinh)
- HỌC LỜI CHÚA
Ý CHÍNH:
Đức Giê-su chứng tỏ quyền năng của Người trên gió và biển, tượng trưng cho những thế lực của ma quỉ muốn chống lại Thiên Chúa. Người đã dùng lời quyền năng dẹp yên sóng gió để củng cố đức tin yếu kém của các môn đệ. Đồng thời cũng để các ông vững tin khi gặp phải những cơn thử thách bách hại sau này.
CHÚ THÍCH:
– C 35-36: + Chúng ta sang bờ bên kia đi”: Biển hồ ở đây là hồ Galilê, cũng có tên Giê-nê-sa-rét hay Ti-nê-ri-a. Đây là một các hồ lớn nằm bên trong đất liền xứ Ga-li-lê, dài 21 km và rộng 13 Km. Hồ thấp hơn mặt biển 210 mét nên khí hậu ấm áp dễ chịu, nhưng cũng thương hay có những trận cuồng phong. Biển hồ theo nghĩa của Thánh Kinh là một thế lực gian ác chống lại Thiên Chúa và con người. Đức Giê-su đã làm nhiều phép lạ tại vùng biển hồ này như: Hóa bánh ra nhiều (x Mt 14,14-31); Đi trên mặt nước (x Mt 14,25); Chữa nhiều bệnh nhân (x Mt 15,29-31); Hiện ra sau khi sống lại (x Ga 21,1); Mẻ cá lạ lùng (x Ga 21,4-8).
– C 37-38: + Và một cơn cuồng phong nổi lên: Cơn cuồng phong đe doạ sẽ nhấn chìm thuyền của các Tông đồ xuống lòng biển, tiên báo những nguy hiểm thử thách mà Hội Thánh sẽ phải trải qua sau này. +Đức Giê-su đang ở đàng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ: Trong khi chiếc thuyền và những người trên thuyền lâm nguy vì bị bão tố trù dập thì Đức Giê-su vẫn nằm ngủ để thử thách đức tin của các môn đệ. Giấc ngủi còn là hình ảnh ám chỉ về sự chết của Người (x Tv 13, 4; Ep 5, 14).. +Các môn đệ đánh thức Người dậy và nói: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi. Thầy chẳng lo gì sao?”: Đánh thức là hành động của các môn đệ kêu cầu Đức Giệ-su cứu giúp trong cơn nguy hiểm. Điều này cho thấy lòng tin yếu kém của các ông vì chưa tín vào quyền năng và tình thương của Thầy mình. +Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi. Thầy chẳng lo gì sao?”: Các môn đệ hốt hoảng khi thấy thuyền của các ông sắp bị chìm đắm giữa biển khơi mà xem ra thầy các ông không hay biết.
\- C 39-41: +Người thức dậy, ngăm đe gió, và truyền cho biển: “Im đi! Câm đi!”: Đức Giê-su bày tỏ uy quyền trên gió bão và biển động. Khi ra lệnh cho ai là chứng tỏ mình có quyền trên người đó. Khi truyền cho sóng gió yên lặng, Đức Giê-su chứng tỏ quyền năng trấn áp các thế lực gian ác. +Lập tức gió ngưng biển lặng: cho thấy sự dữ đã phải tùng phục uy quyền của Con Thiên Chúa. +”Sao nhát thế? Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?: Đức Giê-su quở trách sự hèn tin của các môn đệ như nhiều lần khác Người đã trách các ông chậm tin vào Người: “Hỡi những kẻ ngu muội và trí lòng chậm tin”(Lc 24, 25); “Người quở mắng sự cứng tin chai đá của họ, bởi họ không tin những kẻ đã thấy Người sống lại” (Mc 16,14). +Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?: Các môn đệ ngạc nhiên và đầy lòng thán phục Đức Giê-su, khi họ được chứng kiến lời phán đầy uy quyền của Người trên thiên nhiên là gió và biển..
CÂU HỎI:
- Biển hồ Ga-li-lê còn có những tên gọi nào? Dài rộng bao nhiêu?
- Đức Giê-su đã làm các phép lạ nào tại vùng biển hồ này?
- Cơn cuồng phong tượng trưng cho điều gì?
- Đức Giê-su ngủ ở đàng lái trong khi cuồng phong nổi lên nhằm mục đích gì?
- hành động đánh thức Đức Giê-su nói lên điều gì về đức tin của các môn đệ?
- Đức Giê-su bày tỏ quyền năng Con Thiên Chúa qua lời nói và hành động nào?
- Ngoài lần này, Đức Giê-su còn trách các môn đệ hèn tin trong những hoàn cảnh nào nữa không?
- Các môn đệ đã biểu lộ đức tin thế nào khi chứng kiến phép lạ Đức Giê-su thực hiện trên thiên nhiên?
- SỐNG LỜI CHÚA
- LỜI CHÚA:
Môn đệ liền nói:”Người là ai, mà cả đến gió và biển cũng phải tuân lệnh?”(Mc 4,41).
- CÂU CHUYỆN:
1) Tín thác vào tài năng của cha:
Trong một chuyến du hành vượt Đại Tây Dương, nhiều du khách đang đứng trên boong ngắm cảnh hoàng hôn mặt trời đang dần lặn xuống biển. Bỗng mây đen ùn ùn kéo tới, chẳng mấy lúc làm tối sầm cả vùng trời. Rồi sấm chớp đổ xuống liên hồi, trên mặt biển giông tố cuồn cuộn nổi lên, gió càng lúc càng thét gào dữ dội. Mọi người trên boong chen lấn nhau đi về phòng mình, duy chỉ một bé trai là tiếp tục chơi trên boong khi trận cuồng phong sắp ập xuống.
Khi có người hỏi “Em không thấy sợ khi cơn giông tố đang ập đến sao?” Em thản nhiên đáp lại: “Em không sợ, vì ba em chính là thuyền trưởng cừ khôi đang cầm lái con tàu này!”.
Giống như cậu bé đã tin tưởng ở cha mình đang cầm lái con tàu, mỗi người chúng ta cũng hãy vững tin Thiên Chúa là Cha đầy tình yêu và quyền năng. Ngài sẽ hướng dẫn cuộc đời chúng ta bước theo đường lối của Ngài để tới bến bình an.
2) Con ruồi: một tạo vật tinh xảo của Thiên Chúa:
Ngày kia khi tôi đang ngồi ăn trong phòng thì một con ruồi từ bên ngoài bay vào. Nó bay mấy vòng trên bàn rồi nhẹ nhàng hạ cánh xuống miếng chuối ăn dở trên bàn…. Con ruồi đã có thể làm bất cứ điều gì nó thích và bay đến bất cứ nơi nó muốn.
Con ruồi chỉ là một sinh vật nhỏ bé và không chứt giá trị, thế nhưng hoạt động của nó lại trổi vượt hơn hẳn một chiếc máy bay tinh xảo đắt tiền…. Ruồi cất cánh mà không cần lấy đà như máy bay. Đang bay nhưng nó vẫn có thể đáp xuống ngay. Ruồi không bị rơi, không va chạm vào vật nào khác và cũng không bị tai nạn mjuw máy bay. Nó không cần phải học bay và động cơ cũng không bao giờ bị trục trặc hay gặp sự cố. Và cuối cùng nó có khả năng sản xuất ra ngàn vạn con ruồi tương tự mà không phải tốn bao nhiêu công sức.
Con ruồi cho chúng ta thấy quyền năng vô biên của Thiên Chúa trong vũ trụ thiên nhiên.
3) Tận mắt chứng kiến phép lạ Tại Lộ Đức:
Một sinh viên y khoa người Tây Ban Nha đi viếng trung tâm hành hương Đức Mẹ tại Lộ Đức bên Pháp. Ở đại học Madrid, chàng sinh viên này đã nghe các giáo sư vô tín ngưỡng nói về Lộ Đức như là nơi sản xuất của những mê tín dị đoan trong tôn giáo. Nên trong thời gian ba tháng này, anh sinh viên muốn điều tra thực hư về các phép lạ. Tại đây anh đã được tận mắt chứng kiến một phép lạ như sau:
“Hôm đó tôi đang ở sân Vương cung Thánh đường Lộ Đức cùng với các bà chị của tôi chờ Kiệu Mình Thánh Chúa sắp đi qua. Bấy giờ một bà tuổi trung tuần đang đẩy một chiếc xe lăn đi tới ngay trước mắt chúng tôi. Bà chị tôi chỉ chiếc xe lăn nói: “Kìa hãy coi cậu con trai đáng thương của bà ta!” Đó là một anh chàng khoảng 20 tuổi bị bại liệt và toàn thân biến dạng. Mẹ của anh ta đang lần chuỗi to tiếng, kèm theo lời cầu nguyện “Lạy Đức Nữ Đồng Trinh, xin hãy giúp đỡ chúng con!”.
Khi Đức Giám Mục ban phép lành Mình Thánh cho chàng thanh niên bại liệt, đang lúc anh ta nhìn vào mặt nhật có đựng Mình Thánh Chúa. Đột nhiên chàng thanh niên bại liệt trỗi dậy, từ từ bước ra khỏi chiếc xe lăn và đã hoàn toàn bình phục! Dân chúng thấy vậy liền hô to trong niềm vui hân hoan: “Phép lạ! Phép lạ!”
Sau đó nhờ có giấy phép, nên tôi được xem các bằng chứng xác minh phép lạ này. Tôi không thể diễn tả hết những điều tôi cảm nhận và về tâm trạng tôi lúc đó. Tôi đến từ trường Y Khoa Đại Học Madrid, nơi có nhiều giáo sư vô tín nổi tiếng và nhiều sinh viên bạn học của tôi luôn miệng nhạo báng phép lạ. Thế mà giờ đây, tôi đã được chứng kiến tỏ tường một phép lạ do Chúa Giê-su Thánh Thể thực hiện. Khi ấy tôi đã cảm nhận được một sức mạnh vô song của Chúa và thấy thế giới chung quanh tôi thật nhỏ bé. Tôi đã trở về Madrid, Tây Ban Nha và ba tháng sau tôi chính thức được gia nhập vào Tập Viện Dòng Tên”.
4) Sức mạnh vô song của lời cầu nguyện:
Xác Inh-Lít (Charles Inglis), một nhà truyền giáo nổi tiếng thánh thiện đã kể lại câu chuyện như sau: trên một chuyến đi biển kia có một nhà truyền giáo tên là Gioóc-Dơ Mu-Lơ ở Bớ-Rai-Tơn, dự định sẽ đến nhà thờ lớn ở Quê-Béc giảng đạo vào chiều thứ Bảy cuối tuần. Nhưng do bị sương mù quá dầy khiến vị thuyên trưởng phải cho tàu chạy chậm và như thế khiến nhà truyền giáo sẽ bị trễ hẹn. Bấy giờ nhà truyền giáo mới nói với thuyền trưởng mình có cách sẽ sớm làm tan làn sương mù kia đi. Thuyền trưởng nghĩ ông này bị mát dây thần kinh nên không thèm để ý. Bấy giờ nhà truyền giáo liền yêu cầu thuyền trưởng cùng quỳ gối cầu nguyện với mình. Rồi ông một mình quỳ gối xuống dâng một lời cầu nguyện sốt sắng, đang khi viên thuyền trưởng vẫn đứng nhìn với con mắt không mấy tin tưởng. Chờ cho nhà truyền giáo cầu nguyện xong, vị thuyền trưởng mới nói: “Ngài có biết độ dày của sương mù kia đến cỡ nào không?”. Nhà truyền giáo trả lời:”Không biết! Nhưng tôi không nhìn vào sương mù. Tôi chỉ nhìn vào Đấng dựng nên sương mù mà thôi”. Viên thuyền trưởng định quỳ gối xuống cầu nguyện thì nhà truyền giáo đã ngăn lại và nói: “Nếu lòng ông không tin thì cầu nguyện nào có ích gì? Hơn nữa, tôi tin chắc Chúa đã nhận lời cầu của tôi rồi nên ông chẳng cần phải cầu thêm làm chi! Tôi đã nhận biết Chúa được 57 năm rồi, và trong suốt thời gian đó không ngày nào mà tôi không thưa chuyện với Người. Bây giờ ông hãy mở cửa ra mà xem việc Chúa làm”. Quả nhiên khi mở cửa ra thì viên thuyền trưởng thấy làn sương mù dày đặc trước đó đã tan biến hết, con tàu lại tiếp tục tăng tốc và cuối cùng đã cập bến đúng theo lịch trình.
Câu chuyện trên cho chúng ta thấy đức tin mạnh mẽ của nhà truyền giáo. Chính Chúa Giê-su đã luôn kết hiệp mật thiết với Chúa Cha và hoàn toàn tín thác cậy trông nơi Cha. Ngày nay, vì thiếu lòng tin nên người ta coi thường việc cầu nguyện. Mỗi khi gặp phải hoàn cảnh khó khăn hay gặp gian nan thử thách, người ta thường chỉ biết dựa vào sức riêng mình, đang khi lẽ ra vừa phải xin Chúa ban ơn soi sáng để tìm ra giải pháp tốt nhất, lại vừa phải cố gắng làm hết sức mình để giải quyết các khó khăn trở lực ấy.
- SUY NIỆM:
Tin Mừng kể lại cảnh tượng xảy ra trên biển hồ Ga-li-lê: Đức Giêsu đang ngủ. Ngài ngủ vì mệt mỏi sau khi dùng thuyền làm giảng đài để dạy dỗ dân chúng. Các môn đệ đều là các ngư phủ chuyên nghiệp, và vùng biển này là điạ bàn hoạt động quen thuộc của các ông, thế mà lúc này các ông lại đang trong tâm trạng hoảng loạn.
- Chúa ngủ trong thuyền giữa cơn bão: Theo Chúa không phải lúc nào cũng thuận buồn xuôi gió hay được hưởng thái bình thịnh vượng. Ngay cả những lúc chúng ta gần Người nhất, khi không có tội lỗi hay nghi ngờ nào làm ta cách ly Người, thì giông tố vẫn có thể xảy tới. Chúa không hứa cho chúng ta được thư thái an nhàn, nhưng đòi ta phải sẵn sàng chiến đấu, từ bỏ, thậm chí có khi còn phải chịu chết vì danh Người…
- Chết đến nơi rồi mà Thầy không lo gì sao?: Câu nói biểu lộ sự kinh hãi tột độ và ngụ ý trách móc Chúa đã không quan tâm giúp đỡ khi môn đệ đang gặp nguy nan. Ngày nay một bộ phận tín hữu chúng ta cũng có tư tưởng này mỗi khi bị cơn bão cuộc đời vùi dập. Từ khi tin theo Chúa chúng ta thường nghĩ rằng chúng ta sẽ đương nhiên được Chúa che chở và cứu khốn phò nguy như đó là trách nhiệm Chúa phải chu tòàn, đang khi lẽ ra ta phải luôn cầu xin Chúa giúp ta vượt qua thử thách và phó thác cuộc đời trong bàn tay Chúa quan phòng.
- Gió liền tắt và biển lặng như tờ: Chúa Giêsu đã lệnh cho sóng gio yên lặng. Ngày nay cũng có người tự hỏi: “Tại sao Chúa lại không ra tay can thiệp cứu giúp các tín hữu mà lại mặc họ phải bị chết chìm trong biển cả cuộc đời?” Nếu chúng ta hiểu câu chuyện chỉ vỏn vẹn là sự dẹp yên bão tố của thời tiết thì chắc chắn sẽ phát sinh nhiều vấn đề làm chúng ta phải nặng lòng. Nhưng ý nghĩa của câu chuyện này còn lớn hơn thế nữa:
- Chúng tôi phải làm gì?: Trong cuộc sống, các tín hữu chúng ta phải thể hiện đức tin bằng cách:
- Khi sự sầu muộn đến như nó phải đến: Ta tin rằng Chúa sẽ biến đổi bóng tối của sự chết thành ánh sáng phục sinh vĩnh cửu. Người sẽ giúp chúng ta tin cậy vào tình yêu vô cùng của Ngài. Chằng hạn khi ta bị nất đi một người thân yêu, thì chúng ta nên biết rằng: Chết không phải là hết, nhưng là bườc vào một đời sống mới vình hằng và mai ngày chúng ta sẽ gặp lại người thân của chúng ta trên Thiên đàng.
- Khi chúng ta gặp phải một hoàn cảnh nan giải: Khi ta không biết phải làm gì, phải giải quyết thế nào mới đúng, chúng ta hãy thưa với Chúa Giê-su: “Lạy Chúa, nếu Chúa ở trong hoàn cảnh của con bây giờ thì Chúa sẽ làm gì?” hoặc: “Lạy Chúa Chúa muốn con làm gì?” Bấy giờ Chúa sẽ nói trong lương tân để giúp chúng ta nhận biết con đường phải đi và ta sẽ có thể mạnh dạn thưa cùng Chúa:”Này con xin đến để thi hành thánh ý Cha”.
- Khi gặp cơn lo âu bối rối: Khi ta phải lo cho bản thân, lo về một tương lai bất định, lo cho con cái sau này… Chúng ta hãy ý thức về lòng nhân từ yêu thương của Thiên Chúa để trông cậy phó thác cuộc đời trong tay Chúa quan phòng. Người sẽ luôn giúp chúng ta đạt tới hạnh phúc đời đời. Bấy giờ tâm hồn chúng ta sẽ được bình an như lời Chúa Giê-su phán:”Hỡi những ai lao nhọc và gồng gánh nặng nề, hãy đến cùng Ta. Ta sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng.… Và tâm hồn các con sẽ được bình an” (Mt 11,29).
- THẢO LUẬN:
- Một người có đức tin vững mạnh có bị thất bại hay gặp phải những sự gian nan khốn khó trong cuộc đời hay không?
- Một người chỉ biết cầu xin Chúa giúp mà không cố gắng làm việc để tự giải quyết những khó khăn gặp phải thì có phải là người có đức tin vững mạnh không? Tại sao?
- 3) Vậy khi gặp gian nan thử thách, người tín hữu phải làm gì để chứng tỏ đức tin vững mạnh của mình?
- CẦU NGUYỆN:
– Lạy Chúa Giêsu. Ngày nào chúng con cũng gặp phải nhiều gian nan thử thách. Nhiều khi những sự sui sẻo hoạn nạn lại cứ dồn dập đổ xuống làm con thuyền đức tin của chúng con như sắp bị chìm đắm. Trong những lúc ấy, xin cho chúng con ý thức rằng Chúa vẫn đang ở trong thuyền linh hồn chúng con, để chúng con yên tâm và không còn bị nao núng sợ hãi nữa. Xin cho chúng con biết vừa làm hết sức mình, vừa tín thác cậy trông vào ơn cứu độ của Chúa. Nhờ đó chúng con sẽ có thể vượt qua các cơn gian nan sóng gió và tới bến bình an.
– Lạy Chúa. Xin cho chúng con luôn tin vào tình thương quan phòng của Chúa. Cho chúng con biết xử dụng những ơn lành Chúa ban để giải quyết những trở ngại gặp phải trên đường đời. Mỗi khi gặp phải điều gì trái ý, xin cho chúng con biết cầu nguyện như Chúa khi xưa: “Lạy Cha, nếu có thể được, thì xin cho con khòi uống chén này. Nhưng đừng theo ý riêng con, một xin vâng ý Cha” (Mt 26,39). Xin cho chúng con vừa làm việc vừa cầu xin Chúa trợ giúp như lời bài hát:“Có Chúa đi với con, con sẽ không còn sợ chi. Có Chúa đi với con, con sẽ không còn thiếu gì”. Xin cho con năng dâng lời ngợi khen cảm tạ Chúa về muôn ơn lành Chúa đã thương ban, cho con biết noi gương Mẹ Ma-ri-a mà dâng lên lời ngợi khen cảm tạ tình thương bao la của Chúa, vì Chúa đã làm cho con biết bao điều lớn lao kỳ diệu (x Lc 1,46-55).